Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 28 February 2017

HOÀNG LONG HẢI * VẾT NÁM


hoànglonghải – Vết Nám


Tha hương ngộ cố tri!
(Cửu hạn phùng cam vũ Tha hương ngộ cố tri Động phòng hoa chúc dạ Kim bảng quải danh thì)

Thế rồi có những kẻ “đi chui”, – như tôi chẳng hạn -, cũng không ít người lên máy bay, rời quê hương đến định cư ở xứ người. Phần nhiều các bạn tù cũ của tôi đều ở Nam Cali, chỉ riêng tôi và “Kim nhí”, – Kim nhỏ con, gốc chú Ba Chợ Lớn – để phân biệt với “Kim voi” – Kim “đô” con, quê ở Bình Dương -, thì nhà cách nhà tôi không xa. Nguyễn Quảng Thành, thường gọi là “thành gù”, Hoàng Hữu Chung và Đào Sơn Bá, định cư ở Boston.  Cách một giờ lái xe, kể từ nơi tôi ở.
“Kim voi” đã qua đời sau khi được tha không bao lâu. “Kim nhí” khi qua tới Mỹ thì cậu con trai lớn phải vô bệnh viện tâm thần. Đúng là “Phúc bất trùng lai”. Quảng Thành thì người vợ cũ, cũng là học trò cũ của anh, khi anh còn dạy học ở Sông Cầu, thì giương buồm cho “thuyền ra cửa biển” mất rồi. Anh cưới một bà đã lớn tuổi, cho “êm một tuổi già”! Thế cũng xong duyên phận cho một người tù khi được tha thì tóc đã nhiều muối hơn tiêu ???!!!
Trắc thì buồn hơn.
Vợ anh ra đi ngày đó, đem theo hai con gái. Hai cô con gái lớn lên, học hành và thành công ở Mỹ, có một cô làm chuyên viên trong Bạch Ốc, nhưng không đoái hoài gì tới bên nội, dù bố là cháu của tông tông. Cái “hào quang” thời chế độ đã lịm tắt rồi, khơi lên làm chi đống tro tàn!? Bọn trẻ thế hệ thứ hai, lớn lên ở quê người, không muốn nhìn lại dĩ vãng nữa hay chăng, quên hay cố quên cái gốc của mình đi hay chăng?
Trước khi rời Việt Nam, Trắc có một cô vợ mới: Hạnh, khá đẹp, mặt mày phúc hậu. Hạnh là chị cả, sau lưng những mấy đứa em, tất cả đều mồ côi cha mẹ. Em sống dựa vào lưng chi. Trong hoàn cảnh đó, qua tới nơi, Hạnh “giã từ anh yêu” để lấy một chú Ba giàu có.
Nghe chuyện, tôi hỏi Trắc. Trắc nói:
-“Tại tui anh à! Tại tui à! Hạnh phải lo cho em, không bỏ các em được mà tui thì không có khả năng. Nhờ bỏ tui mà Hạnh lần lượt bảo lãnh cho các em qua Mỹ hết. Thằng Tàu chồng nó nhiều tiền, muốn chi chẳng được. Hạnh thương các em lắm! Chị em nó mồ côi cả cha lẫn mẹ! Tội lắm!”
Nghe Trắc nói, tôi chỉ thở dài. Yêu nhau, thương nhau, thông cảm nhau và tha thứ, hy sinh cho nhau. Đâu có phải ai cũng nghĩ và làm được như Trắc.
Thế rồi tôi tìm về Cali, là đi tìm thăm các bạn cũ. Mấy bạn tù họp nhau lại, rủ tôi đi uống cà phê, và tới thăm… Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Những người từng chịu nhiều gian khổ trong cuộc chiến vừa qua, những từng người từng đổ mồ hôi, nước mắt, và cả xương máu hay một phần thân thể, cho công cuộc chiến đấu Bảo Vệ Tự Do cho Miền Nam và cho Thế Giới Tự Do, khi đến Cali, khó mà không tìm đến nơi nầy để tìm lại… chính mình.
Thế rồi chúng tôi kéo nhau về nhà người anh vợ tôi. Nhà tôi nấu sẵn một nồi bún bò lớn, “bún bò Huế” thật sự, có sả ớt, có thịt bò xào, giò heo và có cả… ruốc Huế. Một nồi bún bò chính hiệu con nai.
Đang ăn, tôi hỏi Dương Tiến Đông:
-“Qua đây rồi mà ông còn “chồng chúa vợ tôi” phải không? Liệu hồn vợ nó đuổi ra khỏi cửa.”
Trắc cười:
-“Liệu hồn gì nữa! Không những vợ nó mà cả con cái cũng đứng về phía mẹ. Bây giờ thì ra gầm cầu.”
Đông, đúng là “ông Khouảng Nôm” hay tự ái, cải chính:
-“Sức mấy.” Rồi Đông quay qua tôi:

-“Anh thấy không! Chủ nhật nào đi bán chợ trời về, tui cũng gọi anh nói chuyện chơi!”
“Trên đường về nhớ đầy” chớ gì! Thui thủi một mình trên đường về, “ông”gọi tui để làm cục kê cho “ông”! “Cho vơi đi niềm nhớ”. Mà ông nhớ cái gì?” Tôi hỏi.
-“Cái gì cũng nhớ hết. Thuở học trò, hồi đi lính, khi ở tù… Cuộc đời nơi đất khách có nhiều cái nhớ: “Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!”
Tuy gọi là buồn, nhưng nói xong, Đông lại nhìn tôi cười.
-“Buồn! Rồi “ông” trách ai?” Tôi hỏi.
-“Tôi chẳng trách ai cả anh à! Trách là trách mình trước. Thiếu gì người qua đây rồi trách người nọ, trách người kia… làm mất nước; trách ông Thiệu, trách cụ Hương, cụ Huyền, trách ông Dương Văn Minh, trách ông linh mục chống tham nhũng mà thực ra là làm cho miền Nam mau thua Việt Cọng, trách ông Trí Quang là “Cộng Sản nằm vùng”, thay vì “thích đủ thứ” thì quay ra “trách đủ thứ.”
-“Ông” nói làm tui nhớ câu Đại Tướng Viên nói với Nam Dao: “Ba mươi năm qua rồi, ngồi đây mà đổ tội cho ai!?” Ông tướng mà khi chạy khỏi nước, lại chỉ đem theo có cuốn kinh Phật. Đúng là “Bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng”. Chê trách người khác để cho mình sáng lên cũng là tâm lý đó “ông”! Bây giờ, ở bên nầy, nhiều tay “nổ” dễ sợ luôn.”
-“Cũng có thể nói như Tướng Viên là tinh thần chủ bại. Nhưng anh thấy không, những “anh” tác chiến, đánh hết trận nầy qua trận khác, hành quân “Mút mùa Lệ Thủy” thì qua đây im re. Nhiều tay khác, khi ra trường, cố chạy cho được “đơn vị không tác chiến” thì bây giờ dùng toàn pháo đại không?” Đông nói.
-“Trước kia “ông” ở đơn vị tác chiến?” Tôi hỏi.
-“Tui ở Khối Chiến Tranh Chính Trị của tiểu khu.” Đông trả lời.
-“Hồi ấy, vô tù, nhiều anh khai làm “chiến tranh chính trị” cho nhẹ tội. Đâu có bóp cò. Bóp cò mới nặng tội hơn chớ!” Tôi nói.

-“Người ta gọi là “đánh giặc miệng” anh à! “Lấy mồm mèp đỡ chân tay”. Tục ngữ nói vậy. Vô tù cứ nghĩ “Đánh giặc miệng đỡ… bóp cò.” Tôi nhẹ hơn nhiều. Ai ngờ Việt Cộng nó nghĩ theo cách của nó. Đánh giặc miệng là công việc của chính trị viên, của chính ủy. Mấy tay nầy quyền hạn hơn cả thủ trưởng. Việt Cộng ưu tiên cho đi “thăm lăng bác” mấy anh Chiến Tranh Chính Trị”.
-“Cũng nhiều tay ngon lành! Học “Đại Học Chiến Tranh Chính Trị” ra nhưng khi về đơn vị lại xin đi tác chiến. Mấy chả ghét ngồi cạo giấy!” Tôi nói.
-“Mặt trận chính trị thường quan trọng hơn tiếng súng ngoài trận địa. Mình hồi ấy cứ nghĩ tại tụi Mỹ cúp viện trợ nên thiếu súng đạn mới thua Việt Cộng. Có đủ súng đạn chơi tay đôi như không! Chắc gì ai ăn ai!” Đông góp ý.
-“Trận địa chiến, Việt Cộng đánh không lại. Cứ coi lại “Bình Long Anh Dũng”, “Kontum Kiêu Hùng”… thì biết ngay. Mình có thua đâu! Nhưng chiến tranh kéo dài thì mình thua. Việt Cộng thì phát triển du kích chiến, mà mình thì không nắm được dân.” Tôi nói.
Trắc hỏi:
-“Anh nói sao?”

-“Chiến Tranh Nhân Dân” mà “ông”. Tự người dân phải cầm vũ khí chống kẻ thù. Attila nói: “Vó ngựa quân ta đi đến đâu, cỏ ở đấy không mọc được nữa.” nhưng qua tới Việt Nam thì thua, thua vì ở Việt Nam toàn dân đánh giặc, không riêng gì quan binh triều đình.”
-“Tình hình miền Nam trước 75 thì khác?” Đông hỏi.
-“Cách chiến đấu của Quân Đội Việt Nam mang “dấu tích” chiến tranh Pháp Việt. Đóng đồn, giữ đất… bỏ dân; không có dân, không thắng được giặc, nặng tính chất “lãnh thổ”, “giữ đất, giữ đường”. Tôi nói. “Thật ra, theo tui nghĩ, người ta cần có một cuộc cách mạng về quân sự, về chiến lược. Bỏ mục đích giữ đất bằng cách đóng đồn “bót”, “đồn” là ở trong dân chúng, trong dân quê, mỗi xã, mỗi ấp là một đồn.”
-“Đó là kinh nghiệm của anh!” Trắc hỏi. “Sao tui thấy nó giống “Áp Chiến Lược” quá!”
-“Vừa là kinh nghiệm bản thân, vừa là điều đọc trong sách vở.” Tôi nói. “Trên lý thuyết, “Ấp Chiến Lược” là hay lắm, nhưng mới chỉ thực hiện có phần đầu mà thôi, là phần lùa dân vô trong vòng kẽm gai, coi như vô trại tập trung. Còn việc xây dựng về giáo dục, y tế, xã hội… chưa làm được gì hết thì nhà Ngô tan hàng. Làm được thì coi như “tát nước bắt cá”. Cái của ông Nhu, không mới lạ gì đâu. Trong “Con Đường Sáng”, Hoàng Đạo đã vẽ ra con đường đó rồi. Với lại, như tui thấy trong “Con đường buồn thiu”, Bernard Falls, nói về mấy viên chức xã ấp. Khi Tây tới, mấy chả đi theo Tây về làng, tập họp dân chúng, nói “trên trời dưới đất” gì đó. Tới tối thì mấy chả vô đồn ngủ, sợ Việt Cộng về, bỏ mặc dân chúng, không ai bảo vệ. Tụi cán bộ nằm vùng lại mò ra, trong bưng mò ra hay hầm bí mật chui lên, tuyên truyền, dụ dỗ, phỉnh gạt, đe dọa… dân chúng. Dân chúng không muốn theo Việt Cộng có được không? Chúng nó chặt đầu cắm lên cọc tre, người dân ai mà chẳng sợ.”
-“Vậy là dân theo chúng nó hết?” Đông than thở.

-“Cái thế của mình, kẹt lắm. Một mặt thì Việt Cộng tuyên truyền chống ngoại xâm, giành độc lập. Thằng Tây thì mắt xanh mũi lõ, thằng Mỹ cũng mắt xanh mũi lõ, thằng nào chẳng là “ngoại xâm”. Kể từ thời mấy ông cố đạo “mắt xanh mũi lõ”, dẫn Tây qua xâm lăng nước ta, người Việt Nam đã nghĩ như vậy rồi. Tụi Tây phương đứng ngay sau lưng mình thì mình tuyên truyền “độc lập” làm sao được? Còn cán bộ của mình thì như khi tui về Gò Công, một người bạn tôi đưa ra một thí dụ: Anh cán bộ của mình, cảnh sát hay lính làng lính lệ, dừng xe Honda ngay trước cổng nhà ông Ba, ông Bảy nào đó, gọi vô: “Bữa nay có chi nhậu không?” Người dân thì sợ, nhà có “quân dịch quân gà” hay buôn bán gì đó, vội đáp ngay: “Dạ có! Dạ có nhậu, chờ một chút, tui bày bàn ra.” Việt Cộng thì khác, nửa đêm tụi nó trong bưng mới ra tới, gõ cửa nhà ông Nam, ông Bảy, hỏi thăm: “Năm nay mùa màng có được không? Cảnh Sát, cán bộ, lính làng lính lệ có quậy phá gì không? v.v…” Người dân quê thiệt thà, nghe hỏi vậy là mát lòng lắm, không nghe Việt Cộng sao được?! Làm sao có cán bộ về tận xã ấp, ăn ở với dân, làm nhà, sửa chuồng heo, làm vườn cho dân… Đêm ngủ lại đó, trong nhà dân. Cộng Sản nào mà ngóc lên được. Nắm được dân là chúng nó thua.” Tôi nói.
-“Ông Thiệu cũng chủ trương dân chúng tự vệ đó chớ.” Trắc nói. “Ông bảo phải phát súng cho dân. Một chính phủ không dám phát súng cho dân là một chính phủ không phải của dân. Anh thấy không? Xã ấp nào cũng có “Nhân Dân Tự Vệ”.
-“Năm 1973, Nhân Dân Tự Vệ xã Sóc Sơn ở Rạch Giá thắng một trận vẻ vang lắm! Cái đó nhờ dân chúng là dĩ nhiên, nhưng cũng phải nói, nhiều tay xã trưởng ngon lành lắm. Ỏ Kiên Giang nhiều tay xã trưởng dẫn Nhân Dân Tự Vệ đi kích Việt Cộng. Bọn nó dính chấu là cái chắc. Địa phương của người ta mà, rành rẻ địa thế là đánh giặc tiện lắm. Có xã trưởng thường đi ngủ ấp, không ngủ tại xã. Tui nói “ngủ ấp”  là nói theo nghĩa đen, mấy chả đừng nghĩ bậy cho người ta nghe!” Tôi kể.
Một lúc, tôi nói tiếp:
-“Nhân Dân Tự Vệ xã Sóc Sơn hầu hết là người Miên. Tối lại, họ tập trung về xã, bảo vệ trụ sở xã, chứ không hoạt động ngay tại ấp, thành ra họ cũng không phải là người bảo vệ dân. Họ cũng sợ chớ! Lỡ Việt Cộng tấn công, không ai yểm trợ họ. Họ “đơn thương độc mã” chống giặc. Chống du kích thì họ chống được, nhưng nếu Việt Cộng tấn công bằng lực lượng Huyện Đội hay Tỉnh Đội thì họ thua. Ấp nào Nhân Dân Tự Vệ hoạt động hữu hiệu là Việt Cộng điều một lực lượng lớn, mạnh, tới tấn công ngay. Dân chúng không tự bảo vệ mình được. Hễ Việt Cộng chiếm được vùng quê, thì thị trấn, thị xã bị cô lập. Càng ngày Việt Cộng càng mạnh thêm.”

-“Cái nầy là “lấy nông thôn bao vây thành thị” chớ gì!” Ở Thủ Đức mình có học mà.” Đông nói.
-“Học thì học vậy, nhưng khi ra trường, ngoài việc hành quân, đóng đồn, “tìm và Diệt”… tôi đâu có thấy chiến lược nào để chống “nông thôn bao vây thành thị”. Coi như sách vở đã học đem cất kỹ vô tủ. Bernard Falls biết rõ chiến lược nầy. Ông ta được coi là chuyên viên về “Du kích chiến” của Mỹ, ông làm cố vấn cho Bộ Quốc Phòng và các tướng lãnh Mỹ.” Chiểu nhận xét.
-“Có một điều tui hết sức làm lạ! Bundy, giám đốc Xịa, qua Saigon làm phó đại sứ, đặc trách chương trình “Bình Định Nông Thôn”, đang có kết quả thì Mỹ bỏ ngang.” Tôi nói.
-“Cán bộ “Bình Định Nông Thôn” thì làm được cái gì?” Đông nói, có vẻ thiếu tin tưởng.
            -“Ông về nông thôn thì biết ngay. Việt Cộng sợ đám “cán bộ Xây Dựng Nông Thôn” nầy lắm. Giết được là giết ngay không thương tiếc. Cái cung cách làm việc của họ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân thì tên Việt Cộng nào mà nằm vùng được?!” Cái trường cán bộ của Đại Tá Bé đào tạo được nhiều cán bộ xã ấp, giữ được nông thôn. Tiếc là cái chương trình nầy không kéo dài. Sợ ông Bé gây được tín nhiệm trong dân chúng, ông Thiệu vội dẹp ngay Trung Tâm Chí Linh, mở trường “Cách Mạng Hành Chánh”.
            -“Tui có cảm tưởng như anh khoái nông thôn lắm. Bộ gái nông thôn đẹp hơn con gái thành thị hả?” Đông nói đùa.
            -“Ông biết trong Nam nầy con gái đâu đẹp nhứt không? Đẹp nhứt là gái Long Xuyên, vùng nước ngọt. Trắng nhứt là gái Kiến Hòa, tụi nó ở trong dừa, ít làm ruộng. Con nào con đó trắng bóc, như trứng gà; không biết cái ngao có trắng không? Kiên Giang thì mấy con nhỏ “đầu gà đít vịt” khỏi chê. Tầu lai Miên tụi nó đẹp lắm.” Tôi nói.
            -“Anh biết những nơi vua Gia Long bỏ cung nữ mà “tẩu quốc” chớ, con gái cũng nổi tiếng mà.” Trắc hỏi tôi.
            -“Một là Thới Bình, ở Chương Thiện, hai là Nha Mân, Sadec. Hai nơi nầy, bị Nguyễn Huệ đuổi riết, Nguyễn Ánh chỉ kịp “dông” có một mình, bỏ lại bầu đoàn thê tử”. Tôi giải thích.
            -“Đẹp lắm phải không?” Đông hỏi.
            Trắc chọc quê Đông:
            -“Hễ nghe có con gái đẹp là mầy nhào dzô!”
            -“Nhào vô mà chết. Con gái Nha Mân thì tui không rõ. Tui chỉ đi qua. Con gái Thới Bình thì tui biết rõ hơn. Tui hành quân ở đó năm, bảy ngày là thường. Mặt thì đẹp mà tay thì bị phung.” Tôi giải thích.

            -“Phung là cùi hả?” Trắc hỏi.
            -“Gì nữa! Tụi nó hai che hai bàn tay, không cho mình thấy bị cùi. Có “lời nguyền” đó. Anh nào dính vô rồi quất ngựa truy phong là coi như đời tàn. “Tài sản” của vua chúa mà, có yểm bùa. Vô là dính ngay.” Tôi nói.
            -“Cha nầy nói dốc không. Để tui về Thới Bình một lần, coi thử ông Gia Long làm chi tui.” Đông nói cứng, như tính tình của Đông thường vậy.
            Một lúc, tôi hỏi:
            -“Mấy “ông” sang đây, có ai về Việt Nam chưa?
            -“Về thì có về. Về rồi thì buồn nhiều hơn vui. Bà con lần hồi cũng xa đi. Ai rảnh rổi đâu mà nhớ cố hương như mình. Không còn cái tâm trạng “Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên” (1) như Nguyễn Bính nữa. Tất cả đều cuốn hút. Nghèo thì lo cơm gạo, giàu thì lo kiếm thêm tiền. Bằng cách nào cũng được, miễn có ăn, có tiền. Không còn lương tâm. “Lương tâm đem chặt ra hầm, Chồng chan vợ húp khen thầm là ngon.” Chiểu nói có vẻ chán nản.
            Tôi xác quyết:
            -“Văn hóa vô sản mà ông. Người ta gọi là “Văn hóa Chí Phèo” đấy. Có điều người Cộng Sản muốn độc quyền chính trị nên họ đẩy dân chúng vào hoàn cảnh, ngoài “cơm áo gạo tiền” ra, người dân không còn thì giờ nghĩ đến chuyện khác nữa.”

            Trắc góp ý:
            -“Ở bên Mỹ nầy, việc cai trị cũng từ bọn “chuyên nghiệp chính trị” vậy. Ai không có cái “chuyên nghiệp” ấy làm sao ứng cử, đắc cử. Mỹ cũng cần phải có những cuộc cách mạng về chính trị vậy. Hiến pháp thì giữ, nhưng bọn làm chính trị cần thay đổi.”
            -“Tui đồng ý với ông đấy!” Tôi góp ý.
            Đông lại hỏi:
            -“Việt Cộng tống bọn mình đi HO, để rộng đường cho chúng nó tự tung tự tác chớ gì?’
            -“Từ ý nghĩa của ông, tui thấy cần đặt lại vấn đề con cái cán bộ du học ở Mỹ.” Tôi nói.
            -“Anh muốn đuổi tụi nó về!” Trắc hỏi.
            -“Đâu phải! Đào tạo chuyên viên là điều đất nước cần để phát triển. Ai lại muốn đất nước mình chậm tiến! Mai mốt bọn chúng trở về phục vụ đất nước.” Tôi trả lời.
            -“Tụi nó vừa hồng vừa chuyên anh ơi! Trông mong gì!” Đông nói với giọng không vui.
            -“Với Cộng Sản, đất nước là phải khép kín. “Ông” không nghĩ khi tiếp xúc với xã hội Tây phương, tụi nó không “giác ngộ” hay sao? Phản tuyên truyền! Khi bị phản tuyên truyền chúng nó sẽ chống lại chế độ.”
            -“Cũng có đứa thôi! Vì quyền lợi, chúng nó sẽ như nhau hết!” Trắc nói.
            -“Đó là điều đáng buồn. Dưới thời Tây đô hộ mà còn đỡ. Tháng 8 năm 45, cách mạng bùng nổ khắp nơi. Rồi Nam Bộ Kháng Chiến, Kháng chiến giành độc lập. Đó là tinh thần của giới thanh niên cuối thời Pháp thuộc. Bây giờ, không tìm đâu ra cái tinh thần đấu tranh và hy sinh đó. Thanh niên bây giờ bị chính quyền xô đẩy vô con đường hưởng thụ, ăn chơi, làm gì còn những người có lý tưởng, có chí khí. Thanh niên như thế thì khi nào chế độ Cộng Sản mới sụp đổ; còn lâu lắm. Chính sách cai trị độc thiệt.” Tôi than thở.
            -“Bọn nó qua du học rồi tìm cách ở lại hết. Chán chưa!” Đông nói.
            -“Cha mẹ bọn nó dạy đó. Ở lại đây để hưởng thụ tài sản đã đánh cắp, đã cướp được ở Việt Nam.” Tôi góp ý.

            -“Kỳ thiệt! Đúng là Cộng Sản Bắc Việt! Từ ngoài kia, vô giành đất nước của người Miền Nam, đuổi người Nam đi để mặc sức tung hoành. Rồi bây giờ lại muốn bỏ mà đi nữa, để đất nước lại cho ai? Chúng nó đuổi mình đi rồi chúng nó đi theo.” Trắc thắc mắc.
            -“Bà Bùi Bích Hà, bả kể. Năm bà tới Công An để làm giấy tờ đi Mỹ, tên Công An nói: “Chị đi đâu! Hai mươi năm nữa tôi gặp chị bên ấy.”  Tôi kể lại câu chuyện nghe trên đài VNCR.
            -“Nó huênh hoang đấy. Hai mươi năm nữa Mỹ sẽ thua Cộng Sản. Nó qua Mỹ để cai trị dân Mỹ chớ gì? Hoang tưởng.” Đông nói vẻ tức giận.
            -“Cai hay không cai không cần biết. Ở Mỹ, già như bọn mình làm chi mà giàu. Còn tụi nó đi Mỹ, mang theo hàng chục, hàng trăm triệu đô, không sướng hơn mình hay sao?” Trắc giải thích.
            -“Dĩ nhiên! Họ không cần ai hết. Họ chỉ cần họ. Sợ Tầu, họ lo dọt trước, mặc cha nhân dân. “Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi.” Đông nói giọng chán nản.
            -“Người Việt ở hải ngoại nên giang tay đón tụi du học sinh, giúp nó học hành, làm sao cho tụi thấy cái gì là dân chủ, là tự do thật sự, làm sao cho tụi nó “hồi chánh”. Vai trò của tụi nó trong việc lật đổ chế độ là quan trọng lắm đấy. Đứa nào học xong, trang bị “hành trang” cho nó, khuyến khích nó trở về với đất nước, với đồng bào, đem cái sở học của mình và lý tưởng tự do dân chủ phục vụ dân tộc.” Tôi góp ý.
            -“Khó lắm anh. Đời bây giờ mà nói như anh là đi đường ngược chiều rồi anh ơi!” Đông nói với vẻ bi quan.
            Nghe Đông nói, ai không thở dài.
            Một lúc sau, tôi lại nói tiếp:
            -“Cộng Sản bây giờ, nếu ai có chút lòng yêu nước, thương dân thì kẹt lắm.”
            -“Kẹt là sao?” Trắc hỏi.
            -“Những thằng tính đường “hốt hụi dông luôn” thì không kể. Còn những người thương dân, vì dân, thì khó xoay xở lắm. Chống Tầu, không dễ đâu. Giết Lương Minh, Liễu Thăng xong rồi, Lê Lợi phải giảng hòa, cho đúc “đại thân kim nhân” để thế mạng hai thằng tướng cướp. Vua Quang Trung phải cho Phạm Công Trị làm giả vua mà qua Tầu để cho yên mặt Bắc, chờ khi nước ta giàu mạnh rồi, vua sẽ đòi lại đất Lưỡng Quảng. Bây giờ bọn Hà Nội có cương với Tàu được không? Cương cũng kẹt, không cương lại kẹt hơn; làm sao mà “giải tội” với lịch sử. Dựa vào Mỹ mà chống Tầu thì cũng phải lựa thế Mỹ. Cái gương Việt Nam Cộng Hòa bị Mỹ phủi tay còn sờ sờ ra đó, đâu dễ quên được.” Tôi giải thích.
            -“Vậy theo ý anh thì sao?” Đông nôn nóng hỏi.
            -“Tui nhớ khoảng năm 1961, ông thầy tui, giám đốc nha học chánh, được đi một vòng “du hành quan sát” nước Mỹ. Về tới nơi, ông ta nói với chúng tôi: “Tổng thống Mỹ chỉ là tham mưu trưởng, đâu phải tư lệnh.” Tôi hơi sáng mắt ra, chỉ hơi sáng thôi! Từ đó về sau, tôi suy nghĩ câu nói nầy hoài: Tham Mưu Trưởng. Vây Tư Lệnh là ai? Là những người ở phía sau Bạch Ốc, là đám “đại xì thẩu” ở Mahattan phải không? Đám nầy phần đông là dân Do Thái. Đám tài phiệt nầy làm đủ chuyện trên đời, miễn tiền sinh lợi thì thôi: Buôn bán chiến tranh, buôn bán vũ khí, đầu tư các mỏ dầu khắp thế giới và buôn tiền… Năm 1975, khi Saigon sắp mất, Kissinger đang ở Ai Cập, bàn chuyện hòa bình giữa Sadat với Rabin. Phải ổn định Trung Đông để buôn dầu; bỏ cho Miền Nam chết vì cắt viện trợ, thiếu tiền mua súng đạn. Bây giờ Mỹ có trở lại Đông Nam Á, phải nắm áo Mỹ để chống Tầu. Nhưng thật ra, Mỹ Tầu có chống nhau thực sự không, hay chúng “bài ba con” với nhau? “Chủ nghĩa Nước Lớn” mà. Tầu, Nhật, Ấn Độ, Mỹ… là nước lớn. Châu Âu phải kết hợp thành “Cộng Đồng Châu Âu” để thành nước lớn. Chia nhỏ ra là chết sớm. Nhược tiểu như nước mình bao giờ cũng kẹt. Phải vươn thành nước lớn thì bọn tài phiệt mới nễ mặt, như Đại Hàn vậy.” Tôi nói.
            -“Đại Hàn bây giờ cũng muốn bắt tay với Tầu. Tình hình thế giới bây giờ nó phải vậy.” Trắc đồng ý với tôi.
            -“Tui có ý nghĩ nầy, nói ra chắc thiên hạ cho tui là thằng khùng?” tôi nói.
            -“Khùng sao? Sống với anh trong trại tù, đôi khi tôi cũng thấy anh khùng rồi. Đợi chi thiên hạ nói.” Đông vừa cười vừa nói.
            -“Không! Ý tui là như thế nầy! Mình là nhược tiểu. Hiệp định Paris là thằng Mỹ muốn bỏ mình. Tại sao hồi đó mình không bỏ thằng Mỹ mà cầu cứu thằng Tầu?” Tôi nói.
            -“Chết anh à! Không được đâu! Anh thấy cái gương anh em ông Diệm không? Chết thảm trong xe M-113.” Trắc nói.

            -“Nói không dám thì tui nghĩ tông tông Thiệu không dám. Cứ ngơm ngớp sợ đảo chánh thì ông Thiệu không dám làm là đúng. Tui có quen một người, môt ông trung tá, cũng “dân Quảng Trị” tui. Ông từng làm việc trong Phủ tổng Thống, có lần ông nói oang oang: “Tui ở Sư Đoàn 1. Tui biết ông Tổng Thống rõ lắm, khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn. Mỹ nói chi, ông nghe nấy!” Tôi nói.
            Một lúc sau tui nói tiếp:
            -“Sợ Mỹ, bộ không ai dám làm như cụ Phan Bội Châu sao? Tây cai trị rồi, cụ Phan còn qua Nhật xin cầu viện. Bộ Tây bắt được, không chém đầu cụ Phan sao?
            -“Tui cũng nghĩ như anh.” Đông góp ý. “Bùi Viện lệnh ở đâu, mà cũng qua Mỹ xin Mỹ giúp đánh Tây. Miền Nam mình, thiếu một “Lê Lai cứu chúa”, đành chịu chết chìm.
            -“Thằng Tầu không muốn Bắc Việt hay một Đông Dương mạnh lên đâu. Gây mâu thuẫn, giữ sự tồn tại hai miền Nam Bắc là làm cho Việt Nam yếu đi. Âm Mưu nầy khá rõ đấy. Hồi hội Nghị Genève 1954, trước mặt Phạm Văn Đồng, Chu Ân Lai chuyện trò với ông Ngô Đình Luyện, hình như có mời ông Luyện qua Tầu. Trước 1975, có người Tầu từ Lục Địa qua Đài Bắc, gặp ông Nguyễn Văn Kiểu, chắc là không phải “”để làm quen” đâu. Có chuyện gì đó mà “xù”luôn.” Tôi kể.
            -“Bắt tay với thằng Tầu để làm chi?” Trắc hỏi.
            -“Bắt thằng có tóc, ai bắt trọc đầu. Bắc Việt xâm lăng miền Nam là vì quyền lợi Nga Tầu. Tầu cũng sợ thằng Nga nắm được Hà Nội nên muốn giữ Miền Nam được tồn tại. Phải không?”
            -“Thôi bỏ đi Tám! Chuyện cũ qua rồi. Nhắc lại có ích gì. Bọn mình già rồi, có “Mài kiếm dưới trăng” (2) thì cũng đem cất mà thôi.” Đông muốn kết thúc.
            -“Thế giới bây giờ như Đông Châu Liệt Quốc bên Tầu hồi xưa. Thằng Tầu mà nó mạnh lên, làm Tần Thủy Hoàng thì Mỹ cũng xong đời. nói chi Việt Nam./
hoànglonghải
  • Xóm Ngự Viên
Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
Khách du lần giở trang hoài cổ
Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên.
Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm
Cung nữ đa tình vua thiếu niên
Một đôi công chúa đều hay chữ
Hoàng hậu nhu mì không biết ghen.
Đất rộng can chi mà đổi chác
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: “Hô lai bất thượng thuyền”
Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Đã giả xong rồi nợ bút nghiên
Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến
Đi xem hoa nở mấy hôm liền
Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên
Thắp hương tôn nữ xin trời phật
“Phù hộ cho con được phỉ nguyền”.
Lòng Trạng lâng lâng màu phú quí
Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy?
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nhìn.
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền?
Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên
Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên
Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen.
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa
Khúc “Hậu đình hoa” hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn…
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên.
Cảm hoài   – Đặng Dung
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Bản dịch của Phan Kế Bính
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày

HOÀNG ĐỊNH * CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


 

CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG 
-Hoàng Định-
Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Bãi Giá, Đại Ngãi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.
Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, vì thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc mãi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc hòm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất, tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe chìm xuống, thế là mọi người đều đồng ý cúng vái với một ít mì gói vụn và thả hòm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không còn những giấc mơ kinh hoàng nữa.
Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói thì ăn cả kem đánh răng, khát thì uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến thì thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu.
Một đêm khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu thì nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng vì được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”. Vì quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng nhìn và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ thì nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ. Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này thì tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang tìm cách hãm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích vì của cải chúng tôi nộp chó họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và vì họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi. Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “ Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự ?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nhìn họ.
Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đã đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau đó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe . Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở còn thân mình và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi còn đang kinh hoảng thì những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào mình đám đàn ông thanh niên đang đu dây.
Cảnh tượng thật kinh hoảng, tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, tiếng hét chỉ một lần rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thanh cuả những ai bị chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng. Tôi kinh hãi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nhìn cho rõ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi.
Rời xa ghe một khoảng, tôi nhìn lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nhìn rất rõ, tôi thấy họ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó liệng xuống biển, tôi tiếp tục bơi xa và nhìn thấy tàu đã húc cho ghe chìm hẳn. Tôi quá kinh hãi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó nữa, mãi qua đến trại Sikew qua một bé gái 13 tuổi tôi mới biết là trẻ em quá nhỏ thì bị liệng xuống biển, còn bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ thì họ lùa lên tàu và ngày đêm thay nhau hãm hiếp.
Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, mãi gần sáng gặp được tài công Thời (còn gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me còn rỉ ra. Cả hai đang ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi vì thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người, tôi thông cảm họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu rỉ ra rất dễ làm mồi cho cá mập. Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau. Nhìn xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiêc ghe của chúng tôi. Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nhìn quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng vì còn được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy. Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nhìn chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu não nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoát tay từ chối. (Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu thì sẽ phiền đến họ vì phải khai báo, chụp hình chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù)
Chúng tôi cứ lêu bêu ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đã thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động còn ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng. Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên thì bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nhìn xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”, tôi chẳng giúp được gì, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nhìn theo như cái xác không hồn. Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm. Chẳng mấy ai còn để ý đến nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ thì thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, còn tôi thì thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng. Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng chẳng thấy bờ dừa. Chợt tôi như bừng tỉnh và cầu nguyện thì thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi chìm hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nhìn lại thấy mình đang chìm dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước. Nhìn chung quanh toàn biển là biển, thì ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hãi.
Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em còn lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ thì chúng bắt hãm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hãm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác). Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến vì hàng trăm chiếc cũng đã qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng vì quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn còn sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nhìn đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều. Nhìn họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đã có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi. Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi còn lêu bêu trên nước.
Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc Mã Lai Á cạnh Thái Lan) Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rõ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi”. Trên đường đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đã gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm. Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung. Một chập sau đó cháu kể lại đã bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hãm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng thì cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không còn biết gì thì chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy. Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ mình (là dì của cháu N), cháu cho biết là vẫn còn sống nhưng dì la hét suốt ngày đêm vì bọn họ hãm hiếp dì nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ còn lại 8 người sống sót.
Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N…Còn 7 người chúng tôi thì hình dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp mình và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.
8 người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sekew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992.
Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới.
CHoàng Định

VÕ KỲ ĐIỀN * HY LẠP ĐỀN ĐÀI

Hy Lạp đền đài hoang phế ngàn năm

Posted: 12/08/2016 in Tùy Bút / Tản Mạn / Tạp Ghi, Võ Kỳ Điền
Võ Kỳ Điền

goc_pho_athens
Góc phố Athens

Mùa hè vừa qua tôi có dịp đi thăm xứ sở thần thoại Hy Lạp núi đồi, đền đài hoang phế bên bờ Địa Trung Hải nước xanh màu ngọc thạch. Không bình thản như các lần đi chơi trước, chuyến nầy tôi chờ mong trong nỗi hồi hộp, náo nức. Các chuyện thần thoại Hy Lạp được học từ nhỏ tưởng là xa vời, nào ngờ lúc bước qua tuổi già lại được chứng kiến tận mắt những vị thần và những kỳ quan của thế giới cổ đại qua tượng đá, thành quách, đền đài, dinh thự, vật dụng… xa xưa còn lưu dấu tích nơi nầy. Chuyến bay từ Toronto tới Athens lâu tới gần mười tiếng đồng hồ, tuy đoạn đường khá dài nhưng may mắn chiếc ghế cạnh bên trống chỗ nên tôi ngồi đứng khá thoải mái.

Athens vào những năm 400 trước Tây Lịch là thành phố lớn nhứt và nổi tiếng văn minh nhứt thế giới cổ đại. Người Hy Lạp đã ra sức xây dựng một quần thể kiến trúc tuyệt vời để thờ phụng thần Athena (nữ thần khôn ngoan và trí tuệ) theo thần thoại, là người bảo vệ kinh đô nước Hy Lạp xưa, trên một ngọn đồi cao giữa thành phố, có tên là Acropole. Nhờ vậy ở Athens, đi dạo phố xá khá yên tâm, cứ nhìn đồi Acropole cao mà định hướng, ít khi đi lạc.
Khách sạn Athens Acropol cao nghều nghệu nằm giửa trung tâm thành phố nên dễ thấy. Nhìn chung thì thủ đô Athens chỉ lớn vừa phải mà dân số tới trên 4 triệu người nên khá chật chội. Ba quảng trường Monastriaki, Constitution và Omonia là ba trung tâm sinh hoạt náo nhiệt của thành phố, du khách tới lui đông đảo nhộn nhịp. Năm 2004 vừa qua, nhờ là quốc gia tổ chức Thế Vận Hội nên hầu hết khách sạn ở đây đều được tân trang sang trọng, tiện nghi tối tân. Trên đường về khách sạn, tôi ngắm nhìn toàn cảnh, ngạc nhiên khám phá một điều là kiến trúc Athens nhìn giống như bất cứ nhà cửa nào ở Canada mình, nghiã là toàn nhà kiểu mới chừng 100 năm trở lại. Thường là kiểu nhà bê tông cốt sắt hình hộp vuông vuông, cao chừng 3, 4 từng, quét sơn trắng viền xanh, màu của cờ Hy Lạp quen thuộc, nhà cửa cao thấp không đều, nối tiếp nhau chạy dài theo từng con lộ. Thành phố nhỏ hẹp nên khoảng trống hầu như không có, công viên rất ít. Tuy nhiều nắng nhưng may nhờ có biển Địa Trung Hải bao quanh nên khí hậu dễ chịu, nhiệt độ thường ngày khoảng 20, 21 độ bách phân.
Athens hoàn toàn không có kiểu nhà xưa bằng đá, gổ hay xi măng chạm trổ cầu kỳ các thế kỷ trước như ớ Paris, Londre, Bruxelles, Luxembourg, Genève, Amsterdam… như chúng ta đã từng gặp ở các thành phố Âu Châu khác. Kiểu vở đền đài, dinh thự Hy Lạp hiện nay đều được xây dựng bằng đá cẩm thạch vuông, thẳng, đường nét chắc chắn, hùng mạnh, ít chạm trổ điêu khắc ở các cột và mái. Còn nhà cửa dân chúng thì giống y nhà cửa ở Bắc Mỹ. Xứ nầy chiến tranh xảy ra triền miên nên Athens thường bị tàn phá (các bạn nhớ lại phim Les Canons de Navaronne). Thành phố hiện nay chỉ mới được xây dựng lại từ đống tro tàn. Hủy diệt và hồi sinh, y như lịch sử ngàn năm trước…
Cũng cần phải nói thêm, đây là nhà cửa thấy trong đất liền, còn khi đi chơi nhiều hải đảo thì trên các đỉnh núi chon von, ngược lại tôi đã bắt gặp phần lớn các phố xá còn giữ y nguyên kiểu nhà Hy Lạp xưa cũ. Mà nó cũng đặc biệt lắm, không giống bất cứ kiểu cổ nào của các thành phố Châu Âu tôi đã đi qua.
nha_tho_hy_lap
Nhà thờ Hy Lạp

Buổi chiều đi trên con đường Athenias trước mặt khách sạn, nhìn phố xá hai bên, xe cộ dập dìu, người người qua lại, sinh hoạt đông đúc nhưng không ồn ào, người Hy Lạp dáng vẻ đàng hoàng, hiếu khách và lịch sự. Quanh vào một đường nhỏ bên trái, tôi tình cờ bước vào một chợ bán thịt với nhiều gian hàng bày đủ loại thịt bò, heo, dê trừu, gà… màu thịt tươi ngon, giá cả vừa phải, thịt các loại độ 6, 7 euro một ký.
Người bán đều là đàn ông, không thấy phụ nữ, cách chào đón mời mọc khách mua tươi vui nồng nhiệt nhưng vừa phải không quá ồn ào. Từ ngày xa xứ tới giờ, lần đầu tiên tôi thấy lại được những gian hàng bán thịt tươi, cắt cắt, xẻ xẻ, cân cân, giống như ở Việt Nam mình, chưa ăn cũng đã thấy ngon. Không như thịt ở các siêu thị Bắc Mỹ được cắt gói sẳn, nằm buồn hiu trong tủ kiếng chờ người mua.
Lề đường Athens chật hẹp, đoạn gần tới khu vực di tích Acropole, có hàng cây lạ, được trồng dài trên vỉa hè, thân cây ốm thon, cao độ 9,10 thước, lá nhỏ hoa màu tím, giống hoa bằng lăng, hoa nhiều hơn lá, nở rộ tím cả một khu phố, xa xa là khu di tích điện Parthénon ba ngàn năm hùng vĩ, với những hàng cột thẳng đứng cao vút, trơ gan cùng tuế nguyệt trên đỉnh đồi cao. Đẹp quá, du khách nào thấy cũng xuýt xoa trầm trồ. Tôi bổng chợt nhớ những câu hát quen thuộc ngày xưa -chiều tím, chiều nhớ thương ai, người em tóc dài… Phải ngắm nhìn phong cảnh tím cả góc phố Athens buổi chiều xuống ở đây, mới cảm nhận được cái tài hoa của những nhạc sĩ Việt Nam mình lúc trước, mới hiểu chút chút -tím cả hoàng hôn, tím cả chiều hoang biền biệt, mới biết chiều tím là đẹp như thế nào!
Nhưng không phải các lề đường Athens đều trồng cây hoa tím (có lẽ là giống phượng tím Jaracanda của châu Mỹ?), chỉ một đoạn nầy thôi. Phần lớn vỉa hè là trồng cam, nếu không cam thì cây dâu tằm ăn (murier) lá to để lấy bóng mát, các xứ khu vực Địa Trung Hải nắng vàng óng ả quanh năm. Nhiều hàng cam gốc to cở bắp chưn, tàn lá dầy đặc xanh mướt, trái vàng chi chít đầy cành, tôi đứng tiếc ngẩn tiếc ngơ nhìn trái rụng rải rác quanh gốc mà chờ coi… không thấy người lượm! Tiếc thì có tiếc nhưng hổng lẽ người lượm cam rụng lại là mình, kỳ lắm.
Bước chân du khách thỉnh thoảng phải dừng lại và đi quanh. Trước mặt một ngân hàng to lớn là một hố sâu to được đào ngay dưới vỉa hè, chiều ngang và dọc khoảng độ 4 thước vuông. Trên có mái che bằng kiếng khung sắt hình chóp nhọn, trông cũng khá thẩm mỹ. Tôi tò mò nhìn sâu xuống dưới lòng đất được đào trống, thấy vài nền đá tảng ngang dọc của một dinh thự cổ khá to, có cầu thang đi lên trên, cũng bằng đá. Nhìn sâu hơn nửa, thấy có vài ống dẫn nước bằng gạch nung, đường kính khoảng 40 cm, ló ra ngoài chừng hơn nửa thước dài. Thì ra đó là một di chỉ khảo cổ của thành phố nầy mấy ngàn năm trước. Khi đào đất cất ngân hàng, người ta bắt gặp nó và giữ kỹ ở tình trạng nguyên dạng… có tấm bảng đồng nhỏ ghi chú các tài liệu khảo cổ gắn cạnh bên. Tôi sững sờ coi kỹ lại và bâng khuâng tự hỏi, ống thoát ngước nầy mới làm hay là có từ lâu lắm? Rõ ràng là xưa lắm. Cách đây mấy ngàn năm, dân cư ở thành phố nầy đã biết thiết kế hệ thống thoát nước hoàn bị như vầy, thiệt tình là họ văn minh sớm lắm, không thể tưởng tượng được.
Ở nhiều xứ Á Châu, Phi Châu, những bộ lạc bán khai, rác rến, phân người và phân thú, nước bẩn, xác thú vật chết… thì quăng vứt đại đâu đó cũng được. Tiền của, công sức, hơi đâu mà làm ống cống chôn luồn dưới đất để thải nước dơ ra sông ra biển. Các nền văn minh lớn trên thế giới như Maya, Azteque ở Trung Mỹ, Khmer ở Cambodge,… sở dĩ bị tiêu diệt mau lẹ sau khi rực sáng lên một giai đoạn rất ngắn là vì những thành phố của họ không có hệ thống thoát nước đầy đủ, rác rến không được xử lý đúng cách, chỗ ở bị ô nhiễm nặng nề. Vì thành phố lớn nên dân chúng tụ tập sinh hoạt đông đảo. Nhà cửa, đường phố tràn ngập rác rến, phóng uế bừa bãi, ruồi muổi, chuột bọ, rắn rít… chỉ trong một thời gian ngắn là đủ gây nên những bịnh dịch truyền nhiễm kinh hoàng. Ở Cambodge, dân chúng chết hàng loạt vì bịnh sốt rét malaria (muổi anophèle), cung điện Đế Thiên Đế Thích phải bỏ hoang, rừng rậm phủ kín gần sáu bảy trăm năm. Ở Mexique (vùng kim tự tháp Chitchen Itza, Teotihuacan..) dân chết như rạ vì dịch hạch hoặc dịch tả (peste, cholera..)

thanh_luy_dao_rhodes
Thành lũy đảo Rhodes

Nền văn minh Hy Lạp cũng sớm bị tàn rụi, không phải do thiếu vệ sinh như vài nền văn minh trên nhưng vì bị chiến tranh nội bộ xâu xé (các bang Macédoine, Sparte, Athene) hoặc bị ngoại quốc xâm lăng (Turc, Perse, Rome..) Ở Hy Lạp dù trong đất liền hay hải đảo, bất cứ thành phố nào cũng nhìn thấy thành quách, tường lũy, tháp canh, bằng đá tảng đồ sộ, kiên cố phòng ngự, thì biết ngay chiến tranh ngày xưa khốc liệt là chừng nào! Khi tôi đến thăm viếng đảo Héraklion (Crète) thì thấy một bức tường đá, xe cộ có thể lưu thông dễ dàng trên mặt thành, chiều ngang thật dầy, cao chừng 6, 7 thước, xây ngoài biển cách xa bờ chừng vài chục thước, chạy dài bao vòng quanh đảo, chỉ chừa một khoảng nhỏ để làm hải cảng cho tàu ra vô. Trong đảo là vô số tháp canh, tường lũy, cái nào cái nấy rất là đồ sộ, đảo Rhodes cũng vậy. Thiệt tình, không thể tưởng tượng được, với tiền của, nhân lực, vật lực và phương tiện máy móc nào mà người xưa đã xây dựng nổi những công trình vĩ đại như vậy, trên đất liền là đã khó và khổ nhọc lắm rồi, ngoài biển khơi mà làm một tường thành kiên cố to sầm bằng đá tảng để bảo vệ đảo, thì làm sao làm được và làm nổi. Vậy mà người xưa đã thực hiện lớn lao như vậy đó
dao_crete
Đảo Crète

Có ông tài xế taxi giải thích cho tôi hiểu, thành phố Athens nầy được xây cất trên nền
của thành phố cổ hàng mấy ngàn năm về trước. Do đó khi ta bước đi trên mỗi thước đất, biết đâu là mình đang bước trên một di tích lịch sử. Chánh phủ Hy Lạp thì nghèo, tổ chức Unesco của Liên Hiệp Quốc rất lo lắng và quyết tâm bảo vệ những gì của tiền nhân còn sót lại, nên có giúp đỡ nhiều trong việc bảo tồn những di tích lịch sử xứ nầy. Người dân muốn xây cất nhà trên một miếng đất phải làm đơn gởi Nha Khảo Cổ và chờ một thời gian dài, để các nhà khảo cổ đào bới coi phía dưới có một di tích gì hay không, thời gian chờ đợi là 2 năm. Có 2 trường hợp xảy ra -nếu không gặp gì hết thì hết sức may mắn, mình được quyền xây cất nhà cửa theo đúng luật lệ thành phố. -Nếu có nền móng lâu đài, dinh thự cổ thì nhà nước mua lại theo giá quy định và bắt buộc phải bán, không được khiếu nại gì hết. Vì đó là tài sản văn hoá của quốc gia.
Từ ngoài biển nhìn vào thì thành phố Athens gồm hằng trăm ngàn nhà nho nhỏ như những chiếc hộp vuông trắng xoá nằm trải dài theo bình nguyên cạnh biển, lưng dựa vào dải núi thấp, sườn dốc thoai thoải cũng một màu thạch cao trắng xoá. Phải vài ngày sau khi đi chơi chỗ nầy chỗ kia tôi mới biết, các núi Hy Lạp phần lớn đều được cấu tạo bằng đá cẩm thạch trắng (marble). Núi nào cũng có vài hầm đá qui mô với máy móc dụng cụ cưa xẻ hầu khai thác loại đá trắng quí nầy. Cũng có nhiều cơ sở tạc tượng đá, sân rộng chứa đủ loại tượng được đục đẻo nằm đứng ngổn ngang, đường nét tinh xảo. Thời cổ đại, người Hy Lạp đạt văn minh sớm, thuộc bậc thầy của thế giới nhiều bộ môn như triết học, chánh trị, văn học, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật mà kiến trúc và điêu khắc còn ghi đậm dấu ấn những nơi đây.. Ở xứ nầy những gì cần làm bằng đá thì toàn là đá cẩm thạch, nhiều vô số kể. Tôi để ý thì thấy nhà cửa, vật dụng, đường đi đều được lót bằng cẩm thạch, nói ngoa một chút cho vui, cả xứ Hy Lạp đều làm bằng cẩm thạch trắng.

doi_acropole_athens
Đồi Acropole Athens

Buổi sáng tôi đi thăm đồi Acropole với các quần thể kiến trúc đồ sộ trên một đỉnh đồi đá cao 165 thước so với mực nước biển, được xây cất dưới triều đại Péricles, thời kỳ vàng son của nền văn minh Hy Lạp, thế kỷ thứ 5 trước TC, do hai kiến trúc sư Ictinus và Callicrates vẽ kiểu và xây dựng. Giá vé vào cổng là 12 euro, đường lên dốc đồi được lát bằng đá cẩm thạch đen và trắùng, mòn nhẵn dưới biết bao gót giày của du khách tứ xứ. Tất cả đền đài dinh thự, điện Parthénon, cổng Propylaea, đền thờ thần Nike, đền Erechthéion… sau bao nhiêu hoang phế đổi dời của cả ngàn năm, chỉ còn trơ lại trên nền đá cao những hàng cột cẩm thạch vân trắng hoặc hồng nhạt, cột cao cột thấp… Những cuộc chiến tàn khốc xảy ra, những cuộc động đất long trời lỡ đất tiếp nối, rồi cuối cùng thời gian tàn nhẫn dài lâu hằng ngăm năm, đã biến cả một công trình đồ sộ đẹp đẽ thành những đền đài hoang phế, đổ nát tang thương. Cả một đỉnh đồi rộng rải vuông vắn, chồng chất ngổn ngang những tảng đá nứt nẻ được chạm trổ, điêu khắc sắc sảo, mưa gió ghi dấu xanh rêu lổ chổ, mỗi cục nặng chừng 5, 10 tấn, cục còn nguyên, cục bị sứt mẻ, nằm lăn lóc chỗ nầy chỗ kia…
Cổng Propylaea là một cổng thành đồ sộ được xây dựng bằng đá cẩm thạch do kiến trúc sư Mnesicles vẽ kiểu, vào các năm 437- 432 tr T L. Cổng nầy không bao giờ được trùng tu cho thiệt hoàn hảo vì cuộc chiến Peloponnesian xảy ra. Cổng được tuyên xưng là -chiếc vương miện rực rỡ của thành trì Thượng Đế -gồm một cổng chánh, có hai vòm mở vào đầu đường Tôn Nghiêm, với hai cánh hai bên là hai tòa nhà lớn đối xứng, trong đó cánh phía Bắc là một phòng trưng bày tranh. Cột ngoài kiểu Doric, bên trong kiểu Ionic. Kiến trúc nầy bị hư hại nặng trong nụ nổ do sét gây ra năm 1640. Hiện cơ quan Unesco đang cho sửa chữa, gạch đá còn ngổn ngang. Mỗi cây cột là nhiều tảng đá bằng phẳng lớn hình tròn, được chất chồng thẳng đứng lên nhau. Tôi tò mò ôm thử một cây cột, lớn quá, cột đá lạnh ngắt, vòng tay tôi chưa được một phần ba. Như vậy phải chừng ba người ôm mới giáp một vòng cột….
dien_parthenon
Điện Parthénon. Acrople Athens

Bên phải cổng Propylaea trên đài cao là một đền nhỏ tương đối còn nguyên, song song trước sau 8 hàng cột kiểu Ionic xinh xắn (loại cột trên đầu tạc hình giống đầu chiếc vĩ cầm, dưới chân có bệ). Đó là đền thờ nữ thần Nike (The Temple of Wingless Victory, được xây cất vào thế kỷ thứ 5 tr TC, kỷ niệm chiến thắng của Hy Lạp đối với Turc, vì không cánh nên vị thần Chiến Thắng nầy sẽ mãi mãi ở lại nơi đây để bảo vệ thành phố) Ngôi đền được sửa sang toàn vẹn với vật liệu gốc.
Điện Parthénon là một ngôi đền điển hình của Hy Lạp với hai hành lang bên ngoài, diện tích hình chữ nhật, chu vi bên ngoài gồm 46 cột thẳng đứng, kiểu Doric (đầu cột là một bệ vuông, đỡ lấy mái, dưới chân không bệ). Điện có kích thước 69,51 m -30,87m, rất hùng vĩ. Trang trí điêu khắc ngôi đền nầy là điêu khắc gia cổ đại Phidias, nổi tiếng bậc thầy. Bên trong chia làm hai gian có vách ngăn, gian ngoài được gọi là Hécatompédon là gian thờ tượng nữ thần Athena, tương truyền bằng ngà và vàng cao 12 m và gian trong gọi là Parthenon chỗ cư ngụ các nữ đồng trinh và cũng là kho chứa vật thánh linh và châu báu của thành phố.
Người hướng dẫn du lịch đưa tay chỉ những hàng cột cao, miệng thao thao giải thích -khi xây cất các kiến trúc sư đã đặt những cột bên ngoài lớn hơn các cột giữa một chút và cũng hơi nghiêng vào bên trong một chút, khoảng cách các cột bên ngoài với cột bên cạnh, cũng xa hơn khoảng cách các cột bên trong một chút,.. tất cả những dụng ý đó khiến cho mắt nhìn thấy các cột bằng nhau, đều nhau, song song một hành thẳng tắp… theo luật viễn cận. Đó là nhằm điều chỉnh những sai số thị giác khi ngắm nhìn một công trình đồ sộ trong không gian. Tôi nghe đến đây mà phát sợ… cho cái ngu của mình !!! Cách đây gần 3000 năm người ta đã thực hiện được những công trình vĩ đại mà hiện tại chỉ được giải thích có chút xíu mà mình vẫn chưa hiểu hết !
Hèn chi trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại thì người xưa đã ghi nhận đến 5 kỳ quan thuộc nền văn minh Hy Lạp rồi. Đền Parthénon xứng đáng là kiệt tác mẫu mực nhất về cái đẹp của kiến trúc Hy Lạp cổ điển, nó cũng là chuẫn mực cho kiến trúc Tây Phương suốt mấy chục thế kỷ sau nầy.
Đền Erechthéion hình chữ nhựt có ba cổng cao thấp khác nhau. Bên trong dùng cho việc hành lễ tế thần Athena Polias, vào bằng cửa Đông và thần Poseidon Erectheus, vào cửa Bắc, các cột dáng kiểu Ionic. Cổng hướng Nam có hàng cột tuyệt đẹp, điêu khắc công phu hình sáu mỹ nữ đồng trinh, vóc dáng tuyệt mỹ, y phục nhẹ nhàng thanh thoát, dáng đứng dịu dàng sang cả, đầu như đội vương miện đỡ lấy mái đá. Nhìn tận mắt các hàng cột Kariatyds nầy (the Caryatids = trinh nữ xứ Karia), tôi tưởng chừng như về sau nầy dẫu có người tài hoa giỏi giắn cách nào, cũng không thể làm được một công trình tuyệt xảo như vậy nữa. Đền được xây dựng từ các năm 421 trước Tây Lịch và được sửa chữa lại năm 405 tr T L, sau một vụ cháy vào năm 395 tr T L. Và bây giờ cũng đang được tu bổ tiếp tục…
Trong kiến trúc Hy Lạp còn còn một loại cột mỹ thuật nữa là kiểu Corinthian như ở đền Thờ Thần Zeus trên núi Olympian. Cột Corinth, có bệ dưới chân và đầu cột điêu khắc chùm hoa lá nở hướng lên. (Cột Doric là cột dương nên mạnh mẽ; cột Ionic, Corinth, Caryatids là cột âm nên dịu dàng).
Các ngày sau, chúng tôi đi thăm đảo Rhodes có những thành trì, đồn lũy kiên cố, tôi để ý và cố tìm kiếm dấu vết của tượng thần Rhodes, tương truyền bằng đồng, cao trên 36 thước (theo phim tài liệu The Seven Wonders of The Ancient World thì cao 60 thước) đặt ở hải cảng như sách vở đã miêu tả, tàu bè qua lại dưới hai chân tượng, một kỳ quan thế giới cổ đại. Nhưng tôi không thấy gì ngoài những thành trì bằng đá tảng đồ sộ, những tháp canh cao vòi vọi có nhiều lỗ châu mai. Chiến tranh cũng có nét đẹp hào hùng lẫn bi tráng của nó. Tôi nhìn chiếc cầu bắt qua cửa thành mà tưởng chừng như thấy cuộc chiến long trời lỡ đất đang diễn ra, địch quân hung hản ào ạt xung phong và trên những tường thành nghi ngút khói lửa, đầy trời tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, lính tráng đang xã thân chiến đấu hết sức để ngăn chận, bảo vệ thành phố, bảo vệ mạng sống mình và vợ con…
Ở xứ nầy, chiến tranh không phải xảy ra một, hai lần mà là nhiều lần và dĩ nhiên rất tàn khốc. Mạng người như cỏ rác. Sau cuộc chiến còn lại chỉ là xương cốt mục rửa với biết bao nhiêu cô nhi và quả phụ! Cứ nhìn bất cứ nơi nào, dù trong đất liền hay ngoài hải đảo, chúng ta cũng sẽ thấy thành quách, hào lũy trùng điệp vây quanh…
Có thể kết luận, lịch sử Hy Lạp là đi chinh phục và bị chinh phục. Khi mới đến tôi không hiểu tại sao phần lớn các thị trấn, thành phố đều được xây dựng trên núi non hiểm trở cheo leo, đường đi rất gian nan nguy hiểm. Có ở một thời gian thì mới rõ, họ phải làm như vậy để tự bảo vệ và tồn tại. Tuy bị các nước xung quanh đô hộ và cai trị cả ngàn năm nhưng người Hy Lạp bất hợp tác với quân thù, kéo nhau lên vùng cao trên núi rừng, giữ gìn được tất cả bản sắc của dân tộc mình từ triết học, văn học, chánh trị, nghệ thuật, hội hoạ, khiêu vũ, kiến trúc, điêu khắc..
Đảo Patmos, có tu viện St-John trên núi cao nhìn xuống một hải cảng bên dưới. Đường lên dốc đá cheo leo được lát bằng những viên cuội tròn đen, bóng nhẵn do mưa gió thời gian, đôi chưn tôi bước hoài mà không thấy tới, du khách chen nhau như trẩy hội. Tôi cứ lo sợ nơm nớp, nếu trợt cẳng lọt xuống vực thẳm hun hút dưới kia thì không biết phải làm sao, mình tuổi tác khá cao rồi, sức yếu làm sao mà… leo lên cho được!
Tu viện thánh John vừa là một toà thành trì với các tháp canh bằng đá tảng, vừa là tu viện lớn sừng sững nguy nga trên chóp núi, vách đá cao chớn chở, trước mặt tiền có tạc hình nổi chiếc thuyền lớn của ông Noah. Trong tu viện có chưng bày một dụng cụ bằng cây hình hộp dài đáy phẳng, đen xám cũ mục, ngang dọc và cao chừng 1m -1m- 3m, mới nhìn cứ tưởng là cái quan tài rất lớn, không biết dùng để làm gì. Tôi tò mò hỏi, thì ra nó là cái máng dùng để trộn bột làm bánh mì cho cả tu viện dùng. Lớn quá, nhiều quá, phải bao nhiêu người mới dùng cho hết một lần nhồi bột như vậy, tôi không đoán nổi !
Mặt sau tu viện, vươn lên một chiếc cổng như cổng Propylaea tuy nhỏ hơn, một di tích cổ đại đang được trùng tu. Những hàng cột Doric cẩm thạch trắng, được máy móc cắt xén giống y kiểu xưa, do Liên Hiệp Quốc tài trợ, được dựng lại trên nền đá cũ ngàn năm trước, trông rất kiên cố, bền vững, chế ngự bao quát cả một vùng biển xanh rờn dưới kia, cảnh đẹp như một bức tranh vẽ… Nhìn toàn thể tu viện thì tôi mới hiểu, phía sau là đường lên tu viện, còn cổng phía trước là mặt tu viện quay ra biển khơi… Vậy mà tôi có cảm giác như ngược lại, trước thành sau mà sau thành trước.
tu_vien_patmos
Tu viện Patmos
Đứng ngắm công trình tu bổ vĩ đại nầy mà suy nghĩ tới suy nghĩ lui. Bao nhiêu ngàn năm nữa, các thế hệ con cháu sau nầy cũng sẽ tiếp tục làm những hàng cột kiểu Doric đẹp đẽ mà dựng lại nơi đây… Vì những hàng cột hiện tại dù chắc chắn, kiên cố cách mấy đi nữa rồi cũng sẽ mục rữa, đổ nát theo thời gian, cũng sẽ tàn lụi cũng như đã từng tàn lụi ! Thời gian quả thiệt là khắc nghiệt và vô tình. Gạch đá bền cứng còn như vậy, nói gì đến da thịt mong manh con người. Lúc ở đảo Crète, tôi nhìn một hàng đá, nhiều tảng to cở mặt bàn bị sóng đánh tan rả, phần còn sót lại còn trơ ra như cát bùn, thấy mà giựt mình… trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì (Cung oán)
***
Tối hôm đó du thuyền chúng tôi vào địa phận Turkey. Sáng sớm đổ bộ lên bờ, dùng bus đi Kusadasi, một thành phố Turkey tiếp giáp Hy Lạp. Đường xá, nhà cửa phía bên nầy loang lổ, vá víu, có vẻ luộm thuộm, nghèo nàn hơn bên Hy Lạp. Núi đá khô cằn, chỉ thấy cây ô -liu được trồng rải rác trên sườn núi đầy đá sỏi không có một chút đất đen, thấy mà tội nghiệp. Loại cây nầy thân mộc to cao chừng 7, 8 thước, lá nhỏ như là trúc đào, mặt trên xanh, mặt dưới màu xám bạc, nhiều cây già cổi có dáng đẹp uốn éo như bonsai. Khu vực nầy xưa gọi là Anatolia và di tích Ephesus là thủ đô của 500 thành phố trong khu vực nầy. Vào thế kỷ thứ 5 Tr TL, người ta đã xây dựng lên một thành phố tráng lệ để thờ phụng nữ thần Artémis. Ngôi đền được mô tả làm theo kiến trúc Hy Lạp tuyệt đẹp, được liệt vào kỳ quan thế giới cổ đại. Nữ thần Artemis cũng tức là Diana theo tên gọi người La Mã. Nàng là con thần Leto và thần Zeus, em sinh đôi với thần Apollo. Nàng là thần săn bắn có tính khí như đàn ông Chính vì thế các kiến trúc sư đã sử dụng loại cột Ionic để xây. Ionic là một trong ba loại cột nữ giới, nhưng cột Ionic mạnh mẽ hơn cột Corinth, những ngôi đền cón lại thờ các thần khác đều sử dụng loại Corinthian, không thấy cột Caryatids.
di_tich_ephesus
Di Tích Ephesus. Turkey

Di tích Ephesus không phải chỉ có một hai đền thờ mà là cả một thành phố lớn, giữa là một con đường cẩm thạch rộng chạy dài, hai bên là nhà tắm công cộng, nhiều nhà thờ các thần linh, các cơ quan hành chánh, rạp hát, thư viện, các vận động trường…
Con đường chánh nầy dài 4 cây số dẫn tới cổng Koressos ở Bắc và cổng Magnesia ở phía Nam, hai bên là hai hàng cột cao 8 thước. Hầu như các vận động trường (The Stadium) và thư viện (The Library of Celsus) còn giữ được hình dạng cũ, còn lại tất cả hoặc nhiều hoặc ít, chịu cảnh đổ nát hoang tàn. Giữa một cánh đồng rộng lớn là những cột đá chơ vơ, những bức tường loang lổ, những cổng, những tượng thần hoặc những nền móng đền đài còn sót lại. Trên đường Curettes Street có nhiều tượng thần y như Esculape, Hygie hoặc Panacée, cùng tượng các tổ y khoa Hippocrate, tổ dược khoa Galien, có tượng không đầu của một người nữ bác sĩ thời đó, kỷ niệm bà đã tận tâm phục vụ cho xứ
Nhà tắm dành cho công chúng và tư nhân, do bà Skolasticia lập nên có hồ tắm, có tắm nóng (caldarium) tắm ấm (tepidarium) tắm lạnh (frigidarium) và phòng thay quần áo (apoditerium). Có lò nấu nước lớn ở trung tâm và hệ thống sưởi dùng đủ cho tất cả cả các phòng. Tôi thấy bên đường, trong một nhà có cột đá, trên một phiến đá cẩm thạch dài khoan nhiều lỗ tròn khá lớn, phía dưới có rảnh nước chảy xuôi, thấy y như nhà cầu trong trại lính Quang Trung ngày trước. Quả đúng vậy, người hướng dẫn cho biết, đó là nhà tiêu tiểu công cộng, có hệ thống thoát nước bên dưới, nước lưu thông thường xuyên nên khá sạch sẽ.
nha_ve_sinh_ephesus
Nhà vệ sinh thành phố Ephesus

ban_chan_trai_huong_ve_nha_chua
Bàn chân trái hướng về nhà chứa

Cạnh đó có tấm đá cẩm thạch vuông khá lớn, được đặt nằm trên mặt đất, có khắc hình một bàn chân trái còn rõ nét và mặt một người đàn bà lờ mờ, có lẽ do thời gian xoá mòn. Người hướng dẫn giải thích, bàn chân nầy chỉ về hướng nhà chứa gái điếm, mặt người đàn bà là các cô gái giang hồ… -Trời đất, bên Hy Lạp không những có nhà chứa mà còn công khai quảng cáo nữa, chớ không phải chỉ có bên Tàu đời Tần do Thương Ưởng phát minh. Thiệt tình, con người dù ở phương trời nào thì cũng giống nhau như hệt về ba cái vụ lạng quạng nầy!

van_dong_truong_ephesus
Vận động trường Ephesus
thu_vien_celsus_ephesus
Thư viện Celsus Ephesus.

Con đường cẩm thạch chánh (The Marble Street) thoải thoải đi dần xuống khu vực thấp hơn. Thư Viện Celsus (thế kỷ thứ 2 sau TC) lớn nguy nga, đứng sừng sững bên trái. Đó là một tòa nhà cao hai tầng khổng lồ. Phía trước là một sân rộng, quang đảng. Từ nền sân trước, bước lên 7 ngạch đá cao, mặt tiền thư viện gồm hai tầng cao. Tầng dưới là một hàng 8 cột, khoảng cách không đều nhau, chia làm 4 cặp sóng đôi, đầu cột được điêu khắc vừa kiểu Ionic vừa kiểu Corinth, cao 10 thước, đỡ lấy trần nhà. Phía trên lầu cũng gồm 8 cột cao và đẹp y như vậy, đỡ lấy mái nhà. Trên mái là những tảng đá làm đà ngang, là một riềm nhà hình tam giác khổng lồ, được điêu khắc tỉ mỉ các tượng triết gia, học giả cổ đại. Sau hàng cột là mặt tiền thư viện, có những ô lỏm vào, nơi đó người ta đặt những pho tượng tuyệt đẹp, có tượng còn đầu, có tượng đã mất.
Nhìn các nét đục đẽo tinh xảo trên từng phiến đá hoa, có trắng, có hồng, tôi phân vân tự hỏi: – mấy trăm ngàn tảng đá nặng hàng chục tấn ở rất xa, làm sao khiên vác nổi tới đây mà xây cất dinh thự, lầu gác như vầy? thời đó đã có sắt thép cứng chưa, làm sao mà đục đẽo đường nét, sắc sảo, đẹp đẽ y như máy làm ra vậy?
Rồi, câu hỏi tiếp theo, thư viện nầy lớn quá, lớn hơn thư viện ngày nay rất nhiều, phải bao nhiêu triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, phải có bao nhiêu người viết, phải có bao nhiêu sách để vô cho đủ? Nếu có đủ sách thì có bao nhiêu độc giả vô đó để học hỏi, tham khảo, để coi ?
Mà chuyện học hành thời đó ra sao, trường học ra sao mà thư viện lại lớn lao đến như vậy? Chỉ mới có thư viện nầy thôi, tôi đã không giải đáp nổi rồi, nói chi đến 2 vận động trường lớn chần dần, cái ở đầu, cái ở cuối thành phố, mỗi cái chứa đến 25.000 chỗ ngồi. Bao nhiêu người dân sống nơi đây, đời sống ăn ở, sinh hoạt ra sao? Không lẽ suốt ngày đi tắm ở các nhà tắm công cộng, rồi đến thư viện đọc sách, rồi chơi thể thao hoặc họp nhau mà bàn cãi chánh trị, triết học, văn học nghệ thuật hoặc ngâm thơ cho nhau nghe? Sau đó rủ nhau chun đường hầm đi đến chỗ có tạc bàn chân trái….!
Tóm lại tôi nhìn di tích đẹp đẽ đến mê mẩn nhưng khi suy nghĩ từng khía cạnh của đời sống ở đây, vào thời kỳ đó, rồi so sánh đời sống dân chúng xứ nầy xứ kia, vào thời kỳ nầy… suy nghĩ hoài không ra, thiệt là điên cái đầu !
***
-Từ ngoài du thuyền muốn vào thăm đảo Santorini phải dùng thuyền nhỏ. Mỗi chiếc chở độ chừng trăm du khách. Từ ngoài khơi nhìn vào thì thành phố xây trên đỉnh núi cao cheo leo, vách đá sừng sững, thấy muốn chóng mặt, mỗi lần xe bus chở du khách quẹo cua hay lên dốc là tim tôi thót lại. Xe chạy ngoằn ngoèo bên triền núi, đường rộng vừa phải, được tráng nhựa mới tinh. Một bên là vách núi đá cao chớn chở, một bên là biển xanh rờn rợn, du thuyền đậu rải rác chừng chục chiếc trắng xoá dưới kia, cảnh đẹp như tranh vẽ…
Nhìn vách núi Santorini thì biết ngay đó là đảo núi lửa. Vách cao chừng 5, 70 chục thước, pha trộn đủ màu, màu than đen, màu tro trắng xám, màu đất sét vàng ẻo, màu đất đỏ quạnh, từng lớp, từng lớp như miếng bánh da lợn, dầy chừng 5, 3 thước, sắp xếp chồng chất lên nhau, màu sắc tùy theo chất liệu núi lửa khi phun ra. Tôi thấy chúng được cấu tạo như đất cát trộn lẫn nhau, tưởng là bở bời rời, nào ngờ khi lấy tay rờ và cạy thử, thì ra nó đã kết tinh lại và cứng như đá!
Theo cuốn The End of Atlantic của J.V. Luce in ở Anh năm 1970 được phổ biến rộng rải thì châu Atlantic là có thật, quanh quẩn khu vực nầy. Santorini gồm một quần đảo, các đảo cách nhau 15-17 cây số. Chúng tạo thành một vòng tròn nổi trên Địa Trung Hải. Nửa vùng vịnh phía Bắc bị một núi lửa cũ phun sập vào năm 1650 Tr TL, tiêu diệt nền văn minh Minoan và châu Atlantic. Đó là vụ phun lửa lớn nhứt trong vòng 10.000 năm trở lại. Mây khói cao tới 36 cây số, tro phủ kín các nước kế cận, lan tới cả Turkey, Egypt… Santorini hoàn toàn bị tro núi lửa bao phủ, có lớp dầy tới 50 thước cao. Núi lửa vẫn còn hoạt động và tiếp tục phun lửa, trận gần nhứt xảy ra năm 1950.
May là khi chúng tôi tới, núi lửa đã ngưng phun từ lâu rồi, chắc là như vậy. Trên đỉnh là một thành phố nhỏ y như một thôn xóm, khang trang sạch sẽ nhưng nhỏ hẹp -đi năm phút đã về chốn cũ, nhà cửa hoàn toàn được giữ y kiểu vở Hy Lạp ngàn năm xưa. Nhà nhà đều hình vuông, cất dọc theo những đường hẽm ngoằn ngoèo, lót bằng đá cẩm thạch trắng, tường nhà bằng gạch đá trát vôi hoặc sơn trắng, khung cửa sơn màu xanh nước biển. Đặc biệt không có mái ngói như dưới đồng bằng, mái nóc bằng bê tông đúc hình vòng cung như miếng ngói úp nằm dọc theo chiều trước sau, nóc cũng được sơn trắng. Đôi khi cũng có mái bằng như chiếc hộp vuông. Nhà thờ thì vòm tròn như nửa quả địa cầu, có thập tự giá trên cao, phòng ốc cao thấp khác nhau kiểu vở xinh xắn.. Nhìn chung cả thành phố chỉ hai màu, các khung cửa màu xanh, còn lại tất cả màu vôi trắng xóa.
nha_tho_santorini
Nhà thờ Santorini Grecque

Từ xa nhìn thành phố đẹp như bức tranh học sinh lớp nhỏ vẽ chơi với các hình vuông vuông tròn tròn, trên là núi cao, dưới là biển xanh.. Không tìm được rác rến dơ bẩn hoặc một bức tường nứt nẻ, vụn vở nào. Thành phố nho nhỏ, xinh xắn, sạch sẽ, khang trang, khá yêu kiều nhưng gần gũi, dễ thương, ấm áp. Du khách với y phục mát mẻ đầy màu sắc, tới lui rộn rịp trên các đường phố quanh co, trong những căn phố hay quán lều nhỏ bày bán đồ kỷ niệm. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe hơi hay scouter nhỏ chạy len lỏi trong đám đông, vì đường phố ở Santorini chỉ có vài con đường nhỏ ngang qua khu phố chợ. Bận về, xe bus không dám chở du khách vì sợ tuột dốc đứng. Chúng tôi phải xuống bằng đường không thiết (cable-car, funiculaire), có một số người trẻ can đảm hơn, họ chọn cách đi bằng lừa. Tôi tò mò hỏi người hướng dẫn -tại sao không thấy một kiểu nhà mới nơi đây, thì được trả lời -thành phố có luật bảo vệ kiểu vở xây cất ngàn năm trước. Khi nào nh
***
Tối hôm đó chúng tôi trở về Athens và sáng sớm lên đường đi Delphi, thời gian di chuyển chừng độ 3, 4 giờ xe. Delphi nằm trền sườn núi Parnassos, dọc đường du khách thấy được những rừng cây ô -liu và cây trắc bá (cypress) xanh mướt ngút ngàn. Khi lên lưng chừng đỉnh núi thì nhìn thấy cả một vùng biển trời rộng trải ra xanh biếc, rặng núi Poloponnese cao vút, vách đá thẳng đứng vây quanh. Núi và biển chen lấn nhau khoe nét hùng vĩ trong vịnh Corinthian Gulf, tưởng như trong trời đất bao la nầy, không còn chỗ nào đẹp hơn nữa. Bên trong di tích hoang tàn, có một cục đá to, cao ngang đầu người đứng, được tạc hình như cái bánh ít tròn, đặt trên một bệ vuông, người hướng dẫn chỉ chỗ núm nhọn nhô lên nói -chỗ nầy là trung tâm của Trái Đất !
olympia_papaestra
Olympia Palaestra

Tôi đứng nhìn bao quát, cảnh tượng thật hùng vĩ. Người xưa thiệt là có lý khi nói nơi đây là -cái rún của trái đất (the navel of the Earth). Điện thờ thần Apollo to lớn sừng sững, lưng dựa vào vách núi, phía sau là dải núi cao chất ngất bao quanh hình vòng cung, như cái ngai, trước mặt là biển xanh bát ngát…có dăm ba đảo nhỏ xinh xắn rải rác trước mặt. Theo phong thủy Trung Hoa thì vị trí điện thờ thần Apollo quả chọn đúng nơi long bàn hổ huyệt. Hơn hai ngàn năm trước, tại đây thần Apollo được thờ cúng trọng thể và nữ tu Pythia nổi tiếng với các lời sấm truyền như -Oedipe giết cha, lấy mẹ, -tượng thần Rhodes sẽ sụp đỗ sau 800 năm…

nha_hat_dionysus
Add caption

Nhà hát Dionysus ở Delphi
Con đường thiêng liêng uốn lượn từ dưới đi lên tới đền thờ thần Apollo, với những kho báu nằm hai bên ven, tức là những ngôi miếu nho nhỏ dùng để đồ tế lễ. Mỗi cây cột đền Apollo lớn lắm, chừng độ 4 người ôm mới hết một vòng, tất cả bị động đất khiến đổ nát, chỉ còn 6 cột còn đứng vững mà thôi. Các cột ở Athens, ở bán đảo Sounion (đền thờ thần biển cả Poseidon), ở Ephesus,… đều nhỏ hơn nơi đây. Phía trên đền có một nhà hát, một sân vận động và một đấu trường gần suối Castalic, tất cả đều phục vụ cho các cuộc thi đấu Pythian toàn Hy Lạp. Phía bên kia suối là thánh đường Athéna Pronaia mà toà nhà nổi tiếng nhất là nhà tròn bằng cẩm thạch Tholos xây dựng đầu thế kỷ 4 Tr TL. Số lượng du khách lai vãng nơi đây quá đông đảo nên ban khảo cổ sợ làm hư hao các phiến đá lót đường, nên vạch ra lối đi khác vòng quanh di tích. Chu vi rộng lớn của những di tích nầy cho thấy tầm quan trọng của tôn giáo và chánh trị nơi đây vào thời cực thịnh thuộc thế kỷ thứ 6 Tr TL. Delphi thực sự là trung tâm tôn giáo của thế giới cổ Hy Lạp.
Cũng nơi đây tôi mới biết được sự khác biệt của cây thông đực và cái. Cột cũng có cột âm cột dương, té ra quan niệm người Hy Lạp cũng giống người Trung Hoa, họ ưa phân biệt âm -dương, nóng -lạnh, sáng -tối, đực -cái… biết đâu ngàn xưa hai xứ đã từng có giao lưu văn hóa nhau hoặc chung một cội nguồn. Trên đường về xe, chúng tôi đi ngang qua một tấm bảng có hình vẽ khu di tích lịch sử ngàn năm với một hàng chữ lớn của cơ quan Unesco xác nhận -nơi đây là cái nôi của nền văn minh nhân loại.
Phía dưới khu đền Apollo có một bảo tàng viện mới xây, chưng bày các đồ vật của di tích đền Delphi tìm được. Trong đó có tượng con Sphinx cao lớn gần đụng nóc trần, là một con thú có cánh, đầu đàn bà, thân sư tử, ưa hỏi các nạn nhân các câu hỏi khó, nếu ai đáp trật sẽ bị ăn thịt, chỉ có Oedipe là đáp trúng, vì thua cuộc nó tự lao mình xuống vực sâu mà chết; tượng người đánh xe bằng đồng nổi tiếng, đường nét điêu khắc tuyệt hảo với từng nếp áo, từng nét nhăn của khuôn mặt và xuất sắc nhứt là ánh mắt nhìn… (The Bronze statue of the Charioteer)
den_apollo
Bảo tàng di tích đền Apollo ở Delphi
charioteer
The Charioteer of Delphi.

Về nhà vài ba tháng sau, trong đầu tôi còn đầy những hình ảnh thần Zeus, Athena, Poseidon, Artemis, Apollo, Hermes, Hercules… các hiền triết Hippocrate, Aristote, Pythagore, Démocrite, Archimède, Euclide.. ngây ngất và nhớ Hy Lạp, bèn vào thư viện mượn các tài liệu, phim ảnh, sách báo viết về nước nầy để hiểu cho tường tận hơn những gì mình đã học, đã thấy, đã nghe và đã biết. Một bửa tình cờ có đứa cháu nhân coi phim bộ Đại Hàn chợt hỏi -bác ơi, thành phố Nhã Điển là thành phố gì và biển Ái Cầm là biển gì, nghe lạ quá, con không biết ?
Câu hỏi khiến tôi nhớ lại chuyến đi vừa qua và thấy vui vui. Người Trung Hoa phiên âm các địa danh đó bằng tiếng Quan Thoại giọng Bắc Kinh hiện tại, rồi người Việt mình đọc phiên âm đó bằng chữ Nho, cũng là tiếng Quan Thoại nhưng rất xưa thời Mã Viện đời Hán, sau đó đời Đường, gần 2000 năm trước, nên nghe lạ tai là phải. Thiệt ra không có gì là khó hiểu, để ý một chút là thấy -Nhã Điển là thành phố Athens và Ái Cầm là biển Aegean của Hy Lạp. Còn Hy Lạp là họ phiên âm từ chữ Hellas, danh xưng đất nước của Greece.
Võ Kỳ Điền
(Hy Lạp 02 June /2005 có bổ túc và sửa chữa)

No comments:

Post a Comment