Nghĩ Về
Thơ Tô Thùy Yên,
thơ bảy
chữ có uy thế hơn
thơ tự do
Trần Văn Nam

Xin lướt qua những
bài báo viết về Tô Thùy Yên, sau đó người
viết mong đóng góp thêm được một
điều gì mới:
1/Võ Phiến viết về
khía cạnh siêu hình trong thơ của tác giả này; và
về sau trong một bài khác, ông nói thêm siêu hình là
nội dung làm nên tác phẩm lớn: tác phẩm lớn không
chỉ luẩn quẩn ở cách dùng chữ, ở kỹ
thuật, ở sáng tạo hình thức văn chương (trong
tạp chí Văn Học, số 145, tháng 05/1998).
2/Bùi Vĩnh Phúc có một bài
nghiên cứu rất quy mô về Tô Thùy Yên, nhưng
đọc qua phần giới thiệu các nội dung nghiên
cứu, ta thấy thiếu vắng vấn đề
thời thế rất đậm nét trong thơ thi sĩ.
Phần hình thức, ông trình bày rõ cách sáng tạo từ
ngữ độc đáo của nhà thơ, gồm có cách
chọn lựa ngôn ngữ theo quan hệ tương
đương, theo quan hệ giáp cận, theo cách hoán
chuyển từ loại (danh từ thành tính từ, hoặc
dùng trạng từ động từ ngoài quy ước
của lời nói bình thường), và sự dồi dào
những từ có âm đôi như “mịt mịt,
ngất ngất, tuôn tuôn”... trong thơ Tô Thùy Yên (trong
tạp chí Hợp Lưu số 7 và số 8/1992).
3/Và Nguyễn Tà Cúc liên
hệ vấn đề "người Nam giọng Bắc",
nhận định "mỗi địa phương
có cái đặc biệt cái xuất sắc riêng. Để
tả những xuất sắc, đặc biệt ấy,
không có gì tốt hơn, toàn hảo hơn, là dùng những
từ ngữ địa phương ấy... Chỉ nên
xem xét họ có đích thực, có xứng đáng là nhà
thơ hay không, như trường hợp Tô Thùy Yên"
(trong tạp chí Khởi Hành số 10, tháng 8/1997).
Nhân đây, người
viết muốn bổ túc bài báo có nói phớt qua về Tô
Thùy Yên, bài "Ma Lực Của Ngôn Ngữ" (trong
Tạp chí Khởi Hành số 8, tháng 6/1997). Xin bổ túc
vắn tắt bằng cách trích ra đây để phân
biệt giữa những câu thơ mới ở cách dùng
từ chưa ai có và những so sánh lạ dễ
"bắt mắt"; tương phản với cách dùng
ngôn ngữ quy ước và so sánh quen thuộc khuôn sáo.
Thơ bảy chữ nào của Tô Thùy Yên cũng ít nhiều
hiện diện những tân kỳ rất nghệ thuật
của ông. Ví dụ tân kỳ ở từ ngữ “trí
nhớ không” thay cho trí nhớ không còn gì bận tâm; ở
thi-ảnh mái ngói nghiêng nghiêng cho trái rụng lăn; ở
hốc mắt sâu thành hốc mắt khoen sâu; ở so sánh
cánh lá bung như linh hồn đang bay ra; hoặc ở so
sánh con đường sáng đèn như con dao rạch vào
bóng đêm:
…
Con chim thoát xác thành cơn mộng
Bay
liệng dài trên trí nhớ không
…
Chó tru, thăm thẳm ngây thiên địa
Mái
ngói nghiêng triền trái rụng lăn
…
Dựng dậy hồn oan dĩ vãng nào
Con
chim thần thoại mắt khoen sâu
…
Yêu cả con sâu cùng cái kiến
Thả
hồn theo cỏ lá bung phơi
…
Con đường duỗi sáng như dao bén
Rọc
điếng hồn đêm chẳng kịp la
Ngược với tân
kỳ, ta thử lấy ra vài ví dụ về từ ngữ
thật quen và cấu trúc bình thường trong thơ Tô Thùy
Yên; thấy như không có câu nào có vẻ nằm ngoài quy
ước của lời nói, nhưng đây là những
giản dị mà thật ra tuyệt kỹ. Nhà thơ Tô Thùy
Yên từng đồng ý là làm sao đạt tới sự
tự nhiên mà rất thơ đó: "Bậc võ công
thượng thừa không để cho thấy chỗ
tuyệt tử công phu của mình" (Nguyễn Mạnh
Trinh phỏng vấn Tô Thùy Yên trong tạp chí Hợp Lưu
số 24 tháng 09/1995). Vậy ta đừng vạch tìm, vì
công phu tập luyện của những câu thơ này chỉ
nên tiếp nhận bằng cảm tính của tâm hồn:
…Cơn
gió mơn man bờ bụi rậm
Kể
dạo quanh vườn chuyện trống không
…
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ
bỏ ngoài trăng đứng một mình
…Đau
khổ riêng gì nơi gió cát
Hè
nhà, bụi chuối thức thâu đêm
…
Nhặt tàn thuốc cũ se thành điếu
Gẫm
lại đời ta chút khói cay
Bây giờ ta mới đi
thẳng vào vấn đề: tại sao chỉ những
bài thơ bảy chữ của Tô Thùy Yên mới dồi dào
những câu thơ xuất sắc (gồm chung thơ tân
kỳ và thơ "tuyệt tử công phu" thấy
như rất đơn sơ bình thường). Tô Thùy Yên
thường sáng tác theo thể thơ mới bảy
chữ và thể thơ tự do, nên ta chỉ so sánh
để thấy sự dị biệt trong hai thể
thơ này. Ông chỉ làm một ít thơ lục bát và vài
thể thơ khác. Trong thơ tự do, có lẽ rất
thưa thớt hình ảnh tân kỳ theo phương pháp so
sánh, và cũng không nhiều những ngôn ngữ mới
lạ do hoán chuyển từ loại hoặc dùng tính từ
trạng từ ngoài quy ước văn phạm. Trái
lại, hầu như bài thơ bảy chữ nào của Tô
Thùy Yên cũng thấp thoáng hiện diện ít nhiều ngôn
ngữ thơ như vậy. Phải chăng mỗi nhà
thơ chỉ tương đắc với một thể
thơ mà thôi. Điều này thực sự không đúng khi
ta kiểm điểm các thể thơ đã dùng của
những nhà thơ nổi tiếng khác. Chỉ khi nào
đụng chạm đến thể thơ tự do thì
mới nẩy ra vấn đề tương đắc
hay không tươngthuyết đối với thơ Tô Thùy
Yên nói riêng, và đối với các nhà thơ đã từng
làm thơ tự do mà không được đắc ý.
Giả thuyết như sau: nhà thơ Tô Thùy Yên chỉ
tương đắc với thể thơ có khuôn khổ
tương đối, nghĩa là không phải khuôn khổ
quá trói buộc niêm luật ở thể thất ngôn
Đường luật. Đó là thể thơ bảy
chữ theo lối thơ mới, có hạn chế mà
cũng tự do. Ta so sánh điều này như một
chiếc diều giấy cần phải có sợi dây
nắm lại thì mới no gió mà bốc cao, vi vu trên bầu
trời. Nếu cắt dây, nghĩa là quá tự do, thì nó
lại đâm nhào xuống đất. Một so sánh cụ
thể nữa: khi có nắng ban mai mà một vòi nước
bắn vào bức tường cản trở, nước
sẽ dội lại tung tóe với hơi nước
tỏa ra tạo thành ngũ sắc cầu vồng. Nếu
không có bức tường cản trở thì vòi nước
sẽ rớt vào trống không, sáng tạo không có dịp
phát huy. Gặp giới hạn tương đối (số
chữ, số câu, nhạc tính), nhà thơ "uốn
nắn" tâm hồn để diễn tả cho
đạt tứ thơ, nẩy ra sự sáng tạo
những lời thi cảm (mỹ cảm, linh cảm, tình
cảm). Nhưng không phải tâm hồn ai cũng sáng
tạo được ngũ sắc cầu vồng. Cho dù
có bức tường ngăn cản làm "đà xuất phát"
thì cũng chẳng khác bốn bức tường kín
bưng nhốt lại tâm hồn thơ nghèo nàn của
họ.
Giả thuyết "khuôn
khổ giới hạn tương đối"
chỉ có tính cách chủ quan của người viết bài
này, khi nhận thấy sự dồi dào về ngôn ngữ
sáng tạo (tân kỳ hoặc đơn sơ tuyệt
kỹ) trong thơ bảy chữ, nghĩa là chỉ lưu
ý về hình thức văn chương. Biết đâu có
những nội dung lớn hoặc ngôn ngữ sáng tạo theo
những cách khác nữa mà ta chưa nhận ra trong thơ
tự do của ông. Nói về nội dung thì cũng là
chạm tới vấn đề sâu rộng cần phải
viết thành một bài dài hay cả một cuốn sách.
Nhưng nhân đây, ta cũng có thể liệt kê một
số nội dung có lẽ ai cũng nhận ra qua các bài
thơ mà phần lớn là thơ bảy chữ của Tô
Thùy Yên:
- Tư tưởng đau lòng cuộc chiến tranh (như bài: Qua Sông, Anh Hùng Tận, Chiều Trên Phá Tam Giang)
- Tư tưởng về nhân thế mang chất hiền triết Đông Phương (như bài: Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ; Tưởng Tượng Ta về Nơi Bản Trạch; Em Nhỏ, Làm Chi Chim Biển Bắc; Trường Sa Hành).
- Tư tưởng hoài cảm thời thế đổi thay nhưng cũng hé lộ sự lạc quan về tình người muôn thuở (như bài: Mùa Hạn, Tàu Đêm, Ta Về, Nỗi Đợi).
Nói theo nhà văn Võ Phiến,
tác phẩm lớn thường nghiêng về đề tài
siêu hình, như "Nam Hoa Kinh" của Trang Tử,
"Dịch Hạch" của Camus, "Bán Linh hồn Cho
Quỷ” của Goethe… Nhà văn nhắc đến làm ta
nhớ lại truyện phim "Địa Ngục
Môn", đây cũng là tác phẩm siêu hình nhưng cuối
cùng nhân vật tỉnh ngộ không theo về với
quỷ: "Đêm qua anh võ sĩ đạo đi
vào Địa Ngục Môn với ý nghĩ giết
người thì hôm nay bước ra khỏi Địa
Ngục Môn với áo nhà sư" (dẫn trong
"Văn Học Phân Tích Toàn Thư" của Thạch
Trung Giả, trang 529). Một bài thơ của Tô Thùy Yên, bài
"Trường Sa Hành", cũng mấp mé ở biên
bờ siêu hình đó.
Ta đang bàn về thể
thơ, về sáng tạo ngôn ngữ thơ, nghiêng về
mỹ cam của hình thức văn chương. Ta cũng
mới lướt qua về nội dung tư tưởng.
Hình như quá ít lời về tình cảm trong thơ.
Vậy thì xin nói luôn: theo thiển ý thì bài thơ "Tàu
Đêm" của nhà thơ Tô Thùy Yên làm ta cảm
động hơn hết. Hình như chuyến tàu xe lửa
nào cũng buồn. Nhưng chuyến tàu trong bài thơ
"Vu Vơ" của Tế Hanh hoặc "Chuyến
Tàu Đêm" của Nguyễn Bính là những nỗi
buồn biệt ly thông thường thời bình yên, đi
làm ăn tạm thời xa nhau. Cái buồn trong bài thơ
"Tàu Đêm" của Tô Thùy Yên lắng đọng
hơn nhiều; có liên hệ đến một thời
chiền tranh lớn trong lịch sử Việt Nam:
Tàu
đi khoan xoáy sâu đêm thép
Tiếng
nghiến ghê người, thác lửa sa!
Lịch
sử dường như rất vội vã
Tàu
không đỗ lại các ga qua.
Ôi
những nhà ga rất cổ xưa
Dường
như ta đã thấy bao giờ
Đến
nay, người giữ ga còn đứng
Đèn
bão đong đưa chút sáng mờ.
Tàu
qua những ruộng đồng châu thổ
Hiu
hắt làng xa mấy chấm đèn
Đêm
ở nơi đây buồn lặng lặng
Cái
buồn trải nặng mặt bằng đen.
Hỡi
cô con gái trăng mười bốn
Đêm
có nằm mơ những hội xuân
Đời
có chăng lần cam dối mẹ
Nhớ
thương nào giấu thấm vành khăn?
…….
Tàu
ơi hãy kéo còi liên tục
Cho
tiếng rền vang dậy địa cầu
Lay
động những tầng mê sảng tối
Loài
người hãy thức, thức cùng nhau.
Chuyến Tàu Đêm chở
đoàn tù biệt xứ đi ra ngoài Bắc qua thơ Tô
Thùy Yên như một lời trăn trối, thấy ngày mai
vô định. Với viễn tượng đi tới
cuối đời nên trong đó pha trộn hoài niệm
thời thơ ấu; nhớ niềm vui nơi thành phố
đông đúc xưa; một chút trữ tình gợi
đến những lời hát dân gian khi tàu chạy qua các
làng mạc im lìm ở ngoài Bắc; tự cảm thấy là
một phần tử dưới bánh nghiến lịch
sử; kêu gọi nhân thế thức dậy vì hình như
mọi người đều lãng quên chuyến tàu vô định
đang lao vào bóng đêm./
Trần Văn Nam
(bổ túc bài viết trong tạp chí Khởi Hành, số 26)https://www.luanhoan.net/timhieutgtp/NhungBaiGioiThieuSach/nam-yen.htm
No comments:
Post a Comment