Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 9 May 2019

NGUYỄN THIÊN THỤ * SẤM TRẠNG TRÌNH

10Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.net-Bản Trịnh Vân Thanh, 1966.-Bản Phạm Đan Quế ,1992.3. Bản HƯƠNG SƠNBản này do Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập. Bản này vốn ở quyển Lục Nhâm Bát Sát, Độn Thái Ất, phụ thêm Sấm Trạng Trình, Hương Sơn, Hà NỘi xuất bản trước 1954, sách 70 trang, Sấm Trạng Trình từ trang 48-68.Khởi đầu: Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng. . .Kết thúc: Gió mây ta lại đi về gió mây.-Bản Bạch Vân Ca của Nguyễn Quân, Sống Mới, Saigon, 1974 giống bản Hương Sơn.-Theo một bạn đọc, bản này cũng giống bản Nam Ký phát hành năm 1948 , do Bùi Xuân Tiêu và Nguyễn Can Mộng lấy từ bản VH-2261 của kho sách Viện Viễn Bác Cổ, mở đầu có câu :"Nước nam thường có thánh tàiSơn Hà vững đặt mấy ai rõ ràngKìa Nhị Thuỷ, nọ Đảo SơnBãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho Học cách vật mới dò tới chốn. . ."Bản này cócấu trúc đặc biệt là có nhiều bài thơ theo nhiều loại khác nhau như ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt,thất ngôn bát cú, lục bát và song thất lục bát.Bản này có lẽ do người sau ghi lại các câu sấm truyền tụng trong dân gian chứ không phải của Trạng Trình, hoặcxáo trộn các đoạn trong sấm trạng Trình mà tạo thành . Việc này do biên chép vô ý hoặc cố ý.Bản nôm của Nguyễn Văn Sâm nhan đề khác với các bản: 古庵先生讖歌文Cổ Am Tiên Sinh Sấm Ca Văn.Bản nôm này giống bản Hương Sơn từ câu đầu: Nước Nam thường có thánh tài,Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràngđến bài thơ 14 của bản Hương Sơn.Can qua việc nước bời bờiTrên thuân lòng trời dưới đẹp lòng dân.Lục thất dư ngũ bách xuânBấy giờ trời mới xoay vần nơi nao.Thấy sấm tự đấy chép vàoMột chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.Câu kết của bản Hoàng Xuân cũng giống:
11Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netThấy sấm tự đấy chép vàoMột chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.(247-48)Đọc kỹ nội dung bản này, ta thấy bản này viết sau thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn Ánh vì trong bản này có những chữ như lời ngạn, phương ngôn( Nguyễn Văn Sâm), nghĩa là những câu đó đã truyền tụng rất lâu trước khi tác giả cầm bút. và các câu Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong,Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân/Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền/Phụ nguyên chính thống hẳn hoi...Đó là những sản phẩm của đời Nguyễn, không phải của Nguyễn BỈnh Khiêm.4. BẢN WIKISOURCE 2010Bản này chép bản Mai Lĩnh 1939 và bản Anh Phương (1960?)Nói chung, dù trên 20 bản, chỉ có ba dị bản chính thức như đã so sánh và trình bày ở trên. sự khác biệt này có thể do nhiều người soạn chứ không phải riêng Trỉnh Quốc Công, vì chính tôi cũng có một bản sấm ký chữ nôm của Trạng Trình và một bản của Phùng Khắc Khoan sẽ trình bày sau. Có những bản cùng nguồn gốc nhưng có sửa đổi vài câu vài chữ.Bản Minh Điền là một chêm dặm. Theo Phạm Đan Quế, bản này giống bản Anh Phương 22 câu, từ câu 374 đến câu 431, ngoài ra các câu khác hoàn toàn lạ lùng. Nhưng chính Phạm Đan Quế đã trích dẫn 50 câu đầu và 30 câu cuối của bản này thì thấy là hơn 120 câu giống chứ không phải chỉ 22 câu .Nay chúng tôi công bố bản Phùng thương Thư Ký là một bản đã có từ lâu nhưng chưa ai phiên dịch. Đọc bản này thì cho thấy rằng ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có Phùng Khắc Khoan cũng soạn Sấm Ký. Còn có ai nữa không? Bản của Phùng Khắc Khoan có vài đoạn giống bản củaNguyễn Bỉnh Khiêm.IV.TÍNH CHẤT CỦA CÁC BẢNNhìn chung, các bản có chung một vài điểm sau:1. Tính bí mật:Sấm Ký mang tính cách bí mật thuộc phạm vi quốc cấm, phải cất kín cũng như Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh, chỉ bàn bạc với người thân mà thôi. Thái độ của nhân dân đối Sấm Ký khác với Lục Vân Tiên và truyện Kiều. Ấy cũng bởi ngày xưa các nho sĩ dùng Sấm ký để chống triều đình , chống Pháp, mà bọn tay sai cũng dùng sấm ký vu oan giá họa cho dân lành cho nên quan quân đã bắt bớ dân chúng, và người ta phải cất giấu các tài liệu này.2. Tính thiếu chân thực: Thói quen của ta là tự tiện sửa chữa, thêm bớt các bản chính cho nên truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã bị tam sao thất bản.. Nhiều người sau này sửa sấm ký hoặc bóp méo văn nghĩa cho vừa khuôn khổ quyềnlợi của phe nhóm họ.3.Tính không thống nhất:
12Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netCó thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau.Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ.Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước.Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : "Đào Tiền xử sĩ... nam thành quốc gia"nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây).Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu.4. Tính mơ hồ:Các bản có chỗ thần diệu nhưng cũng có chỗ mơ hồ, giống các bản của Sư Vải Bán Khoai, Huỳnh Giáo chủ và Thanh Sĩ. . . chỉ nói tí , sửu ,dần, mẹo. . . rất mơ hồ trong khi các bản Kim Cổ Kỳ Quan và Tứ Thánh thì rõ ràng hơn.V. CÁC VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬNA. CÁC TỪ NGỮ1. Quốc hiệu Việt Nam.Bản Mai Lĩnh 1939 ở gần đoạn đầu có câu: Việt Nam khởi tổ gây nền,/ Lạc Long ra trị đương quyền một phương (câu 7-8).Đời Nguyễn nước ta có quốc hiệu Việt Nam. Sấm Trạng trình cách nhà Nguyễn mấy trăm năm sao lại ghi Việt Nam? Ai đó sửa lại hay ngày xưa cụ Trạng đã biết mấy trăm năm sau quốc hiệu là Việt Nam?Tự điển Wikipedia giải thích về Quốc hiệu Việt Nam:Quốc hiệu Việt Nam(越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh thổ nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện họcsĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy
13Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netMôn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).Ông Nguyễn Phúc Giác Hải ở Hà Nội cho biết:Khi nghiên cứu tập sấm này, đến bản AB 444 trong kho sách của Viện Hán Nôm, tôi bất đồ tìm thấy hai chữ Việt Nam ngay trong những dòng đầu tiên: Việt Nam khởi tổ xây nền. Theo quan niệm chính thống, hai chữ Việt Nam không được phép có mặt trước năm 1804, trong khi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lại sống cách ta 500 năm. Vấn đề đặt ra là có thật hai chữ Việt Nam đã được dùng cách đây hơn 500 năm để chỉ tên gọi đất nước? Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm còn những ai đã dùng danh xưng Việt Nam? Liệu có những bằng chứng khảo cổ về vấn đề này? Song lúc đó không có điều kiện tiếp xúc với bản gốc nên phải tạm gác lại. Đến 1980, khi được tiếp xúc với bản gốc, tôi đã dành hơn 20 năm nay để nghiên cứu. . . .Sau khi đọc được bản gốc Sấm Trạng Trình, tôi đã khẳng định được hai tiếng Việt Nam đã được sử dụng từ thế kỷ 15. Song bản sấm này được truyền lại qua những bản chép tay, cũng không ai dám chắc tác giả là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi liền chuyển qua tra cứu thơ văn của cụ để so sánh. Thật bất ngờ, hai tiếng Việt Nam được cụ nhắc tới bốn lần: Trong tập thơ Sơn hà hái động thường vịnh (Vịnh về núi non sông biển) đã đề cập tới. Rõ hơn, trong các bài thơ gửi trạng Giáp Hải, cụ có viết: "Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại, Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam"; còn trong bài gửi trạng Nguyễn Thuyến, "Tiền đồ vĩ đại quân tu ký / Thùy thị công danh trọng Việt Nam".Dẫu sao, đó cũng mới chỉ là những văn bản chép tay. Để khẳng định thêm, tôi đã đi tìm trong bi ký (bài ký trên bia đá). Nhờ một số nhà khoa học Viện Hán Nôm, tôi đã tìm ra trong bia trùng tu chùa Phúc Thánh (Quế Võ, Bắc Ninh) năm 1664, phần bài Minh có câu Việt Nam cảnh giới, Kinh Bắc thừa tuyên. Sau đó là bia trùng tu chùa BảoLâm (Chí Linh, Hải Dương) năm 1558, Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ, bia chùa Cam Lộ (Hà Tây), năm 1590, Chân Việt Nam chi đệ nhất. Tuy nhiên, phát hiện quan trọng nhất là tấm bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn do trấn thủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộcsoạn năm Cảnh Trị thứ tám (1670), có câu : Việt Nam hầu thiệt trấn bắc ải quan (Cửa ải phía Bắc Việt Nam). Đây là tấm bia có niên đại muộn hơn song nó có danh tính người soạn, hơn nữa đây là một mệnh quan triều đình, là phát ngôn chính thức.Cho đến nay,sau tôi một số nhà nghiên cứu khác đã phát hiện tổng số 12 bia có hai tiếng Việt Nam. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16, 17. Ngoài ra, còn một bản in khắc gỗ có danh xưng Việt Nam năm 1752. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu, và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng, sử dụng nhiều nhất và có ý thức nhất.http://cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=3755&/Ai-dat-quoc-hieu-Viet-Nam-dau-tien.csvNhư vậy, chúng ta có thể nói rằng từ thế kỷ 15, người Việt Nam đã dùng danh hiệu Việt Nam, Nam Việt, nước Nam, Đại Việt để chỉnước ta. Và cũng có thể Trạng Trình ở thế kỷ 16 đã biết ở thế kỷ 19, nước ta chính thức mang quốc hiệu Việt Nam.




14Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.net2. Thánh:Các bản đều nói thánh nhân hay thánh vương tức là nói người làm vua như nói về Lê Hoàn "Lê gia xuất thánh minh"chứ không có nghĩa là bậc thánh như Khổng Tử, Mạnh tử. . . Vua thì có người hiền kẻ ác chứ không phải hoàn toàn là người nhân đức.3.Hoàng giang, Bảo Giang. Thầy Nhân Thập:Các bản đều có danh từ này: nhiều người giải thích khác nhauB. CÁC CÂU, CÁC ĐOẠN1. Các câu giống nhau:(a).Hai bản Mai Lĩnh và Anh Phương :-Hai bản thường khởi đầu bằng các câu sấm đời trước như của Vạn Hạnh, và các tác giả vô danh đời trước. Hòa đao mộc lạc.. ./ Thập bát tử thành.-Tan tác Kiến kiều tan đất nước,/Xác xơ cổ thụ sạch an mây.(AP 49; ML 381)-Uy nghi dung mạo khác mình/ Thác cư một góc kim tinh phương đoài(AP 125, ML 141)(b). -Bản Anh Phương với bản Hương SơnNước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.(HS. 1; AP:105)(c). Mai Lĩnh và Hương SơnThủy trung tàng bảo cái.... Đông Tây vô sự nam thành quốc gia.(ML 446-487; HS, 26)-Phá điền đầu khỉ cuối thu. . . Tái binh mọi giống thập thò liền sang.(HS.16;ML 199)-Thủy binh cờ xí vừng hồng.. .Bắc binh sang có việc gì chăng?... Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán...(ML 83; HS 12)-Bách tính khổ tai ương... Đông tây vô sự nam thành quốc gia.(ML467-487; HS 26)-Bắc phương chính khí sinh ra/ Có ông Bạch xỉ (sĩ) điều hòa hôm mai.(ML 135; HS16 )-Man mác một lĩnh Hoành Sơn/Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù( ML 195; HS 16)-Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh/ Sông Bảo giang thiên định ai hay.
15Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.net(ML 125, 257; HS 17 )Bắc kinh mới thật đế kinh/ Giấu thân chưa dễ giấu danh đục nào.(ML 238; HS 16)Quần hùng binh kéo đầy khe/ Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời.. .Thương những kẻ ăn rau, ăn giới.(ML 103; HS 16 )Canh tân ( niên) tàn phá/ Tuất hợi phục sinh(ML 395; HS 18)Ma vương sát đại quỷ/ Hoàng thiên tru ma vương/Kiền khôn phú tái khôn lườngCơ nhị ngũ thư hùng vị quyết/ Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân.(ML 475; HS 26 )-Phân phân đông (tùng ) bắc khởi.. Bất chiến tự nhiên thành( ML 443; HS 26)-Tộ trường nhị thập ngũ/ Vận khải ngũ diên trường(ML 462; HS 26)-Nực cười những lũ bàng quan/Cờ tàn lại muốn toan đường đấu xe (AP 125; HS 26)(d).Ba bản giống nhau:-Bắc hữu kim thành trángNam hữu ngọc bích thành( AP,214; ML 426-427, HS, 25)-Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh. . .kiến thái bình.(ML 398; HS 24, AP 171)-Cửu cửu càn khôn dĩ định. . . Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.(AP151; ML 410; HS 21)-Xem ý trời có lòng khải thánh/ Dốc sinh ra điểu đỉnh hộ mai.(AP 131, ML 131, HS 16)-Có thầy Nhân thập đi về/ Tả phù hữu trì cây cỏ thành binh.AP 231, (ML 261; HS 17)-Bảo giang thiên tử xuất/ Bất chiến tự nhiên thành(AP 217; ML 415; HS 25 )-Phú quý hồng trần mộng,Bần cùng bạchphát sinh(AP209, ML 430; HS 25)-Thái nguyên cận Bắc đường xa(AP 123; HS 14; HS 14)2. Các câu được giải thích để tuyên truyền:(1). Thấy đâu bò đái thất thanh/ Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng sai.(HS 14)Một bản giải thích:Ở Bắc Kạn có khe Bò Đái. Một bản ghi:Nghệ An Bò Đái thất thanh.Một bản khác ghi:Nam Đàn Bò Đái Thất thanh.Trong quyển La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn có trích thơ Nguyễn Thiếp, bài Gặp người đánh cá ở sông PhùThạch,HXH nói đến câu ca dao
16Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netĐụn sơn phân giái/ Bò Đái thất thanh/Đông Thành sinh thánh.Huyện Đông Thành ở phủ Diễn châu, còn Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh ở huyện Nam Đàn, phủ Anh Đô. Chính trong bài thơ trên, Nguyễn Thiếp viết:"Núi Liệt lở, Song Ngư nước cạn, /Sấm người xưa đánh lẫn dân ngu(tr.62)Chữ Hán tên là LaoTuyền, HXH nói tên tục là Bò Đái không biết có đúng không vì Lao Tuyền là Khe Bò mà thôi.(2).Đầu can võ tướng ra binh/ Ắt là trăm họ thái bình âu ca(AP 197)Thái Bạch giải thích Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra binh năm giáp thân (1944).(3). Thánh nhân hươngCó người theo bản Hương Sơn giải thích1.Thánh nhân hương2-Thuỷ trung tàng bảo cái ( bài 19 và bài 26)VI. KẾT LUẬNSau khi nghiền ngẫm khoảng 20 bản, tôi thấy quanh đi quẩn lại chỉ có ba phiên bản chính, được nhiều người sử dụng :-Mai Lĩnh-AnhPhương-Hương Sơn.Trong ba bản, theo thiển kiến, bản Mai Lĩnh tức bản Sở Cuồng là đáng tin cậy nhất. Hai bản kia có lẽ chỉ là ghi chép những câu sấm truyền trong dân gian. Đây cũng chỉ là giả thuyết chờ sau này ai đó nghiên cứu thêm nhiều bản nôm thì rõ hơn.1.Mai Lĩnh:Bản Mai Lĩnh chính là bản đầu tiên là bản Sở CUồng in năm 19302.Hương Sơn:Đoạn kết giống Mai Lĩnh 2:Sau một thời gian sống với cộng sản ( Ta hồ vô phụ vô quân), nước ta sẽ thái bình như thời hoàng kim.3.Anh Phương:Đoạn kết giống Mai Lĩnh 1: sau này có " thầy Nhân Thập" về cứu nước.Các bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh và Sơn TRung có liên quan đến Phùng Thượng Thư Ký. Bản này có chú thích của Tiền nhân trước 1937 là năm cụ Nghè Bân mất. Các bản khác cũng chỉ thêm thắt và xáo trộn bản chính. Theo quyển Phùng Thượng Thư Ký, chủ yếu sấm ngữ là nói về giaiđoạn Lê Mạc cho đến Trịnh Nguyễn và qua nhà Nguyễn. Như vậy có lẽ sấm không đi vượt thời gian 1945 là năm nhà Nguyễn mất.Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian(Sơn Trung ,4)Chữ rằng lục thất nguyệt gianAi mà nghĩ được mới gan anh tàiHễ nhân kiến đã dời đất cũ
17Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netThì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh raBốn phương chẳng động can quaQuần hùng các xứ điều hoà làm tôiBấy giờ mở rộng qui khôiThần châu thu cả mọi nơi vạn toàn.(SC, 117-124)Quyển vàng mở thấy sấm trờiTừ Ðinh đổi đời chí lục thất gian(SC,483-84)Hòa đao mộc lạc,Thập bát tử thành,Ðông A nhật xuất,Dị mộc tái sinh.Chấn cung xuất nhật,Ðoài cung vẩn tinh.Phụ nguyên chì thống,Ðế phế vi đinh.Thập niên dư chiến,Thiên hạ cửu bình.(Anh Phương, 7-16)205.Kể từ đời Lạc Long Quân,Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian.(Anh Phương, 205-06)Nói chung, đa số nói về các sự lịch sử cho đến cuối nhà Nguyễn năm 1945. Tuy nhiên, nhiều nhà biên khảo cho rằng Sấm Trạng Trình có giá trị lâu dài. Việc này cũng tùy văn bản, như bản Anh Phương:" Ô hô thế sự tự bình bồng,Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,Tứ phương thiên hạ thái bình phong "(95-102)i này đưa ra nhiều vấn đề. Thời Lê mạt, Nguyễn sơ, nước ta chưa có đường sắt và xe lửa. Pháp khởi công làm đường sắt năm 1881 đầu tiên đi từ cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn dài 13 km. Chuyến tàu đầu tiên khởi hành ở Việt Nam là vào ngày 20 tháng 7 năm 1885. Trong chiến tranh từ 1945 cho đến 1975, cộng sản thực hiện tiêu thổ kháng chiến, phá cầu, phá đường, đắp mô, giật mìn gây trở ngại giao thông cho dân chúng. Thời chiến tranh, hai miền Nam Bắc phân ly, đường sắt đứt nối nhiều đoạn.Năm 1975, Việt Namthống nhất , năm 1986, Chính phủ Việt Nam tiến hành khôi phục lại các tuyến đường sắt chính và các ga lớn, đặc biệt là tuyến Đường sắt Bắc Nam. Tuy nhiên, vẫn có
18Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netcâu hỏi: Phải chăng là đường sắt cao tốc mà Trung Cộng muốn làm? Hồ ẩn sơn trung Mao tận bạch, phải chăng là đường sắt này sẽ thực hiện , hay thực hiện xong sau khi HỒ CẨm Đào về hưu? mao tận bạch là gì? Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì? Là trận thủy chiến ngoài Trường Sa, Hoàng Sa năm 1974 giữa Trung Cộng và VNCH? Là cuộc chiến giữa Việt Cộng-Trung Cộng năm 1988? Và cuộc thế chiến ba ở biển Đông? Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.Câu này không rõ.Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,Tứ phương thiên hạ thái bình phong.Chờ khi Hoa Kỳ( chim ưng) đánh vào Hoa lục ( sư tử) thì thiên hạ mới thái bình!_______(1). Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm , quyển I, Thư viện Quốc Gia, Hà Nôi, 1970,tr. 87).( 2). Phạm Đan Quế, Giai Thoại và Sấm Ký Trạng Trình; Văn Nghệ TP HoChi Minh, 1992; 78-79)(3). Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bạch Vân Am Thi Tập. Nhà xb.HochiMinh, 1997, 379-402ĐIỂN SẤM TRẠNG TRÌNHSấm Trạng trình có nhiều bản khác nhau nhưng các bản này vẫn có những đoạn giống nhau. Trước đây, trongấn bản Sơn Trung, chúng tôi đã chú thích các bản Sấm Trạng Trình. Như đã nói, chúng tôi đã có bản nôm Trình Quốc Công Ký và bản nôm Phùng Thượng Thư Ký mà bạn tôi, ông Trương Quang Gia đã phiên âm từ 1990. Nhưng người nghiên cứu vẫn để yên trong




19Sm Trng Trình Toàn Tp -Nguyn Thiên Thwww.vietnamvanhien.netngăn tủ, nay mới đem ra xem xét cẩn thận, thì thấy người xưa đã chú thích phần lớn. Nay đem cả chú thích mới và cũ tập họp lại theo dạng tự điển để độc giả tiện tra cứu.Bạch sĩ : chưa rõBảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giangsinh thánhSông Bảo Giangđã định ai hay): không rõ nghĩaBắc hữu kim thành trángNam tạc ngọc bích thành Hỏa thôn đa khuyển phệMục giả dục nhân canh(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230)Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn?u, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.Cửu cửu càn khôn dĩ định,Thanh minh thời tiết hoa tàn.Trực đáo dương đầu mã vĩ,Hồ binh bát vạn nhập Trường An.(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168))Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản sau này nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954.Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có chữ nhật.Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.Đao: Xem Hòa đao mộc lạc.Điếm tuần: điếm là nơi canhgác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi.Đỉnh Hoành sơn:( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn




No comments:

Post a Comment