Ông đạo Dừa là ai?
Sinh ngày 25/12/1909 tại làng Phước Thạnh, tổng An Hòa, quận Trúc Giang, tỉnh Kiến Hòa.
Nguyễn Thành Nam là con cả trong một gia đình gồm 14 anh em. Cha ông
là cai tổng Nguyễn Thành Trúc, có 2 vợ. Vì là con cả nên khi lập ra đạo
Dừa, Nguyễn Thành Nam được các tín đồ gọi là “cậu Hai”.
Sau khi hoàn tất bậc sơ học ở An Hòa, ông sang Mỹ Tho học tiếp rồi
lên Sài Gòn, vào Trường Pétrus Ký (Trương Vĩnh Ký). Năm 1928, Nguyễn
Thành Nam qua Pháp, học ngành Hóa tại Trường cao đẳng Hóa chất ở thành
phố Rouen, cách Paris khoảng 150km về phía đông bắc. Cũng có tin nói
rằng ông đã tốt nghiệp kỹ sư Hóa ở Đại học Sorbone nhưng theo nhà báo
Wilbur E. Garrett, ông chỉ học bậc cao đẳng, mà học trường tư.
Năm 1932, Nguyễn Thành Nam về nước. Cuối năm 1935, đám cưới “cậu Hai”
với cô Lộ Thị Nga, người Gò Công được tổ chức linh đình, kéo dài suốt 4
ngày. Hai năm sau, bà Nga sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Thị
Khiêm. Đó cũng là người vợ và đứa con duy nhất của ông “đạo Dừa”.
Sau khi lấy vợ, thay vì ra làm việc cho bộ máy cai trị của thực dân
Pháp, thấy Bến Tre là xứ có nhiều dừa nên Nguyễn Thành Nam nghĩ ngay đến
việc sản xuất xà bông. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, hãng xà bông Thiên
Nam của ông sập tiệm vì không cạnh tranh nổi với xà bông Cô Ba, tên
thật là Trần Ngọc Trà (còn được gọi là cô Ba Trà), vợ của doanh nhân
Trương Văn Bền, người đi đầu trong ngành sản xuất xà bông ở miền Nam.
Thất bại trong kinh doanh, năm 1945 Nguyễn Thành Nam bỏ nhà ra đi.
Cho đến bây giờ, chuyện “cậu Hai” lên núi này, chùa kia tu hành chỉ là
chuyện “nghe kể lại” nhưng 5 năm sau, khi trở về xã Phước Thạnh, “cậu
Hai” dựng đài bát quái cao 14m, đêm đêm lên ngồi tu niệm, thức ăn chủ
yếu là trái dừa vào những ngày lẻ, còn ngày chẵn thì bắp nấu, đậu luộc,
trái cây và chỉ ăn đúng giờ Ngọ.
Mỗi năm “cậu” tắm một lần vào rằm tháng 4 âm lịch. Nhà báo Wilbur E.
Garrett viết: “Sát bờ cồn Phụng, ông đạo Dừa thuê làm một chiếc tàu bằng
sắt, trang trí rồng phượng cùng hoa hòe hoa sói lòe loẹt, gọi là thuyền
Bát Nhã. Ở khoảng trống trước mũi thuyền, ông đặt những chiếc ghế cho
khách ngồi. Mỗi khi có các nhà báo đến phỏng vấn, quay phim, ông ngồi
trên chiếc đôn bằng đá, hai đệ tử đứng hai bên, trước mặt đặt cái điện
thoại đã cắt đứt dây mà theo lời ông, ông chỉ cần liên lạc bằng tâm
linh! Chính hai đệ tử này là người trả lời những câu hỏi của khách,
thỉnh thoảng ông mới viết ra giấy để họ kể thêm về những chi tiết ông
quên nói ra…”.
Năm 1960, ông “đạo Dừa” gây ra một chuyện kinh thiên động địa. Ấy là
ông viết thư cho Ngô Đình Diệm để bàn về giải pháp hòa bình, trong đó
ông đề nghị Diệm cho tất cả các sĩ quan, tướng tá, binh lính giải ngũ về
làm dân, không còn ai cầm súng là sẽ có hòa bình ngay tắp lự! Trong
thư, ông tự xưng mình là “Thiên nhơn giáo chủ”, có nhiệm vụ xuống thế
gian để khôi phục lại nền hòa bình vĩnh cửu cho loài người, và “Hòa đồng
tôn giáo” do ông lập ra (bao gồm Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và đạo
Thiên Chúa) là cứu tinh của nhân loại. Cuối thư, ông đề nghị Diệm công
nhận “Hòa đồng tôn giáo” là… quốc giáo!
Lẽ dĩ nhiên lá thư đó chẳng bao giờ đến tay Ngô Đình Diệm. Một tuần
lễ kể từ khi gửi thư, bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu Sở Nghiên
cứu chính trị sai mật vụ xuống bắt Nguyễn Thành Nam rồi giam tại Ty Cảnh
sát Kiến Hòa. Sau nhiều ngày xác minh, thẩm vấn, mật vụ kết luận “cậu
Hai” bị điên bởi lẽ nằm trong trại giam, ngoài cách nói chuyện kỳ quặc,
“cậu Hai” còn lấy chiếc chiếu quây thành vòng tròn, mọi chuyện ăn uống,
ngủ nghỉ, phóng uế, “cậu” đều làm ở trong đó, mùi hôi thối xông lên nồng
nặc!
Lẽ ra, họ tống “cậu” vào Dưỡng trí viện Biên Hòa (nay là Bệnh viện
Tâm thần Biên Hòa) nhưng do gia đình bảo lãnh nên Sở Nghiên cứu chính
trị tha “cậu” về quê. Tuy nhiên, Trần Kim Tuyến ra lệnh nếu để “cậu Hai”
lọt lên Sài Gòn thì các trưởng ty cảnh sát Kiến Hòa, Định Tường, Long
An mất chức hết.
Những hành động “khó đỡ” của ông đạo Dừa
Trở lại quê nhà, ông “đạo Dừa” Nguyễn Thành Nam chọn cồn Phụng làm
nơi tu hành. Việc xây chùa Nam Quốc Phật, sân Chín Rồng, đóng thuyền Bát
Nhã, tháp Hòa Bình (gồm hai tháp là “miền Bắc Hà Nội, miền Nam Sài
Gòn”) với màu sắc rực rỡ, cờ phướn lòe loẹt đã khiến nhiều người đến xem
vì tò mò. Dần dà, nghe ông Nam giảng đạo, số đệ tử gia nhập “đạo Dừa”
ngày một tăng lên.
Nhà báo Wilbur E. Garrett giải thích: “Phần lớn dân quê khi ấy đều ít
học trong lúc những bài giảng của ông đạo Dừa lại giản dị, dễ hiểu, dễ
đi vào lòng người. Bằng cách pha trộn giáo lý Phật giáo, Thiên Chúa giáo
với tư tưởng đạo Lão, đạo Nho, khuyên bảo con người làm lành lánh dữ,
lấy chữ “Tâm”, chữ “Đức” làm trọng, cộng với những chuyện thần quyền kỳ
bí nên số người theo ông mỗi ngày một nhiều. Hơn nữa, thời điểm ấy chính
quyền Ngô Đình Diệm không bắt lính trong giới tăng lữ, tu sĩ nên rất
nhiều thanh niên vào đạo để trốn quân dịch, kể cả một số tội phạm cũng
vào đạo để tránh truy nã”.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1960 trở đi, càng ngày “cậu Hai” càng “lâm”
nặng những chuyện mê tín dị đoan. Mỗi lần mở lời, ông Nam đều xưng mình
là người từ cõi trên xuống, được giao sứ mệnh “giữ yên vận mạng quốc
gia, kiến tạo hòa bình thế giới”. Ông cho rằng chỉ một mình ông mới đủ
tư cách đại diện Việt Nam để gặp gỡ ngang hàng với bất kỳ một tổng
thống, quốc vương hay thủ tướng nào trên thế giới. Ông coi Đức Giáo
hoàng, người lãnh đạo tinh thần của Thiên Chúa giáo, Đức Tăng thống,
lãnh đạo tinh thần của Phật giáo là những người “bằng vai phải lứa” với
ông vì theo ông: “Mai mốt Hòa đồng tôn giáo sẽ thống lĩnh tất cả”(?!).
Và mặc dù Cảnh sát Kiến Hòa theo lệnh Trần Kim Tuyến giám sát ông
“đạo Dừa” rất chặt chẽ nhưng không ai cấm ông viết thư, nên ngày
2/10/1961, ông lại gửi thư cho Ngô Đình Diệm, đề nghị được sang Angkor
Thom, Angkor Vat, tỉnh Siem Reap, Campuchia để cùng 18 “ông đạo” khác,
cầu nguyện cho hòa bình. Ngày 15/10, đích thân viên Phó ty Cảnh sát Kiến
Hòa đến cù lao Phụng gặp ông, thông báo “cấm cậu Hai ra khỏi nơi cứ
trú, chuyện hòa bình có chính phủ lo”.
Quyết không bỏ cuộc, cuối năm 1962, “cậu Hai” cùng 18 đệ tử bí mật
chuẩn bị một chiếc ghe bầu với đầy đủ lương thực, dự định ngược dòng
Mekong lên Phnôm Pênh rồi từ đó đi biển Hồ, Siem Reap nhưng ghe vừa khởi
hành chưa được bao xa thì đã bị lực lượng Giang cảnh phát hiện, chặn
lại khám xét rồi đuổi về. Đến sáng mùng 2 tết Nhâm Dần, ông lại cùng 18
đệ tử lặng lẽ xuống Châu Đốc, sang Campuchia. Nhưng khi đoàn của ông đến
Phnôm Pênh thì bị cảnh sát bắt giữ vì nhập cảnh trái phép.
Nghe được tin này, cháu ruột ông Nam là bà Huyền (pháp danh Diệu Ứng –
người mà năm 1971 sẽ đứng chung liên danh tranh cử tổng thống với ông,
làm phó tổng thống) đã đến Ty Cảnh sát Kiến Hòa trình báo. Biết rằng cấp
ty không giải quyết được, viên trưởng ty gọi lên Tổng nha Cảnh sát ở
Sài Gòn. Cuối cùng, đích thân Trần Kim Tuyến phải can thiệp với Cảnh sát
Campuchia nên ông “đạo Dừa” mới được thả.
Wilbur E. Garrett viết: “Đảo chính lật đổ anh em Diệm Nhu nổ ra vào
ngày 1/11/1963 thì chỉ 15 ngày sau, Nguyễn Thành Nam lên Sài Gòn. Lần
này ông đi công khai với cờ quạt kèn trống vì lệnh giám sát ông đã tan
theo cùng với sự sụp đổ của chính quyền họ Ngô. Tại trụ sở Hòa đồng tôn
giáo ở Phú Lâm, ông “đạo Dừa” thảo một văn bản, đề nghị Hội đồng quân
nhân cách mạng cho ông ra nước ngoài để gặp gỡ lãnh đạo các nước Anh,
Pháp, Mỹ, Nhật…, bàn việc “hòa bình cho Việt Nam”.
Văn bản gửi đi nhưng không hề có hồi âm bởi lẽ lúc đó, những người
cầm đầu cuộc đảo chính trong Hội đồng quân nhân cách mạng còn phải giải
quyết nhiều vấn đề nên hơi đâu mà họ để ý đến một người nửa điên nửa
tỉnh như ông.
Không ra nước ngoài được, ông viết thư gửi Tổng thống Kennedy của Mỹ,
Thủ tướng Wilson của Anh, Tổng thống Charles de Gaulle, Pháp… thông qua
Tòa Đại sứ của các quốc gia này ở Sài Gòn, đề nghị được tiếp kiến.
Nhưng cũng như văn bản gửi Hội đồng quân nhân cách mạng, cho đến lúc ông
chết (1990), “đạo Dừa” Nguyễn Thành Nam chưa bao giờ nhận được câu trả
lời từ những nguyên thủ này.
Theo Ly Le
No comments:
Post a Comment