Đi tìm chìa khóa giải mã 'sự im lặng' của Hòa thượng Trí Quang
Sự 'im lặng' của
Hòa thượng Thích Trí Quang, một lãnh tụ của các phong trào đấu tranh sôi
động của Phật giáo Việt Nam thời chiến, người được cho là đã từng làm
'rúng động' nước Mỹ, từ sau ngày 30/4/1975 có thể được nhìn nhận như thế
nào là một chủ đề được các khách mời Bàn tròn thứ Năm tranh luận tuần
này.
Bên cạnh đó, các ý kiến cũng gợi ý những cách tiếp cận đối
với sự thật lịch sử khi cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi thực chất
nhân vật lịch sử và giai đoạn lịch sử đầy biến động, có liên quan tới
các phong trào Phật giáo Việt Nam và vai trò lịch sử của Hòa thượng Trí
Quang, người vừa qua đời ở Việt Nam, hưởng thọ 96 tuổi, ra sao.
Trước hết, từ California, Hoa Kỳ, ông Mặc Lâm, nhà báo
từng nhiều năm làm việc tại RFA Tiếng Việt, nêu quan điểm với cuộc hội
luận hôm 14/11/2019:
"Về sự im lặng của Hòa thượng Thích Trí Quang
từ sau tháng Tư 1975 đến bây giờ, chúng ta ai cũng ngạc nhiên và có rất
nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh thái độ này của Hòa thượng.
"Nhưng
chúng tôi nghĩ rằng, chung quy đó là quyền tự do biểu đạt của từng
người một trong thế giới này và khi Hòa thượng đã xuống đường, đã đem
bàn thờ Phật xuống đường hay là là đã biểu tình (tuyệt thực) trong vòng
100 ngày, cũng như những hoạt động khác, để chống lại một chế độ mà Hòa
thượng cho rằng đã không phù hợp với Việt Nam, thì đó cũng là một quyền
tự do của người tu hành, kể cả người tu hành đó là Phật giáo, Công giáo
hay bất cứ một tôn giáo nào khác.
"Chúng tôi rất trân trọng những
chuyện đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam bao nhiêu năm nay, mà Hòa
thượng không lên tiếng một chút nào, thì người dân cũng có quyền của họ
về suy nghĩ về thái độ sống và thái độ tranh đấu của Hòa thượng, trước
đây, nó đã rất mạnh mẽ và rất là dấn thân, nhưng bây giờ lại im lặng
hoàn toàn như vậy, thì người dân cũng có thể đánh giá rằng đây là một
thái độ có vẻ là nó bị khuất phục trước cường quyền, hay là một thái độ
mà ngài có thể là ăn năn.
"Hay là có thể cảm thấy rằng bây giờ nếu
có chống lại chế độ hiện thời đi nữa, thì cũng không đi tới đâu. Cho
nên đó là suy nghĩ riêng của ngài mà chúng ta không ai có thể đoán được,
hay xét đoán được qua hành động của ngài."
Vắng mặt hậu 75 và mục tiêu đã đạt?
Từ Marseille, nhà biên khảo Trương Nhân Tuấn nói với Bàn tròn:
"Hòa
thượng Thích Trí Quang cho đến năm 1975 chỉ tóm lược trong ba thứ thôi,
đó là: tranh đấu, tranh đấu và tranh đấu. Thứ nhất là tranh đấu cho
công lý, giành lại công lý cho Đạo Phật trước sự đàn áp; và thiên vị
Thiên Chúa Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
"Thứ hai là tranh
đấu cho đạo pháp và dân tộc; thứ ba là tranh đấu lật đổ chế độ độc tài
gia đình trị Ngô Đình Diệm để thực hiện hai mục tiêu vừa nói. Thì bây
giờ, đến nay, mục tiêu thứ ba đã hoàn tất từ 56 năm, gần một đời người.
"Vậy
hai mục tiêu giành lại công lý cho đạo Phật, thì Hòa thượng Trí Quang
đã làm gì được cho đạo Pháp và dân tộc? Đã thực hiện được gì hay chưa?
"Thứ
nhất là vấn đề tranh đấu cho công công lý, nội dung giành lại công lý
cho đạo Phật trước sự đàn áp và thiên vị Thiên Chúa Giáo của chính quyền
ông Diệm, câu hỏi đặt ra cho quý vị Phật tử... là công lý đã thiết lập
hay chưa? Đạo Phật hiện nay có được quyền tự do tín ngưỡng hay không?
Hai vấn đề này tôi không lạm bàn, nhưng theo tôi công lý ở Việt Nam bây
giờ chỉ là một diễn viên hài mà thôi.
"Cái thứ hai là tranh đấu cho dân tộc, thì câu hỏi thứ
hai tôi đặt ra là Phật Giáo ở đâu trong lòng dân tộc? Đặc biệt đặt ra
cho hậu duệ của Hòa thượng Thích Trí Quang...
"Câu hỏi đó đến nay
chưa ai trả lời hết. Phật giáo của Hòa thượng Trí Quang vắng mặt ở hầu
hết những biến cố, những tai ương đã xảy ra cho dân tộc Việt Nam từ năm
1975 đến nay.
"Cá nhân tôi cho rằng phong trào tranh đấu của Hòa
thượng Thích Trí Quang đã mở cửa đưa cho dân tộc Việt Nam vào một giai
đoạn khốc liệt nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nội chiến chấm
dứt thì hai mục tiêu đạo pháp và dân tộc và công lý vẫn chưa đạt được.
"Đến
ngày hôm nay người dân biết chết, vẫn phải đi, báo chí Anh quốc bây giờ
cũng nhắc lại câu là "nếu cột đèn có chân, thì cây cột đèn cũng vượt
biên", thì rõ ràng mục tiêu dân tộc của thầy Trí Quang còn xa lắm, rất
là xa, chưa đạt tới đâu.
"Cái thứ ba là tranh đấu lật đổ chế độ
độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, mục tiêu này, thầy Trí Quang đã
thành công hoàn toàn, nhưng vấn đề đặt ra là thực hiện hai mục tiêu đó
để làm gì, khi hai mục tiêu chúng ta vừa nói là tranh đấu cho đạo pháp
và dân tộc không thực hiện được?
"Vấn đề là cho rằng chế độ của
ông Ngô Đình Diệm là độc tài, gia đình trị, thì bây giờ mình cũng nên
nhìn lại, nếu chúng ta so sánh bây giờ giữa ông Diệm và ông Hồ, hay là
ông Diệm với những lãnh đạo châu Á cùng thời là Ferdinand Marcos, Tưởng
Giới Thạch hay là Sukarno, hay là Mao Trạch Đông, thì rõ ràng ông Diệm
là một người hiền hòa, bao dung, có đạo đức, thanh bạch hơn hẳn những
ông kia...
"Ông Diệm, tôi thấy không có độc tài, ở một đất nước
mà trong tình trạng chiến tranh, tự vệ ý thức hệ nữa, mà ý kiến chính
trị gia, tôn giáo, được hưởng đầy đủ các thứ quyền tự do hết, còn hơn cả
Malaysia hay là Indonesia bây giờ nữa, theo tôi mình so sánh những gì
mình có thể so sánh được, nếu ông Diệm là độc tài, thì bây giờ mình đã
nhìn thấy sự thật đó là như thế nào rồi," ông Trương Nhân Tuấn nêu quan
điểm từ góc độ cá nhân.
'Không thể đổ tội cho một người'
Tiến
sỹ triết học, nhà nghiên cứu Phật giáo Thái Kim Lan trước hết phản biện
một số quan điểm liên quan Hòa thượng Thích Trí Quang và nêu quan điểm
về bản chất tình hình chính trị của giai đoạn lịch sử hơn một nửa thế kỷ
trước, có liên quan tới các phong trào Phật giáo ở miền Trung và miền
Nam Việt Nam, bà nói:
"Trước
hết, tôi muốn nói như thế này là nhận định lịch sử phải khách quan và
rất kỹ lưỡng, bình tĩnh nữa. Bởi vì nếu chúng ta dùng chữ sai, thì sai
một li là đi một dặm. Dùng chữ "tiếp tay", là tôi không đồng ý.
"Ví dụ như dùng chữ tiếp tay là cuộc vận động Phật
giáo, hoặc là Hòa thượng Thích Trí Quang đã tiếp tay cho Cộng sản, tôi
không đồng ý. Tôi không đồng ý ở cái chỗ trong lúc cuộc vận động Phật
giáo xảy ra, thì mục tiêu của Phật giáo lúc ấy rất là hòa hoãn, chỉ muốn
chính quyền ông Diệm chấp nhận sự bình đẳng tôn giáo.
"Và chấp
nhận thứ hai là những nạn nhân của cái đêm Phật đản phải được bồi
thường, chính tôi là một trong những người đi tuyệt thực để đòi sự thực
thi công bằng như vậy.
"Thì trong mục tiêu này, không bao giờ có
vấn đề tiếp tay cho Cộng sản một chút nào cả, nếu có sự tiếp tay, thì có
thể những chuyện xảy ra là sau này, mà đó là xảy ra bên ngoài, chứ
không phải là tự thân của cuộc vận động 1963. Thành thử chữ "tiếp tay",
chúng ta nên cẩn thận để sử dụng.
"Điểm thứ hai là vấn đề lật đổ
ông Ngô Đình Diệm không có ở trong chương trình của cuộc vận động 1963,
mà chúng tôi khẳng định là mặc dù có nhiều cái giải thích khác nhau,
nhưng mục tiêu và cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức chỉ muốn
đánh động sự công bằng, tinh thần công bằng mà ông Ngô Đình Diệm và
chính quyền Ngô Đình Diệm nên chú trọng.
"Chứ không phải là có
tính cách lật đổ chính trị. Chính trị là người Mỹ làm và chính trị là
các tướng lãnh, nhưng mà thực ra chính quyển đã đẩy. Nếu chúng ta đọc
lịch sử một cách đúng đắn và có tư liệu hẳn hoi, thì chúng tay thấy rõ
ràng là chính quyền càng ngày càng đẩy người Phật tử cũng như quần chúng
không đứng về phe của chính quyền nữa.
"Bởi vì chính quyền đã buộc tội, cáo buộc tất cả đều
là Cộng sản, mà chúng tôi thực sự lúc đó là sinh viên, rất là trong
sáng, ngây thơ, không có một chút gì là chúng tôi nghĩ chúng tôi theo
Cộng sản cả. Chúng tôi chỉ thấy nhà Chùa và người dân bị đánh đập và
tuyệt thực, chúng tôi can thiệp, chúng tôi muốn đứng ra.
"Và đó
là một tinh thần tự do ngôn luận, và phải nói đó là một điểm son ở trong
chế độ đó, chúng tôi có quyền, chúng tôi đã được nói và chúng tôi được
phản đối. Còn về lịch sử, tại sao Việt Nam sau này rơi vào tay như các
ngài nói là "tiếp tay để rơi vào tay Cộng sản", thì chúng ta phải hỏi
tất cả những nhà cầm quyền kế tiếp - trách nhiệm của họ thế nào? Tất cả
những hành động của người Mỹ như thế nào?
"Chúng ta không thể nào nói một cách võ đoán được để mà buộc tội một người được!," Tiến sỹ Thái Kim Lan nói.
'Chánh pháp và hành động'
Từ
Paris, Pháp, ông Võ Văn Ái, một nhà biên khảo và hoạt động Phật giáo
chia sẻ quan điểm của mình, đặc biệt về những câu hỏi đặt ra về "sự im
lặng" sau 30/4/1975 của Hòa thượng Thích Trí Quang, ông nói:
"Chúng ta có thể biết rất rõ phê bình đó, khi nhìn rằng
tất cả những người khác, hay những đảng phái, hay những nhóm bè đứng
lên tranh đấu, tố cáo này kia đã đưa lại cái gì cho đất nước Việt Nam?
Chúng ta vẫn nằm dưới một chế độ độc tài cộng sản.
"Thì dù có nói
lớn hay không nói lớn, vẫn chưa ai làm được gì cả. Tôi nghĩ rằng trong
trường hợp của cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang, thì trong thuật
ngữ Phật giáo có một câu nói rằng: nói năng như Chánh pháp, im lặng như
Chánh pháp.
"Nghĩa là ngài có nói năng, có phê bình, có xuống
đường, có biểu tình, hay là không có tất cả những việc đó, tất cả những
điều đó đều là Chánh pháp, chân lý của Đạo Phật."
Nói về chuyển
động của các phong trào Phật giáo trước đây ở miền Nam Việt Nam từ sau
mốc 30/4/1975, ông Võ Văn Ái bình luận thêm:
"Sau năm 1975, cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền
Quang ở Bình Định và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vẫn tiếp tục con
đường đòi hỏi công lý và hòa bình cho dân tộc.
"Tất nhiên, không có một sự im lặng, không có một sự thối lui, không có một sự khuất phục nào cả."
Từ Hà Nội, nhà nghiên cứu Triết học và Phật giáo Thái Kim Lan nói thêm:
"Câu cuối cùng của tôi là như thế này, sự im lặng của ngài Thích Trí Quang không phải là sự im lặng. Ông làm việc. Và ông làm việc theo một cách khác. Ông dịch sách và ông đã để lại một gia sản đồ sộ về kinh sách Phật giáo cho người Phật tử.
"Và ông giữ vững quan điểm của mình là sự im lặng này vượt lên trên hết tất cả các tranh cãi mà toàn là giả thuyết và ông không bao giờ trả lời," bà nói với Bàn tròn của BBC News Tiếng Việt.
Mời quý vị bấm vào đường dẫn sau đây để theo dõi Bàn tròn thứ Năm của BBC News Tiếng Việt về chủ đề vai trò lịch sử của Hòa thượng Thích Trí Quang.
"Tất nhiên, không có một sự im lặng, không có một sự thối lui, không có một sự khuất phục nào cả."
Từ Hà Nội, nhà nghiên cứu Triết học và Phật giáo Thái Kim Lan nói thêm:
"Câu cuối cùng của tôi là như thế này, sự im lặng của ngài Thích Trí Quang không phải là sự im lặng. Ông làm việc. Và ông làm việc theo một cách khác. Ông dịch sách và ông đã để lại một gia sản đồ sộ về kinh sách Phật giáo cho người Phật tử.
"Và ông giữ vững quan điểm của mình là sự im lặng này vượt lên trên hết tất cả các tranh cãi mà toàn là giả thuyết và ông không bao giờ trả lời," bà nói với Bàn tròn của BBC News Tiếng Việt.
Mời quý vị bấm vào đường dẫn sau đây để theo dõi Bàn tròn thứ Năm của BBC News Tiếng Việt về chủ đề vai trò lịch sử của Hòa thượng Thích Trí Quang.
No comments:
Post a Comment