Vụ ám sát GS Nguyễn Văn Bông: Cái kết được báo trước của VNCH (Kỳ 1)
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Ngày 7/4/2014, tôi đặt chân tới Thủ đô Washington của Hoa Kỳ, sau một
chuyến bay dài đưa tôi ra khỏi Trại giam số 5 ở Thanh Hóa, nơi tôi bị
giam suốt 3 năm rưỡi với bản án 7 năm tù do bị kết “Tội tuyên truyền
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ngay sau đó, tôi
được nhập học tại Viện Quốc Gia Phát Triển Dân Chủ (National Endownment
for Democracy - NED) cho dù tiếng Anh của tôi lúc đó chỉ ở mức ABC. Tuy
nhiên, nhờ có tiếng Pháp mà tôi thông thạo, tôi cũng đã xoay xỏa được
với ngôn ngữ của Washington và Lincoln để rồi 8 tháng sau, ngày
11/12/2014, tôi thuyết trình về đề tài “Thực hiện nhân quyền để dân chủ
hóa Việt Nam” (Implementing Human Rights as a Path to Democracy in
Vietnam) tại NED.
Trong số những người đến chúc mừng tôi sau thuyết trình, có một phụ
nữ nhỏ nhắn, điềm đạm, tự giới thiệu là Jackie Bông và đề nghị chụp ảnh
cùng tôi và vợ tôi, Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà. Lúc đó có ai đó nói:
“Chị Jackie Bông nguyên là phu nhân của Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người
bị Việt Cộng ám sát khi sắp làm Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa”. Thực tình
lúc đó tôi không chú ý tới chi tiết này, không chỉ vì phía trước tôi là
cả một thách thức to lớn đặt ra cho bất cứ nhà hoạt động lưu vong nào mà
còn vì tôi chưa bao giờ nghe tên của Giáo sư Bông. Thực vậy, sau
30/4/1975, các tài liệu chính thức về chiến tranh Việt Nam chỉ nhắc tới
các lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa tại nhiệm, dù chỉ vài ngày như Vũ Văn Mẫu
hay Nguyễn Xuân Oánh.
Sau này, thỉnh thoảng tôi lại gặp bà tại các cuộc họp của cộng đồng
Việt Nam hay hội thảo về Việt Nam. Mùa thu năm ngoái, nhân danh tổ chức
“Họp mặt dân chủ” (The Assembly for Democracy in Vietnam -ADVN) bà mời
tôi dự Hội thảo có tên “Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam” (Vietnam War
Revisited). Tôi đã dự Hội thảo và thấy rằng Jackie Bông là một phụ nữ
năng nổ và có tài tổ chức, điều này khiến tôi bắt đầu tò mò về người
chồng quá cố của bà, Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Cuối tháng 10 vừa qua, khi
mùa thu đã nhuộm vàng cả vùng Thủ đô Washington, Jackie Bông mời vợ
chồng chúng tôi điểm tâm tại Phở 95 ở Van Dorn Plaza và sau đó mời chúng
tôi về thăm nhà bà.
Đó là một căn hộ sang trọng tại tầng 15 Chung cư Watergate. Trong nhà
treo ảnh gia đình Jackie Bông hồi bà còn nhỏ, ảnh gia đình chồng bà,
Lacy Wright, ảnh cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa, Ellsworth Bunker,
đang khoác tay cô dâu Jackie Bông chụp năm 1976... Đặc biệt, có vài tủ
gỗ quý kiểu cổ mang từ Việt Nam sang mà tôi rất mê. Bà nói tên bà là Thu
Vân, Jackie Bông Wright là tên bà có sau khi tái giá, nhưng mọi người
gọi ngắn lại là Jackie Bông. Tặng vợ chồng tôi cuốn hồi ký “Mây Mùa Thu”
(Capital Books xuất bản 2002), bà giải thích: “Mây Mùa Thu, tức Thu Vân
đấy. Cuốn này cũng đã được xuất bản bằng tiếng Anh vẫn với cái tên này,
“Autumn Cloud”. Bà còn cho tôi mượn cuốn “Giáo sư Nguyễn Văn Bông – Di
cảo (Nguyễn Ngọc Huy Foundation – Mekong-Tỵnạn xuất bản 2009) và nói đây
là bản duy nhất bà còn.
Jackie Bông nói tôi khi nào đọc xong hai cuốn sách này mà cần hỏi
thêm về Giáo sư Bông thì bà sẽ giải đáp. Lẽ tất nhiên tôi đã không bỏ lỡ
cơ hội. Ngoài ra, ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bí thư của Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, cựu Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi trong chính quyền Việt
Nam Cộng hòa cũng nhiệt tình cung cấp cho tôi một số thông tin liên quan
Giáo sư Bông. Vậy là tôi đã có những phương tiện cơ bản trong tay để
làm một nghiên cứu nhỏ về nhân-vật-bị-ám-sát-khi-sắp-làm-Thủ-tướng nhân
48 năm ngày ông qua đời (10/11/1971 – 10/11/2019).
Việt Nam hóa chiến tranh
Điều đáng chú ý đầu tiên là vụ ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông diễn ra
trong bối cảnh Mỹ đang tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”
(Vietnamization).
Chính thức thì cái tên “Việt Nam hóa chiến tranh” có nguồn gốc từ
"Phi Mỹ hóa chiến tranh" (De-Americanization) chỉ xuất hiện sau khi
Richard Nixon vào Nhà Trắng với "Học thuyết Nixon", học thuyết này dựa
trên chiến lược "Răn đe thực tế" thay cho chiến lược "Phản ứng linh
hoạt" của người tiền nhiệm Lyndon Johnson. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Melvin Laird coi “Việt Nam hóa chiến tranh” là "Học thuyết Nixon trong
hành động", là "biện pháp kết thúc sự tham gia của Mỹ, bước mở đầu tăng
cường lực lượng đồng minh ở châu Á". Tóm lại là chuyển dần trách nhiệm
tiến hành chiến tranh từ Mỹ sang Việt Nam Cộng hòa. Trên thực tế, chiến
lược này đã bắt đầu với Robert McNamara, Bộ trưởng quốc phòng của hai
tổng thống Mỹ, John Kennedy và Lyndon Johnson.
Kể từ khi Kennedy vào Nhà Trắng cuối tháng 1/1963 cho đến khi vị tổng
thống trẻ tuổi này bị ám sát vào tháng 11/1963, McNamara đã nâng số
quân Mỹ tại Việt Nam từ 900 lên hơn 16.000. Đến năm 1965 khi Mỹ tiến
hành chiến tranh không quân ra miền Bắc mang biệt danh “Chiến dịch sâm
rền” thì số quân Mỹ đã là 184.000. Như vậy, McNamara là “kiến trúc sư”
của Chiến tranh Việt Nam.
Tuy vậy, khi đối diện với những thất bại quân sự trước Quân giải
phóng miền Nam áp dụng lối cận chiến "Nắm thắt lưng địch mà đánh" nhằm
vô hiệu hóa ưu thế áp đảo về pháo binh và không quân của Mỹ, với bộ óc
thông minh của một cựu sinh viên Havard và Chủ tịch Hãng Ford McNamara
hiểu rằng leo thang chiến tranh cũng sẽ bế tắc. Trong cuộc họp ngày
17/12/1965 với Tổng thống Johnson tại văn phòng Nội các, trả lời câu hỏi
“giải pháp quân sự không đảm bảo chiến thắng sao?” của Tổng thống,
McNamara khẳng đinh: “Tôi đã nói: chúng ta không thể có giải pháp quân
sự. Chúng ta cần phải tìm giải pháp khác” (1). Điều trớ trêu là kế hoạch
“rút chân” khỏi Việt Nam của Mỹ được hình thành chỉ hơn 9 tháng sau khi
đơn vị chiến đấu đầu tiên, Lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến, đổ bộ vào bãi
biển Đà Nẵng, tức hầu như ngay khi nó được bắt đầu. Trớ trêu hơn nữa là
kế hoạch này lại được khởi thảo bởi chính “kiến trúc sư” của cuộc
chiến.
Cụ thể hóa quan điểm của mình, vào mùa xuân 1966, McNamara đã cùng
phụ tá của mình là MacNaughton soạn thảo một “Kế hoạch tháo lui chiến
thuật”. Ngày 14 tháng 10 năm 1966, McNamara đã gửi một báo cáo dài đến
Tổng thống Johnson, thừa nhận thất bại của Mỹ trên mọi phương diện, từ
chương trình bình định nông thôn ở miền Nam cho đến chiến dịch “Sấm rền”
ném bom miền Bắc. Báo cáo này viết: “Nói tóm lại, chúng ta – từ góc
cạnh của một cái nhìn đối với tầm quan trọng của cuộc chiến – sẽ thấy
rằng không có tiến bộ nào đáng kể, mà còn tệ hại hơn. Cuộc chiến quan
trọng này phải do người Việt Nam tự lo liệu; họ phải chiến đấu để giành
chiến thắng”. Không nghi ngờ gì nữa, báo cáo này của McNamara chính là
xuất phát điểm của “Việt Nam hóa chiến tranh”(2).
Một tháng sau khi nhận được báo cáo của McNamara, Tổng thống Johnson
đã yêu cầu Cố vấn an ninh quốc gia Walt Rostow và Robert Komer, thành
viên Hội đồng an ninh quốc gia chuyên về Việt Nam, tìm một giải pháp
hiệu quả hơn các chiến thuật chiến tranh tiêu hao và ném bom của
McNamara. Kết quả là ngày 13 tháng 12 năm 1966, hai người này đã đề xuất
bổ trợ chiến dịch tấn công quân chủ lực phía địch và ném bom tấn công
bằng các nỗ lực tăng cường nhằm bình định hóa vùng nông thôn và tăng
cường sức lôi cuốn của chính quyền Nam Việt Nam.
Để triển khai kế hoạch này, Johnson đã đã cử đến Sài Gòn Ellsworth
Bunker làm Đại sứ Mỹ, Robert Komer làm chỉ huy một tổ chức chống nổi dậy
mới có tên "Hoạt động dân sự và hỗ trợ cách mạng” (Civil Operations and
Revolutionary Development Support program – CORDS), và Đại tướng
Creighton Abrams, phó Tham mưu trưởng Lục quân, làm phó cho Đại tướng
William Westmoreland, Tư lệnh quân Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV) với nhiệm
vụ tăng cường năng lực của quân lực Việt Nam Cộng hòa nhằm thay thế quân
Mỹ trong chiến đấu chống các lực lượng Cộng sản. Lẽ dĩ nhiên, Bunker là
người điều hành chung kế hoạch.
Sở dĩ Bunker được Tổng thống Johnson tín nhiệm cho trọng trách giúp
Mỹ thoát khỏi vũng lầy quân sự tại Việt Nam là vì nhà ngoại giao Mỹ
ngoại thất tuần này đã giải quyết thành công khủng hoảng năm 1965-66 tại
Cộng hòa Đôminica sau khi các đặc phái viên khác của Hoa Kỳ và Tổ chức
các quốc gia châu Mỹ thất bại.
Tháng 12/1963, Juan Bosch, một ứng cử viên cánh tả, đã được bầu làm
tổng thống. Sau khi nhậm chức vào tháng 2/1963, Bosch đã tiến hành một
số cải cách theo hướng xã hội dân chủ, điều này khiến ông bị dán nhãn
cộng sản. Vào tháng 9 cùng năm, một nhóm sĩ quan cấp cao đã lật đổ ông
và đưa Donald Reid làm tổng thống mới. Tháng 4/1965, một nhóm quân nhân
liên kết với những người cánh tả đã nổi dậy và lật đổ chế độ quân phiệt
để đưa Bosh trở lại cầm quyền. Cuộc nổi dậy này được gọi là “Cách mạng
tháng Tư”. Để tránh một Cuba thứ hai ở bán cầu Tây, Tổng thống Johnson
đã đưa 42.000 quân vào Dominica và lực lượng này đã đụng độ trực tiếp
với lực lượng nổi dậy. Thấy rằng sự can thiệp quân sự của Mỹ sẽ làm nước
này sa lầy nên Bunker, lúc đó là Đại sứ Mỹ tại Tổ chức các nước châu Mỹ
(OAS) chủ trương một giải pháp chính trị dựa trên tổ chức một cuộc bầu
cử mới với sự tham gia của các bên tham chiến người Dominica. Nố lực của
Bunker và các đại sứ khác của Tổ chức các nước châu Mỹ theo hướng này
đã thành công, cho phép quân Mỹ triệt thoái khỏi đảo quốc này một cách
êm ả, điều này đã mang lại cho ông biệt danh “Người giải quyết rắc rối”
(Troubleshooter)
Sau này trong một cuộc phỏng vấn, Bunker nói: “Tôi đã giúp ông ấy
(Tổng thống Johnson) thoát khỏi Cộng hòa Dominica và đạt được mục đích
chính trị ở đó. Ông ấy muốn tôi làm điều tương tự ở Nam Việt Nam”. Vẫn
theo nhà ngoại giao này, Johnson muốn bắt đầu rút quân đội Mỹ khỏi Việt
Nam nhưng trước khi các lực lượng này có thể rời đi, quân đội Nam Việt
Nam phải mạnh hơn, hoàn thiện hơn và người Nam Việt Nam phải tăng tốc
quá trình phát triển dân chủ và chịu trách nhiệm hoàn toàn về vận mệnh
chính trị của Nam Việt. Nói ngắn gọn, Johnson muốn vai trò của Mỹ tại
Việt Nam giảm đi với tốc độ tương ứng với sự tăng cường tự lực của Nam
Việt Nam.
Ngay sau khi đặt chân tới Sài Gòn, tại buổi trình ủy nhiệm thư ngày
28/4/1967, Bunker nói với Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Nguyễn Văn
Thiệu rằng miền Nam Việt Nam phải gánh lấy cuộc chiến chống các lực
lượng cộng sản thay cho các đơn vị chiến đấu Mỹ được hỗ trợ bằng các
cuộc ném bom miền Bắc. Vị đại diện Hoa Kỳ này nói tiếp, để giành chiến
thắng, miền Nam Việt Nam phải xây dựng một chính phủ chính danh đại diện
cho các lực lượng chính trị đa dạng trong nước song song với bình định
hóa nông thôn.
Chú thịch
(1), (2) Ngẫm lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học Việt Nam”
(In Retrospect: The Tragedy and Lesson of Vietnam), Robert S.McNamara,
Times Books,1995.
Tác giả là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt Nam.
No comments:
Post a Comment