- Hoài NiệmLão Ký Giả Văn LangTrần Văn Ân(Đấu sĩ của Thế Kỷ)Trong khoảng thời gian hơn năm mươi năm liên tục lặn hụp trầy vi tróc vãy trong sinh hoạt vănchương chữ nghĩa, chúng tôi rất may mắn được nhiều dịp gặp gỡ thân tình hoặc hợp tác chân thành với cácbực đàn chị đàn anh khả kính, qua những bài viết và các tác phẩm đã làm nên một thời ở Miền Nam ViệtNam tự do nhân bản. Để tỏ lòng kính trọng và biết ơn cũng như vinh danh những bậc tên tuổi lẫy lừng nầy,dù trong muộn màng, những năm gần đây trong lúc tuổi đời quá ngưởng cửa chạng vạng, chúng tôi cố gắngghi lại một ít kỷ niệm trung thực qua những dòng hoài niệm xuất phát từ trong sâu thẳm tâm tư và tình cảmcủa chúng tôi.Trong tinh thần đó, chúng tôi đã thực hiện xong phần viết về Giáo sư Sử gia Nam Xuân Thọ Lê ThọXuân, Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Ký giả nhà viết phóng sự Phi Vân Lâm Thế Nhơn, Giáo sư Học giả Võ ThủTịnh, Ký giả kiêm Soạn giả cải lương Ngọc Huyền Lan Nguyễn Ang Ca, Thi văn họa sĩ Tạ Tỵ, Nhà viết tiểuthuyết đăng từng kỳ trên các nhựt báo An Khê Nguyễn Bính Thinh, Bác sĩ Thi sĩ Bằng Vân Trần Văn Bảng,Họa sĩ Nhà văn Hiếu Đệ Nguyễn Tánh Đệ… để chỉ kể nơi đây vài tên tuổi nổi bậc mà chúng tôi không thểnào quên được, dù thời gian phũ phàng có xói mòn ít nhiều tâm trí chúng tôi. Đa số các bực tăm tiếng nầyhôm nay đã nằm yên đâu đó ở trong nước cũng như ở hải ngoại, người trước kẻ sau, trong cõi vĩnh hằng anbình không hận thù.Duy còn có hai nhân vật quan trọng ở các lãnh vực phức tạp là văn chương, báo chí và chánh trị,chúng tôi luôn đắn do phân vân không biết phải viết như thế nào để cho trọn tình trọn nghĩa. Và nhứt là tránhnhững phiền hà trong dư luận cộng đồng ở lãnh vực chánh trị mà cả hai đã nguyền dấn thân đấu tranh xuyênsuốt cả cuộc đời, từ tuổi thanh xuân cho đến khi nhắm mắt từ giả thế gian lắm chuyện. Đó là Lão ký giả VănLang Trần Văn Ân và Giáo sư Tiến sĩ Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy.Càng đắn đo phân vân bao nhiêu, chúng tôi càng ray rức bất an trong lòng, vì bao nhiêu kỷ niệm tốtđẹp và trân quý cứ thỉnh thoảng sống dậy rực sáng trong chúng tôi, khiến cho lương tâm chúng tôi mãi mãithôi thúc không nguôi. Tâm tư và tình cảm chúng tôi luôn réo gọi, không thể vì một lý do gì mà không nhắcnhớ đến hai bực thầy trọng kính mến yêu nầy.Nhưng khổ một nỗi, ở vị trí và khả năng của chúng tôi mỗi khi cầm bút, chúng tôi cảm thấy mình bấtlực. Chúng tôi không biết phải vào đề và triển khai như thế nào cho phù hợp và xứng đáng với vai trò tiêubiểu của cả hai. Nhứt là ở hai lãnh vực chính yếu là đấu tranh chánh trị và lịch sử oai hùng của dân tộc ViệtNam.Dù đắn đo phân vân, dù đối diện với những khó khăn giăng mắc đó đây, rốt cuộc chúng tôi vẫn phảiviết. Viết trước nhứt để lòng mình được thanh thản hơn trong những ngày còn lại và hơn thế nữa để khôngphụ hương hồn người đã xuất, từng nêu cao hành động, phong cách và những tấm gương đời trong sáng. Cảhai vị đã để lại trong chúng tôi những lời trăn trở nhắn nhủ, răn dạy chí tình chí nghĩa hừng hực ngọn lửa tìnhyêu quê hương thiết tha, thăng hoa chí khí tuyệt đối trung thành với quốc tổ Hùng Vương cùng giồng giốngLạc Long Tiên Rồng.Vốn biết những khó khăn chồng chất phải đương đầu trải qua nên chúng tôi xin minh định ngay, chỉtrọng tâm nhắc nhớ những kỷ niệm trung thực chúng tôi hồi nhớ và ghi nhận được, không trực tiếp đề cậpđến khía cạnh chánh trị vô cùng phức tạp mà lại là sanh hoạt chính yếu của các vị. Nếu có nói đến khía cạnhnầy thì cũng chỉ phớt qua, chẳng đặng đừng.Lý do là vì ở phần gút mắc và thường xuyên gây tranh cải nầy trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại,chúng tôi xét ra mình không đủ khả năng đề cập đến, cũng như vị trí của chúng tôi không cho phép. Do đó,về lãnh vực nầy, chúng tôi xin trân trọng dành cho các bực phê bình cao kiến, các sử gia tên tuổi sẽ kháchquan đánh giá đúng mức sự thành bại của hai vị, một khi yếu tố thời gian cần thiết đã lắng đọng và giòng sửmệnh nước nhà được sáng tỏ rõ ràng và dứt khoát hơn.Hôm nay trước tiên, chúng tôi xin có đôi dòng hoài niệm Lão ký giả Văn Lang Trần Văn Ân. Và sauđó trong một dịp khác, chúng tôi sẽ vô cùng sung sướng nhắc nhớ đến Giáo sư Tiến sĩ Hùng Nguyên NguyễnNgọc Huy. Dù trước hay sau, tâm tư và tình cảm của chúng tôi đối với cả hai vẫn là một, vẫn một mựcngưỡng mộ, trọng kính mến thương. Hẳn nhiên không có sự đối xử phân biệt chi cả.
- «Tôi sợ nạn mất gốc nên có đề xướng Phục Việt nhưng vì quá già nên chỉ có vài ba tử đệ lai rai. Naythấy từ trong nước tới hải ngoại, mình đang tiến tới vong bản… Trong ba bốn năm nữa trẻ đâu còn nói tiếngViệt. Và nếu có về nước – cũng chỉ ‘par curiosité’, mất thương nước ‘par motivation’. Mà đời sống vật chấtÂu Mỹ là đời sống vật chất chạy theo tiền bạc, ích kỷ, là tự giết cả giống nòi. Nên nhớ tồn chủng là lẽ sốngcòn, chớ không phải chủ nghĩa lạc hậu dân tộc (nationalisme arriéré). Vườn hoa cả trăm, ngàn thứ hoa, cógốc riêng biệt nên coi đẹp và quý báu.«Sở học của Ân là học lượm lặt từ Pháp tới Nho…. Ân học với bạn về Nho và nhờ đọc sách Tàurồi suy diễn ra. Từng đọc các sách Mác xít và ‘militant’… Ân không chấp nhận quan niệm Mác xít về conngười cả về duy vật biện chứng pháp. Sau học Dịch Lý với thuyết Âm Dương chấp nhận ‘nhất thể lưỡngdiện’ - Tâm vật là Một…«Sai lầm căn bản của Max là nhận xét con người là ‘vật chất biết suy tư’. Ân đưa ra tư tưởng PhụcViệt giúp suy nghĩ về hậu cộng sản. Tất cả là vấn đề sự sống của con người cho nên Ân dùng câu ‘nhânnăng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân’ của Khổng Tử làm căn bản cho Phục Việt. Tôi vui lòng chấp nhậnlàm người mất nước hơn sống với cộng sản. Và tôi không ưng về nước khi cộng sản còn làm độc tài vôsản…. Về nhận định con người và sự sống Ân thưa: phải sống bốn chiều: thể xác, tâm tư, tâm trí, tâm thần(hồn)».~Sau ngày Bác Ân tạ thế, Bác gái Như Thủy Võ Kim Lý có gởi cho chúng tôi giữ làm tài liệu và kỷniệm bản hồi ký của Bác Ân. Chúng tôi thấy cần được phổ biến rộng rãi hơn nên có tham khảo ý kiến củaBác gái và nhờ người em kết nghĩa là họa sĩ Trần Minh Tâm ở Strasbourg Pháp giúp đánh máy. Nhờ đóchúng tôi nhơn ra nhiều bản gởi đến các thân hữu của Bác Ân để gìn giữ, hoặc khi có đầy đủ phương tiện sẽxuất bản thành sách trịnh trọng hơn.Đây là hồi ký hiếm hoi được cân nhắc chắc chiu của một đời người từ thuở nhỏ đến tuổi trượng triềutrượng quốc. Hồi ký gồm nhiều chương như ‘Thằng Nhỏ Ăn Chay Đi Học’, ‘Đời Thằng Quang Huy‘, ‘ThưViết Cho Con’ v.v… Căn cứ vào thiên hồi ký nầy chúng tôi xin ghi lại một vài nét chánh yếu mà lòng vữngtâm không sợ bị sai lạc do nạn ‘tam sao thất bổn:Bác Ân chào đời vào năm 1903 lúc đêm 23 rạng 24 tháng chạp âm lịch vào giờ tý tại làng Định Yên,Cái Dầu, tổng An Phú thuộc quận Thốt Nốt, trước đây thuộc tỉnh Long Xuyên. Cái tên Quang Huy của Báclà tên Đạo do ông lão ở chùa Minh Sư Long Xuyên, hiệu Quảng Đức Tế đặt cho, do người bác Hai của Bácđưa Bác vào thọ giáo, cầu Đạo vào khoảng năm 1907-1908. Bác cũng có thố lộ ngày xưa dòng họ của Bácthuộc họ Phạm, về sau mới đổi thành họ Trần và kể từ đời của Bác đến các thế hệ con cháu tất cả đều cùngmang họ Trần.Những năm được dịp tiếp xuất với Bác Ân, Bác đã để lại trong chúng tôi bao nhiêu lời nói hay và tưtưởng đẹp, xuất phát từ một tấm lòng trung với nước hiếu với dân, một lòng một dạ kiên định lập trườngchống lại chủ nghĩa vô thần cộng sản Đệ Tam cùng bè lũ gian nhân hiệp đảng đang ngự trị nơi quê nhà, phánát đất nước, dìm dân tộc xuống tận cùng của vực thẳm. Chúng tôi không sao không ghi lại những cảm xúccủa chúng tôi đối với những gì Bác đã gieo trong lòng mình, những yếu tố vô giá giúp chúng tôi minh địnhrõ ràng vị trí và hướng đi của mình.Bây giờ chúng ta thử nhắm mắt bình tâm lắng tai nghe tâm tình của Bác Ân về một vài lãnh vựcnhức nhối của thế hệ chúng ta. Và của cả lớp hậu sanh ở hải ngoại và trong nước nữa. Đại khái như quanniệm nhứt quán của Bác về hai chữ Dân Chủ, một đề tài từng gây tranh luận sôi nổi trong các giới chánh trịvà đấu tranh ở hải ngoại:«Trong vấn đề Dân Chủ có hai đoạn: vì dân và do dân. Mà vấn đề tối quan hệ là tin cậy, là đồngthuận (consensus), cộng đồng ưng ý và trọng nhân phẩm, biết thủ pháp phụng công. Vấn đề Tự Do nói chocó chánh trị, chớ ít ai définir (định nghĩa) được ‘la liberté’. Trước kia, có nhiều nhà hoạt động chánh trị vàđấu tranh tên tuổi cùng tôi có chỗ bất hòa vì phần lớn trong số đó cho là ‘nếu có Dân Chủ là xong mọichuyện’.«Tôi bảo không và chia Dân Chủ ra hai giai đoạn: ‘Vì Dân’ và ‘Do Dân’. Bởi vì cộng sản làm việckhông kể lý hay nguyên tắc. Mà cộng sản đã nắm hạ tầng – ta thì tổ chức Dân Chủ toàn diện, đầy đủ, chobầu cử cấp tỉnh, quận là mình câu cá cho nó ăn, là mình thua ngay. Nên làm ngược lại là đi từ trên xuống, vìdân trước. Vấn đề nầy đòi hỏi lãnh đạo hy sanh. Mà mình không có lãnh đạo, không có:Kỳ thân chánh bất lịnh nhi hànhKỳ thân bất chánh lịnh nhi bất hành.Không có lãnh đạo vì không có người biết thương người cộng sự...“Nói tới Dân Chủ, ta phải thận trọng đáo để vì Dân Chủ không chỉ nhằm tự do bản năng – libertédes instincts – mà phải đặt vấn đề toàn diện, coi trọng đặc biệt vấn đề trách nhiệm và kỷ luật đối với cônglợi công ích, trong sự điều hợp phức biến – harmonisation de la diversité. Phải quan niệm cá nhân là một
- phần tử không tách rời của cộng đồng. Cho nên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cộng đồng phải đi đôivới tự do cá nhân”.Tiếp theo chúng ta hãy nghe Bác tâm sự chung quanh lá cờ quốc gia, Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, tượngtrưng cho chánh nghĩa Việt Nam, tượng trưng cho niềm tin và hy vọng của cộng đồng lưu vong trong côngcuộc giải thể chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay ở quê nhà:“Đó phải là lá Quốc Kỳ, vì xét gần xét xa đều thấy đáng bảo trọng. Xét gần thì do óc phản đối thựcdân đem chia đất nước ra ba kỳ, nay trương lá cờ ba sọc nằm trong một nền vàng là muốn nói lên ý chíthống nhất đất nước lại một mối. Như vậy không đáng bảo tồn sao! Tuy nhiên đó mới là vòng ngoài thuộc ýthức, còn vòng trong thuộc tiềm thức thì sâu xa hơn nhiều: nền vàng chỉ trung cang hành thổ nơi ở của conngười đại ngã tâm linh nên Kinh Dịch nói ‘an thổ đôn hồ nhân, cố năng ái’. Muốn vào được chốn an thổ nọthì không thể đi theo lối bái vật hay ý hệ, mà phải dụng ánh sáng tâm linh biểu thị bằng màu đỏ lửa quẻ li.Quẻ li nằm ở cung thứ ba trong tiên thiên bát quái nên hàm ngụ triết lý số ba: trời, đất, người, tức là nềnnhân chủ, một triết lý cao hơn hết mà loài người có thể nghĩ ra.“ Như vậy còn đáng bảo tồn hơn nữa. Chỉ có những kẻ đã vong bản, chạy theo lời xúi dại của ngoạibang mới trân tráo chối bỏ. Chúng ta cần cự tuyệt những kẻ bất rễ đó. Nếu Quốc Khánh Việt Nam phải làngày giỗ Hùng Vương thì Quốc Kỳ phải là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”.Tuy nhiên một đề tài làm cho chúng tôi quá đỗi xúc động vì những nhận xét của Bác xuất phát tự tráitim của người Việt Nam truyền thống muôn thuở, được soi sáng bởi biết bao thành quả hiển hách của tiềnnhân và tinh anh chói lòa của Tổ Tiên Dòng Tộc. Chúng tôi nghĩ và tin chắc rằng những người đọc qua tinhthần Hồn Nước của Bác sẽ khâm phục và thấm thía với những gì Bác rút ruột tầm để cô động và thăng hoanên lời.Hồn Nước cũng là tên tờ báo do cụ Trần Văn Ân chủ trương xuất bản chỉ được hai năm 1981-1982.Tòa soạn đặt tại số 4 Place Méditerrannée 95200 Sarcelles.“Sông núi có Khí Thiêng. Nguồn gốc có Uy Linh. Dân tộc có Hạo Khí. Quốc gia có Đạo Nghĩa. Trờiđất có Chánh Khí.“Khí Thiêng, Uy Linh, Hạo Khí, Đạo Nghĩa hòa với Chánh Khí gọi chung là Quốc Hồn, là HồnNước.“Hồn Nước là phần linh thiêng của Quốc Gia Dân Tộc, là cái tinh thần keo đọng của giồng giống từngày lập quốc.“Hồn Nước là cái đúc thành của văn hóa dân tộc, của nền minh triết của thánh hiền từ ngàn xưa.“Hồn Nước là phần thăng cao của giòng lịch sử oanh liệt của giống nòi trong công cuộc giữ gìn sựnghiệp của tổ tiên.“Hồn Nước là ánh sáng bừng lên của giòng máu hiền tài dựng nước, là ý chí hùng dũng của sĩ phugiữ nước.“Hồn Nước là cái vấn vương bên mọi người, là cái không nhìn thấy mà có thường xuyên, là sức linhthiêng phò trì ta và cho ta hy vọng.“Hồn Nước là khí phách nối liền muôn ngàn thế hệ, là sự sống tinh thần miên tục của Dân Tộc.“Trong cái triền miên động, trong sự đào thải liên tiếp, trong cái sinh sinh hóa hóa, Hồn Nước làcái mãi còn, và còn trong sự nẩy nở không ngừng của Dân Tộc để tự thành tựu và tự thể hiện.“Ta còn sông núi, còn nhân dân, còn lịch sử và văn hóa, dầu cho ta mất chủ quyền quốc gia, thì tachưa hẳn mất, nước ta chưa hẳn tan nếu ta còn Hồn Nước và tranh đấu.“Còn Hồn Nước là ta còn tất cả bởi vì uy linh của Nguồn còn và không thể khô cạn, bởi uy linh nầyxuất phát từ Chính Khí của Trời Đất.“Ta nhớ Nguồn là ta biết ta cùng Trời Đất là Một. Nguồn của ta là nguồn Rồng Tiên. Rồng là sứcmạnh đại lượng và Tiên là mỹ lệ tinh anh. Cả hai là thể hiện của Chánh Khí. Ý thức Nguồn là ta ý thức ÂmDương, là ta ý thức Thiên Đạo.«Ý thức Hồn Nước là ta ý thức sự sống còn của Dân Tộc.Với ý thức nầy ta lập chí:Phục quốc cho Dân Tộc sống còn.Phục Việt cho hậu thế nẩy nở.Trì thái bình cho nhân loại âu ca».Cùng một nhịp suy nghĩ trên đây, Bác Ân không quên đề cập đến một khía cạnh khác cũng vô cùngquan trọng, cực kỳ bức bách, không thể thiếu sót trong cuộc sống hằng ngày của người Việt Nam. Dù họđang sinh sống trong nước hay ở hải ngoại. Đó là Văn Hóa và cũng nhờ nền tảng vững chắc của Văn Hóa màchúng ta mới có cơ sở chống lại chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam suốt thời kỳ Hà Nội hiếu chiến tập trung chủlực với sự triệt để ủng hộ của tập đoàn cộng sản quốc tế nhằm xâm chiếm thôn tính Miền Nam. Và chúng tôicũng xin xác nhận thêm một lần nữa là nhờ đó tạo niềm tin và hy vọng của cộng đồng Việt Nam tỵ nạn ở h
Thật là đẹp và Bác Ân rất xứng đáng với những lời tán tụng đó. (Trích trong Thơ Văn Lang Và Chư Hữu trong Tủ sách Gia đình 1992).
Sau cùng, chúng tôi xin
trích dẫn tâm tình của tác giả Nguyễn Sỹ Hưng trong bài Vĩnh Biệt Nghĩa Huynh Trần Văn Ân:
Người từ chốn đồng quê ruộng rẫy
Sống cuộc đời sôi nổi suốt trăm năm
Học bên Tây để yêu nước Việt Nam
Để chống Pháp, để ngồi tù đế quốc.
Lửa cách mạng người đốt thành bó đuốc
Người vào tù ra khám biết bao phen
Không làm quan, ngồi cùng với dân đen
Đòi quyền sống, đòi tự do dân chủ.
Người thừa sức sống cuộc đời no đủ
Nhưng công danh coi tựa đám phù vân
Khi sang Tàu, khi lưu lạc Thiên Nam
Khi làm báo khi thét to độc lập.
Khi Đỗ Phủ viết câu thơ «thất thập» (*)
Người ngang nhiên sống vượt mấy mươi năm
Em tiếc sao mảnh đất chỗ người nằm
Lại không phải ở quê hương yêu dấu.
Người chiến sĩ suốt cuộc đời chiến đấu
Lúc ra đi thanh thản vẫn tay không
Có ai đem thất bại với thành công
Để đàm luận anh hùng cho được nhỉ?
Treo gương sáng cho đầu xanh tuổi trẻ
Hỡi người cha! người đồng chí trung kiên
Việc của người con cháu sẽ không quên
Hỡi người bạn! người anh đầy nhiệt huyết !
Từ nước Mỹ em tay run muốn
viết
Muốn khóc anh khi sự nghiệp
chưa thành
Thể xác mất đi, còn lại
thanh danh
Còn lại tấm gương muôn đời
soi sáng.
…
(*) Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân
sinh thất thập cổ lai hy
Đỗ
Phủ
Nhà văn Ái Nhĩ Lan Jonathan
Swift (1667-1745) có lưu lại hậu thế câu nầy: “Vivre dans le Coeur de ceux que nous laissons derrière nous, ce n’est
pas mourir». Có thể tạm dịch như sau: Sống trong tim của những người
chúng ta đã bỏ lại sau lưng chúng ta, đó không phải là chết.
Bác Ân! Bác là một trong
những người hiếm hoi đó!
Dân Mộc Tiểu Lộ (Allée des
Peupliers)
Viết xong ngày 30 tháng 5 năm
2017
No comments:
Post a Comment