Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday, 5 January 2020

VÕ PHƯỚC LỘC * TƯỞNG NHỚ TRẦN VĂN ÂN




  • «Tôi sợ nạn mất gốc nên có đề xướng Phục Việt nhưng vì quá già nên chỉ có vài ba tử đệ lai rai. Nay
    thấy từ trong nước tới hải ngoại, mình đang tiến tới vong bản… Trong ba bốn năm nữa trẻ đâu còn nói tiếng
    Việt. Và nếu về nước cũng chỉ ‘par curiosité’, mất thương nước ‘par motivation’. đời sống vật chất
    Âu Mỹ đời sống vật chất chạy theo tiền bạc, ích kỷ, tự giết cả giống nòi. Nên nhớ tồn chủng lẽ sống
    còn, chớ không phải chủ nghĩa lạc hậu dân tộc (nationalisme arriéré). Vườn hoa cả trăm, ngàn thứ hoa,
    gốc riêng biệt nên coi đẹp và quý báu.
    «Sở học của Ân học lượm lặt từ Pháp tới Nho…. Ân học với bạn về Nho nhờ đọc sách Tàu
    rồi suy diễn ra. Từng đọc các sách Mác xít ‘militant’… Ân không chấp nhận quan niệm Mác xít về con
    người cả về duy vật biện chứng pháp. Sau học Dịch với thuyết Âm Dương chấp nhận nhất thể lưỡng
    diện’ - Tâm vật là Một…
    «Sai lầm căn bản của Max nhận xét con người ‘vật chất biết suy tư’. Ân đưa ra tưởng Phục
    Việt giúp suy nghĩ về hậu cộng sản. Tất cả vấn đề sự sống của con người cho nên Ân dùng câu ‘nhân
    năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân’ của Khổng Tử làm căn bản cho Phục Việt. Tôi vui lòng chấp nhận
    làm người mất nước n sống với cộng sản. tôi không ưng về ớc khi cộng sản còn làm độc tài
    sản…. Về nhận định con người sự sống Ân thưa: phải sống bốn chiều: thể xác, tâm tư, tâm trí, tâm thần
    (hồn)».~
    Sau ngày Bác Ân tạ thế, Bác gái Như Thủy Kim gởi cho chúng tôi giữ làm tài liệu kỷ
    niệm bản hồi của Bác Ân. Chúng tôi thấy cần được phổ biến rộng rãi hơn nên tham khảo ý kiến của
    Bác gái nhờ người em kết nghĩa họa Trần Minh Tâm Strasbourg Pháp giúp đánh máy. Nhờ đó
    chúng tôi nhơn ra nhiều bản gởi đến các thân hữu của Bác Ân để gìn giữ, hoặc khi có đầy đủ phương tiện sẽ
    xuất bản thành sách trịnh trọng hơn.
    Đây là hồi ký hiếm hoi được cân nhắc chắc chiu của một đời người từ thuở nhỏ đến tuổi trượng triều
    trượng quốc. Hồi gồm nhiều chương như ‘Thằng Nhỏ Ăn Chay Đi Học’, ‘Đời Thằng Quang Huy‘, ‘Thư
    Viết Cho Con’ v.v… Căn cứ vào thiên hồi nầy chúng tôi xin ghi lại một vài nét chánh yếu lòng vững
    tâm không sợ bị sai lạc do nạn ‘tam sao thất bổn:
    Bác Ân chào đời vào năm 1903 lúc đêm 23 rạng 24 tháng chạp âm lịch vào giờ tý tại làng Định Yên,
    Cái Dầu, tổng An Phú thuộc quận Thốt Nốt, trước đây thuộc tỉnh Long Xuyên. Cái tên Quang Huy của Bác
    tên Đạo do ông lão chùa Minh Long Xuyên, hiệu Quảng Đức Tế đặt cho, do ngườic Hai của Bác
    đưa Bác vào thọ giáo, cầu Đạo vào khoảng năm 1907-1908. Bác cũng thố lộ ngày xưa dòng họ của Bác
    thuộc họ Phạm, về sau mới đổi thành họ Trần kể từ đời của Bác đến các thế hệ con cháu tất cả đều cùng
    mang họ Trần.
    Những năm được dịp tiếp xuất với Bác Ân, Bác đã để lại trong chúng tôi bao nhiêu lời nói hay
    tưởng đẹp, xuất phát từ một tấm lòng trung với nước hiếu với dân, một lòng một dạ kiên định lập trường
    chống lại chủ nghĩa thần cộng sản Đệ Tam cùng gian nhân hiệp đảng đang ngự trị nơi quê nhà, phá
    nát đất nước, dìm dân tộc xuống tận cùng của vực thẳm. Chúng tôi không sao không ghi lại những cảm xúc
    của chúng tôi đối với những Bác đã gieo trong lòng mình, những yếu tố giá giúp chúng tôi minh định
    rõ ràng vị trí và hướng đi của mình.
    Bây giờ chúng ta thử nhắm mắt bình tâm lắng tai nghe tâm tình của Bác Ân v một vài lãnh vực
    nhức nhối của thế hệ chúng ta. của cả lớp hậu sanh hải ngoại trong nước nữa. Đại khái như quan
    niệm nhứt quán của Bác về hai chữ Dân Chủ, một đề tài từng gây tranh luận sôi nổi trong các giới chánh trị
    và đấu tranh ở hải ngoại:
    «Trong vấn đề Dân Chủ hai đoạn: dân do dân. Mà vấn đề tối quan hệ tin cậy, đồng
    thuận (consensus), cộng đồng ưng ý trọng nhân phẩm, biết thủ pháp phụng công. Vấn đề Tự Do nói cho
    chánh trị, chớ ít ai définir (định nghĩa) được ‘la liberté’. Trước kia, nhiều nhà hoạt động chánh trị
    đấu tranh tên tuổi cùng tôi chỗ bất hòa phần lớn trong số đó cho ‘nếu Dân Chủ xong mọi
    chuyện’.
    «Tôi bảo không chia Dân Chủ ra hai giai đoạn: ‘Vì Dân’ ‘Do Dân’. Bởi cộng sản làm việc
    không kể hay nguyên tắc. cộng sản đã nắm hạ tầng ta thì tổ chức Dân Chủ toàn diện, đầy đủ, cho
    bầu cử cấp tỉnh, quận là mình câu cá cho nó ăn, là mình thua ngay. Nên làm ngược lại là đi từ trên xuống, vì
    dân trước. Vấn đề nầy đòi hỏi lãnh đạo hy sanh. Mà mình không có lãnh đạo, không có:
    Kỳ thân chánh bất lịnh nhi hành
    Kỳ thân bất chánh lịnh nhi bất hành.
    Không có lãnh đạo vì không có người biết thương người cộng sự...
    “Nói tới Dân Chủ, ta phải thận trọng đáo để Dân Chủ không chỉ nhằm tự do bản năng liberté
    des instincts phải đặt vấn đề toàn diện, coi trọng đặc biệt vấn đề trách nhiệm kỷ luật đối với công
    lợi công ích, trong sự điều hợp phức biến harmonisation de la diversité. Phải quan niệm nhân một
  • phần tử không tách rời của cộng đồng. Cho nên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cộng đồng phải đi đôi
    với tự do cá nhân”.
    Tiếp theo chúng ta hãy nghe Bác tâm sự chung quanh cờ quốc gia, Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, tượng
    trưng cho chánh nghĩa Việt Nam, tượng trưng cho niềm tin hy vọng của cộng đồng lưu vong trong công
    cuộc giải thể chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay ở quê nhà:
    “Đó phải Quốc Kỳ,xét gần xét xa đều thấy đáng bảo trọng. Xét gần thì do óc phản đối thực
    dân đem chia đất nước ra ba kỳ, nay trương cờ ba sọc nằm trong một nền vàng muốn nói lên ý chí
    thống nhất đất nước lại một mối. Như vậy không đáng bảo tồn sao! Tuy nhiên đó mới là vòng ngoài thuộc ý
    thức, còn vòng trong thuộc tiềm thức thì sâu xa hơn nhiều: nền vàng chỉ trung cang hành thổ nơi của con
    người đại ngã tâm linh nên Kinh Dịch nói ‘an thổ đôn hồ nhân, cố năng ái’. Muốn vào được chốn an thổ nọ
    thì không thể đi theo lối bái vật hay ý hệ, phải dụng ánh sáng tâm linh biểu thị bằng màu đỏ lửa quẻ li.
    Quẻ li nằm cung thứ ba trong tiên thiên bát quái nên hàm ngụ triết số ba: trời, đất, người, tức nền
    nhân chủ, một triết lý cao hơn hết mà loài người có thể nghĩ ra.
    “ Như vậy còn đáng bảo tồn hơn nữa. Chỉ có những kẻ đã vong bản, chạy theo lời xúi dại của ngoại
    bang mới trân tráo chối bỏ. Chúng ta cần cự tuyệt những kẻ bất rễ đó. Nếu Quốc Khánh Việt Nam phải
    ngày giỗ Hùng Vương thì Quốc Kỳ phải là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”.
    Tuy nhiên một đề tài làm cho chúng tôi quá đỗi xúc động vì những nhận xét của Bác xuất phát tự trái
    tim của người Việt Nam truyền thống muôn thuở, được soi sáng bởi biết bao thành quả hiển hách của tiền
    nhân tinh anh chói lòa của Tổ Tiên Dòng Tộc. Chúng tôi nghĩ tin chắc rằng những người đọc qua tinh
    thần Hồn Nước của Bác skhâm phục thấm thía với những Bác rút ruột tầm để động thăng hoa
    nên lời.
    Hồn Nước cũng tên tờ báo do cTrần Văn Ân chủ trương xuất bản chỉ được hai năm 1981-1982.
    Tòa soạn đặt tại số 4 Place Méditerrannée 95200 Sarcelles.
    “Sông núi có Khí Thiêng. Nguồn gốc có Uy Linh. Dân tộc có Hạo Khí. Quốc gia có Đạo Nghĩa. Trời
    đất có Chánh Khí.
    “Khí Thiêng, Uy Linh, Hạo Khí, Đạo Nghĩa hòa với Chánh Khí gọi chung Quốc Hồn, Hồn
    Nước.
    “Hồn Nước là phần linh thiêng của Quốc Gia Dân Tộc, là cái tinh thần keo đọng của giồng giống từ
    ngày lập quốc.
    “Hồn Nước là cái đúc thành của văn hóa dân tộc, của nền minh triết của thánh hiền từ ngàn xưa.
    “Hồn Nước phần thăng cao của giòng lịch sử oanh liệt của giống nòi trong công cuộc giữ gìn sự
    nghiệp của tổ tiên.
    “Hồn Nước ánh sáng bừng lên của giòng máu hiền tài dựng nước, ý chí hùng dũng của phu
    giữ nước.
    “Hồn Nước là cái vấn vương bên mọi người, là cái không nhìn thấy mà có thường xuyên, là sức linh
    thiêng phò trì ta và cho ta hy vọng.
    “Hồn Nước là khí phách nối liền muôn ngàn thế hệ, là sự sống tinh thần miên tục của Dân Tộc.
    “Trong cái triền miên động, trong sự đào thải liên tiếp, trong cái sinh sinh hóa hóa, Hồn Nước
    cái mãi còn, và còn trong sự nẩy nở không ngừng của Dân Tộc để tự thành tựu và tự thể hiện.
    “Ta còn sông núi, còn nhân dân, còn lịch sử văn hóa, dầu cho ta mất chủ quyền quốc gia, thì ta
    chưa hẳn mất, nước ta chưa hẳn tan nếu ta còn Hồn Nước và tranh đấu.
    “Còn Hồn Nước ta còn tất cả bởi vì uy linh của Nguồn còn không thể khô cạn, bởi uy linh nầy
    xuất phát từ Chính Khí của Trời Đất.
    “Ta nhớ Nguồn ta biết ta cùng Trời Đất Một. Nguồn của ta nguồn Rồng Tiên. Rồng sức
    mạnh đại lượng Tiên mỹ lệ tinh anh. Cả hai thể hiện của Chánh Khí. Ý thức Nguồn ta ý thức Âm
    Dương, là ta ý thức Thiên Đạo.
    «Ý thức Hồn Nước là ta ý thức sự sống còn của Dân Tộc.Với ý thức nầy ta lập chí:
    Phục quốc cho Dân Tộc sống còn.
    Phục Việt cho hậu thế nẩy nở.
    Trì thái bình cho nhân loại âu ca».
    Cùng một nhịp suy nghĩ trên đây, Bác Ân không quên đề cập đến một khía cạnh khác cũng cùng
    quan trọng, cực kỳ bức bách, không thể thiếu sót trong cuộc sống hằng ngày của người Việt Nam. họ
    đang sinh sống trong nước hay ở hải ngoại. Đó là Văn Hóa và cũng nhờ nền tảng vững chắc của Văn Hóa mà
    chúng ta mới sở chống lại chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam suốt thời kỳ Nội hiếu chiến tập trung chủ
    lực với sự triệt để ủng hộ của tập đoàn cộng sản quốc tế nhằm xâm chiếm thôn tính Miền Nam. Và chúng tôi
    cũng xin xác nhận thêm một lần nữa là nhờ đó tạo niềm tin và hy vọng của cộng đồng Việt Nam tỵ nạn ở h


Thật là đẹp và Bác Ân rất xứng đáng với những lời tán tụng đó. (Trích trong Thơ Văn Lang Và Chư Hữu trong Tủ sách Gia đình 1992).
Sau cùng, chúng tôi xin trích dẫn tâm tình của tác giả Nguyễn Sỹ Hưng trong bài Vĩnh Biệt Nghĩa Huynh Trần Văn Ân:
Người từ chốn đồng quê ruộng rẫy
Sống cuộc đời sôi nổi suốt trăm năm
Học bên Tây để yêu nước Việt Nam
Để chống Pháp, để ngồi tù đế quốc.

Lửa cách mạng người đốt thành bó đuốc
Người vào tù ra khám biết bao phen
Không làm quan, ngồi cùng với dân đen
Đòi quyền sống, đòi tự do dân chủ.

Người thừa sức sống cuộc đời no đủ
Nhưng công danh coi tựa đám phù vân
Khi sang Tàu, khi lưu lạc Thiên Nam
Khi làm báo khi thét to độc lập.

Khi Đỗ Phủ viết câu thơ «thất thập» (*)
Người ngang nhiên sống vượt mấy mươi năm
Em tiếc sao mảnh đất chỗ người nằm
Lại không phải ở quê hương yêu dấu.

Người chiến sĩ suốt cuộc đời chiến đấu
Lúc ra đi thanh thản vẫn tay không
Có ai đem thất bại với thành công
Để đàm luận anh hùng cho được nhỉ?

Treo gương sáng cho đầu xanh tuổi trẻ
Hỡi người cha! người đồng chí trung kiên
Việc của người con cháu sẽ không quên
Hỡi người bạn! người anh đầy nhiệt huyết !

Từ nước Mỹ em tay run muốn viết
Muốn khóc anh khi sự nghiệp chưa thành
Thể xác mất đi, còn lại thanh danh
Còn lại tấm gương muôn đời soi sáng.
(*) Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
                  Nhân sinh thất thập cổ lai hy
Đỗ Phủ
            Nhà văn Ái Nhĩ Lan Jonathan Swift (1667-1745) có lưu lại hậu thế câu nầy: “Vivre dans le Coeur de ceux que nous laissons derrière nous, ce n’est pas mourir». Có thể tạm dịch như sau: Sống trong tim của những người chúng ta đã bỏ lại sau lưng chúng ta, đó không phải là chết.
Bác Ân! Bác là một trong những người hiếm hoi đó!

Dân Mộc Tiểu Lộ (Allée des Peupliers)
Viết xong ngày 30 tháng 5 năm 2017

No comments:

Post a Comment