Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Saturday, 15 March 2014

CAO ĐÀI ++ VIỆT NAM ĐẠI CÁCH MẠNG I







VIỆT NAM
ĐẠI CÁCH MẠNG.
“CÁCH MẠNG BẰNG NHƠN NGHĨA”
BIÊN  SOẠN
NGUYỄN PHÚC THÀNH.
Email: thanh.minh96@yahoo.com
BẢN IN NGÀY 25-01-2014.




NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

LỜI THƯA TRƯỚC.
“In God We Trust”
“Chúng Ta Tin Vào Thượng Đế”.
“Phương thức cách mạng bằng nhơn nghĩa đã ra đời”

Kính quí vị anh hùng, chiến sĩ đã hy sinh tính mạng, xương máu cho dân tộc và tổ quốc.
Kính các tổ chức thiện nguyện giúp cho Việt Nam và nhân loại được sống trong nhân quyền và tự do tôn giáo.
Kính quí đồng đạo và đồng sanh.
Chúng tôi là những người theo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) hay Đạo Cao Đài xin mượn tiêu ngữ của Hoa Kỳ: In God We Trust (Chúng Ta Tin Vào Thượng Đế) làm nhịp cầu để thưa với quí vị rằng: Chúng tôi cũng tin vào Thượng Đế.
Trong tinh thần tín ngưỡng Thượng Đế chúng tôi xin kính trình với quí vị rằng: Thượng Đế đã đến trần gian chỉ cho nhân loại các công thức và nguồn máy để xây dựng một thế giới hòa bình.
Thượng Đế đến chỉ dạy bằng cách nào?
Thượng Đế đến dạy bằng cách dùng cơ bút.
Thượng Đế dạy năm nào? ở đâu?
Xin thưa dạy từ năm 1925, cho môn đệ ở tại Sài Gòn. Thượng Đế dạy các vị về lập ra Tòa Thánh ở Tây Ninh làm nguồn cội cho ĐĐTKPĐ.
Những lời dạy đó đã được công khai ra toàn nhân loại từ ngày 15-10-Bính Dần (19-11-1926). Hiện nay Tín đồ ĐĐTKPĐ đang truyền bá công thức của Thượng Đế dạy về cách thức xây dựng một thế giới hòa bình, dân chủ, tự do... bằng nhiều hình thức.
Trong tập sách nầy chúng tôi trình chánh rằng Hội Thánh Cao Đài đã áp dụng những công thức nầy để thực hiện một cuộc cách mạng xây dựng xã hội mới bằng NHƠN NGHĨA rất rõ ràng.
. Phần công thức Lập quyền dân; Dân mạnh do Thượng Đế dạy.
. Phần phân tích là do chúng tôi học từ quí vị tiền bối có trách nhiệm khai đạo đặc biệt là của Giáo Chủ Phạm Công Tắc.
. Phần làm rõ là đúc kết từ thực tế xây dựng nên vùng Châu Thành Thánh Địa và các sinh hoạt trong tôn giáo. Phần nầy chúng tôi trình bày sơ lược về 05 chương trình đã thực thi: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân trí và dân sinh.
Đem những công việc trên phân tích theo khoa học sẽ lộ rõ ra tiến trình của một phát minh mới: trình bày phát minh và thực hiện phát minh.
Điều quan trọng là trình bày cách tổ chức bộ máy nhân sự để thực hiện 05 chương trình và 03 phương diện trên. Từ đó cân nhắc để ứng dụng vào Việt Nam (theo nguyên tắc Taylor).
Sự tự nguyện hưởng ứng, tham gia của dân chúng là thước đo giá trị của mọi cuộc cách mạng (phát minh mới). Công thức đúng là nguồn năng lượng vận hành, là nội lực để vượt qua mọi khó khăn trong nội bộ, là sức mạnh xô ngã mọi chướng ngại và đi đến sự thành công.
Phương thức cách mạng bằng NHƠN NGHĨA rất biện chứng và sinh động: lý luận đi đôi với thực hành. Nó đóng vai trò như phòng thí nghiệm để kiểm chứng các phát minh hay công thức là đứng đắn.
Đức tin là sự nhận thức về chân lý.
Từ các việc trên được minh bạch thì tính khả thi của công thức với cộng đồng xã hội nhỏ, lớn trong buổi năm châu chung chợ bốn biển chung nhà là điều chắc chắn. Thế giới mới ra sao do chính nhân loại xây dựng nên mà có.
Chúng tôi kính mong quí vị lưu tâm nhận định xem phần trình bày các công thức, phân tích và thực hành có gì thiếu chắc chắn hay không. Những nhận xét của quí vị giúp chúng tôi có thêm kiến thức để nhìn lại những nhận thức chính mình. Nhưng quan trọng hơn là những người yêu hòa bình và công lý ở Việt Nam và thế giới có dịp suy nghĩ thêm công thức mới làm hành trang trên đường phụng sự. Bởi vì chính các vị cũng đang dùng NHƠN NGHĨA để thực hiện cách mạng mà không cần đến súng ống, bạo lực.
Cuộc cách mạng dùng NHƠN NGHĨA để xây dựng xã hội dân sự  dù rằng diễn ra trong hòa bình (không dùng súng đạn) vẫn liên quan đến hạnh phúc, đau khổ hay xương máu những người công nghĩa... Cho nên những người thật tâm thương dân, yêu nước rất cẩn thận. Phải luận cổ suy kim, kế thừa tinh hoa của dân tộc, tiếp thu cái mới đem dung hòa với nhau cho được ổn thỏa rồi mới trình ra cho quần chúng hiểu biết. Trong khi trình ra phải chấp nhận mọi sự phản biện công khai và dân chủ. Khi đã cân phân mọi lẽ nên hư mới hiệp đồng nhau để tạo thời cải thế.
Phần tìm hiểu, nghiên cứu dung hòa là của trí thức, đạo tâm biết thương dân, thương nước. Nếu thật sự vì giống nòi, vì tổ quốc thì truyền bá cho dân hiểu để thực thi chớ không phải cưỡng bức người dân phải theo, ai không nghe theo thì tàn sát như cách làm của cộng sản rồi biện minh rằng bạo lực cách mạng. Súng cách mạng mà bắn giết người dân thì cũng đồng với súng thực dân Pháp bắn giết người dân. Kẻ sát nhân kia chỉ giết có một người mà xã hội còn lôi ra xử tội; kẻ giết hàng loạt người lại được tung hô ca ngợi và gắn huân chương đầy ngực cho họ thì chưa phải là xã hội loài người văn minh tiến bộ.
Ông Gandhi làm cách mạng bất bạo động đã thành công sao không học, không nghiên cứu thực thi cứ đem bạo lực cách mạng ra để giết hại đồng bào chủng tộc. Nước Đức thống nhất đâu phải tốn xương máu như cách cộng sản làm. Cộng sản giết người không gớm tay. Giết lầm hơn bỏ sót là khẩu hiệu máu của cộng sản.
Trong Ngục Trung Thư Cụ Phan Bội Châu đã nhận xét về đường lối của Hồ Chí Minh: ...đường lối của người thanh niên nầy nếu đem ra thực hiện thì máu sẽ chảy thành sông, xương sẽ chất thành núi... Cộng sản Việt Nam đã làm đúng y như thế. Cộng sản giết dân Việt Nam nhiều  nhất trong lịch sử.
Cộng sản khởi đầu bằng dối trá và bạo lực, tiến hành bằng dối trá và bạo lực, khi đã thành công thì cai trị bằng bạo lực và dối trá bằng pháp luật. Súng ống, mã tấu, lưỡi lê... với dối trá đã tạo ra chế độ cộng sản.
Cộng sản nắm chánh quyền họ dối trá bằng cách nay thay mai đổi (kể cả hiến pháp mà họ cho là rất quan trọng). Lời nói đầu hiến pháp 1980 xác định Trung Quốc là kẻ thù xâm lược; đến hiến pháp 1992 thì nó biến mất và công thức 16 chữ vàng cùng 04 tốt như từ đất nẽ chui ra mà không cần cho dân chúng biết vì sao thay đổi như vậy?.
Điều số 04 hiến pháp 1992 người dân muốn xóa bỏ nó mà Đảng không dám đem ra thảo luận công khai chứng tỏ họ rất sợ. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết thố lộ nổi sợ hãi: Bỏ điều bốn Hiến pháp là tự sát.
Năm 2013 khi bể ra vụ tham nhũng của Vinalines cả nước phẩn nộ thì cộng sản đem việc sửa hiến pháp 1992 ra che đậy cho bọn tham nhũng. Kết quả là hiến pháp sau tệ hơn hiến pháp trước.
Cộng sản âm mưu đưa dân tộc vào ma trận luật pháp để dân bị rối trí trong đó rồi chịu cho họ thao túng. Việt Nam có một rừng luật nên cứ lấy luật rừng ra xài. Cứ làm được một thời gian rồi hô hào đổi mới, hô hào định hướng mới. Họ đang cho dân tộc leo cây thoa mở bò. Cố bám để leo thế nào đi nữa cũng rớt về vạch xuất phát và tình trạng còn bê bết hơn trước do mất sức, mất thời gian và mất mạng.
Đảng có 02 thứ luật: luật dành cho Đảng và luật dành cho công dân hay tổ chức (pháp nhân) ngoài Đảng như tôn giáo... xin lấy chứng cứ từ ĐĐTKPĐ làm bằng.
./- Luật dành cho Đảng: Các nhân sự đảng ủy lãnh đạo PMU 18, Vinashin, Vinalines.... tham nhũng làm thất thoát hàng chục ngàn tỷ đồng từ tiền thuế của dân. Cái pháp nhân đẻ ra PMU 18, Vinashin, Vinalines là Đảng cộng sản. Đảng xữ mấy tay Đảng viên tham nhũng chớ không xữ CÁI PHÁP NHÂN đẻ ra nó là Đảng cộng sản Việt Nam.
./- Luật dành cho ngoài Đảng: Năm 1978 Đảng phân công cho Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh ra Bản Án Cao Đài kết tội các vị lãnh đạo tôn giáo là phản quốc... đúng sai không cần biết, Đảng lập tức tịch thâu tài sản tôn giáo và XỬ PHÁP NHÂN ĐĐTKPĐ không được hành đạo.
Đảng xử theo luật rừng nên xã hội ngày càng rối loạn là tất nhiên.
Làm cách mạng mà người dân bị mất tự do, xã hội thục lùi về dân chủ, văn hóa, y tế, giáo dục... đời sống vật chất thiếu thốn, khổ sở hơn trước, tinh thần bất an thì đó là phản cách mạng.
Dân tộc Việt Nam có óc thông minh, cần cù và tín ngưỡng. Trước ngày cộng sản chiếm miền Nam vị trí VNCH không thua bất cứ quốc gia nào ở khối Asean. Ngày nay Việt Nam thua tất cả lân bang về kinh tế, tự do, dân chủ và tự do tôn giáo là phản cách mạng.
Bộ máy công quyền Việt Nam nổi tiếng về bạo lực, tham nhũng, thiếu minh bạch, xài bằng cấp giả, bắt giam và hành hạ những người không cùng chính kiến.... Đó là phản cách mạng.
Chùa chiền ngày nay được Đảng biến thành nơi kinh doanh tôn giáo nên im lặng trước những thảm trạng của xã hội. Đảng dạy cho họ lừa đảo kinh văn đưa xã hội vào mê tín để Đảng dễ bề cai trị.
Đảng độc tài đã tạo ra tham nhũng khủng khiếp làm đất nước suy yếu về mọi mặt nên cái hiểm họa từ phương Bắc (Trung Cộng) đang lù lù đi tới. Tệ hại khởi nguồn từ Hồ Chí Minh chối bỏ văn hiến sẳn có đem chủ nghĩa cộng sản ngoại lai về đầu độc dân tộc. Dùng bạo tàn giết hại đồng bào, bán đứng tổ quốc....
Tóm lại: Cộng sản hứa rất nhiều nhưng làm thì KHÔNG CÓ GÌ.
Con người dù theo tôn giáo nào cũng có tổ quốc. Đã sống trong tổ quốc thì đã thọ ơn tất đất ngọn rau nên phải có trách nhiệm với sự thịnh suy hay tồn vong của tổ quốc.
Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhận xét rằng: Một người tuyệt vọng thì sẽ tự vận. Một dân tộc tuyệt vọng sẽ đứng lên làm cách mạng.
Những con sóng biển ngày đêm vỗ bờ rồi tan biến; trong tan biến có tích tụ để tạo ra những trận cuồng phong, những cơn bão tố. Những tin tức về tham nhũng, về bạo lực ngày đêm tan chảy vào lòng dân, nó tích tạo sự phẩn nộ để ngày kia bộc phát thành cuộc cách mạng đạp đổ gông xiềng, phá vòng nô lệ của cộng sản, xây dựng một xã hội mới.
Xã hội mới có diện mạo như thế nào là điều rất quan trọng nó góp phần tiết kiệm xương máu người công nghĩa. Những cuộc cách mạng xô ngã chế độ độc tài ở một số nước do chưa vạch rõ được hiến pháp lập quyền dân, dân mạnh... nên những người công nghĩa lại phải tiếp tục hy sinh tánh mạng... chúng ta nên nhìn vào đó để tránh.
Nhà bác học Enstiens nói rằng: "Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng". (Science without religion is lame. Religion without science is blind.).
Chúng tôi chỉ là người mạo muội đóng vai trò giới thiệu rằng từ kho chí bữu của Thượng Đế ban cho nhân loại Hội Thánh đã vận dụng để thực hiện cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA. Dân chúng tự nguyện hưởng ứng và góp phần thực hiện là thước đo của sự thành công.
Cuộc cách mạng như vậy theo nhận thức của chúng tôi là mới.
 Dầu rất cố gắng nhưng chúng tôi tin chắc chắn rằng không trình bày hết được những điều sâu xa trong các công thức và cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA đã diễn ra từ năm 1926. Nhưng tự tin rằng tránh được sự mù quáng mà nhà bác học Enstiens đã cảnh báo.
Chúng tôi hiểu rằng nhân loại là con chung của Thượng Đế, không đồng đạo cũng là bạn đồng sanh. Nên không phân biệt lương hay giáo; không phân biệt chính kiến, ngôn ngữ hay màu da sắc tóc. Mọi phản hồi của quí vị chúng tôi sẽ thảo luận trong tập thể và hồi đáp cụ thể không né tránh, thối thoát bất cứ vấn đề nào.    
Nay kính.

Nguyễn Phúc Thành.
Email: thanh.minh96@yahoo.com
@@@
NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.

LỜI TRÌNH CHÁNH VỀ TỰA CUỐN SÁCH.
Là một phần của Việt Nam Đại Cách Mạng

Đức Thượng Đế hoằng khai ĐĐTKPĐ là để xây dựng một tân thế giới cho nhân loại. Thay đổi diện mạo của cả địa cầu chính là làm cách mạng (Tạo đời cải dữ ra hiền). Cách mạng xuất phát từ tôn giáo nên tiến hành theo phương pháp ôn hòa (đại hùng, đại lực, đại từ bi). Đó chính là cuộc đại cách mạng xuất  phát từ Việt Nam.
ĐĐTKPĐ là một phát minh để xây dựng một thế giới mới trong tình thương và công bằng. Hội Thánh thực hiện cuộc cách mạng nhơn nghĩa lập nên Châu Thành Thánh Địa như một phát minh, phải đem ra kiểm chứng trong xã hội. Cuộc kiểm chứng đã có kết quả.
Chủ đích cuốn sách nầy là trình chánh những điểm căn bản về cuộc cách mạng nhơn nghĩa mà Hội Thánh đã thực hiện. Như vậy nó chỉ là một phần trong chương trình xây dựng tân thế giới của Đạo Cao Đài. Trong phần trình chánh chúng tôi cũng chỉ trình chánh về xã hội học.
Đạo khai trong buổi năm châu chung chợ bốn biển chung nhà thì từ giáo lý, pháp luật, tổ chức phải là hệ thống mở mới đáp ứng được luật cung cầu trong thời toàn cầu hóa. Trong cái mở vẫn có những hòn đá tảng bất di bất dịch đó là Pháp Chánh Truyền.
Nhân loại đã quá ngán ngẫm, chán chê với các thứ cấm đoán (bất khả xâm phạm như điều bốn hiến pháp Việt Nam...) cho nên nghe nói cấm thì phải e dè sợ sệt (như chim rày đã sợ làn cây cong...). Nên chúng tôi xin thưa rằng NGƯỜI CẤM là để làm lợi cho gia đình, dòng họ hay đảng của họ. Còn TRỜI CẤM thì khác.
Trời là sự sống, là tình thương, là công bằng thì Trời cấm là cấm giết hại đồng loại, cấm ngăn chận tình thương, và cấm vi phạm luật công bằng. Cái cấm của Trời và của Người khác nhau là như vậy.

Cụ thể thì Pháp Chánh Truyền của Thầy rất ngắn gọn, người đạo  có lưu ý một chút là nhớ ngay và hiểu được phần cơ bản. Nếu Thầy cho phép sửa Pháp Chánh Truyền là gây xáo trộn trong chánh giáo. Còn như đi vào chi tiết thì người có quyền thường hay lạm quyền. Pháp chánh truyền phân quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp và  có mấy nội dung chính: Hành Pháp: Ấn định các bậc phẩm, số lượng mỗi phẩm, trách nhiệm mỗi phẩm. Tư Pháp: Hiệp Thiên Đài. Lập Pháp: tất cả nhân sự tôn giáo đều có quyền tham gia lập pháp trong cơ chế cụ thể.
Đặc biệt nhất là nhơn sanh có quyền kiểm soát, giám sát việc làm của nhân sự tôn giáo (muốn thăng phẩm phải được nhơn sanh đồng ý và khi thất đạo nhơn sanh có quyền xô xuống), tổ chức tôn giáo... phải nâng đỡ trí thức tinh thần của nhơn sanh lên cao đặng hiểu cho toàn chơn lý hầu đủ phương kiềm chế hành động của Hội Thánh. Bởi học trò Thầy phần lớn là ít học và chưa hiểu quyền của mình được lập từ Pháp Chánh Truyền nên Thầy sợ chức sắc lộng phép.
Trời cấm sửa đổi những điều trên chính là để bảo vệ hạ tầng (nhơn sanh). Nếu Thầy không cấm thì e rằng thượng tầng tìm phương rún ép, rồi hạ tầng lo chống lại là tự triệt tiêu sức mạnh của đạo và để cái gương không hay. Trời cấm là để tạo lợi khí cho nhơn sanh.
(Biểu tình ở Thái Lan cuối năm 2013 là do thượng tầng tạo ra. Thái Lan có dân chủ, có tự do (được ban phát); nhưng chưa lập quyền dân. Dân chưa có quyền kiểm soát chính phủ, nên Thủ Tướng Yingluck  mới dám đưa ra một dự luật ân xá cho tham nhũng mà người hưởng lợi nhất là người anh trai của bà (thủ tướng Thaksin bị lật đổ do tham nhũng). Luật ân xá bị bác bỏ nhưng nó chính là giọt nước tràn ly làm cho tốn xương máu và ngân quỷ đất nước...).
Tóm lại Trời cấm là để làm lợi cho nhơn sanh, còn người cấm thì cần phải hết sức cảnh giác là đúng.
@@@
La Mã không xây nên trong một ngày. Paris không xây nên trong một ngày. Cây cổ thụ cũng phải khởi đầu từ sự mầm nhỏ. Cho nên cuộc đại cách mạng của Đạo Cao Đài cũng phải theo qui luật của tự nhiên và xã hội: Khởi từ Châu Thành Thánh Địa rồi mới lan tỏa ra thế giới.
Từ chổ rừng thiêng nước độc, sơn lam chướng khí, đất không màu mở nên thực dân Pháp chê bỏ... Phương tiện khai phá thời đó chủ yếu là sức người và sức cày kéo của gia súc; mà thú dữ thì rình bắt gia súc, tấn công người...và đặc biệt nguy hiểm là sự nghi kỵ của chính phủ Pháp (còn dữ dội hơn tất cả những khó khăn trên hàng trăm lần). Nhưng với phương pháp cách mạng ôn hòa và nội dung phù hợp, đắc nhân tâm (dân mạnh và lập quyền dân) môn đệ Thượng Đế đã tạo nên trang sử vàng.
Trong môi trường và tài nguyên hết sức khắc nghiệp, nghèo nàn  như vậy nếu chỉ có lòng tin thì chưa đủ để lập quốc. Chính nhờ nhơn nghĩa thật sự được thực hiện thì người dân mới chấp nhận ở lại, chấp nhận dấn thân để xây nên một quốc gia trong một quốc gia.
Người Miên lúc đầu đến rất đông (hàng ngàn người), là thành phần chủ lực trong công cuộc khai hoang, mở đất. Họ đến nơi sơn lam chướng khí như thế là do cái gì? Chính là do đức tin.
Chính phủ Pháp đã tác động lên hoàng gia Cao Miên để cấm đoán dân Miên không cho sang Việt Nam. Số người Miên vơi dần nhưng số người Việt lại tăng lên. Tại sao số người Việt tăng lên?
Bởi vì họ hiểu được phương pháp dùng đạo đức để xây dựng xã hội của đạo. Họ thấy được tương lai trong từng bửa ăn chỉ có rau và muối, trong từng ngày công quả... cảnh người và người sống trong tình thương và công bằng đã hiện ra trước mắt họ từng bước một. Đức tin và hiện thực sánh đôi nhau đi vào đời họ.
Họ không cần chờ ai ban phát, không ăn mày tình thương và công bằng.  Chính họ quyết định góp phần tạo nên cuộc cách mạng nhơn nghĩa mà hôm nay chúng tôi trình chánh./.
THIÊN THỨ NHẤT.
TỔNG QUÁT VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI...
Bức tranh nào cũng có gam màu chủ (căn bản) của nó. Bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thời cộng sản có gam màu gì?
Gam chủ đạo của cộng sản là độc tài, ngu dân và bần cùng hóa nhân dân. Hiểu được như vậy thì hiểu được tất cả việc làm của Đảng.
Sau khi hô hào quần chúng đánh đổ giai cấp thống trị thì cộng sản nắm quyền thống trị. Đảng lập những tập đoàn kinh doanh thua lỗ làm cho dân nghèo, kinh doanh lời cũng làm dân nghèo... Dân nghèo thì chỉ còn biết chạy tần chạy sở lo cho khỏi đói; con cái không được học hành tử tế để mở mang là tự rơi vào bẫy ngu dân.
Những ghi nhận điển hình về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục... đã chứng minh cho 03 gam màu đó. Trong thời đại internet thì tin tức rất nhanh và rất nhiều muốn nói xấu hay nói tốt theo sự chủ quan của người viết cũng không được. Tráo trở biến đá thành vàng lại càng không được, chỉ làm trò cười cho thế gian. Nói thật là dễ nhất. Từ lẽ thật cho chúng ta nhận định giống nòi và tổ quốc đang bị lâm nguy bởi:
. Từ bên trong là sự thối nát của chánh quyền hiện tại.
. Từ bên ngoài là hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc.
Muốn giải nguy dân tộc phải thức tỉnh và có phương pháp đứng đắn không thể vừa làm vừa học theo kiểu cộng sản bởi vì đã có rất nhiều cuộc đấu tranh cách mạng đã diễn ra thành công mà không cần đến súng ống, lưỡi lê, mã tấu.... Cuộc đấu tranh của Gandhi và Neson Mandela là những bằng chứng sống.
@@@
I/- BA CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG.
Từ ngày thành lập (1930) đến nay Đảng Cộng Sản Việt Nam có 03 chủ trương lớn và xuyên suốt: độc tài, ngu dân và bần cùng hóa. Đó là MA TRẬN đưa dân tộc ta đến thảm họa hiện nay.
1/- Tham nhũng và lợi ích nhóm đi đến thối nát.
Sự cai trị của Đảng cộng sản đã đưa đất nước đến chổ kiệt quệ, ngân khố trống rỗng và nợ nần đầm đìa. Báo lề phải đưa tin tính đến đầu năm 2013 đã là 100 (một trăm) tỷ USD. Báo lề dân và các trang web khác ở nước ngoài đưa tin 133 tỷ USD.
Tham nhũng mạnh đến nổi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sợ hãi không dám công khai danh tánh gã tham nhũng trong Bộ Chính Trị, nhưng bị nhân dân chất vấn bí quá lỡ miệng gọi là đồng chí X.
Tiên sinh Ngô Thừa Ân khi viết chuyện Tây Du Ký hư cấu việc Thầy trò Đường Tăng hối lộ để có kinh hữu tự. Với bậc thức giả thì đó là một công án để tìm hiểu về chân lý. Với người bình dân thì đó là chuyện để mỉa mai, biếm nhẽ bọn quan tham lại nhũng cấp nhỏ hối lộ cho cấp lớn làm điêu đứng dân lành.
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng thấy tham nhũng mạnh quá đã hết thuốc chữa và sẳn sàng loại bỏ ông Trọng nên ông sợ mất chức, phải mua lòng tham nhũng để nó tha cho. Ngày 07-12-2013 trong dịp tiếp xúc cử tri Hà Nội bị chất vấn về vấn đề tham nhũng vì sao tràn lan. Ông Nguyễn Phú Trọng trả lời: “Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ. Bước chân sang nước phật đã phải hối lộ…Cho nên chúng ta phải xem xét, bĩnh tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt…” Tổng bí thư đã biện hộ cho tham nhũng như vậy để yên vị thì chỉ có người mất trí hay cuồng tín mới tin vào sự trong sạch và kế hoạch chống tham nhũng của Đảng.
Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu rằng: Nếu kỷ luật hết những người làm sai thì không còn người làm việc. Lời nói của ông Hùng giống hệt lời nói của Ông Trần Văn Hương thời Việt Nam Cộng Hòa: Nếu loại bỏ hết tham nhũng thì lấy ai mà làm việc. Ông Hương là trưởng ban chống tham nhũng nhưng cũng sợ hãi mới ra chiêu sửa cải tham nhũng. Báo chí biếm họa ông Hương lui cui bứng CÂY CHANH ở nơi nầy trồng vào nơi khác với hy vọng sẽ có cây CHANH NGỌT.
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng khi mới lên chức tuyên bố hùng hồn rằng: Nếu không chống được tham nhũng tôi sẽ từ chức. Khi tham nhũng tràn lan, bị chất vấn và nêu vấn đề Thủ Tướng có thấy nên từ chức vì đã không chống được tham nhũng hay không? Ông Dũng trả lời: chức Thủ tướng của tôi là do Đảng phân công, tôi không xin ai cả. Nghĩa là ông Dũng chỉ cần Đảng phân công cóc cần nhân dân. Tiêu ngữ là DO DÂN mà cóc cần dân là đã rành rành ra đó.
Ông Dũng điều hành chánh phủ với nhãn hiệu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị ngành ngân hàng tổ chức ngày 18-12-2013 tại Hà Nội, ông Dũng khẳng định: dứt khoát độc quyền xuất nhập khẩu vàng. Độc quyền thị trường vàng (và các thị trường khác) nhưng lại đi xin với phương Tây công nhận là kinh tế thị trường?
Chăn dân mà lại ra làm con buôn thì phải dùng não trạng con buôn để lừa người dân với cái bụng đói meo và tương lai đen tối...
Tại Diễn đàn Quan hệ Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12/2013  tại Hà Nội. Thủ tướng công bố: thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1960 USD/ năm. Thu nhập bình quân như thế là tăng 23% so với năm 2012. Thủ Tướng lấy tổng thu nhập đem chia cho 90 triệu dân để ra con số đẹp như thế là cách làm rất bá đạo. Bởi vì trong tổng thu nhập đó chẳng hề được chia đều như thế bao giờ. Một thiểu số đã ngốn gần hết thu nhập của quốc dân. Còn cả nước chỉ là ăn thảy uống thừa của bọn chăn dân đi làm con buôn mà thôi.
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ngày 24-10-2013 phát biểu tại phiên họp tổ của Quốc hội về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã xác định: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa….” Ông Trọng đã nói rất đúng sự thật rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo ảnh. Đảng đã cưỡng bức dân tộc sống trong ảo ảnh.
a/- Những tập đoàn thua lỗ làm dân nghèo.
Những tập đoàn như Vinashin, Vinalines, PMU 18... đều nằm trong chủ trương bần cùng hóa nhân dân. Bởi vì chính Đảng bổ nhiệm người, nắm quyền kiểm soát với bao nhiêu cuộc thanh tra đến rồi đi mà không phát hiện hay không công bố chi hết. Đến khi báo chí (thường là lề trái) nêu vấn đề làm cho nó không còn cách bưng bít được nữa thì Đảng đồng ca bài sai đến đâu sửa đến đó, không bao che...
Đảng đóng vai người hùng trị tham nhũng trong khi chính Đảng là nguyên nhân của tham nhũng thì lơ đi. Người dân có thể tức bực vì chưa biết chủ trương bần cùng hóa người dân của Đảng.
b/- Những tập đoàn có lời khủng khiếp cũng làm nghèo dân.
Lợi ích nhóm thao túng và làm xiếc giá cả để móc túi dân.
Các tập đoàn như: Tập đoàn Điện lực VN (EVN), Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel), Tập đoàn Bưu chính viễn thông VN (VNPT), Tập đoàn xăng dầu... có điểm chung là muốn tăng giá thì đồng ca bài đang lỗ vốn hay giá thấp hơn khu vực. Chánh phủ đứng ra giải thích tăng giá là đúng...
Nhưng cuối năm tập đoàn nào cũng lời rất lớn. Tiền lãi khủng nầy xuất phát từ tăng giá mà có. Đó là điệp khúc hằng năm và miên viễn trong chế độ cộng sản. Họ đem phần lời ra thưởng cho nhau, chia nhau và hối lộ cấp trên. Cán bộ đi dự lễ nầy lễ nọ về bỏ quên phong bì hàng trăm triệu trên xe là chuyện bình thường... Các doanh nghiệp hoạt động đình đốn, không có lợi nhuận, thậm chí ngày càng lỗ nặng vì chi phí đầu vào quá lớn... tất cả phù hợp với chủ trương bần cùng hóa của Đảng.
Tóm lại tập đoàn vinaxin, vinacho hay vinachia cũng chỉ để bần cùng hóa nhân dân mà thôi.
c/- Kinh tế lệ thuộc.
Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương xác định kinh tế VN lệ thuộc bên ngoài ngày càng nặng. Đó là lệ thuộc nhập khẩu hàng hóa đầu vào, nên nhập siêu "trường kỳ". Lệ thuộc xuất khẩu khi Việt Nam bị thua ngay cả ở những mặt hàng có thế mạnh như gạo, cà phê... Doanh nghiệp trong nước yếu đi thấy rõ, cả doanh nghiệp nhà nước, tư nhân.
"Xuất khẩu lệ thuộc vào nhà đầu tư nước ngoài, chỉ Samsung thôi, kim ngạch xuất khẩu đã chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam, bằng với xuất khẩu ngành nông nghiệp". Giữa tương thuộc và lệ thuộc, Việt Nam đang lệ thuộc nhiều hơn.  Xu hướng lệ thuộc ngày càng gia tăng bởi cấu trúc kinh tế nhiều rủi ro, nội lực yếu. Thậm chí, kinh tế Việt Nam đang rơi vào điểm nghẽn nhưng chưa biết khi nào thoát ra được.
Việt Nam chưa phải là mắt xích không thể thay thế trong hệ thống kinh tế toàn cầu hiện nay (nghĩa là chưa có vị thế độc lập). Nguyên nhân do chiến lược “bóc ngắn, cắn dài”, mô hình tăng trưởng khuyến khích khai thác cạn kiệt tài nguyên quốc gia…
Nguy cơ tụt hậu xa hơn so với thế giới và khu vực của nền kinh tế Việt Nam là rất rõ. Trong hai năm 2011 và 2012, Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp hạng nền kinh tế Việt Nam giảm 16 bậc, xuống hạng 75, thấp nhất kể từ khi Việt Nam được xếp hạng.
Chánh phủ có trách nhiệm chăn dân trị nước thì lại ra làm con buôn để bần cùng hóa nhân dân trên từng mặt trận nên dẫn đến kết quả như thế.
@@@
2/- Nông dân nắm đằng lưỡi.
Nông dân là thành phần đa số trong nước. Theo các số liệu chính thức có 60% là nông dân. Làm ruộng, rẫy là nghề gia truyền, ruộng đất là nguồn sống của nông dân từ bao đời nay nhưng nông dân đang chán ruộng, bỏ ruộng, bỏ vườn... Nông dân chịu nhiều nghịch lý khi phải chịu bán nông sản giá rẻ để chống lạm phát nhưng phải mua lại hàng hóa khác với giá đắt đỏ nhiều lần đặc biệt là hàng công nghiệp và các dịch vụ thiết yếu. Thu nhập bình quân của nông dân năm 2013 khoảng 19,97 triệu đồng/năm.
Lực lượng nông dân rất đông mà càng ngày thu nhập càng thấp thì đó chính là sự bốc lột rất tàn nhẫn và giết chết tương lai của họ và dân tộc. Họ đang phải gánh chịu nhiều rủi ro trong sản xuất về thiên tai và nhân tai. Thiên tai đã có từ lâu đời và có sự bù trừ là sau lũ lụt đất đai mầu mỡ hơn, sâu bọ ít hơn...
Còn nhân tai thì chỉ toàn là khủng khiếp.
Nỗi khủng khiếp nhất mới xuất hiện là các công trình thủy điện với bài đồng ca: xã lũ đúng qui trình. Thủy điện đe dọa nông nghiệp và mạng sống người dân... là điều rất rõ ràng và mỗi ngày một nghiêm trọng. Bởi vì chính quyền luôn luôn đứng về phía thủy điện để đồng ca bài đã đúng qui trình... nông nghiệp thì có mùa vụ, phải đến ngày giờ mới thu hoạch mà thủy điện chỉ cần báo trước 02 giờ là tự do xã lũ bất chấp tình hình mưa gió hay thủy triều... thì đó là qui trình TIÊU DIỆT TÀI SẢN CỦA DÂN, GIẾT DÂN.
Nhân tai thứ nhì là việc độc quyền mua lúa gạo của chánh phủ. Chánh phủ nắm độc quyền buôn gạo nên quyết định giá mua, giá bán, giá hổ trợ kể cả thời gian nào mua, thời gian nào không mua sao cho có lợi thật nhiều cho lợi ích nhóm. Người nông dân chịu biết bao cực nhọc để sản xuất ra lúa gạo phải sống trong nghèo khổ, một tương lai đen tối. Các công ty, doanh nghiệp nhà nước buôn bán lúa gạo trên sự nghèo khổ của nông dân đã hưởng tất cả. Người nông dân đầu tư tiền bạc, một nắng hai sương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chăm bẵm đồng ruộng lẽ ra phải được trả công xứng đáng thì trên thực tế lại đang bị thua thiệt trong khi phần lợi lớn nhất lại thuộc về các DN, thương lái...
Nhân tai thứ ba của nông dân là giá phân bón, thuốc trừ sâu và cây giống các loại của Việt Nam cao ngất trời so với khu vực Asean. Giá phân cao, giá nông sản rẽ làm cho năng suất Việt Nam kém hẳn so với láng giềng. Nhân tai nầy do chính phủ độc quyền mua bán mà ra. Người nông dân trồng lúa đang khổ nhất, có thu nhập thấp nhất. Qua khảo sát, trong điều kiện mưa thuận gió hòa, một sào ruộng (360 m2) trồng lúa thu khoảng 1,3 triệu đồng/vụ, chi phí đầu tư đã mất trên dưới 1 triệu, mỗi vụ kéo dài khoảng 3 tháng, nông dân chỉ lãi từ 100.000 - 200.000 đồng.
Nhân tai thứ tư là việc thu hồi đất đai tùy tiện, đền bù không thỏa đáng, huy động đóng góp quá mức... và đầu tư lại cho nông nghiệp quá ít, vừa đủ cho họ chết từ từ... nên chẳng thể làm cho họ phát triễn được. Điều nầy nằm trong chánh sách chung của chánh phủ cộng sản là làm cho mọi thành phần đều kiệt quệ để lệ thuộc họ nhiều hơn. Chính sách chung của Đảng là ngu dân và bần cùng hóa nhân dân mà nông dân bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Các nhân tai nầy cộng hưởng lại khiến cho nông dân vô cùng khó khăn. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước nhưng lại đúng với kế hoạch và chủ trương của cộng sản. Nhìn kỷ những điều cộng sản làm sẽ thấy rõ điều đó.
@@@
3/- Chánh phủ nắm độc quyền vàng....
Ngày 16-10-2013 giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 5 triệu đồng/lượng. Còn tính bình quân là 4 triệu đồng/lượng.
Báo cáo của Tập đoàn Pricewaterhouse Coopers LLP (PwC), sản suất và tiêu thụ vàng trên thế giới xác nhận trong năm 2012 Việt Nam đứng thứ 6 trong 13 nước tiêu thụ vàng hàng đầu thế giới. Nhu cầu về công nghệ là 76 tấn, nhu cầu tiêu dùng 77 tấn.
Cổng thông tin chính phủ cho biết tính từ ngày 28/3/2013 đến 15/11/2013, NHNN đã tổ chức 70 phiên đấu thầu bán vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.725.700 lượng. Đem số lượng vàng nhân với 4.000.000 đồng (là mức lời trung bình một lượng).
4.000.000$ x 1.725.700 lượng =  6.902.800.000.000$
Tiền lời sáu ngàn chín trăm lẽ hai tỷ tám trăm triệu đồng đó chạy vào túi quan tham lại nhũng là bao nhiêu? Đó là một mặt hàng chỉ trong tám tháng. Còn tiền bán dầu thô? Tiền bán vàng trắng (cao su)?
Tiền thu 432 (bốn trăm ba mươi hai) loại phí đi đâu mà đường xá mọc trạm thu phí khắp nơi, người bệnh nằm hai ba người một giường trường học thì cấp nào cũng thu đủ thứ tiền.
Điều ghê gớm hơn nữa là con số nợ nước ngoài mà dân tộc phải trả. Báo lề phải VnEconomy ngày thứ Năm, 19/12/2013 bài viết:
Nợ công của Việt Nam: Mối đe dọa đang nằm ở đâu?
... “Do vậy, nếu cộng cả số này cùng với nợ đọng trong xây dựng cơ bản vào con số công bố chính thức thì nợ công Việt Nam hiện nay sẽ lên tới xấp xỉ 98,2% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn là 65% GDP được khuyến cáo phổ biến bởi các tổ chức quốc tế”,...
...Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Bộ tài chính với tư cách cơ quan quản lý nợ công hay của Ngân hàng nhà nước là cơ quan gần như chuyên đi ký để vay nợ công, đó là vấn đề sử dụng nợ công.
...quy mô nợ công đã lên đến 100 tỷ USD, là con số không hề nhỏ.
@@@
Đó là con số (đẹp) từ báo lề phải còn con số thực như thế nào không ai có thể biết chính xác kể cả chính phủ. Bởi vì hệ thống tính toán ở Việt Nam không đáng tin cậy mà các cơ quan đáng tin cậy thì không được phép tiếp cận để minh bạch.
Thông tin từ lề trái: 24-11- 2013 ... Nợ công của Việt Nam là 70,6 tỷ USD (tính tới 17-01-2013), ... Nợ của các doanh nghiệp quốc doanh do chính phủ bảo lãnh 62,4 tỷ USD (tính tới 31/12/ 2011). Như vậy, gộp 2 nguồn nợ này lại, VN đã mắc nợ trên 133 tỷ USD. 
Chênh lệch là 33 tỷ USD. Chúng ta không thể biết con số thực ở đâu bởi cách phù phép  thông tin của chánh phủ.
@@@
4./- Chánh phủ độc quyền buôn sức lao động mấy chục triệu công nhân trên cả nước. Công nhân bán sức lao động mà không đủ sống. Chúng tôi quan sát đồng lương công nhân ở các khu công nghiệp. Lương công nhân của họ đại đa số dưới bốn triệu đồng (kể cả tăng ca). Với bốn triệu đồng hàng tháng họ chưa đủ để tái tạo sức lao động thì làm sao có tích lũy để nuôi con cái ăn học hay tạo nhà cửa để an cư? Làm sao có điều kiện nâng cao cuộc sống hay phụng dưỡng cha mẹ, ông bà?
Xuất khẩu lao động chính là hình thức buôn nô lệ thời toàn cầu hóa. Mỗi lao động xuất khẩu phải nạp số tiền lớn rồi đi ra nước ngoài tự bơi, hàng hà sa số lao động xuất khẩu thành nô lệ lao động hay nô lệ tình dục...những thảm cảnh của họ không sao nói hết. Khi có vụ nào bể ra thì chánh phủ đồng ca bài ...sẽ điều tra làm rõ và chìm xuồng là chính.
@@@
5/- Độc quyền về đất đai.
Đất đai là của tạo hóa ban cho nhân loại. Đó là tài nguyên và  môi trường để nuôi sống con người. Các chế độ xưa nay đều tìm cách chiếm hữu đất đai làm của riêng để nắm chặc quyền kiểm soát và phân phát cơm áo gạo tiền bắt con người phải chịu trong vòng thúc phược. Các triều đại phong kiến cậy vào sức mạnh cho rằng đất đai là của nhà vua.
Đến thời Pháp thuộc, thực dân Pháp định chia đất đai làm lục hạng điền để đánh thuế. Năm 1906 Thống Đốc Nam Kỳ Outrey đưa ra cho Hội Đồng Quản hạt Annam biểu quyết. Sáu nghị viên người Annam phản đối nhưng số thăm của người Pháp chiếm đa số (12 phiếu). Sáu người Annam đồng loạt từ chức...rốt lại thuế lục hạng điền bị hủy bỏ. Thời pháp thuộc mà tinh thần yêu nước của Việt tộc mạnh mẽ dường ấy. Ngày nay xem lại cả quốc hội có ai dám phản đối một điều luật nào của chính phủ về đất đai và từ chức hay chưa. Quốc hội cũng chỉ là một nhóm lợi ích.
Đảng xem đất đai trong nước là độc quyền của Đảng nên lên kế hoạch chiếm đất đai từ Nam chí Bắc bằng hình thức dự án khu công nghiệp, khu đô thị...
Ông Huỳnh Uy Dũng (Dũng lò vôi) và Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bình Dương Lê Thanh Cung ăn chia nhau không đồng đều nên tố cáo lẫn nhau (tháng 11-2013)... nhờ vậy xã hội thấy bản chất thật sự của các khu công nghiệp hay khu qui hoạch. Hàng chục ngàn tỷ chảy vào túi riêng của lợi ích nhóm và cá nhân móc nối với chánh quyền.
Đảng lấy đất từ tay dân rẽ mạt rồi ký một tờ giấy là lập tức đất đó có giá giao dịch cao lên hàng trăm, hàng ngàn lần nên những đại gia lấy đất trên tay dân đều là người của Đảng hay ăn chia với Đảng làm cho người dân mất nhà cửa ruộng vườn sống trong cảnh đau khổ còn hơn thời Pháp thuộc. Đất của tạo hóa có một. Thực dân Pháp chia làm sáu để đánh thuế là bốc lột. Đảng ra hàng trăm, hàng ngàn văn bản về đất (đến nổi chánh phủ cũng không nhớ hết) để cướp của dân... là siêu bốc lột.
Chánh phủ nào cũng tôn trọng cuộc sống an cư lạc nghiệp của dân mà ngày nay chánh phủ cấu kết với lợi ích nhóm về đất đai tạo ra dân oan từ Nam chí Bắc. Mồ mã ông bà tổ tiên là một phần trong cuộc sống tinh thần người Việt Nam, cộng sản bứng đi để lấy đất cho lợi ích nhóm là phá hoại truyền thống nhân nghĩa nước có nguồn, cây có cội của dân tộc.
6/- Giáo dục.
Khi cộng sản chưa làm chủ đất nước thì trường công lập ở miền Nam chỉ đóng niên liễm rất nhẹ. Ngày nay trường công lập nào cũng phải đóng rất nhiều loại tiền để hạn chế việc học hành của dân chúng là thực hiện chính sách ngu dân.
Hội phụ huynh thời Việt Nam Cộng Hòa chủ yếu là kết hợp với nhà trường lo việc học tập cho học sinh. Cộng sản biến Hội phụ huynh thành cánh tay thu tiền cho đảng.
Các tôn giáo trước kia đều có trường trung tiểu học.
Bốn tôn giáo lớn: Phật Giáo, Công Giáo, Hòa Hảo và Cao Đài còn được chánh phủ VNCH giúp đở (tiền bạc và pháp lý) để xây dựng nên Viện Đại Học. Nay cộng sản dẹp sạch để thực hiện chính sách triệt tiêu trí thức, hiền tài trong tôn giáo thực hiện chính sách ngu dân.
Cán bộ cộng sản phần nhiều là chưa qua bậc tiểu học. Sau 1975 chính phủ tổ chức cho học bổ túc. Ngày nay cán bộ học bổ túc lên tiến sĩ ngồi chật xã hội để thành bộ máy ăn bám và tham nhũng rất khủng khiếp.
Thời đổi mới ký một giấy phép mở trường đại học phải lót tay hàng tỷ đồng nên cán bộ ký mỏi cả tay chừng xã hội la làng thì đồng ca bài chúng tôi sẽ xem xét lại...
7/- Y tế.
Khi cộng sản chưa chiếm được miền Nam thì chẳng hề có chuyện một giường nằm hai ba bệnh nhân, chẳng có chuyện bệnh nhân phải nằm dưới gầm giường... chẳng có bệnh nhân nào nghĩ đến chuyện lót tay cho bác sĩ. Chẳng có bác sĩ nào ngữa tay nhận phong bì của bệnh nhân. Chẳng có bệnh viện nào dám đạp chân với các công ty dược phẩm để đẩy giá thuốc lên hằng chục lần. Chẳng có bác sĩ nào dám dùng bệnh viện công điều trị cho người bệnh để lấy tiền riêng. Chẳng có cò mẹ cò con nào nơi bệnh viện để gạt gẫm bệnh nhân ăn chia với bác sĩ hết...
Ngày nay những tệ nạn khủng khiếp đó đầy dẫy từ Nam chí Bắc.
8/- Về tôn giáo.
Thời Việt Nam Cộng Hòa cấp trung ương chỉ có 02 Đài phát thanh là Sài gòn và Quân Đội, vậy mà họ đã dành cho các tôn giáo một số giờ trong tuần để các Hội Thánh săn sóc đàn chiên, phổ biến tin tức... đó là chăm lo đạo đức cho xã hội. Ngày nay từ trung ương đến các thành phố, các tỉnh đều có truyền thanh và truyền hình (dùng tiền thuế của dân để phát sóng) nhưng không có một tôn giáo nào được phép lên sóng...đó là hủy hoại đạo đức dân tộc là phản cách mạng. Đảng còn ra lệnh ngầm cho báo chí và giới luật sư không được tham gia vào các vấn đề của tôn giáo: Tài sản tôn giáo, đất đai tôn giáo, nhân sự tôn giáo, pháp lý tôn giáo.
Đặc biệt là những canh bài tráo sau 30-4-1975 về tôn giáo:
Muốn lũng đoạn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì chính phủ lập ra Phật Giáo Việt Nam.  Muốn lũng đoạn Công Giáo họ lập ra Ủy Ban Công Giáo Đoàn Kết. Muốn lũng đoạn Phật Giáo Hòa Hảo họ lập ra Ban Trị Sự mới. Muốn lũng đoạn Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ họ lập ra Chi Phái 1997 tại Nội Ô Tòa Thánh.
Đức Khổng Tử nhận xét: Bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu (nước có đạo là trí, nước vô đạo là ngu). Chủ trương phá hoại tôn giáo của cộng sản là để phục vụ chính sách ngu dân.
9/-  Kết quả: Xã hội bất an.
Đảng đã ký nghị định 208 ngày 17-12-2013 cho phép họ bắn chết bất cứ người dân nào họ muốn rồi chụp lên cái mũ là chống người thi hành công vụ. Đảng giết chết sinh mạng người dân rồi họ còn muốn giết luôn danh dự người dân. Cứ tha hồ bắn rồi chụp cái mũ chống người thi hành công vụ là lập tức có dàn đồng ca là đội ngũ truyền thanh, truyền hình, báo chí ca theo. Thực chất của nghị định nầy là nhắm vào những người dám chỉ ra cái sai, cái dối trá của Đảng bằng giấy trắng mực đen (văn bản) hay qua internet để xiếc cò. Đảng giết những người hy sinh thân mình, dâng hiến tâm huyết để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do và những giá trị cao cả của nhân loại rồi chụp mũ chống người thi hành công vụ là giết luôn danh dự và nhân phẩm người công chính. Giết người và chụp mũ là một thủ đoạn tàn ác không thể hình dung được. Pháp luật trong thời toàn cầu hóa mà như vậy thì sự tồn tại của họ như người đứng nhón gót... chờ sụp đổ.
Đảng muốn dân ngu mãi mãi nên sợ tầng lớp trí thức chỉ ra cái sai, cái lừa đảo của Đảng để thức tỉnh quần chúng. Tri thức là sức mạnh mà Đảng sợ nhất là dân mạnh nên định tiêu diệt người có tri thức trong dân. Đảng muốn triệt cái nguồn làm cho dân mạnh.
Một con người tuyệt vọng sẽ tự vận, một dân tộc tuyệt vọng sẽ làm cách mạng. Đó là qui luật của xã hội và lịch sử.
Chúng ta đứng lên làm cách mạng thì cũng đừng quên rằng: Hai khối cộng sản và tư bản đã gây cho dân tộc và tổ quốc ta biết bao nhiêu tang tóc. Chánh phủ Mỹ cũng đã bán đứng đồng minh Việt Nam Cộng Hòa cho cộng sản. Đó là bài học xương máu của dân tộc mà chúng ta phải nhớ trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.
Cho nên khi cộng sản sụp đổ chúng ta phải đưa dân tộc, đất nước vào qui chế TRUNG LẬP VĨNH VIỄN được Liên Hiệp Quốc nhìn nhận và bảo trợ. Chúng ta không lập lại sai lầm của lịch sử là dựa vào khối nầy để chống khối kia.
Bảo Đại khi xưa chống Pháp nhưng không kêu gọi Mỹ, Anh can thiệp. Nelson Mendela đấu tranh cũng không kêu gọi một lực lượng nào trong 02 khối tư bản và cộng sản nhảy vào hổ trợ.
Chúng ta trân trọng và đón nhận mọi sự giúp đở lớn hay nhỏ, vật chất hay tinh thần nhưng không dọn đường cho ngoại bang xen vào chi phối lập trường, quan điểm,  đường lối của dân tộc.
Cái đẹp của quê hương phải do chính chúng ta xây dựng lấy.
Không có một thế lực nào, không quốc gia nào có thể làm thay chúng ta trong việc xây dựng hòa bình, dân chủ, tự do, nhân quyền và tự do tôn giáo. Chúng ta cũng không thể cầu xin Đảng cầm quyền, cầu xin kẻ độc tài ban bố (điều nầy không bao giờ xãy ra). Chính chúng ta phải đứng lên nhận lấy trách nhiệm và chấp nhận đương đầu. Các chế độ, chính phủ độc tài chỉ trở cờ sau khi thấy rằng lực lượng trong nhân dân đủ mạnh để lật đổ họ. Tri thức là sức mạnh. Chúng ta hãy đem tri thức đến với nhân dân để nhân dân tự quyết lấy số phận đất nước.
Những con dân nòi giống tiên rồng trong nước và ngoài nước, lương và giáo hiệp đồng nhau được thì chúng ta đủ mạnh để xô ngã chế độ độc tài Đảng trị nếu họ không chịu thức tỉnh mà quay về với dân tộc.
Thức tỉnh người Việt Nam để dân chúng mạnh lên là điều Đảng đang run sợ. Những tổ chức thiện nguyện trên hành tinh và cục diện thế giới cũng đang hổ trợ cho dân mạnh. Cái thế tất thắng của dân tộc và sự tiêu vong của Đảng cộng sản đã phơi bày rất rõ ràng.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia mà cộng sản chà đạp hiền tài, khinh bĩ trí thức. Giam giữ hành hạ tù nhân lương tâm còn ác độc và tàn nhẫn hơn thực dân Pháp. Cộng sản giết chết tương lai ba thế hệ của người không chấp nhận cộng sản. Đó là một tội ác được che dấu bằng 02 chữ: LÝ LỊCH. Cộng sản đưa con em của họ vào bộ máy công quyền còn hơn cả thời phong kiến cha truyền con nối.
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Chỉ có một ông vua đã bị chê bai, biếm nhẽ... ngày nay mỗi Đảng viên là một ông vua. Con cháu Đảng Viên tràn ngập đất nước để tạo ra bọn sâu dân mọt nước... là phản cách mạng.
@@@


Trang web BBC ngày 22-01-2014.
Bạo lực và nhà tù
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời được 84 năm, với hơn nửa thế kỷ nắm quyền lãnh đạo đất nước, đã trải qua hai cuộc chiến tranh. Nhưng tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn như một đứa trẻ chậm hiểu, chưa trưởng thành, chưa biết tự bảo vệ quyền lực của mình bằng bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, uy tín. Sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải dựa vào nòng súng, bạo lực và nhà tù của quân đội và công an. Đảng Cộng sản Việt Nam chưa thể duy trì hoạt động của mình bằng sự đóng góp đảng phí của các đảng viên, mà vẫn phải dựa vào tiền thuế của nhân dân để tồn tại....
...Trong một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì các quyền con người phải được tôn trọng và thực thi trong thực tiễn, đặt biệt phải tôn trọng những người hoạt động nhân quyền và những lực lượng đối lập. Những người hoạt động nhân quyền sẽ bảo vệ và nói lên tiếng nói của những nhóm thiểu số mà bị phân biệt đối xử trong xã hội, làm cho chính quyền phải quan tâm đến họ và giải quyết các bất công trong xã hội. Từ đó mọi người sẽ được đối xử bình đẳng, xã hội sẽ phát triển hài hòa và tiến bộ...
Luật sư Nguyễn Văn Đài.

II/- HIỂM HỌA TỪ PHƯƠNG BẮC.
Nước ta đã trãi qua một ngàn năm Bắc thuộc.
Lịch sử Trung Hoa gắn liền với việc xâm lăng và đồng hóa các nước khác. Việc cài người lên làm vua chúa nước láng giềng để đổi lấy đất đai hay quyền lợi làm cho lân bang suy yếu vẫn thường xãy ra. Lịch sử Trung Hoa có ghi lại việc Lã Bất Vi buôn vua.
Chúng ta luận cổ suy kim xem việc việc họ Lã buôn vua có khác chi Mao Trạch Đông nuôi Hồ Chí Minh để làm theo kế hoạch của Mao hay không?
1/- Lã Bất Vi buôn vua.
Lã Bất Vi là lái buôn rất giàu có. Thấy Công Tôn Dị Nhơn là hoàng tộc nhà Tần sang làm con tin ở Triệu thì nghĩ rằng không có gì lời bằng buôn bán ngôi vua. Họ Lã đem tiền bạc đúc lót để Dị Nhơn được chọn làm người kế vị nhà Tần. Khi việc chắc thành thì đem người thiếp (đã mang thai với Lã Bất Vi gã cho Dị Nhơn) và buộc Dị Nhơn hứa lập đứa bé còn trong bào thai kế vị. Dị Nhơn về Tần làm vua thì Lã Bất Vi đứng đầu triều đình. Chẳng bao lâu vua lại chết và con của họ Lã lên ngôi (sau là Tần Thủy Hoàng).
1.1/- Cụ Nguyễn Đình Chiểu viết trong Lục Vân Tiên đoạn Võ Công định gã Võ Thể Loan cho Vương Tử Trực... Họ Vương trả lời:
... Người nay nào phải người Tần,
Bất Vi gã vợ Dị Nhân lấy lầm.
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao.
Võ Công hổ thẹn biết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua....
1.2/- Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên.
a/- Tần Thủy Hoàng bản kỷ:
Tần Thủy Hoàng Đế là con của Trang Tương Vương nước Tần. Trang Tương Vương làm con tin của Tần ở nước Triệu, thấy người thiếp của Lữ Bất Vi thì rất thích nên lấy rồi sinh Tần Thủy Hoàng vào tháng giêng năm thứ 48 đời Tần Chiêu Vương, ở Hàm Đan, đặt tên là Chính, họ Triệu. Khi lên 13 tuổi, Trang Tương Vương chết, Chính thay, được lập làm Tân Vương (năm 247 trước công nguyên).
Phần nầy ông chưa viết rõ người thiếp của Lã Bất Vi có mang với họ Lã trước khi về với Dị Nhơn.
b/- Truyện Lã Bất Vi.
Đến phần nầy Sử Ký viết rõ rằng Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi kén trong số vợ mình ở Hàm Đan một người tuyệt đẹp và múa khéo, lại biết người này đã có mang. Tử Sở sang nhà Bất Vi, trông thấy, đem lòng mê, nhân đứng dậy chúc thọ mà xin. Bất Vi nghĩ giận mình đã vì Tử Sở phá hết nhà cửa, muốn dùng món lạ để câu, bèn dâng vợ. Người vợ giấu chuyện mình đã có mang, đến đủ tháng sinh con là Chính.... Vua Triệu cũng cho đưa vợ của Tử Sở cùng con là Chính về Tần.... Thái tử Tử Sở lên ngôi tức là Trang Tương Vương,... làm vua được ba năm thì mất, thái tử tên là Chính lên ngôi tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ...
Lã Bất Vi buôn vua và cấy zen họ Lã chiếm ngôi họ Doanh bằng mưu mẹo rất tinh vi là câu chuyện có thật.
2/- Lã Bất Vi thế kỷ 20: Mao Trạch Đông nuôi Hồ Chí Minh.
Đảng cộng sản Việt Nam lập năm 1930. Khi đó nước ta còn nô lệ Pháp. Pháp chiếm cơ đồ nhà Nguyễn lúc đó tên nước ta là ĐẠI NAM.
Nhưng do đâu mà tên Việt Nam xuất hiện?
Sau khi diệt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước vua Gia Long cử đại thần Lê Quang Định làm chánh sứ sang dâng biểu xưng thần với vua Nhân Tông nhà Thanh. Nhà Thanh e rằng tên Nam Việt trùng tên nước Việt thời Triệu Đà (bao gồm cả Quảng Đông Quảng Tây nên đổi tên lại là Việt Nam để chứng tỏ uy quyền). Quốc hiệu Việt Nam là Tàu ban cho.
Vua Minh Mạng (1791-1841) lên ngôi năm 1820. Vua xin nhà Thanh đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam. Triều đình Mãn Thanh không chấp thuận. Đến ngày 15-02-1839 nhận thấy Mãn Thanh đã suy yếu vua Minh Mạng ra chiếu đổi quốc hiệu là Đại Nam. Nhà vua cho biên soạn hàng loạt sách sử có tên Đại Nam... để thể hiện ý chí tự chủ. Khi người Pháp xâm chiếm nước ta là xâm chiếm nước ĐẠI NAM.
Cộng sản Tàu nuôi Hồ Chí Minh nên buộc phải lấy tên Việt Nam theo ý của Tàu. Xem lại lịch sử ta thấy những phong trào chống Pháp mà có nhờ cậy Tàu họ đều buộc lấy tên Việt Nam cả. Bằng chứng cụ thể là Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng... đều có cậy nhờ Tàu nên phải dùng tên Việt Nam theo ý của Tàu. Nghĩa là Tàu muốn lúc nào dân tộc ta cũng phải chịu sự chi phối của họ.
Tổ tiên ta có tinh thần tự chủ, độc lập rất cao. Đã chịu đựng bao nhiêu gian khó, đã hy sinh biết bao xương máu để giử vững cơ đồ.  Nhờ vậy nước Việt không bị thôn tính sau 1000 năm nô lệ giặc Tàu thì không lý gì chúng ta nhận quốc hiệu do ngoại bang áp đặc.
Ông Hồ Chí Minh được Tàu giúp nên năm 1945 Tàu buộc phải lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà vua Minh Mạng đã từ bỏ. Một quốc gia có nền văn hiến mấy nghìn năm không thể chấp nhận dấu vết mất tự chủ như thế. Mao Trạch Đông muốn nước ta dùng tên Việt Nam do Tàu nghĩ ra và ban cho. Họ Hồ đã thực hiện đúng ý muốn họ Mao.
Họ Mao tính toán như Lã Bất Vi họ Hồ nhận vai Dị Nhơn lấy lại quốc hiệu Việt Nam do Tàu đẻ ra thì độc lập cái gì? Tổ tiên ta xưng thần với Tàu nhưng đến giới hạn là quốc hiệu do Ta đặc, Tàu công nhận quốc hiệu như một thủ tục. Còn để cho Tàu đẻ ra quốc hiệu là rất khó chịu. Vua Minh Mạng đã ý thức nên đã bỏ đứa con của Tàu đẻ ra. Hồ Dị Nhơn lấy đứa con của Tàu về là đã mắc bẫy họ.
3/- Mao Bất Vi thu lời Hồ Dị Nhơn bán nước (thực tế).
Hồ Dị Nhơn rơi vào kế hoạch Mao Bất Vi nên làm suy yếu dân tộc, thất nhân tâm và phản lại dân tộc nên phải hiến dâng đất đai, biển đảo và tài nguyên cho Tàu để tồn tại.
Mao đưa vũ khí và cố vấn cho cộng sản dùng chiến thuật biển người đánh trận Điện Biên Phủ là xô chiến sĩ và nhân dân vào chổ chết rất tàn nhẫn. Dùng hai chữ yêu nước để tàn hại sinh mạng người chiến sĩ và dân thường là không sáng suốt. Mao muốn dân tộc Việt suy yếu để lệ thuộc họ và kết quả đúng y như vậy, bởi vì họ Mao đã cấy được họ Hồ nên một tung một hứng để đưa giống nòi và tổ quốc vào tay Tàu cộng từng bước một.
Đảng đã đi vay tiền bạc, vũ khí  của Tàu cộng để tiến hành chiến tranh nồi da xáo thịt trong 20 năm (1954-1975).
Năm 1958 Trung Cộng công bố đường lưỡi bò bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm chúc mừng.
Năm 1974 Trung cộng dùng vũ lực tiến chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa cộng sản Việt Nam im lặng. 

Giáo Sư Hà Văn Thịnh dạy sử học Đại Học Huế tiết lộ trên trang web RFA ngày 19/01/2013.
Mặc Lâm: Thưa Giáo Sư, hôm nay là ngày kỷ niệm 39 năm ngày mất Hoàng Sa vào năm 1974, tức là vào ngày 19-1-1974 Quân Lực VNCH đã bị Trung Quốc xua quân vô đánh chiếm quần đảo mà họ đang canh giữ cho đất nước. Kỷ niệm ngày này xin được phép hỏi Giáo Sư là trong thời gian đó Giáo Sư có được biết cụ thể vụ việc xảy ra, hay là hoàn toàn không biết cho đến sau này?
GS Hà Văn Thịnh: Hồi đó tôi học năm thứ nhất Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Nói thực là ông Hoàng Tùng khi đó, tôi không nhớ rõ thầy giới thiệu như thế nào, nhưng mà thầy giới thiệu là các em hôm nay (180 sinh viên Khoa Sử) Đại Học Tổng Hợp Hà Nội nghe ông Hoàng Tùng - Ủy viên Trung Ương Đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân, hay là Ban tư tưởng Trung ương gì đó, chức vụ tôi không nhớ, nhưng mà ông Hoàng Tùng nói chuyện về lịch sử thì ông có nói chuyện Hoàng Sa.
Ông nói nguyên văn thế này: “Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả cho mình”.
Nên ngày nay Đảng im lặng trước việc Tàu cộng chiếm Hoàng Sa, còn Trường Sa thì phản đối chiếu lệ. Đảng đang mặc nhiên nhìn nhận công hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 mừng và tôn trọng lãnh hải Trung Quốc. Đảng đã dâng bao nhiêu đất đai cho Tàu cộng ngoài Ải Nam Quan lừng danh trong lịch sử và một phần Thác Bản Giốc? Cớ sao Đảng không dám công khai đối thoại với dân về việc nầy?
Trước khi dâng Ải Nam Quan lừng danh trong Việt Sử cho họ Mao họ Hồ đã khôn khéo đổi tên thành Hữu Nghị Quan. Theo Linh Mục Nguyễn Văn Lý (hiện đang bị tù), Hòa Thượng Thích Quảng Độ (hiện đang bị giam lõng tại Thanh Minh Thiền Viện-TPHCM), một số trang web và bog thuộc lề trái xác định: Việt Nam đã dâng Ải Nam Quan cho Tàu Cộng. Nếu các vị trên nói sai thì tại sao chính phủ để yên cho họ, sao không chỉ ra cái sai của họ cho quốc dân biết. Theo dõi vụ Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị kết án tù thì không có khoản nào kết tội Linh Mục về việc ông nói chính phủ Việt Nam đã dâng Ải Nam Quan cho Tàu Cộng.
Đổi tên Ải Nam Quan thành Hữu Nghị Quan là bước dọn đường để tránh tiếng là dâng Ải Nam Quan cho Tàu Cộng. Cái cách đổi tên, đổi tuổi rồi tiến hành thay đổi chủ quyền là cách mà chính phủ theo cụ Hồ thường dùng để thực hiện đường lối chính trị của họ.
Pháp đã lấy đất đai của Việt Nam giao cho nhà Thanh để đổi lấy quyền lợi cho Pháp tại sao chánh phủ Việt Nam không chịu đưa ra Tòa án quốc tế để giải quyết?
Boxit khai thác lỗ vốn và để lại hiểm họa về môi trường tại sao phải khai thác? Thực chất là gì? Đảng đang che dấu điều gì?
Các công trình ở Việt Nam phần nhiều đều do nhà thầu Trung Quốc thi công. Họ làm chẳng ra gì và đa phần đều là trể hạn....nền kinh tế Việt Nam đang lệ thuộc sâu vào tay người Trung Quốc đây là một nguy cơ dân thường có chút suy nghĩ đều thấy. Cớ sao chánh phủ cứ lầm lủi tiến bước trên con đường nguy hiểm đó?
Tinh thần yêu nước đã thúc đẩy dân tộc đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam đã cướp công lao của dân tộc về cho Đảng. Dân tộc đuổi Pháp cửa trước Đảng đã rước Tàu cửa sau. Tàu cộng đã buộc Đảng gây ra cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt suốt 20 năm. Tàu Cộng muốn Đảng đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng để dân tộc và đất nước kiệt quệ cho Tàu dễ thôn tính. Đảng đã theo lịnh quan thầy tuyên truyền láo khoét: Chống Mỹ Cứu Nước xô đẩy mấy triệu thanh niên Nam Nữ ưu tú của giống nòi vào chổ chết. Bao nhiêu người dân vô tội đã chết vì nạn cốt nhục tương tàn.
Lê Duẫn thố lộ: Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc... hay Trung Quốc muốn ta đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng.
Đảng coi thường sinh mạng người dân ngay từ khi mới thành lập nên mới dùng chiến thuật BIỂN NGƯỜI xô dân vào chổ chết không hề thương tiếc. Đảng dùng sinh mạng của dân để có được chiến thắng lớn nhỏ rồi bỏ mặc những xác chết do họ tạo ra từ Nam chí Bắc. Tại sao Đảng làm được những tội ác đó?
Bởi vì họ đã lừa gạt được dân chúng (đấu tranh giai cấp) xong rồi họ nắm lấy quyền phân phát cơm áo gạo tiền làm cho dân chúng phải chịu trong vòng thúc phược của họ. Sinh Bắc tử Nam là một bằng chứng cho sự tàn ác của Đảng.
Hiện giờ đất nước đang sống trong gông cùm cộng sản. Đảng hèn hạ với giặc Tàu nhưng rất ác với dân. Không có ác hành nào mà Đảng không làm để triệt tiêu những người chiến sĩ đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tự do của dân tộc.
Đảng và chánh phủ kết hợp với côn đồ, với xã hội đen dùng bạo lực trấn áp những người yêu nước chống đối việc Trung Cộng chiếm biển đảo Việt Nam. Mấy tên Tiến Sĩ lưu manh còn ru ngũ dân ta rằng 100 năm sau bàn đến còn chưa muộn.
Tóm lại: Tàu Cộng dùng Đảng Cộng Sản Việt Nam để xâm chiếm đất đai, lãnh hãi, thống trị kinh tế và vơ vét tài nguyên… những điều mà thời phong kiến Tàu không làm được thì nay cộng sản Việt Nam đang hiến dâng cho họ qua khẩu hiệu 4 tốt và 16 chữ vàng.
4/- Sấm Trạng Trình.
Trạng Trình là danh hiệu cụ Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491-1585). Đa số người Việt dù là sĩ, nông, công, thương, binh hay tăng đều có nghe kể về tài bói toán của cụ cũng như nghe ba chữ Sấm Trạng Trình.
Từ khi Sấm Trạng Trình ra đời đã gieo vào lòng người biết ít nhiều về nó những cảm nghĩ rất khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Có người nghe qua rồi bỏ có người say mê để tâm huyết ra tìm kiếm, sưu tập để tìm hiểu và phổ biến. Thực tế ngày nay có hàng trăm bản Sấm Trạng Trình lưu hành. Ông Nguyễn Thiên Thụ là một trong những người đã ra công sưu tầm và giử gìn Sấm Trạng Trình.
Trên trang web Sơn Trung Thư Trang ông có đăng một số bản rất khác nhau. Trong bản II của Sở Cuồng (1930) và Mai Lĩnh (1939) có câu 101 và 102:
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về.
Hồi đang học đại học năm 1974 tôi có một radio nhỏ có lần tôi nghe Đài phát thanh Sài Gòn đọc câu 102 nầy là: Nguyễn đi rồi lại Nguyễn về....
Ý nghĩa câu nầy đã có rất nhiều cách giải thích. Mỗi cách đều có cái lý của nó mới là SẤM. Theo Tôi câu Sấm nầy có một cách hiểu mới nữa. Cách hiểu nầy không thiên về cá nhân hay triều đại mà thiên về công nghiệp của nhà Nguyễn. Mà cụ thể là quốc hiệu Đại Nam sẽ được dân tộc ta chọn làm quốc hiệu sau màn cộng sản. Xin trình bày mấy lý do sau:
a/- Truyền thống trọng ơn: Cái công của Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi phương Nam là điều dân tộc không thể quên. Nhớ ơn một dòng họ, một triều đại không có nghĩa là phải trở lại chế độ quân chủ. Mà sự nhớ ơn cao nhất là tiếp tục thể hiện tinh thần tự chủ, độc lập của tổ tiên trong thời đại mới. Nghĩa là dùng lại quốc hiệu ĐẠI NAM để tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên...và ứng hợp với lời Sấm: ... Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về...
Nguyễn thì chẳng được phải chăng là họ Nguyễn chẳng thể làm vua được nữa vì lịch sử đã sang trang, thời đại đã khác....(chữ thì cũng là thời, là cái thời nhà Nguyễn làm vua đã hết...). Nguyễn thì chẳng được vậy thì lại về là về như thế nào? Nếu hiểu rằng về bằng ngôi vị nhà vua thì mâu thuẫn với chẳng được. Thiễn nghĩ là về bằng quốc hiệu ĐẠI NAM vậy. Bí ẩn và ly kỳ như thế mới là Sấm.
b/- Thể hiện tính tự chủ, độc lập của dân tộc trước nước lớn ở phương Bắc, đoạn tuyệt với sự áp đặc của họ. Nước Việt không cô lập, không biệt lập nhưng thể hiện ý chí độc lập và tự chủ.  
Lời Sấm và tinh thần độc lập tự chủ dân tộc đã thúc đẩy chúng tôi đã suy nghĩ như trên nếu có gì không đúng xin lượng thứ.
5/- Thượng Đế gọi tên nước Việt là gì?
Với tinh thần tín ngưỡng Thượng Đế chúng tôi được biết rằng khi Đức Chí Tôn đến giáo đạo Nam Phương và hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thầy có dạy vào tháng 7 năm 1927:
... Thầy có hội chư Tiên Phật lại mà thương nghị về sự lập đạo tại ĐẠI NAM VIỆT QUỐC....
Năm 1927 nước ta còn trong vòng nô lệ thực dân Pháp. Quốc hiệu lúc đó là ĐẠI NAM. Thầy thêm hai chữ VIỆT QUỐC vào tạo nên 04 chữ ĐẠI NAM VIỆT QUỐC để gọi tên nước ta. Thầy không dùng chữ Việt Nam mà một số phong trào cách mạng chống Pháp đã dùng.
Người có lưu ý về Đạo Cao Đài hẳn biết Thầy dạy các vị Tiền bối làm TỜ KHAI TỊCH ĐẠO gởi đến chánh phủ Pháp 29-9-1926 và TỜ KHAI ĐẠO gởi đến chánh phủ Pháp ngày 07-10-1926 chớ KHÔNG CÓ XIN. Tờ khai rất khác với Tờ xin hay Đơn xin. Khai là báo cho chính quyền biết việc của Đạo, là có sự tự chủ trước chính quyền; các ông muốn cấm thì ra văn bản, không có văn bản cấm là Đạo cứ tiến hành mà không chờ đợi chi hết. Còn xin là phải chờ chính quyền cho, là lệ thuộc vào chính quyền; xin mà chưa cho thì chưa được làm.
Đạo Thầy cốt để dạy dân mạnh và lập quyền cho nhân loại nên Thầy làm gương từng cử chỉ để tạo ý thức tự chủ, tự lực cho môn sinh.
Chúng tôi có tham vọng quốc giáo hay không trong đề xuất nầy?
Xin thưa rằng hiến pháp nhiều quốc gia đã ghi rất rõ rằng KHÔNG CHẤP NHẬN MỘT TÔN GIÁO NÀO LÀ QUỐC GIÁO.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo mang tính toàn cầu nếu có tham vọng quốc giáo ắt sẽ bị tẩy chay tại quốc gia đó. Đã bị tẩy chay thì làm sao xây dựng một thế giới đại đồng trong Bác Ái – Công Bằng?
Cho nên chúng tôi chẳng hề có tham vọng quốc giáo gì trong đề nghị trên (vì nó trái với giáo lý của đạo), mà đó chính là phần đóng góp của Đạo cho giống nòi và tổ quốc. Xã hội có toàn quyền chấp nhận hay từ chối...
Vậy chữ QUỐC ĐẠO mà Thầy dạy và người Đạo thường dùng không phải là quốc giáo hay sao?
Xin thưa ngay rằng quốc đạo khác với quốc giáo như trời với vực.
Quốc đạo là tự thân của Đạo có tổ chức chặc chẽ, minh bạch như một quốc gia. Bằng chứng là Đạo lập quyền cho dân trong tôn giáo (dân trong quốc gia). Đạo có bổn phận giáo dân vi thiện nên có giáo hóa (Cửu Trùng Đài) pháp luật (Hiệp Thiên Đài) nhưng đến khi Phước Thiện ra đời thì Giáo Chủ Phạm Công Tắc mới công bố quốc đạo đã nên hình.
Tại sao phải có Phước Thiện mới nên hình? Vì đó là bộ máy kinh thương tạo nên của cải vật chất giữ vững nền nhân cội nghĩa cho đạo và tín đồ. Một quốc gia không có kinh tế là tập thể đi xin của bố thí chớ đâu đã là quốc gia. Nếu tự thân Đạo không có bộ máy làm ra của cải vật chất thì đến khi có thiên tai, địa ách hay tai nạn thương tâm xãy ra thì Hội Thánh phải đi quyên góp để cứu trợ vậy thì đã chậm. Đó là đột xuất.
Còn trong trường kỳ Phước Thiện có nhiệm vụ tổ chức kinh thương, sản xuất để tạo cuộc sống vật chất sung túc cho tín đồ trong khuôn viên đạo đức. Cho nên phải đến khi lập thành Phước Thiện đạo mới có đủ thành tố QUỐC ĐẠO. Quốc đạo là tự thân tôn giáo mà có, không phải chờ bên ngoài công nhận.
Quốc giáo là do bên ngoài đến. Tôn giáo có muốn cũng không được hay từ chối cũng không xong, vì nó vượt ngoài sự tự chủ của tôn giáo. Cho nên cùng một tôn giáo mà có quốc gia coi đó là quốc giáo có quốc gia không coi đó là quốc giáo.
Nói tóm lại: Quốc đạo là tự thân. Quốc giáo là do bên ngoài đưa tới. Sự khác nhau rất rõ ràng. Quốc đạo không phải là quốc giáo.
Đã sanh ra nơi cõi thế là đã có giống nòi, có tổ quốc rồi lớn khôn mới có vấn đề tín ngưỡng. Thầy đến để dạy nhân loại CHỮ HÒA thì đạo Thầy tuyệt đối không xung đột hay mâu thuẫn với bất cứ tín ngưỡng nào hết.
@@@


Email: thanh.minh96@yahoo.com












Đầu xuân Bính Thân (1956) Đức Hộ Pháp có gởi cho Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái một bài thi nói rõ lập trường tranh đấu của Ngài.
THI:
Vẫn gánh non sông đến tuổi già,
Đồng tâm làm mạnh thế tài ba.
Đòi phen kiên nhẫn dìu hồn nước,
Lắm lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.
Tín đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa nhân pháp bữu dẹp can qua.
Hồng Ân đã sẵn làm thao lược,
Ích nước an dân dụng chữ “Hòa”.
Đầu xuân Bính Thân
Hộ Pháp
(Ấn ký)


@@@
THIÊN THỨ HAI:
CÔNG THỨC
“Dân Mạnh & Lập Quyền Dân”.

Hai chữ công thức vốn dĩ xuất phát từ lãnh vực khoa học tự nhiên như toán học, vật lý, hóa học, quang học... Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) hay Đạo Cao Đài những nguyên tắc căn cơ và quan trọng được cô động lại cũng được gọi là công thức.
I/- CÔNG THỨC NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
Về mặt xã hội ĐĐTKPĐ chủ trương xây dựng một thế giới hòa bình, dân chủ, tự do... Do vậy trong tôn giáo có những công thức cho từng lãnh vực: đào tạo phẩm chất cá nhân (tu thân: cần mẫn; thanh liêm; tín nghĩa và chí nhẫn) hay góp phần xây dựng xã hội (xây dựng hạ tầng; lương thực; khoa học kỹ thuật và kinh thương). Tám công thức nầy bố trí ở Bao Lơn Đài nơi Đền Thánh.
Chúng tôi xin giới thiệu công thức xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do điển hình: NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
@@@
1/- Xuất xứ:
Công thức NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH có xuất xứ từ Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối.
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
Bài kinh trên được dùng trong đạo từ năm 1925; đến năm 1936 Hội Thánh đưa vào Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.
@@@
2/- Phân tích.
Theo quốc tế công pháp hiện nay một quốc gia bao gồm 03 thành tố: lãnh thổ, dân tộc và chánh quyền.
Dân là một tập họp nhiều người cùng sống trong một vùng lãnh thổ. Dân là thành phần đông đảo nhất trong mỗi quốc gia. Dân có trước rồi mới có chánh quyền và tạo thành quốc gia (nước). Trong 03 thành tố trên thì chánh quyền là mong manh nhất.
Dân là gốc của nước. Nước trãi qua nhiều tên gọi khác nhau nhưng dân thì vẫn không đổi. Trong tương quan giữa dân và nước thì dân là gốc mà nước là ngọn.
Do vậy chúng tôi đề cập DÂN trước nước.
Chánh quyền VN hiện nay áp dụng công thức dân giàu.
ĐĐTKPĐ áp dụng công thức dân mạnh.
Vậy chúng ta thử tìm hiểu, phân tích công thức hiện dụng (DÂN GIÀU) để đối chứng với DÂN MẠNH xem công thức nào đúng.
Đúng sai cụ thể ở đây là sự tín nhiệm hay không tín nhiệm của dân chúng thể hiện qua hành động.
2.1/- Công thức dân giàu:
Chánh phủ hiện nay đưa ra công thức dân giàu qua hai giai đoạn.
a/- Nước Mạnh Dân Giàu:
Sau ngày 30-4-1975 chánh quyền cộng sản đưa ra công thức: Nước mạnh dân giàu. Nước phải mạnh trước dân mới giàu sau. Toàn dân phải làm theo nên thi đua quốc doanh hay công tư hợp doanh, đánh tư sản... gom về cho chánh phủ... KHẮC NHẬP, KHẮC NHẬP... nhập tất tần tật. Nhập hết vào tay chánh phủ để nước ta mạnh trước rồi dân sẽ giàu sau. Miền Nam thời đó xe hơi vận tải hàng hóa hoặc chở khách là vốn quí của Đảng, nên phải đưa cho chánh quyền quản lý. Một cái máy cày, máy xới, máy nổ lớn nhỏ... cũng là của tập thể. Các sơ sở tiểu thủ công nghiệp đều phải vào quốc doanh hay công tư hợp doanh. Người nào co cượng không ký giấy hiến của cho chánh phủ để vào quốc doanh hay công tư hợp doanh thì bị bắt đi cải tạo...
Chủ xe giao xe chạy bằng diesel hay xăng cho nhà nước rồi mua lại mấy cái xe nhà nước làm hư không sửa được đem về sửa lại chạy bằng than (vì không mua được xăng dầu) kiếm sống và phục vụ xã hội. Bây giờ ngồi viết lại tôi như còn nghe tiếng của bác tài hét cho phụ xế: ...xuống thọc vào bình than cho xe lên dốc... và dáng điệu nhảy xuống xe của người phụ xế...
Mọi việc đều phải làm theo kế hoạch nhà nước. Chánh sách ngăn sông cấm chợ diễn ra rất quyết liệt lương thực, thực phẩm đều do nhà nước quản lý... Dân thì nghèo xác nghèo xơ, cái áo rách không dám bỏ, cái vỏ xe đạp kết talong mấy lần cũng phải để xài... dân xã nầy qua xã khác trong cùng một quận làm ruộng làm rẫy gọi làm xâm canh...
Thực hiện nước mạnh dân giàu một thời gian Việt Nam mạnh đến đâu không biết mà thấy thế giới xếp Việt Nam là một trong năm nước nghèo nhất thế giới. Đất nước của những anh hùng đang sống trong thiếu thốn, một phần lớn phải ăn độn rau củ... mấy ông cán bộ họp dân lại đọc cho dân nghe bài báo viết về lợi ích của ăn độn. Từ nay không gọi bửa cơm nữa mà gọi là bửa ăn vì chúng ta ăn nhiều thứ chứ đâu phải chỉ ăn cơm. Ông còn dạy dân thực hiện bài báo phân tích ba cái hột mít bổ bằng cái trứng vịt để dạy dân đừng có bỏ phí hột mít... trứng vịt đấy...
Mấy hôm sau có người bưng đến nhà ông biếu mấy chục trứng vịt... ông mở ra xem rồi trợn mắt trứng đâu? Người biếu đáp: nhà bác dạy 03 cái hột mít bằng một cái hột vịt nên em đem một rỗ hột mít chẳng bằng với mấy chục trứng à...
Thảm trạng chết đói sắp diễn ra thì Đảng thay đổi công thức.
b/- Dân Giàu Nước Mạnh.
Đảng lấy sau làm trước, đổi trước ra sau.
Thủ Tướng Phan Văn Khải công khai lên tiếng rằng: Bây giờ phải tìm mọi cách làm giàu. Câu thần chú KHẮT NHẬP, KHẮC NHẬP đã giúp cho Đảng viên có tiền, vàng đầy túi nên phải đọc câu thần chú mới là KHẮC XUẤT, KHẮC XUẤT... bung ra làm ăn và cả quốc dân được quyền làm ngày làm đêm để tăng của cải cho Đảng viên....
Thời nước mạnh dân giàu gom hết của cải người dân đem về để nhà nước quản lý. Thời dân giàu nước mạnh là đã quản lý xong thì bung ra để dân chúng cả nước làm mọi cho nhà nước. Còn quốc dân ăn thảy uống thừa mà thôi chớ giàu có nỗi gì?
Sau ngày 30-4-1975 đến nay nhà nước chỉ niệm có 02 câu thần chú: khắc nhập và khắc xuất. Nó đủ sức làm cho cả giống nòi điêu đứng.
Kết quả là ngày nay (2013) chúng ta thấy rằng quả nhiên có một số rất ít là cực kỳ giàu có còn lại một đại đa số đang sống trong nghèo khó. Nhiều người học kế toán từ Bắc vào Nam chỉ cần mười năm làm kế toán cho nhà nước họ đã có cơ ngơi hàng trăm tỷ... hàng nhiều ngàn tỷ... không thể tưởng tượng nổi. Nhiều cán bộ vừa làm vừa học bổ túc, nâng cao tới cử nhân, tiến sĩ rất nhanh kết quả là nước ta ngày nay lãnh vực nào cũng có rất nhiều tiến sĩ...mà dân oan thì đầy dẫy...  Đọc báo lề phải, nghe đài phát thanh, truyền hình trong nước thì khó hình dung toàn cục. Bởi vì họ lãnh lương của chánh phủ, có nhiệm vụ che chắn cho Đảng nên chỉ được cung cấp những tin tức vừa ý Đảng.
 Còn như ai có theo dõi tin tức từ đài phát thanh hay trang web của VOA, RFA, RFI, BBC... tiếp xúc với báo lề dân (lề trái) kiểu thông tấn xã của anh basam hay vàng anh, các blog của những người anh hùng, những nữ kiệt đang đấu tranh cho hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam đang ngồi tù hay là tù nhân tiềm năng thì thấy rõ như ban ngày.
Vụ án anh em nhà Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc (Hải Phòng) ở Văn Giang, Đặng Ngọc Viết ở Nghệ An, dân oan ở Dương Nội, ở Đà Nẳng, Sài gòn, Cần Thơ... ôi thôi từ Nam chí Bắc kể sao cho hết... cái cay đắng, đau khổ của dân oan. Nếu không có thông tin khác với nhà nước thì chúng ta không biết đầy đủ sự thật. 
Như vậy công thức dân giàu là không đúng. Vì dân không thể giàu hết được chỉ có một số giàu được mà thôi. Một công thức xã hội mà chỉ đúng cho rất ít người và sai với đại đa số là công thức sai.
Chữ giàu nghèo ở đây chúng tôi nói đơn giản là giàu hay nghèo theo nghĩa có nhiều hay ít tài sản vật chất; không nói đến tinh thần. Cũng không đi sâu vào việc phân tích lời kêu gọi tìm mọi cách để làm giàu tác động xấu đến xã hội về mặt đạo đức như thế nào.
Chúng tôi nhận định rằng các nhà chánh trị hay lãnh đạo có dịp đi (hay nhìn) ra ngoại quốc thấy đời sống vật chất của người dân các nước công nghiệp phát triển có đời sống sung túc, dân có ô tô, có nhà cửa khang trang, có tiện nghi đời sống đầy đủ... không phải lo lắng nhiều trong cuộc mưu sinh thì nhận xét là dân giàu mà không rõ nguồn gốc của sự giàu có như vậy là do đâu. Thấy dân người ta giàu rồi hô lên dân giàu mà không suy xét coi do đâu mà giàu? Nói rõ ra là thấy cái ngọn mà không truy cái gốc. Thấy hiện tượng mà không tìm hiểu bản chất.
Thực tế chỉ ra rằng người dân ở các nước tư bản có nhiều quyền hạn (nhiều tự do, nhiều lựa chọn qua lá phiếu...) nên dân mạnh. Mạnh là nguyên nhân chính đưa họ đến giàu. Mạnh nên họ mới có tự do, có dân chủ và chánh phủ họ không dám độc tài nên dân mới giàu. Dân mạnh nên chính phủ phải qui định giá làm công tối thiểu sao cho đủ cho họ sống. Sau khi trừ chi phí các thứ họ còn có khoản tích lũy để 03 năm hay 05 năm sau họ có thể mua nhà. Một tháng lương của họ phải mua được nhiều mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống... chánh phủ nào không đáp ứng được họ xô xuống. Dân mạnh đến đâu thì họ giàu đến đó. Mạnh ít giàu ít, mạnh nhiều giàu nhiều, càng mạnh càng giàu.
Đối chứng với các nước tư bản là các nước theo chủ nghĩa cộng sản. Chế độ cộng sản ở đâu thì dân cũng nghèo. Các quyền tự do chỉ có trên giấy, dân chủ chỉ là hàng dỏm, lá phiếu người dân chẳng có giá trị gì... dân chẳng có quyền gì.
Dân rất yếu (do không có quyền gì) nên chánh quyền có lấy tài nguyên lên bán mà ăn thì dân cũng không giàu vì bọn sâu dân mọt nước đã bỏ túi riêng. Tổng thu nhập quốc dân bổ đồng thì là con số đẹp nhưng thực tế là phần lớn chạy vào két sắt bọn tham nhũng. Cuối cùng là đại đa số nghèo khó và chế độ phải sụp đổ.
Liên Xô, Đông Âu... đại đa số dân chúng trong chế độ cộng sản đều nghèo (ngoại trừ một số rất ít móc ngoặc với chánh quyền thì giàu). Quan sát 04 nước theo cộng sản hiện nay là Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam chúng ta thấy đại đa số dân chúng sống trong nghèo khó và cơ cực. Chỉ một thiểu số rất ít là những ông vua tập thể có tất cả.
Lương công nhân trong các khu công nghiệp khoản 4.000.000 đồng một tháng (bốn triệu) kể cả tăng ca. Sau khi ăn uống chi phí các thứ họ tiết kiệm giỏi thì được một triệu đồng. Phải nhiều tháng họ mới mua được cái xe gắn máy còn xe hơi thì đừng có mơ tới. Một căn nhà tạm sống được cho 04 người khoản 500.000.000 đồng (năm trăm triệu) như vậy 500 tháng sau (hơn 40 năm sau) họ mới có khả năng mua nhà (với điều kiện trong 40 năm đó không bị bệnh tật hay phát sinh chi phí chi hết. Ông bà, cha mẹ, anh em có ốm đau hay tai nạn gì cũng không chi ra đồng nào để báo hiếu hay tương trợ. Họ như từ đất nẽ chui lên không có mối quan hệ nào với ai hết...). Cho nên đến báo lề phải còn dám viết rằng: Lương công nhân cả đời chưa mua nổi căn nhà.
Các nước không theo cộng sản mà độc tài thì sao? Người dân không có quyền gì nên yếu thế trước chánh phủ độc tài, mà yếu thì đi đôi với nghèo. Nhìn vào một số nước ở Phi Châu sẽ thấy điều đó rất rõ. Họ không theo cộng sản mà do chánh phủ độc tài nên đại đa số người dân có chung số phận: rất nghèo khổ.
Đó là thực chất của công thức DÂN GIÀU.
Ngày nay dân chúng đang rên than, dân oan từ Nam chí Bắc, họ đã tự thiêu, đã khiêng quan tài đi trên phố để phản đối, chặn xe Bộ Trưởng (tháng 01-2014) quyết liệt kêu gọi chánh phủ thay đổi. Họ đang muốn xô ngã chánh phủ... Dù rằng do chính sách ngu dân của chánh phủ họ chưa biết cái khổ đau, bất công mà họ đang chịu có căn cơ ở đâu và phải thay thế bằng gì? Nhưng điều đó chứng tỏ công thức dân giàu đã thất bại, Đảng cộng sản đã phá sản.
2.2/- Dân Mạnh.
Quan sát các quốc gia mà người dân có cuộc sống sung túc chúng ta thấy rõ ràng rằng người dân có nhiều quyền hạn. Lá phiếu trong tay dân là một công cụ thể hiện quyền lực rất mạnh. Các hội đoàn, các hiệp hội, các tổ chức thiện nguyện được tự do thành lập. Họ không lệ thuộc gì đến chuyện thích hay không thích của chính quyền. Báo chí, phát thanh, truyền hình đều có quyền riêng mà chánh phủ muố`n đụng chạm với họ thì phải chấp nhận luật chơi công bằng.
Các đảng phái chánh trị phải thi đua lấy lòng dân mới có phiếu. Do vậy họ không ngừng nâng cao, trình bày cái hay, cái khéo của họ và chỉ ra cái sai, cái kém của đối thủ cho dân chúng thấy mà chọn lựa. Sự tranh đua công khai, không hề ngừng nghĩ và không giới hạn trong lãnh vực nào bắt buộc họ phải tìm ra cách đáp ứng ý muốn của dân để tồn tại.
Bà Bộ Trưởng sắp được bổ nhiệm là họ rà ngay Bà nầy mướn người làm trả tiền không ghi hóa đơn... Tổng Thống đi kiếm người khác.
Ông Thứ Trưởng bộ quốc phòng giải trình không được 3.000 USD (ba ngàn)  trong ngăn kéo do đâu mà có. Ông Thứ Trưởng từ chức ngay.
Tổng Thống đi máy bay về trang trại ngoài qui định. Tổng Thống phải xuất tiền trả lại cho ngân khố quốc gia.
Tham nhũng xãy ra là lập tức có đối thủ chỉ ra và đem công khai cho xã hội biết. Tài sản quan chức có không giải trình được nguồn gốc thì đó là do tham nhũng mà có. Dân mạnh như thế nên họ kiểm soát được ngân khố quốc gia. Ngân khố không bị đụt khoét thì nước giàu. Nước giàu thì phải cung phụng lại cho dân cả vật chất lẫn tinh thần. Nhật Bản không có tài nguyên gì và chịu động đất quanh năm sao họ giàu có đến thế? Singgapore mới lập quốc đây thôi và tài nguyên họ chẳng có gì đáng kể so với Việt Nam sao họ giàu có như vậy?
Dân mạnh là điều kiện tiên quyết để nước giàu. Nước giàu thì tự nhiên dân giàu.
Tiền thuế của dân thì đem ra phục vụ lại dân chớ chẳng cần ơn ích của ai. Dân không ăn xin lòng bố thí của Đảng và nhà nước (vì Đảng và nhà nước chỉ có súng ống và mà tấu) họ xin làm gì? Tiền Đảng đang xài là do dân làm ra chớ Đảng làm gì có. Bởi dân yếu ớt, thiếu mở mang, bị Đảng lừa đảo nhốt vào cái chai nên mới chịu cảnh đau thương đến vậy. Muốn thay đổi thì đừng mong nơi Đảng mà thất vọng. Ai có lòng với dân thì giúp dân mạnh lên. Dân mạnh đến đâu là Đảng lùi đến đó. Dân mạnh thì giàu có là điều tự nhiên.
Kêu gọi dân giàu mà dân không có tự do, xã hội không có dân chủ là đường đi không đến. Chánh phủ độc tài mà hô hào dân giàu thì chẳng khác nào họ hứa hẹn có một đại tiệc linh đình mà lập lờ đánh lận con đen không cho biết chừng nào có tiệc và ai được hưởng... chánh phủ đưa cho dân cái bánh vẽ rồi bảo ăn đi...ngon lắm đấy.
Một số người dân Việt Nam được Đảng dạy rằng làm cách mạng để có tự do theo chủ nghĩa xã hội rồi lên thiên đường cộng sản không còn cảnh người bốc lột người... sung sướng lắm... Liên Xô sắp tới giai đoạn làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu rồi...ráng lên. Chuyên gia Liên Xô dự đoán sau chiến tranh chỉ cần 15 năm Việt Nam sẽ vượt qua người Mỹ... Đảng ta thần thánh thắng Mỹ ngày 30/4/1975 thống nhứt đất nước thì làm được tất cả. Họ che dấu sự thật rằng Mỹ bán đứng VNCH cho Mao Trạch Đông để đổi lấy quyền nhảy vào làm ăn với Tàu Cộng.
Người tin và theo Đảng từ năm 1930 đến nay tính ra đã hơn 80 năm. Đùng một cái năm 2013 báo lề phải đưa tin ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố:... đến hết thế kỷ nầy chưa biết có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện hay chưa...
Tổng Bí Thư Đảng đã nói rất đúng sự thật: Chủ nghĩa xã hội là điều không tưởng. Đảng đã đưa tấm thực đơn nhưng không có món nào cả và phù phép bảo dân tộc nhìn tấm đơn đó mà no lòng...
Phụ thân sợ tôi lầm tin cộng sản nên người kể câu chuyện chủ quán đăng bảng: Ngày mai ăn khỏi trả tiền. Người khách đang ăn nhìn thấy vậy thì rất thích. Hôm sau vào quán ăn no nê rồi đi ra rất tự nhiên... bị níu áo thì cự cãi chỉ vào tấm bảng... Chủ quán cười tươi tắn nói rằng: Ông đọc xem nào. Người khách đọc xong rồi ngẫn người ra... hôm nay đâu phải là ngày mai... vĩnh viễn không có ngày nào ăn khỏi trả tiền cả dù tấm bảng lù lù ra đó. Thấp cơ thua trí thôi thì móc túi ra trả tiền. Gẫm lại ông khách đó có ăn thì trả tiền cũng không lấy chi làm thiệt thòi. Còn với  cộng sản không ăn gì cũng phải trả tiền... đi ngoài đường nó kéo vào đòi tiền cũng phải trả không thì phiền phức lôi thôi có khi mất mạng... Ngày nay xem lại thấy dân ở Phan Thiết có biết cây cầu Đồng Nai mặt mũi nó thế nào đâu, chẳng có đi qua cầu lần nào mà cứ è cổ ra mua vé qua cầu Đồng Nai. Không móc tiền mà đi qua đó là toi mạng với Đảng.
Dân ta bị công an bắt vào đồn hỏi thăm công việc rồi tự nguyện viết đơn ở lại đồn rồi chết luôn trong đó. Đầu năm 2014 mấy em học sinh ở Khánh Hòa có độ tuổi 14, 15 cãi nhau, một em là con của công an đánh một em trong số đó. Công an đến bắt em học sinh bị đánh về đồn. Kết quả em chết vì vỡ hộp sọ.... Đảng vì dân, do dân, phục vụ dân bằng bạo lực mọi lúc, mọi chổ nên dân ta chết đủ cách, chết trong phòng tạm giam, chết trong xe, chết ngoài đường phố...đi cũng chết, đứng cũng chết, ngồi nằm gì cũng chết... cứ trái ý chánh quyền là chết... sống trong gông cùm, tù tội chết còn chưa yên nên mồ mã vẫn trong trại tù. Cộng sản bỏ tù cả xương cốt người chết vì họ dụ được dân tộc ta bằng công thức dân giàu, bằng thiên đường xã hội chủ nghĩa. Dân ta tin lầm mới đến cảnh vậy. 
Đúng là có đại tiệc nhưng đó là dành cho đại gia hưởng rất đầy đủ còn đại đa số thì nghèo khó. Nhìn vào xã hội Việt Nam hiện nay thấy dân chúng sống trong cảnh: ...Chưa được nồi mơi lo buổi tối... rất nhiều.
Đảng đã tìm đủ cách để lừa phỉnh dân tộc ta. Họ lừa phỉnh được là nhờ có miếng mồi thơm theo từng giai đoạn nên dân ta dính bẩy, mắc câu. Hồ Chí Minh gởi bài Đường thi cho Đức Hộ Pháp 02 câu kết:
Mấy lời nhắn gởi xin ông nhớ,
Nước ngược buông câu cá chọn mồi.
Ông Hồ tự tin cho rằng mình là ông câu thiện nghệ nên buông câu giữa dòng nước ngược... phải chọn mồi thơm, chọn lưỡi câu... như ông tiều phu Võ Kiết ra mặt khôn... cười mĩa mai ông Khương Thượng đang buông cần nơi Bàn Khê với cái lưỡi câu ngay đơ và chẳng có cục mồi nào... rồi nhiệt tình dạy cách uốn cong lưỡi câu, chặc ngạnh sao cho bén, chọn mồi cho thơm... Ông Khương Thượng cười...
Nghĩa bóng rằng ông Hồ chủ động chọn đường lối cộng sản và chọn công thức cho dân tộc. Ông Hồ là ông câu mà dân tộc ta là con cá.
Đức Hộ Pháp họa lại 02 câu kết:
Cờ tàn mới biết tài cao thấp,
Nào phải như ai cá chọn mồi.
 Đức Hộ Pháp cho ông Hồ biết rằng một nước cờ chưa phải là cả bàn cờ. Được một nước cờ chớ cho rằng thắng bàn cờ. Đến tàn cuộc mới biết ai thắng ai bại. Lấy gì để phân định thắng thua?
Xin thưa rằng quan sát xem đời sống người dân có được an cư lạc nghiệp hay không, cô nhi, quả phụ có được chiếu cố hay không? xã hội có mở mang hay không, quốc gia có dân chủ, tự do hay không... là thước đo.  Nói tóm một lời muốn biết giá trị rốt ráo của một đường lối, một chính sách thì lòng dân yêu chuộng hay không chính là kết quả.
Nhà cách mạng Phạm Công Tắc trong câu chót xác định rõ ràng và quyết liệt rằng: ông Hồ Chí Minh chỉ là con cá chớ chẳng phải ông câu. Ông câu là Mao Trạch Đông kia kìa còn ông Hồ chỉ là con cá nên chọn mồi cộng sản. Con cá thì khác với ông câu.
Ông Hồ mắc câu của Mao Trạch Đông nên phải tiến hành chiến tranh nồi da xáo thịt với miền Nam 20 năm làm cho nguyên khí quốc gia xơ xác. Sau ngày 30/4/1975 mở ra trại tù khổng lồ cho người liên quan đến chánh thể VNCH làm cho nguyên khí quốc gia kiệt quệ; lòng dân không còn tín nhiệm gì với cộng sản. Đảng muốn tồn tại phải lần lượt dâng biển đảo, đất biên giới và cống nạp tài nguyên cho Tàu cộng.... con cá Hồ Chí Minh đã mắc câu của Mao Trạch Đông. Ngày nay còn bao nhiêu Đảng viên tin vào Đảng? Còn người dân nào tin vào Đảng? Không cần phải chờ Liên Hiệp Quốc đứng ra trưng cầu dân ý mà cứ nhìn vào Đông Đức, nhìn vào Ba Lan, các nước Đông Âu và Liên Xô thì biết.
Đảng khi mới lập thì kêu gọi đánh đổ giai cấp. Dân đang nghèo khổ và bị áp bức nên nghe vậy bùi tai nghe theo. Đánh đổ giai cấp xong Đảng thành giai cấp mới tàn ác hơn.
Khi tiến hành chiến tranh nồi da xáo thịt trong 20 năm Đảng ra chiêu bài: Chống Mỹ cứu nước. Sự thật là để làm vừa lòng Tàu cộng và buôn bán xương máu dân tộc. Bởi vì không có chiến tranh thì miền Bắc sẽ tự tố cáo sự sai lầm của họ bằng sự thiếu thốn, nghèo đói và kém phát triễn về kinh tế, văn hóa, khoa học kỷ thuật. Còn miền Nam sẽ chứng minh tính đứng đắn của con đường tự do, dân chủ giúp người dân phát triễn làm chủ đời sống của mình là một thực tế.
Chánh sách cải cách ruộng đất ở miền Bắc và Người cày có ruộng ở miền Nam rồi cũng sẽ được lịch sử ghi nhận và đánh giá công bằng.
Miền Nam bị cộng sản tấn công chịu cảnh chiến tranh từ thành thị đến thôn quê nhưng hạ tầng xã hội đường xá giao thông hơn hẳn miền Bắc. Còn văn hóa, khoa học kỷ thuật?
Khi ký hiệp định Généve 1954 về Việt Nam miền Bắc có trường Đại Học còn miền Nam thì không. Đến ngày 30-4-1975 số trường đại học ở miền Nam nhiều hơn miền Bắc. Riêng sinh viên 02 trường Luật Khoa và Văn Khoa đã gần 100 ngàn sinh viên. Còn chất lượng?
Văn bằng của Việt Nam Cộng Hòa được thế giới nhìn nhận. Còn văn bằng miền Bắc có được nhìn nhận hay không? Đường lối đó tiếp tục đến ngày nay nên cán bộ học bổ túc văn hóa vài năm (một năm hai ba lớp) đã vào đại học rồi vài năm sau có bằng cấp sau đại học.... kết quả tiến sĩ giấy tiến sĩ dõm đầy trời.
Giáo Sư Nguyễn Văn Trung viết bộ NHẬN ĐỊNH với lối hành văn chặc chẽ, lý luận sắc bén. Cung cấp nhiều thông tin, kiến thức, phương pháp suy nghĩ, phương pháp phân tích và quan điểm cho người đọc. Đó là điều rất quí không phải người cầm bút nào cũng đạt đến tầm vóc như thế. Bây giờ nhớ lại chúng tôi vẫn nhớ ơn giáo sư đã mở mang cho chúng tôi qua văn bút.
Sách của Giáo Sư tạo được chấn động rất lớn. Thậm chí miền Bắc đọc đến bộ Nhận Định của Giáo Sư cũng thấy sao đó mà phân công cho ông Trần Văn Giàu viết NHẬN ĐỊNH VỀ NHẬN ĐỊNH. Sau 30/4/1975 tôi hỏi nhiều trí thức và cán bộ cộng sản trong ngành giáo dục và tuyên huấn thì họ đều ngơ ngác không biết rằng có một cuốn sách với cái tựa như thế. Cho nên chúng tôi không biết ông Trần Văn Giàu viết gì trong đó. Ước chi ai có thì chụp ảnh phổ biến trên mạng thì hay quá...
Có lần giáo sư căn cứ vào thống kê của cộng sản ca ngợi chủ nghĩa cộng sản đã đào tạo số kỹ sư, bác sĩ, giáo sư... với tỷ lệ rất cao so với dân số... khi đó chưa sống với cộng sản chúng ta chưa biết giáo sư đã bị lừa. Nay đã sống với cộng sản đã tận mắt chứng kiến kỷ sư, bác sĩ, phó tiến sĩ, tiến sĩ... trong xã hội cộng sản chất lượng như thế nào thì số lượng đã trở nên một trò hề lố bịch.
Chúng tôi thiễn nghĩ giá như giáo sư đem đoạn văn mấy chục năm trước ra đối chiếu để góp phần thức tỉnh dân chúng thì hay hơn là làm thinh. Xin hãy nói lớn, nói công khai cho dân chúng biết rằng những con số thống kê trong xã hội cộng sản không đáng tin cậy. Mỗi khi nhìn vào thống kê nên tìm hiểu sâu hơn vào chất lượng của nó cũng như lấy thực tế cuộc sống làm thước đo. Trăm nghe không bằng một thấy. Trăm thấy không bằng một lần trãi nghiệm.
Tôi không hề nghĩ rằng giáo sư thất bại trong văn bút mà trái lại là khác. Nhưng tiền nhân có dạy: Bậc khôn ngoan là người biết rút ra bài học từ những người khác. Điều nầy cùng hướng với tựa bài TỘI SINH PHÚC mà Giáo sư đã vận dụng từ Kinh Thánh để tạo ra một bài nhận định của Giáo Sư vậy.
Thời Việt Nam Cộng Hòa trường Luật Khoa, Văn Khoa ai có bằng Tú Tài Toàn Phần thì cứ ghi danh vào học chẳng hề phân biệt lý lịch. Sau 30-4-1975 hai trường nầy bị đóng cửa. Ai muốn học đại học phải có lý lịch tốt. Chánh phủ cộng sản thực hiện chính sách ngu dân.
Mấy lần đổi tiền thực chất là dùng chánh sách móc túi người dân.
Nhà văn Dương Thu Hương khi theo đoàn quân chiến thắng vào đến Sài Gòn, nhìn đường phố và cuộc sống người dân rồi bàng hoàng nhận ra rằng bà và bao nhiêu người khác đã chết trên dãy Trường Sơn, chết trên chiến trường miền Nam là do bị gạt gẫm bởi chiêu bài chống Mỹ cứu nước. Rồi ngồi bệt xuống đường khóc lóc một cách thảm thiết rằng: ...Văn minh đã thua sự man rợ. Trong khi nhiều nhà văn, nhà báo, nhiều học giả, nhạc sĩ, ca sĩ, nhiều người tu hành, nhiều sinh viên học sinh...  được sống trong bầu khí tự do, tiến bộ của miền Nam lại ra sức ủng hộ, cổ vũ cho miền Bắc, phụng thờ miền Bắc. Họ chống Việt Nam Cộng Hòa để xây dựng xã hội tiến bộ hơn thì hiểu được. Còn họ chống để hiến dâng miền Nam cho cộng sản miền Bắc thì cái hiểu biết thực tế của họ mới thế nào?
Ngày 21-12-2013 Thông Tính Viên Ngành Mai trang web RFA cung cấp thông tin trong bài: Chuyện về vở hát Tây Thi gái nước Việt:
...năm 1969 lúc Hòa Đàm Ba Lê đang diễn ra, cả hai miền Nam, Bắc đã đưa các đoàn văn nghệ sang nước Pháp làm công tác văn hóa, thu phục kiều bào. Riêng miền Nam thì trước tiên là đoàn Thanh Minh Thanh Nga như tôi đã từng trình bày với thính giả trên làn sóng phát thanh này. Kế đó thì các đoàn văn nghệ khác cũng được đưa sang, trong số có đoàn của Năm Châu, Phùng Há.
Thời gian công tác cho đoàn văn nghệ miền Nam tại Ba Lê, hai nghệ sĩ Năm Châu, Phùng Há đã bí mật gặp ông Đại Sứ Mai Văn Bộ của miền Bắc. Giáo sư Trần Văn Khê dùng xe riêng đưa 2 người đến gặp ông Bộ tại nhà của Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Hà.
@@@
Ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản điển hình là 02 nghệ sĩ Năm Châu và Phùng Há. Nghệ sĩ Năm Châu và Phùng Há đi Pháp bằng tiền của VNCH để phản lại VNCH ai có lương tâm thì tự nghĩ xem cử chỉ ấy đáng giá thế nào? Chúng tôi không tán thành chiến tranh nhưng hành vi đâm sau lưng chiến sĩ của 02 người nầy thật là buồn nôn.
Ông GS Trần Văn Khê được may mắn không phải sống chiến tranh kinh hoàng, không biết sự hy sinh của chiến sĩ VNCH, sự khốn khổ của dân chúng do cộng sản tạo ra nên móc nối đoàn công tác của VNCH để lập công với cộng sản... đó là quyền tự do của ông Khê.
Cái công ông Trần Văn Khê được phơi bày trước công luận là như vậy; còn những cái công khác để dâng lên Bác và Đảng của ông Khê thì chúng ta chưa biết. Song chúng ta biết chắc rằng nó rất lớn nên khi ông về Việt Nam để gởi nắm xương già được chánh phủ đền đáp bằng căn nhà rất đẹp; trước nhà có vườn trồng cau, sau nhà có vườn chuối ngay tại TP HCM. Thỉnh thoảng đưa ông Khê lên báo chí, tivi để ông nói về đờn ca hát xướng mà chẳng bao giờ ông GS Khê nói về một vấn đề nào liên quan đến thảm trạng dân oan, hay tù nhân lương tâm trong xã hội mà chính ông đã góp phần tạo ra. Cái nghệ thuật của ông Khê trình bày theo chỉ đạo của cộng sản là một thứ nghệ thuật xa rời đau khổ của dân oan trên khắp miền đất nước; để góp phần làm ngu dân và tàn nhẫn hơn nữa là đầu độc cho người bị đầu độc vui chịu việc bị đầu độc.
Nếu trước đây ông Khê không chê bai Việt Nam Cộng Hòa ủng hộ cộng sản cứ làm nghệ thuật thì OK, cũng chẳng có gì để nói. Đàng nầy trước kia ông ủng hộ cộng sản, lôi kéo nhiều người theo cộng sản, ngày nay cộng sản đem lại điều tồi tệ như thế cho giống nòi và tổ quốc thì ông im lặng để thụ hưởng. Cái trá ngụy của Ông Trần Văn Khê là như thế đó.
Ông Phạm Đình Trọng là nhà văn, là Đại Tá của chế độ cộng sản trong dịp kỷ niệm 40 năm Tàu Cộng dùng vũ lực sát hại 74 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa để chiếm Hoàng Sa (19-01-1974).
Ông bày tỏ tâm tư trên trang web RFA ngày 08-01-2014:
TQ thực hiện được âm mưu chiếm Hoàng Sa của VN. Đây chính là sự mặc cả, buôn bán nhau giữa 2 nước lớn, và họ đã hy sinh quyền lợi của nước nhỏ là VN. Nếu không có cuộc chiến tranh ý thức hệ thì TQ không khi nào có thể chiếm được Hòang Sa. Công Hàm Phạm Văn Đồng thể hiện rõ nhất cái ý thức hệ đó. Lúc đó, ông Phạm Văn Đồng hòan tòan đứng về ý thức hệ CS, ý thức hệ gọi là đấu tranh giai cấp để ủng hộ TQ. Lúc ấy, ông hòan tòan không đứng về phía dân tộc; ông ta không đứng ở tư thế của người VN để nhìn nhận và bảo vệ quyền lợi của đất nước mà ông ta đứng về phía ý thức hệ của CS để ủng hộ ý đồ của Tàu cộng.
Sự tỏ thật của Ông Phạm Đình Trọng chứng minh rằng trong thời internet mọi việc trong bóng tối sẽ được lôi ra ánh sáng. Nhận thức nhân  loại ngày một nâng cao nên họ sẽ nhận xét tinh tế hơn. Cái hay, cái tốt sẽ được mọi người biết đến cái che đậy và trá ngụy sẽ được phơi bày.
Chúng tôi nêu trường hợp RẤT KÍN ĐÁO của ông Trần Văn Khê với đầy đủ bằng cớ, ngày giờ để thức tỉnh những bậc trí thức khác... suy gẫm để sống có trách nhiệm hơn, nhân văn hơn. Chúng tôi thành thật mong các vị cẩn thận đừng bước vào vết xe đổ của đàn anh. Chúng tôi tin chắc rằng xã hội sẽ nhìn ra cái chân tướng mọi sự việc.
Với con người thì lầm lẫn là qui luật mà chân lý là ngoại lệ. Ai trong đời cũng có vấp phạm, ai xét mình thấy vấp thì tự giác chỉnh đốn khi mình còn sống để xã hội có thêm người tốt.
Người hiểu biết sẽ thông cảm với ông Lê Hiếu Đằng cả đời theo cộng sản giờ gần cuối đời mới thức tỉnh từ bỏ Đảng và góp sức với nhiều người khác để xây dựng xã hội tự do, dân chủ. Người đời có quyền chê ông Đằng khi ông cung phụng cho Đảng nhưng không có quyền chê ông Đằng khi ông công khai nhìn nhận cái sai và thay đổi để phụng sự cho dân chủ, tự do của dân tộc. (Ngày 23/01/14 ông Đằng tạ thế).
Đức Khổng Tử nói rằng buổi sáng biết đạo, buổi chiều chết cũng vui. Những người biết mình lầm lẫn quay về với lẽ thật là lòng họ rất vui... cớ gì ta không chia xẽ niềm vui với bạn đồng sanh?
Kinh Thánh có chuyện ông Saulơ chuyên bắt bớ những người theo Chúa Jésus... sau ông thức tỉnh quay lại phụng sự đạo và được tôn vinh là Thánh Phao Lồ.
Trong ĐĐTKPĐ có ông mật thám Trần Văn Tạ vâng lịnh chánh quyền thực dân Pháp theo dõi các vị môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn để tìm cách bắt. Sau ông được Đức Chí Tôn dạy cho thức tỉnh rồi thành người đạo và được phong Hộ Đàn Pháp Quân...  mọi người kính mến.
Vậy Ai trong đời mình không từng lầm lẫn thì có đủ quyền để trách ông Đằng, ông Trọng (Phạm Đình).... Còn như tự xét rằng kiếp sanh mình cũng từng nhầm lẫn thì nên thông cảm và tạo cơ hội cho người bạn đồng sanh phụng sự. Phải kiến tạo tinh thần hòa bình để chung sống với nhau từ phạm vi nhỏ đến lớn.
Nhìn Tây Đức và Đông Đức cũng như Nam và Bắc Hàn là biết độc tài hay dân chủ sẽ thắng nếu không có chiến tranh. Người cộng sản lấy chiến tranh để che lấp sự yếu kém về một xã hội dân chủ, tự do, tiến bộ.
Sau khi giết chết mấy triệu thanh niên Nam Nữ ưu tú của dân tộc trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt thì Đảng đưa ra chiêu bài: Nghĩa vụ quốc tế. Máu xương của dân tộc đổ ra trên đất Campuchia hơn 10 năm. Mỹ đem quân đến Việt Nam thì bảo là Mỹ xâm lược, Việt Nam đem quân sang Campuchia thì bảo là làm nghĩa vụ quốc tế.
Người Việt Nam bỏ nước ra đi tìm tự do ở Châu Âu, Châu Mỹ bị bắt lại thì bảo là phản quốc. Đi lọt ra nước ngoài được thì bảo là Việt Kiều yêu nước, là khúc ruột ngàn dặm... Hiến pháp năm 1980 viết rành mạch: ... phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Chánh phủ Trung Quốc vẫn kế tiếp nhau rất rõ ràng (không có một cuộc đảo chánh nào hết) thì họ vẫn là BỌN BÁ QUYỀN TRUNG QUỐC.. nhưng vì sao đến hiến pháp 1992 thì bỏ đoạn đó. Vì sao chánh phủ Việt Nam lại trở cờ thân thiết và lệ thuộc vào bọn bá quyền?  
Thêm bao nhiêu cái chết trên biên giới Việt Trung giữa hai nước cộng sản với nhau mà ngày nay Đảng còn rất sợ hãi nên không dám công khai cuộc chiến 10 năm với Tàu Cộng là cuộc chiến gì? Những người chết trong cuộc chiến Việt Trung và trên đảo Trường Sa có danh phận gì?
Dân giàu là liều thuốc độc cực mạnh nhưng thơm tho nên Đảng đã gạt được dân tộc ta trong bao nhiêu năm nay. Đó là con đường đi không đến nên Đảng rất thích khi nghe dân mơ ước được giàu.
Dân mạnh là điều cộng sản sợ hơn hết trong mọi nổi sợ.
Ông Bùi Tín trong bài viết Họ đang sợ những gì? đăng trên VOA blog ngày 23-12-2013. Ông nhận định rằng nổi sợ đã đổi ngôi từ dân sang Đảng... và ông nêu câu hỏi:
Nhưng họ sợ gì hơn cả? Thật khó trả lời. Vì càng ngày họ càng sợ nhiều thứ, kể ra không sao hết. Họ sợ quần chúng đông đảo xuống đường đòi tự do, ruộng đất, nhân phẩm. Họ sợ sự thật.
Ông Bùi Tín kết luận:
Họ sợ sự thật, sợ sự minh bạch, sợ thức tỉnh của nhân dân, sợ dư luận, vậy thì Trung tâm dân sự điều tra dư luận có thể sẽ là một vũ khí hòa bình, phi bạo lực rất sắc bén, có hiệu quả cao vậy.
Chúng tôi tôn trọng ý kiến của ông.
Nhưng chúng tôi xin trả lời rất ngắn gọn và rõ ràng: Đảng sợ nhất là DÂN MẠNH.  Dân mạnh thì Đảng bị tiêu vong.
Tóm lại: hô hào, kêu gọi dân giàu là một thủ đoạn rất gian manh của chánh phủ độc tài (trong đó có cộng sản). Nó mãi mãi là ảo vọng trong xã hội độc tài hay cộng sản. Nó tuyên truyền rằng có một ốc đảo trên sa mạc để khi đoàn lữ hành đi đến đó và biết rằng ỐC ĐẢO ẢO thì kiệt sức và chết trong ảo ảnh. Ngay trong những nước là những siêu cường quốc về kinh tế như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật... mà vẫn có một phần lớn dân chúng không giàu. Dân chúng ở những quốc gia nầy vẫn có những đợt biểu tình rất lớn để thể hiện sức mạnh của dân chớ không phải thể hiện sự giàu có bao giờ.
Công thức dân giàu là sai.
Công thức dân mạnh mới đúng.
@@@
3/- Kết quả của Dân Mạnh: Nước giàu.
Phòng cháy hơn chữa cháy. Phòng bệnh hơn trị bịnh.
Dân mạnh chính là phương thuốc ngăn ngừa và đặc trị tham nhũng. Nó luân lưu để giết chết từng tế bào tham nhũng trong cơ thể xã hội. Nó cũng có tác dụng phòng ngừa và nâng cao thể trạng chống tham nhũng trong cơ thể xã hội đến cực đại.
Dân mạnh thì cái tài nguyên lớn nhất, quan trọng nhất là con người, là hiền tài của quốc gia dân tộc sẽ được tôn trọng.
Dân mạnh thể hiện qua 03 phương diện:
. Dân được tự do dùng lá phiếu của mình để chọn mặt gởi vàng, giao phó tương lai cho bậc hiền tài.
. Dân có cơ chế rõ ràng, minh bạch để tham gia góp ý vào đường lối và công việc quốc gia.
. Dân có cơ chế rõ ràng và đủ quyền để kiểm soát nhân sự trong bộ máy công quyền. Ai làm cho ích nước lợi dân thì họ nâng ai làm khổ dân họ xô xuống. Những người do dân chọn lên họ sẽ sợ sệt mà giử mình hơn nữa. Dân mạnh thì xã hội sẽ truyền hiền chớ không truyền tử lưu tôn. Nạn cô chiêu cậu ấm, con ông cháu cha, con cháu các cụ cả... bị triệt tiêu.
@@@
Tài nguyên của đất nước từ trong lòng đất, từ trong rừng sâu núi thẩm, từ biển cả bao la, từ cõi không gian vô tận, từ những cánh đồng mênh mông, từ vàng trắng (cao su) vàng đen (dầu thô) từ những bộ não thông thái sẽ chảy vào ngân khố quốc gia chớ không rò rĩ, không chảy vào túi, vào tài khoản của các quan chức tham nhũng hay các thế lực cấu kết với tham nhũng.
Dân mạnh thì dân kiểm soát được chánh quyền. Đã kiểm soát được chánh quyền thì nước giàu là điều tất yếu. Không có một thời đại nào, một quốc gia nào người dân mạnh mà quốc gia lại nghèo nàn và yếu hèn bao giờ.
4/- Chứng cứ và triễn vọng.
4.1/- Chứng cứ: Đạo đã thực hiện thành công.
Chúng tôi xin trình chánh tác dụng của công thức dân mạnh và lập quyền dân trong ĐĐTKPĐ theo quan điểm xã hội học.
a/- Giai đoạn 1941 - 1946.
Đạo khai năm 1926 và rất nghèo vậy thì tiền đâu mà xây dựng nên cơ ngơi tôn giáo và còn giúp đở tài chánh cho các nhà cách mạng chống thực dân Pháp như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để...
Xin thưa rằng vì Đạo đã thực thi công thức dân mạnh và lập quyền cho nhơn sanh để những người thua thiệt, nghèo hèn, bị áp bức khắp nơi thấy được con đường đưa họ ra khỏi cảnh đời tối tăm khốn khó. Họ thấy rằng đạo nầy là của họ vì nó làm cho họ được mạnh mẽ oai quyền thực sự không còn phải sống trong bế tắc và sợ hãi. Đạo dạy cho họ biết sống đời sống có ý nghĩa cho bản thân, gia đình và xã hội nên họ đoàn kết nhau dưới bóng cờ cứu khổ của tôn giáo.
Ngọn cờ nhơn nghĩa phất lên, tiếp đó dân chúng hưởng ứng. Đó  chính là thước đo giá trị của các công thức, phương pháp tiến hành cũng như tư cách và năng lực người hành đạo.
Đạo đã thực thi 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân trí, dân sinh trên căn bản dân mạnh, lập quyền dân. Lúc đầu dân chúng chưa thấu hiểu lẽ sâu xa, chưa nhận ra cái hương vị của đạo nên 03 lần trước khởi công xây Đền Thánh đều thất bại.
Năm 1936 Đức Hộ Pháp nhận trách nhiệm tái khởi công xây dựng Đền Thánh trong tủ chỉ có 01$46 (tương đương 100kg gạo) và thế giới đang bị khủng hoảng kinh tế nên đến 1939 thì nỗ ra đệ nhị thế chiến... Điều cực kỳ nguy hiểm nữa là Pháp đã kết luận Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia nên họ sẳn sàng tiêu diệt đạo.
Chỉ với 01$46 và hoàn cảnh như vậy mà đến 1941 thì Đền Thánh đã xong phần cơ bản. Tiền đâu mà mua vật liệu, lương thực đâu mà ăn và nhân công đâu mà làm?
Tiền, lương thực và nhân công nằm trong lòng dân, nằm trong đường lối đắc nhân tâm của Đạo. Cụ thể là hàng trăm, hàng nghìn người từ khắp nơi, nam phụ lão ấu đều hưởng ứng. Trí thức hay bình dân tham gia đều tự nguyện xã thân cho đạo.
Đặc biệt là số 500 công quả căn bản trực tiếp xây dựng Đền Thánh phải lập nguyện thủ trinh trong suốt thời gian xây dựng Đền Thánh.
Các vị khác lớp thì làm công quả tại nội ô, lớp thì làm lò gạch, ngói, lớp thì xay vỏ ô dướt trộn với vôi, mật rĩ để trộn với xi măng... lớp đi tìm tầm vông hay tre thật già về làm cốt đổ bê tông thay cho sắt...
Lớp thì trồng hoa màu ở các sở chung quanh để đem về cho công quả dùng. Lớp thì mướn hàng mấy trăm mẫu ruộng ở miền Tây và ở các nơi khác canh tác để đem lúa thóc về cho Hội Thánh... một phần lớn trong số công quả nầy là nhân sự của Phước Thiện. Nhân sự Phước Thiện đóng vai trò nồng cốt trong công cuộc xây dựng nên Đền Thánh.
Những người nghèo khó đi làm thuê kiếm sống đến giờ nghĩ trưa đi hái rau rừng rữa sạch bó lại chiều về hiến cho lương viện...
Năm 1936 tái khởi công xây Đền Thánh.
Năm 1937 tổ chức mở 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Năm 1938 đem nguyện ước của vạn linh thành lập Đạo Luật Mậu Dần. Đạo Luật Mậu Dần là chứng cứ cho nhơn sanh thấy rằng Hội Thánh sẽ còn lo lắng, nâng đở cho họ nhiều hơn, mạnh mẽ hơn qua học đường (nơi nào có Thánh Thất là có trường học), nhà thương, công ăn việc làm (các sở lương điền công nghệ của Phước Thiện)... nghĩa là tương lai tươi sáng đang đến trong tầm tay và ngay trước mắt. Họ tắm mình trong nguồn sống vô tận đó. Một thế giới bình yên, thịnh vượng trong đạo đức đến với họ ngay trong một đất nước còn bị dày xéo dưới gót giày xâm lược của thực dân Pháp. Dân trong đất nước nô lệ mà tạo được cuộc sống như vậy thì làm sao thực dân Pháp tồn tại? Đó chính là một cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa mà dân chúng đã hưởng được.
Đường lối cách mạng đấu tranh ôn hòa như phong trào duy tân của cụ Phan Châu Trinh, Nguyễn An Khương, Ngô Đức Kế... cũng chủ trương nâng cao dân trí, dân sinh... để dân mạnh thì sẽ đuổi được thực dân Pháp. Vậy đường lối ôn hòa, duy tân của các cụ có khác chi với các công việc mà Đạo đã làm được chăng?
 Đường lối chủ trương cách mạng bằng vũ lực như Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Cộng Sản .... cũng nhằm đi đến việc tạo cơm no áo ấm cho dân, xã hội dân chủ, tự do...
Trình chánh như vậy để thấy rằng Đạo Cao Đài đã âm thầm làm cuộc cách mạng và đã làm thành công. Nó như một công thức, một phát minh đã cho kết quả chắc chắn trong phòng thí nghiệm. Từ đó đem ra áp dụng đại trà.
Từ công thức dân mạnh, lập quyền dân thực thi năm chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân trí, dân sinh mà không được nhìn nhận là một cuộc cách mạng nhơn nghĩa thì thế nào mới gọi là cách mạng?
Đức tin là sự nhận thức về chân lý. Dân đã thấy được tương lai của mình gắn liền với tôn giáo nên họ tích cực hợp tác để tạo nên vùng Thánh Địa đẩy lùi được nghèo khó đói khát...
Năm 1941 Pháp bắt giáo chủ Phạm Công Tắc và một số vị chức sắc khác đày sang Madagascar (Phi Châu). Một số nữa bị bắt và bị đày di khắp các nhà tù trong nước... Pháp tịch thu hầu hết cơ sở của Đạo ở Thánh Địa và toàn cõi Đông Dương.
Dân đã nếm được hương vị của 05 chương trình và 03 diện nên họ hằng nhớ ơn và hoài vọng. Lòng nhớ ơn và mong muốn đền ơn ngày đêm thôi thúc họ tìm cách đưa giáo chủ trở về. Khi Ngài Cao Tiếp Đạo cầu cơ xin được thiêng liêng chỉ dẫn phải làm gì... và được dạy rằng phải hiệp tác với Nhựt đảo chánh Pháp thì nhơn sanh, chức việc, chức sắc nhiệt liệt hưởng ứng để lập ra Nội Ứng Nghĩa Binh. Họ như thùng thuốc súng chỉ cần một mồi lửa là bùng nổ như sấm sét không kịp bưng tai, như cuồng phong cuốn phăng đi mọi chướng ngại. Họ đã biết được giá trị của đạo biết rằng đây chính là phương thuốc hòa bình... những ngày chung lưng xây cật xây dựng nên mối đạo đã giúp cho họ thấy điều rất rõ ràng và giản dị rằng: đạo là hiện tại là tương lai của họ, con cháu họ và nhân loại.
Nhân tâm đã vậy thì đâu còn ngại gì khó khăn, họ tự nguyện hy sinh coi đó như khoản đầu tư cho hiện tại và tương lai nên hợp tác với số chức sắc còn lại quyết chí đòi lại Giáo Chủ từ tay thực dân Pháp.
Kết quả là ngày 09-03-1945 Nội Ứng Nghĩa Binh đảo chánh Pháp.
Những diễn biến tiếp theo sau khi Nhựt bị bom nguyên tử đầu hàng đồng minh vô điều kiện... sau đó Pháp trở lại Đông Dương và thấy được sự sức mạnh của nhơn sanh. Họ đủ khôn ngoam để nhận định rằng nếu không trả Giáo Chủ lại cho người đạo Cao Đài thì rất nguy hiểm nên họ chấp nhận đem Đức Hộ Pháp từ Madagascar về Tòa Thánh.
Trọng tâm của vấn đề là đưa ra chứng cứ để trình chánh về hiệu quả của công thức dân mạnh, lập quyền dân đắc nhân tâm như thế nào nên chúng tôi không đi sâu vào các sự kiện quan trọng khác.
b/- 1979 đến 2014....và đủ sức đến ngày thành công.
Công thức: Nước giàu dân mạnh và lập quyền dân được ĐĐTKPĐ thực thi và đã thành công. Người tín đồ ĐĐTKPĐ hành xữ theo pháp luật đạo chớ không theo một vị chức sắc nào hết. Trong ĐĐTKPĐ có cơ chế cho người tín đồ thể hiện quyền của mình lên từng vị chức sắc mỗi khi họ thăng phẩm và giám sát với đầy đủ quyền hành.
Đạo khai năm 1926 và rất nghèo vậy mà Đạo xây dựng nên cơ ngơi khang trang, rộng rãi trong nội ô Tòa Thánh. Song song với đó là thực thi phương án nâng cao dân đức, dân trí và dân sinh qua 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo đều xuất phát từ công thức dân mạnh mà ra. Thượng tầng giữ vai trò bộ não nên đề xuất và hướng dẫn. Hạ Tầng (nhơn sanh) là sức mạnh để thực thi và kiểm soát nên hiệu quả rất cao và chắc chắn. Bộ não tinh anh hiệp với sức mạnh nhơn sanh để thực hiện 03 điều và 05 điểm làm cho vùng đất hoang vu hẻo lánh thành nơi thị tứ, văn minh. Châu Thành Thánh Địa có những nếp sống văn hóa rất đẹp mà không nơi nào trên thế giới nầy sánh kịp:
. Tập trung số người ăn chay nhiều nhất trên thế giới.
. Tinh thần nghĩa hiệp không nơi nào sánh kịp. Nhìn vào một đám tang của người đạo từ A đến Z ta thấy rất trang nghiêm, rất thân thiết và được tiến hành trong tinh thần công quả hoàn toàn.
Chánh phủ Việt Nam hiện nay cấm không cho Hội Thánh ĐĐTKPĐ được sinh hoạt tôn giáo. Buộc chức sắc phải về nhà không được hành đạo. Từ năm 1979 đến nay Hội Thánh không cầm quyền hành chánh tôn giáo. Trong 34 năm đã qua đa số chức sắc đã tạ thế. Một số khác chạy theo chánh phủ để lập ra chi phái. Chánh phủ muốn dùng chi phái để tiêu diệt ĐĐTKPĐ.
Trong hoàn cảnh khó khăn đến vậy mà Tín đồ vẫn đứng vững và đủ quyền vạch trần những âm mưu, những thủ đoạn của tà quyền. Tín đồ vẫn hiên ngang đối đầu với chánh quyền và chi phái chính là nhờ sự hiểu biết của nhơn sanh. Chánh quyền và chi phái có đầy đủ phương tiện để đàn áp, hành hạ và giam giữ nhơn sanh nhưng khi đối mặt là họ đuối lý và chạy dài. Bởi sự hiểu biết của nhơn sanh về chánh giáo rất có căn bản và có chiều sâu. Từ sự hiểu biết như vậy nên Tín đồ trong và ngoài nước đủ quyền lập ra những trang web, những văn bút để thể hiện sức mạnh của nhơn sanh trên bước đường bảo tồn và phát triễn chơn truyền chánh giáo. Họ đã được lập quyền nên mạnh mẽ và đủ tự tin đến trụ sở Liên Hiệp Quốc để trình bày về mưu toan tiêu diệt ĐĐTKPĐ của cộng sản.
Quyền lực của nhơn sanh trong tôn giáo chính là phát minh mới của ĐĐTKPĐ cống hiến cho nhân loại.
Nhờ có quyền hành nên nhơn sanh (dân trong tôn giáo) mới đủ sức mạnh và thao lược đối phó với tà quyền trong cơn đại biến. Công thức dân mạnh đã được thực hành và phát huy tác dụng trong tôn giáo lúc bình thường và khi ngộ biến cực kỳ hiệu quả.
Bốn tôn giáo lớn ở miền Nam là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hòa Hảo và ĐĐTKPĐ sau ngày 30-4-1975 bị chánh quyền cộng sản triệt phá bằng nhiều cách. Dĩ nhiên người trong tôn giáo muốn bảo vệ chân truyền chánh giáo của mình phải tranh đấu chống lại tà quyền. Ba tôn giáo Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hòa Hão đều do những vị chức sắc cao cấp trong tôn giáo đứng mũi chịu sào cho cuộc đấu tranh vì chính nghĩa. ĐĐTKPĐ chức sắc, chức việc, nhơn sanh căn cứ vào văn bản của chánh giáo chơn truyền đấu tranh trực diện với cộng sản và họ chịu thua nên lập ra chi phái Hội Đồng Chưởng Quản năm 1997 tại Nội Ô Tòa Thánh. Báo Xa Lộ Pháp Luật số 36 ra ngày 17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng 26 viết: 
...Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao Đài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.
Đó chính là hiệu quả của công thức dân mạnh.
Công thức đã thực thi cho một tổ chức được thì thực thi cho một quốc gia được. Thực thi cho một quốc gia được thì nhiều quốc gia khác cũng thực thi được. Cuối cùng là dân chúng cả thế giới đều thực thi dân mạnh. Khi đó thế giới sẽ có nền hòa bình vĩnh viễn mà Thượng Đế hứa ban cho loài người.
4.2/- Cho dân tộc Việt Nam.
Chứng cớ từ lịch sử dân tộc ta là cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên. Triều đình muốn dân mạnh nên mở Hội Nghị Diên Hồng để hỏi ý dân xem trước họa xâm lăng của giặc Nguyên Mông nên hòa hay nên đánh. Dân trả lời: ĐÁNH. Do vậy mới có chiến công oanh liệt của nhà Trần trước kẻ xâm lăng mạnh hơn nhiều lần.
Dân mạnh thì Tổng Bí Thư không dám đưa chuyện Đường Tăng thỉnh kinh còn phải hối lộ nơi đất Phật ra để biện minh cho tham nhũng.
Dân mạnh thì Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang phải chỉ đích danh kẻ tham nhũng chớ không thể gọi là  đồng chí X.
Dân mạnh thì ông Nguyễn Sinh Hùng không thể nói: Kỷ luật hết những người làm sai thì người đâu mà làm việc.
Dân mạnh thì Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng không thể tại vị sau hằng loạt tham nhũng như PMU 18, Vinashin, Vinalines...
Dân mạnh mà chánh phủ để xăng tăng, điện tăng, gas tăng... mà lương không tăng thì họ xô ngã liền.
Dân mạnh thì xã hội không nhiều tiến sĩ dõm như ngày nay.
Dân Mạnh thì Đại Sứ Nguyễn Thế Cường ở Thổ Nhĩ Kỳ không dám làm mất thể diện quốc gia bằng cách cầm 20.000 euro vào nước Đức rồi bị nghi là rữa tiền ngày 22-12-2013.
Dân mạnh thì không có việc bệnh viện liên kết với các công ty dược phẩm nâng giá thuốc. Dân mạnh thì báo Đại Đoàn Kết không dám ra 02 số trong cùng một ngày, cùng đánh một số thứ tự mà nội dung khác nhau... Dân mạnh thì không quan chức nào dám đọc câu thần chú: Chờ điều tra xong sai đến đâu xữ lý đến đó. Cũng không có chuyện: Lực lượng chúng tôi còn mỏng nên mới không biết thực phẩm độc hại đang tràn lan hủy hoại của sức khỏe xã hội, đe dọa tương lai nòi giống bằng đủ thứ sản phẩm bẩn từ trong nước và ngoại nhập.
Dân đã mạnh lên nên trước áp lực của dân Đảng phải để cho Dương Chí Dũng chủ tịch tập toàn Vinalines khai rằng đã hối lộ cho Thứ Trưởng công an Phạm Quý Ngọ 500.000 ngàn USD và tập đoàn Vạn Thịnh Phát ở Sài gòn đã nhờ y hối lộ cho ông Ngọ 1.000.000 USD. Việc hối lộ một triệu USD nầy có cả Bộ Trưởng Bộ Công An Trần Đại Quang dính vào.
Tóm lại: Ngay như nước Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật... là những siêu cường quốc về kinh tế mà vẫn có một phần lớn dân chúng không giàu. Vĩnh viễn sẽ có tỷ lệ rất lớn người dân không giàu.
Chính phủ độc tài đưa ra công thức dân giàu là để lừa phỉnh người dân. Chúng ta cần làm rõ và thực thi công thức dân mạnh.
Dân là gốc của nước.
 Dân mạnh thì nước giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần. Giải quyết được bài toán gốc là giải quyết được cái ngọn.
4.3/- Trên phạm vi toàn cầu.
Quan sát cuộc sống của người dân ở các vùng biên giới 02 quốc gia khác nhau chúng ta thấy họ rất thân thiện nhau. Họ sống hòa thuận với nhau, khi hữu sự họ vẫn chia vui, chia buồn với nhau. Buôn bán ở biên giới cũng rất bình thường. Con chó bên đây chạy qua, con gà bên kia chạy lại. Tiếng gà bên đây gáy trong buổi trưa hay lúc sang canh bên kia cũng nghe và họ đều chia xẽ với nhau. Dân bên đây có cưới gã, mời dân bên kia chén tạc chén thù là một sự thật. Ai có đến sống chung với họ hay tìm hiểu thì biết. Họ sống thân thiện với nhau theo tình ý tự nhiên của tạo hóa. Tạo hóa tạo ra đất đai, sông núi làm môi trường sống cho nhân loại chớ đâu phải tạo ra để chia cắt nhân loại. Tạo hóa ban cho để sống các nhà chính trị mới phân chia nhiều loại đất để đánh thuế. Tiền thuế đó dùng để tạo ra bạo lực đàn áp lại dân hay gây chiến tranh với nước khác và đẩy dân vào chổ chết.
Chánh trị xen vào thúc đẩy họ ghét lẫn nhau. Việc xâm lấn về đất đai hay những quyền lợi khác trên phạm vi quốc gia do chánh phủ điều hành 02 quốc gia tạo ra những ngôn luận bất hòa rồi lôi cuốn người dân vào đó để sanh ra sự ghét lẫn, khinh khi và đi đến thù hận cuối cùng là tìm cách giết nhau. Các nhà chánh trị là thủ phạm đẩy dân chúng giết nhau để họ mặc cả quyền lợi.
Trong lịch sử La Mã hoàng đế Néro đốt thành La Mã rồi đổ thừa cho người theo Đạo Thiên Chúa và đem hàng ngàn người công giáo ra giết với những hình thức dã man.
Việt Nam ngày 01-12-1952 Thiếu Tướng Bondis Tổng Tư Lệnh Quân Đội thực dân Pháp tại Nam Phần Việt Nam gởi thư mật đến Tổng Đốc Toàn Quyền Gautier đề nghị ám sát Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc rồi đổ thừa lực lượng khác như người Anh tổ chức giết Gandhi... để gây chia rẽ và thù hận trong cộng đồng...
Trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt từ 1954 đến 1975. Người Mỹ từng dựng đứng ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ để đánh bom miền Bắc. Mấy ngàn người dân vô tội ở Huế bị cộng sản giết trong tết Mậu Thân năm 1968 rồi đổ thừa Việt Nam Cộng Hòa còn rành rành ra đó. Tạo ra mâu thuẫn NGAO, SÒ, ỐC, HẾN là nghề của quan chức xưa nay.
Chánh quyền từng làm những chuyện tày đình như vậy thì chuyện giết dân của họ rồi đổ thừa là do nước láng giềng, tạo cớ để gây thù hận trong dân chúng hai nước cũng là điều dễ hiểu.
Người dân bao giờ cũng muốn an cư lạc nghiệp, chẳng có người dân nước nào muốn có chiến tranh. Bởi vì có chiến tranh thì dân là tầng lớp bị thiệt thòi nhất. Chồng vợ lìa xa, cha con xa cách, ruộng vườn hoang phế... không một người dân nào muốn.
Vậy thì vì sao lịch sử nhân loại gắn liền với chiến tranh và bạo lực?
Bởi vì người dân bị tầng lớp thống trị kết hợp với trí thức lưu manh gạt gẫm. Dân bị đầu độc rồi thành nạn nhân của triều đình hay chế độ. Thượng tầng đã kiến trúc để biến người dân thành công cụ phục vụ cho tham vọng bất chánh của họ.
Họ có quyền và dùng chánh sách ngu dân để lừa dân vào chổ chết hầu tạo ngôi vị cho họ. Họ mang quân đến xâm lăng nước khác để mở rộng biên cương và cướp bóc. Dân bị họ lừa phỉnh bằng những mỹ từ rồi đem cái chết ra trả giá cho sự lầm lẫn của mình. Càng ra sức phụng sự cho chánh quyền đi xâm lăng nước khác là làm cho gánh nặng của dân nặng lên chớ dân được hưởng gì trong những cuộc xâm lăng đó.
Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
(Ngụ Đời).
Lớp thì chết trên chiến trường, lớp thì tàn tật về sống nhờ người thân chớ chánh quyền nào lo cho xuễ. Họ có đủ cách để xô dân vào cảnh bất hạnh chớ đâu đủ sức bù đấp nổi bất hạnh do chính họ gây ra.
Nhỏ tùng đinh,
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc mỡ dành làng ăn.
(Ngụ Đời)
Nếu người dân có được sự hiểu biết thì họ không bị gạt nữa. Họ biết họ có những quyền gì và thể hiện như thế nào thì họ mạnh lên. Tự họ sẽ thanh toán những chế độ độc tài đã thực hiện chánh sách bần cùng hóa để ngu dân và xây dựng tương lai.
Dân từng nước mạnh lên thì chiến tranh giữa hai quốc gia rất khó xãy ra. Người dân không chịu chết cho tham vọng bất chánh của chánh quyền của chế độ nữa thì lửa chiến tranh sẽ dần dần tàn lụi và lui hẳn vào dĩ vãng. Một địa cầu mới sẽ mọc lên... Chánh quyền nào không đáp ứng nguyện vọng hòa bình họ sẽ xô xuống.
Những vấn đề biên giới Việt Nam với Campuchia; Việt Nam với Lào; Việt Nam với Trung Quốc sẽ được chính người dân đứng ra có ý kiến để chánh quyền phải căn cứ vào đó mà giải quyết.
Hoàng Sa, Trường Sa sẽ được nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc buộc chánh phủ hai nước giải quyết theo công bình chánh phủ nào không đáp ứng họ xô xuống.
Ý dân là ý trời. Mà Thượng Đế lòng lành nên lòng dân cũng lành. Tính bản thiện trong mỗi người thức dậy thì tinh thần hòa bình nẫy nở và cảnh sống chung sẽ không còn chiến đấu và tranh chấp.
Chúng tôi cũng tin tưởng và mơ ước như Nhạc sĩ Bảo Thu từng mơ ước trong bài hát Cho Tôi Được Một Lần: ...Cho tôi được một lần nhìn quê hương ngời sáng. Một lần nhận nghĩa sống lên ngôi. Người người cùng chung vui một lối. Đời thôi không lừa dối vì đã yêu thương rồi./.
Tình thương yêu chính là điều kỳ diệu, là phép mầu nhiệm mà tạo hóa đã ban cho con người. Phép mầu nhiệm nầy bị đánh cắp và đánh tráo mà không hay nên con người phải chịu u mê trong vòng ghét lẫn làm tôi tớ cho đau khổ, buồn sầu. Phép mầu bị đánh cấp bằng cách nào?
Phép mầu bị đánh cấp bằng nền giáo dục của tà giáo. Nó dạy con người tranh đấu với nhau bằng đủ hình thức như: khinh khi nhau, ghét nhau, thù hận nhau rồi đi đến giết nhau... từ tấm bé đã dạy rằng: ...đường vinh quang xây xác quân thù... là dạy cho trẻ thơ khát máu, giết người không gớm tay. Các nhà tôn giáo kêu gọi con người phải thương yêu và công bằng với nhau chính là nhắc nhỡ con người nắm lấy phép mầu của mỗi người để đem hạnh phúc cho mình và tha nhân.
Con người là sản phẩm của giáo dục, thì nền giáo dục chân chính phải dạy cho đứa trẻ biết yêu thương ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Người xưa gọi đó là thời kỳ thai giáo. Nhân cách con người đã hình thành ngay từ đó. Bậc làm cha mẹ biết dạy con mình thương yêu qua thai giáo đó là đã trao phép mầu cho nó vậy.
Trên đây là luận về ý nghĩa và thực tế của công thức.
Nhưng nếu luận ý nghĩa và chỉ ra thành quả mà không trình chánh được cách thức thực thi thì công thức cũng chỉ là bánh vẽ. Nói cho vui, nhìn để ao ước chớ chẳng thể no lòng. Bánh vẽ là chuyện của bọn bất nhân thất đức còn Thượng Đế lòng lành. Ngài đã hứa với tổ tiên loài người là ban hòa bình cho nhân loại thì Ngài chỉ dẫn từ A đến Z không dấu diếm điều gì (...thời kỳ dấu diếm thiên thơ đã qua rồi...).
Muốn dân mạnh thì phải LẬP QUYỀN DÂN.
Làm sao để thực hành việc Lập Quyền Dân?
Chúng tôi xin trình bày trong phần tiếp theo.
@@@


...Ngày nào còn tồn tại một lẽ bất công nơi mặt thế nầy thì Đạo Cao Đài chưa thành Đạo...
@@@
II/- PHƯƠNG THỨC
LẬP QUYỀN DÂN.
“Khởi nguồn từ Hiến Pháp và có cơ chế rõ ràng”.

Chúng tôi xin thưa rằng cơ chế Lập Quyền Dân đã được thực thi trong tôn giáo từ đầu. Năm 1956 Đức Hộ Pháp đưa công thức Lập Quyền Dân vào Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống. Nhờ vậy nên chúng tôi mới đủ điều kiện trình chánh tôn giáo áp dụng cụ thể thế nào để quí vị tham khảo. Phần ứng dụng để xây dựng cho Việt Nam chúng tôi sẽ có ý kiến đề xuất ở thiên thứ tư.
Vấn đề là muốn dân mạnh phải LẬP QUYỀN DÂN.
Chúng tôi xin cố gắng tổng hợp và trình chánh theo tinh thần khoa học. Nếu có chỗ nào không rõ là do khả năng bị giới hạn xin quí vị vui lòng chỉ giáo qua email: thanh.minh96@yahoo.com chúng tôi rất cảm ơn.
Thiễn nghĩ Lập Quyền Dân cần có 02 điều kiện:
. Khởi nguồn từ hiến pháp.
. Thiết lập cơ chế rõ ràng.
@@@
TIẾT MỘT:
KHỞI TỪ HIẾN PHÁP.
Trong ĐĐTKPĐ Pháp Chánh Truyền có vị trí quan trọng như hiến pháp của một quốc gia. Để tiện bề nhận xét chúng tôi gọi là hiến pháp.
Điều cần nói rõ nữa là chúng tôi chỉ trình bày hiến pháp của hành pháp (vì đây là phần quan trọng nhất) đáp ứng cho trọng tâm của đề tài. Nghĩa là giới thiệu phần có thể áp dụng cho hiến pháp quốc gia chớ không trình bày hết hiến pháp của đạo e rằng làm cho quí vị ngoài tôn giáo khó theo dõi (đường lớn nhiều ngõ mất dê).
Trọng tâm cuốn sách là trình bày những điều tôn giáo đã áp dụng để xây dựng một quốc gia Cao Đài trong xã hội từ đó ứng dụng được gì cho xã hội (không thiên về giáo lý).
Phần khởi từ Hiến Pháp xin trình bày 02 điểm chính: nhân sự hành chánh và phân cấp hành chánh (trung ương, địa phương).
@@@
1/- Nhân sự trong bộ máy hành pháp.
ĐĐTKPĐ phân biệt rõ pháp và luật. Pháp đứng trên luật, luật phải tùng theo pháp. Hành chánh là làm theo qui định có sẳn bằng văn bản chớ không thể tự ý ra văn bản luật. Có quyền ra văn bản giải thích, nhưng nếu giải thích trái luật thì văn bản đó bị hủy bỏ. Người ra văn bản bị phạt...
Hiến pháp là căn bản nhất và cao nhất tất cả các luật, đạo luật, nghị định... đều tùng theo hiến pháp.
Hiến pháp có những đặc điểm lớn như sau:
1.1/- Nghiêm cấm sửa đổi trong mọi trường hợp (Hiến pháp thành văn và cương tánh).
1.2/- Hiến pháp ngắn, gọn để dân hiểu được đại thể. Điều nào trong hiến pháp cần làm rõ do liên quan đến phần khác, ngành khác hay mở rộng thì ghi: CHÚ GIẢI và nội dung chú giải đi liền theo điều luật đó.
1.3/- Những qui định trong hiến pháp thì đương nhiên có giá trị thi hành, không cần chờ luật hay nghị định nào hướng dẫn. Không một điều luật nào được quyền cản trở việc thi hành hiến pháp, hay có nội dung trái với hiến pháp. Văn từ rõ ràng, không gây ra lầm lẫn.
1.4/- Qui định rõ có bao nhiêu bậc phẩm trong bộ máy hành chánh.
1.5/-  Nhiệm vụ mỗi bậc phẩm là gì. Hành sự ở đâu.
1.6/- Mỗi bậc phẩm có bao nhiêu người.
1.7/- Đạo phục các bậc phẩm.
1.8/- Điều kiện thăng phẩm (phải do vạn linh công cử).
1.9/- Pháp là công bằng, Luật là thương yêu, Quyền là công chánh. Công bằng, thương yêu và công chánh mới lập quyền dân, xác định rõ ràng quyền của chức sắc hay bộ máy cai trị. Luật đạo rất dễ hiểu và có nơi chịu trách nhiệm rõ ràng.
@@@
2/- Phân cấp hành chánh.
Quan trọng nhất là ngành hành pháp thì ngành nầy phải định rõ được bộ máy công quyền cấp trung ương (thượng tầng) và địa phương (hạ tầng). Hành chánh theo nguyên tắc PHÂN QUYỀN, quyền hạn và trách nhiệm Trung Ương thế nào thì địa phương thế đó trong địa phận được giao. Trên không lấn dưới, dưới không phạm trên và chỉ được quyền hành chánh trong địa phận được giao.
Có 05 cấp hành chánh: Trung Ương, Trấn Đạo (nhiều Tỉnh), Châu Đạo (Tỉnh), Tộc Đạo (Quận) và Hương Đạo (Xã).
Nhân sự đứng đầu từ Tộc Đạo trở lên là chức sắc. Chức sắc chịu sự thuyên bổ của Hội Thánh.
Cấp Hương Đạo do chức việc điều hành. Chức việc do địa phương tự bầu và hành chánh tại địa phương đó theo qui định. Hội Thánh ra Đạo Cấp công nhận.
Mối liên quan về tổ chức và nhân sự qui định rõ khi hành sự để khi vướng mắc thì xác định ngay chổ khó để tháo gở cũng như xác định trách nhiệm không chối qua, chối lại.
Đây là đại nét để bài viết có cấu trúc liền lạc đến thiên thứ ba chúng tôi sẽ trình bày bộ máy hành chánh chi tiết hơn.
3/- Nhận định chung.
Hiến pháp và pháp luật nói chung phải rõ ràng và DỄ HIỂU để người dân biết. Dân biết thì dân mới kiểm tra từ cái gốc xem có đúng hay không? Coi người thực thi pháp luật có làm đúng hay không? Ra văn bản pháp luật rối rắm, bí hiểm rồi phải giải thích... là điều tối kỵ. Chính quyền ra văn bản pháp luật như đánh đố làm cho người dân tối tăm mù mịt không hiểu được là muốn làm cho dân dốt, là thực thi chánh sách ngu dân. Là tạo ra thời BĨ.
Dân hiểu biết pháp luật thì họ có đủ tự tin trước chánh quyền, dân không quì gối trước chánh quyền. Dân hiểu biết để không phạm luật, không phạm đến chánh quyền. Chánh quyền muốn ban hành văn bản tước đoạt quyền của dân hay ngang nhiên tước đoạt cũng không được. Chánh quyền có quyền của chánh quyền, dân có quyền của dân, hai bên đều hiểu và tôn trọng quyền hạn của nhau để chung lưng đâu cật xây dựng xã hội đó là tượng của quẻ THÁI trong kinh dịch.
Thời Bĩ hay Thái là do chính con người tạo ra. Bộ não thật lòng thương dân yêu nước sẽ tạo ra thời THÁI bằng quyết sách từ đầu. Quyết sách đúng thì dân thấy có họ trong đó, làm đây là làm cho họ và con cháu họ. Người nghèo khổ, người bị áp bức, yếu hèn, dốt nát cũng thấy con đường nầy sẽ giúp họ ra khỏi cảnh tối tăm, đem đến tương lai tươi sáng  thì chính họ là sức mạnh để thực hiện. Nói cho cùng nước họ có hy sinh đi nữa thì họ cũng vui mà hy sinh cho đại nghĩa. Sự hy sinh của họ sẽ đem lại tương lai chắc chắn và tươi sáng thì sự hy sinh ấy họ cũng vui làm. Ngay thế cờ đầu tiên đã thể hiện ra được đại thế đi đến cảnh thái bình thịnh vượng thì dân TỰ NGUYỆN thực thi để xoay trở càn khôn từ BĨ sang THÁI.
Những cá nhân hay đảng phái dùng chiêu bài ái quốc để hy sinh tài sản, quyền hạn và tính mạng người dân, với khẩu hiệu cách mạng cần hy sinh nầy nọ rồi đem súng ống, lưỡi lê, mã tấu ép buộc dân phải theo đều là tà đạo, là đại ác. Họ có thể nhất thời thành công bằng vũ lực nhưng sau đó sẽ tiêu vong. Vũ lực, dối trá có thể chiếm được chính quyền nhưng nó không đủ để đem lại hạnh phúc cho dân chúng nên nó sẽ bị tẩy chay. Thời phong kiến những bậc thức giả đã nhận định rằng: có thể ngồi trên lưng ngựa để thâu chiếm đất đai, nhưng không thể ngồi trên lưng ngựa để trị vì thiên hạ. Phương Tây cũng nhận xét rằng: Vũ lực không thể chinh phục được lòng người. Lưỡi gươm sẽ bị khuất phục bởi lòng nhân ái.
Mao Trạch Đông chủ trương súng tạo ra chánh quyền và thực hiện cách mạng cộng sản Trung Quốc theo đường lối đó, cộng sản Việt Nam cũng bắt chước y như vậy. Chúng tôi tin chắc rằng họ sẽ sụp đổ và tiêu vong. Chính họ đã tạo ra thời BĨ thì dân còn trông mong gì được hưởng thái bình? Và kết quả là cái BĨ sẽ đến với kẻ tạo ra nó.
Hiến Pháp là luật căn bản nhất của một quốc gia pháp quyền mà người dân không biết nội dung hiến pháp có gì trong đó thì nói dân chủ là nói dối dân. Dân không biết hiến pháp hay pháp luật qui định thế nào thì làm chủ cái nổi gì? Dân chủ không có thì đừng mong gì dân mạnh. Pháp luật như rừng là cố ý ngu dân, đẩy dân vào đường dốt và bần cùng hóa để dễ dàng thống trị bằng luật rừng mà thôi.
@@@


Gánh đời đã tự cất lên vai,
Trau chuốt sao cho đủ trí tài.
Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm,
Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay.
Dụng quyền hơn Đức quyền tan nát,
Tạo thế kém nhân thế đọa đày.
Ví biết giống nòi đương thống khổ,
Trở đương cho vẹn phận làm trai.
@@@
TIẾT HAI:
CƠ CHẾ 03 HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH.
Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh trong ĐĐTKPĐ là: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội.
Chúng tôi xin trình bày chủ yếu là Hội Nhơn Sanh là phần chính yếu nhất để Lập Quyền Nhơn Sanh trong tôn giáo. Luật liên quan đến Đại Hội Nhơn Sanh có 02 phần: Luật Lệ Chung Các Hội và Nội Luật Hội Nhơn Sanh. Chúng tôi cũng chỉ chọn giới thiệu những điều thật cần thiết để hiểu được quyền và cách lập quyền nhơn sanh.
Nhơn Sanh là phần đông nhất trong tôn giáo tương ứng với dân trong quốc gia nên trong đề tài nầy nhơn sanh và dân xin được hiểu là một. Khi trích dẫn xong từng điều nếu thấy chữ PHÂN TÍCH, chữ nghiêng và trong khuôn thì đó là phần nhận xét của chúng tôi.
@@@
PHẦN MỘT:
Luật Lệ Chung Các Hội.
Ban hành ngày 22-12-1934.
Chủ yếu là giới thiệu những điều cần thiết để hiểu về cách thức sinh hoạt Đại Hội Nhơn Sanh.
Ðiều Thứ Nhì: Mở Hội.
... Nghị trưởng mở hội bảo Từ Hàng đọc tờ vi bằng nhóm kỳ trước.
Thoãn như cả Nghị viên có đọc tờ vi bằng ấy rồi thì Nghị trưởng hỏi Nghị viên tờ vi bằng ấy đặt ra có y theo lời đã bàn định chăng và cả Nghị viên đều công nhận hết chăng?.
Nếu có điều chi mà cả Hội định phải sửa đổi vì không y theo lời đã bàn định thì Nghị trưởng cho lịnh Từ hàng lập tức sửa lại liền và cho biết luôn sự kết quả các lời bàn định trong tờ vi bằng ấy.
Kế đó đem các vấn đề trong chương trình bửa nhóm mà bàn định.
Ðiều Thứ Ba: Phận sự Nghị trưởng.
... Nghị trưởng khi xướng đề ra nói rành rẽ cho chư Nghị viên thông hiểu rồi để cho Nghị viên tự do bàn luận chẳng nên cải lẫy điều chi với Nghị viên và chờ khi bàn cải rồi thì kết luận những ý kiến của chư Nghị viên và cho hiểu rõ mà công nhận hay là huỷ bỏ.

PHÂN TÍCH: Luật định rõ Nghị trưởng thiên về điều hành mà chẳng nên cãi lẫy... Điều nầy cốt tránh sự lạm quyền của Nghị Trưởng... chúng ta sẽ thấy quyền càng cao thì càng phải bị YẾU, càng nhỏ nhoi thì càng mạnh
Ðiều Thứ Sáu: Cách bỏ thăm.
Việc bỏ thăm có hai cách:
a- Khi việc cần yếu trọng hệ thì phải bỏ thăm kín.
b- Khi việc thường thì bỏ thăm dơ tay.
Những việc chi bàn tính nếu được phân nữa số thăm của cả Nghị viên hiện diện thêm một lá nữa thì việc ấy được công nhận. Thoản như số thăm đồng nhau Nghị trưởng bỏ thăm bên nào thì lời bàn định bên ấy được công nhận. Nếu một phần năm (1/5) Nghị viên hiện diện xin bỏ thăm kín thì Nghị trưởng cho lịnh y theo.

PHÂN TÍCH: Luật định bỏ thăm quá bán là xong. Nghị trưởng không có quyền bỏ thăm. Chỉ khi nào số thăm hai bên bằng nhau thì Nghị Trưởng mới bỏ thăm. Qui định như vậy chỉ bỏ thăm một lần là xong. (Nghị Trưởng chỉ có một nữa quyền bỏ thăm so với nghị viên. Trên hành tinh nầy chúng tôi thật tình mới biết đây là lần thứ nhứt).
Chúng tôi tin rằng điều nầy và tinh thần nầy rất nên áp dụng cho mọi tổ chức hay xã hội để lập quyền cho dân.
Ðiều Thứ Bảy: Số Nghị viên.
Kỳ nhóm lệ: Dầu số Nghị viên hiện diện bao nhiêu hội cũng cứ nhóm và lời bàn định cũng có giá trị như khi nhóm đều đủ vậy.
Kỳ nhóm ngoại lệ: Số Nghị viên phải được phân nữa cái số chung và thêm một vị nữa nếu chẳng đủ số định trên đây thì Nghị trưởng đình lại và cho Quyền Chí Tôn hay hoặc là huỷ bỏ quyền hội hay là trừng trị cách nào tuỳ ý. Còn Hội cũng cứ việc hội như số Hội viên đều đủ.

PHÂN TÍCH: Nghị viên vắng mặt bao nhiêu đi nữa thì Hội vẫn tiến hành và có đầy đủ giá trị. Những người vắng vô cớ có thể bị hủy bỏ quyền hội trong cả nhiệm kỳ vì phế phận. Điều nầy triệt tiêu việc tẩy chay bằng cách không hội (thể hiện sự vô trách nhiệm). Hội cho quyền bàn luận tại sao không đến bàn luận mà tẩy chay?
Quốc hội một số nước bị bế tắc khi không đủ số người họp là cực kỳ vô lý, vì xã hội đã giao nhiệm vụ cho nghị viên đi họp để bàn luận ý mình ra sao thì cứ đến đó trình bày. Cớ sao không đến mà vẫn ăn lương của dân??? Nguyên do là dân chưa được lập quyền nên mới như vậy.
Ðiều Thứ Tám: Những việc Nghị viên muốn đem ra hội.
Nghị viên nào muốn xin canh cải, thêm bớt huỷ bỏ điều chi trong Luật đạo hoặc nói khác xin hạch hỏi, kích trách tại giữa hội thì phải gởi tờ xin trước ngày nhóm y theo hạng lệ đã định trong nội luật mỗi Hội nhóm.

PHÂN TÍCH: Luật cho phép bàn luận mọi công việc trong tôn giáo. Nghị viên muốn trình bày chi tiết thì cứ báo Hội sẽ bố trí cho trình bày; không ai đặng phép từ chối quyền trình bày theo điều 08 định. Đó là thể hiện việc lập quyền cho dân rất cụ thể. Đến phần nội luật Hội Nhơn Sanh (Điều thứ tư) chúng ta sẽ thấy nội dung cụ thể nó rộng rãi và rõ ràng như thế nào.
Ðiều Thứ Chín: Quyền bàn tính.
Mỗi khi muốn nói phải đưa tay xin phép rồi chờ Nghị trưởng phân theo thứ tự cho phép mới được nói. Chừng được phép nói, khi nhóm Ðại Hội nếu số Nghị viên trên hai mươi người thì phải đứng dậy nói. Trong một cái vấn đề đem ra bàn luận thì Nghị viên được phép nói ba lần mà thôi, mỗi lần chẳng đặng quá 5 phút. Nghị viên nào có xin trước y theo điều thứ tám đã buộc thì được quyền đem việc mình muốn xin sửa cải, hoặc mình muốn tra vấn, ra nói một lần trong nữa giờ; khi phải minh triết thêm nữa thì được nói thêm hai lần nữa, mỗi lần 10 phút đồng hồ.
Khi hai hoặc nhiều Nghị viên đưa tay lên một lược xin phép nói thì Nghị trưởng định cho người chức lớn hoặc như đồng chức nhau thì người tuổi tác lớn nói trước rồi kế cho đến hết người xin một lược.

PHÂN TÍCH. Luật đạo ban hành năm 1934.
Hiến Pháp ngày 01-04-1967 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa qui định về diễn tiến các phiên họp như sau:
3. Diễn tiến các phiên họp
Hạ  Nghị  viện họp hợp lệ, nếu có sự  hiện diện của quá bán tổng số  dân biểu lúc khai mạc. Nếu không đủ túc số, viện sẽ họp 24 giờ sau, bất luận số dân biểu hiện diện là bao nhiêu.
Nội quy  ấn định một  số  điều kiện liên hệ  đến việc phát biểu ý kiến của dân biểu, và trao một số  quyền đặc biệt cho Chủ  tọa hầu đảm bảo cho việc thảo luận được hữu hiệu. Dân biểu phát biểu ý kiến theo thứ  tự  ghi tên trước, chỉ  được phát biểu tối đa 3 lần về một vấn đề  và mỗi  lần không quá 10 phút, không được nói ra ngoài đề  và công kích cá nhân. Nếu không ghi tên trước, trong khi thảo luận dân biểu muốn phát biểu ý kiến phải giơ tay và sau khi có lời mời Chủ tọa, chỉ được phép phát biểu trong 5 phút.
Việc hạn chế này không áp dụng cho Chủ tịch Ủy ban, Thuyết trình viên và tác giả đề  án. Các vị này có thể lên diễn đàn bất cứ lúc nào và thời gian phát biểu không hạn chế. Trong khi thảo luận, chủ  tọa điều khiển phiên họp có thể  cho phép diễn giả  nói thêm 2 phút để  làm sáng tỏ  vấn đề, nhắc và nếu cần cảnh cáo và mời về  chỗ  vị  dân biểu nào nói ra ngoài đề, bất cứ lúc nào cũng có thể tuyên bố tạm ngưng buổi họp.
(Theo Luật Hiến Pháp và Chính Trị Học của GS Nguyễn Văn Bông trang 243 bản pdf).
@@@
 Quí vị đối chiếu rồi phân tích xem qui định luật Đạo (1934) và Đời (1967) điều nào hay hơn nghĩa là dân sẽ thích hơn???
Chúng tôi nhận thấy Đạo nói sao thì làm vậy còn Đời thì nói vầy làm khác; việc nầy thể hiện ngay trong luật. Đạo lập quyền cho tập thể; Đời làm cho nghị viên LÙN LẠI để ông chủ tịch cao hơn.
.đc1/- Quyền của Nghị Trưởng và Chủ Tịch.
Đạo lấy nhơn sanh làm gốc nên mở rộng quyền cho cấp dưới mà hạn chế quyền của Nghị Trưởng (Chủ Tịch Hạ Viện). Nên luật đạo định rõ về Nghị Trưởng: để cho Nghị viên tự do bàn luận chẳng nên cải lẫy điều chi với Nghị viên
Đời nói lấy dân làm gốc mà khi vào hội thì ban cho Chủ Tịch quyền muốn nói lúc nào thì nói và nói không hạn chế thời gian nên qui định: ...Việc hạn chế này không áp dụng cho Chủ tịch Ủy ban...
Như vậy chỉ cần ông chủ tịch khác ý với các nghị viên thì ông chủ tịch hoàn toàn chiếm ưu thế. Nghị viên thành người lùn trước ông chủ tịch cao lêu khêu dễ thấy nên chỉ cần nắm được chủ tịch...
&&&: Nhìn sâu vào qui định nầy ta có đủ quyền nhận xét luật mở đường cho hối lộ, tham nhũng. Bởi vì khi ban cho một người quyền lớn hơn người khác như vậy thì một nhóm nào đó hoàn toàn có thể tung tiền ra mua chuộc người đó là xong. Còn ban quyền cho tập thể mà giới hạn quyền người đứng đầu thì xét từ cái gốc nó đã triệt tham nhũng.
Đời tạo điều kiện cho tham nhũng xuất hiện rồi lo chống tham nhũng là vô lý là cấu kết với tham nhũng ngay từ đầu rồi còn chống cái gì? Nó cũng giống như kêu gọi dân chúng diệt muỗi mà chính phủ thì nuôi lăng quăng...thật là buồn cười.
Luật đạo định vậy thì bọn lợi ích nhóm thấy có tung tiền mua được ông chủ tịch cũng chẳng giải quyết được gì. Còn như mua hơn cả phân nữa các nghị viên thì quá nguy hiểm... tốt hơn hết là tập trung để cạnh tranh lành mạnh.
.đc2/- Quyền của Thuyết trình viên và tác giả đề án:
Luật đạo định: Nghị viên nào có xin trước y theo điều thứ tám đã buộc thì được quyền đem việc mình muốn xin sửa cải, hoặc mình muốn tra vấn, ra nói một lần trong nửa giờ; khi phải minh triết thêm nửa thì được nói thêm hai lần nửa, mỗi lần 10 phút đồng hồ.
Luật đời định: Thuyết trình viên và tác giả đề  án. Các vị này có thể lên diễn đàn bất cứ lúc nào và thời gian phát biểu không hạn chế...
So sánh chúng ta thấy luật đạo buộc người đưa ra đề án phải chuẩn bị chu đáo và được phát biểu, bảo vệ tổng cộng trong 50 phút. So với 15 phút của nghị viên khác thì đã hơn 03 lần. Như vậy mà tác giả không thuyết phục được nghị trường thì chứng tỏ là đề tài không hay hoặc đức tài anh kém không làm cho người khác hiểu được và chấp thuận... vậy thì nên về bổ túc thêm chờ phiên sau trình tiếp.
Luật đời cho phép chủ đề án không hạn chế thời gian phát biểu vậy họ phát biểu hoài rồi cả hội ngồi nghe đến hết giờ à? Ngày sau anh ta cũng làm tiếp như thế và ngày nào cũng thế VẪN ĐÚNG LUẬT. Trong lịch sử quốc hội có khi nào xãy ra như vậy chưa? Xin thưa rõ là đã từng xãy ra ở Anh Quốc. (i)
Còn thuyết trình viên (không phải chủ đề án) cũng có cái quyền lớn như vậy thì các nghị viên khác còn cái quyền gì khi thảo luận?
Rõ ràng là các nhà làm luật đời ngay từ đầu đã cố ý tạo ra tham nhũng bảo sao dân chúng không khổ sở và mất nước.
Trước sau họ cũng chỉ tập trung quyền hạn cho một nhóm người rồi cấu kết với nhóm có quyền lực là ĐÚNG THEO LUẬT THAM NHŨNG TỪ GỐC nên Ông Trần Văn Hương mới than: trừ hết tham nhũng lấy ai làm việc giống y như ông cộng sản Nguyễn Sinh Hùng.    
.đc 3/- Quyền ngưng họp.
Luật đạo: Nếu vị nào làm mất cách lịch sự giữa Hội thì Nghị trưởng rung chuông, xin vị ấy giử phép lịch sự. Khi Nghị viên đương nói mà nổi giận, làm điều vô lễ thì Nghị trưởng rung chuông ngăn lại đặng khuyên giải.
Nếu chẳng khứng nghe thì Nghị trưởng hỏi ý kiến của cả Nghị viên khác, như phần đông đồng ý kiến thì Nghị trưởng mời ra khỏi hội.
Thoảng như cường ngạnh thì Nghị trưởng rung chuông ngưng bàn tính chừng 5 phút trở lại; đệ vị ấy ra ban nội trị; chừng yên rồi thì rung chuông nhóm lại. (Điều 11 LLCCH)
Luật đời: Trong khi thảo luận, chủ  tọa điều khiển phiên họp có thể  cho phép diễn giả  nói thêm 2 phút để  làm sáng tỏ  vấn đề, nhắc và nếu cần cảnh cáo và mời về  chỗ  vị  dân biểu nào nói ra ngoài đề, bất cứ lúc nào cũng có thể tuyên bố tạm ngưng buổi họp.
Như đã nhận xét rằng luật đời ban quyền cho cá nhân hay một vài cá nhân quyền rất lớn và rất mơ hồ muốn hiểu sao cũng được rốt lại là nhằm tước cái quyền của đa số (làm cho đa số lùn lại) dọn đường cho tham nhũng từ trong trứng nước.
Cái khác biệt giữa đời và đạo ở đây rất rõ ràng giữa công bằng và mạo danh công bằng để tạo ra bất công và đi đến cho hỗn loạn:
. Đạo căn cứ vào hành vi: làm mất cách lịch sự; ... đương nói mà nổi giận, làm điều vô lễ... là những biểu lộ dễ nhận  thấy... vậy mà Nghị Trưởng chỉ được rung chuông khuyên giải. Nếu không nghe mới hỏi cả hội xem Nghị Trưởng nhận xét có đúng hay không? Rồi nghị trường cho ý kiến (theo luật quá bán)... và Nghị Trưởng thi hành ý kiến của nghị trường. Hành vi là điều dễ nhận ra mà luật còn đề phòng  Nghị Trưởng lạm quyền... Khi phải ngưng hội thì chỉ được ngưng trong 05 phút chớ không đặng lâu hơn. Nghị Trưởng hoàn toàn không có quyền ngưng vô thời hạn. Đạo theo nguyên tắc tiên giáo hậu trị thì nơi nào, giai đoạn nào cũng tùng nguyên tắc đó.   
. Đời căn cứ vào nội dung phát biểu là cái rất mơ hồ và tùy tiện:  ...mời về  chỗ  vị  dân biểu nào nói ra ngoài đề,.
Như thế nào gọi là nói ngoài đề tài?  Nó thuộc về cảm tính của ông Chủ Tịch. Ông không thích thì bảo nó ngoài đề tài và cảnh cáo mà KHÔNG CẦN HỎI AI thế thì các nghị viên khác muốn yên thân phải a dua với ông chủ tịch. Nghị viên đã bị tước đoạt quyền nghị luận và trói buộc đến thế rồi mà còn chưa chắc ăn nên cho phép ông chủ tịch bất cứ lúc nào cũng có thể tuyên bố tạm ngưng buổi họp.  Luật đời treo chữ dân chủ mà chạm vào đã thấy độc tài vô lý.
Luật như vậy nhưng cũng không làm rõ được nếu vị dân biểu đó không phục cứ nói tiếp thì ông chủ tọa làm gì? Chứng tỏ luật để tạo ngôi vị cho ông chủ tịch chớ không nhằm phục vụ xã hội. Trong khi Luật đạo thì có sẳn biện pháp.
Thứ nữa nếu có một nhóm lợi ích nào cố ý phá rối cuộc họp thì họ diễn đi diễn lại màn đó mới tính sao?
Điều nầy cho thấy sự mù mờ từ căn bản để tạo cảnh đục nước béo cò. Chính họ đã tạo thời BĨ rồi thì dân chúng sống sao yên.
Đây là một qui định cực kỳ nguy hiểm một xã hội văn minh hoàn toàn không thể xây dựng luật vô lý như vậy. Qui định quyền ông chủ tịch như vậy là phản lại văn minh; là dọn đường cho tham nhũng. Treo chữ dân chủ cho dân thích mà bên trong là độc tài và tham nhũng từ trong dự tính. Những kiểu nầy sẽ không thể tồn tại.
Luật cũng không qui định ngưng bao lâu nên ông Chủ tịch có quyền ngưng dài dài mà VẪN ĐÚNG LUẬT. Cả nước phải chịu LÀM ĂN MÀY chờ ông chủ tịch ban bố ân huệ để mở lại cuộc họp. Họp quốc hội mà như thế khác nào trao một trò chơi cho ông chủ tịch. Dân chủ gì trong những qui định bắt dân làm ăn mày như vậy?
Tổ chức nào cũng có thượng tầng và hạ tầng. Đất nước đang có chiến tranh những chiến sĩ ngày đêm chiến đấu, chịu gian lao hy sinh xương máu và tính mạng để bảo vệ một thượng tầng như thế thì họ có cam tâm không? Một thượng tầng bất xứng như thế thật là một tập đoàn tội ác với xương máu chiến sĩ và đồng bào. Mượn tiếng yêu nước để tham nhũng.
Dân Việt thật là bất phước một đàng thì cộng sản như dịch hạch một đàng thì tiếng là quốc gia tự do mà cái thượng tầng bên trên thối nát. Chính những qui định phản dân chủ như thế nầy là phản lại xương máu chiến sĩ, phản lại lý tưởng tự do dân chủ, là góp phần dâng miền Nam cho cộng sản.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trách người Mỹ cắt viện trợ, bán đứng VNCH một thì phải trách thượng tầng VNCH đến trăm nghìn lần. Từ 1956 Mỹ đã đổ viện trợ cho miền Nam đến 1971 Mỹ mới giảm viện trợ. Trong 15 năm đó nếu VNCH có một thượng tầng thật tâm vì giống nòi thì đủ sức để xây dựng miền Nam giàu mạnh và dân chủ thật sự song song với  chiến tranh chống cộng sản. Thượng tầng minh bạch để xây dựng xã hội dân chủ thật sự thì lòng dân tin tưởng. Lòng dân tin tưởng thì đất ở đâu mà cộng sản cặm dùi. Lòng dân tin tưởng vào chính nghĩa quốc gia thì cộng sản làm sao tuyên truyền? Lòng dân tin tưởng còn mạnh hơn trăm ngàn lần vũ khí tối tân, xe tăng hay trọng pháo, mạnh hơn phi cơ B52... Cái tạo được trong tầm tay là lòng dân thì lại không tạo để cậy vào vũ khí là hạ sách. Mãi lo chống cộng bằng vũ khí mà không biết làm cho dân tin bằng cách lập quyền dân thì là đi vào hạ sách. Nói tóm một lời chính phủ VNCH nếu biết THỰC THI NHƠN NGHĨA thì không thể bại trận trước cộng sản.
Dân chán VNCH và rơi vào bẫy của cộng sản là có lỗi rất nặng của thượng tầng VNCH. Đó mới là lỗi chánh chớ đừng đổ hết cho người Mỹ. Những người cố ý đổ hết cho Mỹ là cố ý bao che cho tệ hại của thượng tầng VNCH hay là thiếu công bình; câu tiên trách kỷ, hậu trách nhân luôn luôn đúng. Thượng tầng chỉ biết tính toán cho cá nhân và bè phái để đẻ ra những qui định như vậy thì Mỹ có viện trợ bao nhiêu đi nữa cũng thất bại mà thôi. Đem binh thư và luật công bình ra xét thử xem có đúng vậy không?
Bao nhiêu tướng lãnh, bao nhiêu trí thức có lòng với dân tộc hẳn biết binh thư Tôn Tử viết: Công tâm vi thượng công thành vi hạ. Không thu phục lòng dân được thì mọi vũ khí đều vô dụng. Người cộng sản giỏi tuyên truyền nên họ che đậy sự thật tồi tệ trong chế độ cộng sản và xúi giục những người bất mãn với tham nhũng, bất công làm rùm beng  cái yếu, cái nhơ bẩn của thượng tầng VNCH ra cho dân chán ghét và chạy vào rọ cộng sản. Những điều tốt đẹp trong thời VNCH là do hạ tầng gầy dựng nên mà có. Thượng tầng đeo bám vào đó để ăn hưởng trên xương máu hạ tầng. Những vụ buôn bán gạo, xăng dầu và vũ khí cho cộng sản đều do thượng tầng VNCH thực hiện là bằng cớ rõ ràng.
Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có chê nhau thì cũng như lươn chê lịch. Một đàng như dịch hạch và một đàng như thổ tả đều là bệnh cả. Đem bệnh tật về làm cho dân tộc đau khổ như thế chưa đủ hay sao mà còn muốn gây bệnh tiếp? Muốn cho dân tộc bị một trong hai thứ bệnh trên thì thật là chẳng biết thương dân. Chỉ biết có chủ nghĩa của mình mà không biết rằng cần phải có chủ nghĩa NHƠN NGHĨA để xây dựng một nền văn minh NHƠN ĐẠO cho giống nòi.
Chúng tôi vì tương lai dân tộc mà minh bạch như thế để xây dựng xã hội hòa bình TRUNG LẬP VĨNH VIỄN cho đất nước không làm tôi mọi cho chủ nghĩa nào hết.
Trung lập để thi đua NHƠN NGHĨA xây dựng một xã hội hòa bình thì chủ nghĩa nào, tổ chức nào, cá nhân nào cũng đầy đủ quyền tham gia. Không một đảng phái nào, một công dân nào có quyền cấm đảng phái khác, tổ chức khác hay công dân khác tham gia thi đua nhơn nghĩa. Cấm họ tham gia là độc tài, là như họ rồi còn chống cái gì?
Cấm đoán là con đường của đại ác, mở rộng cho tất cả tham gia  thi đua nhơn nghĩa là con đường đại từ bi.
Hiến pháp VNCH mở đầu là chống cộng và đã thất bại. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không nhượng một tất đất cho cộng sản nhưng đã dâng cả miền Nam cho cộng sản là một sự thật.
Hiến pháp cộng sản điều 04 rồi cũng sẽ bị chôn vùi theo Đảng (lòng dân không tin, dân oan khắp nơi thì Đảng làm sao tồn tại?).
Hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản đều thất bại trên mãnh đất hình chữ S thì có gì hay để theo nữa. Kêu gọi quay lại theo chủ nghĩa tư bản cũng chỉ là gà què ăn quẩn cối xay, là lấy dân tộc ra đi làm ăn mày đi xin tiền của về để tiếp tục tham nhũng.
Kinh dịch quẻ SƠN PHONG CỔ ngay lời kinh đầu tiên: Cổ nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên, tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật.
Cổ có nghĩa là củ kỷ, là nát loạn (sâu tham nhũng lúc nhúc cả bầy) là tan vỡ thành từng mãnh (dân và chính quyền không tin nhau), là hư hoại là rối loạn (công nhân và dân oan khắp nơi đòi sự công bằng)... Muốn sửa sang tình cảnh đó phải dứt khoát với cái củ và tìm ra được cái mới (lợi thiệp đại xuyên). Người cán đáng công việc phải học được bài học của quá khứ (tiên giáp tam nhật) để lấy cái tinh hoa của nó mà đề ra phương án thích hợp, tiến bộ (hậu giáp tam nhật) trong chỉnh lý, canh tân phải có tầm nhìn xuyên suốt, phải cẩn thận như đi trên băng tuyết... không thể sáng xây chiều đập, ngày nay làm ngày mai sửa sai... làm được những điều đó mới là cách mạng thật sự.
Sang sông lớn chính là cuộc cách mạng lớn lao đưa xã hội vào thời kỳ mới. Lãnh đạo dốt nát không biết đưa dân tộc về đâu cứ nay thay mai đổi thì làm sao thành công? Không  tiên liệu, phòng xa kết quả tất yếu là công việc chưa đâu vào đâu tệ nạn tham nhũng đã phát sinh vô phương cứu chữa thì làm sao đưa thiên hạ từ Bĩ sự sang Thái sự?
Tóm lại: Phải thấy được cái tinh hoa, cái thành tựu của hạ tầng ở cả hai miền, hai chủ nghĩa để làm động năng thi đua  NHƠN NGHĨA tiến tới nền VĂN MINH NHƠN ĐẠO  đem hạnh phúc cho giống nòi và đền ơn cho nhân loại đã giúp đở cho dân chúng Việt Nam không bị chết đói do chủ nghĩa cộng sản gây ra và đang hổ trợ Việt Nam xây dựng một xã hội tự do, dân chủ...
Chúng ta đã mang nợ những người tốt (những tổ chức tốt) trên thế giới. Dân tộc ta có truyền thống trọng ơn vậy chúng ta phải đem gì trả lại chớ chẳng lẽ làm thinh (dù rằng họ thi ân bất cầu báo).
 Đem thi đua NHƠN NGHĨA đem VĂN MINH NHƠN ĐẠO ra thực thi trên đất nước để nhân loại còn đang  đau khổ, còn đang bị đọa đày vì họa độc tài, tham nhũng thấy được rằng dân tộc Việt từng chịu thảm họa của thực dân, rồi nội chiến nồi da xáo thịt 20 năm (của hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản), chịu chiến tranh giữa cộng sản với cộng sản (là chiến tranh biên giới Miên Việt và Việt Trung) và quốc nạn tham nhũng do cái gông xiềng độc ác nhất là cộng sản mà thoát ra được thì họ cũng thoát ra được. Nhìn ra thế giới xem có dân tộc nào chịu liên tiếp những thảm họa như Việt Tộc chăng?
Từ 1884 đến 2014 là 130 năm.
130 năm sống trong 05 thảm họa mà Việt Tộc đứng lên được thì hà cớ gì họ không đứng lên được? Đó là nghĩa vụ phải trả.
 Ngày nay người dân đã nếm mùi cộng sản. Dân càng đau khổ và kinh hãi hơn cả thời VNCH. Vậy thì những người thật sự biết thương dân nên tìm cách nâng cao dân trí, trình bày QUYẾT SÁCH DÂN MẠNH và LẬP QUYỀN DÂN thì chính người dân sẽ đứng lên quyết định số phận của chính mình. Đó là chuyển họa vi phước.
Đó là diễn tiến hòa bình mà Đảng đang run sợ.
Làm cho dân thấy rằng sau màn cộng sản là công thức DÂN MẠNH và LẬP QUYỀN DÂN được thực thi nghiêm chỉnh đó là chìa khóa, là năng lực để xây dựng một xã hội mới.
Người Mỹ tin vào Thượng Đế mà đã xây dựng được quốc gia hùng mạnh như vậy. Còn hai công thức trên được Thượng Đế chỉ dạy thì nhất định nó phải thành công trên mãnh đất hình chữ S nầy. 
@@@
(i)/- Luật Hiến Pháp và Chánh Trị Học của GS Nguyễn Văn Bông trang 81. bản pdf viết:
...Kinh nghiệm đã chứng tỏ một sự lạm dụng khét tiếng tại Anh Quốc: trong thế kỉ thứ 19 tại Hạ Nghị viện Ái Nhĩ Lan, những nghị sĩ phe đối lập đã dùng những bài diễn văn rất dài để cản trở không cho Quốc hội biểu  quyết những đạo luật mà họ không bằng lòng. (Họ thay phiên nhau nói giờ này đến giờ nọ, luôn cả buổi ăn, nói sáng đêm; các dân biểu chán quá bỏ ra về rốt cuộc không đủ số không thể biểu quyết được).
Ðiều Thứ Mười: Buổi nhóm.
Mỗi buổi nhóm không nên quá 4 giờ đồng hồ; Chư Nghị viên phải đến cho đúng giờ nhóm chớ nên vô cớ mà bê trể.
Như Nghị trưởng định nhóm giờ nào khi quá giờ ấy 15 phút đồng hồ phải mở Hội không kể số Nghị viên nhiều ít.
Thoảng như Nghị trưởng vắng mặt hoặc đến trể thì Phó Nghị trưởng thay thế, một Nghị viên chức lớn hoặc lâu củ hơn hết hoặc tuổi tác lớn hơn hết ngồi ghế Phó Nghị trưởng.
Chừng Nghị trưởng đến thì ngồi chỗ Nghị viên.
Còn như Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng vắng mặt hoặc đến trể thì hai Nghị viên chức lớn, hoặc lâu củ hơn hết ngồi Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng. Chừng Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng đến thì ngồi chổ Nghị viên. Nếu vô cớ mà không đến nhóm Hội thì phải bị phần phạt có định trong các nội luật.

PHÂN TÍCH: Luật tạo ra là để phục vụ chớ không phải để tạo quyền uy cho cá nhân rồi trở lại xin họ bố thí.
Luật định thay thế tức thời như vậy có 04 tác dụng chính:
a/- Thể hiện tính nhất quán: Lấy nhơn sanh làm gốc để phục vụ. Tổ chức ổn định trong mọi hoàn cảnh chủ quan lẫn khách quan.
b/- Triệt tiêu tư tưởng bất khả xâm phạm vốn là suy nghĩ quen thuộc của người có chức quyền xưa nay.
c/- Tà quyền muốn mua chuộc, khống chế, khủng bố người đứng đầu cũng chẳng thay đổi được bước tiến của đại hội. Như vậy đây chính là cách bảo vệ Nghị Trưởng rất hay.
d/- Nhơn sanh thấy rõ rằng nói thật và làm thật (từ kế hoạch cho đến thực thi đều nhìn thấy và kiểm soát được) nên họ tin. Đó là chiếm được lòng dân.
Đó là tạo thời THÁI theo dịch lý.
@@@
Ðiều Thứ Mười Hai: Hỏi ý kiến Nghị viên.
Khi có điều chi cần phải hỏi ý kiến từ Nghị viên thì Nghị trưởng phải hỏi trước hết vị nào nhỏ chức hơn, hoặc khi đồng chức thì vị nào nhỏ tuổi hơn hết, cứ như vậy cho đến Phó Nghị trưởng.

PHÂN TÍCH: Đối chiếu điều thứ 09 về quyền phát biểu và điều 12 về hỏi ý kiến chúng ta thấy rất thú vị:
Điều 09: Khi hai hoặc nhiều Nghị viên đưa tay lên một lược xin phép nói thì Nghị trưởng định cho người chức lớn hoặc như đồng chức nhau thì người tuổi tác lớn nói trước rồi kế cho đến hết người xin một lược.
Điều 12: Khi phải hỏi ý kiến thì qui định ngược lại.
Tại sao qui định như vậy? Phân tích chúng ta thấy rằng phát biểu là tự nguyện; không phát biểu cũng chẳng sao. Trật tự phát biểu khi dơ tay một lượt thể hiện “kính lão đắc thọ” hay “Gừng càng già càng cay” đàn em nên cần nghe ý bậc lão luyện trước. Người sau cũng được phát biểu nhưng có điều kiện kiểm tra lại xem có trùng ý hay cần điều chỉnh gì không cho ý kiến có chất lượng... đó là trẻ học già.
Còn khi hỏi ý kiến thì mỗi nghị viên dự hội đều phải có ý kiến rõ ràng do vậy để cho đàn em có ý kiến trước tránh việc chịu áp lực nếu chọn ý ngược với đàn anh. Đó để người già (lớn) hiểu được ý chí người trẻ. Già trẻ hiểu nhau, trên dưới biết nhau đó là Thái.
Thiễn nghĩ cái hay cái khéo vừa đúng đạo lý vừa là bài học về tôn ti lễ nghĩa vừa được việc mà không xô bồ là như vậy. Bình quyền cho đàn em tự chủ mà vẫn rất lễ nghĩa.
Đời có luật nào đơn giản mà thú vị như thế không nhĩ? 
Ðiều Thứ Mười Bốn: Ban Uỷ Viên.
Ngánh: Khi Nghị trưởng và cả thảy đều trở lại chổ ngồi yên rồi thì Hội chọn cử bốn Ban Uỷ viên Ngánh:
1- Phái Thái. 2- Phái Thượng. 3- Phái Ngọc. 4- Phái Nữ.
Ðặng chia các việc đã đem vào chương trình hầu bàn tính ít người cho dễ dàng thấu đáo mọi việc.
Mỗi ban Uỷ viên có chừng 5 hoặc 7 nghị viên :
. Một Nghị trưởng. . Một phúc sự viên. . Mấy vị kia làm Nghị viên.
Mỗi khi bàn định điều chi rồi thì phúc sự viên tóm tắc lại lập một tờ phúc để đệ ra Ðại Hội nghị quyết.
Chư Nghị viên Ban uỷ viên khi nhóm thì mặc đạo phục dùng hằng ngày.

PHÂN TÍCH:  ĐĐTKPĐ có Cửu Viện và phân rõ như sau:
. Phái Thượng lo về Học Viện, Y Viện, Nông Viện.
.Phái Thái lo về Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện.
.Phái Ngọc lo về Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.
Ngay trong lần họp đầu của nhiệm kỳ mỗi phái đã có sự phân công theo chuyên môn. Còn số chức việc và Đạo Hữu chưa có phái (do chưa là chức sắc) tùy vào khả năng mà phân bổ vào các ngánh trên.
Sau phần thủ tục khai hội thì lập Ban Ủy Viên Ngánh theo qui định. Ngánh tương đương như các tiểu ban. Nhưng thời kỳ đó không thể dùng chữ tiểu ban là do Pháp xác định Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia nên luôn luôn chĩa sẳn họng súng vào để diệt đạo nên phải dùng chữ NGÁNH.
Các Ngánh làm việc theo chuyên môn xong thì nhóm đại hội để trình bày phần của mình làm việc. Đại hội nghe rồi chất vấn, bổ sung làm rõ hơn nữa để biểu quyết theo luật quá bán. Khi đã biểu quyết điều nào thì điều đó đã thành của đại hội.
Phương pháp chia nhỏ công việc của Đại Hội, phân ra cho các Ngánh để giải quyết ngày nay thấy rất bình thường nhưng năm 1934 mà định trong luật như thế là rất tiến bộ.
Năm 1934 Việt Nam còn bị Pháp đô hộ, văn hóa Hoa Kỳ chưa ảnh hưởng đến Việt Nam.  Người Việt Nam chưa biết đến phương pháp Taylor, nhưng cách  bố trí, sắp xếp trong luật đem phân tích ra cũng có nguyên tắc (chia nhỏ ra) tương đồng với  phương pháp của Taylor. Một đàng là dùng trong sinh hoạt xã hội tôn giáo, một đàng là dùng trong sản xuất hàng hóa cho nên không thể y chang nhau nhưng về nguyên tắc thì tương đồng.
Nguyên tắc chia nhỏ ra được áp dụng nên Quyền Vạn Linh phân ra làm 03 Hội. Trong Hội lại phân ra thành ngánh. Nhờ vậy công việc kiểm tra, bàn tính của nghị viên dễ dàng và hiệu quả. (i.1)
Những tư tưởng lớn gặp nhau là như vậy.
@@@
(i.1)/- Ông Frederick Winslow Taylor (1856 - 1916) đã trình bày phương pháp tổ chức sản xuất theo dây chuyền năm 1911. Ông chia công việc ra làm nhiều phần nhỏ vừa với khả năng của người thợ. Công việc trở nên đơn giản hơn nên công nhân bớt căng thẳng và năng suất tăng rất cao. Năng suất lao động tăng vọt đã làm cho nền kinh tế của Mỹ phát triễn vượt bậc. Hàng hóa nhiều hơn, chất lượng đồng đều nhau và đặc biệt là rẽ hơn. Hãng xe hơi Henry Ford lập ra hệ thống sản xuất theo dây chuyền dài 24km đạt công suất 7000 xe mỗi ngày (là kỷ lục thế giới thời đó).
Phương pháp Taylor đã làm thay đổi diện mạo sản xuất của nước Mỹ và thế giới. Phương pháp tổ chức 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh của ĐĐTKPĐ đã góp phần xây nên quốc gia Cao Đài bằng nhơn nghĩa và không biên giới ngay trong quốc gia Việt Nam thời Pháp thuộc và lan tỏa ra phần còn lại của thế giới là điều rất thú vị.
PHẦN HAI.
NỘI LUẬT HỘI NHƠN SANH.

Ðiều Thứ Nhất:
... Hội Nhơn Sanh sắp đặc như sau nầy:
I/-Thượng Chánh Phối Sư … Nghị Trưởng.
II/- Nữ Chánh Phối Sư … Phó Nghị Trưởng.
III/- Lễ Sanh, Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự,Thông Sự, Phái Viên:….. Nghị Viên.
VI/- Một Nghị Viên Nam ; và một Nghị Viên Nữ … Từ Hàng.
V/- Hai Nghị Viên Nam và hai Nghị Viên Nữ …. Phó Từ Hàng.

PHÂN TÍCH: Thượng Chánh Phối Sư chịu trách nhiệm 03 viện (Học Viện, Y Viện, Nông Viện). Trách nhiệm đó như Liên Bộ Trưởng và là chức sắc cao cấp làm Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh. Điều nầy sẽ làm cho trí thức nêu câu hỏi: Để Chức Sắc cao cấp làm Nghị Trưởng như vậy có hạn chế quyền của nhơn sanh hay không?
Xin thưa rằng theo qui định thì Nghị Trưởng chỉ nắm quyền điều hành còn quyền thảo luận (Điều 03 LLCCH) và biểu quyết (Điều 06 LLCCH) Nghị Trưởng đều phải kém hơn nghị viên. Điều 10 LLCCH qui định Nghị Trưởng đến trễ 15 phút thì có người thay thế liền...
Như vậy Nghị Trưởng cũng chỉ có quyền điều hành theo pháp luật (phải hỏi ý nghị trường) chớ không nắm toàn quyền tự quyết định như chủ tịch của đời. Bố trí như vậy làm cho Hội mạnh lên và được kiêng nễ hơn chớ không lấn áp quyền nào của nhơn sanh. 
Ðiều Thứ Hai:
Thái và Ngọc Chánh Phối Sư và các Quản lý Toà Nội Chánh đều đến dự Hội hoặc trả lời những điều nào nghị viên không rõ mà xin bày tỏ hoặc minh triết những vấn đề nghị viên hạch hỏi. Nếu một vấn đề nào bị công kích thì Chánh Phối Sư hay là Quản lý thuộc về vấn đề ấy phải trả lời hay là bày tỏ cho khỏi sanh điều khó khăn cho việc bàn cải.

PHÂN TÍCH: Đây là một qui định rất tiến bộ từ 1934  mà 80 năm sau 2014 quốc hội cộng sản theo không kịp.
Nghĩa là khi mở Đại Hội Nhơn Sanh thì Bộ Trưởng và Liên Bộ Trưởng phải có mặt và TRẢ LỜI LẬP TỨC các chất vấn. Không chấp nhận kiểu XIN TRẢ LỜI SAU BẰNG VĂN BẢN.
Kiểu xin trả lời sau bằng văn bản là kiểu để lâu cứt trâu hóa bùn. Bởi vì khi họp Đại Hội Nhơn Sanh thì có khu vực cho nhơn sanh giám sát trực tiếp phiên họp (điều 13 NLHNS). Nhơn sanh sẽ ghi nhận mà để cho Bộ Trưởng và Liên Bộ Trưởng (là cả nội các) trả lời sau thì sẽ tạo ra tiếng thị phi làm trên dưới không còn tin tưởng nhau. Đó là đưa nhau vào bế tắc (BĨ). Chưa kể đến tác động của báo chí đưa tin giật gân kiểu ... nghị viên A hỏi Bộ Trưởng nông nghiệp vì sao sản lượng năm nay kém hơn năm trước? Vì sao sâu rầy phá hại mùa màng không giảm... Biện pháp khắc phục thế nào? Tại sao có phân bón giá trên trời so với khu vực...? Bộ Trưởng xin trả lời sau bằng văn bản...thì còn uy tín gì trước nhơn sanh? Nó chứng tỏ người có trách nhiệm không nắm vững tình hình và khộng chịu nhìn nhận khuyết điểm là do kém cõi chưa làm hết trách nhiệm...
Nếu ban quyền cho chủ tịch (Hạ Viện) có quyền ngưng họp bất cứ lúc nào và không cần hỏi ý kiến ai hết thì đây chính là lúc ông chủ tịch CỨU BỒ vì đều là quan chức với nhau thì toàn dân phải LÀM ĐƠN XIN chờ cứu xét à? Thượng tầng thả le le vịt trời ra rồi bảo dân chúng (hạ tầng) rượt theo bắt là như vậy.   
Ðiều Thứ Ba:
Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đến chứng kiến và bảo thủ Luật Lệ không cho Hội phạm đến.

PHÂN TÍCH: Vị chức sắc Hiệp Thiên Đài nầy không có quyền thảo luận và cũng không có quyền biểu quyết. Chỉ quan sát xem luật có được thi hành đúng hay không? Nếu có vấn đề gì VI PHẠM LUÂT PHÁP thì trình cho hội biết.
Ðiều Thứ Tư:
Hội Nhơn Sanh để bàn tính những việc sau nầy:
1/- Giáo hoá Nhơn Sanh.
2/- Lo liệu phương hay cho Ðạo với Ðời khỏi điều phản khắc và nâng cao tinh thần trí thức của Nhơn Sanh.
3/- Phổ Ðộ Nhơn Sanh vào cửa Ðạo dìu dắt Tín đồ cho khỏi trái bước và trọn vâng các luật lệ của Ðạo.
4/- Xin sửa cải thêm bớt hay huỷ bỏ những luật lệ của Ðạo không phù hợp với trình độ trí thức tinh thần của Nhơn Sanh.
5/- Lo cho nền Ðạo được trong ấm ngoài êm, và đủ phương liệu đặng phổ thông nền chơn giáo.
6/- Xem xét và công nhận phương diện chánh trị của Ðạo quan sát sổ thâu xuất tài sản và nghị sổ phỏng định năm tới.

PHÂN TÍCH: Với 06 quyền trên đây thì rõ ràng là không có một vùng cấm nào hết. Nó nhất quán ở chổ tất cả nhân sự tôn giáo, tổ chức tôn giáo từ thấp nhất đến cao nhất đều chịu chung một khuôn luật.
Mục thứ sáu bao gồm việc khi bước vào hàng phẩm chức sức và khi thăng phẩm đều phải được sự chấp thuận của Đại Hội Nhơn Sanh.
Cụ thể là vị đó phải trình diện trước đại hội để nghị trường nhận xét về tánh hạnh, khả năng, công nghiệp... Nghị viên có quyền chất vấn trên hồ sơ và những việc vị đó đã làm kể cả đời tư có gì thiếu đạo đức hay không... nghĩa là không có vùng cấm nào hết. Muốn làm chức sắc là phải TU THÂN mà tu thân thì phải để nhơn sanh nhận xét... chất vấn rõ ràng...  và đi đến quyết định là đồng ý hay không theo phép quá bán.
Chính điều nầy là cách LẬP QUYỀN NHƠN SANH rất mạnh. Quan chức không dám làm sai luật, không dám làm mất lòng dân và luôn luôn giử mình trong sạch trước sự giám sát của toàn dân.
Đây là điều làm cho nhơn sanh thấy được Đạo là của họ. Đạo để phục vụ họ chớ không phải thêm một tầng áp bức nữa mà họ phải bái lạy. Nhờ vậy mà Đạo chinh phục được nhơn tâm. Chinh phục được nhơn tâm nên mới lập được quốc gia Cao Đài ngay trong thời Pháp thuộc. Đảng phái chánh trị nào biết vận dụng điều nầy thì bộ máy công quyền sẽ không còn tham nhũng. Bộ máy hành chánh không tham nhũng thì làm được mọi việc thuận chiều dân vọng.
Ðiều Thứ Sáu:
Mỗi năm mùng một tháng chạp thì Nghị trưởng gởi chương trình những vấn đề sẽ đem ra bàn cải cho các Ðầu Tỉnh Ðạo lúc Hội Nhơn Sanh nơi Tỉnh Ðạo nhóm ngày rằm tháng nầy đem ra bàn cải xem xét trước cho kỷ lưỡng.

PHÂN TÍCH: điều qui định đại hội nhóm ngày 15-01- hằng năm.
Trước đó 45 ngày nghị trưởng phải báo nội dung cho nghị viên biết. Để từ địa phương đem ra bàn thảo và có ý kiến chung trong địa phương mình. Qua đó xét thấy cần thì có quyền thực hiện quyền trình bày bằng cách gởi TỜ XIN TRƯỚC khi hội 20 ngày theo điều số 08 LLCCH và điều thứ 08 NLHNS. Đại Hội làm việc đến khi hết việc nên tất cả mọi Tờ Xin Trước đều được trình bày.
Việc đem chương trình ra bàn thảo chính là nâng cao dân trí để lập quyền cho dân. Nghị viên đến nghị trường là để thể hiện ý chí của dân nơi địa phương mình chớ chẳng phải tùy tiện đặng.
Ðiều Thứ Tám:
Nghị Viên muốn xin canh cải thêm bớt, huỷ bỏ điều chi trong luật Ðạo hay là điều chi khác nữa thì phải gởi tờ xin 20 ngày trước bửa Hội nhóm. Cũng phải chỉ rõ mình xin sửa cải thêm bớt hay là huỷ bỏ việc gì.

PHÂN TÍCH: như đã đề cập đến ở điều 08 LLCCH và điều thứ 06 NLHNS. Điều thứ 08 cho thấy tự do, dân chủ trong đạo không có vùng cấm. điều nầy mở đường cho dân đủ quyền có ý về tất cả công việc cả đạo từ nhân sự, bộ máy hành chánh và đường lối hành đạo...
CHƯƠNG THỨ HAI.
VỀ SỰ CHỌN CỬ PHÁI VIÊN.
Ðiều Thứ Mười Ba:
Lễ Sanh, Chánh PhóTrị Sự và Thông Sự đều có quyền đến dự nhóm Hội Nhơn Sanh nhưng bửa ấy mà cả thảy đều đến Toà Thánh thì nơi Làng nơi Quận không còn Chức Sắc, Chức Việc; phận sự phải bỏ bê e xảy ra điều khó khăn vậy định như sau đây rất tiện:
Sau khi nhóm tại Tỉnh đặng bàn cải quyết định và lập vi bằng các vấn đề trong chương trình của Thượng Chánh Phối Sư gởi đến thì mỗi phẩm chọn cử một Hội Viên đặng thay mặt cho Tỉnh mình hầu đến Toà Thánh mà dự Ðại Hội.
Còn Phái Viên thì cũng một vị như mấy phẩm đã kể trên đây.
Việc chọn cử nầy phải tuân y Ðạo Nghị Ðịnh thứ 20 của Ðức Quyền Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp.
Tại Tỉnh Thành Tây Ninh là Tỉnh THÁNH ÐỊA cũng tuỳ y một luật ấy.
Nghị viên Hội Nhơn Sanh lãnh trách nhiệm một hạn kỳ là ba năm.
Phái viên đắc cử Nghị Viên Hội Nhơn Sanh chụp ba tấm hình giao cho Ðầu Tỉnh Ðạo gởi cho Nội Chánh (Lại Viện) đặng gắn vào giấy chứng nhận và sổ bộ cùng vô khuôn treo tại nhà Hội .
Cả Lễ Sanh Chức Việc và Phái Viên không đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được thông thả đến Toà Thánh nhập hội nhưng được dự thính mà thôi, nơi Hội có sắp đặc chổ ngồi cho chư vị được dự thính.
Muốn tỏ ý kiến chi cho Hội thì do nơi Chư Nghị viên ở Tỉnh Ðạo của mình mà thôi.
&&&

PHÂN TÍCH: Hội Nhơn Sanh dành cho những người trực tiếp hành chánh với dân là nghị viên (Lễ Sanh mà không cầm quyền hành chánh là không có nhơn sanh nên không được là nghị viên). Đơn vị dự hội là Tộc Đạo (Quận). Mỗi Tộc Đạo bầu ra hai phái đoàn Nam riêng Nữ riêng.
Một Lễ Sanh (Đầu Tộc), một Chánh Trị Sự, một Phó Trị Sự, một Thông Sự và 01 Đạo Hữu. (Nam, Nữ bằng nhau).
Một điều rất quan trọng mà chúng tôi muốn giới thiệu đến quí vị là: Lễ Sanh Chức Việc và Phái Viên không đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được thông thả đến Toà Thánh nhập hội nhưng được dự thính mà thôi, nơi Hội có sắp đặc chổ ngồi cho chư vị được dự thính. Muốn tỏ ý kiến chi cho Hội thì do nơi Chư Nghị viên ở Tỉnh Ðạo của mình mà thôi.
Đây là lực lượng giám sát và cung ứng tư liệu, thông tin cho các vị nghị viên trong nghị trường. Lực lượng nầy giám sát công khai năng lực mọi nhân sự trong đại hội. Tổ chức như vậy thì chưa có một quốc hội nào của VNCH lẫn CHXHCNVN dám công khai đến vậy. Điều nầy nó làm cho các nghị viên trong nghị trường càng mạnh mẽ hơn vì cái phải, cái hay của mình không ai dám hiếp đáp. Dân được tự do chọn lựa, phê phán thì chẳng lầm bao giờ.
Dám công khai như vậy là vì đạo có quyết sách đúng, cần một bộ máy thực thi có năng lực và tốt hơn hết là giao phó nó toàn dân chọn lựa và giám sát. (((Lưu ý là chi phái 1997 ở Nội Ô Tòa Thánh ngày nay được chính phủ đở đầu để dìm chết ĐĐTKPĐ cũng mạo danh mở hội nhơn sanh mà KHÔNG CHO AI DỰ THÍNH. Tức nhiên họ là tà quái nên đâu dám công khai cho dự thính như thời Hội Thánh. Thậm chí chi phái nầy còn cấm đường không cho đi ngang nơi hội. Cộng sản đẻ ra chi phái 1997 độc đoán và khiếp sợ dân chúng  y như họ)))
Một chính phủ chưa dám thực hiện những điều như thế tất nhiên do họ có vấn đề về đường lối, về quyền lợi phe nhóm nên không dám minh bạch, không dám trao quyền cho dân để LẬP QUYỀN DÂN. Cộng sản mà cho dân giám sát như thế nầy thì dân biểu của họ chạy trốn vì xấu hổ...và sự phẩn nộ của dân.
Sau màn cộng sản quốc dân ta nhất quyết phải đòi hỏi những nhà làm luật đưa những điều như vậy vào luật. Còn như họ không chịu chúng ta phải tẩy chay ngay. Đó là bọn lợi dụng xương máu nhân dân chớ chẳng có thật tâm làm cách mạng gì cả. Xô họ xuống để con đường xây dựng xã hội tự do, dân chủ và đạo đức không bị chướng ngại.
  Ngày nào những điều luật tiến bộ thế nầy được đưa vào luật thì dân chúng mới bớt lầm than, quan chức mới bớt tham nhũng và sau đó là chẳng có quan chức nào dám tham nhũng trước sự giám sát như vậy cả. LẬP QUYỀN DÂN là như vậy.
CHƯƠNG THỨ BA.
HỘI NGÁNH THƯỜNG XUYÊN.
Ðiều Thứ Mười Bốn:
Lập một Hội Ngánh thường xuyên đặng bàn tính các điều thường ngoại chương trình với việc trọng hệ cần yếu xãy ra thình lình nhứt là việc Thượng Chánh Phối Sư hoặc Chức Sắc nào mà Hội Thánh cho quyền thông công với Chánh Phủ. Thượng và Nữ Chánh Phối Sư cũng làm Chánh Phó Nghị Trưởng.
Từ hàng Chánh Phó cũng lãnh y phận sự. Nghị viên thì sắp đặc y như sau đây:
Cũng có mặt một hoặc vài Chức Sắc Nội Chánh tuỳ theo việc bàn tính và một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài.
Một năm nhóm ba kỳ (4 tháng một kỳ).
Nhóm kỳ thứ nhất: Mùng 06-4 .
Nhóm kỳ nhì : 13- 8. Phải đến trước.
Nhóm Kỳ ba : 13-11 bửa Hội 01 ngày.
Khi có việc trọng hệ gấp rút thì Nghị trưởng được quyền gởi điện tín mời nhóm nhưng mà một năm không quá hai lần. Ðiện tín mời nhóm gởi ba ngày trước bửa nhóm.
Nội trong 10 ngày sau khi nhóm Hội thì lập vi bằng và làm y như nhóm Ðại Hội.
Chánh Phó Nghị trưởng, Từ Hàng Nam Nữ với một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ký tên tờ vi bằng.
Lúc Ðại Hội Nhơn Sanh thường lệ trước khi giải tán thì chư Nghị viên các Tỉnh Nam kỳ (Nam và Nữ riêng nhau) phải phái mỗi Tỉnh một vị đặng thay mặt nơi Hội thường xuyên cho Tỉnh của mình.
Toàn các nước Lân Bang cũng đồng quyền y như phép công cử nơi Việt Quốc mà sắp đặc những Phái viên về nhập Ðại Hội Nhơn Sanh và Thượng Hội theo như Luật Lệ sở định nầy:
Nghị Viên Nam và Nữ phải đồng một số.
Toà Thánh sẽ lập Khách đình để cho chư phái viên ngoại bang đến cư ngụ nhứt là sẽ cấp đất Toà Thánh đặng chia cho mỗi Tỉnh Ðạo cất nhà cửa cùng cơ sở vỉnh cửu đặng người thay mặt mình ở thường xuyên gần Toà Thánh.

PHÂN TÍCH: mỗi nghị viên có nhiệm kỳ là 03 năm. Sau khi họp đại  hội lần thứ nhất trong nhiệm kỳ xong thì đại hội bầu ra Hội Ngánh thường xuyên. Ngánh thường xuyên nầy chính là thường trực của ĐHNS. (Khác với Ngánh 04 phái theo chuyên môn trong Đại Hội).
Các vị trong Ngánh thường xuyên là đầu mối liên lạc với các nghị viên đồng khóa và thành phần dự thính để theo dõi đạo sự về mọi vấn đề....đó là tai mắt, là sức mạnh, là phương tiện hiệu nghiệm của nhơn sanh xây dựng đạo nghiệp mà cũng là xây dựng cho chính họ.
Như thế chính là đắc nhân tâm. Đắc nhân tâm được thì lập quốc được là chuyện đương nhiên.
@@@
Quyền kiểm tra và giám sát là 02 công cụ quan trọng để làm cho dân mạnh. Quyền đó được xuyên suốt trong LLCCH & NLHNS. Đó là lập quyền cho dân.
Ông bà ta có dạy rằng: Một người biết lo bằng một kho người làm hay câu Một người tính bằng chín mươi chín người làm. Người tính là bộ não; người làm là sức mạnh. Có bộ não tinh anh và có dân ủng hộ thì đó là một thân thể khỏe mạnh trong một tinh thần minh mẫn.
Hội Thánh ĐĐTKPĐ đã dụng NHƠN NGHĨA lập một quốc gia trong một quốc gia thành công là vì ở tất cả các khâu như kế hoạch, tổ chức, kiểm soát và lãnh đạo đều lấy công thức dân mạnh và lập quyền dân làm căn bản. Nhờ đó mà dân tin và chính dân thực hiện.
GS Nguyễn Văn Trung viết trong Lục Châu Học chương 5: Cao Đài: Đạo ở vùng đất mới: Ý thức hệ Cao Đài trong chức năng "hội nhập" mang tính chất bảo thủ không thể đáp ứng được những đòi hỏi lớn lao kể trên. Xin thưa rằng bảo thủ hay cấp tiến là suy đoán chủ quan của từng người cũng như ông chủ tịch Hạ Viện có quyền nhận xét rằng dân biểu phát biểu ngoài nội dung rồi mời về chổ vậy. Nhưng qua cách tổ chức ĐHNS như chúng tôi trình bày chúng tôi nghĩ là GS sẽ nhìn lại ý kiến của mình và quí vị quan tâm đến vấn đề thấy được đóng góp cho xã hội bằng những công thức và nội dung  trên chính là mở đường dân tiến xây dựng một xã hội mới: Bác ái – Công Bằng.
THIÊN THỨ BA:
THỰC HIỆN CUỘC CÁCH MẠNG NHƠN NGHĨA.

ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo năm 1926 tại Chùa Gò Kén, Làng Long Thành, Tỉnh Tây Ninh, Nam phần Việt Nam. Khi đó thực dân pháp đang cai trị miền Nam. Các quan chức Pháp là những người am hiểu về tam quyền phân lập và cách tổ chức xã hội theo khuôn mẫu phân lập quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Họ đã nhìn và đánh giá Đạo Cao Đài theo quan điểm đó.
Họ kết luận rõ ràng: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia. Đó không phải là tình cờ hay ác cảm mà căn cứ trên pháp luật đạo và những việc làm thiết thực của Hội Thánh. Ngày nay áp lực đã qua đi chúng tôi học đạo và trình chánh cuộc cách mạng Hội Thánh đã làm.
Thiên nầy chúng tôi trình bày 03 phần:
. Khái niệm về hai đường hướng cách mạng.
. Nội dung thực hiện.
. Công thức và bộ máy thực hiện.
@@@
I/- HAI ĐƯỜNG HƯỚNG CÁCH MẠNG: vũ lực & nhơn nghĩa.
Trong quyển Lục Châu Học xuất bản năm 1994 của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung (theo bản chúng tôi có được từ internet thì sách dày 432 trang theo khổ giấy A4. Font chữ Times New Roman, Size 14).
Chương năm có tên CAO ĐÀI: ĐẠO Ở VÙNG ĐẤT MỚI từ trang 214 đến trang 272  Giáo Sư cho một số thông tin sau.
Tổng hợp trang 238 và trang 258:
Hai viên chức cao cấp thực dân Pháp hợp soạn trong báo cáo có tựa đề: LE CAODAISME PAR LA LAURETTE ET VILMONT. Cả hai cáo buộc: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia.  
- Ông LA LAURETTE là  thanh tra chính trị sự vụ và hành chánh Nam Kỳ (L'inspecteur des Affaires politiques et Administratives de la Cochinchine). Ông viết phần đầu, khoảng 39 trang đánh máy khổ lớn. Ngày viết xong là ler Janvier 1932: Như vậy tác giả đã soạn từ 1931 trở về trước.
- Ông VILMONT, Tham Biện chủ Tỉnh Tây Ninh (L'Administrateur des Services Civils - Chef de Province de Tây Ninh), viết phần còn lại, dài 93 trang tổng số 132 trang của cuốn "Le Caodaisme". Vilmont đề ngày và nơi hoàn tất là: Tây Ninh, Le Ler Avril 1933. Đề như vậy có nghĩa ông ta còn đang tại chức ở Tây Ninh khi viết xong.
Do đâu mà 02 viên chức cao cấp thực dân Pháp viết như vậy?
Trang 258 có 02 đoạn sau:
Qua bản phân tách nghiên cứu của La Laurette và Vilmont, chúng tôi ghi nhận mấy điểm sau đây:
I. Về nguồn gốc:
1/. Tài liệu cho thấy Cao Đài không phải do Pháp tạo ra hay xúi giục, chỉ đạo chủ động như một dư luận giải thích quen thuộc dựa vào sự kiện nhiều người lập ra Cao Đài là viên chức Pháp, thậm chí viên chức phòng nhì rồi suy diễn là Pháp chủ động.(ct.1). Trong bài, hai tác giả đã vạch ra rất nhiều thủ đoạn của những người cầm đầu Cao Đài luôn luôn đặt nhà cầm quyền Pháp vào thế kẹt, bị động (đứng trước sự việc đã rồi) hoặc bắt buộc phải dè dặt vì biết rõ những móc nối liên hệ của Cao Đài với nhiều nhân vật có uy tín quyền thế trong Hành Pháp và Lập Pháp, với các tổ chức bảo vệ nhân quyền ở Pháp...
... Do đó, dựa vào tài liệu của La Laurette và Vilmont, có thể nói Cao Đài là một đạo do người Việt Nam ở miền Nam sáng lập ra và chủ động trong việc điều hành tổ chức thời kỳ đầu.
      Ct.1/-  Hai quan chức cao cấp của thực dân Pháp nhận định:
. Cao Đài là đạo do người Việt Nam ở miền Nam sáng lập ra.
Bản án Cao Đài năm 1978 do chính quyền cộng sản Việt Nam ban hành thì viết:
 Sự ra đời của giáo phái Cao Đài có một quá trình chuẩn bị và đạo diễn của bọn thực dân Pháp, mà trực tiếp chỉ đạo là những tên tình báo Pháp Bomet, Latapie, thống đốc Nam kỳ LeFol. Ý đồ của Pháp dùng mê tín thần quyền (thuật chiêu hồn của Ngô Văn Chiêu chủ trương, sau này gọi là cơ bút) để ru ngủ hướng dẫn khối nông dân yêu nước đi vào con đường thủ tiêu đấu tranh cách mạng, đồng thời ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản xâm nhập vào khối nông dân Việt Nam.).
So sánh 02 tài liệu của người Pháp (1933) và cộng sản (1978) thì giáo sư Trung tin vào tài liệu của Pháp. Chúng tôi cũng không tin vào Bản Án Cao Đài của cộng sản....Bộ máy nghiên cứu của cộng sản cũng không phân biệt được pháp môn của Ngài Chiêu và ĐĐTKPĐ độc lập nhau.
Đoạn cùng trang 258:
II/. Về ý nghĩa:
Bản nghiên cứu đưa ra hai ý nghĩa chính:
1/. Về xã hội: Đạo Cao Đài ra đời nhằm đáp lại những khát vọng xã hội (tìm cho đời sống một ý nghĩa do các ý thức hệ hay tôn giáo thỏa mãn; và một hội nhập xã hội theo một nếp sống cộng đồng nào đó) từ một hoàn cảnh trống rỗng hay thiếu xót mà các tôn giáo, ý thức hệ hiện có không đáp ứng được đầy đủ.
2/. Về chính trị: Đạo Cao Đài cũng nhằm đáp lại những khát vọng quốc gia (độc lập dân tộc, làm chủ về mọi mặt cuộc đời của mình trên đất nước mình). Trong hoàn cảnh thuộc địa Cao Đài nhằm tạo ra "một quốc gia trong một quốc gia," dựa vào Tây mà chống Tây. Hai tác giả cho thấy những biểu lộ của Cao Đài về mặt này có nhiều xu hướng, nhiều mức độ. Từ xu hướng âm mưu chống Pháp rõ rệt và quyết liệt như của Phạm Công Tắc, (ct.2) đến những biểu lộ nhẹ nhàng, mang tính chất thỏa mãn tâm lý của kẻ muốn có quyền hay làm chủ trong hoàn cảnh lệ thuộc người ngoài.
 Ct.2/- Hai quan chức cao cấp của thực dân Pháp nhận định:
. Hộ Pháp Phạm Công Tắc chống Pháp quyết liệt.
 Bản án Cao Đài lại nhận định rằng:  Đức Hộ Pháp là tay sai của Pháp là phản bội tổ quốc... giáo phái Cao Đài Tây Ninh do những người cầm đầu dẫn dắt trong nửa thế kỷ qua, là một quá trình liên tục lợi dụng khối quần chúng tín đồ và những người cầm đầu nối tiếp nhau làm tay sai cho các đế quốc xâm lược nước ta, đã làm hoen ố thanh danh Đạo.
Vậy sự thật thế nào?
Năm 1978 cộng sản lên án Đức Hộ Pháp để tịch thâu tài sản tôn giáo và cấm ĐĐTKPĐ không cho hành đạo.
Năm 2006 cộng sản đạo diễn cho chi phái Hội Đồng Chưởng Quản rước liên đài Đức Hộ Pháp từ Nam Vang (campuchia) về Tòa Thánh Tây Ninh (Việt Nam). Việc nầy góp phần đưa cộng sản ra khỏi danh sách CPC (là những quốc gia cần theo dõi đặc biệt về nhân quyền và tự do tôn giáo) để vào WTO.
Qua 02 sự việc trên cho thấy bản chất thật của cộng sản.
Trang 270: Đạo Cao Đài không trực tiếp chủ trương tranh đấu chính trị hay đề ra một cải cách xã hội nào, nhưng lại tạo được một chỗ đứng cho nhiều tầng lớp trong một tổ chức, cơ chế riêng coi như của mình bên cạnh khuôn khổ cơ chế xã hội do người Pháp áp đặt mà ít nhiều họ đều bất mãn, chống đối.
Nói cách khác, Cao Đài phục hồi được phần nào nề nếp tự trị của làng xã ở một qui mô rộng lớn hơn, trong đó người có vai trò lãnh đạo được làm lãnh đạo, người cần được lãnh đạo có người lãnh đạo, thực hiện được điều mà người Pháp (La Laurette, Vilmont) gọi là "một quốc gia trong một quốc gia." Đây là một tổ chức quần chúng đông đảo và sớm hơn cả. Những người theo Cao Đài nghĩa là vào một tổ chức quần chúng có lãnh đạo, nghi thức tương trợ xã hội, cảm thấy như "được hội nhập về mặt xã hội." Nhưng chỉ sau một thời gian, những yêu cầu lớn lao về chính trị xã hội của cả nước đòi hỏi những thay đổi triệt để, những hình thức tranh đấu trực diện để thực hiện những thay đổi đó. Ý thức hệ Cao Đài trong chức năng "hội nhập" mang tính chất bảo thủ không thể đáp ứng được những đòi hỏi lớn lao kể trên.
@@@
Chúng tôi xin cảm ơn Giáo Sư Trung đã có công giới thiệu Đạo Cao Đài trong tác phẩm nghiên cứu rất đồ sộ. Những đánh giá về Đạo Cao Đài của vị giáo sư khả kính từng tham gia giảng dạy tại Đại Học Cao Đài rất đáng để người đạo suy nghĩ và làm rõ. Chúng tôi xin phép thưa rằng: những nhận định trên cho thấy rằng Giáo Sư cũng như những nguời trước đây nghiên cứu về Đạo Cao Đài chưa nhìn ra cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA của Đạo Cao Đài đã thực hiện để tạo lập và xây dựng nên vùng Châu Thành Thánh Địa.
Cuộc cách mạng nhơn nghĩa có 03 bước: đại hùng, đại lực và đại từ bi. Giáo sư thấy được 02 bước đại hùng và đại lực nhưng không thấy bước đại từ bi nên kết luận: không đáp ứng được yêu cầu lớn lao của cả nước. Tại sao không thấy được bước đại từ bi?
Bởi vì các cuộc cách mạng bằng giáo gươm, súng ống trong xã hội đi đôi với bạo lực cũng có 03 bước: đại hùng, đại lực và đại ác. Hai bước đầu thì giống nhau nên giáo sư thấy còn bước thứ ba thì giáo sư quen thấy diện đại ác nên chỉ nghĩ có một diện đó, vì vậy không thấy diện đại từ bi.
Đại ác là nó tự cho là đúng rồi trình bày và dùng vũ lực bắt buộc mọi người phải tuân theo nó. Cộng sản là bậc thầy của chữ nghĩa nên gọi đó là bạo lực cách mạng để đánh lừa công luận.
Còn đại từ bi cũng tự cho là đúng và trình bày với mọi người rồi để cho họ tự do lựa chọn, không ép buộc ai phải làm theo dưới mọi hình thức. Đại từ bi cho biết cái đúng, cái sai rõ ràng nhưng tôn trọng sự lựa chọn của từng người.
Cách mạng nhơn nghĩa: Lành dữ hai đường vừa ý chọn. Đó là đại từ bi. Cách mạng vũ lực: Không theo ta là kẻ thù của ta. Đó là đại ác.
Giáo sư quen thấy đường đại ác mà không nhận thấy đường đại từ bi cũng như bao nhiêu người khác cũng là lẽ thường tình. Hơn nữa Đạo Cao Đài là một tôn giáo hoàn cầu nên từ suy nghĩ đến hành động phải đáp ứng được cả hai diện: quốc gia và thế giới.
Chính do nơi thấm nhuần quan điểm cách mạng bằng BẠO LỰC và phương tiện tiến hành cách mạng đi liền với vũ khí nên các vị tưởng rằng đó là phương pháp duy nhất chớ không ngờ rằng phương pháp cách mạng của Đạo Cao Đài hoàn toàn khác. Đó là thực thi NHƠN NGHĨA để tiến hành cách mạng. Nếu không có quan điểm cách mạng bằng nhơn nghĩa thì làm sao Đạo Cao Đài qui nhơn loại về một mối theo ý chỉ của Thượng Đế?
Thượng Đế không làm việc theo kiểu đề ra cứu cánh rồi khoán trắng cho môn sinh. Ngài chỉ dạy công thức và phương pháp tiến hành để đạt được cứu cánh. Thượng Đế không phó thác cuộc cách mạng do Ngài bày ra cho sự may rũi, con đường Ngài vạch ra có khi nhơn loại không thấy đặng nhưng chắc chắn là nhơn loại đến đặng. Bằng cớ là cuộc cách mạng đã làm xong mà một phần lớn trí thức hiền nhân trong và ngoài tôn giáo chưa nhận ra. Rất nhiều người tin theo đạo đã tham gia thực hiện cuộc cách mạng nhơn nghĩa mà chưa cảm nhận rõ được. Đó là do nơi áp lực của thực dân Pháp và gia đình trị Ngô Đình Diệm... mà ra.
Đạo Cao Đài đã lập một quốc gia trong một quốc gia ngay trước mắt thực dân Pháp. Người Pháp cũng như các trí thức khác vốn đã quen với quan niệm làm cách mạng là phải có lực lượng vũ trang và mục đích cuối cùng là phải nắm lấy chánh quyền. Các vị không thể hình dung rằng cuộc cách mạng bằng NHƠN NGHĨA của Đạo Cao Đài không nhằm chiếm lấy chánh quyền mà nhằm chiếm lấy LÒNG DÂN.
Chiếm lấy lòng dân bằng cách nào?
Đạo thực hiện 05 chương trình: Gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân trí và dân sinh. Hội Thánh kiến tạo, thiết kế rồi phổ biến cho nhơn sanh thực thi trong tinh thần tự giác, tự nguyện. Hội Thánh chinh phục nhân tâm bằng chân lý. Khi chân lý đã gieo vào lòng dân, người dân đã được nếm mùi vị của nhơn nghĩa, của chân lý thì không một thế lực nào có thể tiêu diệt được. Phân tích các việc làm của Hội Thánh Cao Đài bằng quan điểm cách mạng nhơn nghĩa sẽ hiểu và thấy sự thật như vậy.
Còn nếu hiểu cách mạng theo cách dùng bạo lực để xô ngã bạo lực rồi nắm lấy chánh quyền và tiếp tục dùng bạo lực cai trị đất nước thì sẽ đi đến kết luận như Giáo Sư đã viết:
. Ý thức hệ Cao Đài trong chức năng "hội nhập" mang tính chất bảo thủ không thể đáp ứng được những đòi hỏi lớn lao kể trên.
Tại trang 260.
Trong một hoàn cảnh bị ngoại bang cai trị dưới chế độ thuộc địa, tạo ra được một tổ chức quần chúng đông đảo, tương đối riêng biệt chắc không phải là một điều mà ai cũng làm được. Lê Văn Trung chỉ thiếu có một điều, và là điều cốt yếu nhất của một lãnh tụ: Ý thức chính trị để đưa tới một chủ thuyết đường lối chính trị nào đó.
@@@
Thưa giáo sư.
Thật lòng chúng tôi rất hân hoan khi đọc những dòng trên. Những nhận xét của giáo sư ngày đêm thôi thúc chúng tôi tìm tòi, suy nghĩ để làm rõ vấn đề giáo sư cho là còn thiếu.
Là một người theo công giáo. Giáo sư từng nhận định rằng: Vatican đánh rắm cũng thơm làm cho nhiều người khó chịu là đương nhiên. Nhưng các sự thật đã xãy ra và đang xãy ra trong Tòa Thánh Vatican cho thấy cái nhìn nghiêm túc của giáo sư về giáo hội. Vụ lạm dụng tình dục hàng ngàn trẽ em dẫn đến bê bối tài chánh...làm cho Liên Hiệp Quốc lên tiếng đề nghị Vatican cung cấp hồ sơ chắc là vẫn còn thơm với nhiều người.
Còn với Đạo Cao Đài Giáo sư mở hướng tìm hiểu Đạo Cao Đài theo quan điểm xã hội học là xem xét nguồn gốc xã hội nào đã thúc đẩy nó nên hình và khi ra đời nó đóng góp được gì cho xã hội (mà không lấy học thuyết, giáo lý tôn giáo làm trọng tâm) nên nhiều người cho rằng giáo sư ám sát tôn giáo nhưng với chúng tôi thì không nghĩ vậy.
Giáo lý, tín điều là việc quan trọng với người đạo. Còn Đạo đó đóng góp được gì cho đời, cho quốc gia xã hội chính là thước đo giá trị của tôn giáo đó. Cái giá trị tôn giáo (cũng như con người) không phải ở lời nói là ở việc làm.
May thay Đức Hộ Pháp đã lo điều đó nên năm 1956 sau khi đất nước bị chia đôi Nam Bắc Ngài cực lực phản đối việc cụ Hồ và cụ Ngô cậy vào ngoại bang để gây cảnh chiến tranh nồi da xáo thịt. Ngô Đình Diệm đã khủng bố quan điểm đó và Ngài đã phải lưu vong sang Campuchia... từ đó đưa ra Chính Sách Hòa Bình Chung Sống (26-03-1956) kêu gọi hai bên thi đua nhơn nghĩa, không cậy vào ngoại bang để giải quyết... đường lối Hòa Bình Chung Sống từng bước đi vào xã hội. Bốn chữ HÒA BÌNH CHUNG SỐNG đã được thực hiện mà Neson Mandela ở Nam Phi là một điển hình.
Cộng sản nói rất hay nên mới lôi cuốn được quần chúng, lôi cuốn được trí thức. Nhưng qua sự mà sát của thời gian, sự kiểm tra từ thực tế nhân loại đã đúc kết rằng: Chưa có đảng phái nào hứa nhiều mà thực hiện KHÔNG CÓ GÌ như cộng sản.
Tôn giáo mà sống trong tháp ngà rồi dùng mỹ từ tu hành thuần túy để sống ký sinh vào xã hội thì chưa đáng là tôn giáo chân chính. Tôn giáo phải có đóng góp cho xã hội tiến bộ cũng như chia vui sớt nhọc với nhân quần xã hội mới đáng mặt là tôn giáo chân chính.
Sự đóng góp của Đạo Cao Đài từ khi nó hiện sinh chính là CÁI GÁNH ĐỜI mà Đức Hộ Pháp phải gánh, Hội Thánh phải gánh. Cái gánh đời của Đức Hộ Pháp phải gánh là từ chánh giáo của Đức Chí Tôn dạy Hội Thánh thực hiện cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa tạo lập ra một quốc gia trong một quốc gia để làm khuôn mẫu cho nhân loại.
Đến năm 1956 Ngài công bố Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống với công thức: Do Dân – Phục Vụ Dân – Lập Quyền Dân. Cương lĩnh thể hiện dùng tinh thần HÒA BÌNH để thiết kế việc CHUNG SỐNG. Nó chỉnh lý chánh sách Chung Sống Hòa Bình... vì thiết kế từ vật chất CHUNG SỐNG để kiến tạo tinh thần HÒA BÌNH. Thực tế cuộc sống đã chứng minh rằng: từ khi con người hiện sinh và biết hiệp đồng nhau thành quần thể thì đã chung sống với nhau nhưng chẳng hề có hòa bình. Nghĩa là công thức chung sống hòa bình đã thất bại từ lâu rồi nay có muốn làm mới để xài cũng không thể chi thành công. 
Một điều quan trọng nữa là công thức LẬP QUYỀN DÂN. Đây là công thức mà Đạo đã thực hiện thành công nên đem đóng góp cho nhân quần xã hội.
Tóm lại: Hòa Bình Chung Sống hay Lập Quyền Dân chính là giải pháp của Đạo xây đời rất thực tế. Đó chính là thước đo giá trị Đạo Cao Đài theo hướng xã hội học giáo sư đề ra. Đó là việc rất nghiêm túc và chánh đáng. Tôn giáo chân chính phải đủ sức và đủ sáng để tạo lập giá trị của mình và để quyền nhìn nhận cho nhân loại. Cho nên chúng tôi không tin rằng giáo sư ám sát tôn giáo mà nghĩ rằng giáo sư muốn tôn giáo phải chứng tỏ giá trị mình là làm được gì trước khổ cảnh của nhân loại. 
Người chơi cờ nào cũng biết rằng có lúc phải lùi một nước cờ hay nhiều nước cờ để thắng cả bàn cờ. Việc chơi mà còn có thể rút ra được bài học như thế huống chi việc Đạo là việc quan hệ đến vận mạng nhân loại lẽ nào lại được phép háo thắng hay khinh xuất. Người lãnh đạo tôn giáo chắc chắn là phải tự thắng tánh háo thắng và khinh xuất. Trong bàn cờ thế sự có khi phải chấp nhận lùi một bước để tiến lên rất nhiều bước và thực hiện cho xong cứu cánh.
Cũng như Thị Kính nếu quyết chí tranh phải quấy với Thị Mầu, với quan chức hương thôn, tranh thắng tức khắc với thị phi của người đời... thì bà sẽ thắng, chắc chắn thắng. Bà chỉ cần phơi bày sự thật rằng bà là nữ nhân thì làm sao là cha đứa trẻ trong bụng Thị Mầu... cái tất thắng đến tức khắc. Nếu bà thắng khi còn sống thì chỉ thắng có một lần và nhân loại không có Đức Quan Thế Âm. Bà chọn cái thắng nhiều lần là thắng khi xa rời cõi thế để nhân loại có Đức Quan Thế Âm. Nhân loại có Đấng thiêng liêng là hiện thân cho công thức: từ hòa và nhẫn nhục rất cao cả.
Những người trí thức đương thời có làm việc với Ông Lê Văn Trung đều có chung nhận xét rằng ông là người thâm trầm kín đáo, thoạt nhìn có khi thấy như hờ hửng mà kỳ thực là rất ý vị, sâu xa... Ông biết rằng người Pháp đã nhận định Đạo Cao Đài lập quốc gia trong quốc gia thì họ cũng đã định được cái tinh thần của quốc gia đó hoàn toàn không có lợi cho công cuộc thực dân của họ. Đạo kêu gọi đoàn kết, thương yêu để phát triễn là đại kỵ với thực dân hay độc tài. Lúc nào họ cũng muốn gây chia rẽ, ghét lẫn và oán thù đặng dân chúng tự suy yếu, dân chúng suy yếu thì dễ bề cho độc tài hay thực dân cai trị. Ông biết rằng Đạo Cao Đài chỉ cần một sơ hở nhỏ là thực dân Pháp sẽ tiêu diệt tức khắc.
Ông Lê Văn Trung khi còn là Nghị Viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ đã làm cho thực dân Pháp thất bại khi muốn đánh thuế đất theo lục hạng điền. Ông cũng là người đứng ra cổ xúy cho việc thành lập trường Nữ Học Đường đầu tiên ở Việt Nam.
Nhà báo Diệp Văn Kỳ nhận định việc lập Nữ Học Đường:
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của Annam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong nữ giới.
Sau đó ông còn hiên ngang đọc một bài diễn văn yêu cầu chánh phủ, lấy một phần số tiền công nho phụ trội của tất cả các làng khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, đặng lập ra tại Saigon một cái Hội Quán gọi là "La Grande Maison Commune Annamite" - Nhà Ðại Ðồng Của Người An Nam...
Khi còn ở chốn quan trường Ngài đã ý thức về giống nòi như vậy... nhưng thấy sức mình như thằn lằn xô cột đá nên chán nãn lao vào con đường ăn chơi phóng túng nghiện cả á phiện... thế mà khi biết được ý nghĩa mối đạo Ngài bỏ tất cả (trong 24 giờ) để cống hiến. Cái ý thức về đạo, về trách nhiệm được Thượng Đế giao phải mạnh mẽ thế nào mới có hành động dứt khoát đến thế. Như vậy người Pháp cân nhắc ắt hẳn hiểu rằng tổ chức lập quốc của Ông Trung không có lợi cho họ.
Binh pháp dạy: Biết người, biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Lê Văn Trung biết Đạo, biết trách nhiệm và biết thực dân Pháp... Ngài từng than thở với bổn đạo rằng: "Em ôi! Thân của Qua mất còn bao quản, luật Ðời chỉ cản ngăn xác thịt, chớ không buộc trói được tinh thần. Qua lo là lo gánh nặng đường xa, không người đồng chí, Qua còn đây thì chẳng nói gì, chớ mai kia mốt nọ Qua mất rồi thì thương cho con cái của Thầy phải chịu liu chiu lít chít".
Là một người từng đối đầu với thực dân Pháp để binh vực cho dân chúng, ông Lê Văn Trung từng biết áp lực khủng khiếp của Pháp. Giờ Thượng Đế giao trọng trách cho ông đứng ra để mở mang nền QUỐC ĐẠO ông biết nó quan trọng hơn tất cả các việc ông trãi qua rất nhiều lần. Ông biết giá trị của đạo với phần nhân loại đang bị đày đọa, đang bị nghèo nàn dốt nát bao vây cuộc sống, nếu sơ sẩy là hậu quả không thể lường hết được và ông thành tội nhân thiên cổ. Ông Ý THỨC ĐẦY ĐỦ trọng trách nên che bớt cái sáng của mình đi.
Đạo Đức Kinh chương 28 viết:
Tri kỳ hùng, Thủ kỳ thư. Vi thiên hạ khê...
(Biết như con trống, sống như con mái, làm khe nước cho thiên hạ).
Tri kỳ bạch, Thủ kỷ hắc, Vi thiên hạ thức...
(Biết trắng, giử đen, làm khuôn mẫu cho thiên hạ...)
Tri kỳ vinh, Thủ kỳ nhục, Vi thiên hạ cốc...
(Biết vinh, giữ nhục làm hang sâu cho thiên hạ)
Chương 41 viết:
...Cố kiến ngôn hữu chi, (người xưa nói)
Minh Đạo nhược muội, (sáng về đạo dường như tối tăm,)
Tiến Đạo nhược thối...: (tiến về Đạo thì dường như thối lui...)
Chương 52 viết:
Kiến tiểu viết minh, (Thấy được chổ tế vi là sáng)
Thủ nhu viết cường, (Giữ được mềm yếu là mạnh)
Dụng kỳ quang, (Dùng cái sáng của Đạo)
Phục quy kỳ minh, (Trở về cõi sáng của mình)
Vô di thân ương, (thân không sợ tai ương)
Thị vi tập thường. (Đó gọi là sáng gấp hai)
Ông Trung có học Đạo Đức Kinh hay không mà sống như thế?
Tóm lại ông biết rõ hết và phải giả dại qua ải chớ tranh hơn thua với thực dân Pháp để họ diệt Đạo hay sao? Nhịn thua một nước cờ chưa phải là thua bàn cờ. Bằng cớ là sau đó Đạo vẫn thực thi được chánh giáo và phát triễn đến ngày nay.
Giáo sư đã nhìn vào nước cờ nhịn thua mà viết rằng:
...Lê Văn Trung chỉ thiếu có một điều, và là điều cốt yếu nhất của một lãnh tụ: Ý thức chính trị để đưa tới một chủ thuyết đường lối chính trị nào đó. Cũng là điều hiểu được. OK.
Ông Lê Văn Trung tranh thắng một nước cờ mà thua cả bàn cờ thì thắng nước cờ ấy có nghĩa gì đâu (mà còn là một tội đồ nữa là khác). Ông chịu lép một nước cờ mà Đạo thực hiện được chương trình theo chánh giáo của Đức Chí Tôn thì người đời có nhìn vào nước cờ nhịn thua mà chê bai cũng là lẽ thường. Còn với người đem Đạo Đức Kinh (là một hệ thống giá trị khác hệ giá trị của Mác, Lê- Nin, Hồ Chí Minh...) ra soi chiếu người ta sẽ kính trọng khí tiết của Ngài hơn.
Đó là nói về lý thuyết.
Còn trên thực tế khi ông Lê Văn Trung mất nhìn số người than khóc, tiếc thương và tình nguyện để tang cho ông chính là thước đo giá trị của ông trước nhân quần xã hội. Dân tự nguyện thờ ai thì đó là người được lòng dân. Dân thờ ai thì đó là chân lý.
Nhà báo Diệp Văn Kỳ viết:
Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì?
Ðiều đó chưa biết. Chúng tôi chỉ biết rằng từ hôm ông chết đến nay, ở Tòa Thánh Cao Ðài Tây Ninh, số người mỗi ngày đến chịu tang, lấy muôn mà kể. Già trẻ, bé lớn, đàn ông, đàn bà ở Lục Tỉnh, ở Nam Vang, ở Lèo, thảy đều thương tiếc, khóc than, chẳng khác nào con mất cha mẹ. Nếu như có thể lấy những "Chuôn" vải trắng bịt trên đầu để làm thước đặng đo sự nghiệp, công đức của một người quá vãng, thì ta có thể nói rằng sự nghiệp, công đức của Ông Lê Văn Trung là lớn nhất ở Nam Kỳ nầy vậy.
Trái lại, dầu cho có ai bảo rằng sự nghiệp ngưỡng mộ ấy đều do ở điều mê tín tàm vơ mà sanh ra, thì họ cũng phải công nhận rằng đó là một cái tâm lý quần chúng cần phải nghiên cứu, là một "việc xã hội" cần phải điều tra.
Muốn nghiên cứu tâm lý ấy, muốn điều tra "việc xã hội" ấy, thì tôi tưởng chẳng chi hay hơn là xét cho rõ lai lịch của người đã đào tạo ra tâm lý ấy và "việc xã hội" ấy.
Hằng năm lễ kỷ niệm ngày ông bỏ xác phàm được tổ chức long trọng và người đạo lẫn đời nhiều nơi về dự đó chính là công nghiệp của ông. Nếu ông thiếu ý thức như giáo sư viết thì chẳng lẽ nhân loại lầm lẫn mà tôn vinh “ông thiếu ý thức” đông và lâu đến vậy.
Chúng tôi không tin ông Diệp Văn Kỳ lầm và một phần nhân loại như thế lầm lẫn nên mạo muội nghĩ rằng do giáo sư chưa hiểu đúng hành tàng của Ông Lê Văn Trung nói riêng và cuộc cách mạng nhơn nghĩa nói chung. Nghĩa là giáo sư đã đem một hệ thống giá trị khác để hiểu về ông Lê Văn Trung cũng là chuyện thường tình.
Ông Lê Văn Trung làm chưa xong thì đã mãn phần nên đã có Đức Hộ Pháp kế nghiệp. Đức Hộ Pháp có đầy đủ hiểu biết để thực hiện việc LẬP MỘT QUỐC GIA THEO KHUÔN MẪU CAO ĐÀI và Ngài cũng không cần rao hàng. Bởi vì Ngài không chủ trương dùng súng đạn để giải quyết bất đồng nên cũng không muốn thực dân Pháp hay Ngô Đình Diệm dùng súng ống diệt Đạo. Ngài thực thi xong đường hướng lập quốc bằng nhơn nghĩa của Đức Chí Tôn chỉ dạy xong thì để đó. Cái gốc đã vững bền thì cái ngọn tươi tốt chỉ còn là thời gian. Rừng xanh đã nên hình lo chi thiếu củi. Trong cuộc đời cách mạng của ông Phạm Công Tắc có lắm khi ông phải đem mục tiêu phụ lên che chắn cho mục tiêu chính để tồn tại (thư gởi Bắc Tông Đạo năm 1958).
Đức Chí Tôn gánh cả Đạo và Đời. Vậy mối đạo do chính Ngài làm chủ cũng phải gánh hai cái gánh Đời và Đạo. Đức Hộ Pháp là Giáo chủ tại thế và Hội Thánh thay thân cho Thầy Trời cũng phải gánh cả 02 gánh Đạo và Đời. Thư gởi Bắc Tông Đạo ngày 29-4-1958. Đức Hộ Pháp nói rõ: Trước áp lực của Pháp Ngài phải đánh tiếng Đạo Cao Đài là Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi...
Đại Từ Phụ, lại chỉ dạy rõ rằng: Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế, nên nói rõ Đạo Cao Đài là Quốc Đạo của ta thì hiển nhiên mình đã cố tâm khai trước thiên hạ rằng mình muốn phục cựu, rõ ràng còn chối cãi với ai đặng nữa. Vì vậy mà Pháp mưu toan tiêu diệt mình là đúng lý...
.... Chính mình phải tự hiểu lấy mình rằng: Đứng trước một kẻ thù nghịch của mình đủ quyền năng, đủ thế lực mưu hại lại mình mà dám vỗ ngực xưng tên rằng mình là kẻ thù địch của họ... thì họ tìm phương hại lại mình là đúng, còn than thở trách móc mà làm gì.
Dầu rằng mình biết lẽ ấy; nên đã đề xướng ra thuyết: QUI TAM GIÁO, HIỆP NGŨ CHI đặng làm cho dịu bớt tình thế. Nhưng cũng không đủ phương bào chữa. Và cũng vì nơi đó mà chính Qua đủ đức tin chịu nổi khổ hạnh đặng tranh đấu vượt qua các trở lực.
Lịch sử nhân loại chứng minh rằng khi Võ Vương tiến binh chiếm nhà Thương thì Bá Di và Thúc Tề nhận xét rằng: kẻ bạo thay cho kẻ bạo nên hai người rũ nhau đi ở ẩn.
Hai người hiền sĩ ấy muốn rằng nhân nghĩa thay cho bạo cường mới đáng là cách mạng. Những văn bút đời sau chê trách 02 vị cũng nhiều và khen tặng, kính phục hai vị hiền sĩ cũng lắm. Chê cũng có lý để chê, khen cũng có lý để khen. Nhưng điều quan trọng là những người cùng tâm tư: muốn đem nhân nghĩa thay cho bạo cường chưa có công thức để thực hiện. Điều thiếu đó lâu dài đến độ nhân loại gần như quên hẳn ước muốn của 02 vị, không còn tin rằng có công thức xây đời bằng nhơn nghĩa.
Con người là sản phẩm của giáo dục. Giáo án học đường và xã hội dạy cho nhân loại rằng cách mạng đi đôi với vũ khí và bạo lực sát nhơn và coi đó là con đường duy nhất. Giáo dục nhồi nhét thét rồi không nghĩ rằng có cách mạng không cần vũ khí và bạo lực. Nền giáo dục mù lòa đã tạo ra hàng hàng lớp lớp người từ thế hệ nầy sang thế hệ khác thành những người khiếm khuyết kiến thức mãn tính. Giáo dục mù lòa tạo nên những người khiếm thị bẩm sinh thì không thế nào biết đến màu sắc cỏ cây...cũng như không thể hình dung rằng có cách mạng bằng nhơn nghĩa.
Nhà Châu được tiếng là nhơn nghĩa nhưng cũng phải dùng đến bạo lực và chiến tranh để thực hiện.
Trong Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi tiên sinh viết:
Lấy nhơn nghĩa thắng hung tàn,
Đem chí nhân thay cho cường bạo...
Về nguyên tắc là chí lý.
Còn thực tế chế độ nhà hậu Lê vẫn không thể hiện cho nhơn nghĩa và chí nhân nên mới tiêu vong. Ngay từ khi Bình Định Vương Lê Lợi còn sống Ngài đã giết hại những công thần từng chung vai sát cánh với Ngài khi chiến đấu. Giáo gươm giết kẻ thù giờ quay lại giết người bạn cùng chiến đấu ai dám nói rằng đó là nhân nghĩa?
Đó là vong ơn, bội nghĩa và tàn nhẫn với người cộng sự. Vụ án Lệ Chi Viên đầy oan trái thì nhơn nghĩa chổ nào? chí nhân ở đâu?
Cụ Nguyễn Trãi muốn có triều đình nhơn nghĩa, chí nhơn rồi thành nạn nhơn phải chịu án tru di tam tộc thể hiện sự bế tắc trong việc tìm kiếm một xã hội nhơn nghĩa.
Nhưng ý tưởng dùng nhân nghĩa để thay đổi xã hội có chăng là từ trong tôn giáo mà thôi. Phật Giáo, Tiên Giáo, Nho Giáo, Công Giáo... đều là những tôn giáo muốn dùng nhơn nghĩa để xây dựng xã hội. Xét về phương diện xã hội thì các tôn giáo đó đã góp phần xây dựng nên bác ái và công bằng trong xã hội. Nhưng do trình độ của nhân loại nên các vì giáo chủ chưa thể đưa ra công thức xây dựng thế giới đại đồng. Chưa thể tạo lập MỘT QUỐC GIA TRONG MỘT QUỐC GIA để làm mẫu mực cho nhân loại.
Từ ngày hiện sinh nhân loại ăn lông ở lổ, rồi tiến đến văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, điện và điện tử rồi ngày nay là thời đại internet. Mỗi thời kỳ văn minh đều có nền tảng sức mạnh khác nhau. Khởi thủy dùng sức mạnh của cơ bắp của con người, rồi tiến lên biết dùng đến sức mạnh của gia súc. Tiến đến dùng sức mạnh của vật chất là các động cơ đốt ngoài (máy chạy bằng hơi nước hay than...) rồi động cơ đốt trong đến sức mạnh của dòng điện, đến nguyên tử, hạt nhân...và ngày nay con người làm việc hay liên lạc nhau qua vi tính (internet).
Internet không cần đến súng đạn mà cần đến sự hiểu biết, cần tri thức. Như vậy chân lý có phương tiện phổ biến rất nhanh. Khi chân lý đã được chứng minh và đưa lên net thì không ai có thể tiêu diệt nó được.
Đến Tam Kỳ Phổ Độ thì nhân loại đã tiến đến năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà nên Thượng Đế giáng trần chỉ dẫn công thức và dạy lập ra bộ máy thực hiện cuộc cách mạng nhơn nghĩa.
Lẽ ra câu hỏi cách mạng là gì phải được nêu ra trước tiên nhưng vì tính chất trực diện của bài viết nên đến đây xin được nêu ra.
Cách mạng có 02 diện cách mạng bản thân và cách mạng xã hội.
Bản thân mỗi người có thân và tâm nên cách mạng bản thân còn được gọi là cách mạng thân tâm. Cách mạng thân tâm diễn ra trong mỗi con người nên tùy vào đức tin, hiểu biết mà thực hiện.
Thế nào là xã hội? Quan niệm thế nào là xã hội vẫn không ngừng thay đổi. Chúng tôi gọi chung xã hội lớn hay nhỏ cho đến cả thế giới đều là xã hội.
Có nhiều cách giải thích hay định nghĩa thế nào là cách mạng xã hội. Chúng tôi chọn định nghĩa của ông Nghiêm Xuân Hồng:
Cách mạng là sự thay đổi lớn lao có sự tham gia của quần chúng. Hiểu như vậy thì trong lịch sử nhân loại luôn luôn có 02 đường lối cách mạng diễn ra cùng một lúc. Đó là cách mạng theo đường lối ôn hòa và cách mạng theo đường lối vũ lực.
Cách mạng ôn hòa thường do các nhà tôn giáo thực hiện bằng nhơn nghĩa. Các nhà chánh trị, quân sự thực hiện cách mạng bằng vũ khí và bạo lực. Cuộc cách mạng của các nhà tôn giáo theo con đường đại hùng, đại lực và đại từ bi. Cách mạng của các nhà chánh trị và quân sự theo con đường: đại hùng, đại lực và đại ác. Hai bước đầu giống nhau chỉ khác ở bước thứ ba. (i)
Ông Huỳnh Ngọc Chênh trong năm 2013 có đăng trên blog một bài tìm hiểu về Sĩ Đạt Ta và Hồ Chí Minh. Khi so sánh hai nhân vật nầy với nhau ông có e ngại rằng mình sẽ bị ném đá (may mắn là ông không bị  ném đá).... Nhưng điều đó cho thấy giữa đạo và đời còn rất nhiều khoản cách nên các trí thức trong xã hội còn e dè như thế cũng là thường.
Con đường đại từ bi gần như vô hình vô ảnh mà đa số khách trần chỉ thấy con đường đại ác. Những vị không hài lòng với cách mạng bằng đại ác cũng có nhiều người chủ tâm quan sát tìm hiểu cách mạng tôn giáo nhưng không làm rõ được bước đại từ bi.
Trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử ông phân tích rằng có 02 cách trị an thiên hạ: Trị bằng vô vi và trị bằng hữu vi. Ông cũng nói rõ vô vi thì khó làm, hữu vi thì dễ làm.
Theo chúng tôi hiểu con đường vô vi chính là con đường cách mạng của các nhà tôn giáo. Con đường hữu vi chính là con đường của các nhà chính trị, quân sự. Nhân loại chuộng cái dễ nên nhân loại phải trả giá. Cái giá đó là cần thiết cho sự tấn hóa. Ngày nay sự trả giá sắp đủ (đến hồi kết) nên Đại Từ Phụ đến chỉ dẫn cho nhân loại thực hiện cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa được viên mãn.
Cái thành tựu của nhơn nghĩa thì dường như là chổ mà thiên hạ thấy là khiếm khuyết. Đạo Đức Kinh chương 45 viết:
Đại thành nhược khuyết, (Thành tựu mỹ mãn dường như dở dang,)
Kỳ dụng bất tệ. (Thì chổ dùng của nó không hư được)
Đại doanh nhược xung, (Đầy tràn mà dường như trống không)
Kỳ dụng bất cùng. (Thì chổ dùng của nó vô cùng,)
Đại trực nhược khuất, (Rất ngay thẳng dường như cong queo,)
Đại xảo nhược chuyết, (Rất khéo léo dường như vụng về,)
Đại biện nhược nột....( Rất hùng biện dường như ấp úng...)
 (Trang 221 &222. Bản in năm 1992 nhà xuất bản Văn Học. Ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú)
Không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu Phương Tây tôn vinh Đạo Đức Kinh là túi khôn của loài người. Chúng tôi xin trích lại đoạn trên để quí trí thức đạo tâm quan sát xem cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA có phải là như vậy hay chăng?
Khi người da đen ở Châu Phi còn bị kỳ thị họ bị miệt thị bằng mấy chữ LỤC ĐỊA ĐEN. Họ đã nhặc lại mấy chữ bị ném để vươn lên. Kết quả là ngày nay mấy chữ Lục Địa Đen đã được nhân loại kính trọng.
Các vị cách mạng tiền bối chống ách thực dân lúc đầu phản đối chữ quốc ngữ (vì nhận ra ý đồ không tốt của thực dân Pháp). Nhưng sau đó các vị thấy chữ quốc ngữ là một công cụ lợi hại để nâng cao dân trí nên ra sức truyền bá chữ quốc ngữ và Pháp phải sợ trở lại. Chính cách suy nghĩ của các cụ đã làm cho nổi sợ đổi chổ.
Buổi sơ khai Pháp nhận định: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia để diệt Đạo. Ngày nay đạo đã đủ mạnh để hậu tấn nhận ra bài học lập ra một quốc gia nhơn nghĩa của Hội Thánh rồi đem ra trình chánh. 
Tóm lại: Công thức cách mạng bằng nhơn nghĩa là do Thượng Đế chỉ dạy. Hội Thánh Cao Đài tiếp nhận công thức và truyền bá cho nhơn sanh hiểu. Công cuộc cách mạng thực hiện đã xong. Phần nhân loại đón nhận và chấp nhận nó như thế nào là do nhân loại tự quyết.
Đó là con đường đại hùng, đại lực và đại từ bi.
@@@

CHÚ THÍCH (i)/- Đức Hộ Pháp bị đày đi Madagascar.
Đức Hộ Pháp nhiều lần cho biết rằng năm 1941 một số người cho biết rằng thực dân Pháp định bắt Đức Hộ Pháp và thỉnh cầu Ngài lánh mặt nhưng Đức Hộ Pháp từ chối.... và Pháp đã bắt Ngài đày sang Madagascar (Phi Châu). Chúng ta tin Đức Hộ Pháp nói thật nhưng những người không tin sẽ chất vấn có gì khác nữa không?
Xin thưa thư ngày 02-02-1955 của nhà báo Nam Đình (Nguyễn Thế Phương) có đoạn: .... Kịp đến lúc thực dân tấn công Đạo triệt để, Tôi đã không ngại về Tòa Thánh nhiều đêm để cùng Ngài dự bị đối phó việc “vây Tòa Thánh” và “khám xét giấy tờ” (1936).
Việc phải đến đã đến.
Vài hôm sau, Ngài xuống Thánh Thất Chợ Lớn. Chính tôi đã khẩn khoản với Ngài suốt 02 đêm trường, để yêu cầu Ngài lánh mặt đừng để bị bắt, bị đày. Ngài cương quyết với khẩu hiệu “tử vì đạo” nên không đi, (riêng một ông Giáo Sư Thái…và Tôi trốn ở lại nên không bị đưa đi dưới chiếc Lamette Picquet).
Thưa Ngài,
Trở về Tòa Thánh, Tôi lên yết kiến Ngài nhiều lần: trong một bửa tiệc chay Ngài cầm ly nâng lên cao để nói với Tôi mấy lời rất cảm động…
Kịp đến khi Thống Đốc không cho Ngài tiếp tục cất Thánh Điện...
Chúng tôi xin phân tích theo xã hội học một vài điểm trong việc chấp nhận tù đày của nhà cách mạng ÁI DÂN (Phạm Công Tắc).
a/- Cơ thử thách cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA.
Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên năm 1934, ngay trong ngày đưa liên đài nhập bữu tháp Hội Thánh đã công cử Đức Hộ Pháp nắm luôn quyền Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.
Đức Hộ Pháp đã cầm quyền Chí Tôn tại thế nên là giáo chủ Đạo Cao Đài. Liền đó Ngài ký hàng loạt luật lịnh để làm rõ quyền của nhơn sanh, rõ hơn nữa về cơ chế 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Năm 1931, 1932 đã có mở Hội Nhơn Sanh nhưng chưa ban hành luật đầy đủ. Đức Hộ Pháp ban hành liên tiếp 03 bộ luật: Luật Lệ Chung Các Hội, Nội Luật Hội Nhơn Sanh, Nội Luật Hội Thánh. Song song đó hằng loạt công việc khác được tiến hành. Khó khăn nhất là đối phó với các chi phái phản đạo.... tất cả đều thành công.
Năm 1936 cuộc tái khởi công xây dựng Đền Thánh bắt đầu, với số tiền ban đầu là 01$46 (tương đương 100kg gạo). Đến năm 1941 là đã tiến hành được 05 năm. Đền Thánh đã tạm xong phần cơ bản.
Năm 1937 mở 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Năm 1938 những nguyện ước 03 của vạn linh được đưa vào Đạo Luật Mậu Dần (1938). Đạo luật đã thể hiện Bảo Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng của Đạo qua các chương trình: trường học, nhà thương, nhà dưỡng lão ấu, mưu sinh... rất chi tiết và rõ ràng.
Một cuộc cách mạng để lập quốc gia trong quốc gia rất âm thầm nhưng có thật đã diễn ra trong đất nước nô lệ đúng như Sấm Trạng Trình viết: Thầy Tăng mở nước ai thời có hay.
Đạo Cao Đài đã thực thi 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân dức, dân trí và dân sinh.
Người dân đã hưởng được mùi vị của cuộc cách mạng nhơn nghĩa.
Nếu cuộc cách mạng đó chưa đủ mạnh thì người đạo sẽ chẳng tha thiết đến việc phải tìm cách đưa Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh.
Sự thật đã trả lời rằng cuộc cách mạng nhơn nghĩa đã thành máu thịt trong lòng cư dân thánh địa. Nên họ nung nấu ý chí tranh đấu để đưa Đức Hộ Pháp trở về... họ đang khổ sở nhưng vẫn muốn đền ơn người đã làm cho cuộc sống họ có ý nghĩa hơn và muốn thoát ra khổ cảnh. Họ muốn cuộc cách mạng nhơn nghĩa có người lãnh đạo để đưa họ đi xa hơn nữa, cuộc sống của họ tươi sáng hơn nữa...
Người Nhật đã nhìn ra thùng thuốc súng khổng lồ đó nên họ tìm cách châm lửa vào đó. Họ tìm đến Ngài Cao Tiếp Đạo, Ngài Trần Quang Vinh... và các vị nầy đã dẫn lửa vào khối thuốc súng khổng lồ có tên: Lòng Yêu Ái Đức Hộ Pháp.
Khối thuốc súng đó bùng lên long trời lỡ đất thổi bay thực dân Pháp ngày 09-03-1945. Sau đó Pháp trở lại Đông Dương và đến năm 1946 họ phải đưa Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh.
 Đó là ý nghĩa xã hội học về mức độ thành công của cuộc cách mạng nhơn nghĩa từ năm 1926 đến 1941. Ngày trở về của Đức Hộ Pháp năm 1946 đã chứng minh như vậy.
b/- Sự khác biệt trong cách mạng ôn hòa và cách mạng vũ lực.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lăng nước ta thì đã có những phong trào Cần Vương nổi lên chống Pháp từ Nam chí Bắc. Số lính trong quân đội Pháp thì ít nhưng vũ khí tối tân nên những cuộc chống Pháp đều thất bại. Lòng yêu nước, ý chí hy sinh đã thất bại trước vũ khí tối tân và sự tàn bạo. Những người yêu nước biết đến sức mạnh của khoa học kỷ thuật nên song song đó họ nghiên cứu cách cải tiến vũ khí... (Cụ Phan đình Phùng và Cụ Cao Thắng là bằng cớ).
Những người yêu nước cũng nghĩ ra một đường hướng đấu tranh khác nữa là cách mạng bằng phương pháp ôn hòa. Các cụ chủ trương nâng cao dân trí bằng cách truyền bá khoa học kỷ thuật song song với tinh thần yêu nước làm cho dân chúng có cuộc sống khá giả hơn, mạnh hơn rồi trên cơ sở đó buộc Pháp phải trả độc lập lại cho dân tộc. Điển hình cho đường lối ôn hòa là cụ Phan Chu Trinh. Các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục...ra đời đều nhằm mở mang kiến thức người tham gia cách mạng...nâng cao dân trí...
Về ý thức: Cuộc cách mạng chống Pháp lúc đầu là Cần Vương sau đó xuất hiện thêm một khuynh hướng mới chủ trương xây dựng xã hội theo mô hình dân chủ không có vua của Pháp. (Văn Thân).
Về phương pháp: Bước đầu là phương pháp vũ lực dùng súng ống, gươm giáo... làm phương tiện. Sau đó thêm phương pháp cách mạng ôn hòa dùng hiểu biết, dùng báo chí, truyền đơn nâng cao dân trí, cổ vũ công bằng, bình quyền...song song với cách mạng vũ lực.
Cả hai phương pháp cách mạng ôn hòa hay vũ lực cũng đều do những người yêu nước tiến hành và có mục đích vì độc lập dân tộc. Phân tích sâu vào sở hành ta thấy 02 phương pháp khác nhau mấy điểm:
./- Cách mạng ôn hòa tiết kiệm xương máu, sinh mạng người công nghĩa (và đối phương) hơn cách mạng vũ lực. Cách mạng ôn hòa chống cái ác, chống việc làm ác nhưng KHÔNG chủ trương phải giết chết người làm điều ác. Đây là điều khác nhau rất hệ trọng.
./- Phương tiện của cách mạng ôn hòa là chất xám thể hiện qua văn bút hay đối thoại trực tiếp với thực dân Pháp. Phương tiện của cách mạng vũ lực là súng ống gươm giáo và không thể đối thoại (mới hồ nghi hay giáp mặt nhau đã bắn giết...)
./- Người lãnh đạo cuộc cách mạng ôn hòa đối diện trực tiếp với thực dân Pháp để đối thoại. Họ đi đầu trong các cuộc đấu tranh với Pháp, xung phong đi trước quần chúng. Còn cách mạng bằng vũ lực thì không thể giáp mặt với thực dân Pháp. Người lãnh đạo cách mạng vũ lực thì đi sau và thường là ở hậu phương. Nếu có ra mặt trận họ vẫn đi sau chiến sĩ và khi rút lui họ rút lui trước.
Một thực tế hiện nay (2014).
Những nhà tôn giáo, những trí thức, những bloger hay những trang web có lòng với tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và độc lập của tổ quốc trước hiểm họa giặc Tàu... nên chỉ ra những khiếm khuyết, tệ hại của độc tài, cai trị xã hội bằng bạo lực, hèn với giặc ác với dân... và phản bội dân tộc của cộng sản. Những người dùng chất xám thể hiện qua văn bút hay xuống đường...đều có địa chỉ rõ ràng... chính quyền có thể bắt họ bất cứ lúc nào... và một số đã bị bắt... là những bằng chứng điển hình cho phương pháp cách mạng ôn hòa...
Qua đó chúng ta thấy cùng là cách mạng nhưng phương pháp khác nhau nên hành động cũng khác nhau. Xin nói rõ là chúng tôi phân tích sự khác nhau mà ai có lưu ý cũng nhận ra chớ không có ý khen chê trong đó. Bởi vì thời cuộc lúc đó là như thế chúng tôi không có ý xúc phạm tiền nhân. Cũng như ngày nay cày máy thì khác với cày bằng gia súc, song không có chê việc cày bằng gia súc thời đó. (((Đôi khi chúng tôi viết vài chi tiết rõ ra cũng vì muốn được hiểu đúng ý; không muốn bị chụp mũ thế nầy thế nọ trong một bầu khí thường xãy ra chụp mũ và hậu quả là làm suy yếu những người có tâm huyết xây dựng xã hội thời hậu cộng sản))).
c/- Sự tráo trở của Bản Án Cao Đài năm 1978.
Ngày 19-11-1926,  ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo.
Xét về xã hội học đó là ngày công khai hóa cuộc cách mạng nhơn nghĩa trước xã hội. Các vị tiền bối đã vận dụng khéo léo mọi khả năng có được để tiến hành mà không phải xin phép thực dân Pháp. Kết quả 05 chương trình và 03 phương diện đã tạo nên quốc gia Cao Đài ngay trong thời Pháp thuộc. Chính quyền Pháp nhận định: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia là họ đã nhìn sâu vào nội dung và nguồn máy hành chánh của đạo. Vậy tại sao họ không tiêu diệt ngay? Bởi phương pháp cách mạng của đạo là ôn hòa và người lãnh đạo có đầy đủ ý thức nên tạo nhiều mối quan hệ ngoài tầm của thực dân Pháp nên họ phải e dè.
Năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng chọn cách mạng bằng vũ lực nên không thể đối diện trực tiếp với chính quyền thực dân Pháp như người đạo (do nơi tính chất hai phương pháp ôn hòa và vũ lực khác nhau). Nước mặn có sở dụng của nước mặn, nước ngọt có công dụng của nước ngọt. Cách mạng ôn hòa khác với cách mạng vũ lực. Người cộng sản là tay bài tráo thượng thặng nên đã đánh tráo hai phương pháp cách mạng. Cộng sản đem cách làm cách mạng vũ lực áp đặc lên cách mạng ôn hòa cho nên Bản án Cao Đài 1978 viết:
c.1/- Sự ra đời của giáo phái Cao Đài có một quá trình chuẩn bị và đạo diễn của bọn thực dân Pháp, mà trực tiếp chỉ đạo là những tên tình báo Pháp Bomet, Latapie, thống đốc Nam kỳ LeFol.

Khoản c.1 đã có nhiều văn bút bác bỏ (trong đó có GS Nguyễn Văn Trung viết ở Lục Châu Học chương 05 trang 258:
Về nguồn gốc: Tài liệu cho thấy Cao Đài không phải do Pháp tạo ra hay xúi giục, chỉ đạo chủ động như một dư luận giải thích quen thuộc dựa vào sự kiện nhiều người lập ra Cao Đài là viên chức Pháp, thậm chí viên chức phòng nhì rồi suy diễn là Pháp chủ động.
@@@
c.2/- Trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, mọi người dân Việt Nam đều không có một chút quyền tự do dân chủ. Thế nhưng, tập đoàn cầm đầu tôn giáo Cao Đài nói chung và giáo phái Cao Đài Tây Ninh nói riêng được công khai thành lập và hoạt động, được nhà cầm quyền Pháp đương thời công nhận. Điều đó nói lên rõ ràng rằng tập đoàn cầm đầu Cao Đài chỉ là những người thực sự làm tay sai đứng ra thực hiện một âm mưu có lợi cho thực dân Pháp.

Khoản c.2 như ở nhận định chung chữ b thì cách mạng ôn hòa là đối diện trực tiếp với chính quyền thực dân Pháp, vận dụng luật pháp, thông tin... nghĩa là dùng chất xám để tiến hành... các vị tiền bối của đạo đã thành công (BÁO CHO BIẾT- KHÔNG PHẢI XIN PHÉP & chánh quyền Pháp buộc phải công nhận) thì cộng sản tức bực nên viết: được công khai thành lập và hoạt động, được nhà cầm quyền Pháp đương thời công nhận và cho rằng phản quốc... nghĩa là họ thiếu hiểu hoặc cố ý chụp mủ. Cả hai trường hợp đều bất chánh.
@@@
c.3./- Trong quá trình lâu dài làm tay sai cho các đế quốc, những người lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh đã dựa vào thế lực đế quốc chiếm đất, nhận hiến của tín đồ bao chiếm khai hoang ở tỉnh Tây Ninh và trong 28 tỉnh cũ là hàng ngàn Ha. Riêng ở Tây Ninh Hội Thánh đã chiếm làm chủ gần 3 ngàn ha, họ đã lập sở ruộng, sở cao su, vườn cây ăn trái và xây cất dinh thự nhà cửa cho tôn giáo. Ngoài ra, những người lãnh đạo giáo phái này còn lập ra một số xí nghiệp cơ khí tiểu công nghệ và thủ công nghiệp để kinh doanh bóc lột nhân công của người công quả hoặc hiến thân. Đại bộ phận các cơ sở này đều nằm trong huyện Phú Khương Tây Ninh.
(Xem Biên bản Hội nghị Nhân Sinh năm 1974).

Khoản c.3  đó là bằng chứng cho thấy từ vùng đất hoang, dân chúng chạy về Thánh Địa với hai bàn tay trắng mà trong thời gian ngắn đã có cuộc sống vật chất sung túc và cuộc sống tinh thần phong phú. Đặc biệt là xây dựng cuộc sống vật chất sung túc trong tinh thần đạo đức.  
@@@
c.4./- Vì có tham vọng chánh trị, tham vọng cầm quyền, nên những người cầm đầu tổ chức Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và hệ thống của nó là Bộ máy nhà nước và hệ thống Hành chánh của nhà nước trá hình, để khi nắm được chánh quyền thì biến nó trở thành hệ thống nhà nước. Thể hiện ý đồ này khá trung thực trong ý kiến của Lại Viện về vấn đề phân bố tín đồ các địa phương, mẫu Sớ Cầu Đạo giống như thẻ căn cước

Khoản c.4. Cộng sản căm thù đạo Cao Đài nhưng qua đó cho thấy bộ máy hành chánh tôn giáo thể hiện quốc đạo. Nghĩa là Đạo được tổ chức chặc chẽ như một quốc gia. Có luật pháp, có bộ máy kinh thương, có giáo huấn, có khoa học kỷ thuật, có đường lối, có lý tưởng và có bộ máy nhân sự hữu hiệu để thực thi cuộc cách mạng nhơn nghĩa. Những giá trị mà kẻ thù ghét đạo phải công nhận đó là sự thành công của đạo.
@@@
c.5./-Vì vậy, tài sản, dinh thự, các cơ sở kinh doanh của Hội Thánh không phải là của riêng ai, mà là tài sản của đế quốc đã rút chạy để lại, là của nhân dân lao động đóng góp. Nhân dân lao động cần phải quản lý sử dụng đẩy mạnh sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải tước đoạt những phần tài sản của chức sắc do tham ô, ăn cắp, và dựa thế lực đế quốc tạo ra.

Khoản c.5. Tịch thâu tài sản là đặc trưng của người cộng sản.
Nói gì thì cũng đi tới kết luận là tịch thâu tải sản tôn giáo hay cá nhân. Tịch thâu tài sản là chánh sách căn bản của Đảng.
Đảng viết: Nhân dân lao động cần phải quản lý sử dụng đẩy mạnh sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguyên tắc của Đảng là nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và Đảng lãnh đạo. Cán bộ năm 1978 chỉ có cái khăn rằng quấn cổ, thấy khối tài sản của Đạo lớn quá, nên bản án viết nhân dân quản lý.  Nhân dân đâu không thấy mà chỉ thấy tải sản tịch thâu chạy vào túi cán bộ. Nó mang lợi ích cho các Đảng viên nên họ rất hăng hái kết án. Mỗi lần kết án là mỗi lần Đảng viên giàu lên. Từ kết án, đánh tư sản, đổi tiền... đều nằm trong chủ trương lớn là bần cùng hóa người dân (hay tổ chức ngoài đảng) có bần cùng hóa thì mới dễ làm cho dân ngu. Ngu dân và bần cùng hóa là hai đầu của một sợi dây độc tài xiếc họng cả dân tộc.  
@@@
Đạo Đức Kinh trang 104 bản in năm 1992 của nhà xuất bản Văn Học viết:  Văn Trung Tử cũng có nói:
Cường quốc chiến binh,( Cường quốc thì dùng binh khí mà tranh;)
Bá quốc chiến trí, (Bá quốc thì dùng đến trí thuật mà tranh;)
Vương quốc chiến nghĩa, (Vương quốc dùng nhơn nghĩa mà tranh)
Đế quốc chiến đức,( Đế quốc thì dùng ân đức mà tranh)
Hoàng quốc chiến vô vi...( Hoàng quốc thì dùng vô vi mà tranh)
...bậc Thánh nhơn trị nước thì “làm mà không nói”, khi công việc thành rồi thì lánh mặt ra đi...
Đạo Đức Kinh mà sai thì Tây Phương đã chẳng thốt lên rằng:
Nó là túi khôn của loài người...

No comments:

Post a Comment