Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday 1 April 2014

TIN QUỐC TẾ

 

Trung Quốc bất ổn kinh tế: trục Bắc Kinh-Hà Nội sẽ ra sao?

CỠ CHỮ
10 ngành công nghiệp sắp vỡ nợ!

Tết nguyên đán 2014 mới trôi qua được một tháng, những tin tức về một đợt suy thoái kinh tế ở Trung Quốc bất chợt dồn dập. Từ sâu thẳm của những tháng năm chật chợi, những nguồn tin bắt đầu lộ diện. Nhưng rõ ràng nhất là việc hãng nghiên cứu có uy tín Business Wisdom đưa ra dự báo sắp có làn sóng vỡ nợ ở 10 ngành công nghiệp Trung Quốc, bao gồm: (1) đóng tàu; (2) sắt thép; (3) đèn LED; (4) nội thất; (5) bất động sản; (6) vận tải biển; (7) tín chấp và các định chế tài chính; (8) quản lý tài chính; (9) vốn tư nhân và (10) mua theo nhóm.

Dự báo của Business Wisdom có lẽ chỉ mới xuất hiện hầu như lần đầu tiên nhưng lại mang tính chi tiết nhất, trong khi trước đó ngay cả những tổ chức xếp hạng tín nhiệm nổi bật của phương Tây như S&P, Fitch Ratings, Credit Suisse, Moody’s cũng ngần ngại khi phải xoáy tia mắt vào chốn thâm cung bí sử trong lòng Nội Hán.

Cách nào đó, dự báo của Business Wisdom lại có nét tương đồng với một dự báo khác - thuộc về một hãng nghiên cứu có tiếng của Anh quốc vào năm 2013 - phác ra 3 kịch bản về sự tồn vong của chế độ chính trị đương thời ở Trung quốc. Trong đó kịch bản về tuổi thọ lâu nhất kéo dài được 10 năm. Hai kịch bản kia thiên về tương lai đoản thọ hơn - chỉ khoảng từ 5-7 năm nữa.

“Việt Nam tận dụng gì từ cơ hội Trung Quốc suy thoái kinh tế?” - một số tờ báo “lề phải” ở Việt Nam cũng không che giấu sự phấn chấn khi thẳng thừng rút tít như vậy. Nhưng hàm ý cần ngầm hiểu còn lớn hơn thế: bất chấp tia cấm cản và soi mói truyền thống cùng tính mặc định “mười sáu chữ vàng” được phát từ trong cái chăn dán nhãn “Ban Tuyên giáo trung ương”, những tờ báo này vẫn như khá hả hê trước một viễn tượng sụp đổ của quốc gia láng giềng phương Bắc.

Quả thực, Việt Nam đã phải chịu đè nén quá lâu, quá bức bối và cả quá nhục nhã từ người bạn có tên “Bốn Tốt”.

Nợ đến 265% GDP?

Sự chao đảo của nền kinh tế Trung Quốc trong thời gian gần đây cũng phác ra một viễn cảnh không mấy xa xôi: nồng độ can thiệp của Bắc Kinh đối với Hà Nội sẽ khó mà giữ nguyên trong những lời hứa hẹn về “làm mọi cách để bảo vệ nền chuyên chính vô sản”. Ngược lại, đó là một cơ hội để biểu tả cho trường phái “Thoát Trung luận” đang ngày càng mở rộng và ăn sâu trong dân chúng Việt Nam.

Tất nhiên Trung Quốc không thể đảo ngược định đề kinh tế - chinh trị luôn song hành và quyết định lẫn nhau. Hơn cả thế, quy luật này ứng biến thiết thực với những chế độ còn cố trì nại thể chế độc đảng và luôn tìm cách che giấu sự thật về thực trạng kinh tế. Đơn giản là sự thật càng bị giấu kín càng dễ bùng nổ.

Vốn đã giấu nhẹm những con số thực về tình trạng nợ công và nợ của chính quyền địa phương, nhưng từ năm 2011 Trung Quốc đã bị giới quan sát quốc tế chiếu rọi vào quá nhiều bất cập trong hệ thống ngân hàng và tài chính. Nếu Fitch Ratings đã nêu con số nợ của chính quyền địa phương lên đến 2.250 tỷ USD thay cho con số báo cáo của Ngân hàng trung ương Trung Quốc chỉ vào khoảng 1.500 tỷ USD vào năm 2011, thì đến cuối năm 2013, lần đầu tiên giai tầng “thái tử đỏ” ở Bắc Kinh phải thừa nhận mức nợ này đã lên đến 3.000 tỷ USD, tức gấp đôi so với con số mà họ công bố trước đó vài năm.

Nợ công lại càng biến thành một vấn nạn không thể chối từ. Không khác mấy Việt Nam, con số báo cáo của Trung Quốc cho thấy loại nợ này chỉ chiếm khoảng 45% GDP.

Nhưng theo cách tính toán khách quan và thành thực hơn rất nhiều của các hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tỷ lệ nợ công quốc gia thực tế của Trung Quốc phải lên đến 150% GDP. Thậm chí, một phân tích của Business Wisdom còn cho rằng Bắc Kinh chịu trách nhiệm đối với khoản nợ tương đương 265% GDP, vượt hơn nhiều so với tỷ lệ nợ công quốc gia 200% GDP của Nhật Bản khi đất nước này lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu từ năm 1997, để sau đó phải chấp nhận một “thập kỷ mất mát” không thể khác hơn.

“Đầu tư nhiều nhất trong một thời gian ngắn nhất” là những gì mà đám đông bầy đàn tài phiệt ở Trung Quốc đã biến đất nước này thành con nợ của chính nó. Từ khi Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ bị phá sản năm 2008, tín dụng cá nhân của Trung Quốc tăng đã từ 9.000 tỷ USD lên 23.000 tỷ USD, tương đương toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại của Hoa Kỳ chỉ trong 5 năm. Tỷ lệ tín dụng trên GDP cũng đã tăng từ 75% lên 200%, so với Hoa Kỳ chỉ 40% vào 5 năm trước khi vỡ bong bóng thế chấp, hoặc ở Nhật Bản trước khi Nikkei tan vỡ vào năm 1990. Một vấn đề đáng quan ngại là cả nợ tư nhân và cung tiền đều tăng quá nhanh ở Trung Quốc. Theo Forbes, lượng cung tiền M2 nước này tăng 13,6% trong năm ngoái, tăng tới 1.000% so với năm 1999.

Từ năm 2009, Lou Jiwei, Chủ tịch Quỹ đầu tư toàn quyền Trung Quốc đã ngụ ý: “Cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đang xử lý các bong bóng bằng cách tạo ra thêm nhiều bong bóng”.

Quả vậy, chỉ trong vòng 12 tháng từ tháng 9/2009, tài sản các ngân hàng Trung Quốc đã tăng thêm 3.600 tỷ USD, thêm vào 140% GDP bình quân, hay 12.500 tỷ USD vào sổ sách. Để so sánh, trong cùng kỳ các ngân hàng Hoa Kỳ thêm chưa tới 700 tỷ USD, 4,4% GDP bình quân, thấp hơn 18 lần so với các ngân hàng Trung Quốc. Sự gia tăng tài sản ngân hàng của Trung Quốc trong 4 năm qua tương đương 7/8 tổng số tài sản tồn đọng của tất cả tổ chức bảo hiểm của FDIC (Công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang Hoa Kỳ), tương đương 30% tổng tài sản ngân hàng khu vực đồng EUR.

Người ta có thể dễ dàng hình dung sự sụp đổ ở Trung Quốc sẽ ồn ã như thế nào một khi quả bong bóng tài chính bị vỡ. Năm 2013, tờ International Business Times lưu ý rằng ngành công nghiệp thép nặng nợ của Trung Quốc đang trên bờ vực phá sản. Vào cuối năm đó, một công ty than lớn của Trung Quốc là Tập đoàn Liansheng Resources đã phải tuyên bố phá sản với 5 tỷ USD nợ…

Hà Nội đơn độc?

Giờ đây, thế giới đang nhận ra bóng ma ngân hàng Lehman Brothers ở Mỹ vào cuối năm 2007 như đang ám ảnh thị trường tài chính Trung Quốc.

Cuộc chiến đấu “diệt cả hổ lẫn ruồi” của Tập Cận Bình vẫn đang tiếp diễn, nhưng dù thành công bằng việc lôi ra ánh sáng viên cựu bộ trưởng công an Chu Vĩnh Khang cùng gia tộc của ông ta với con số kinh ngạc đến 16 tỷ USD tài sản đen, Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc lại hầu như không khả vọng trong việc thực hiện cải cách nền kinh tế và đặc biệt là hệ thống tài chính của quốc gia này. Nguồn gốc cho tham nhũng và nạn chuyên quyền, độc quyền bởi thế vẫn còn y nguyên.

Tất cả những câu chuyện đau thương và trái khoáy giữa ý thức hệ và “thực tiễn cách mạng” như thế cũng là bản sao y ở Việt Nam. Tháng 5/2013, cuộc gặp của người đứng đầu nhà nước Việt Nam với Tập Cận Bình ở Trung Quốc với hình thể chào cờ quá thấp mà gây ra không ít lời đàm tiếu nguy hại về quốc thể, đã chưa mang lại kết quả đáng kể nào từ những “gói hỗ trợ” của Bắc Kinh cho Hà Nội. Thậm chí ngược lại, các thương lái Trung Hoa còn có cơ hội tung hoành hơn ở khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long khi họ tìm cách vơ vét đến cả lá điều khô, dừa khô, rễ tiêu, rễ sim, rễ hồi, lá khoai mì, lá khoai lang và cả…đỉa.

Cũng hàng chục năm qua, lớp nông dân Việt Nam nhẹ dạ luôn lao từ nỗi bấn loạn này sang cơn điêu đứng khác khi phải chặt bỏ những cây nông nghiệp chính và lâm vào cảnh bị ngân hàng siết nợ.

Ở vào thế cùng kiệt và còn bị phản bội bởi chính một số quan chức bị xem là “ăn lương của người Hán”, những di họa của nền kinh tế Việt chỉ có thể được ngăn chặn phần nào một khi chính tự thân hệ thống ngân hàng Trung Quốc “tự diễn biến”. Khi đó, những cái vòi bạch tuộc cũng bởi thế có thể co rút trong cơn bạo bệnh đa chấn thương.

Vậy sẽ ra sao đối với Việt Nam nếu nền kinh tế Trung Quốc thực sự sa chân vào cung đường suy thoái trong những năm tới? Với tư cách một đất nước duy trì sự lệ thuộc đến 80% vào các nguồn nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Trung Quốc, chắc chắn nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị “hẫng hụt” bởi tình trạng sụt giảm lợi nhuận qua con đường chính ngạch lẫn tiểu ngạch. Nhưng đối với giới chính khách mang quan điểm “thân Tàu”, có lẽ sự thất vọng còn vĩ đại hơn. Không chỉ khó có hy vọng nhận được những gói hỗ trợ về kinh tế, có thể họ còn phải tức tối nhận ra thái độ nhăng cuội của Trung Nam Hải về những gói “kích cầu chính trị” - nhân tố đặc biệt cần kíp trong trường hợp lớp chính khách Việt “lâm nạn”.

Nhưng xét cho cùng, trong cái rủi có cái may. Sự thất thiệt của giới chính trị gia hưởng lợi ích từ Trung Hoa đại lục lại mang đến chút hy vọng “thoát Trung” cho đại đa số tầng lớp dân chúng còn lòng liêm sỉ và tinh thần bám đất bám làng ở Việt Nam.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Phạm Chí Dũng

Phạm Chí Dũng là nhà báo tự do hiện đang sinh sống tại Sài Gòn

 Những thay đổi thi vào đại học Mỹ có cản trở sinh viên nước ngoài?

Các học sinh học để chuẩn bị thi SAT.
Các học sinh học để chuẩn bị thi SAT.
CỠ CHỮ
Pam Dockins
Công ty quản lý một trong hai kỳ thi tuyển sinh được các trường đại học Mỹ sử dụng rộng rãi gần đây công bố những thay đổi chính đầu tiên kể từ kỳ thi năm 2005. Những thay đổi của Hội đồng Đại học đối với kỳ thi SAT là loại bỏ những từ vựng không được sử dụng thường xuyên và những bài luận bắt buộc và thêm vào những đoạn văn tham khảo các tài liệu lịch sử của Hoa Kỳ. Thông tín viên VOA Pam Dockins xem xét việc học sinh nuớc ngoài nộp đơn vào các trường đại học ở Mỹ có thể bị ảnh hưởng như thế nào.

Khi các sinh viên này của trường Đại học Howard đến từ Nigeria và Jamaica nộp đơn vào đại học, họ nằm trong số xấp xỉ 100.000 sinh viên nước ngoài mỗi năm phải thi SAT.

Họ có những cảm xúc lẫn lộn không biết liệu những thay đổi mới được công bố có giúp gì hay làm tổn hại các sinh viên quốc tế có hứng thú với các trường của Mỹ hay không.

Sinh viên Peace Umoru nghĩ rằng họ sẽ làm cho chúng dễ hơn:

“… bởi vì, trước tiên, họ bỏ những từ vựng không dùng thường xuyên mà theo tôi là một thách thức lớn nhất cho hầu hết các sinh viên quốc tế”.

Nhưng sinh viên Shanique Campell lại quan tâm đến những câu hỏi bổ sung về tài liệu lịch sử Hoa Kỳ:

“Tôi tin là sẽ rất đáng sợ đối với các sinh viên quốc tế. Chúng tôi đã phải đối diện với việc biết là sẽ phải thi kỳ thi trên cơ sở kỳ thi của Mỹ và do đó, có rất nhiều thứ mà chúng tôi không được chuẩn bị về những điều trông đợi trong kỳ thi đó. Những tài liệu tham khảo về văn hóa mà chúng tôi không thể xác định được”.

Có khoảng 800 trong số xấp xỉ 3.000 trường đại học 4 năm ở Mỹ không thi SAT, hoặc kỳ thi cạnh tranh khác là ACT, theo Trung tâm Quốc gia về Thi cử Công bằng và Mở rộng (National Center for Fair and Open Testing).

Khi nói chuyện qua Skype, ông Bob Schaeffer của nhóm này cho biết các kỳ thi có thể gây bất lợi cho sinh viên ngoại quốc. Ông nói:

“Sinh viên từ các nước khác, đặc biệt những em không lớn lên trong môi trường học tiếng Anh, sẽ bất lợi gấp đôi. Cuộc thi là bằng ngoại ngữ và các em không được chuẩn bị cho kỳ thi. Do đó, nó sẽ càng khó hơn”.

Phiên bản thay đổi sẽ bắt đầu vào năm 2016 đối với 1,5 triệu sinh viên dự kỳ thi SAT mỗi năm. Nhìn chung, những thay đổi có vẻ tích cực, ông Eddie West của Hiệp hội Quốc gia về Tư vấn Tuyển sinh Đại học (National Association for College Admission Counseling).

“Tôi cảm thấy những thay đổi đang hướng kỳ thi theo hướng tích cực hơn trong chừng mực chúng liên kết với những kỹ năng và khả năng mà sinh viên cần để thành công, không chỉ để vào trường cao đẳng hay đại học, nhưng để thành công một khi đã vào đó”.

Nhưng ông đồng ý là những tham khảo về tài liệu lịch sử Mỹ có thể khiến sinh viên ngoại quốc gặp bất lợi. Ông nói:

“Sẽ tương đối không phổ biến đối với một sinh viên quốc tế thực sự biết “Tuyên ngôn Độc lập” hay việc làm của ông Martin Luther King hay bất cứ điều gì theo dòng lịch sử có thể được trích dẫn trong bài thi”.

Ông West cho biết các trường đại học của Mỹ cần kết nối với các trường trung học ở nước ngoài để biết hơn về giáo trình của họ và đưa ra những quyết định tốt hơn về tiêu chuẩn tuyển sinh.

Hơn 800.000 sinh viên quốc tế đang có mặt tại Mỹ, chiếm khoảng 4% số sinh viên đại học. 
 



 

NATO thảo luận về đáp ứng mạnh hơn trong vụ khủng hoảng Crimea

Bộ trưởng các nước thuộc khối NATO họp tại trụ sở ở Brussels, 1/4/14
Bộ trưởng các nước thuộc khối NATO họp tại trụ sở ở Brussels, 1/4/14
CỠ CHỮ
Bộ trưởng ngoại giao các nước NATO đang có mặt tại Brussels ngày hôm nay để thảo luận về một phản ứng mạnh mẽ hơn đối với việc Nga sát nhập vùng Crimea của Ukraina.

Đây là phiên họp cao cấp đầu tiên của NATO kể từ khi cuộc khủng hoảng Ukraina bắt đầu trong tháng qua.

Cho đến nay NATO đã gia tăng tuần tra trên bầu trời vùng Baltics và Hoa Kỳ đang có kế hoạch tập trận khẩn trương hơn với Ba Lan.

Các nhà ngoại giao nói các bộ trưởng có thể quyết định tăng cường những cuộc tập trận của NATO hay có thể thiết lập những căn cứ thường trực ở Đông Âu, gần biên giới Nga.

Nga đã rút hàng trăm binh sĩ tại vùng biên giới Ukraina ngày hôm nay nhưng hàng ngàn binh sĩ khác vẫn còn trú đóng tại đây.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã nói với Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov là lực lượng Nga đã tạo ra một “bầu không khí sợ hãi” ở Ukraina.

Trong khi đó, Ukraina  lên án chuyến đi thăm Crimea của Thủ tướng Dmitri Medvedev, gọi đây là một sự “vi phạm thô bạo” nghi thức ngoại giao.

Ông Medvedev hướng dẫn một phái đoàn các bộ trưởng trong nội các để tìm cách tăng tiến nền kinh tế đang gặp khó khăn của Crimea. Ông đề nghị tăng lương cho công chức tại Crimea và đầu tư vào hạ tầng cơ sở và giao thông.

Ông  Medvedev ngày hôm qua đi thăm một bệnh viện tại Simferopol thành phố lớn nhất của Crimea. Các phóng viên nói ông được các bác sĩ và y tá chào mừng nồng nhiệt. Ông cũng ký lưu niệm tại một trường học. 
 
 
 

Nhật dùng ODA 'cho quân đội nước ngoài'

Cập nhật: 09:28 GMT - thứ ba, 1 tháng 4, 2014
Thủ tướng Nhật có chủ trương củng cố an ninh quốc gia.
Chính phủ của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đang tìm cách sửa đổi Điều lệ ODA để mở đường cho chương trình viện trợ quân sự cho nước ngoài.
Báo Asahi vào ngày 01/04 cho hay đây là lần đầu tiên chính quyền Abe khởi động việc rà soát lại các thay đổi chính sách, mà nếu được thông qua, sẽ đánh dấu một bước ngoặt lớn trong điều lệ hoạt động của ODA.
Một khi việc sử dụng các khoản hỗ trợ ODA cho các mục đích quân sự được thông qua, Nhật Bản sẽ có thể xây dựng hoặc nâng cấp các cảng biển và sân bay có thể được sử dụng cho mục đích quân sự ở Philippines và Việt Nam, là hai nước đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Cho đến nay, sứ mệnh cho chương trình ODA mới chỉ là hỗ trợ và viện trợ cho các sự án hỗ trợ dân sự tại các nước phát triển.
Chính phủ Nhật tin rằng những thay đổi này là cần thiết để ODA "đóng một vai trò" trong việc thúc đẩy quốc phòng.
"Để thúc đẩy các giá trị phổ quát như tự do, dân chủ và nhân quyền, ODA sẽ đóng một vai trò trong các lĩnh vực liên quan an ninh," Thứ trưởng Ngoại giao Seiji Kihara được báo Asahi dẫn lời nói vào ngày 31 tháng Ba trong cuộc họp đầu tiên của nhóm chuyên gia xem xét Điều lệ ODA của Bộ Ngoại giao Nhật Bản.
""Để thúc đẩy các giá trị phổ quát như tự do, dân chủ và nhân quyền, ODA sẽ đóng một vai trò trong các lĩnh vực liên quan an ninh"
Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Seiji Kihara
Trong khi chính quyền Abe đã theo đuổi một đánh giá sâu rộng chính sách an ninh quốc gia của Nhật Bản bởi những hạn chế về xuất khẩu vũ khí thư giãn và tìm kiếm để cho phép thực hiện quyền phòng thủ tập thể hơn nữa, việc xem xét các chính sách ODA có thể rút ra một phản ứng dữ dội hơn nữa trong và ngoài nước .
Điều lệ ODA hiện thời, vốn được nội các phê duyệt vào năm 1992, quy định "cần tránh sử dụng nguồn vốn ODA cho các mục đích quân sự hoặc làm tăng xung đột quốc tế."
Điều lệ ODA của Nhật cũng không cho phép dùng quân nhân từ từ các chương trình phát triển nguồn nhân lực của họ.
Trong năm 2012, Bộ Quốc phòng Nhật bắt đầu cung cấp hỗ trợ kỹ thuật phi chiến đấu, mà không sử dụng nguồn vốn ODA, cho các bộ quốc phòng và quân đội ở một số nước ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây để phản ứng lại trước thực trạng mở rộng sự hiện diện ngoại giao và những nỗ lực của Bắc Kinh cung cấp viện trợ cho các nước đang phát triển, chính phủ Nhật Bản đã tìm cách sử dụng một phần của nguồn vốn ODA để thúc đẩy các sáng kiến an ninh.
Chiến lược An ninh Quốc gia Nhật, vốn được nội các phê duyệt vào tháng 12 năm ngoái, quy định "việc sử dụng chiến lược nguồn vốn ODA " của Nhật Bản , trong đó phải thực hiện việc "chủ động và tích cực đóng góp cho hòa bình."
Xuất khẩu vũ khí
Trong khi đó lần đầu tiên Nhật Bản có động thái nới lỏng lệnh cấm xuất khẩu vũ khí, một động thái nhiều khả năng sẽ gây quan ngại cho Trung Quốc.
Nhật thông qua bản hiến pháp hòa bình sau Thế chiến Hai theo đố cấm tham gia chiến chiến tranh trừ trường hợp tự vệ.
Trong nhiều thậm niên qua, Tokyo tuân thủ “ba nguyên tắc” không xuất khẩu vũ khi cho các nước theo chủ nghĩa cộng sản, các nước bị LHQ cấm vận mua vũ khí và các quốc gia nhiều khả năng dính vào xung đột quốc tế.
Các nguyên tắc này được chuẩn thuận vào năm 1967 nhưng sau đó Nhật đã tự cấm xuất khẩu vũ khí toàn diện.
Tuy nhiên Thủ tướng Shinzo Abe muốn củng cố an ninh quốc gia và muốn bình thường hóa một số hạn chế mà họ tự áp đặt sau Thế chiến Hai theo đó vẫn hạn chế xuất khẩu vũ khí sang các nước tham gia vào xung đột và bị LHQ cấm vận.
Xuất khẩu vũ khí sẽ được phép trong một số trường hợp có thể đóng góp cho hòa bình toàn cầu và lợi ích an ninh của Nhật Bản, theo hãng thông tấn Kyodo.
  http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/04/140401_japan_oda_changes_consideration.shtml

 
 

No comments:

Post a Comment