Một ngày 4/6/1989, Ba Lan và Trung Quốc đi hai đường khác nhau
Ngày chính phủ
Trung Quốc đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn (04/6/1989) cũng là ngày Ba
Lan tổ chức bầu cử dân chủ đầu tiên trong khối xã hội chủ nghĩa từ sau
Thế Chiến 2.
Điều này đặt ra một số câu hỏi về hai xu hướng trái
ngược nhau, cùng nảy sinh trong nội bộ các nền 'dân chủ nhân dân':
chấp nhận đa nguyên hay trấn áp?
Người ta cũng hỏi vụ thảm sát
Thiên An Môn chỉ có thể xảy ra ở Trung Quốc, vì các đặc thù lịch sử của
nước này, hay có thể xảy ra ở nơi khác?
Và
phải chăng chỉ người châu Âu mới có thể đi tới dân chủ trong hòa bình,
ổn định, như con đường của Đông Âu, còn châu Á thì phải khác?
Có nhiều vụ Thiên An Môn nhỏ
Trước hết ta cần bác bỏ thuyết rằng vụ Thiên An Môn là một đặc thù của Trung Quốc.
Sang Ba Lan mùa thu 1989, tôi chứng kiến báo chí Ba Lan khi đó rất tự hào về thành quả cuộc chuyển đổi không đổ máu ở nước họ.
Họ nhấn mạnh Ba Lan không như Trung Quốc nên không để xảy ra vụ Thiên An Môn mà truyền thông châu Âu khi ấy theo dõi rất kỹ.
Sau
Hội nghị Bàn tròn đầu năm 1989, hai phái Cộng Đoàn Đoàn Kết và Đảng
Công nhân Thống nhất Ba Lan (cộng sản) đã hợp tác để tổ chức tổng tuyển
cử bầu cử.
Nhưng báo Ba Lan cũng nhắc lại các vụ 'Thiên An Môn mini' đã xảy ra trên toàn Đông Âu từ sau Thế Chiến 2: Poznan 1956, Budapest cùng năm, Prague 1968.
Gần
hơn, tháng 12/1981, quân cảnh Ba Lan tấn công vào mỏ than Wujek, bắn
chết chín công nhân đình công và làm bị thương hàng chục người.
Trước
đó, vào tháng 12/1970 có cuộc bình định biểu tình ở vùng biển Gdansk,
Gdynia, Szczecin, Elblag, giết chết 49 người, làm hơn 1000 bị thương.
Sau Thiên An Môn, xu hướng 'đối thoại bằng nòng súng' vẫn diễn ra.
- Tại Baku, Azerbaijan vào tháng 1/1990 có cuộc đàn áp 'Tháng Giêng Đen';
- Sang đầu 1991 có cuộc tấn công của quân Liên Xô vào Đài truyền hình Vilnius, Lithuania.
- Vào những ngày cuối của Đông Đức, TBT Erich Honecker đã chọn 'phương án Thiên An Môn'cho lính dù bắn người biểu tình ở Leipzig (10/1989)nhưng lãnh đạo Đảng XHCN Thống nhất Đức ở địa phương yêu cầu quân đội rút lui vào phút chót.
- Ở Romania, lãnh tụ Nicholai Ceausescu cho bắn thật luôn, gây ra thảm sát Timosoara tháng 12/1989, làm chết ít nhất là vài trăm người dân.
Có một số cách giải thích tôi nghe được tại Ba Lan về xu hướng đàn áp
Một
là các nền chính trị Đông Âu đều hình thành sau Thế Chiến 2 dựa trên
sức mạnh quân đội Liên Xô nên Moscow phải kiểm soát, dập tắt mọi điểm
nóng.
Nếu để một đốm lửa lan ra, cả hệ thống sẽ bùng cháy, và
việc trấn áp biểu tình bằng súng đạn nếu không do quân bản xứ làm, thì
Liên Xô sẽ làm.
Đại tướng Wojciech Jaruzelski, TBT Đảng cộng sản
Ba Lan xác tín quan điểm này trong hồi ký, rằng ông phải cam kết với
Moscow là "Đảng Ba Lan sẽ tự xử lý được Công Đoàn Đoàn Kết bằng Thiết
quân luật".
Nếu không, Leonid Brezhnev cũng sẵn sàng để các binh đoàn Liên Xô đóng sẵn ở Ba Lan "đưa quân ra phố".
Một giải thích khác nói trong triết lý cầm quyền của phe XHCN luôn có khái niệm 'kẻ thù giai cấp' ngay trong nhân dân.
Nhân
dân luôn đúng, nhưng khi có các 'thành phần' của nhân dân đi theo tư
tưởng khác, thì họ thành kẻ thù, và có thể phải bị tiêu diệt.
Ngoài
ra, các hệ thống chính trị không đến từ bầu cử và theo một ý thức hệ
luôn cảm thấy ám ảnh bởi 'ất ổn' và sợ bất đồng quan điểm, dù nhỏ nhất.
Cách
giải thích này cũng phần giúp ta hiểu tư duy của Đặng Tiểu Bình, Lý
Bằng, Dương Thượng Côn khi họ đưa xe tăng vào Thiên An Môn.
Ngày
nay ta biết Liên Xô không quyết định gì ở Trung Quốc như tại Đông Âu,
nhưng chuyến thăm của Mikhail Gorbachev và yếu tố đổi mới chính trị đã
tác động đến vụ Thiên An Môn.
Có thể giới sinh viên cảm thấy
luồng gió mới đang đến để thông thoáng xã hội còn rất ngột ngạt sau
Cách mạng Văn hóa nhưng ban lãnh đạo của ông Đặng lại chưa sẵn sàng, và
coi đó là dấu hiệu tạo phản.
Đây chính là điểm cốt yếu khiến cùng một ngày 4
tháng 6 năm 1989 xảy ra vụ đàn áp Thiên An Môn ở Bắc Kinh, còn ở Ba Lan
lại có cuộc bầu cử tự do.
Khác nhau về tầm vóc lãnh đạo
Nhưng còn một yếu tố khác nữa mà tôi quan sát thấy là về con người.
Nhập
học tại Khoa Luật, ĐH Tổng hợp Warsaw, tôi được dạy bởi nhiều giáo sư
thuộc cả hai phe, gốc cộng sản và Công Đoàn Đoàn Kết.
Vì là những người cùng thiết kế ra cuộc chuyển đổi ở Ba Lan, nên họ cũng tham chính.
Có
giáo sư làm bộ trưởng, người khác làm chủ tịch Thượng viện, người nữa
làm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, mà vẫn tới giảng trong khoa nhưng
được tiêu chuẩn xe và bảo vệ của nhà nước.
Có lần vào giờ thi,
sinh viên chúng tôi xếp hàng ngoài văn phòng của thầy cùng cả hai chú
vệ sĩ từ Cục Bảo vệ Chính phủ (BOR) và họ bị nữ sinh viên trêu mà cứ
cố tỏ ra nghiêm trang, không đáp lại.
Điều thú vị là dù thuộc phe đỏ hay xanh, các chính trị gia trí thức đều rất có văn hóa, tôn trọng lẫn nhau.
Về chuyên môn, và ngoại ngữ thì tôi thực sự thán phục các giáo sư Ba Lan.
Vì lý do lịch sử 'bị láng giềng đè nén', họ đều thạo tiếng Nga, Đức, Pháp, Anh và có thể giảng bài bằng các ngôn ngữ này.
Các
nhân vật lớn của phe Công Đoàn Đoàn Kết như GS Bronislaw Geremek, nhà
hoạt động Adam Michnik, luật sư Lech Kaczynski (sau làm tổng thống),
luật sư Tadeusz Mazowiecki (thủ tướng) đều từng học và giảng dạy ở khoa
tôi, và thường quay lại nói chuyện với sinh viên.
Sau này, tôi
học một năm với GS Leszek Balcerowicz, Phó thủ tướng, lãnh tụ đảng Liên
minh Tự do, kiến trúc sư của Cải cách Liệu pháp Sốc cứu kinh tế Ba Lan
sau cách mạng dân chủ.
Nhưng bản thân ông Balcerowicz từng là
đảng viên cộng sản và thuộc khóa Fulbright đầu tiên từ Ba Lan đi Mỹ du
học thập niên 1970. Ông rất quan tâm đến ví dụ Đổi Mới nên đã đặt tôi
viết một bài về cải cách nông nghiệp sau 1986 ở Việt Nam.
Các chính trị gia Ba Lan khác cũng rất uyển chuyển, không cực đoan.
Sau bầu cử 'chia sẻ quyền lực' tháng 6/1989, lãnh tụ Công Đoàn Đoàn Kết, Lech Walesa, đã đề cử Bộ trưởng Công an Czeslaw Kiszczak ra làm thủ tướng.
Ý
của ông Walesa là hãy để ông Kiszczak, nhân vật bê-tông nhất của Đảng
cộng sản, làm lãnh đạo để chịu trách nhiệm toàn bộ, và dễ nói
chuyện.
Người ta nói hai ông Kiszczak và Walesa từng tiếp xúc 'xuyên qua chiến tuyến' nhiều lần nên có niềm tin về nhau.
Nhưng
ứng viên Kiszczak bị chính các thành viên khác của phe cộng sản bác
bỏ, và họ lại đồng ý để luật sư Công giáo Tadeusz Mazowiecki lên làm
thủ tướng không cộng sản đầu tiên ở một nước Đông Âu.
Các lãnh
đạo trẻ, cấp tiến trong 'phe đỏ' như Aleksander Kwasniewski (sau làm
tổng thống) muốn chứng tỏ với Phương Tây và Liên Xô rằng họ đổi mới thực
sự.
Đến cuộc bầu tổng thống trong QH thì có nghị sĩ của Công
Đoàn Đoàn Kết đã bỏ cho Tướng Jaruzelski, còn một số dân biểu gốc cộng
sản không bỏ cho ông.
Tóm lại, điều tôi muốn nói là các nhân vật
của cả hai bên tại Ba Lan đều rất trưởng thành, có chính kiến, có uy
tín trong nghề nghiệp, qua quá trình công tác trong các chính phủ thời
cộng sản hay phong trào bảo vệ công nhân (KOR).
Năm 1989, khi
Ba Lan có cơ hội chọn một con đường mới, họ đều rất thông thái và linh
hoạt, không hề muốn chia thế giới là hai phe đen - trắng để tiêu diệt
nhau.
Còn vào thời gian đó, các thủ lĩnh sinh viên Thiên
An Môn đều chỉ mới đến tuổi 19, 20, quá non để biết vận động quốc tế
và tạo phong trào dân sự rộng khắp.
Trong ngành nghề của mình, họ cũng còn quá trẻ để có uy tín cao, trừ một số giảng viên như Lưu Hiểu Ba.
Không
rõ kiến thức xã hội, nhận thức tình hình của họ ra sao, nhưng khá
đông sinh viên cũng đến từ các vùng quê TQ nghèo khổ, hệt như những bộ
đội bắn vào họ.
Không ai dám phủ nhận lý tưởng muốn nước Trung
Quốc của họ được tự do, dân chủ, nhưng cũng phải thừa nhận các sinh
viên này không phải là đối thủ của những chính trị lão luyện, đã kinh
qua cuộc chiến Kháng Nhật, Nội chiến Quốc-Cộng và Cách mạng Văn Hóa
tàn khốc.
Cuộc đấu tranh của sinh viên xem ra chỉ để tạo chút ít
sức ép vào nội bộ Đảng Cộng sản và sau khi Triệu Tử Dương bị hạ bệ
thì hết giải pháp.
Ngày nay nhìn lại
Ba mươi năm là thời gian đủ dài để đánh giá rõ các sự kiện nhưng quá ngắn để nhìn ra các trào lưu.
Cuộc
chuyển đổi 1989 tại Ba Lan đã thành công, thành công rất tốt đẹp là
khác, và thành mô hình lạc quan cho nhiều quốc gia khác đi theo.
Nhưng
hôm nay, một số 'ân oán' xưa trong phe Công Đoàn Đoàn Kết cũ trỗi
dậy, tạo hình ảnh không đẹp cho Ba Lan sau cuộc đổi đời ngoạn mục.
Lãnh
tụ đảng PiS, nhân vật thế lực nhất Ba Lan hiện nay là ông Jaroslaw
Kaczynski, cũng một cựu sinh viên Khoa Luật ĐHTH Warsaw.
Là anh
em song sinh của cố Tổng thống Lech Kaczynski, và cựu cố vấn cao cấp cho
Tổng thống Lech Walesa, ông đang hâm nóng lại các thù hằn chia rẽ theo
nhãn quan Công giáo nông dân và chủ nghĩa dân tộc Ba Lan hẹp hòi.
Ai chống lại đảng của ông đều là 'kẻ thù dân tộc', một khái niệm nghe quen quen.
Ba Lan bị tụt hạng về tự do báo chí.
Còn Trung Quốc đã chuyển mình vượt bậc sau Thiên An Môn, và ngày nay đang trở thành đại cường thách thức Hoa Kỳ.
Không
chỉ thế, chính phủ Trung Quốc hiện còn cổ vũ cho mô hình dùng công
nghệ thông tin để kiểm soát toàn dân theo 'tín chỉ xã hội'.
Lập
luận "phải ra tay ở Thiên An Môn vì ổn định cho hơn một tỷ dân" rất
có thể được Tướng Ngụy Phượng Hòa nói ra công khai vì nhu cầu chính trị
hiện thời.
Để ổn định, không tan vỡ quốc gia 1,4 tỷ dân thì cần mạnh tay ở Tân Cương, và phải thu về Đài Loan, họ tin như vậy.
Nhưng
ban lãnh đạo Trung Quốc hiện giờ vẫn không thoát được bóng đen ám ảnh
của cuộc tàn sát mà họ đã làm với chính con em mình năm ấy.
Sự
xấu hổ đó tạo nỗ lực cố xóa đi ký ức Thiên An Môn, điều chứng tỏ họ
không dũng cảm trước quá khứ bằng người Ba Lan, dù Trung Hoa to hơn bội
phần.
Đây có thể là một vấn đề lớn của Trung Quốc về lâu dài.
Tác giả từng du học và làm nghiên cứu ở Ba Lan từ cuối 1989 đến 1999.
No comments:
Post a Comment