Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Saturday, 8 June 2019

SƠN TRUNG * VĂN MINH RAU MUỐNG





VĂN MINH RAU MUỐNG
SƠN TRUNG


Cũng như các lãnh đạo đảng, Lê Duẩn không biết học hành đến đâu nhưng tài liệu đảng nói rằng ông học hết tiểu học, học trung học một năm rồi bỏ. Đảng nói học hết Tiểu học có nghĩa là  cao lắm chỉ đến lớp ba trường làng như bác Ba! Vũ Thư Hiên bảo rằng ông ta "Vốn là một tên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tầu quốc gia chạy theo ý mình muốn." (DGBN, 273) . Ấy thế mà ông mơ làm triết gia thế giới hoăc it nữa là triết gia vùng như Vũ Thư Hiên đã giới thiệu.
Đó là cái kiêu ngạo cộng sản nó mọc rễ trong tim oc hầu hết đảng viên cộng sản, dù là đảng viên cắc kế! Cái kiêu ngạo đó lại được bọn tôi tớ trí thức nịnh hót tâng bốc làm cho họ bay bổng. Vũ Thư Hiên nhận định :


"Ðể chủ soái vui lòng, các lý thuyết gia nội hóa múa bút tạo nên hệ lý thuyết riêng của Lê Duẩn, gồm mấy điểm chủ chốt: một là xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần làm chủ tập thể, hai là tinh thần cách mạng tiến công – tiến công không ngừng, tiến công liên tục, lấn tới từng bước, đánh đổ từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc dựa trên sức mạnh kết hợp của ba dòng thác cách mạng. Với tư cách lý thuyết gia hàng đầu của cách mạng Việt Nam, thái thượng hoàng hụt cũng ra công giúp rập Lê Duẩn trong mưu toan trở thành một trong những nhà kinh điển mác-xít cấp châu lục trong giai đoạn mới, để chứng minh Lê Duẩn không phải mao-ít. Trường Chinh tự lột xác hay bị lép vế, là điều đến nay còn là bí mật ( Đêm Giữa Ban Ngày,Ch.XVIII).
Mộng làm triết gia của ông bị Trần Đức Thảo dội cho một thùng nước lạnh. Trần Đĩnh kể rằng Lê Duẩn mời Trần Đức Thảo đến để được nghe ca tụng, cho nên sau khi “trình bày về đề cương về vấn đề con người” riêng cho triết gia Trần Đức Thảo nghe và khi xin Gíao sư Thảo có ý kiến… thì:
“Ngơ ngác một lát, Thảo nói: – Tôi không hiểu gì cả.”
Thế là, Lê Duẩn vòng ra sau GS Thảo, vòng tay ôm GS Thảo nhấc lên, giộng xuống đất mấy cái cho hả giận… rồi bỏ vào trong nhà. Sau đó, GS Trần Đức Thảo kể lại với Trần Đĩnh: "Duẩn chẳng hiểu gì về chủ nghĩa Mác…". Rồi Trần Đức Thảo thì thầm vào tai Trần Đĩnh: “Làm sao Duẩn lại Mác-xít được?”(ĐC, 435- 441)
Ông ta lại còn muốn làm khoa học gia. Trần Đĩnh cho biết tinh thần khoa học của  ông Lê thuộc loại đỉnh cao trí tuệ:


Ban văn hoá của báo cho biết anh Lê Duẩn quan tâm đến đời sống dân lắm. Anh đã hỏi kỹ anh Phạm Ngọc Thạch rằng một bát cơm ăn với rau muống luộc có khác một bát cơm ăn với rau muống xào không. Khi nhờ phân tích khoa học cao siêu, (tôi ngứa tay thêm mấy chữ này vào đây) biết là có khác nhau...” cơ bản” thì anh Duẩn đã chỉ thị hãy cố sao cho “về cơ bản” dân ta được ăn nhiều rau muống xào mà” cơ bản” bớt luộc đi. Nói “về cơ bản” vì phấn đấu cho có thêm mấy triệu thìa mỡ mỗi ngày “về cơ bản” không dễ!... Tôi nghĩ ngay việc gì phải Phạm Ngọc Thạch nghiên cứu, cứ bày lên bàn ông Duẩn hai dúm cơm, một rang mỡ, một không là kiến nó cho ý kiến nó ngay không phải chờ Phạm Ngọc Thạch chỉ thị cho ngành y tế. ((ĐC, Ch.IX, 128) .


Lê Duẩn bao giờ cũng biểu dương lòng thương dân bằng mồm. Ông tuyên truyền khá hay.  Lúc sinh thời, nhân dịp Tết 1976, Lê Duẩn từng tuyên bố rằng:

Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: "Cầm quyền mà không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào? Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo... Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã nổi nóng với Chính phủ: "Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi...". Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời. Tôi rất thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ. Muốn có rau muống thì phải có gạo. Muốn có nước lã (nước máy) thì phải có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều gặp khó khăn (Wikipedia.  Lê Duẩn).

Nhưng  cho đến nay, chỉ có đảng viên mới có xe hơi bạc triệu, hàng chục villa và tiền gửi ra ngoại quốc còn dân thì mất nhà, mất đất... mà chẳng thấy ai từ chức!

Trong chế độ cộng sản, khi lãnh tụ đột xuất " phát tiết", hàng vạn ninh thần cất tiếng bốc thơm! Nghe quốc vương nghiên cứu, tìm hiểu về rau muống, Phạm Văn Đồng cũng tỏ ra quan tâm đến khoa học và nhân dân. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng: “một ký rau muống có chứa chất bổ dưỡng ngang với một ký thịt bò”.( Cánh Cò. Rau muống và thịt bò. http://www.rfavietnam.com/node/2836 )


Người ta cho rằng dân Quảng bướng bỉnh, ương ngạnh nhưng Phạm Văn Đồng không ở vào trường hợp này. Ông ta là thủ tướng lâu đời nhất vì thời nào ông cũng vâng dạ, gió chiều nào che chiều ấy nên sống lâu, ngồi bền! Vũ Thư Hiên cho  ta biết  ý kiến của  các đảng viên cao cấp phê bình Phạm Văn Đồng:


 Phạm Văn Đồng than thở: Tôi là thủ tướng lâu nhất thế giới và cũng là thủ tướng khổ nhất thế giới. Làm thủ tướng thật, tôi chẳng có quyền gì hết….”
“Ông Ưng văn Khiêm bình luận: Anh chàng này có một cái tội: đó là biết mình không có quyền làm bất cái chi không có phép Ba Duẫn với Sáu Thọ mà lại không dám từ chức. Ông Trần Văn Giầu hóm hỉnh: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế.” Tôi được nghe Phạm Văn Đồng nói chuyện nhiều lần. Ông tỏ ra là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng tôi thấy ít ai nói chuyện vô duyên như ông.” (trang 294)
“…Mai Lộc vốn rất sùng kính Phạm Văn Đồng buồn rầu nói với tôi: “Thần tượng của tôi sụp đổ rồi. Không ai mời ông ta cứ đòi đến, leo lên bục mà ba hoa, chẳng ai buồn nghe mà vẫn cứ nói.”
“Phạm văn Đồng, theo bà (mẹ tác giả) nhận xét là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự…Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải làm….
“…Ông không nuốn mất lòng một ai, nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Đồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: “Việc tập thể quyết định, tôi làm gì được!” ( DGBN, trang 27)
Tố Hữu rồi Nguyễn Chí Thanh cũng lớn tiếng phụ họa với ông chủ cho tròn phận tôi, và cũng để chứng tỏ trình độ khoa học đỉnh cao trí tuệ của loài người.
Trần Đĩnh cho biết Giữa năm 1963, Nguyễn Chí Thanh có bài đăng trang nhất báo Nhân Dân kêu gọi tiết kiệm lương thực. Hợp tác xã cha chung không ai khóc, năng suất thấp, thóc gạo thiếu, biện pháp duy nhất thích hợp là bóp miệng lại, Thanh nay liệt bún vào bảng xa xỉ phẩm. Viết hẳn: Tại sao phải ăn bún?


Lúc Tố Hữu mở bữa thịt chó khao in tiểu sử Cụ, chưa hợp tác hóa nông nghiệp, bún ê hề, Thanh ca ngợi thiên tài bếp núc dân tộc thể hiện ở tổ hợp bún, thịt chó, mắm tôm. Từ ngày hợp tác hoá nông nghiệp, quản lý hết thóc gạo thịt thà, kể cả chó, thiên tài bếp núc gần như tiêu ma. Một cá nhân bèn dám lớn tiếng truy hỏi dân tộc: “Sao phải ăn bún?” và nổ bộc phá vào nền móng thiên tài ẩm thực dân tộc!

Sau phải có chế độ đổi tem gạo lấy bún để duy trì tổ hợp thiên tài (ĐC, Ch.XX)



Thật ra có một thời đảng bách chiến bách thắng đã cấm phở, cháo, bánh cuốn... vì đó là sản phẩm phong kiến và tư bản. Sao các ông này giống Pol Pot căm thù trà và cà phê đã phá hủy các đồn điền cà phê, trà, phá hủy quốc lộ để trồng khoai sắn và xuyên tâm liên! Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan cũng đi Tây về đấy!May phước bún được cứu sống chứ không bị ông tướng nông dân kết án tử hình vì tội phong kiến, tư bản, phản động, là kẻ thù của nhân dân, đã phá hoại kinh tế XHCN!
Một cán bộ cộng sản dưới tên Tri Lê viết rẳng ốc sên có nhiều đạm; ăn 7kg lá khoai mì cũng bổ tương đương bằng 1kg thịt bò; thịt cóc, nhái đều có nhiều đạm; rồi phổ biến làm “thủy sâm”; me-xừ Lý Ban, bí thư đảng đoàn bộ ngoại thương (thời kỳ Phan Anh làm bộ trưởng và Nguyễn văn Đào làm thứ trưởng), cũng là phái viên của Trung cộng tại Việt Nam, thì ra công phổ biến cách nhịn ăn, sáng sớm uống độ 2 lít nước âm ấm.


Mấy ông trên là trí thức XHCN, còn có ông bác sĩ tốt nghiệp Đại Học Pháp cũng thuộc hạng trí tuệ đỉnh cao khi theo hùa với các trí thức vô sản. Đó là bác sĩ Nguiyễn Khắc Viện.
Báo Cộng sản đăng về phát minh ghê gớm của ông Viện: “Nhân một buổi về tham quan hợp tác xã vùng đồng bằng sông Hồng, Viện được chứng kiến một hoạt cảnh sinh động, điễn hình tiên tiến.. Một chị đội trưởng hợp tác xã vừa thổi cơm bằng rơm, vừa thuyết minh “cơ cấu tổ chức” hợp tác xã, chế độ vần công, cách thức điều hành xã viên, phân chia nông phẩm, phân phối phân bón, thuốc trừ sâu, thực hiện nghĩa vụ thuế nông nghiệp.. Chị vừa trình bày vấn đề trọng đại, vừa thổi mồi rơm; lửa hắt ánh hồng lên khuôn mặt tươi trẻ, hiện thực vẽ đẹp cao quý của người lao động trong chế độ ưu việt-chế độ xã hội chủ nghĩa- 


Chế độ triệt tiêu “hiện tượng người-bóc lột-người” mà trí tuệ siêu việt Karl Marx, Engel hằng tiên tri, nay Bác Hồ hiện thực trên đất nước Việt Nam giàu đẹp, sau cuộc chiến thắng trời long đất lỡ, đánh bại hai tên đế quốc sừng sõ, ghê gớm nhất của nhân loaiï, thực dân Pháp và Ðế quốc Mỹ.” Ông đề nghị một cách khôn ngoan trong loạt bài báo (có tính khoa học cao): “Người Việt nên thay đổi “cơ cấu bữa ăn cổ truyền với thuần gạo tẻ” (và thay vì gọi là “cơm độn” mà nên gọi là “cơm trộn”) bằng: “cơ cấu mới: gạo-ngô-khoai-sắn”- vì ngô-khoai-sắn có nhiều chất sắt hơn trong một hàm lượng so với gạo tẻ.” Viện trích dẫn nghiên cứu của Tiến sĩ nông học Phạm Hoàng Hộ: “Mười cân rau muống bổ dưỡng bằng một cân thịt bò”. Viện vạch rõ, cũng từ một nghiên cứu khoa học, “rau muống có nhiều chất sắt hơn thịt bò!” Ðấy là câu chuyện của 20 năm trước. Nay, thành quả nghiên cứu nghiêm túc của Viện Sĩ Nguyễn Khắc Viện, điển hình “trí thức xã hội chủ nghĩa” được hệ thống hóa và nâng cấp qua cuốn sách: ViêtNam, Une Longue Histoire.
(CHẤT VẤN NHÀ VĂN PHAN NHẬT NAM
 Nguyễn khắc Viện, là bạn của Trần Đức Thảo, trong Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Đức Thảo bị búa rìu, khiến vợ ông, bà Nguyễn Thị Nhất phải bỏ ông mà theo Nguyễn Khắc Viện. Bà ta được họ Hồ thưởng cho cái ghế vụ trưởng Vụ Mẫu giáo thuộc bộ giáo dục. Khi một số những nhà “ khoa học trí tuệ đỉnh cao ” của Bắc Việt Nam, theo lệnh của Tố Hữu, cố chứng minh rằng “7 ki-lô lá sắn bổ tương đương 1 kg thịt bò, ngô bổ hơn gạo và ốc sên có nhiều đạm v.v…”,


 Dù đảng không phân công, ông cũng ngữa tay xin việc đã nhanh nhẩu hưởng ứng chủ trương “rau cỏ hóa bữa ăn của toàn dân” bằng bài “rau muống” đăng trên tờ Văn-hóa. Sau tháng 4-1975, người miền Bắc khi vào Nam trở ra đều khen nhà cửa, thành thị, đường xá v.v… của miền Nam, thì ông Viện  cũng hăng tiết vịt lớn tiếng  chửi sự đê nhục của những xa-lộ ở miền Nam và hết lời ca ngợi cùng tự hào về những đường ổ gà, sống trâu ở miền Bắc, đúng mẫu mực của họ Hồ là “Mỹ mà xấu” , nghĩa là cái gì của “ta” cũng đều “tốt” và cái gì của “ngụy” cũng đều “xấu”!  Ôi! Chó chạy trước mang! Và "bảo hoàng hơn vua". Người ta nói mấy tên tân tòng thường cuống tín như vậy đó! Ông Viện quả là nhiệt tình theo cộng sản thế mà không hiểu sao sau này ông chống đảng, đến nỗi dư luận cho là ông bị Đỗ Mười bức tử! Không biết lúc từ bên Pháp về ông hy vọng gì. ươc mơ gì mà liều thân, liều mạng, bất cố liêm sỉ như vậy?
Tháng 11 năm 1992, Nguyễn Khắc Viện được trao giải thưởng Grand prix de la Francophonie của Viện Hàn lâm Pháp. với khoản tiền thưởng 400.000 franc (tương đương 80.000 USD) nhưng liệu khó nuốt trôi,  ông phải cúng dường  cho quỹ của Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Trẻ em (Trung tâm NT)..
GS Phạm Hoàng Hộ cũng như Nguyễn Khắc Viện là trí thức từ Pháp về nhưng ở với Cộng sản thì cũng hóa thành vượn! Trong Trại Kiên Giam, Nguyễn Chí Thiệp đã suy nghĩ về ông, một trí thúc bậc nhất của miền Nam:
Không biết khi “đặt hàng” Việt Cộng có đủ khả năng để đi vào các điểm chi tiết hay không, nhưng những nhà trí thức miền Nam đầu hàng giai cấp muộn màng đó (nếu đầu hàng giai cấp sớm đã trở thành đảng viên Cộng Sản) ra sức dùng ngòi bút ca tụng và tô hồng chế độ đến người đọc phải ngượng ngùng cho giá trị của chữ nghĩa. Nhưng người dân Việt Nam thực tế, người ta hiểu rõ giá trị của thịt bò là thịt bò, rau muống là rau muống, rau muống không thể là thịt bò xanh (bíp-tết xanh). Có người ao ước một lúc nào đó có dịp để đói với nhà trí thức Phạm Hoàng Hộ dăm ba ngày, rồi dọn mâm cơm với thịt bò và mâm khoai mì với rau muống để nhà trí thức chọn lựa món ăn (Trai Kiên Giam,  Ch. V)

Phạm Hoàng Hộ còn đi xa hơn việc nhận đơn đặt hàng. Ông đã "báo công" với Cộng đảng. Nguyễn Chí Thiệp cho biết thêm:

Ông Phạm Hoàng Hộ viết báo kể công rằng chính ông đã viết bài về sự nguy hại của chất độc khai quang, nên tôm cá ở khu vực sông Cửu Long và bờ biển Việt Nam có nhiễm chất dioxine. Sau bài viết của ông Phạm Hoàng Hộ các khế ước xuất cảng tôm cá qua Nhật và Tân Gia Ba bị bãi bỏ, ông Hộ tiếp tục làm công tác tuyên truyền bằng cách đưa ra lý luận “một nước đã bị Cộng sản hóa rồi không quay trở lại!”.

Ông còn viết những bài chứng minh khoai mì, rau muống là những chất bổ dưỡng – ba ký rau muống bằng một ký thịt bò – rau muống là bíp tết xanh. Trần Kim Thạch kể công đã viết bài báo chứng minh thềm lục địa Việt Nam không có dầu hỏa để đánh tan hy vọng của người miền Nam về một nguồn tài nguyên mới trong khi Mỹ giảm viện trợ. (Trai Kiên Giam,  IX)


Miền Nam ngày xưa đâu biết củ mì củ sắn, đâu phải xếp hàng mua rau muống, mua củi đâu cần tính kí! Sau này văn minh Bắc Kỳ tràn vào làm xã hội và con người biến dạng. Một bà người Nam, vợ trung tá cảnh sát kể rằng ngày trước nghe nói ngoài Bắc mua rau muống phải xếp hàng, bà cười ngất bảo bọn Bắc kỳ di cư xạo, mua rau muống cần gì phải xếp hàng! Sau 1975, dân Nam Kỳ mới sáng mắt sáng lòng:


Nhờ Việt cộng, nhờ bác Hồ,
Dân Nam mới biết bo-bo là gì.
Nhờ công đánh đuổi Thiệu Kỳ,
Dân Nam mới biết củ mì củ khoai.  
Công ơn Bác  đảng anh tài 
Xếp hàng cả buổi mua vài bó rau! 

Chỉ có sen gần bùn mà không hôi tanh mùi bùn còn phần lớn các vật bị ném xuống ao tù nước đọng  đều hóa ra rong rêu, cặn  bã, rác rến.và sình lầy

VIỆT KIỀU VIỆT CỘNG = TRUYỆN TÙ = VÕ ĐẠI TÔN

NGUYỄN THANH TY * GÀ VÀ CÁO



Gà Trống Và Cáo *










Chuyện xưa:


Truyện cổ tích dân gian kể rằng một buổi sáng tinh mơ nọ, có con gà trống đang đứng trên cành cây trong vườn cất tiếng gáy vang, báo hiệu cho nông gia một ngày mới bắt đầu thì một con chồn ở cạnh bìa rừng chợt xuất hiện. Cáo muốn bắt gà ăn thịt, tính nhảy lên vồ, nhưng sợ gà bay lên cao hơn nên suy nghĩ dùng mưu kế để lừa.


Bằng giọng đường mật hết sức ngọt ngào, Cáo ngước mặt nói:


- Anh gà trống thân mến của tôi ơi! Tiếng gáy của anh nghe hay lắm nhưng vẫn không bằng của cha anh. Ngày xưa, mỗi lần gáy ông ấy vươn cổ cao lên và nhắm mắt lại nên giọng nghe thánh thót, véo von hơn nhiều. Nếu anh bắt chước được như cách cha anh thì tiếng gáy của anh sẽ có “chất lượng cao” và sẽ “cực kỳ hoành tráng” nhất trong làng này.


Gà trống nghe bùi tai, thích chí, tưởng thật, liền nhắm tít hai mắt lại, rướn cổ lên thật cao, cố gáy cho hay bằng cha mình. Chỉ đợi có giây phút đó, cáo phóng lên nhe hàm răng chơm chởm bén như dao cạo, ngoạm vào cổ gà, chạy biến vào rừng.


Chuyện nay:


Sau năm 1975, bầy gà trống, gà mái, gà già, gà trẻ, gà giò, cả gà con mới nở… ở miền Nam đều bị bầy cáo cộng của họ Hồ ly truy đuổi, bắt ăn thịt, nhai xương, đã bỏ chuồng, bỏ của chạy thục mạng ra biển, vào rừng, vô núi… để tìm đường trốn thoát nanh vuốt của chúng.


Hồ cáo vốn dĩ là loài chỉ biết đi ăn trộm, ăn cướp để sống, hoặc chỉ chuyên ăn bám, hút máu kẻ khác để tồn tại chớ không biết tự mình kiếm ăn. Chỉ mươi năm sau, tài nguyên, của cải trong nước đã bị cạn kiệt, mọi người đều lâm cảnh nghèo xơ xác, đời sống cơ cực lầm than khốn khổ, không còn gì béo bở nữa để chúng xà xẻo, kiếm chác liếm láp nên cả bọn bị đói giơ xương, nhe răng, vêu mõm.


Chúng liền nhón chân, nghễnh cổ nhìn ra hải ngoại, xa nửa vòng trái đất, một nơi có nhiều bò sữa và gà tồ rất thơ ngây, ngờ nghệch, dễ tin đang sống sung túc, phây phả. Đám bò sữa, gà tồ này chính là nạn nhân khi trước đã bị chúng rượt cắn chí chết. Từ hai bàn tay trắng với cái quần xà lỏn lúc bỏ chạy, giờ đây đứa nào cũng nhà lầu, xe hơi trông béo ngậy, béo phây phây rất bắt mắt. Trông mà thèm nhỏ rãi. Chúng đã tìm ra một nơi có thể vớ bẫm. Phen này chắc hẵn kiếm ăn to. (Tú Xương)


Ngược dòng thời gian, mươi năm trở lại đây nếu không nhờ sữa và đô của chúng gửi về tiếp máu thì dòng họ Hồ cáo nhà ta đã ra ma nằm ngoài hoang dã rồi.


Đang lúc thập tử nhất sinh chờ “chuyển sang từ trần” đi theo Boác, bỗng được sâm nhung, loại đô tươi màu xanh, của đám gà hải ngoại luôn dễ mũi lòng từ bi, bác ái, đổ về ồ ạt để cứu sống cái thây ma sắp đi chuyến tàu suốt. Từ một, hai tỉ đô ban đầu dần dà đến nay lên tới con số 8 tỉ đô mỗi năm. Đảng Hồ cáo nhờ đó sống lại. Mà còn sống khoẻ, sống hùng nữa. Hồ ly già, chồn trẻ, cáo tơ… con nào, con nấy giờ đây đều béo tốt phương phi, mặt đỏ tía, bóng nhẫy, bụng phệ ra như bụng ông địa múa lân, trở thành bọn tư bản đỏ.


Ăn no, giàu có, hưởng thụ phè phỡn xong, Hồ cáo bỗng giật mình, sờ sau gáy, nghiệm ra rằng cái đám gà tồ, bò sữa này sở dĩ chúng nó sớt máu ra nuôi ta mập thây, mập mặt cũng chỉ là sự bất đắc dĩ vì thân nhân ruột thịt chúng còn kẹt lại chốn hang hùm, ổ cáo đành phải bấm bụng tiếp tế về cứu nguy người nhà chứ chúng có thương xót gì mình. Rồi đây chúng sẽ “phăng teo” chúng ta lúc nào không hay khi chúng có đủ sức mạnh. Thực lực của chúng hiện nay như “lưỡi gươm treo trên đầu”. Nỗi lo gan ruột như bệnh nan y đáng sợ . Phải nghĩ cách “quản lý” chúng lại thật chặt mới được. Vừa kiểm soát chúng, vừa bóp cổ, móc hầu bao chúng mới là kế vẹn toàn.


Thế là bọn Hồ cáo khẩn cấp họp nhau lại tính kế, giở bổn cũ ngón nghề gião quyệt ra soạn lại, bày ra một cú lừa khác, một kịch bản tinh vi hơn, thâm độc hơn để “ngoạm cổ” những con gà ngờ nghệch ở hải ngoại.


Đó là trò lừa gạt mới có tên là Nghị quyết 36. Trò lừa này được che dấu dưới lớp sơn xanh xanh, đỏ đỏ trông rất loè loẹt bằng những từ ngữ đầy nhân ái, đậm đà bản sắc dân tộc như: “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách rộng mở và biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về thăm đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học – công nghệ, hoạt động văn hóa – nghệ thuật” để dụ khị mấy con gà tồ to xác nhưng rất ngu ngơ và nhẹ dạ.


Chúng đeo mặt nạ che mặt, giở giọng lưỡi ngon ngọt gọi đám gà tha phương cầu thực xứ người là “khúc ruột ngàn dặm” là “máu thịt của Việt Nam” là “bộ phận không thể tách rời”, là đủ thứ ngọt mật thay cho lời sĩ nhục năm xưa là “đồ đĩ điếm, phản quốc, bám chân đế quốc liếm bơ thừa sữa cặn” để ca bài ca con cá nó sống vì nước, rù quến đám gà thơ ngây có trí nhớ rất ngắn, đem tiền của, tài sản dành dụm bấy lâu về làm “Doanh nhân kiều bào” góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước, nhưng thực chất là để nuôi béo chúng.


Đổi lại, cáo hứa sẽ dọn đại yến “chùm khế ngọt” với “thịt tươi sống chân dài” để chiêu đãi và sẵn sàng hết lời xun xoe, bợ đỡ, ca tụng, tung hê đám gà tồ u tối là “Dziệt kiều yêu nước”.


Bước đầu kịch bản Nghị quyết 36 đã thu được kết quả mùa gặt ác. Đảng Hồ đã vớ bẩm được mấy vố khá.


Xin kể ra đây vài trường hợp tiêu biểu của đám gà tồ ngờ nghệch đã bị cáo ngoạm cổ.


Được bọn cáo họ Hồ ve vãn vuốt đầu, xoa trán, một số gà tồ lưu vong sướng rên người, vội quên ngay cái cảnh lúc vừa chạy vừa vãi phân trong quần, đã hè nhau nhắm mắt kéo về… nộp mạng cho bầy cáo xơi tái.


Con gà trống Nguyễn Trung Trực, “khúc ruột ngàn dặm” Úc, về đầu tư ngân hàng, bảo hiểm bị cáo vét sạch túi lập tức. Dziệt kiều Hòa Lan, Trịnh Vĩnh Bình, vua chả giò, bán hết cơ sở kinh doanh sở tại, mang tiền về hang cáo đầu tư ngành dầu hỏa không những bị cáo tước lột trắng tay mà còn bị bỏ tù. “Bộ phận không thể tách rời” Pháp, mông xừ Nguyễn Gia Thiều, về đầu tư ngành viễn thông cũng bị cáo gài độ cho tán gia bại sản và tù tội. Dziệt kiều Nhật, con gà tồ Nguyễn An Trung, về Việt Nam đầu tư, làm Giám đốc Công ty SàiGòn Ôtô rồi cũng vào tù. Con gà tía Nguyễn Đình Hoan, Dziệt kiều Mỹ yêu nước mà không yêu Xã hội chủ nghĩa, về đầu tư giáo dục, chỉ hai năm sau liền bị vu khống tội gian lận rồi vào tù, của cải mất hết, trắng tay lại còn bị cấm rời Việt Nam.


Nhưng hài hước, đắng cay nhất là Dziệt kiều gà mồi Trần Trường ở Nam Cali, làm Việt gian tay sai cho Hồ cáo, treo thờ hình Hồ râu và nón cối trong tiệm bán đồ điện tử của mình, bị người Việt tị nạn ở Little SaiGon phản đối đòi dẹp bỏ hình tượng tên sát nhân. Lúc đầu, hắn ta chống trả lại rất hung hăng con bọ xít nhưng cũng không thoát được công lý nên cuối cùng chịu trói tay, ngồi tù ba tháng. Khi được thả, hắn bồng tống vợ con chạy về Việt Nam làm Dziệt kiều yêu chủ nghĩa xã hội, đầu tư đào ao nuôi cá. Hắn hí hửng tưởng thế nào cũng được cáo tưởng thưởng cho “chùm khế ngọt” và cái giấy ban khen chức danh anh hùng cỡ như Lê văn Tám (phịa) hay Nguyễn văn Trỗi (dỏm).


Ai dè Việt gian gà mồi Trần Trường bị bọn cáo xúm lại cướp sống ngay ao cá, hè nhau vặt trụi không còn một cọng lông. Cái mào gà đỏ tươi dùng để ăn nói, giờ bị xơ xác lốm đốm như hoa khế. Loại “mồng gà hoa khế” của bệnh hoa liễu. Trần Trường biến thành Trần Truồng, truồng như nhộng, trắng mắt, trắng tay, quay về lại Cali – Little SaiGon, vác mặt mo tới Sở An Sinh Xã Hội của đế quốc Mỹ, ca bài ca xã hội chủ nghĩa giẫy chết để xin tiền trợ cấp “Queo phe” sống qua ngày.


Hãy còn nhiều ví dụ lắm lắm. Chẳng hạn như đám ca kỹ, nhạc sĩ “bất tri vong quốc hận” nghe lời cáo dụ dỗ, về mua nhà ở cái gọi là “Làng nghệ sĩ”. Mua xong, nằm chưa nóng chiếu đã bị cáo cướp nhà, đuổi chạy có cờ, cười đau, khóc hận mà không dám hé môi một lời than thở. Như bọn “trí ngủ” bằng cấp đầy đầu vì hám danh mà chịu hèn. Bác sĩ họ Bùi tên Vô Tâm là một điển hình.


Như bọn ký dỏm ở Bolsa hám tiền quên nhục, thậm thò, thậm thụt, đi đường lòn giao du với cáo, lợi dụng nền tự do, dân chủ của nước sở tại, làm báo in hình cờ máu, viết lời ca tụng công đức loài Hồ ly mà cứ ngụy biện là truyền thông phải độc lập hai chiều. Nếu bọn này về Việt Nam viết báo ca ngợi đảng nọ, tổ chức kia ở hải ngoại mà đảng Hồ không tiếp đãi một chầu “cái lỗ mũi ăn trầu, cái đầu bịt khăn đống” ngay, thì đồng bào tị nạn ở hải ngoại sẽ giở nón mà bái phục. Còn ngược lại, bị bọn cáo đục cho phù mỏ thì e rằng lúc đó có hối cũng không kịp.


Bao nhiêu cái gương văn nghệ sĩ, trí thức, ký giả trong nước bị bầm dập, tả tơi, tù tội với loài chồn cáo vì viết bài “chệch sang lề trái” mà bọn ký dỏm ở Bolsa cứ nhắm mắt giả mù, bưng tai giả điếc đâu thèm biết.


Chuyện băng đảng Hồ cáo năm 2009: Đại hội Việt kiều tại hang Pắc Pó Ba Đình


Từ 21 đến 23 tháng 11 năm 2009 tại Hà Nội sẽ diễn ra cái gọi là “Hội nghị người VN ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ nhất”, đại ngôn là “Hội nghị Dziệt kiều”, do Bộ Ngoại giao CS triệu tập, với chủ đề: “Vì một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước”.


Theo cáo già Trần Trọng Toàn, phó chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước Về Người Việt Nam ở Hải ngoại loan báo là theo dự kiến sẽ có khoảng chín trăm con gà tồ, người Việt hải ngoại, từ 101 quốc gia và vùng lãnh thổ về (nạp mạng) tham dự Hội nghị.


Cũng theo lời đường mật ngọt xớt của cáo già Trần Trọng Toàn đang ve vãn thì đám gà hải ngoại sẽ cùng đám cáo (tức hàng lãnh đạo cao cấp của đảng, của bộ máy cai trị CS trung ương lẫn địa phương), ngồi lại với nhau thảo luận 4 chuyên đề: “Xây dựng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về đất nước”, “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng người VN ở nước ngoài”, “Chuyên gia, trí thức kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước” và “Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước”.


Mới nghe qua thấy giống y chuyện ngụ ngôn của Tây.


Chuyện ngụ ngôn gà và cáo của Lã Phụng Tiên (Jean de La Fontaine) thế kỷ 17


Bài thơ ngụ ngôn bằng tiếng Phú Lãng Sa, “Con gà và con cáo”, của Lã Phụng Tiên như lời sấm ký tiên tri từ thế kỷ 17 đến nay, đã ứng vào cái gọi là “Hội nghị Việt kiều” trúng phóc, không sai một ly ông cụ, đã được học giả Nguyễn văn Vĩnh dịch ra chữ Quốc ngữ. Trích đoạn:


Trên cành cây con gà trống đậu,


Đã khôn ngoan lại láu việc đời.


Hồ ly đến ngọt mấy lời:


- Đôi ta hết giận, tới thời hòa an.






Nay trong khắp thế gian thân ái


Tình anh em tôi lại thưa anh,


Xuống đây hôn cái tỏ tình;


Trăm nơi còn phải chạy nhanh mới cùng.





Rầy mặc sức vẫy vùng đi lại,


Tôi với anh hết hại lẫn nhau.


Từ đây anh chớ lo âu,


Khi nào có việc muốn cầu đến em,






Gọi một tiếng ngày đêm cũng lại,


Xuống đây hôn gọi ngãi đồng bào.


Gà rằng: Mừng rỡ xiếc bao!


Tin này biết lấy cách nào tỏ vui!





Đọc đoạn đầu lời cáo chiêu dụ gà của bài thơ ngụ ngôn khiến người ta nhớ lại lời Hồ cáo năm 1954 cũng đã kêu gọi “chuyên gia, trí thức kiều bào ở hải ngoại về quê hương góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước”, nhiều con gà trống có tiếng gáy tầm cỡ trên thế giới, đã ngây thơ, tin sái cần cổ, ba chân bốn cẳng về nước, góp sức cho bọn cáo… ăn cướp, rồi bị cáo ngược đãi đến nỗi phải đi ăn mày, ăn xin cho đến chết.


Kinh nghiệm đau thương, tàn khốc của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Tiến sĩ Trần Đức Thảo, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện… vẫn còn dấu ấn đậm nét trong sách sử cận đại.


Với 2 bằng tiến sĩ lúc mới 23 tuổi tại Pháp, Luật sư Tường nghe lời Hồ kêu gọi, về nước tham gia “cách mạng”. Năm 1956 vì viết bài phê bình những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, ông đã bị tước hết mọi chức vị, quyền lợi, bị khai trừ và sống nghèo đói lây lất cho đến chết.


Tiến sĩ triết học Trần Đức Thảo cũng bị cáo lừa, năm 1951 rời Pháp, về Bắc Việt tham gia kháng chiến. Vì đố kỵ tài năng, sở học của ông nên Hồ già khinh khi, chỉ giao cho ông việc dịch các truyền đơn sang pháp ngữ. Năm 1956, lấy cớ ông viết một bài về vấn đề phát triễn tự do dân chủ cho nhóm Nhân Văn Giai phẩm, Hồ kết tội ông là phần tử phản động rồi tước hết mọi phương tiện sống. Tiến sĩ Thảo phải lang thang đi xin ăn cho đến cuối đời.


Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, về nước năm 1963, sau một đời cúc cung phục vụ cho Hồ, gọi là phục vụ Đảng, phục vụ đất nước, cuối cùng cũng bị Hồ khai trừ vì dám viết “Thất trảm sớ” gởi cho Quốc hội CS…


Tích cũ như thế còn chuyện đời nay thì sao? Đã có con gà tồ nào ở hải ngoại “hồ hỡi phấn khởi” vỗ cánh bay về với cáo chưa?


Theo tin đài BBC ngày 09/11/09 loan tải thì: “Một số nhân sĩ và trí thức người Việt hàng đầu tại Mỹ và Úc, và Âu Châu đã không tham dự hội nghị. Lý do họ đưa ra là “không nhận được giấy mời” và cũng “không quan tâm”. Nguồn tin khác nói rằng đa số đại biểu là Việt kiều Đông Âu (thành phần du học hoặc xuất khẩu lao động trốn ở lại sau ngày bức tường Bá Linh sụp đổ). Và những Việt kiều đã sống ở Việt Nam trong nhiều năm (như loại NCK và PD).


Tổ chức Đại hội Việt kiều tại Hà Nội lần này đảng cầy cáo CS Việt Nam nhắm đến mục đích gì?.


Lần này, có lẽ tiền không phải là mục tiêu chính yếu. Sau 20 năm cái gọi là đổi mới theo “kinh tế thị trường” mở cửa đón bọn tư bản mũi lõ dốc hầu bao vào nước đầu tư, chào mời “khúc ruột ngàn dặm” đem đô la về thăm quê hương và “ăn khế ngọt”, mỗi năm bầy cáo đã thu vén nhiều tỉ bạc, chia chác cho nhau bỏ túi riêng, mà phải là bạc đô xanh của đế quốc Mỹ, in hình Washington chứ không thèm đô “đồng” in hình già râu đâu nhé. Giờ thì bọn chúng trở thành tư bản đỏ giàu sụ, giàu “khủng”, đi xe hơi, ở nhà lầu, đi đánh bạc ở Las Vegas, vác gậy chơi gôn… nên tiền đối với chúng “vô tư”, không thành vấn đề.


Cái mà chúng nhắm đến là lực lượng chống cộng ở hải ngoại ngày càng phát triễn vững mạnh thành một thế lực rất đáng gờm cho chúng. Nhân số người Việt hải ngoại hiện nay đã lên đến gần 4 triệu có đủ nhân lực, tài chánh, kinh tế và chất xám đủ sức để đánh gục chế độ độc tài của chúng. (Kịch bản Nghị quyết 36 ở trên đã nói rõ: vừa quản lý vừa móc hầu bao)


Chuyện thu hút nhân tài, trí thức, chất xám… chỉ là khẩu hiệu của sự dối trá, gạt gẫm, che mắt bề ngoài. Hãy nhìn vào trong nước là đủ biết. Mới đây thôi, cả một viện IDS mệnh danh là “túi khôn” xã hội Việt Nam, qui tụ toàn những trí thức hàng đầu của cả nước còn phải bị bức tử, phải tự giải thể, cuốn cờ, xếp trống vì cái Nghị định số 97 của con cáo giảo quyệt Nguyễn Tấn Dũng không dung chứa thì cái đám trí thức ở nước ngoài là cái thá gì? Toàn là CIA cài vào cả!!! Đảng ta đâu có khờ mà tin dùng! Vã lại Đảng Hồ cũng chẳng cần trí thức để làm gì. Đảng chỉ cần súng và bạo lực. Cái đảng cần là xã hội ổn định, bền vững. Đất nước lạc hậu, nghèo đói, ngu dốt bao nhiêu thì đảng càng dễ cai trị bấy nhiêu.


Âm mưu tổ chức Hội nghị Việt kiều lần này của chúng là dùng Hội nghị như một cái bẫy ly gián để phá nát cộng đồng hải ngoại. Sách lược “mãn thiên hoa vũ”, rãi nón cối, dép râu đầy trời làm ung thối hết các tổ chức chống cộng của người Việt hải ngoại.


Mưu thâm độc của chúng là bắt chước Chu Du mượn tay Tưởng Cán để giết Thái Mạo, Đô đốc hải quân của Tào Tháo trong trận Xích Bích nổi tiếng thời Tam Quốc phân tranh. Hoặc mưu Tào Tháo hay dùng là mời tướng địch ra trước đầu ngựa ở trận tiền để giả vờ nói cười thăm hỏi vớ vẩn mấy câu rồi quay ngựa về trại, gây sự nghi ngờ, ly gián cho phía đối nghịch. Kế hiểm này áp dụng lúc nào cũng thành công.


Chúng có thể để cho đám gà tồ hải ngoại về dự Hội nghị tha hồ nói nhăng nói cuội, có khi còn phát biểu móc họng, đâm hông, chúng cũng không “ke”, dù 4 đề tài nêu ra có vẻ rất trái cựa là “Xây dựng kiện toàn một cộng đồng người Việt tại hải ngoại”. Rõ ràng là lòi đuôi chồn của đảng cáo muốn thò cánh tay lông lá của mình ra nước ngoài kiểm soát người Việt tị nạn CS.


Kế hoạch chúng sẽ đi từng bước như sau:


- Gửi thư mời công khai đến tất cả những nhân vật chống cộng có uy tín ở hải ngoại.


Những người này dù không tham gia, không đi dự cũng bị cộng đồng nghi ngờ, xa lánh, cô lập.


- Trao tặng bằng khen, chụp hình chung lưu niệm, đăng tràn lan trên 700 tờ báo đảng để nhiều người cùng thấy, cùng biết càng tốt.


Thế là những “Dziệt kiều yêu nước” này khi trở lại hải ngoại sẽ bị thân bại danh liệt tức khắc. Cộng đồng sẽ xa lánh chúng như lánh hủi.


- Thời gian Hội nghị lưu trú tại Việt Nam, mấy con gà trống yêu “xã nghĩa” sẽ được cáo cha, cáo con mồi chài, lôi kéo, chiêu đãi nhiều màn “mỹ nhân chân dài” rồi bí mật chụp hình, quay phim để làm cái cán “ri mốt” điều khiển từ xa.


Đám gà tồ hám gái sụp bẫy này sẽ răm rắp nghe lệnh cáo suốt đời, cam tâm cúi mặt làm Việt gian tay sai cho chúng, nếu không thì sẽ lãnh thẹo từ chết đến bị thương. Cái mưu độc này gọi là cấy sinh tử phù.


- Tiếp theo sau Hội nghị là những chuyến công du tới tấp của những cáo cao cấp đến các nước “thăm” các “Đại biểu Dziệt kiều”, đáp lại thâm tình giao du. Sẽ có màn ôm cổ, bá vai, hôn môi, nút lưỡi để phổ biến trên Ti vi, trên báo giấy, báo mạng.


Những “Đại biểu” bị thăm và bị chụp hình bất đắc dĩ này sẽ ôm cái “oan Thị Mầu” với cộng đồng mà cả biển nước Nam Hải cũng rửa không sạch.


- Bước kế tiếp, bọn Việt gian của Nghị quyết 36, nằm vùng trong các tổ chức chống cộng sẽ rỉ tai bỏ nhỏ ông A, ông B, bà C, Cô D… lúc về Việt Nam đã có đi đêm với cán bộ này, lãnh đạo nọ…


Vân vân và vân vân…


Và kết quả tất nhiên sẽ phải xãy ra đối với các tổ chức cộng đồng hải ngoại giống như trường hợp bà mẹ Tăng Sâm hết tin con mình, phải bỏ trốn vì ba lần nghe hàng xóm liên tục báo tin con mình giết người.


Tóm lại một câu, về kế sách kinh bang tế thế làm cho nước dân giàu nước mạnh thì đám chồn cáo lãnh đạo Việt Nam dốt đặc cán mai, ngu hết cỡ thợ mộc, ngu lâu đến độ “bó tay chấm cơm”, làm cho đất nước suy thoái, lạc hậu, đói nghèo nhưng về mưu mô giảo quyệt, tráo trở, lừa gạt, hiểm ác, gian manh để đi ăn cướp, để tham nhũng… thì rất siêu, được xếp đứng đầu thế giới, người Việt Quốc gia phải chào thua. Hồi trước đã thua, bây giờ cũng tiếp tục thua. Thua dài dài.


Rồi đây, nơi đất tạm dung của gần 4 triệu người tị nạn CS sẽ nổi lên một trận cuồng phong, đầy gió tanh mưa máu, do phe ta đánh với phe mình chí chết chưa chắc đã chịu thôi để có thời gian bình tâm ngồi nhìn lại trắng đen, phải trái, để nhân ra ai là bạn, ai là thù.


Bọn chồn cáo ở hang Bắc Bộ sẽ xoa tay đắc chí, cười rằng Nghị quyết 36 đã thành công! đại thành công! thắng lợi! đại thắng lợi! Từ nay chúng cứ gối cao ngủ kỹ chẳng phải lo gì nữa.


Và nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục quằn quại rên siết dưới bàn tay bạo tàn của đảng Hồ cáo thêm vài ba chục năm nữa.


Nhưng nói như trên thì có vẻ bi quan thái quá. Chẳng lẽ, đa số trí thức hải ngoại, nhất là thế hệ trẻ, đều là một giuộc tệ như nhau cả sao?


Theo đài BBC, trong số 900 “Đại biểu Dziệt kiều” hết phân nửa là ở Đông Âu, thuộc phe xã nghĩa ta rồi. Khỏi phải bàn chi cho tốn giấy mực. Từ hang ổ Hồ ly ra đi, dĩ nhiên Dziệt kiều Đông Âu, một số ít thôi, không dám vơ đũa cả nắm, vì ở với Boác bao nhiêu năm đã hãi “nắm dzồi”, “ăn cây nào rào cây ấy” là đúng với tư tưởng và đạo đức Boác rồi! Ngôn gì nữa? Một nửa còn lại, chia đổ đồng cho 100 nước và lãnh thổ, mỗi nơi chỉ có 9 ngoe thì đủ sức làm nên trò trống gì mà đám chồn cáo hy vọng sẽ là những “hột giống đỏ” hòng quậy nát cộng đồng?


Chắc chắn sẽ có những con gà khôn ngoan nổi bật lên trên đám gà tồ ngu ngơ kia biết nhìn xa trông rộng, rõ được âm mưu xảo trá của lũ chồn hôi dùng trí khôn, kế hay chống trả, phản kích lại chúng như con gà “khôn ngoan lại láu việc đời” của Lã Phụng Tiên lừa lại con cá


Gà rằng: Mừng rỡ xiết bao!


Tin này biết lấy cách nào tỏ vui?


Lời anh nói thì tôi xem trọng.


Kìa xa xa thấy bóng chó săn,


Hai anh đang chạy lại gần


Ý chừng cũng một tin thân ái này!


Đợi tôi đó xuống ngay lập tức,


Để bốn ta cùng được hôn nhau…


Hồ ly nghe chửa dứt câu,


Vội vàng một mạch cắm đầu chạy nhanh.





Nói rồi cẳng bốn chân ba,


Nghĩ mưu không đắt, Hồ ta giận mình.


Gà thấy hắn thất kinh đắc ý:


Lừa thằng gian thích chí dường bao!


Biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng. Tuy biết rõ âm mưu thâm độc của lũ Hồ ly đang dùng quỷ kế của Chu Du, Tào Tháo ly gián, chia rẽ khối người Việt chống cộng thành năm bảy mảnh, chúng dễ bề “kiện toàn cơ cấu tổ chức, biên chế và phương tiện hoạt động đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới” để từ đó làm bàn đạp tiến lên đánh phá các tổ chức chống cộng, ta phải có sách lược rõ ràng, chắc chắn, quyết liệt để ngăn chận và tiêu diệt chúng.


Nghị quyết 36 được bọn Hồ cáo phát động rầm rộ từ năm 2004 đến nay với một ngân quĩ khổng lồ, một lượng cán bộ đông đảo xâm nhập hải ngoại bằng nhiều ngã, nhiều ngách với đủ phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí, văn nghệ, băng nhạc, Duyên dáng Việt Nam, dạy học tiếng Việt… tổ chức nơi nào cũng đều bị người Việt hải ngoại bẻ gãy hết nên kết quả chúng không thu lượm được bao nhiêu theo như ý đồ mong muốn.


Lượng kiều hối đầu tư của người Việt đổ vào Việt Nam chưa đầy 2 tỉ Mỹ Kim giống như con trâu rụng mỗi cái lông đuôi. Trí thức, chuyên viên, doanh gia về nước “ăn khế ngọt” xây dựng đất nước đến nay, chỉ đếm được trên đầu ngón tay, so với hơn nửa triệu nhân tài thuộc lứa tuổi trẻ Việt Nam đang phục vụ khắp toàn cầu.


Cái đau rát mặt, tháu cáy nhất của đảng Hồ ly là đã bắt tay bang giao với Mỹ, Úc, Pháp, Canada… cả mười năm rồi mà vẫn không thể nào treo được lá cờ máu lên bất kỳ nơi đâu. Chỉ thấy cờ vàng ngạo nghễ tung bay khắp nơi trên thế giới, bất cứ nơi nào có người Việt tị nạn Cộng sản, dù ngày nay lá cờ vàng không còn đất Mẹ để ôm ấp trong vòng tay nữa.


Trong những ngày sắp tới, sau cái “Đại hội Dziệt Kiều”, được bọn cáo tung hê trơ tráo là “Tiểu Diên Hồng” này, chúng ta hãy chờ xem đám chồn cáo ở hang ổ Bắc Bộ phủ và đám gà mồi “ Dziệt kiều yêu nước” vừa được choàng vòng hoa, khăn quàng đỏ, trao bằng khen sẽ múa may quay cuồng diễn trò khỉ, trò tiều gì trên sân khấu hải ngoại đây!


Dù chúng có nhe nanh, múa vuốt hung hăng con bọ xít đối với dân lành trong nước đến đâu đi nữa nhưng khi bè lũ kéo nhau ra hải ngoại để bị gậy kiếm ăn, tức khắc bị cộng đồng người Việt tị nạn sẵn sàng chờ đón, bẻ không còn cái răng để húp cháo.


Và dĩ nhiên cái màn chui cửa hậu để trốn của lãnh đạo đảng ta sẽ cứ tái diễn dài dài.


Chó cậy gần nhà, chồn cáo cũng chỉ giỏi cậy gần hang ổ để gieo tai, tác ác với kẻ hiền.


Đừng thấy tình hình cộng đồng hải ngoại hiện nay đang rối reng như giỏ cua, loay hoay kèn cựa lôi kéo nhau mà bỏ bụng hí hửng mừng thầm. Hãy thử thò tay vào giỏ cua xem sao!


Không tin hả? Cứ thử đi! Sẽ biết đá biết vàng ngay!


21/11/09


* Bài viết trước khi “Hội nghị Dziệt kiều” quần tam, tụ ngũ ở Hà Nội



No comments:

Post a Comment