Câu hỏi về khả năng đối phó của Việt Nam trước dã tâm của Trung Quốc ở Biển Đông
Mới đây,
chính quyền Bắc Kinh lại tiếp tục đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh bắt
cá tại biển Đông. Lệnh cấm đơn phương này Trung Quốc đã tuyên bố từ năm
1999. Tuy nhiên, mãi tới năm 2007 trở về sau, Trung Quốc mới có thể sử
dụng các lực lượng chấp pháp của mình “thực thi” lệnh cấm này. Và kể từ
khi đó trở đi, cứ đến độ tháng 5 hàng năm, khi biển êm, cũng là mùa đánh
bắt của ngư dân Việt Nam, thì lại tái diễn cảnh các tàu Hải cảnh, Kiểm
ngư của Trung Quốc đâm chìm và bắt giữ các tàu cá của ngư dân Việt Nam.
Những năm trước 2017, lệnh cấm đơn phương này Trung Quốc cho áp dụng từ
giữa tháng 5 đến đầu tháng 8. Từ năm 2017 trở đi, Trung Quốc tuyên bố áp
dụng “lệnh cấm” này từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 8.
Năm nay,
sau nhiều sự kiện dồn dập, từ đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam ngày
2/4, đến gửi Công hàm đe doạ Việt Nam ngày 17/4, ngày 18/4 thành lập
chính quyền “khu Tây Sa” và “Khu Nam Sa”, ngày 19/4 tuyên bố đặt tên địa
danh cho 25 đảo đá và đá cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển Đông.
Theo nhiều
chuyên gia quốc tế, với các hành động này, Trung Quốc cho thấy sự leo
thang trong việc thực hiện bằng được dã tâm độc chiếm biển Đông, bất cứ
dưới thủ đoạn gì.
Về phía
Việt Nam, ngoài việc lên tiếng phản đối từ Người phát ngôn Bộ Ngoại
giao, vẫn chưa thấy có hành động nào quyết liệt để đối phó các hành động
leo thang này của Trung Quốc.
Theo các
chuyên gia, việc thống nhất đặt tên cho các thực thể cũng thể hiện phần
nào hoạt động chủ quyền đối với các thực thể này. Tại khu vực biển Đông
có 4 nhóm thực thể lớn, đó là Hoàng Sa, Trường Sa, Pratas và
Macclefield. Trong số đó, Việt Nam tuyên bố chủ quyền của mình đối với
hai nhóm thực thể là Hoàng Sa và Trường Sa. Chính vì vậy, nhiều năm
trước, đã có ý kiến kêu gọi chính phủ Việt Nam tập hợp và thống nhất tên
gọi cho các thực thể này thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Trong một Công văn của Bộ Nội vụ Việt Nam ngày 18/6/2007, đã
thể hiện việc một số cơ quan Việt Nam đã dự kiến “thực hiện các Đề án
thống nhất tên gọi các đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và các đối tượng địa
lý khác trên các vùng biển Việt Nam”. Đề án này bắt đầu từ năm 2001 và
kết thúc năm 2007. Kết thúc Đề án này, Bộ trưởng Bộ nội vụ Việt Nam đã
đề nghị “ban hành Nghị định về việc thống nhất tên gọi các đảo, đá, bãi
cạn, bãi ngầm và một số đối tượng địa lý khác trên các vùng biển Việt
Nam phục vụ công tác quản lý Nhà nước và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam
trên Biển Đông”.
Năm 2015,
một chuyên gia cũng đã đề nghị sớm công khai địa danh đảo của Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, là giữa năm 2020, tức là sau khi Đề án kết thúc
13 năm, vẫn chưa thấy bóng dáng Nghị định của Chính phủ Việt Nam ban
hành để thống nhất tên gọi cho các thực thể thuộc chủ quyền của Việt Nam
trên biển Đông ở đâu?
Từ sự kiện
này đặt ra một câu hỏi về năng lực của Chính phủ Việt Nam cũng như các
chiến lược để đối phó lại dã tâm và hành động ngang ngược của Trung Quốc
trên biển Đông như thế nào?
Một sự kiện
cũng liên quan là ngày 3/5/2020, Uỷ ban Kiểm tra Trung Ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thông báo việc đề nghị kỷ luật khai trừ Đảng ông Nguyễn
Văn Hiến - Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tư lệnh quân chủng Hải quân
Việt Nam. Việc khai trừ Đảng này, sẽ là bước quan trọng để tiến hành các
bước tố tụng tiếp theo, cụ thể là truy tố hình sự. Mặc dù trong các
thông báo chính thức của nhà nước Việt Nam thì khẳng định rằng ông Hiến
đã sai phạm trong việc làm thất thoát đất quốc phòng dưới quyền quản lý
của ông. Tuy nhiên, dư luận Việt Nam đồn đoán rằng, với những sai phạm
về đất đai như vậy (vốn rất phổ biến ở Việt Nam) thì khó dẫn đến việc
ông Hiến sẽ bị truy tố hình sự như vậy. Mà khả năng là ông Hiến liên
quan tới sai phạm trong những sự việc lớn hơn rất nhiều, đó là mua sắm
các vũ khí quốc phòng cho Hải quân Việt Nam. Những tin đồn này, khó bao
giờ có thể kiểm chứng được, do việc gần như không có sự minh bạch các
loại thông tin như vậy ở Việt Nam. Và các thông tin đưa ra công khai với
công chúng, bao giờ cũng đã bị “sửa đổi, nắn bóp” bởi các cơ quan tuyên
giáo.
Mới đây,
trong phát biểu của tướng Nguyễn Chí Vịnh về tình hình biển Đông, mặc dù
tướng Vịnh có lên án một quốc gia nào đó nhân dịp dịch COVID - 19 để
thực hiện tham vọng, nhưng tướng Vịnh cũng né tránh khi nhắc đến tên
Trung Quốc và vấn đề biển Đông. Thêm nữa, tướng Vịnh còn hạ thấp nguy cơ
trên biển Đông thành thách thức. Điều đó đã có người quan sát cho là đó
là các tín hiệu cho thấy các lãnh đạo Việt Nam chưa đặt vấn đề biển
Đông vào đúng tầm quan trọng của nó. Điều đó cũng được chứng minh thêm
với việc trong suốt năm 2019, khi tàu Trung Quốc hơn 100 ngày “đan áo”
xâm phạm vùng biển của Việt Nam, đe doạ việc khai thác trên mỏ khí Sao
Vàng - Đại Nguyệt, nhưng không thấy các lãnh đạo cao cấp Việt Nam lên
tiếng về vấn đề này. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân trong thời gian đó đang thăm
Trung Quốc, không hề thể hiện một dấu hiệu bất bình nào. Ông Nguyễn
Thiện Nhân còn phát biểu “chúng ta không thể quay lưng được với Trung
Quốc”.
Gần đây,
mỗi lần người dân thắc mắc về chuyện biển đảo cũng như chủ quyền biển
đảo của đất nước, của dân tộc thì đều luôn nhận được câu trả lời như một
công thức có sẵn là: “bà con yên tâm. Tất cả mọi việc Đảng và Nhà nước
biết hết cả rồi và cũng có phương án cả rồi”.
Tuy nhiên,
xâu chuỗi các sự kiện trên, chúng ta có thể nhận thấy, hoặc là năng lực
thực hiện của Chính phủ Việt Nam rất hạn chế, hơn 13 năm mà không ra nổi
một văn bản thuộc thẩm quyền của mình, hoặc là cơ quan cấp trên của
Chính phủ là Bộ Chính Trị không quyết tâm, vì bản thân các thành viên
của Bộ Chính Trị thể hiện cho thấy sự thiếu quyết tâm trong việc đối phó
với Trung Quốc, hạ thấp tầm quan trọng của vấn đề biển Đông trong mối
quan hệ với Trung Quốc. Chưa kể, sự tham nhũng đe doạ tới cả những vấn
đề trọng yếu nhất của đất nước như vấn đề quốc phòng với những nhân vật
cao cấp trong quân đội đang từ từ “vô lò”.
Trong một
chi tiết mới đây được nhắc lại từ nhân vật tình báo huyền thoại Phạm
Xuân Ẩn thông qua tác phẩm “Phạm Xuân Ẩn - Điệp viên hoàn hảo” của tác
giả Larry Berman có nhắc tới một chi tiết quan trọng, đó là trong băng
ghi âm khi phỏng vấn Phạm Xuân Ẩn của Larry Berman có phần kể vào năm
1968, khi Phạm Xuân Ẩn gửi tin tình báo mật về Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã rất sáng suốt và có tầm nhìn khẳng định rằng: “...
Cuộc đấu tranh chống Mỹ là trước mắt và có thời gian, nhưng kẻ thù nguy
hiểm và lâu dài nhất sau này của Việt Nam chính là Trung Quốc - chứ
không phải là Mỹ”.
Như vậy,
việc nhận biết âm mưu của Trung Quốc không phải là phía Việt Nam không
có người biết, nhưng Việt Nam vẫn cứ rơi vào “vòng cương toả” của Trung
Quốc những năm gần đây thì khó lý giải được vì sao. Và điều đó cũng dẫn
đến hệ quả là “cho dù Đảng và Nhà nước biết hết” nhưng “Đảng và Nhà nước
có làm gì không? có làm được gì không?” để đối phó lại các dã tâm và
hành động ngang ngược của Trung Quốc tại biển Đông?
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
No comments:
Post a Comment