Tôi về Đại học Văn Khoa Sài Gòn những ngày mới giải phóng
Chúng tôi có mặt ở Sài
Gòn chiều ngày 30-4-1975. Tổ công tác các trường đại học được Ban Bí
thư Trung ương Đảng cử vào do tiến sĩ Nguyễn Tấn Lập (sau này là hiệu
trưởng Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh) làm tổ trưởng. Tại
cơ quan Viện Đại học Sài Gòn, số 3 Công trường Quốc tế, chúng tôi phân
công nhau về các trường đại học. Anh Phan Hữu Dật và tôi về Đại học Văn
khoa. Anh Nguyễn Cang và anh Nguyễn Hữu Chí về Đại học Khoa học. Anh
Đặng Hữu và anh Huỳnh Văn Hoàng về Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ (nay là
Đại học Bách khoa) v.v… Có tất cả 11 trường đại học công lập và một số
trường đại học tư thục. Về sau, anh Dật và tôi còn được giao nhiệm vụ
tiếp xúc với các giáo sư và sinh viên Đại học Vạn Hạnh và Đại học Đà Lạt
(lúc này đã rút cả về Sài Gòn sau cuộc chiến ở Tây Nguyên và đóng tại
cơ sở trên lầu cao của khách sạn Rex). Tôi ghi lại sau đây vài kỷ niệm
trong những ngày đầu tiếp xúc với Đại học Văn khoa – mà sau này cùng với
đại học Khoa học, trở thành Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Về với các trường đại học Sài Gòn ngày
ấy, chúng tôi đã có “cẩm nang” rất quý là Chỉ thị 221 và 222 của Ban Bí
thư Trung Ương Đảng về công tác tiếp quản các cơ quan giáo dục và các
trường đại học miền Nam, cùng với hai bản Tuyên bố chính sách tám điểm
và mười hai điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng
Lâm thời. Trước lúc lên đường, chúng tôi được đồng chí Lê Duẩn đến thăm,
đồng chí Tố Hữu dặn dò và giao nhiệm vụ. Khi vào Sài Gòn, các đồng chí ở
Thành Ủy, trực tiếp là đồng chí Trần Trọng Tân thường xuyên gặp gỡ chỉ
đạo công việc của chúng tôi.
Anh Dật và tôi đến số 10 Đinh Tiên Hoàng
chiều ngày 2/5/1975. Trước đó, nhóm công tác thuộc Tiểu ban Giáo dục
của Trung Ương Cục đã có mặt ở trường, gồm anh Đỗ Trọng Văn, chị Trần
Thị Xuân Lâm và một chiến sĩ cảnh vệ, một thời gian sau có thêm anh Lại
Thanh Sử. Tất cả chúng tôi đều mặc trang phục Quân Giải Phóng. Đón tiếp
chúng tôi chiều hôm đó có anh Lê Thành Trị, nguyên Khoa trưởng và hai
Khoa phó là anh Lê Quang Trung và anh Lâm Ngọc Huỳnh cùng tất cả các
giáo sư và nhân viên của trường. Sinh viên thì ngay từ đầu đã tham gia
bảo vệ các cơ sở của trường và tham gia giữ gìn trật tự giao thông đường
phố. Hệ thống cảnh sát của chính quyền cũ tan rã, ở các ngã tư đường
phố, điều khiển giao thông là các sinh viên đại học trong đó rất đông là
sinh viên Văn khoa. Tuy trải qua cơn biến động rất to lớn, song khi
chúng tôi đến trường, không khí rất yên tĩnh, trật tự, tất cả sẵn sàng
đón tiếp chính quyền Cách mạng. Chúng tôi thăm hỏi anh chị em nhân viên,
sau đó gặp mặt các giáo sư đang họp mặt đông đủ ở một giảng đường ở lầu
1. Sau phút e ngại, bỡ ngỡ ban đầu, cuộc tiếp xúc đã diễn ra thân mật
và thoải mái. Chúng tôi tự giới thiệu với nhau. Qua tự giới thiệu tôi
được biết có mặt hôm đó có các vị: Nghiêm Toản, Giản Chi, Bửu Cầm,
Nguyễn Duy Cần, Lê Ngọc Trụ, Nghiêm Thẩm …, các anh: Bùi Xuân Bào, Lê
Văn Diệm, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Phạm Văn Diêu, Trần Thái
Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Bửu Lịch, Phạm Việt Tuyền, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn
Ngọc Giao (tiến sĩ tâm lý học), các chị: Bình Minh, Phạm Thị Quế, Đào
Ngọc Sương, Hoàng Thị Dần, Trương Tuyết Anh, Phạm Thị Ngọc Hoa, Phạm Thị
Tự, v.v., tu sĩ có hoà thượng Thích Quảng Liên và hai vị linh mục là
Thanh Lãng và Hoàng Sĩ Quý … Cho đến hôm nay, đã hai mươi năm rồi, tôi
vẫn còn nhớ tên, nhớ khuôn mặt, dáng người của các vị, các anh chị ngày
đó, dù tôi không thể kể hết ra đây. Thời gian qua, có vị đã qua đời như:
Nghiêm Toản, Lê Ngọc Trụ, Châu Long, Bùi Xuân Bào, Thanh Lãng, Phạm Văn
Diêu, Lê Văn Diệm, có vị đang sống ở nước ngoài, có vị đang sống, công
tác ở thành phố như cụ Giản Chi năm nay đã hơn 90 tuổi, anh Lý Chánh
Trung. Gần gũi, thường gặp là các anh chị đang công tác tại trường: các
anh Nguyễn Trọng Văn, Lê Tử Thành, Bùi Thế Cần, Nguyễn Kỉnh Đốc, Nguyễn
Văn Đậu, chị Tiêu Thị Tú, chị Bình Minh, các anh Lê Văn Chưởng, Nguyễn
Tri Tài, Nguyễn Khuê v.v. Tôi cũng còn nhớ các anh các chị nhân viên
hành chính, học vụ ngày ấy hiện vẫn còn công tác tại trường hay đã về
hưu, gần đây như anh Nguyễn Hữu Chấn, anh Phạm Văn Độ, chị Vũ Thị Kim
Ngọc Dung, chị Vân, chị Hương … Tôi cũng nhớ bác Triều và anh Hùng mới
về hưu gần đây. Hai người ấy đã không quản ngại sớm chiều giúp chúng tôi
đi lại trong thành phố còn lạ lẫm đối với chúng tôi ngày đó.
Theo chỉ thị của trên, tôi và anh Dật,
anh Văn, anh Sử, chị Lâm có nhiệm vụ tiếp nhận các cơ sở vật chất của
trường (trên thực tế vẫn được bảo tồn nguyên vẹn) và làm cho các vị giáo
sư, các bạn nhân viên và các em sinh viên được an tâm, phấn khởi, không
phải băn khoăn, lo lắng gì nhiều trước sự đổi đổi thay của tình hình và
nếu được thì vẫn tiếp tục giảng dạy, học tập, sinh hoạt bình thường
(trên thực tế điều này đã không làm được). Ngoài ra, mọi người nếu ai có
khó khăn gì về đời sống, về an ninh thì phải quan tâm tích cực giải
quyết.
Trong buổi tiếp xúc đầu tiên giữa chúng
tôi với các vị giáo sư, việc đầu tiên là các vị đã đưa ra một bản tuyên
bố do các vị dự thảo và toàn thể ký tên. Tuyên bố tán thành mọi chủ
trương, chính sách của Mặt trận và của Chính phủ cách mạng lâm thời, mọi
mệnh lệnh của Ủy ban Quân quản thành phố. Chúng tôi trân trọng đón
nhận tuyên bố đó và hứa sẽ chuyển lên cấp trên. Sau thủ tục đó, cuộc
trao đổi ý kiến bắt đầu, xung quanh một câu hỏi do chúng tôi nêu ra là: Làm thế nào để công việc học tập và giảng dạy được tiếp tục bình thường?
Thực ra, câu hỏi này nằm trong “cẩm nang” mà chúng tôi mang theo. Mục
đích của nó là làm ổn định tình hình, ổn định nhân tâm. Quả thật, câu
hỏi nêu ra đã làm các vị giáo sư đó từ ngạc nhiên đến vui mừng. Sau đó,
các vị lần lượt đưa ra nhiều ý kiến và đề nghị. Các vị thông báo cho
chúng tôi biết tình hình các mặt của trường, những khó khăn, trở ngại
cần chú ý. Các vị cũng hỏi chúng tôi về chủ trương, chính sách của cách
mạng. Anh Dật giải thích về chính sách tám điểm và mười hai điểm của Mặt
trận và Chính phủ, chính sách đối với các trường đại học vùng mới giải
phóng theo tinh thần của chỉ thị 222. Tôi làm công việc trả lời các câu
hỏi và giải đáp các thắc mắc. Tôi cũng không còn nhớ có những thắc mắc
gì và tôi đã giải đáp thế nào. Tôi chỉ nhớ đối với mọi thắc mắc, tôi chỉ
một mực động viên mọi người an tâm và tin tưởng: chính sách của Cách
mạng đối với các giới đồng bào vùng mới giải phóng, nhất là giới trí
thức, có thể tóm tắt trong mấy chữ: vì nước, vì dân, hợp tình, hợp lý.
Tình hình sắp tới có thể còn nhiều phức tạp, khó khăn, song mọi sự sẽ
được giải quyết tốt bằng tinh thần đoàn kết, xây dựng của toàn dân. Hình
như cuộc gặp gỡ đã giải tỏa được nhiều băn khoăn, lo lắng của mọi
người. Theo chủ trương của trên, chúng tôi cũng thông báo từ tháng
5/1975, các vị giáo sư và nhân viên vẫn tiếp tục nhận lương như cũ, và
nếu ở nơi cư trú các vị có gặp khó khăn trở ngại gì, xin cho chúng tôi
biết để nếu được, chúng tôi sẽ hết sức giúp đỡ.
Sau cuộc gặp đầu tiên, chúng tôi làm
quen với nhau. Nhiều vị chúng tôi biết tiếng từ trước qua sách báo.
Chúng tôi hẹn nhau những cuộc gặp gỡ nhỏ hơn để trao đổi thêm về tình
hình và công việc. Ban Việt – Hán do giáo sư Nghiêm Toản, Ban Triết Đông
do giáo sư Giản Chi, Ban Triết Tây do giáo sư Nguyễn Văn Trung, Ban Xã
hội học do tiến sĩ Bửu Lịch, Ban Địa lý do tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, Ban
Ngữ học do giáo sư Lê Ngọc Trụ, Ban Sử học do giáo sư Châu Long, Ban Anh
văn do giáo sư Lê Văn Diệm, Ban Pháp văn do giáo sư Bùi Xuân Bào, Ban
Việt văn do giáo sư Thanh Lãng, Ban Tâm lý học do tiến sĩ Nguyễn Ngọc
Giao… phụ trách. Trong các cuộc trao đổi đó, tôi thấy các vị rất thẳng
thắn, chân thành. Trong thời gian đầu còn bỡ ngỡ, các anh chị Lý Chánh
Trung, Nguyễn Văn Trung, Châu Long, Bình Minh, Nguyễn Trọng Văn, Lê Tử
Thành, Lê Văn Chưởng, v.v.. đã rất nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi nhằm sớm
ổn định tình hình nhà trường và liên hệ anh chị em trí thức ngoài nhà
trường. Ở đây, các anh chị ở Ban Trí vận và Hội Trí thức yêu nước hồi
ấy, đứng đầu là anh Nguyễn Duy Cương (Ba Trực), chị Cao Thị Quế Hương,
chị Tư Liên, v.v.. cùng với các anh chị ở Thành đoàn cũng rất ân cần
giúp đỡ chúng tôi và trường Đại học Văn khoa vốn là cở sở của các anh
chị trong phong trào đấu tranh nội thành trước đó.
Một mảng công việc rất sinh động và cảm
động là tiếp xúc với giới sinh viên. Đại học Văn khoa là nơi có phong
trào sinh viên nội thành rất sôi nổi và dũng cảm. Khi chúng tôi đến,
trong sinh viên đã có cơ sở rất mạnh của Đoàn Thanh niên và Hội sinh
viên Giải phóng với nòng cốt là các anh chị: Hạ Đình Nguyên, Lê Thanh
Liêm, Nguyễn Thị Tiến, Bùi Huyền Trân, Trần Thị Ngọc Ánh, Huỳnh Như
Phương … Chính các bạn đó đã tổ chức mọi hoạt động của sinh viên chào
mừng thành phố giải phóng, ngày đêm canh gác nhà trường, tổ chức các
cuộc hội thảo chính trị, biểu diễn văn nghệ, triển lãm tranh ảnh. Không
khí nhà trường luôn luôn sôi nổi, rộn rịp như ngày hội. Tất cả các giảng
đường, sân chơi, hành lang không ngừng vang lên tiếng đàn, tiếng hát
các điệu nhạc bài ca Cách mạng. Phổ biến nhất là “Giải phóng miền Nam”,
“Tiến về Sài Gòn”. Sống với sinh viên đại học Văn khoa những ngày ấy là
những kỷ niệm tươi đẹp nhất trong cuộc đời nhà giáo của tôi. Tôi có
nhiều câu chuyện thú vị với tuổi trẻ Sài Gòn ngày mới giải phóng gợi nhớ
không khí Cách mạng tháng Tám năm xưa. Phải cả một tập sách mới thuật
lại hết được.
Tôi chỉ xin kể lại đây hai sự kiện. Ngày
7/5/1975, kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ, mọi công việc tổ chức do
sinh viên tiến hành, chúng tôi chỉ góp ý kiến. Đêm hôm trước, anh Phan
Hữu Dật – nhà sử học – thức đến sáng để viết diễn văn về Điện Biên Phủ.
Trong buổi lễ sáng hôm sau, bài diễn văn hùng hồn của anh gây sự chú ý
và hào hứng chưa từng có trong hàng ngàn người dự hôm đó, ngồi chật cứng
cả giảng đường lớn từ trong ra ngoài. Công việc của tôi dễ dàng hơn là
đọc bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu. Bài thơ cũng được
hoan hô nhiệt liệt, có người nhảy lên tung khăn, tung mũ để tỏ nhiệt
tình. Có lẽ đây là lễ kỷ niệm Điện Biên Phủ đầu tiên ở Sài Gòn, tại một
trường Đại học. Nhiều giáo sư đã phát biểu ý kiến trong buổi lễ đó. Tôi
nhớ giáo sư Thanh Lãng kể lại cuộc đầu tranh chống Mỹ và Thiệu của các
tu sĩ và đồng bào Công giáo sau Hiệp định Paris, mối cảm tình của những
người Công giáo yêu nước đối với những người cộng sản. Dáng người cao,
giọng nói tình cảm, vị linh mục ấy rời diễn đàn với câu hỏi: “Những
người anh em cộng sản có thương chúng tôi không?” Ngồi cùng với nhau
trên hàng ghế, tôi bảo anh: “Chia cắt, phân ly ba mươi năm nay, bây giờ
mới được sum họp, người Việt Nam không biết thương nhau thì ai thương
mình?” Hôm nay, linh mục Thanh Lãng chắc đang ở trên thiên đàng cùng với
Chúa của anh, xin hãy “cầu cho chúng tôi!”.
Mười hai ngày sau đó là lễ kỷ niệm sinh
nhật Bác Hồ, 19/5. Chúng tôi có thời gian để chuẩn bị nhiều hơn. Các
trường Đại học và các cơ quan của Bộ Giáo dục đều tập trung về giảng
đường Đại học Văn khoa để dự lễ, đội ngũ chỉnh tề, có biểu ngữ, có ảnh
Bác. Tổ công tác đại học chúng tôi đã kịp in hai tài liệu để phát hành
trong dịp đó. Một là toàn văn Di chúc của Bác, hai là Tập trích các lời nói, bài nói của Bác về giáo dục. Tôi nhớ lại niềm phấn khởi của mọi người khi nhận hai tài liệu đó. Nhiều người lần đầu tiên mới được đọc toàn văn Di chúc Bác Hồ, có người chảy nước mắt. Mấy vị giáo sư trầm trồ bình luận về hai chữ “nhất định” trong Di chúc: “Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định sẽ cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà …” Đó là những lời tiên tri. Trong hoàn cảnh đó, tôi nhận thấy từng lời của Bác trong Di chúc
giản dị, đằm thắm như vậy mà tác động vô cùng mạnh mẽ đến lòng người,
hơn tất cả mọi lời hùng biện. Về những ý kiến của Bác về giáo dục, cũng
có một cuộc thảo luận nhỏ xảy ra. Có người phát hiện rằng: Ý kiến của
Bác nói với thanh niên: “Thanh niên phải tự hỏi xem mình đã làm gì cho
Tổ quốc trước khi đặt câu hỏi Tổ quốc đã làm gì cho mình?” thì tổng
thống Mỹ John Kennedy cũng có câu nói như vậy. Câu nói đó trước đây ở
Sài Gòn nhiều người cho là hay, nhưng xét về thời gian, Bác Hồ nói câu
ấy trước Kennedy.
Tôi nhớ trước ngày sinh nhật Bác, giáo
sư Lý Chánh Trung đưa cho tôi xem bản thảo một bài anh mới viết về Bác
Hồ. Một bài viết rất hay. Tôi đã biết anh Trung là một cây bút chính
luận xuất sắc của báo chí tiến bộ ở Sài Gòn. Năm 1969, vào dịp Bác mất,
anh đã đăng lên báo chí công khai ở Sài Gòn bài: “Nói chuyện với người
đã khuất” ca ngợi Bác, được dư luận rất hoan nghênh và xem đó là một
hành động rất dũng cảm của một trí thức yêu nước. Buổi kỷ niệm Bác trong
các giáo sư, anh Trung đã đọc bài viết mới của anh và sau đó bài được
đăng lên tờ “Tin Sáng” vừa mới được tục bản sau ngày 30/4/1975. Quốc
khánh 2/9 năm ấy, anh Trung ra dự lễ ở Hà Nội, có đến thăm ngôi nhà sàn
của Bác. Trở về, anh viết mấy bài cũng rất hay về Hà Nội và Bác Hồ. Tôi
tin rằng lịch sử văn học Việt Nam sau này thế nào cũng nhắc đến các bài
chính luận của Lý Chánh Trung, nhất là tập Bọt biển và sóng ngầm
cùng các bài viết của anh về Bác Hồ. Lý Chánh Trung là khuôn mặt và
tính cách in đậm nét trong ký ức của tôi trong suốt hai mươi năm qua,
cùng với hình ảnh của rất nhiều vị trí thức yêu nước đáng kính khác mà
tôi được hân hạnh gặp gỡ và làm quen từ ngày 30/4 lịch sử. Tôi ở Đại học
Văn khoa đến cuối năm 1975 thì được điều sang Đại học Sư phạm để năm
1985 lại trở về Khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp cho đến bây giờ.
Hai mươi năm. Mới đó mà thời gian đã
bằng thời gian của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955 – 1975). Ghi lại đôi
dòng kỷ niệm trên đây, tôi muốn cùng các đồng chí của tôi cùng công tác
như tôi ngày ấy làm chứng một điều trong rất nhiều: Chính sách của Đảng
đối với trí thức nói chung tuy còn những thiếu sót và bất cập mà Đảng đã
nhiều lần tự phê bình, và những người có lúc lĩnh trách nhiệm thực hiện
chính sách trí thức của Đảng như chúng tôi cũng còn những sai sót và
khuyết điểm trong công tác, nhưng tấm lòng của Đảng với trí thức miền
Nam trong những ngày mới giải phóng thật là nhân hậu, chu đáo, ân cần.
Tôi nhớ khi đến thăm chúng tôi trước ngày chúng tôi đi Sài Gòn, đồng chí
Lê Duẩn căn dặn: “Không được làm thương tổn đến lòng tự trọng của anh
chị em”. Đồng chí Tố Hữu cũng căn dặn: “Không được làm cho anh chị em
thấy mình nhỏ bé lại mà phải thấy mình cao cả thêm cùng với dân tộc.
Trong chiến thắng chung, có phần của tất cả mọi người yêu nước, dù hoàn
cảnh của mọi người không phải ai cũng giống ai. Các đồng chí không được
trừ đi mà phải cộng thêm vào trong thành tích của mỗi người”. Đồng chí
nhắc lại câu nói của Bác Hồ: “Ai bỏ Cách mạng tùy họ. Cách mạng không bỏ
ai.”
Không phải bao giờ cuộc sống và con
người cũng được trọn vẹn như lý tưởng, song những điều tốt đẹp như lý
tưởng bao giờ cũng là điều căn bản và lâu dài nhất nơi mỗi con người
cũng như trong cuộc sống của dân tộc chúng ta hôm qua, hôm nay và ngày
mai.
Tháng 4-1995
No comments:
Post a Comment