Câu chuyện chưa kể đằng sau bài ca mất nước ‘Khúc Hậu Đình Hoa’ (P.2)
Trong lịch sử Trung Hoa, triều
đại thịnh trị và tạo nên những kỳ tích huy hoàng là triều Đường. Năng
lượng ấy mãnh liệt đến mức nó duy trì đến mấy trăm năm sau. Mặc dầu đôi
lúc có loạn lạc, có những vị vua kế nghiệp bất tài nhưng cái thời Trinh
Quán ấy như một dòng sông Ngân chảy giữa đất trời với muôn vàn tinh tú
xôn xao với những ánh sáng lạ…
Thế nhưng khi Đường triều đến thời mạt,
thì chính trị nhiễu nhương, xã hội loạn lạc, và đình triều cũng mục nát
như ai. Một triều đại đã đến tuổi già nua, bộc lộ nhiều bệnh hoạn, sắp
tới hồi chung cục.
Và Đỗ Mục là nhà thơ sống giữa thời mạt ấy.
Nhắc tới Đỗ Mục, người ta thường nhớ tới
những bài thơ vẽ nên cảnh sắc trữ tình, nói nên thứ tình cảm trong sáng,
lành mạnh, thanh nhã, nhẹ nhàng làm rung động lòng người. Có thể nhắc
đến hai bài sau:
Thanh minh
Thanh minh lất phất mưa phùn
Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa
Hỏi thăm quán rượu đâu à?
Mục đồng chỉ lối Hạnh Hoa thôn ngoài.
Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa
Hỏi thăm quán rượu đâu à?
Mục đồng chỉ lối Hạnh Hoa thôn ngoài.
Sơn hành
Lên đỉnh non thu chếch nẻo ngoài,
Giữa vùng mây trắng thoáng nhà ai.
Dừng xe, chiều ngắm rừng phong thẳm,
Lá đỏ hơn hoa giữa tháng hai.
Giữa vùng mây trắng thoáng nhà ai.
Dừng xe, chiều ngắm rừng phong thẳm,
Lá đỏ hơn hoa giữa tháng hai.
Nhưng có lẽ bài thơ đọng lại nhiều cảm xúc ngậm ngùi trong tâm khảm người đọc lại là:
Bạc Tần Hoài
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”.
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”.
Dịch nghĩa:
Khói lan toả trên nước lạnh, ánh trăng lan trên cát
Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu
Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc “Hậu đình hoa”.
Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu
Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc “Hậu đình hoa”.
Dịch thơ (Bản dịch của Trần Trọng Kim):
Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát,
Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia.
Gái ca đâu nghĩ nước nhà,
Cách sông vẫn hát khúc” Hoa Hậu Đình”.
Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia.
Gái ca đâu nghĩ nước nhà,
Cách sông vẫn hát khúc” Hoa Hậu Đình”.
Tác phẩm được đặt tên như một thứ mô-tip
của Đường Thi. Nếu Trương Kế có “Phong Kiều dạ bạc” (đêm đậu thuyền ở
bến Phong Kiều) thì ở đây là “Dạ bạc Tần Hoài” (đêm đậu thuyền ở bến Tần
Hoài). Ba chữ “Bạc Tần Hoài” tên tác phẩm có gì đó khu biệt với các bài
thơ cùng thể loại.
Tần Hoài là con sông bắt nguồn từ vùng
Đông Bắc tỉnh Giang Tô, chảy qua Nam Kinh rồi đổ vào sông Trường Giang.
Tương truyền khi Tần Thuỷ Hoàng tuần du đất Cối Kê ở phương Nam, mới cho
đào khúc sông này để nối dòng Hoài Thuỷ chảy vào Trường Giang, nên mới
có tên là Tần Hoài từ đó.
Có tài liệu viết rằng, từ thời Lục Triều
(giai đoạn ra đời Hậu Đình Hoa), hai bên sông Tần Hoài đã nổi tiếng là
khu vực vui chơi xa hoa vô độ. Các triều đại sau đó có thịnh suy đổi
thay nhưng khu vực này vẫn như thế. Đặc biệt là tới thời mạt Đường đây
là chốn ăn chơi sa đọa nhất, lặp lại những triều đại đã suy vi trước đó.
Như vậy, cũng là ghé bến sông trong đêm nhưng ở Phong Kiều thì yên tĩnh đến lặng tờ:
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
(Tản Đà dịch)
Còn bến Tần Hoài của Đỗ Mục lại là Kim
Lăng đô hội, chốn ăn chơi mải miết quên đất quên trời. Đây là một đoạn
sông chảy ngang qua kinh đô một thuở của vua Trần Hậu Chủ, vì đam mê tửu
sắc, say đắm ca vũ mà nước mất, nhà tan…
Tiết Thanh Minh không đoàn viên ở quê
cha, dừng xe bên núi ngắm nhà trong mây, hy vọng có một cửa Thiền chào
đón. Và bây giờ thay cho việc đi bộ giữa đồng, đi xe lên núi, Đỗ Mục với
một lá thuyền con mệt mỏi ghé bến tửu lâu! (Chữ “Bạc” 泊 có ba chấm thuỷ
bên trái, có nghĩa là “trôi nổi”, cũng có nghĩa là “ghé lại”, ví dụ như
“bạc thuyền” là ghé thuyền lại).
Nhưng trong thời loạn, hoạn quan và lũ xu
nịnh nhiều như dòi bọ hỏi kiếm ai ra người tri âm? Và cũng trong thời
mạt tận của nhà Đường, bậc thi nhân ngồi riêng một góc trong quán rượu
không phải để say mà để uống những đắng cay thực tại, để mơ về thời
thịnh thế Trinh Quán, để thấy cái tương lai treo trên sợi chỉ mành của
một vương triều tàn mạt!
Câu thứ nhất:
“Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa”
(Khói lan toả trên nước lạnh, ánh trăng lan trên cát)
(Khói lan toả trên nước lạnh, ánh trăng lan trên cát)
Câu thơ thứ nhất có hai chữ “lung” nối
kết khói nước cùng mặt nước lạnh trên sông Tần Hoài, kết ánh trăng và
bãi cát thành từng cặp nhất thể. Tất cả trở thành mông lung, mờ ảo, cứ
chập chờn, mang mang trong con mắt của một người say.
Cảnh vật được nhìn ở tầm gần. Có lẽ lúc con thuyền chuyển bánh lái ghé vào một cái bến có tửu gia:
“Yên lung hàn thuỷ”: Nhà thơ thấy những lớp khói sóng đang phủ trùm không cho ai thấy mặt nước lạnh của sông.
“Nguyệt lung sa”: Trăng in lên bãi nhuộm
cát thành tấm lụa óng ánh dài và rộng. Bờ sông bên này dường như chỉ có
một con thuyền cột vào bên quán rượu, có trăng trong, có đêm lạnh, có
“Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nỗi buồn thời thế và nỗi buồn thấy
đời người như bóng ảnh đã làm cho cái nhìn về thời gian dường như lộn
ngược.
Bởi, đáng lẽ ghé vào bến sông Tần Hoài,
nhà thơ có dịp nhìn “Khói sóng không bay cao mà trắng xóa, mờ mịt che
làn nước xanh lạnh ngắt dưới ánh trăng”.
Sau đó, đến ngồi trong quán rượu, thi nhân mới có điều kiện để nhìn trăng lồng ánh sáng cho bãi cát.
Câu thứ hai:
“Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia”
(Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu)
(Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu)
Câu thứ nhất tả cảnh. Câu thứ hai kể sự kiện: “Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia”.
Với tâm trạng buồn của kẻ “cô phàm nhân”
trong đêm lạnh, trăng dầu dãi thì ghé quán rượu để quên, để xóa đi nỗi
sầu là lựa chọn cần thiết.
Hai câu cuối:
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”.
(Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc “Hậu đình hoa”.)
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”.
(Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc “Hậu đình hoa”.)
Hai câu cuối cũng thay đổi trật tự của
logic. Đáng lẽ nói: Cách sông ta nghe tiếng hát, tiếng ca xướng rất rộn
rã của bài “Hậu Đình hoa” từ bờ bên kia. Các cô gái ca kỹ ấy không biết
nỗi hận mất nước hay sao?.
Ở đây, Đỗ Mục lại viết :
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
(Những ca kỹ bán mình không biết nỗi hận mất nước)
(Những ca kỹ bán mình không biết nỗi hận mất nước)
Sau đó mới cho biết cái nguyên nhân nào của câu thơ này :
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”
(Cách con sông, phía bờ bên kia còn rộn rã cùng nhau hát xướng khúc “Hậu Đình hoa”!)
(Cách con sông, phía bờ bên kia còn rộn rã cùng nhau hát xướng khúc “Hậu Đình hoa”!)
Những người ca kỹ này đang sống trong một
đất nước dù loạn lạc, suy tàn nhưng vẫn là triều Đường. Họ đang hát bài
ca của Trần Hậu Chủ thời Nam Bắc triều đã xảy ra cách đó 200 năm rồi!
Lớp hậu sinh này làm sao mà biết được những gì đã xảy ra trong lịch sử đã dằng dặc trôi qua lâu như vậy?
Với lại, thân phận dưới đáy xã hội, họ
dùng tấm thân và khả năng ca vũ để kiếm cơm qua ngày, một kiếp “thương
nữ” phù du, ta làm sao đòi hỏi họ phải có tấm lòng ưu thời mẫn thế của
đấng trượng phu?
Đỗ Mục đang trách những người ca kỹ ấy
không biết đến nỗi hận mất nước. Chính ông cũng biết cái trách ấy là
không đúng đối tượng.
Thực ra, ông hiểu cái họa mất nước chỉ
tính từng ngày. Cả triều đình mù quáng, bất tài lo ăn chơi cũng “hồn
nhiên” như những cô thương nữ kia mà thôi!
Kịch bản của thời Hậu Trần lại được đưa
lên sân khấu với những người thủ vai như vậy. Lịch sử lại là vòng quay.
Đáng buồn là bao nhiêu kẻ thức nhận được như Đỗ Mục đều không sao cản
lại, chỉ đi theo con bệnh mà thở dài.
Cũng cần nói một chút về âm nhạc của người xưa, thực ra ba yếu tố: thơ, nhạc và vũ điệu đều luôn đồng nhất.
Tương truyền, khi vua Thuấn sai người
diễn tấu nhạc vũ “Đại thiều”, sau khi diễn tấu xong 9 chương, có phượng
hoàng đến chầu bái, nhảy múa, trăm loài thú cũng nhảy múa theo.
Hơn 2000 năm sau, Khổng Tử đánh giá rằng: “Nhạc Đại thiều tận thiện tận mỹ vậy”.
Người xưa cho rằng âm nhạc là để cho con
người vui vẻ. Nhưng niềm vui mà người quân tử có được là vì dùng nhạc để
đồng hóa với Đại Đạo, còn niềm vui mà kẻ tiểu nhân có được là dùng nhạc
để thỏa mãn ham muốn của con người. Dùng thiên đạo để tiết chế tư dục,
thì sẽ có được niềm vui chân chính mà không mê loạn. Phóng túng tư dục
mà xa rời thiên đạo, thì sẽ mê mất tâm trí nên không có được niềm vui
chân chính.
Nghe âm thanh gian tà, thì khí tà loạn
trên thân người sẽ bị đánh thức, tà khí thành khí hậu, nhạc dâm dật sẽ
trở thành thời thượng. Nghe âm thanh thuần chính, chính khí trên thân
người sẽ hưởng ứng với nhạc, chính khí thành khí hậu, hòa nhạc sẽ thịnh
hành…
Trần Hậu Chủ xướng nhạc dâm loạn mà trao nước cho nhà Tùy.
Nhưng nhà Tùy lại theo vết xe đổ ấy.
Người ta kể rằng, một hôm nghe xong bản nhạc trong cung Tùy, nhạc công
Vạn Bảo Thường nói: “Tiếng nhạc này bạo ngược lại bi ai, báo trước thiên
hại sắp tới sẽ tự tàn sát lẫn nhau, hơn nữa con người cũng sẽ bị giết
gần hết”.
Kết cục của nhà Tùy còn thê thảm hơn Hậu Chủ: Tùy Dạng Đế bị giết chết ở Giang Đô!
Âm nhạc, ca vũ, ca từ với người xưa là
điềm báo nhạy cảm nhất về sự thịnh hay suy, tồn hay vong của một đất
nước. Đỗ Mục nghe rộn ràng như một dàn hợp xướng hát khúc “Ngọc Thụ Hậu
Đình Hoa”, một khúc hát được gọi là “Vong Quốc Chi Âm” (Khúc âm nhạc mất
nước), làm sao ông không khỏi bàng hoàng?
Nhà Tùy diệt nhà Trần vì an chơi xa xỉ,
nhà Đường diệt Tùy cũng là thay Trời hành Đạo. Bởi mức độ ăn chơi của
thời Hậu Tùy gấp trăm ngàn lần Hậu Chủ!
Và thật oái oăm với lịch sử. Đến lượt Vãn
Đường vua chúa lại tin dùng hoạn quan, lại mê gái đẹp, say tiếng hát
hay… lại bóc lột dân chúng mà thỏa dục tính ích kỷ, trụy lạc.
Khúc “Hậu Đình Hoa “được rất nhiều các nhà thơ cùng thời hoặc sau thời của Đỗ Mục nhắc nhở như một bài học giáo huấn từ lịch sử.
Lưu Vũ Tích ngậm ngùi khi nghĩ tới cố đô
của 6 triều đại đi qua. Ông cho rằng, tất cả được-mất là do con người.
Và cảnh cáo về bài học mất nước của Hậu Chủ là thói ăn chơi vô độ
Kim Lăng hoài cổ
Việc hưng phế là do người tạo
Chứ núi sông diện mạo trơ trơ
Chứ núi sông diện mạo trơ trơ
“Hậu đình hoa” khúc thoảng đưa
Điệu buồn u ám người nghe não lòng.
Điệu buồn u ám người nghe não lòng.
Lý Thương Ẩn sống cùng thời với Đỗ Mục,
khi đi qua cung điện tan hoang của nhà Tùy, ông mô tả cảnh đổ nát tiêu
sơ của chốn xưa đang dành cho ma quỷ trú ngụ. Bầy đom đóm và con quạ già
chính là hậu thân của những kẻ làm vua ăn chơi mà quên dân tình lầm
than khốn khổ. Những câu hỏi mỉa mai: Nếu không có Đường Thái Tông thì
sự ăn chơi không biết sẽ còn tăng trưởng bao nhiêu lần nữa? Hóa ra trên
cõi thế, cả hai là kẻ thù, người chính kẻ tà, nhưng gặp nhau chín suối
lại cùng hát “Hậu Đình hoa”!
Cung điện nhà Tùy
Suối xanh cung điện khoá yên hà
Toan lấy Vô thành dựng đế gia
Ví chẳng ấn vàng về kẻ khác
Ắt là buồm gấm đến miền xa
Toan lấy Vô thành dựng đế gia
Ví chẳng ấn vàng về kẻ khác
Ắt là buồm gấm đến miền xa
Giờ đây cỏ mục không đom đóm
Muôn thuở cành dương có quạ già
Dưới đất gặp vua Trần Hậu chủ
Muôn thuở cành dương có quạ già
Dưới đất gặp vua Trần Hậu chủ
Há nên hỏi khúc “Hậu đình hoa”?
La Vinh
No comments:
Post a Comment