Phượng hoàng
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin.
|
Phượng hoàng | |||
---|---|---|---|
Bức tượng phượng hoàng, thành phố Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc | |||
Tên tiếng Trung | |||
Phồn thể | 鳳凰 | ||
Giản thể | 凤凰 | ||
| |||
Tên tiếng Việt | |||
---|---|---|---|
Quốc ngữ | Phượng/Phụng Hoàng/鳳凰 | ||
Tên tiếng Triều Tiên | |||
Hangul | 봉황 | ||
Hanja | 鳳凰 | ||
| |||
Tên tiếng Nhật | |||
---|---|---|---|
Kanji | 鳳凰 | ||
|
Phượng hoàng (phương ngữ Nam Bộ: Phụng hoàng (tiếng Trung giản thể: 凤凰, phồn thể: 鳳凰 fènghuáng; tiếng Nhật: 鳳凰 hō-ō; tiếng Triều Tiên: 봉황 bonghwang) nguyên thủy là các con chim trong thần thoại của người dân khu vực Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa, ngự trị trên tất cả các loài chim khác. Trước đây, con trống được gọi là Phượng còn con mái được gọi là Hoàng,
nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn và Phượng
cùng Hoàng đã được trộn lẫn vào nhau thành một thực thể giống cái, gọi
là phượng hoàng, để cho nó có thể ghép cặp với long (rồng), là con vật mang ý nghĩa của giống đực. Người Hán
thường sử dụng thành ngữ "Con cháu rồng" như là dấu hiệu của việc nhận
dạng theo chủng tộc. Phượng hoàng còn được gọi là "côn kê"? (鶤雞 kwangai tiếng Quảng Đông kūnjī quan thoại) do đôi khi nó được dùng thay cho con gà trong Can Chi. Tại thế giới phương Tây, chẳng hạn như người nói tiếng Anh, gọi nó là Chinese phoenix (phoenix cũng được dịch sang tiếng Việt là "phượng hoàng", mặc dù nó là con vật thần thoại không có khái niệm tương đương trong văn hóa của người Việt) hay ho-oh bird (từ tiếng Nhật hō-ō).
Biểu hiện
Miêu
tả phổ biến là chim phượng hoàng đang tấn công con rắn bằng móng vuốt
của nó với đôi cánh dang rộng. Người ta tả chim phượng hoàng với các đặc
điểm sau: đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá, với 5 màu và cao 6
thước. Nó tượng trung cho 6 thiên thể mà ngày nay có thể hiểu nôm na
là: đầu là trời, mắt là mặt trời, lưng là Mặt Trăng, cánh là gió, chân
là đất và đuôi là các hành tinh. Lông của nó đại diện cho màu sắc của Ngũ hành: đen, trắng, đỏ, xanh và vàng [1].
Nguồn gốc
Hình ảnh về phượng hoàng đã xuất hiện tại Trung Quốc cách đây trên 7.000 năm, thông thường trong các miếng ngọc và trên các tôtem (vật tổ) may mắn[cần dẫn nguồn].
Nó là tôtem của các bộ lạc miền Đông thời cổ đại ở Trung Quốc. Các
thuyết ngày nay cho rằng nó có thể là hình ảnh đại diện cho một loài
chim lớn thời tiền sử, tương tự như đà điểu, khá phổ biến ở Trung Hoa tiền sử. Có người cho rằng, phượng hoàng là hiện thân của loài chim thuỷ tổ (khủng long dạng chim).
Trong thời kỳ nhà Hán
(khoảng 2.200 năm trước), phượng hoàng được sử dụng như là biểu tượng
của hướng nam, được thể hiện dưới dạng con trống (phượng, 鳳) và con mái
(hoàng, 凰) quay mặt vào nhau. Nó cũng được sử dụng để biểu thị cho hoàng hậu (hay các phi tần) khi trong cặp đôi với rồng là biểu thị của vua hay hoàng đế.
Nó đại diện cho quyền lực mà Thượng đế ban cho hoàng hậu. Nếu hình ảnh
phượng hoàng được sử dụng để trang trí nhà cửa thì nó là biểu tượng cho
lòng trung thành và sự trung thực của những người sống trong ngôi nhà
đó.
Trong văn hóa Việt Nam chim Lạc là hình ảnh khởi thủy và dần được
phát triển thành hình tượng Phượng Hoàng như ngày nay qua các thời kỳ
phong kiến tượng trưng cho ước mơ vượt không gian bất chấp giông tố thử
thách, vươn lên với cao rộng như khát vọng muôn đời chinh phục bầu trời.
Ý nghĩa
Phượng
hoàng có ý nghĩa tích cực. Nó là biểu tượng của đức hạnh và vẻ duyên
dáng, thanh nhã. Phượng hoàng cũng biểu thị cho sự hòa hợp âm dương. Theo truyền thuyết, nó xuất hiện trong thời kỳ hòa bình và thịnh vượng nhưng không có khi thời kỳ tăm tối sắp đến.
Là hóa thân của Âu Cơ là quốc mẫu của dân tộc Việt Nam
trong truyền thuyết con rồng cháu tiên. Âu Cơ là một tiên nữ, con gái
một vị thần núi nào đó mà không phải là Đế Lai của Thần Nông Thị. Nàng
đi khắp bốn phương để giúp đỡ và chữa trị cho những người đang lâm bệnh
và gặp khó khăn. Nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật. Một ngày nọ,
một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng liền biến thành một con phượng
hoàng mà bay đi. Lạc Long Quân, là thần rồng từ biển cả, thấy nàng đang
gặp nguy hiểm liền cầm lấy cục đá và giết tên quái vật Sau đó tình yêu
đã nảy nở giữa hai người và họ cưới nhau. Âu Cơ sinh ra một bọc trứng có
100 người con đó là tổ tiên người Việt.
Tại Trung Hoa thời cổ đại, có thể tìm thấy hình ảnh của phượng hoàng trong các trang trí của các đám cưới hay của hoàng tộc, cùng với rồng.
Điều này là do người Trung Quốc coi rồng và phượng (hoàng) là biểu
tượng cho quan hệ hạnh phúc giữa chồng và vợ, một kiểu ẩn dụ khác của âm
và dương.
Sử dụng ngày nay
- "Phượng trảo" (鳳爪), một món ăn trong ẩm thực Quảng Đông, là chân gà nấu lẫn với đỗ đen.
- "Phượng" hay "Hoàng" là một trong số các tên gọi của con gái (tương tự như "Long" dành cho con trai).
- "Long phượng thai" (龍鳳胎) là câu để biểu thị một cặp con trai, gái song sinh.
- Phượng Hoàng cũng là tên gọi của một huyện ở phía tây tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, trước đây là một sảnh (廳 hay 厅).
- Tại Triều Tiên, nó từng được sử dụng trong hình vẽ trên huy hiệu của hoàng gia hay của tổng thống.
- Chu tước, một trong Tứ tượng, đôi khi cũng bị nhầm lẫn là Phượng hoàng, trong khi trên thực tế chúng là hai thực thể khác nhau.
- Hai con chim Phượng Hoàng cuộn vào nhau - biểu tượng của đài truyền hình Đài Loan.
Trong dân gian
Phượng, hay Phượng hoàng, Phụng, là một trong 4 tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam và các nước Á Đông khác. Phượng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công... Các bộ phận của phượng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, Mặt Trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phượng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ. Vì thế phượng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phượng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu và người đàn bà đẹp.
Người ta thường dùng Loan Phượng để chỉ cặp vợ chồng xứng đôi, hoặc cặp vợ chồng yêu nhau tha thiết:
Người ta thường dùng Loan Phượng để chỉ cặp vợ chồng xứng đôi, hoặc cặp vợ chồng yêu nhau tha thiết:
Tình yêu đôi lứa mặn nồng,
Loan ấp lấy phượng bồng lấy loan.
Các nhà hàng có tổ chức tiệc cưới thường trang trí hình loan phượng.
Từ điển Nguyễn Quốc Hùng
Chim loan và chim phụng.
Chỉ vợ chồng. Td: Loan phụng hoà minh ( Chim loan chim phượng hót lên êm
đềm, chỉ sự hoà hợp vợ chồng ). » Nay đà loan phụng rẽ bầy, Nệm nghiêng
gối chích phận này đã cam « ( Lục Vân Tiên ).
Câu chuyện xưa
Phụng Hoàng, Phượng Hoàng là một trong tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng.
Khi gọi “Long Phụng...”, long tượng trưng cho nam giới, hùng mạnh, cứng
cỏi; phụng tượng trưng cho nữ giới, thướt tha, uyển chuyển. Bên cạnh chữ
“Song Hỷ”, hình ảnh phượng xòe, rồng uốn khúc, cuộn mây được gọi “Long
Vân Tế Hội”. Trên mũ, áo hoàng đế trang trí hình rồng; trên mũ, áo hoàng
hậu trang trí hình phụng hoàng. Trên cung điện và ở trong nhiều công
trình kiến trúc thơi xưa đều được chạm trổ, vẽ hình ảnh long, phụng như
biểu tượng cao quý, uy quyền, mỹ thuật, thanh tao.
Khi chữ viết bay bướm, linh động, có thần, đẹp tuyệt vời - điển hình như chữ Hán - dùng thành ngữ "Phụng bay rồng múa" để diễn tả nét bút độc đáo của nó.
Trong tứ linh đó, phượng còn đi với lân, đi vào văn học để biểu lộ sự tương hợp, cùng dong dõi quyền quý với nhau:
"Đồng hàng lông phượng gót lân
Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng"
(Nhị Độ Mai)
Vào triều Nguyễn, hình ảnh rồng danh cho nhà vua; hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa với hình chim phụng hoàng trên áo mũ màu vàng, màu đỏ và cung tần được chia ra làm 3 loại theo thứ bậc cao thấp, thêu 5, 3 và 1 con phượng trên mũ. Áo sa sợi tơ màu đỏ, màu tía và màu trắng cũng tùy theo thứ basc cao thấp dệt hình con loan.
Phượng hoàng là linh vật, phượng là chim trống, hoàng là chim mái, còn gọi là loan.
Vào thời Hán Vũ Đế, máu Chim Loan được dùng làm keo nối dây cung, dây đàn, rất chắc, bền. Giao là keo, vì vậy có câu "An đắc giao loan tục đoạn huyền" (Ước gì có keo loan để nối giây đàn đứt). Thi hào Nguyễn Du đề cập qua dòng thơ:
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Giao loan chắp nối, tơ thừa mặc em"
(Kiều)
Hình ảnh phụng loan tượng trưng cho điều lành, tốt đẹp, bền vững bên nhau, vì vậy, khi chúc mừng cho đôi uyên ương được nên duyên tốt đẹp, dùng “Loan Phụng Hòa Minh” để bầy tỏ duyên tơ thắm thiết vợ chồng.
Trong thi ca Việt Nam đã đề cập đến hình ảnh giữa phụng và loan:
“Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng”
(Kiều)
“Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai”
(Kiều)
Ca dao Việt Nam có câu:
"Phụng với loan hai đàng phân rẽ
Qua với nàng chẳng lẽ phân nhau".
“Loan ôm lấy phụng, phụng bồng lấy loan”
Mối tình đầy lãng mạn, thơ mộng của Phan Tất Chánh & Trần Kiều Liên từ thời Tống Tĩnh Khang ở Trung Hoa thời xa xưa được viết qua truyện thơ nôm “Phan Trần” đi vào văn học Việt Nam, ghi lại hình ảnh đôi kẻ tình si lúc hội ngộ:
"Vũ môn mừng đã đến tuần
Phượng loan rày gặp, phong vân phải tìm”.
(Phan Trần)
Vào tiền bán thế kỷ XX, nhà thơ Tản Đà có bài thơ chúc mừng tân hôn:
"Mừng ai gối phượng, chân loan
Khuyên ai gánh lấy giang san nhà chồng
Chúc ai tay bế tay bồng
Con tiên rồi lại cháu Rồng về sau"
Khi mối tình gãy đỗ, nhẹ nhàng mượn hình bóng “phụng loan chếch cánh” cho có vẽ nhẹ nhàng, văn chương. Khi trai và gái chưa thành hôn mà sống chung chạ với nhau, người xưa đã gọi "phượng chạ loan chung". Và, bày tỏ tình cảnh vợ chồng ngăn cách, vợ một nơi, chồng một ngã: "loan phiêu phụng bạc"
Loan giá: xe của vua đi. Loan dư: kiệu của vua đi. Loan tường phụng chủ: chữ viết sinh động như loan liệng phụng bay. Phượng cái: lọng của vua có thêu hình chim phượng. Phượng chiếu: tờ chiếu của vua có vẽ hình chim phượng. Phượng kỳ: nghi trượng của vua. . .
Theo GS Thái Văn Kiểm, nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka quả quyết chim trĩ cũng giống như chim phụng hoàng. Phụng hoàng co đuôi dài chấm nhãn khá nhiều, vừa giống chim trĩ, vừa giống chim công, Tay gọi là Faisan ocelle', Faisan argus; tên La tinh là Argusianus Argus…... Chim loan (chim mái) có lông ngũ sắc nhưng sắc xanh óng ánh nhiều hơn, còn chim phụng cũng lông ngũ sắc nhưng màu đỏ tía nhiều hơn.
Phượng hoàng luôn luôn sát cánh bên nhau vượt đại dương, núi rừng, thảo nguyên bát ngát, bay tận trời xanh, cỡi mây, lướt gió.
Trong khoảng bốn trăm loài chim, phụng hoàng được xem như chúa tể. Ăn quả trúc, uống nước suối trong. Vào thời xa xưa, phụng hoàng vượt núi rừng, biển cả về núi Côn Luân, uống nước suối Để Trụ, tắm nước Nhược Thủy, phơi nắng trên đỉnh Đơn Tuyệt. Khi bay có nhiều giống chim khác bay theo tháp tùng. Khi hót, hàng trăm loài chim cùng cất theo, hòa thành bản đại hợp tấu với muôn nghìn âm điệu. Phụng hoàng thân cao, dáng vẻ thanh nhã, màu sắc lộng lẫy. Mỏ như mỏ gà trống, trên mỏ có mồng, cổ như cổ rắn, lưng tựa rùa, lông mầu ngũ sắc, đuôi sặc sở như đuôi công, xếp lại như đuôi cá.
Ngày xưa, vua Phục Hy đời thượng cổ, thấy chim Phụng Hoàng đậu trên cây ngô đồng, nhà vua cho hạ cây ngô đồng, cưa làm 3 khúc. Nhà vua cho người thử, khúc ngọn phát ra tiếng trong, khúc gốc tiếng đục, khúc giữa phát ra chuổi âm điệu từ trong đến đục. Nhà vua cho ngâm khúc giữa vào dòng nước chảy 72 ngày rồi giao cho Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây đàn, gồm 13 phím, 5 giây (Cung, Thương, Giốc, Chủy Vũ), đặt tên là Diêu Cầm. Đời Văn Vương, Võ Vương thêm hai giây (Văn, Võ). Một loại cây thông thường được Phụng Hoàng đậu đã trở thành danh mộc, khai sinh ra loại đàn. Trong thơ cổ có câu: “Phục Hy chế tác lễ nghi”, cây Diêu Cầm là hình ảnh đầu tiên cho lễ nhạc.
Vào thời Xuân Thu, Kính Trọng công thành danh toại nhưng quá thận trọng về đường tình duyên và khi bói được quẻ "Phụng Hoàng" mới chọn người phối ngẫu.
Hình ảnh phượng hoàng trở thành điển tích ,như huyền thoại và được dè cập trong văn học cho lương duyên cuộc tình:
"Phượng bay bốn bể cầu hoàng
Giai nhân chẳng ở đông sàng thì đâu"
(Tây Sương Ký)
"Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng
Cây ngô cành bích con chim phượng hoàng nó đậu cao.
Anh tiếc cho em phận gái má đào
Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào lấy chú Tây đen"
(Tản Đà)
“Thơ mừng kính có lời trân trọng,
Gia thất hòa vui tiếng phượng hoàng”
(Đông Hồ)
“Phượng cầu dù lựa nên cung
Ngọn cầm biết gẩy được lòng hay chăng”
(Nguyễn Thiện - danh sĩ đời Lê - cháu Nguyễn Du)
“Phượng bay bốn bể cầu hoàng
Giai nhân chẳng ở đông trường thì đâu”
(Tây Sương)
"Công danh chờ thử xuân sang
Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau"
(Phan Trần)
Ca dao Việt Nam đã đề cập đến duyên nợ trời cho:
“Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng
Khác gì như thể phượng, hoàng gặp nhau”.
Tuy phượng hoàng là hình tượng rất phổ biến từ chốn cung đình đến sinh hoạt văn hóa nhưng hình ảnh đó được phát họa trong óc tưởng tượng về linh vật từ ngàn xưa cho tới nay với bao truyền thuyết.
Đời nhà Đường, Võ Tắc Thiên phát họa lại đồ án từ thời Thái Tông và Cao Tổ xây cất điện Minh Đường. Võ Tắc Thiên giao phó cho tình lang Tiết Hoài Nghĩa sai nho sĩ phái Bắc Môn vẽ kiểu, dùng địa điểm bên trong Nam Môn của hoàng cung ở Lạc Dương. Điện Minh Đường hoàn thành năm 688, cao 100 mét, gồm 3 tầng, rộng 100 mét vuông. Trên nóc điện với hình ảnh con phượng hoàng làm bằng sắt mạ vàng, cao 3 mét, biểu tượng của Võ hậu. Không đứng vững được bao lâu vì bị điện Minh Đường bị đốt cháy, không còn di tích bóng phượng hoàng.
Vào thời Tây Sơn (1788-1802) tháng 10 năm 1788 Nguyễn Huệ ban chiếu chọn Vinh xây dựng kinh đô. Phụng Hoàng Trung Đô, giữa núi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân, dưới sự chỉ huy của La Sơn Phu Tử và Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Thận, đó là kinh đô thứ năm sau kinh đô Văn Lang ở Việt Trì, kinh đô Cổ Loa (Hà Nội), kinh đô Hoa Lư ở Ninh Bình, kinh đô Thăng Long.
Thi hào Nguyễn Du, trên đường lai kinh vào năm 1804, sáng tác bài thơ "Phượng Hoàng Thượng Lộ Tảo Hành" mô tả cảnh tượng xa xăm, đêm xuống sắc trời mờ mờ, nghe tiếng vượn hú, thấy dâu chân cọp, ngủ đưởng gặp tiều phu, thương nhau tuy không cùng cảnh ngộ: "Chinh phu hoài vãng lộ, Dạ sắc thượng mông mông, Nguyệt lạc viên thanh ngoại, Nhân hành hổ tích trung..."
Có vài địa danh mang tên phụng hoàng như đảo Phụng Hoàng dùng làm nơi phát tuyến đài Tự Do thời Việt Nam Cộng Hòa, núi Phượng Hoàng ở Pleiku nhưng nơi nầy không có bóng dáng loài chim trĩ, phượng hoàng.
Trong tem thơ Việt Nam Cộng Hòa có tem thư với đề tài "Chim Phượng Hoàng Đang Bay" do họa sĩ Nguyễn Thanh Thu vẽ, ngày phát hành 7 tháng 9 năm 1955, màu tím, đỏ giá 4$00.
Âm nhạc Trung Hoa hình thành từ Linh Luân, Hậu Quỳ; đời Ngũ Đế, Tam Vương, âm nhạc trở thành lễ nghi trong cung đình; đời Xuân Thu nổi danh với Sư Khoáng tinh thông âm pháp đưa âm nhạc đến mức vi diệu, cao siêu. Và, Tư Mã Tương Như đời Hán với khúc “Phượng Cầu Hoàng” trở thành bất tử, lưu truyền hậu thế.
Tố Như tiên sinh trong thi phẩm “Kiều” đã đề cập về âm nhạc Trung Hoa cũng như Đông phương:
“Cung thương lầu bậc ngũ âm... Lọt tai nghe suốt năm cung”.
Ngôn ngữ, âm giai của âm nhạc Đông phương chỉ có ngũ âm - năm bậc, năm cung: Cung, Thương, Dốc, Thủy, Vũ (Cống, Xừ, Xang, Xế, Líu) nhưng cũng được biến hóa muôn sắc, muôn âm, rất phong phú và huyền diệu. Theo Lê Qúy Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ : "Lấy hoàng chung làm cung, lấy lâm chung làm chủy, lấy thái tấu làm thương, nam lã làm vũ, cô tiến làm giốc, ứng chung làm biến cung, sanh tan làm biến chủy. Đấy là thất luật để làm đờn cho thanh âm điều hòa . . . ".
Nhạc khí Đông phương gồm đàn, sáo, nhị... Riêng sáo, có đến 6 loại, tên gọi khác nhau tùy theo thổi ngang, thổi dọc, không và có lưỡi gà, 2 ỗ, 6 lỗ, 7 lỗ, chín lỗ...: Tiêu, Địch, Hoàng, Quản, Trì, Huân.
Năm 1964, khúc “Phượng Vũ” với nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Đình Nghĩa dựa vào giàn nhạc Bát Âm ở cung đình Huế qua tiếng sáo điêu luyện được trình diễn ở trong nước và hải ngoại đã làm vang bóng, giới thưởng thức say mê, ái mộ. Nghe “Phượng Vũ”, hình dung được hình ảnh phượng hoàng đập cánh, xòe cánh...lúc rỉa đuôi, giủ đuôi, cụp, xòe, quay, múa... nhặt, khoan theo từng vũ điệu.
Qua năm tháng, qua bao biến thiên, vật đổi sao dời, khúc “Phượng Cầu Hoàng” dù đã thất truyền nhưng tình sử... vẫn vượt thời gian.
Khi chữ viết bay bướm, linh động, có thần, đẹp tuyệt vời - điển hình như chữ Hán - dùng thành ngữ "Phụng bay rồng múa" để diễn tả nét bút độc đáo của nó.
Trong tứ linh đó, phượng còn đi với lân, đi vào văn học để biểu lộ sự tương hợp, cùng dong dõi quyền quý với nhau:
"Đồng hàng lông phượng gót lân
Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng"
(Nhị Độ Mai)
Vào triều Nguyễn, hình ảnh rồng danh cho nhà vua; hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa với hình chim phụng hoàng trên áo mũ màu vàng, màu đỏ và cung tần được chia ra làm 3 loại theo thứ bậc cao thấp, thêu 5, 3 và 1 con phượng trên mũ. Áo sa sợi tơ màu đỏ, màu tía và màu trắng cũng tùy theo thứ basc cao thấp dệt hình con loan.
Phượng hoàng là linh vật, phượng là chim trống, hoàng là chim mái, còn gọi là loan.
Vào thời Hán Vũ Đế, máu Chim Loan được dùng làm keo nối dây cung, dây đàn, rất chắc, bền. Giao là keo, vì vậy có câu "An đắc giao loan tục đoạn huyền" (Ước gì có keo loan để nối giây đàn đứt). Thi hào Nguyễn Du đề cập qua dòng thơ:
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Giao loan chắp nối, tơ thừa mặc em"
(Kiều)
Hình ảnh phụng loan tượng trưng cho điều lành, tốt đẹp, bền vững bên nhau, vì vậy, khi chúc mừng cho đôi uyên ương được nên duyên tốt đẹp, dùng “Loan Phụng Hòa Minh” để bầy tỏ duyên tơ thắm thiết vợ chồng.
Trong thi ca Việt Nam đã đề cập đến hình ảnh giữa phụng và loan:
“Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng”
(Kiều)
“Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai”
(Kiều)
Ca dao Việt Nam có câu:
"Phụng với loan hai đàng phân rẽ
Qua với nàng chẳng lẽ phân nhau".
“Loan ôm lấy phụng, phụng bồng lấy loan”
Mối tình đầy lãng mạn, thơ mộng của Phan Tất Chánh & Trần Kiều Liên từ thời Tống Tĩnh Khang ở Trung Hoa thời xa xưa được viết qua truyện thơ nôm “Phan Trần” đi vào văn học Việt Nam, ghi lại hình ảnh đôi kẻ tình si lúc hội ngộ:
"Vũ môn mừng đã đến tuần
Phượng loan rày gặp, phong vân phải tìm”.
(Phan Trần)
Vào tiền bán thế kỷ XX, nhà thơ Tản Đà có bài thơ chúc mừng tân hôn:
"Mừng ai gối phượng, chân loan
Khuyên ai gánh lấy giang san nhà chồng
Chúc ai tay bế tay bồng
Con tiên rồi lại cháu Rồng về sau"
Khi mối tình gãy đỗ, nhẹ nhàng mượn hình bóng “phụng loan chếch cánh” cho có vẽ nhẹ nhàng, văn chương. Khi trai và gái chưa thành hôn mà sống chung chạ với nhau, người xưa đã gọi "phượng chạ loan chung". Và, bày tỏ tình cảnh vợ chồng ngăn cách, vợ một nơi, chồng một ngã: "loan phiêu phụng bạc"
Loan giá: xe của vua đi. Loan dư: kiệu của vua đi. Loan tường phụng chủ: chữ viết sinh động như loan liệng phụng bay. Phượng cái: lọng của vua có thêu hình chim phượng. Phượng chiếu: tờ chiếu của vua có vẽ hình chim phượng. Phượng kỳ: nghi trượng của vua. . .
Theo GS Thái Văn Kiểm, nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka quả quyết chim trĩ cũng giống như chim phụng hoàng. Phụng hoàng co đuôi dài chấm nhãn khá nhiều, vừa giống chim trĩ, vừa giống chim công, Tay gọi là Faisan ocelle', Faisan argus; tên La tinh là Argusianus Argus…... Chim loan (chim mái) có lông ngũ sắc nhưng sắc xanh óng ánh nhiều hơn, còn chim phụng cũng lông ngũ sắc nhưng màu đỏ tía nhiều hơn.
Phượng hoàng luôn luôn sát cánh bên nhau vượt đại dương, núi rừng, thảo nguyên bát ngát, bay tận trời xanh, cỡi mây, lướt gió.
Trong khoảng bốn trăm loài chim, phụng hoàng được xem như chúa tể. Ăn quả trúc, uống nước suối trong. Vào thời xa xưa, phụng hoàng vượt núi rừng, biển cả về núi Côn Luân, uống nước suối Để Trụ, tắm nước Nhược Thủy, phơi nắng trên đỉnh Đơn Tuyệt. Khi bay có nhiều giống chim khác bay theo tháp tùng. Khi hót, hàng trăm loài chim cùng cất theo, hòa thành bản đại hợp tấu với muôn nghìn âm điệu. Phụng hoàng thân cao, dáng vẻ thanh nhã, màu sắc lộng lẫy. Mỏ như mỏ gà trống, trên mỏ có mồng, cổ như cổ rắn, lưng tựa rùa, lông mầu ngũ sắc, đuôi sặc sở như đuôi công, xếp lại như đuôi cá.
Ngày xưa, vua Phục Hy đời thượng cổ, thấy chim Phụng Hoàng đậu trên cây ngô đồng, nhà vua cho hạ cây ngô đồng, cưa làm 3 khúc. Nhà vua cho người thử, khúc ngọn phát ra tiếng trong, khúc gốc tiếng đục, khúc giữa phát ra chuổi âm điệu từ trong đến đục. Nhà vua cho ngâm khúc giữa vào dòng nước chảy 72 ngày rồi giao cho Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây đàn, gồm 13 phím, 5 giây (Cung, Thương, Giốc, Chủy Vũ), đặt tên là Diêu Cầm. Đời Văn Vương, Võ Vương thêm hai giây (Văn, Võ). Một loại cây thông thường được Phụng Hoàng đậu đã trở thành danh mộc, khai sinh ra loại đàn. Trong thơ cổ có câu: “Phục Hy chế tác lễ nghi”, cây Diêu Cầm là hình ảnh đầu tiên cho lễ nhạc.
Vào thời Xuân Thu, Kính Trọng công thành danh toại nhưng quá thận trọng về đường tình duyên và khi bói được quẻ "Phụng Hoàng" mới chọn người phối ngẫu.
Hình ảnh phượng hoàng trở thành điển tích ,như huyền thoại và được dè cập trong văn học cho lương duyên cuộc tình:
"Phượng bay bốn bể cầu hoàng
Giai nhân chẳng ở đông sàng thì đâu"
(Tây Sương Ký)
"Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng
Cây ngô cành bích con chim phượng hoàng nó đậu cao.
Anh tiếc cho em phận gái má đào
Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào lấy chú Tây đen"
(Tản Đà)
“Thơ mừng kính có lời trân trọng,
Gia thất hòa vui tiếng phượng hoàng”
(Đông Hồ)
“Phượng cầu dù lựa nên cung
Ngọn cầm biết gẩy được lòng hay chăng”
(Nguyễn Thiện - danh sĩ đời Lê - cháu Nguyễn Du)
“Phượng bay bốn bể cầu hoàng
Giai nhân chẳng ở đông trường thì đâu”
(Tây Sương)
"Công danh chờ thử xuân sang
Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau"
(Phan Trần)
Ca dao Việt Nam đã đề cập đến duyên nợ trời cho:
“Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng
Khác gì như thể phượng, hoàng gặp nhau”.
Tuy phượng hoàng là hình tượng rất phổ biến từ chốn cung đình đến sinh hoạt văn hóa nhưng hình ảnh đó được phát họa trong óc tưởng tượng về linh vật từ ngàn xưa cho tới nay với bao truyền thuyết.
Đời nhà Đường, Võ Tắc Thiên phát họa lại đồ án từ thời Thái Tông và Cao Tổ xây cất điện Minh Đường. Võ Tắc Thiên giao phó cho tình lang Tiết Hoài Nghĩa sai nho sĩ phái Bắc Môn vẽ kiểu, dùng địa điểm bên trong Nam Môn của hoàng cung ở Lạc Dương. Điện Minh Đường hoàn thành năm 688, cao 100 mét, gồm 3 tầng, rộng 100 mét vuông. Trên nóc điện với hình ảnh con phượng hoàng làm bằng sắt mạ vàng, cao 3 mét, biểu tượng của Võ hậu. Không đứng vững được bao lâu vì bị điện Minh Đường bị đốt cháy, không còn di tích bóng phượng hoàng.
Vào thời Tây Sơn (1788-1802) tháng 10 năm 1788 Nguyễn Huệ ban chiếu chọn Vinh xây dựng kinh đô. Phụng Hoàng Trung Đô, giữa núi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân, dưới sự chỉ huy của La Sơn Phu Tử và Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Thận, đó là kinh đô thứ năm sau kinh đô Văn Lang ở Việt Trì, kinh đô Cổ Loa (Hà Nội), kinh đô Hoa Lư ở Ninh Bình, kinh đô Thăng Long.
Thi hào Nguyễn Du, trên đường lai kinh vào năm 1804, sáng tác bài thơ "Phượng Hoàng Thượng Lộ Tảo Hành" mô tả cảnh tượng xa xăm, đêm xuống sắc trời mờ mờ, nghe tiếng vượn hú, thấy dâu chân cọp, ngủ đưởng gặp tiều phu, thương nhau tuy không cùng cảnh ngộ: "Chinh phu hoài vãng lộ, Dạ sắc thượng mông mông, Nguyệt lạc viên thanh ngoại, Nhân hành hổ tích trung..."
Có vài địa danh mang tên phụng hoàng như đảo Phụng Hoàng dùng làm nơi phát tuyến đài Tự Do thời Việt Nam Cộng Hòa, núi Phượng Hoàng ở Pleiku nhưng nơi nầy không có bóng dáng loài chim trĩ, phượng hoàng.
Trong tem thơ Việt Nam Cộng Hòa có tem thư với đề tài "Chim Phượng Hoàng Đang Bay" do họa sĩ Nguyễn Thanh Thu vẽ, ngày phát hành 7 tháng 9 năm 1955, màu tím, đỏ giá 4$00.
Âm nhạc Trung Hoa hình thành từ Linh Luân, Hậu Quỳ; đời Ngũ Đế, Tam Vương, âm nhạc trở thành lễ nghi trong cung đình; đời Xuân Thu nổi danh với Sư Khoáng tinh thông âm pháp đưa âm nhạc đến mức vi diệu, cao siêu. Và, Tư Mã Tương Như đời Hán với khúc “Phượng Cầu Hoàng” trở thành bất tử, lưu truyền hậu thế.
Tố Như tiên sinh trong thi phẩm “Kiều” đã đề cập về âm nhạc Trung Hoa cũng như Đông phương:
“Cung thương lầu bậc ngũ âm... Lọt tai nghe suốt năm cung”.
Ngôn ngữ, âm giai của âm nhạc Đông phương chỉ có ngũ âm - năm bậc, năm cung: Cung, Thương, Dốc, Thủy, Vũ (Cống, Xừ, Xang, Xế, Líu) nhưng cũng được biến hóa muôn sắc, muôn âm, rất phong phú và huyền diệu. Theo Lê Qúy Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ : "Lấy hoàng chung làm cung, lấy lâm chung làm chủy, lấy thái tấu làm thương, nam lã làm vũ, cô tiến làm giốc, ứng chung làm biến cung, sanh tan làm biến chủy. Đấy là thất luật để làm đờn cho thanh âm điều hòa . . . ".
Nhạc khí Đông phương gồm đàn, sáo, nhị... Riêng sáo, có đến 6 loại, tên gọi khác nhau tùy theo thổi ngang, thổi dọc, không và có lưỡi gà, 2 ỗ, 6 lỗ, 7 lỗ, chín lỗ...: Tiêu, Địch, Hoàng, Quản, Trì, Huân.
Năm 1964, khúc “Phượng Vũ” với nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Đình Nghĩa dựa vào giàn nhạc Bát Âm ở cung đình Huế qua tiếng sáo điêu luyện được trình diễn ở trong nước và hải ngoại đã làm vang bóng, giới thưởng thức say mê, ái mộ. Nghe “Phượng Vũ”, hình dung được hình ảnh phượng hoàng đập cánh, xòe cánh...lúc rỉa đuôi, giủ đuôi, cụp, xòe, quay, múa... nhặt, khoan theo từng vũ điệu.
Qua năm tháng, qua bao biến thiên, vật đổi sao dời, khúc “Phượng Cầu Hoàng” dù đã thất truyền nhưng tình sử... vẫn vượt thời gian.
No comments:
Post a Comment