MỘT BUỒI TỐI CUỐI TUẦN Ở NHÀ
ĐI ăn cơm tối về xong là tôi ngồi ngay vào bàn làm việc. Những chồng hồ-sơ dày cộm không cho phép tôi để ứ đọng lại qua ngày hôm sau.
Cặp Dung+Miên từ chòi an-ninh trước cổng gọi điện-thoại lên tôi. Đó là hai cô bé ở Khu Thanh-Bồ Đức-Lợi, trong số ngót chục thiếu-nữ nhận tôi làm chú tinh-thần. Những lần rảnh rỗi xuống phố giải-trí, thỉnh-thoảng tôi chở các cô cùng đi, ăn kem hoặc xem xi-nê. Nhưng hôm nay thì tôi ở nhà, vì bận nhiều việc; vả lại cặp Dự+Chương đã hẹn lát nữa sẽ đến gặp tôi.
*
Dung+Miên vừa rời một lát thì Lê Viết Kim đến. Kim, trên danh-nghĩa, là giáo-sư khiêu-vũ của tôi. Một dàn máy âm-thanh nổi; các băng nhạc thời-trang; một cây đàn lục-huyền; cả chồng nhạc-phẩm ấn-bản đặc-biệt có chữ ký đề tặng và triện son của Lê Mộng Bảo, Giám-Đốc Nhà Xuất-Bản Tinh-Hoa Miền Nam, cùng các nhạc-sĩ liên-hệ; một máy vi-âm; một bàn bánh, kẹo, thuốc lá, trái cây; một tủ lạnh với nhiều thức uống; v.v... đã biến phòng-khách nhà tôi thành một nơi lý-tưởng để Kim đưa các cô, các bà đến dượt bước với tôi, vào các ngày nghỉ và buổi chiều từ sau giờ tan công-sở đến lúc tôi chuẩn-bị đi ăn cơm. Trên thực-tế, tôi thường phải ngồi làm việc ở phòng sát bên, để mặc một số bạn thân của tôi đến đó tập nhảy với họ; có khi họ dẫn thêm bạn của họ cùng đến, có người đã từng đến rồi mà tôi vẫn không nhớ mặt hay biết tên.
Kim dẫn lên một người đàn-bà và một cô gái. Người đàn-bà thì thân-hình đẫy-đà, phấn son loè-loẹt, cử-chỉ khúm-núm như kẻ phạm-pháp bị bắt ra trước cửa quan. Cô gái thì còn trẻ, quá trẻ, trẻ hơn các cô cháu hờ của tôi, nhưng thân-hình thì nẩy-nở căng vun; và khuôn mặt trái xoan với cặp mắt to đen, hai hàng mày rậm, đôi môi mọng hồng, cặp má lúm duyên, có một sức thu-hút khó cưỡng lại tia nhìn của những người xung quanh.
Anh chàng dạy nhảy nói riêng với tôi về mục-đích của sự hiện-diện của hai người ấy. Bà chủ, chủ quán mại-dâm trá-hình, mới kiếm thêm được một đứa “con nuôi”, là cô gái kia; vừa bán trinh cổ đêm qua thì chiều nay bả bị Cảnh-Sát đến kiểm-soát; họ buộc phải trả cổ về nguyên-quán và cho kỳ-hạn hăm bốn tiếng đồng-hồ.
Dân làng-chơi báo tin cho nhau biết có của lạ; từ sáng đã có khá nhiều tay quen giành hưởng nước nhì, nhưng bả hạn-chế vì sợ cổ đau, đồng-thời để tăng giá-trị món hàng. Bây giờ thì vốn đầu-tư cùng với hy-vọng phát-tài của bả đều tan thành mây khói. Kim dẫn bả đến để xin tôi giúp-đỡ, nhận cổ làm cộng-tác-viên, để cổ khỏi bị trục-xuất. Bả xin tạ ơn lần đầu một trăm năm chục ngàn đồng.
Tôi rán bình-tĩnh để khỏi giáng một bạt tai vào cái bản mặt đĩ-trai của Kim. Thì ra lâu nay ảnh vẫn tưởng tôi cũng chỉ là một con hạm tham-nhũng như nhiều kẻ khác. Chắc trong thâm-tâm ảnh đang hãnh-diện chứng-tỏ với tôi rằng ảnh là tên đàn-em đắc-lực, và cả với bả rằng ảnh là tay móc-nối đúng đường.
Số tiền mà ảnh đề-cập, đựng trong phong bì dày cộm mà bà chủ chứa vừa lấy trong xách tay ra, đặt lên trên bàn-nước ở phòng khách, lớn gần bằng ba tháng lương của tôi. Nhiều thế, thảo nào!
Kiểm-Tra Nguyễn Bính, một Giám-Đốc cũ của tôi trên Cao-Nguyên, thời-gian tôi làm Trưởng-Ty ở Tỉnh, biết rõ tính tôi liêm-khiết, có lần đã bực mình la lên: “Người ta cho mình cơ-hội để ăn, mà mình không chịu ăn!”
Trung-Tá (sau này là Đại-Tá) Cao Văn Khanh, cũng một Giám-Đốc cũ của tôi trong Vùng II, có lần đã tế-nhị giúp cho tôi có dịp có được nhiều tiền một cách hợp-pháp hợp-tình. Nguyên-do sau vụ cộng-sản tổng-công-kích Tết Mậu-Thân, có nhiều phú-thương Hoa-Kiều ở Thị-Xã Ban Mê Thuột bị bắt vì nghi tiếp-tế cho đối-phương. Sự thật là trong lúc hỗn-loạn, có thể là Việt-Cộng mà cũng có thể là kẻ gian, đã đột-nhập vào các tiệm buôn bắt chủ-nhân phải đóng góp tiền, và cướp đi nhiều nhu-yếu-phẩm từ các kho hàng. Nội-vụ đã được cả cấp Tỉnh lẫn cấp Vùng điều-tra; và, trong lúc Đặc-Cảnh Vùng đang tiến-hành thủ-tục trả tự-do cho các nghi-can thì gia-đình các đương-nhân tưởng là họ sẽ bị giam-cầm lâu ngày bèn nhờ ông Chủ-Tịch Hội Việt-Hoa địa-phương thay mặt mà đi vận-động giùm; bề ngoài là xin đứng ra bảo-lãnh, nhưng bên trong là chạy-chọt với một số tiền kếch xù. Người Hoa mà đã đưa hối-lộ thì thà chịu chết chứ không bao giờ khai ra. Khanh bảo họ rằng mọi sự đều nằm trong tay tôi – chỉ-huy Cảnh-Sát Đặc-Biệt toàn Vùng – hãy đến gặp tôi mà xin. Nhưng tôi nhất-quyết chối-từ mọi món quà, dưới bất-cứ hình-thức nào, dù đó là một cử-chỉ tự-nguyện thông-thường để tỏ lòng cám ơn.
Trước khi ra Vùng I, tôi dùng xe Jeep chở gia-đình từ Nha-Trang vào Sài-Gòn và Vũng-Tàu chơi. Đến cầu Biên-Hòa, tôi tình-cờ gặp lại một thuộc-viên cũ, là Nguyễn Xuân Lộc (trùng tên với đại-tá chỉ-huy-trưởng của tôi ở Vùng I). Ngày xưa, tôi đã giúp-đỡ cho Lộc được rời khỏi cái xó rừng đèo-heo hút-gió kia, để được cùng với gia-đình về sinh sống giữa Hòn Ngọc Viễn-Đông này. Bây giờ ảnh là Trưởng Trạm Kiểm-Soát ở cái cổng ra vào quan-trọng ấy của Thủ-Đô. Tối ấy, Lộc mời chúng tôi đi ăn, xong nói riêng với tôi:
– Khi nào ông cần chở gì, bất kể bao nhiêu chuyến, bất kể với số lượng nào, ông cho em biết trước, ngày giờ, loại xe, số xe, người lái, em sẽ đích-thân lo trót-lọt cho chuyến hàng của ông.
Tôi cám ơn ảnh. Cả đời tôi có bao giờ dính-dáng đến đồ lậu đâu!
Cũng từng là Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, nhưng nhờ tôi tự giữ mình trong-sạch nên mới không bị thân-bại danh-liệt như Trung-Tá quân-nhân biệt-phái Hoàng Viết Thìn.
Còn như Trung-Tá Tôn Thất Khôi, vì đòi Đại-Úy Trần Văn Phú phải dâng một dàn âm-thanh nổi Akai, cũng trị giá khoảng một trăm năm chục nghìn đồng, mới cho giữ chức-vụ chỉ-huy Thám-Sát Đặc-Biệt Vùng I, thì bị lộ chuyện nên trơ mặt-mẹt với mọi người.
Tôi trừng mắt bảo:
– Tôi không giúp đâu. Các người về đi!
Thấy Kim vẫn còn ngần-ngừ; tôi nạt: “Đi!” rồi quay trở lại với xấp công-văn.
Im-lặng một lát rồi ảnh với người đàn-bà rụt-rè cất tiếng chào từ-giã tôi.
Sau khi nghe tiếng chân họ đã bước ra phía cầu thang, tôi quay nhìn lại thì thấy cô gái vẫn còn bẽn-lẽn ngồi yên. Tôi đứng dậy thì cổ cũng đứng dậy; nhưng cổ không đi theo họ mà lại cúi đầu, đan hai tay vào nhau, chờ-đợi tôi. Tôi liếc thấy cái phong bì vẫn còn nằm nguyên trên bàn. Tôi nổi giận, gọi lớn: “Kim!” Ảnh quay trở vào, nhìn tôi, rồi rón-rén tuân theo lệnh mắt của tôi, cầm lấy số tiền, dẫn cô gái xuống lầu.
*
Thiếu-Tá Ngô Phi Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, gọi máy vô-tuyến báo-cáo với tôi là anh đã thi-hành xong Bước 1.
Thế là Đạm cùng với Đại-Úy Nguyễn Công Văn và Đại-Úy Phạm Khả đã vào hoạt-động trong Thị-Xã Hội-An rồi. Theo kế-hoạch thì Đạm sẽ cùng với Thiếu-Tá Lâm Minh Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam, nhân danh Ủy-Viên Ủy-Ban Phụng-Hoàng, hỏi Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu xem đêm nay có đơn-vị nào hành-quân trong vùng Quận Điện-Bàn, trên đường vào Xã Điện-Ngọc hay không, vì Ngành Đặc-Cảnh Vùng I định phái mật-viên vào hoạt-động trong Quận sở-quan.
Nguyên do Sở Tác-Vụ Vùng I đã tuyển-dụng được một điệp-viên là cán-bộ của Tỉnh-Ủy Việt-Cộng Tỉnh Quảng–Đà. Cán-bộ ấy thì ẩn-trú trong mật-khu, ban đêm mới về vùng Quốc-Gia hoạt-động, và mỗi tháng đôi lần lén đến tiếp-xúc với nữ-cơ-sở là tình-nhân của y mà là mật-viên của ta. Khuya nay, điệp-viên ấy sẽ đến với thám-viên này, nên Phòng Biệt-Tác cho người vào yểm-trợ và giám-sát tình-hình.
Nhưng, cứ theo tin-tức trao-đổi giữa các cơ-quan với nhau thì gần đây cả Sở Đặc-Cảnh Tỉnh lẫn Phòng 2 Tiểu-Khu sở-tại đều đã biết chắc là có cán-bộ địch về làng, và Đặc-Cảnh trong đó đã nắm vững một số cơ-sở nằm vùng. Dĩ-nhiên họ không biết được cán-bộ và cơ-sở nào của Việt-Cộng đã là người của Sở Tác-Vụ Vùng; song đã được tin thì hẳn là họ phải hành-động. Công-tác mà tôi giao-phó cho Đạm là làm thế nào để tránh cả Sở Đặc-Cảnh Tỉnh lẫn Phòng 2 Tiểu-Khu Quảng-Nam, để bảo-vệ cho hai nhân-viên nhị-trùng và bảo-mật cho điệp-vụ của Ngành Đặc-Cảnh Vùng. Đạm thì quanh-quẩn ở đó để phòng nếu Đặc-Cảnh địa-phương ra tay; còn Văn với Khả thì sẽ thi-hành Bước 2, nếu phía quân-sự đã có quyết-định vào thám-thính hoặc phục-kích trong làng. Một mặt thì Khả sẽ cho Trưởng Lưới vào báo-động, hoặc nếu cần thì mặt khác Văn sẽ lái xe vào Quận, lên đỉnh đồi cao, quay mũi xe quét ánh đèn pha về hướng nhà Nguyễn Thị Tư, đường dây của ta, để ra ám-hiệu đình-hoãn cuộc tiếp-xúc sắp diễn ra sau mười hai giờ khuya nay. Trong trường-hợp mọi sự trôi-tròn thì chúng tôi đã có thám-viên thứ hai, thuộc Phòng Đặc-Nhiệm, nằm ngoài Phòng Biệt-Tác, theo-dõi tình-hình để sẽ đối-chiếu với báo-cáo của Tư khi cô chuyển-trình về Khả tài-liệu của điệp-viên nội-tuyến vào sáng ngày mai.
*
Một lát sau thì Thiếu-Tá Nguyễn Dự, Chánh Sở, cùng với Trung-Úy Dương Hồ Chương, Chủ-Sự Phòng Tác-Vụ thuộc Sở Đặc-Cảnh Thị-Xã Đà-Nẵng, đến họp với tôi.
Có một cô gái lên theo.
Để cô gái ngồi ở phòng khách, cặp Dự+Chương theo tôi vào bàn làm việc của tôi. Dự cho biết là họ đã duyệt lại lần cuối mọi chi-tiết liên-quan đến kế-hoạch công-tác mà tôi đã chuẩn-y.
Nguyên chiều hôm nay một cán-bộ đặc-công Việt-Cộng nội-thành, mà Đặc-Cảnh đã tuyển-dụng làm điệp-viên, báo-cáo rằng anh được lệnh của địch phải đặt chất nổ, hoặc treo cờ và rải truyền-đơn của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng ở Vườn Hoa Trưng-Vương, trong đêm nay. Ở công-viên ấy, vào buổi tối mùa hè đồng-bào tụ-tập rất đông, nhất là trẻ con náo-nhiệt chơi đùa. Nếu thực-hiện trước mười hai giờ khuya thì thế nào cũng bị xung quanh trông thấy; còn sau nửa đêm thì tuy cả khu vắng-vẻ nhưng nếu có ai xuất-hiện thì lại không thể nào thoát khỏi tầm mắt chú ý quan-sát của những người cố-tình hoặc vô-tình có mặt khuất kín trong màn đêm: Cảnh-Sát, Nhân-Dân Tự-Vệ, hành-khất, dân vô-gia-cư, v.v... Do đó, tôi đã cho phép tổ-chức kiểm-tra nhân-số gia-đình và tình-trạng cư-trú, chận xét bộ-hành, lục-soát các hóc-hẻm, đuổi hết kẻ nằm đường, tạo cơ-hội cho mọi người ở gần đó thức khuya―nên ngủ say―và các bộ-phận an-ninh bạn yên-tâm hướng các hoạt-động của họ về những khu-vực xa hơn.
Điểm then-chốt là chính Đặc-Cảnh sẽ làm giùm cho viên đặc-công Việt-Cộng, để anh đạt được thêm tín-nhiệm của cấp trên: treo một lá cờ giữa công-viên, và rải một số truyền-đơn trên vài lối đi, vào khoảng từ ba đến bốn giờ sáng. Sau đó, điệp-viên ấy sẽ ghé tìm và khoe thành-tích công-tác vừa rồi với một cơ-sở VC khác, bán bánh mì dạo lúc sáng tinh sương. Những người này thường ra đường sớm, trước lúc hết giờ giới-nghiêm, với lý-do là phải đến chực sẵn ở lò sản-xuất để giành cho được những đợt bánh đầu tiên. Anh sẽ rủ gã cùng đi ngang qua vườn hoa Trưng-Vương, để gã trông thấy tận mắt, với mục-đích là để gã sẽ báo-cáo lên cấp trên, qua đường dây khác, việc anh đã làm. Anh sẽ bịa thêm là anh đã có gài một quả lựu-đạn để hại những kẻ sẽ đến hạ cờ. Khoảng bốn giờ rưỡi sáng, Đặc-Cảnh sẽ hạ lá cờ, nhặt hết số truyền-đơn, và đợi đến sau năm giờ sáng, khi dân-chúng đã đi lại ngoài đường, một số nhân-viên Đặc-Cảnh mặc cảnh-phục sẽ giả-vờ tình-cờ vào uống cà-phê điểm-tâm tại một tiệm phở ở gần đó, mà tại đó có một người hầu-bàn là cơ-sở của đối-phương. Các cảnh-nhân sẽ kháo chuyện với nhau về cái xem-như-là hoạt-động của Việt Cộng kể trên. Họ sẽ bịa thêm rằng các cảnh-nhân có kinh-nghiệm đã gỡ được một quả lựu-đạn do địch gài ở chỗ treo cờ. Nhũng lời trao-đổi ấy phải được vô-tình lọt vào tai gã hầu-bàn...
Tôi nhắc:
– Tuy lần này dễ hơn, vì chúng ta không cho nổ lựu-đạn hay mìn như mấy lần trước, nhưng vẫn phải bảo-mật đến cùng.
Thảo-luận ngang đó thì Dự+Chương hấp-tấp cáo-từ, viện cớ phải về để lo cho việc nói trên.
Tôi theo hai anh ra phía cầu thang, nhưng không thấy cô gái ra theo. Tôi hỏi Dự:
– Cô nào thế?
Cả Dự lẫn Chương đều trố mắt nhìn tôi. Dự nói:
– Tôi tưởng là “khách” của anh!
Tôi trở vào hỏi cô gái:
– Cô đến gặp tôi có việc gì?
Cổ đáp:
– Em đến... ngủ lại với ông!
Thật là bất-ngờ. Tôi đứng lui ra, nhìn kỹ, cố nhớ xem mình đã có gặp cổ lần nào trước chưa. Dự và Chương cùng trở vào xem. Cô gái khoảng mười bảy tuổi, tươi-mát và hiền-lành như những nữ-sinh trường trung-học Phan Chu Trinh hằng ngày vẫn tíu-tít đi ngang qua trước cổng nhà tôi. Tôi hỏi:
– Cô đã biết tôi là người như thế nào chưa?
Cô gái thẹn-thùng ấp-úng:
– Em để ý thấy có nhiều cô đến với ông, nên em cũng đến liều!
Dự và Chương ra hiệu cho tôi cứ để cho cổ ở lại; nhưng tôi không dám. Đây là một loại gái nguy-hiểm; nếu cổ bỏ nhà đi hoang, tôi sẽ bị phụ-huynh cổ tố-cáo là dụ-dỗ gái vị-thành-niên; nếu cổ chán đời, nửa đêm uống thuốc chuột, tôi sẽ bị lôi-thôi với pháp-luật, vì chứa chấp cổ trong nhà; còn nếu cổ là... đặc-công Việt-Cộng, thì sao?
Tôi giao cho Chương dẫn đi điều-tra phòng hờ.
Tiếp theo, tôi xuống xem lại vấn-đề vào/ra ở cổng.
Hai cánh cổng sắt cao to luôn luôn đóng kín, nhân-viên an-ninh nhận-diện hoặc hỏi chuyện trước, rồi mới mở ra mỗi khi cho người nào vào.
Hồi nãy, xe Dự đậu sát cổng, Chương bước xuống đất, đợi cổng mở xong thì Chương bước bộ cùng xe vào sân. Cô gái nhanh chân bước vào đi theo sau Chương. Mui xe Jeep cao, nhân-viên gác cổng đứng phía bên Dự nhìn qua không thấy, sau đó thì tưởng là cổ trên xe cùng xuống, cùng đi với Dự và Chương.
Tôi vẫn thường nói đùa với anh em rằng tôi đợi mãi mà chưa gặp đuợc một cán-bộ nữ-địch-vận nào. Thiếu-nữ kia không phải là nữ địch-vận; nhưng cũng là may, tuy cổ đột-nhập mà cổ không phải là cảm-tử-quân.
*
Tôi vừa lên ngồi vào bàn làm việc lại một lát thì nghe một tiếng nổ chát-chúa ở dưới đường. Theo phản-ứng tự-nhiên, tôi ngồi thụp xuống đất, với tay bấm tắt ngọn đèn trong phòng, bấm mở hệ-thống ánh-sáng an-toàn ngoài đường, và chụp lấy khẩu súng M-18 dựng sẵn bên giường.
Tôi đã thiết-trí sẵn một đường dây điện đặc-biệt, lấy điện từ máy phát riêng tại tư-thất của một người bạn Mỹ, bắc một số bóng đèn trên các thân cây khắp bốn ngã đường xung quanh nhà tôi, với thân cây che cho chúng tôi khỏi chói mắt, còn ánh đèn thì rọi chiếu ra các mặt đường, lề đường và rào vườn của các nhà từ gần đến xa. Những khi điện Nhà Đèn tắt, tôi vẫn có ánh sáng cho nhân-viên phòng-vệ quan-sát bên ngoài, và để tôi dùng bên trong.
Năm ngoái, đã có một vụ nổ xảy ra lúc đã khuya, ngay bên kia đường, làm rung chuyển và vỡ nát tấm kính cửa sổ ở bàn viết của tôi. Lần ấy có vợ tôi từ Nha-Trang ra thăm; tôi dìu bà trong bóng tối, tránh mảnh kính vụn, lui vào phòng trong. Bà nói:
– Đây không phải là chiến-trường, nhưng quả là “vùng chiến-tuyến”.
Tuy nhiên, sáng sau điều-tra thì được biết đó chỉ là hành-động trả thù cá-nhân trong một cuộc tranh-chấp quyền-lợi ở nhà hàng “Le Dragon d’Or” (Con Rồng Vàng) của một Pháp-kiều mà thôi.
Tôi nhìn xuống thì thấy một người cỡi xe máy Honda đang loạng-choạng đâm xe vào lề đường Quang-Trung; các xe khác và các bộ-hành thì đang chạy tránh ra xa. Trên đường Lê-Lợi có một chiếc xe Jeep sơn màu đỏ đang chạy ngoằn-ngoèo sát sau một chiếc xe đạp do một em bé chở một em bé khác đang luýnh-quýnh đạp, khuất dần khỏi tầm mắt tôi. Bỗng tôi nghe có tiếng kêu cứu ở phía góc đường bên kia. Một cái mũ nhựa trắng của Cảnh-Sát Lưu-Thông, rồi cả hai nhân-viên Kiểm-Lưu hiện rõ ra, đang nằm bên mương và vẫy vẫy tay. Nhân-viên an-ninh của tôi đang dùng máy vô-tuyến báo cho Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng và Phòng Tình-Hình của tôi biết.
Tôi khoác áo ấm, mang súng chạy xuống sân.
Chúng tôi ra đường, làm chủ tình-hình.
Trong lúc tôi dùng máy vô-tuyến điều-khiển hoạt-động của các bộ-phận Đặc-Cảnh toàn thị-xã, viên tài-xế và viên cận-vệ của tôi cùng với láng-giềng kiếm xe chở hai nạn-nhân đến bệnh-viện cấp-cứu.
Không biết hai cảnh-nhân này có phải cũng chính là hai nạn-nhân của một vụ hành-hung trước đấy hay không. Lần ấy, tôi đang ngồi làm việc trên lầu thì nghe tiếng còi báo giờ giới-nghiêm bắt đầu hụ; tức thì, hai nhân-viên Kiểm-Soát Lưu-Thông ở dưới đường cũng thổi tu-huýt và đứng ra giữa ngã tư. Một lát sau đó, có một chiếc xe hơi chạy tới với tốc-lực khá nhanh. Bị chận, xe thắng rít lên và dừng lại. Tôi nhìn xuống thì thấy một người lính từ phía tay lái bước ra, cùng với một quân-nhân khác trên chiếc xe Jeep ấy nhảy xuống, kẻ thì nắm tay đấm vào mặt cảnh-viên này, kẻ thì trở báng súng đánh vào lưng cảnh-viên kia, với tiếng chửi thề: “Đ.m., xe của đại-tá Dù đây!” Hai viên Kiểm-Lưu tiu-nghỉu cúi nhặt mũ lên, đội lại lên đầu, lặng-lẽ bước lui, ngượng-nghịu nhìn quanh...
Tôi ra lệnh lùng tìm chiếc xe Jeep sơn màu đỏ, và đến khắp các bệnh-viện, trạm cứu-thương cũng như phòng chữa bệnh tư, để kiếm chứng-nhân trong số các người có thể bị thương lúc đi ngang qua phạm-trường.
Tại Thị-Xã Đà-Nẵng và vùng lân-cận có cả chục chỉếc xe Jeep sơn màu đỏ.
Cuối cùng, Trung-Úy Chương tìm ra được chiếc xe Jeep mà tôi nhìn thấy; chủ-nhân là một Mỹ-kiều. Ông đã trông thấy hai thiếu-nam cỡi xe-đạp ném chất nổ vào các cảnh-nhân; và, do phản-ứng tự-nhiên, ông đã lái xe rượt theo, định tông cho xe-đạp ngã, hoặc đợi gặp Cảnh-Sát thì chỉ cho họ bắt chúng; nhưng ông lại sợ rằng mình là người Mỹ mà dính-dáng đến việc chống Cộng thì e vi-phạm Hiệp-Định Paris chăng, nên ông lại thôi.
Được chúng tôi thuyết-phục rằng đây là việc làm chống khủng-bố, bạo-lực và tội-phạm, ông tiết-lộ thêm rằng chính tên ngồi sau đã ném lựu-đạn, nó hoặc cả hai cùng bị trúng mảnh, và ông đã tò-mò liếc thấy chúng vào hẻm nào.
Đặc-Cảnh đã lần theo vết mà đến bắt giữ hai đứa bé ấy tại nhà một y-tá tư, nơi chúng đến nhờ băng-bó các vết thương. Các thủ-phạm là trẻ con non-nớt, chỉ trong nửa giờ là bị tóm gọn; nhưng tôi chỉ-thị cho Phòng Thẩm-Vấn phải làm việc ngay trong đêm, để biết rõ đồng-bọn và âm-mưu.
*
Trong lúc đó, một bộ-phận Đặc-Cảnh khác đến tìm kiếm tại Bệnh-Viện Đức thì tình-cờ thoáng thấy một y-công đang mang một khẩu súng AK của Việt-Cộng vào cất giấu trong khu nội-trú của các y-sư.
Đây là một bệnh-viện lớn, của Cộng-Hòa Liên-Bang Đức viện-trợ, mà Giám-Đốc và một số y-sư, y-tá là Đức-kiều. Tôi thấy cần phải thận-trọng nên chỉ-thị cho anh em để yên.
Tôi gọi máy, nhờ Đại-Úy Trần Văn Phú* đến điều-tra giùm. Phú là Phó Chỉ-Huy Lực-Lượng Thám-Sát thuộc Ngành Đặc-Cảnh Vùng I; anh quen biết viên Giám-Đốc ấy, và là tay bay-bướm có liên-hệ với vài nữ-y-tá Tây-Đức. Thế là thay vì lục-soát, tịch-thu, bắt-bớ, chấp-cung, chỉ trong mươi phút sự thật đã được chúng tôi tìm ra.
(*Trần Văn Phú hiện ngụ tại TP Ocoee, Bang Florida, USA.)
Nguyên viên y-sư Giám-Đốc bệnh-viện ấy nghĩ rằng phục-vụ ở Việt-Nam trong thời chiến thì cũng giống như tham-gia cuộc chiến, mai-mốt hồi-hương thì phải mang về một cái gì làm kỷ-vật để lưu-niệm ở nhà. Và ông đã kiếm được khẩu súng kể trên; hôm ấy ông nhờ người y-công Việt-Nam lau chùi.
Hồi trước ở Cao-Nguyên tôi cũng đã gặp một trường-hợp tương-tự. Đặc-Cảnh Quận Đức-Lập, Tỉnh Quảng-Đức (thời-gian tôi làm Trưởng Ty) theo-dõi nhiều đêm mới bắt được quả-tang một người thợ-may nửa đêm dậy may một lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Điều-tra đối-chứng mới biết là do một sĩ-quan cố-vấn quân-sự Mỹ ở Chi-Khu sở-tại thuê may, để xem như chiến-lợi-phẩm bắt được tại trận, và dặn người thợ-may ấy giữ bí-mật kẻo sợ bạn-bè cười. Theo dự-trù, người ấy may xong sẽ đem lá cờ ấy đi nhúng nước, bôi bùn, cào xước nhiều chỗ, và vấy lên đó vài giọt máu... gà.
*
Lúc tôi vào sân, nhân-viên phòng-vệ cho biết là Sĩ-Quan Trực Phòng Tình-Hình có gọi điện-thoại để xin báo-cáo diễn-biến mới nhất trong Vùng.
Tôi trở lên lầu, cầm ống nghe.
Sinh-viên ở Huế đã kết-thúc buổi hội-thảo, nhưng nhóm “tranh-đấu” vẫn ở lại hội-đường Viện Đại-Học để hoạch-định chương-trình hành-động cho ngày hôm sau.
Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc Tỉnh Quảng-Ngãi đã chấm dứt cuộc mít-tinh tối nay tại sân chùa Tỉnh Giáo-Hội dưới quyền chủ-trì của Giáo-Sư Thượng-Nghị-Sĩ Vũ Văn Mẫu cùng Phái-Đoàn trung-ương từ Sài-Gòn ra.
Đội Thám-Sát Đặc-Biệt Tỉnh Quảng-Tín vừa mới phục-kích hạ-sát được tại trận bảy tên Việt Cộng. Theo tin-tức tình-báo thì sẽ có một số cán-bộ cấp Tỉnh-Ủy về công-tác ở vùng ven Thị-Xã Tam-Kỳ đêm nay. Chiều nay tôi đã nhắc Thiếu-Tá Đặng Văn Song, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh trong đó, trực-tiếp sử-dụng Thám-Sát Đặc-Biệt, là một lực-lượng đa-hiệu-năng, như tôi đã đích-thân thực-hiện làm gương cho các nơi noi theo...
*
Tôi gác máy, thở một hơi dài khoan-khoái, rồi vào buồng tắm.
Ngày cũng như đêm, trong tuần cũng như cuối tuần, đâu phải lúc nào cũng chỉ có một vụ, như trong các truyện hay phim trinh-thám gián-điệp của các nước ngoài!
Hy-vọng ngủ được một lát, đến năm giờ sáng, mà không còn bị công việc khẩn-cấp quấy rầy.
No comments:
Post a Comment