Sau dịch Covid-19: Cơ hội chuyển hướng cho công nghiệp Việt Nam
Đại dịch COVID-19
đã ảnh hưởng rất nặng đến nền kinh tế Việt Nam: hàng triệu người dân
phải ở nhà, trường học, doanh nghiệp bị đóng cửa, các nhà máy, công
xưởng bị tạm ngưng hoạt động, và mọi giao thông vận tải đều bị dừng
lại.
Mặc dù số người bị nhiễm bệnh COVID-19 còn rất ít so với
trên thế giới và con số tử vong chưa có, tác động kinh tế vẫn rất nghiêm
trọng. Việc đầu tiên chính phủ đã làm là thực hiện các biện pháp liên
quan đến y tế để giảm và kiểm soát bệnh dịch và sau đó tiến đến các
biện pháp kinh tế để hỗ trợ người lao động và giảm thiểu các tác động
kinh tế.
Tôi đã trình bày chi tiết những vấn đề này ở một bài báo trước trên trang BBC News Tiếng Việt. Lần này xin bàn sâu vào các chính sách quan trọng và phù hợp để đẩy mạnh cho công kỹ nghệ Việt Nam sau dịch COVID-19.
Chính sách ngắn và trung hạn cho công nghiệp
Giúp
công nhân nghèo đối phó với đại dịch COVID-19. Đại dịch ảnh hưởng xấu
đến cả khu vực chính thức và không chính thức, nhưng nhóm người dễ bị
tổn thương nhất bao gồm những người lao động trong khu vực phi chính
thức và/hoặc lao động bán thời gian, thanh niên không tay nghề, kinh
doanh nhỏ, lao động nhập cư... Dịch COVID-19 kéo dài cũng có thể đe dọa
an ninh lương thực, đặc biệt là đối với nhóm dễ bị tổn thương nhất.
Ưu
tiên trong thời gian bị dich là cung cấp thực phẩm, vật tư y tế và các
nhu yếu phẩm cho nhóm dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là những người bị
nghỉ việc do đại dịch COVID-19 gây ra.
Tại Việt Nam đã có các điểm ATM ở thành phố lớn để
phân phối gạo cho người nghèo. Ngoài ra, chính phủ có thể thiết lập các
chương trình làm việc tạm thời cho lao động nhập cư thất nghiệp, cấp các
biện pháp xóa nợ cho các doanh nghiệp và cá nhân, và giảm bớt thủ tục
hải quan liên vùng để tăng tốc nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa thiết
yếu.
Phân biệt các doanh nghiệp nào bị ảnh hưởng nặng của
COVID-19. Đối với khu vực chính thức, cú sốc cầu ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp (DN) trong các lĩnh vực khác nhau, và vì vậy các chính phủ cần
nhắm mục tiêu vào các DN bị ảnh hưởng xấu nhất trước tiên.
Có ba
loại DN: (i) các DN có nhu cầu liên tục (như cửa hàng tạp hóa và các sản
phẩm y tế); (ii) các DN phải đối mặt với nhu cầu bị mất (bao gồm nhà
hàng, du lịch, giải trí, giao thông và du lịch); và (iii) các DN phải
đối mặt với nhu cầu chậm trễ (bao gồm các sản phẩm tiêu dùng và sản xuất
và các dịch vụ kinh doanh liên quan). Các DN trong mục i) ở trên không
cần hỗ trợ, trong khi các DN trong mục ii) và iii) ở trên cần được hỗ
trợ ưu tiên. Những DN trong mục ii) có thể được trợ cấp bằng tiền mặt,
trong khi những DN trong mục iii) ở trên có thể được cho vay nhẹ lãi, vì
nhu cầu cho đầu ra của họ có thể sẽ trở lại.
Đại dịch Covid-19 cũng đã cho mọi quốc gia thấy tầm
quan trọng của công kỹ nghệ nội địa cho nền an ninh quốc gia và tại
sao một số nước đã khẳng định rằng các sản phẩm quan trọng đối với
ngành y tế phải được sản xuất trong nước.
Ở Mỹ, Tổng thống Trump
đã dựa vào các quy luật thời chiến tranh để bắt các hãng xe hơi phải
sản xuất máy thphuở (ventilators) kịp thời cho các bệnh viện.
Nhu
cầu mới về các sản phẩm y tế liên quan đến COVID-19. Trong lúc dịch chưa
hết, tối thiểu 12-18 tháng nữa, nhu cầu toàn cầu về các sản phẩm y tế
sẽ được duy trì ít nhất trong thời gian đợi có vắc xin, tạo cơ hội mới
cho Việt Nam. Tùy theo cách các DN sản xuất có thể đáp ứng nhu cầu này
nhanh hay không, các DN Việt Nam có thể chiếm một vị trí thành công
lâu dài trên thế giới bằng cách sản xuất nhiều loại sản phẩm y tế như
sau.
Thiết
bị y tế đơn giản bao gồm khẩu trang, găng tay, áo choàng và các thiết
bị bảo vệ cá nhân để tránh truyền nhiễm (Personal Protection Equipment,
gọi tắt là PPE) tất cả đều có thể được sản xuất tại Việt Nam do nhân
công Việt Nam. Để vượt qua suy thoái kinh tế, nhiều doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang điều chỉnh dây chuyền sản xuất của nhà máy và đào tạo lại lực
lượng lao động của họ để sản xuất các sản phẩm y tế đơn giản cho các
bệnh viện địa phương hoặc xuất cảng. Các công ty sản xuất nhẹ tại Việt
Nam có thể làm điều này trong ngắn hạn.
Các thiết bị y tế phức tạp
hơn, bao gồm giường bệnh viện, dụng cụ y tế bao gồm máy thở và phương
tiện vận chuyển y tế như xe lăn, xe tải và xe cứu thương, có thể được
sản xuất bởi các DN trong các ngành kim loại, máy móc, điện tử, ô tô và
các bộ phận máy bay. Điều này đã được thực hiện ở các nước khác, cụ thể
là ở Hoa Kỳ khi các nhà sản xuất phụ tùng ô tô và máy bay điều chỉnh dây
chuyền sản xuất để sản xuất máy thở.
Vì Việt Nam đã có các cụm ô tô, các DN có thể đa
dạng hóa các loại thiết bị y tế và phương tiện này. Các sản phẳm này
cũng phù hợp với ý định tự túc trong vấn đề an ninh quốc gia, mà bối
cảnh khủng hoảng của COVID-19 đã đem lại như đã nói ở trên.
Việc
trang bị lại nhà máy (retooling) có thể được chính phủ khuyến khích
thông qua: (i) tín dụng của chính phủ để các công ty có thể tiếp tục trả
lương cho công nhân trong khi họ trang bị lại; (ii) làm dễ dàng việc
truy cập thông tin và các tài liệu về công nghệ, kể cả nhuồn và nơi để
mua nguyên liệu thô và các đầu vào trung gian khác; và (iii) kết nối
giữa các bên (DN cung cấp, cơ sở y tế và những người mua). Trên nguyên
tắc, các DN sản xuất tại Việt Nam đều có thể làm vậy, nhưng họ bị hạn
chế ở điểm (ii) và (iii) do đó phải cần chính phủ giúp đỡ.
Nhu cầu
cho các địa điểm sản xuất mới ở ngoài Trung Quốc. Mặt khác, COVID-19
đã đem lại một cơ hội quý báu cho DN Việt Nam. Khi thế giới đã nhận
thức ra về mối nguy hiểm về sự phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc đối với
tất cả các sản phẩm được sản xuất theo chuổi giá trị toàn cầu (global
value chains), từ vật tư y tế và máy thở đến iPhone, người mua và nhà
đầu tư trên khắp thế giới đang và sẽ tìm kiếm các địa điểm sản xuất ở
ngoài Trung Quốc. Việt Nam có một cơ hội bằng vàng để chứng tỏ mình là
một địa điểm sản xuất tốt nhất trong chuyện này.
Nếu các DN
nước ta có thể vượt qua được giai đoạn suy thoái này, họ sẽ tạo ra một
lực lượng lao động đủ lớn, được đào tạo bài bản với các chi phí cạnh
tranh thấp, có thể thực hiện hiệu quả các đơn đặt hàng lớn cho các sản
phẩm công nghệ cao và trung bình.
Vấn đề của các DN này là họ
thường thiếu đào tạo kỹ thuật cho lực lượng lao động, phần lớn là do các
DN không muốn đầu tư vào đào tạo sợ tốn kém. Để giải quyết điều này,
chính phủ phải cung cấp hỗ trợ tài chính và đào tạo cho người lao động
trong thời kỳ suy thoái.
Vấn đề FDI trong thời gian đại dịch
Vừa
qua Ấn Độ đã tỏ ra lo ngại là các DN Trung Quốc (DN TQ) đang thừa cơ
nạn dịch Covid-19 mà đổ tiền qua mua các doanh nghiệp trong nước đang bị
khủng hoảng hầu có thể thao túng thị trưởng kinh tế Ấn Độ về sau này.
Đó
là chưa kể họ còn ngại các DN TQ nhân cơ hội này đem các máy móc lạc
hậu cũ kỹ có nguy hại đến môi trường mà chính phủ TQ cấm dùng trong nước
qua đó. Vì thế Ấn Độ đã ra một đạo luật là trong thời gian COVID-19
thì tất cả các đầu tư từ các nước láng giềng (tuy Ấn Độ còn các nước
láng giềng khác như Bhutan, Afghanistan, Myanmar and Nepal nhưng mọi
người đều biết rõ mục đích chính của đạo luật này nhằm vào Trung Quốc
kể cả Hong Kong) phải được chính phủ Ấn Độ chấp nhận chứ không phải tự
động đi vào như trước đây.
Điều này thì Mỹ cũng đã làm từ lâu.
Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS) là một ủy ban liên ngành
được thành lập từ hồi 1975 để duyệt xét đầu tư tư nước ngoài, chủ yếu là
TQ, lúc đầu là do lý do an ninh nhưng trong mấy năm gần đây thiên về
thương mại và kinh tế nhiều hơn.
Cũng tương tự như Ấn Độ, vừa qua
hai nước Úc và Đức đều tuyên bố là trong thời kỳ đại dịch Covid-19, tất
cả các đầu tư từ nước ngoài phải được chính phủ xem xét để tránh trường
hợp các nước khác thừa cơ hội nước đục thả câu. Việt Nam ta cũng phải
cẩn thận như vậy để tránh nền kinh tế nước ta trong tương lai khỏi bị
lũng đoạn bởi các nước khác.
Dịch virus corona là một cơ hội bằng vàng để các
kinh tế gia VN có cơ hội phân tích ảnh hưởng của TQ đối với nền kinh tế
VN như thế nào, để biết rõ số người lao động tay nghề cao và thấp của TQ
xuất cảng qua VN hiện là bao nhiêu, ở trong ngành nghề nào, có thể
thay được ngay hay không, cũng như ảnh hưởng TQ về giao thông, du lịch,
vận tải, đầu tư, thương mại và tác động đến các đầu vào của các chuổi
cung ứng liên quốc gia.
Chính phủ phải lập ra một nhóm
nghiên cứu để thâu thập các tài liệu cần thiết một mặt để tìm hiểu những
ảnh hưởng của dịch cúm đến kinh tế VN và một mặt khác để tìm hiểu rõ
thêm ảnh hưởng của nền kinh tế TQ đối với VN, nhất là ở các tỉnh biên
giới.
Không thiếu vốn mà thiếu đầu tư chất lượng và giáo dục phù hợp
Vấn
đề Việt Nam đang gặp không phải là thiếu vốn đầu tư mà là thiếu kém về
chất lượng đầu tư và thiếu đầu tư vào những lănh vực mà Việt Nam đang
cần để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình: các ngành công kỹ nghệ cao
hơn và tận dụng trí tuệ của dân Việt Nam.
Chính phủ cần phải rà
soát lại những đầu tư nước ngoài để chú trọng hơn về chất lượng, khuyến
khích đầu tư nước ngoài vào các hoạt động thượng nguồn và hạ nguồn của
những lãnh vực này để hoàn thiện chuỗi giá trị cung ứng; khuyến khích
FDI liên kết với các công ty trong nước qua hình thái liên doanh và đẩy
mạnh liên kết hàng dọc; nâng tỷ lệ nội địa hóa, và ngăn chặn đầu tư
(hoặc đem các máy móc cũ) có hại hay có ảnh hưởng xấu cho môi trường.
Mục đích chính là giúp các công ty tư nhân trong nước được lớn mạnh và
cạnh tranh thành công trên thế giới.
Điều này đòi hỏi cải tổ theo chiều sâu như giảm vai
trò của doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng các nhà xuất khẩu trực
tiếp và gián tiếp; khuyến khích phát triển các cụm sản xuất (clusters);
đầu tư xây dựng các khu công nghiệp đồng bộ (plug-and-play) và các khu
công nghệ; khuyến khích và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp
thông qua hợp đồng thầu phụ.
Tôi đã trình bày những rào cản cho
sự phát triển kỹ nghệ Việt Nam trong cuốn sách 'Light Manufacturing in
Vietnam' (Phát Triển Công Kỹ Nghệ Nhẹ tại Việt Nam) do Ngân Hàng Thế
Giới xuất bản.
Quan trọng nhất vẫn là chất xám của người Việt
Nam. Do đó để thu hút các nhà đầu tư và một mặt khác để vượt lên trên
bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần phải có những cải tổ đột phá về
giáo dục và về đào tạo trường dạy nghề.
Đã có biết bao nhiêu là
những báo cáo nói về đề tài này nhưng những cái cách đó vẫn chưa được
thực hiện. Chẳng hạn trong cuốn sách về Việt Nam ở trên, tôi đã đề nghị
một số các biện pháp chính sách cần được triển khai để tăng số lượng và
chất lượng công nhân có tay nghề, giúp nền kinh tế vươn lên mức cao hơn
trên bậc thang giá trị gia tăng.
Nhìn xa hơn, VN cần phải có
chiến lược phát triển nguồn nhân lực bằng cách cải tổ để tăng cường phối
hợp giữa các bộ chịu trách nhiệm về giáo dục và đào tạo nghề; giảm bớt
kiểm soát các trường đại học và trường dạy nghề; tăng cường tự chủ của
các trường này, nhất là trong việc sửa đổi giáo trình cho phù hợp với
đòi hỏi trên thị trường lao động; tăng cường liên kết nhà trường với
doanh nghiệp; định hướng nhu cầu đào tạo nghề và nhu cầu của doanh
nghiệp cũng như có các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nhận sinh
viên thực tập.
Tóm lại, dịch Covid-19 là một thách thức lớn cho
kinh tế Việt Nam nhưng với các biện pháp cách ly xã hội đã và đang
dần được tháo gỡ, Việt Nam cần giúp đỡ các người lao động nghèo và
tận dụng cơ hội để chuyển hướng sản xuất và nâng cao năng suất cho các
ngành nghề có giá trị cao trong nước khi hết nạn dịch.
Mặt khác, Việt Nam cần nhanh chóng tránh tình trạng nước đục thả câu do một số các nước nhân cơ hội này đổ tiền vào mua các công ty nội địa hầu thao túng thị trường sau này, hoặc là để đem các máy móc cũ kỹ qua làm thiệt hại đến môi trường qua nước ta mà chính nước họ không thể dùng được nữa.
Các biện pháp định hướng lại kinh tế cần được giới thiệu, công bố rộng rãi để người lao động, doanh nghiệp và toàn xã hội được biết, nhằm phục hồi niềm tin vào tương lai sau dịch virus corona.
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ kinh tế Đinh Trường Hinh, chủ tịch công Ty EGAT tại Virginia, Hoa Kỳ. Ông nguyên là chuyên gia kinh tế chính, VP Phó chủ tịch và Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (1978-2014). Ông đã đăng tải các tác phẩm Công nghiệp Nhẹ Châu Phi (2012), Các Câu Chuyện Kể Từ Mặt Trận Phát Triển Kinh Tế (2013), Phát Triển Công Nghiệp Nhẹ tại Việt Nam (2013), và Công Việc Làm, Kỹ Nghệ Hoá, và Toàn Cầu Hoá (2017).
Bài cùng tác giả:
Kinh tế VN: 9 giải pháp thay cho 3 đặc khu
EVFTA với lợi ích to và thách thức lớn cho VN
'Bảy lập luận sai về việc dùng tiền TQ ở VN'
Mặt khác, Việt Nam cần nhanh chóng tránh tình trạng nước đục thả câu do một số các nước nhân cơ hội này đổ tiền vào mua các công ty nội địa hầu thao túng thị trường sau này, hoặc là để đem các máy móc cũ kỹ qua làm thiệt hại đến môi trường qua nước ta mà chính nước họ không thể dùng được nữa.
Các biện pháp định hướng lại kinh tế cần được giới thiệu, công bố rộng rãi để người lao động, doanh nghiệp và toàn xã hội được biết, nhằm phục hồi niềm tin vào tương lai sau dịch virus corona.
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ kinh tế Đinh Trường Hinh, chủ tịch công Ty EGAT tại Virginia, Hoa Kỳ. Ông nguyên là chuyên gia kinh tế chính, VP Phó chủ tịch và Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (1978-2014). Ông đã đăng tải các tác phẩm Công nghiệp Nhẹ Châu Phi (2012), Các Câu Chuyện Kể Từ Mặt Trận Phát Triển Kinh Tế (2013), Phát Triển Công Nghiệp Nhẹ tại Việt Nam (2013), và Công Việc Làm, Kỹ Nghệ Hoá, và Toàn Cầu Hoá (2017).
Bài cùng tác giả:
Kinh tế VN: 9 giải pháp thay cho 3 đặc khu
EVFTA với lợi ích to và thách thức lớn cho VN
'Bảy lập luận sai về việc dùng tiền TQ ở VN'
Tin liên quan
- Virus corona: Nhà báo TQ 'biến mất' sau khi bị truy đuổi ở Vũ Hán xuất hiện trở lại
- EVFTA: Ảnh hưởng với kinh tế Việt Nam và nhu cầu cải tổ
- 'Bảy lập luận sai về việc dùng tiền TQ ở biên giới'
- Năm quốc gia sẽ phục hồi nhanh nhất sau đại dịch Covid-19
- Virus corona: TQ từ chối lời kêu gọi điều tra nguồn gốc bệnh dịch
- Các giải pháp để kinh tế VN không cần 3 đặc khu
No comments:
Post a Comment