Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 29 April 2020

Vì sao gọi là rượu “quốc lủi”?

 10:05 | Thứ bảy, 15/10/2016  0
 
“Hai rang, hai luộc, một lòng / Hai bát chuối nấu để vòng xung quanh / Lại thêm một đĩa dưa hành / Một chai “quốc lủi” là thành cỗ to…” - Đấy là bài vè dân gian ở vùng Ý Yên, Nam Định mà nhiều lần về quê tôi đã thuộc.
Ảnh: TL
Có lẽ không chỉ riêng Nam Định mà ở rất nhiều vùng nông thôn ta (nhất là miền Bắc), mâm cao cỗ đầy đến mấy mà lại thiếu chai “quốc lủi” đùng đục, nút lá chuối thì chưa được gọi là cỗ quê chính hiệu. Trong lúc vui vẻ, nhiều người đã hỏi tôi về ngữ nghĩa của từ “quốc lủi” có xuất xứ có từ bao giờ. Quả là một vấn đề thú vị cũng đáng phải bàn.
Quốc lủi, một từ ghép “cọc cạch” với hai yếu tố Hán - Việt (quốc) và thuần Việt (lủi). Trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Trung tâm Từ điển học - NXB Đà Nẵng, 2014) đã thống kê tới 58 từ bắt đầu bằng chữ “quốc” này. Và khi lần tìm các cuốn từ điển tiếng Việt từ cổ chí kim, tôi cũng chỉ mới thấy có cuốn này chấp nhận đưa quốc lủi thành một từ riêng biệt, với định nghĩa: “rượu gạo nấu bằng phương pháp thủ công, có màu trong suốt, nồng độ cao”.
Cứ theo cách hiểu này thì mọi thứ rượu tự nấu ở nông thôn, từ loại vô danh tới loại có thương hiệu (như Làng Vân (Bắc Giang), Mẫu Đơn (Lạng Sơn), Bàu Đá (Bình Định),…) đều thuộc dòng “quốc lủi” kia cả. Quốc lủi còn theo chân du khách đi khắp thế giới nữa. Rất nhiều sinh viên nước ngoài học tiếng Việt, đều biết và biết rất rõ từ quốc lủi (giống như họ hiểu rõ các từ cơm bụi, quán cóc mộc tồn,…).
Đây là một từ do dân gian tự tạo hoàn toàn mang tính khẩu ngữ, không tuân thủ theo nguyên tắc cấu tạo từ Hán - Việt thông thường, có nghĩa là các yếu tố ghép với nhau phải đều là Hán - Việt (như quốc ca, quốc huy, quốc ngữ, quốc phòng, quốc sách,…). Lủi là từ thuần Việt, thường dùng để chỉ hành động của loài vật nào đó “chui luồn vào chỗ rậm, chỗ khuất để trốn”. Đến đây thì ta có thể nhận ra bóng dáng của nhân tố lịch sử trong việc xuất hiện tổ hợp từ này.
Bởi cũng theo Từ điển tiếng Việt (vừa dẫn), thì từ quốc lủi được chua thêm một đoạn với nghĩa xuất xứ: “thời Pháp thuộc thường phải nấu lậu”. Như vậy, việc tự tiện nấu rượu ngày xưa được coi là “quốc cấm”. Ai nấu hoặc buôn bán rượu này đều coi là phạm pháp. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, ta từng gặp cảnh quan ta và quan Tây đi bắt rượu lậu. Nhưng người ta vẫn bí mật “nấu chui nấu lủi” để qua mặt nhà chức trách. Tôi không rõ là từ quốc lủi này có đúng là đã xuất hiện từ thời Pháp thuộc hay không nhưng rõ ràng, nó được sử dụng khá phổ biến vào những năm thuộc thập niên 60-70 của thế kỉ trước (và bây giờ thì lan ra khắp cả nước).
Lúc đó, trong thời chiến tranh “thóc cao gạo kém”, Nhà nước cũng cấm việc nấu rượu tràn lan, để tiết kiệm lương thực và giữ gìn an toàn thực phẩm. Nhưng rồi, rượu ngang nấu chui vẫn ngang nhiên tồn tại và lưu hành không chính thức ngoài luồng. Có lẽ đây là căn cứ để dân gian đặt ra định ngữ “quốc lủi”. Đầu tiên cũng chỉ là một lối nói mang tính đàm tiếu, vui vẻ. Thế rồi, quen miệng và cũng vì từ này nghe lạ tai, ngồ ngộ nên nó mau chóng đi vào giao tiếp cộng đồng và xuất hiện khá nhiều trên báo chí.
Về chính tả, hiện tại có hai cách viết: “quốc lủi” và “cuốc lủi”. Đây lại là một sự “chuyển di” kế tiếp. Bởi quốc và cuốc đọc đồng âm song lại có nghĩa khác nhau. Một bên là thành tố chỉ “nước” (quốc gia), bên kia là một loại “chim nhỏ, hơi giống gà, sống ở bờ bụi gần nước” (lủi như cuốc). Điều thú vị là, do hành vi “lủi” đi với “(con) cuốc” lại phù hợp về ngữ nghĩa hơn nên khi phát âm, người ta dễ liên tưởng và cũng cảm thấy hay hơn. Và chẳng bao lâu, anh “quốc” chỉ giang sơn bờ cõi phải nhường chỗ cho anh “cuốc” chỉ chuyên chui lủi nơi bờ tre gốc dứa..
Ngày nay, lương thực dồi dào, kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và sự quản lí pháp luật tốt hơn, việc nấu rượu theo cách tự phát, thủ công không còn bị cấm đoán ngặt nghèo, nên món rượu quê có cơ hội phát triển, mở rộng. Về quê đi đâu chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp “đặc sản” cao gạo này. Không còn cảnh nấu vụng uống trộm, nhưng việc định danh quốc lủi kia đã thành thói quen khó bỏ. Âu cũng là một “di chứng” của một thuở để lại trong lịch sử từ vựng tiếng Việt.
PGS-TS Phạm Văn Tình
(Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam) 

No comments:

Post a Comment