Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday 5 April 2020


SẤM TRẠNG TRÌNHBản Sở Cuồng, Phần Hán Việt


Đây là phần cuối của bản trường thiên Sấm Trạng Trình, Sở Cuồng-Mai Lĩnh (1930), dài 487 câu. Phần đầu làm theo thể thơ lục bát. Phần cuối từ câu 395 là tiếng Hán Việt, ngoại trừ 8 câu từ 402-409 là bài thất ngôn bát cú chữ Nôm. Người viết sẽ giải từng đoạn  theo khả năng hiểu biết của mình, và có thể sẽ cập nhật khi có ý tưởng mới.  Bài viết có nhiều nhóm chữ màu xanh, là những link trực tiếp với một trang khác, dùng như dẫn chứng, hoặc đưa tới một đoạn khác trong bài. Hãy nhấn vào nếu muốn biết thêm thông tin.
Căn bản, người viết không tin đây là sản phẩm của Trạng Trình, mà là một bài ‘giải sấm’ (hay ‘diễn sấm’, tức diễn bài sấm thành thơ, xem phụ chú 1) của một hậu nhân nào đó trong quá khứ, có thể trong thời Pháp thuộc, vì:
–  Thể thơ lục bát chưa xuất hiện, hoặc đã xuất hiện nhưng chưa được phổ thông thời Trạng Trình. Rõ ràng qua cả ngàn bài thơ của ngài, chúng ta chỉ thấy ngài dùng đa số dạng thất ngôn bát cú, vói hai loại chữ Hán và Nôm (xem Trang Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).
–  Sấm thường phải cô động, và làm theo khuôn khổ những đoạn 2 hoặc 4 câu. Khổng Minh dùng 4 câu, mỗi câu 4 chữ để nói về một triều đại trong bài Mã Tiền Khoá.  Bài này 487 câu, thì phải là bài giải, chớ không thể là nguyên bản.
–  Bản trường thiên này, phần lục bát có những câu rất chung chung, không phải là sấm.  Và đầu bài nói về sử Việt từ thời lập quốc, trải qua các triều đại Đinh Lê Lý Trần Lê Mạc.  Sấm phải là những tiên đoán về sự việc sẽ xảy ra trong thời tương lai sau khi nhà tiên tri đặt bút viết.
–  Phần chữ Hán Việt cuối bài, có độ khả tín cao hơn, vì đa số các đoạn theo khuôn khổ ngũ ngôn.  Và rất dễ dàng để thấy đa số đây là những cặp câu, đối từ và ngữ nghĩa, tức là, khi giải, các từ loại phải đi với nhau (danh từ theo danh từ, động từ theo động từ, ..).  Đây là một cách để xác định lại những chữ bị viết sai.
Có nhiều người giải sấm trên các trang mạng nhất là các trang ở hải ngoại, tuy nhiên độ thuyết phục rất thấp do bị thiên kiến chính trị che lấp, lời giải thích một chiều, và đa số chấp ngữ (xem phụ chú 2). Người viết quan niệm, để có thể hiểu sấm rốt ráo, ta phải ở ngoài 2 bên, nhìn sự kiện một cách khách quan, không thiên vị.
Vì bài sấm được viết với chữ quốc ngữ mẫu tự Latin, nên chắc chắn lỗi chính tả sẽ có. Nếu không cẩn thận xem xét từng chữ, thì lời giải sẽ đi theo một hướng khác.  Phần sấm dưới đây (chữ đỏ) được copy trực tiếp từ bài Sấm Trạng Trình Toàn Tập của tác giả Nguyễn Thiên Thụ. Không hiểu ông đánh máy lại, hay copy từ cuốn sách, do đó không biết những lỗi chính tả (chữ xanh) này xuất hiện bao giờ.
Người viết sẽ lướt qua phần chính tả, bằng cách so sánh với những chữ nghi ngờ với các bài viết trên mạng, hay những bản sấm khác.  Bản sao ở Gia Hội Thư Trang có thêm phần chữ Hán, dịch từ âm Hán Việt, rất tiện dụng cho bài viết, tuy nhiên chưa được thẩm định, nên có nhiều chữ không đúng.

Trước khi thử giải bài sấm, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu đại ý mà bài sấm muốn nói đến. Không gì bằng xem đoạn 6 câu, được tác giả Lưu Văn Vịnh đánh giá “đây mới là bài sấm đích thực của Trạng Trình” đăng trong Việt Sử Siêu Linh:
Bốc đắc Càn thuần quái Sơ cửu thoái tiềm long Ngã bát thế chi hậu Binh qua khởi trùng trùng Ngưu tinh tụ Bảo giang (hoặc Tinh tụ Bảo giang thượng) Đại nhân cư chính trung
hàm ý 8 đời sau thời Trạng Trình, chiến tranh sẽ xảy ra trên đất nước Việt Nam không dứt, cho đến khi các vì tinh tú tụ trên sông Bảo giang, thì vị đại nhân, tức thánh nhân, sẽ ra đời, Việt Nam sẽ trở thành trung tâm thế giới. Đây là giai đoạn gọi là Thượng Nguyên Thánh Đức.
Ở miền Nam, các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Hồng Tâm, .. đều nói đến giai đoạn này, trực tiếp từ các vị giáo chủ, hay qua cơ bút (xem phụ chú 3). Và trước khi đến giai đoạn này, Hội Long Hoa sẽ được thành lập. Đây là thời ‘hạ nguơn’ hay ‘hạ nguyên’, có lẽ đang xảy ra trên toàn thế giới, bao gồm thiên tai, địa ách, dịch bệnh, chiến tranh cục bộ, khu vực rồi lan ra thành chiến tranh thế giới, .. Do vậy, bài sấm liên hệ rất nhiều đến tài liệu của các tôn giáo này, như đã giải thích một phần nào qua bài Thử Giải Bài Hố Hò Khoan Của Đức Huỳnh Phú Sổ, và Định Vị Bảo Giang.
Những đoạn sấm phần Hán Việt của bản Sở Cuồng-Mai Lĩnh (1930), được Nguyễn Thiên Thụ đánh giá là bản chữ quốc ngữ xưa nhất, dù nguyên bản chữ Nôm chưa tìm được, cho là viết về giai đoạn hiện tại và tương lai, nhưng không theo một trình tự thời gian, mà lại lộn xộn, không hiểu vì lý do gì, hoặc ai làm. Và đặc biệt, ít nhất những câu đầu lại không thấy xuất hiện ở những bản sau, cho thấy có sự khác biệt rất lớn giữa những bản sấm, được “viết” bởi rất nhiều người, với nhiều mục đích, mà chính trị có lẽ là nguyên nhân.

PHẦN GIẢI THÍCH
Sấm Trạng Trình có rất nhiều chữ liên hệ đến 12 con giáp. Những chữ nêu đích danh các năm, tháng như Tý, Sửu, .. thì không thành vấn đề. Tuy nhiên những chữ như ‘long’, ‘xà’, .. chắc phải có ẩn ý gì đó, ngoài ý nghĩa tháng, năm. Ý nghĩa này có thể là biểu tượng, ví dụ như ‘long’ là vua, ‘xà’ là kẻ ác độc, hoặc gồm cả 2 (thời gian và biểu tượng).
Có hai danh từ được nói đến trong các đoạn sấm: ‘thiên tử’ và ‘thánh nhân’, hàm ý có thể không phải để chỉ cùng một nhân vật. Người viết nghĩ thánh nhân chỉ là người phụ tá cho thiên tử, nhưng với sứ mạng rất lớn lao (xem phụ chú 4).
Để tiện việc theo dõi, các phân đoạn được cài vào những page jumps ở đầu câu. Chỉ cần nhấn vào một câu đầu nào đó, sẽ dẫn đến đoạn muốn đọc.
Mục lục phân đoạn:


 395. 
Canh niên tàn phá (->tân) Tuất hợi phục sinh Nhị ngũ dư bình
Chỉ 3 câu nhập này không chúng ta cũng thấy có vấn đề. Tại sao 3 câu, mà không phải 2 hoặc 4, như những đoạn theo sau?  Có khả năng một câu bị mất không? (Nếu vậy, người viết nghĩ câu kế phải là ‘Lục thất miên diên‘ 六七綿延, tức triều đại ‘lục thất’ dài dặc liên miên, hay ‘Lục thất vĩnh yên’ 六七永安, tức triều đại ‘lục thất’ vĩnh viễn bình yên).
Câu đầu, rất nhiều trang mạng viết ‘canh niên tân phá‘ chớ không phải ‘canh niên tàn phá’ như trên. Rõ ràng đây là lỗi chính tả.
Hai câu sau, ta thấy các cặp ‘tuất hợi‘ của 12 con giáp, và ‘nhị ngũ‘ của các số, hay hào của quẻ Dịch. Do vậy, ở trên ‘canh’ và ‘tân’, một cặp trong thập can, rất hợp lý để đi với ‘tuất hợi’, để chỉ các năm Canh Tuất, Tân Hợi.  Chữ “phá” là động từ, do vậy chữ “niên” cũng là động từ, , nghĩa là giẩm, đạp, xua, đuổi, mới hợp lý về mặt ngữ vựng.  Bản Hương Sơn (1950) dùng “canh tân tàn phá” cũng cùng ý nghĩa, và người viết thích hơn, vì các cặp chữ đều xuất hiện đầu câu.
Như vậy, đoạn này được chỉnh lại:
Canh niên Tân phá Tuất Hợi phục sinh Nhị ngũ dư bình
Canh niên Tân phá
庚撚辛破
Canh Tân tàn phá
Tuất Hợi phục sinh
戌亥復生
Tuất Hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình
二五餘平
2, 5 dư bình
Chữ ‘nhị ngũ‘ được dùng 2 lần trong nguyên đoạn sấm này. Theo lý số, đây là hào 2 và 5 của các quẻ. Hào 2, âm, chỉ dân, trong khi hào 5, dương, chỉ vua (xem Tương Quan Giữa Các Hào). ‘Nhị ngũ‘ cũng có nghĩa là 2 lần 5, tức 10, và có lẽ là ý nghĩa trong đoạn này.  (Xin xem thêm phần phụ chú 5).
Như vậy, bắt đầu bằng năm Canh/Tân nào đó, trải qua những biến cố lớn lao (giẩm đạp, xua đuổi, tàn phá), 10 năm sau đó, cho tới Canh Tuất 2030/Tân Hợi 2031 mới phục sinh. Hai năm đó có thể là Canh Tý 2020/Tân Sửu 2021.  Tuy nhiên vì vị trí của chữ ‘Tân’ không nằm kế ngay sau ‘Canh’, có thể để chỉ 2 năm không liên tục nhau, mà phải trải qua một con giáp khác (như Canh Tý 2020, Tân Hợi 2031, hoặc Canh Tuất 2030, Tân Dậu 2041) mới đủ diễn tả sự tàn phá xảy ra (11 năm, tức ‘nhị ngũ dư‘).
Cho dù giữ nguyên câu ban đầu ‘canh niên tàn phá‘, tức năm Canh sẽ có chiến tranh, hay một sự tàn phá nào đó, vì năm Canh gồm 2 số cuối là bội số của 10, thì cũng phải là Canh Tý 2020, hoặc trễ lắm là bắt đầu từ Canh Tuất 2030 để phải qua một chu kỳ 12 (nghĩa của chữ ‘‘, 10 dư tức hơn 10) năm nữa mới phục sinh. Đây vẫn còn trong thời hạ nguyên (1983-2044) (Xem ‘Chúng Ta Đang Sống Trong Thời Đại Hạ Nguyên‘).

398.
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh (->vĩ) Can qua tứ xứ khởi đao binh (->xứ, khổ) Mã đề dương cước anh hùng tận Thân dậu niên lai kiến thái bình.
Đa số các bài trên mạng dùng ‘long vĩ‘, đối với ‘xà đầu‘ hợp lý hơn. Và ‘xứ xứ‘ tức khắp các nước, hơn là ‘tứ xứ’ nghĩa là 4 xứ, mặc dù hàm ý khắp các nước. Câu 2 có lẽ là chữ ‘khổ‘, chớ không phải ‘khởi’, theo ý nghĩa.
Như vậy, đoạn này được chỉnh lại:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh Can qua xứ xứ khổ đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận Thân Dậu niên lai kiến thái bình
Đoạn này nói về Thế Chiến Thứ 3.  Xin xem bài “Đệ Tam Thế Chiến” và phụ chú 6 để chiêm nghiệm.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
龍尾蛇頭起戰爭
Đuôi rồng đầu rắn khởi chiến tranh
– Đa số cho rằng đây chỉ thời gian: cuối năm Thìn, đầu năm Tỵ, tức khoảng 4 tháng. Tại sao phải cần khoảng thời gian như vậy để khởi chiến tranh?
Người viết cho rằng đây là giai đoạn Miên xâm lăng VN (theo tài liệu). ‘Long vĩ‘ coi như đuôi của con rồng Trung quốc, tức Miên, và ‘xà đầu‘ là can đầu của năm Tỵ, tức Ất Tỵ 2025. Sao gọi là ‘đuôi’? Đuôi là phần nối dài của cơ thể, chịu sự sai khiến của đầu. Qua những diễn biến từ 1975 tới nay, ta thấy Miên ngày càng bị TQ chi phối, trở thành con cờ của TQ. Ngoài ra, Miên còn có sự thù hằn với VN trong quá khứ, luôn có lập trường chống VN.
Can qua xứ xứ khổ đao binh
干戈處處苦刀兵
Can qua mọi xứ khổ đao binh
– Lôi kéo tất cả các nước trên thế giới vào cuộc Thế Chiến Thứ 3, mọi nơi sẽ đau khổ nạn binh đao.
Mã đề dương cước anh hùng tận
馬啼羊腳英雄盡
Móng  ngựa  chân dê anh hùng tận
– Ngựa là hình tượng chiến tranh, dê là hình tượng tế thần, tức chỉ sự chết chóc. Móng, chân: chỉ sự giẩm đạp, dày xéo. Anh hùng để chỉ những người chiến sĩ trong trận mạc. Những năm Ngọ, Mùi, chiến tranh sẽ huỷ hoại phần lớn trai trẻ.
Thân Dậu niên lai kiến thái bình
申酉年來見太平
Đến năm Thân Dậu thấy thái bình
– Mới có dấu hiệu thái bình từ các năm Thân Dậu, ví dụ như các trận chiến thưa dần.
Cũng có thể lý giải đoạn này cho Thế Chiến Thứ 2. ‘‘ là Nazi Đức đi trước (đầu), ‘long‘ là Nhật theo sau () khởi cuộc chiến tranh (1939), và mãi tới Ất Dậu (1945) mới thấy thái bình. Và thái bình cho đa số các nước, nhưng vẫn còn một số quốc gia và khu vực vẫn tiếp diễn chiến tranh sau đó. Do vậy, câu này chắc chắn phải để chỉ thời tương lai.

402.
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.
Người viết không nghĩ bài này nên nằm nơi đây, vì 1) Đang toàn Hán, bỗng nhảy Nôm vào, 2) Về mặt thời gian, nếu cho những con thú trong bài đại diện năm, thì không khớp với phần Hán. Bắt đầu từ Tỵ, qua Thân, tới Hợi, rồi Tí, qua Ngọ, sau đó đến Dần, và cuối cùng đến Ngọ, nếu theo thứ tự, khoảng 24 năm. Đây được biết là bài thơ Thế Sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm, không dính dáng vì tới sấm.

410.  Cửu cửu kiền khôn dĩ định Thanh minh thời tiết hoa tàn Trực đáo dương đầu mã vĩ Hồ binh bát vạn nhập trường an.
Có rất nhiều giải thích về đoạn này. Đa số cho rằng đây là sự kiện quân Việt Minh kéo về Hà Nội năm 1945 (link). Có ý kiến cho rằng đây là giai đoạn quân giải phóng chiếm Sàigòn 1975 (link, phần, 10 thoughts on “Sấm Trạng Trình toàn tập”). Và có người cho đây là những sự kiện xảy ra trong tương lai (link).
Hãy xem bản Trình Công Ngữ Vịnh Thái Bình có phần chữ Nôm, để xem sự tam sao thất bổn của đoạn này, có ý nghĩa gần như tương phản, khiến người viết không biết phải tin bản nào:
Cửu cửu Càn Khôn định Thanh minh thời tiết khai Đầu hình như quá mã Hồ binh bách vạn hồi gia
Tuy nhiên, người viết vẫn tin tưởng đây chỉ giai đoạn tương lai, sẽ xảy ra tại vùng Thất Sơn. Bốn câu này tương đương với 2 câu ở bài lục bát dưới “Kiền khôn phú tái vô lương, Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng“. ‘Hồ binh’ thường mang ý nghĩa xấu, mà người tàu dùng để chỉ quân ngoại xâm người Hồ ở phía Bằc, Tây Bắc TQ. Trong trường hợp này, chữ lại dùng để chỉ quân TQ, Tây dương và các nước tham dự trận Thất Sơn.
Có thể thấy đoạn 15 câu từ đầu (không kể bài thất ngôn bát cú Thế Sự chữ Nôm), những thông báo về thời gian và sự kiện xảy ra liên tục: Thìn Tỵ (long vĩ xà đầu), Ngọ Mùi (mã đề dương cước), Thân Dậu (thân dậu niên lai), Tuất Hợi (tuất hợi phục sinh): chiến tranh, chết chóc, dấu hiệu thái bình và phục sinh. Đây là giai đoạn mà Đức Huỳnh Phú Sổ, trong bài Vén Màn Bí Mật, gọi là “Năm năm lục ngoạt cơ hàn thừ” (cuối Thìn và đầu Hợi).
Cửu cửu kiền khôn dĩ định
九九乾坤已定
Chín chín càn khôn đã định
– Đất trời đã định số làm cuộc thiên địa tân tạo để tái lập thời Thượng Nguyên Thánh Đức tại cứ điểm Thất Sơn – Cửu Long qua việc sấm nổ (xem bài ‘Hố Hò Khoan‘), lộ đền đài châu báu, 18 nước (cửu cửu) hùng mạnh sẽ xâm lăng VN để tranh giành cướp giựt.
Thanh minh thời tiết hoa tàn
清明時節花殘
Thanh minh thời tiết hoa tàn
– Hãy giải thích một hướng khác. Thanh 聲: tiếng, tức tiếng sấm nổ ở các núi Thất Sơn, làm lộ ra (minh 鳴) đền đài châu báu đỉnh vạc. Khi sấm nổ, thì thời tiết thay đổi, nền văn minh hiện tiền (hoa: tinh hoa) tàn lụi.
Trực đáo dương đầu mã vĩ
直到羊頭馬尾
Thẳng đến đầu dê đuôi ngựa
– Có thể đỉnh điểm thời gian quân giặc xâm lấn VN vào cuối năm Ngọ, đầu Mùi, hoặc là đỉnh điểm của chết chóc (như ‘Mã đề dương cước anh hùng tận‘). Trực đáo: thẳng đến, đến liền. Các nước đang có chiến thuyền ngoài biển (dương: 洋) đến trước (đầu), các nước gần biên giới VN đem xe tăng, bộ binh () đến sau ().  Ngoài ra, ‘mã dương’, tức ngựa dê, cùng loài, ám chỉ ‘quần dương’ như trong ‘Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng‘ ở phần cuối.
Hồ binh bát vạn nhập trường an
胡兵八萬入長安
Binh hồ tám vạn vào kinh
– Binh 18 nước vào Thất Sơn – Cửu Long, vùng sẽ là kinh đô của VN sau này.  Thời đại bây giờ mà đem 80 ngàn quân không phải là số ít. Chia đều cho 18 nước thì cũng gần 5000 mỗi nước. Trường An từng là kinh đô của TQ qua 13 triều đại, còn có tên gọi khác là Nam Kinh, tức kinh đô phía Nam, và Kim Lăng 金陵, nghĩa là mộ vàng. Nhà Tần 秦 gọi mả vua là sơn 山, nhà Hán 漢 gọi là lăng 陵. Đây ám chỉ vùng núi non Thất Sơn.
Bàn thêm về đoạn này: Cửu, tức số 9 là số lớn nhất trong dãy số, được hiểu là sự hoàn thành một chu kỳ.  Rất dễ nhận thấy trong hệ số thập phân, đi từ 0 tăng lên đến 9, chấm dứt để bắt đầu một chu kỳ mới (10, 11, .., 19). Không biết từ lúc nào, chúng ta cộng 2 số cuối của năm dương lịch tống số thành 9, và nghiệm rõ ràng những năm này kết thúc những sự kiện lớn lao, như:
– 1918: kết thúc Chiến Tranh Thế Giới 1
– 1945: kết thúc Chiến Tranh Thế Giới 2
– 1954: VN đánh đuổi thực dân Pháp dành lại độc lập
– 1963: chấm dứt chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam
– 1972: mùa hè đỏ lửa, mở màn cho hiệp định Paris, thống nhất đất nước
Như vậy,  ‘cửu cửu‘ chính là sự hoàn thành một chu kỳ lớn hơn, tức là sự chấm dứt hạ nguyên. Theo thuyết ‘tam nguyên cửu vận‘, chúng ta đang ở giai đoạn nguyên cuối (hạ) và vận 2, sắp vào vận 3, để rồi sau đó sẽ trở lại giai đoạn nguyên đầu (thượng). Đây là thời kỳ ‘đi ngược’, giống như đang ở mùa đông sắp trở lại xuân, mọi sinh vật khó mà tồn tại với thời tiết khắc nghiệt (xem phụ chú 7).
Để giải đoạn sấm khó hiểu này, cần liên hệ tới 4 câu trong bài “Hố Hò Khoan” của Đức Huỳnh Phú Sổ:
Thất sơn tiếng nổ Quy cổ diệt kim Cửu cửu y nhiên Tình riêng tham báu
Do vậy, câu ‘Thanh minh thời tiết hoa tàn‘ ứng với câu ‘Quy cổ diệt kim‘ và được phân thành 2 vế: ‘thanh minh thời tiết‘ ứng với ‘quy cổ‘, và ‘hoa tàn‘ ứng với ‘diệt kim‘. Giai đoạn ‘diệt kim‘ giống như cuối mùa đông, nền văn minh hiện tại (tức tinh hoa) sẽ tàn lụi, như đã từng xảy ra trong quá khứ (nền văn minh Atlantis). Khi trái đất trở lại giai đoạn thượng nguyên, sẽ mở ra một khoảng thời gian trong sáng (‘thanh minh‘).
Sấm Trạng Trình không nói rõ ràng về vụ sấm nổ ở Thất Sơn, nhưng cho biết sẽ có một số nước đem quân vào Trường An,  như đã dẫn giải ở trên, ám chỉ vùng Thất Sơn (Trường An, tức Kim Lăng, tức kim sơn, là mộ vàng, là núi vàng) được hiểu là kinh đô của nước Việt sau khi trở lại nguyên thượng. Các nước sẽ tranh giành, chiếm đoạt trong một khoảng thời gian 5, 6 năm, cho đến khi vị thiên tử xuất hiện ở Bảo giang (4 câu đoạn sau) thì mới yên.

414.
Bảo Giang thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành Lê dân đào bão noãn Tứ hải lạc âu ca
Bảo giang thiên tử xuất
寳江天子出
Sông quí vua xuất hiện
– Xem bài “Định Vị Bảo Giang“.
Bất chiến tự nhiên thành
不戰自然成
Không đánh cũng tự thành
Lê dân đào bão noãn
犁民醄飽煖
Dân đen vui no ấm
Tứ hải lạc âu ca
四海樂謳歌
Bốn biển vui hát ngâm

418.
Dục thức thánh nhân hương Quá kiều cư Bắc phương Danh vi Nguyễn gia tử Kim tịch sinh ngưu lang
Dục thức thánh nhân hương
欲識聖人鄕
Muốn biết quê thánh nhân
– Quê quán hàm nghĩa gốc tích.
Quá kiều cư Bắc phương
過橋居北方
Qua cầu về phương Bắc
– Nhiều người cho rằng Bắc phương là miền Bắc VN, không hiểu có phải vì tính địa phương hay là một lý do nào đó, do vậy không thể giải nghĩa chữ Bảo giang rốt ráo. Phương nghĩa là hướng, Bắc phương là hướng bắc một nơi nào đó. Qua cầu ở hướng bắc, như vậy cây cầu phải duy nhất và có ý nghĩa lịch sử. Nổi tiếng là cầu Hiền Lương và Tràng Tiền. Tuy nhiên với hai cầu này thì khó định được hương quán của thánh nhân.
Theo thiển ý, Trạng cố ý lắc léo trong câu này.  Qua cầu tức là qua sông.  Qua sông phải đi từ hướng Nam tới Bắc chớ không phải hướng khác.  Như vậy sông phải chảy theo hướng Tây-Đông  hay Đông-Tây hoặc gần như vậy.  Đây chính là Bảo giang, là sông Vàm Nao nối liền hai sông Tiền và Hậu giang.  Xin xem “Định Vị Bảo Giang“.
Danh vi Nguyễn gia tử
名為阮
Tên gọi con nhà Nguyễn
– Theo ý của nguyên đoạn thì ‘danh‘ là đại danh từ chỉ ‘hương‘, do vậy, chữ ‘danh vi’ nghĩa là nơi ấy có tên là … ‘Nguyễn gia‘ là chữ nhấn mạnh của ‘Nguyễn Gia Miêu‘, nơi dựng nghiệp của các chúa Nguyễn, để đối với ‘Nguyễn Tây Sơn’. ‘Gia Miêu‘ 嘉苗, là lúa tốt, cũng đồng nghĩa với ‘hoà hảo’, một hình thức chơi chữ.  ‘Tử‘ là con, hàm ý danh từ ‘Hoà Hảo’ có sau ‘Gia Miêu’. Như vậy, thánh nhân hương là làng Hoà Hảo.
Kim tịch sinh Ngưu lang
生牛郞
Buổi tối vàng sinh chàng Ngưu
Kim tịch: buổi tối vàng, tức hoàng hôn 黄昏.  Hoàng là sắc vàng của kim loại, cũng là họ Hoàng (hay Huỳnh).  Buổi tối ám chỉ thời mạt hạ. Sinh tức xuất hiện. Ngưu lang có lẽ đơn giản là chàng nông dân.  Hành Kim chỉ phương Tây là thế giới của Đức A Di Đà, và một chữ tịch khác 籍 nghĩa là quê quán. Ám chỉ Đức Huỳnh Phú Sổ. (Về thiên tượng, hành Kim chỉ mùa Thu, vào tháng 9 và tháng 10, sao Kim Ngưu có thể nhìn thấy vào buổi tối ở chân trời phía Đông).

422.
Thượng đại nhân bất nhân Thánh ất dĩ vong ân Bạch hổ kim đai ấn Thất thập cổ lai xuân
Vai trò của vị thánh nhân?
Thượng đại nhân bất nhân
堙不仁
Thượng đại diệt bất nhân
– Có lẽ là chữ ‘đại‘ 代: thay thế, đại diện. Câu có ý nghĩa: thay mặt đấng hoàng thiên tức cao xanh (thượng) để tiêu diệt (nhân) người bất nhân.
Thánh ất dĩ vong ân
聖乙已忘恩
Thánh ất trừ vong ân
– Vị thánh đó (ất) không chấp nhận, dung túng () bọn vong ân.
– Tự điển: (Danh) Viết có chỗ mất, ngoặc cái dấu 乙 để chữa cũng gọi là ất. Có phải một chữ bị mất trong nguyên bản?
Bạch hổ kim đai ấn
白虎今帶印
Cọp trắng nay đai ấn
– Hổ trắng là hình ảnh của đấng minh quân, đồng thời tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền của vị tướng quân dũng mãnh, can trường (xem Hình Tượng Con Hổ Trong Văn Hóa).
Trong chữ sỉ (褫 ) có chữ hổ (虎), như vậy Bạch hổ tức là Bạch Sỉ, hay Bạch Xỉ (齒, răng), hay Bạch (士) qua luật đồng âm.
Do vậy, câu này nghĩa là Bạch Sĩ thời nay (kim) sẽ là công hầu/vua chúa (đai ấn). Bạch Sĩ tức tên gọi tắt từ hiệu Bạch Am Cư Sĩ của Trạng Trình, sẽ tái sinh thời nay giữ chức quân sư, như đã giải thích trong bài ‘Hố Hò Khoan‘ và ‘Tứ Bửu Linh Tự‘.  Và cũng đồng nghĩa với sự trở lại của Đức Huỳnh Phú Sổ.
Thất thập cổ lai xuân
七十古來春
Bảy mươi xưa đến xuân
– ‘Thất thập‘ có lẽ hàm ý giống như Khương Tử Nha lúc 72 tuổi mới gặp Văn Vương, mới thật sự đem tài năng ra thi thố với đời, giống như cây cỏ gặp mùa xuân. (Xem Khương Tử Nha Và Những Thời Điểm Cùng Cực Trong Cuộc Đời và ‘Tứ Bửu Linh Tự‘). Đây cũng là khoảng thời gian Đức Huỳnh Phú Sổ ẩn dạng từ biến cố 1947.
Bàn thêm về đoạn này: Theo luận giải của bài Sấm Trạng Trình – Thầy Nhân Thập, thì đây là đoạn để chỉ trách nhiệm của ngài.  Đoạn có 4 chữ nhân 人 (bộ nhân 人 trong các chữ 代 đại, 仁 nhân, 今 kim, 來 lai), và chữ thập 十.  Chữ xỉ cũng có 4 chữ nhân 人.  Những hạng người bất nhânvong ân chắc chắn sẽ không tồn tại sau Hội Long Hoa.

426. 
Bắc hữu kim thành tráng Nam tạc ngọc bích thành Hỏa thôn đa khuyển phệ Mục giả dục nhân canh
Đoạn này, bản Anh Phương và Trịnh Văn Thanh (xem Sấm Trạng Trình Toàn Tập) chỉ giống 2 câu đầu, gợi ý rằng có thể các đoạn sấm ngũ ngôn được thiết lập chỉ 2 câu. Rõ ràng đoạn có 2 cặp câu đối nhau. Trong “Tận Thế và Hội Long Hoa”, phần Thiên Thơ (link) của tác giả Vương Kim, cho rằng Kim Thành là huyệt ở Thất Sơn, Ngọc Bích là huyệt ở Bà Rịa. Điều này khó thể xảy ra vì Thất Sơn-Bà Rịa chạy theo hướng Tây-Đông. Vả lại, ở Bà Rịa núi Kỳ Vân là huyệt Bích Ngọc, chớ không phải Ngọc Bích.
Người viết nghĩ rằng đây là giai đoạn sau Hiệp định đình chiến Geneva 20/7/1954, nước Việt Nam bị những thế lực Tây phương chia cắt thành 2 miền Bắc Nam.  Cụ thể là giai đoạn 1954 đến 1963. Xem phụ chú 8.
Bắc hữu kim thành tráng
北有金城
Bắc có thành vàng giữ
– Miền Bắc có thành trì xã hội chủ nghĩa bền vững. Vàng là kim loại không bị hen rỉ bởi oxygen. Thành được xây dựng để bao bọc một thành phố lớn, trong trường hợp này ám chỉ toàn miền Bắc.  Phải là chữ ‘tráng‘ 杖: (v) cầm, giữ. Tức là miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, giữ dân chúng ở lại. Đồng nghĩa với câu ‘hắc hắc thiết vi‘ trong bài Giáng Bút của Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Nam tạc ngọc bích thành
南鑿玉璧城
Nam đắp tường ngọc theo
– Miền Nam tạo lập một bức tường đẹp đẽ với Sàigòn được mệnh danh là ‘hòn ngọc Viễn Đông’. Ngọc là vật xa hoa, làm dáng, dễ vỡ. Tường dùng để bao bọc chung quanh khu nhà lớn, trong trường hợp này là ám chỉ các thành phố ở miền Nam.  Rõ ràng rất dễ nhận thấy thời VNCH, an ninh chỉ ở phạm vi các thành phố. Nếu bảo rằng ‘kim thành‘ là bức thành trì xã hội chủ nghĩa bao bọc miền Bắc, thì giai đoạn này, ở miền Nam, các hàng rào ấp chiến lược cũng đang được dựng lên, tức là ‘ngọc bích‘.  Chữ ‘thành‘ 城: (v) đắp thành, động từ đối với ‘tráng‘ câu trên. ‘Tạc‘ hàm ý bắt chước (theo khuôn mẫu).
Hỏa thôn đa khuyển phệ
火村多犬吠
Thôn lửa nhiều chó sủa
Thôn: một đơn vị hành chánh nhỏ, làng xóm, hoả: lửa, tức hành hoả trong ngũ hành, chỉ phương Nam. “Hỏa thôn” ám chỉ miền Nam VN. “Khuyển“, như đã giải trong bài “Giai Đoạn Cận Đại VN” chỉ những người TCG VN. Nguyên câu hàm ý miền Nam VN phải sống dưới sự ảnh hưởng, áp lực của TCG tức thời VNCH. (Vì khi đàn chó sủa, mọi người ai cũng phải lắng nghe để định xem chuyện gì đang xảy ra).
Mục giả dục nhân canh
牧者欲人耕
Kẻ chăn cầu người cày
Mục giả: người chăn, chỉ giới linh mục TCG. Dục: muốn, dục: 浴, tắm gội, một hình thức rửa tội của TCG. Đây là giới TCG muốn công giáo hoá nông dân miền Nam.

430. Phú quí hồng trần mộng Bần cùng bạch phát sinh Anh hùng vương kiếm kích Man cổ đổ thái bình (-> Manh)
Đoạn này khuyên tu tỉnh mới có cơ hội thấy được thánh nhân, sống đời Thượng Nguyên Thánh Đức. Hai cặp câu nghĩa bóng đối nhau đời thường (câu trên 1,3) với đời đạo (câu dưới 2,4).
Phú quí hồng trần mộng
富貴紅塵夢
Giàu sang bụi hồng mộng  
Hồng trần: bụi hồng, thế tục, cõi đời, nơi phồn hoa náo nhiệt.
Người say đắm chốn bụi hồng (hồng trần), mơ ước cảnh giàu sang (phú quý) nhưng chỉ là giấc mộng (mộng) trăm năm mà thôi.
Bần cùng bạch phát sinh
貧窮白髮生
Nghèo hèn tóc trắng sinh
Bạch phát: tóc trắng, tiên phong đạo cốt, chỉ người đắc đạo.
Kẻ tu hành tuy cuộc sống thanh bần (bần cùng), nhưng sẽ được đắc đạo (bạch phát) trường sinh (sinh) bất tử.
Anh hùng vương kiếm kích
英雄迋剑戟
Anh hùng đến kiếm kích
Vương: đi tới, đến. Kiếm kích: vũ khí sát thân.
Người mà cho mình là anh hùng sẽ đi tới hoạ kiếm kích sát thân
Manh cổ đổ thái bình
盲瞽睹太平
Người mù thấy thái bình
Manh cổ: người mù, không bị sắc dục chi phối.
Kẻ không bị lục dục cám dỗ như người mù (manh cổ) sẽ gần thì được thấy (đổ) tâm an bình (thái bình), xa thì sống thấy (đổ) được thời thái bình Thượng Nguyên Thánh Đức.
Bàn thêm về câu 1 và 2: phú quí tức nhiều, hồng (huyết mẹ) chỉ âm, bần cùng tức ít, bạch (tinh cha) chỉ dương. Đây là giai đoạn âm thịnh dương suy tức thời hạ nguyên này.

434.
Nam Việt hửu Ngưu tinh (->hữu) Quá thất thân thủy sinh Địa giới vị bạch (-> xỉ) Thủy trâm nhi bắc kinh (->trầm nhĩ bất)
Đoạn này nói về vùng thánh địa tương lai. Xem phụ chú 9.
Nam Việt hữu Ngưu tinh
南越有牛精
Nam Việt có Ngưu tinh
– Rõ ràng Trạng viết Nam Việt, tức miền Nam nước Việt. Như vậy Ngưu tinh xuất hiện ở miền Nam, chứng minh Bảo giang ở miền Nam chớ không phải ở miền Bắc như nhiều người cố giải. Ngưu tinh là sao chủ mạng của dân Việt tương lai.  Ám chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Quá thất thân thủy sinh
過七身
Qua 7 mạng nước sinh
– Sông Cửu Long phát nguyên từ Tây Tạng, rặng Hy Mã Lạp Sơn, chảy qua vùng Vân Nam Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Miên và  Việt Nam, mỗi khúc qua một nước gọi là thân (body of water). Như vậy ‘thuỷ sinh‘, tức từ nước sinh ra (thuỷ: 水, nước) để chỉ lượng phù sa bồi đắp (như là cù lao, từ từ nhô lên giữa dòng nước và ngày càng lớn thêm). Qua 7 quốc gia theo Phật giáo và sinh từ nước, để tạo thành vùng địa linh bậc nhất, để sinh nhân kiệt ở Bảo giang. [Chữ 身 thân: (Danh) Lượng từ: số tượng Phật. ◎Như: giáp đạo lưỡng bàng hữu bồ tát ngũ bách thân 夾道兩旁有菩薩五百身 sát theo hai bên đường có năm trăm bức tượng Bồ-tát, hàm nghĩa theo Phật giáo].
Ðịa giới xỉ vị bạch
地界齒未白
Địa giới răng chưa lộ
– Đây là khu vực Bảo giang để chỉ vùng đất, hay đúng hơn là một đại cù lao, bao bọc bởi các sông Tiền Giang, Vàm Nao, Hậu Giang và Kinh Xáng. Nhìn giống như chiếc răng với chân ở Vàm Nao, đầu là Kinh Xáng. Vì bị các dòng nước bao quanh, nên nhìn như chiếc răng chưa mọc (lộ). Xin dùng google map để nhìn vùng sông Vàm Nao.
Thủy trầm nhĩ bất kinh
水沈耳不驚
Nước chìm tai chẳng kinh
– Hàm ý: nước tới lổ tai nhưng không sợ vì quen rồi. Có lẽ là nghĩa này để chỉ quê hương thánh nhân “thuỷ trung“. Đây là hiện tượng mùa nước nổi ở miền Tây, nhất là các tỉnh An Giang, Châu Đốc. Xem phụ chú 10.

438.
Ký mã xu dương tẩu Phù kê thăng đại minh (->khuyển) Chư thử giai phong khởi  (->Trư) Thìn mão xuất thái bình
Giai đoạn Việt Nam cận đại từ 1954 tới nay.
Ký mã khu dương tẩu
驥馬驅羊走
Ngựa ký đuổi dê chạy
Phù kê thăng khuyển minh
扶雞升犬鳴
Chó sủa gà phù thăng 
Trư thử giai phong khởi
猪鼠佳風起
Heo chuột gió lành khởi
Thìn Mão xuất thái bình
辰昴出太平
Thìn Mão hiện thái bình
Phần này xin xem “Giai Đoạn Cận Đại VN Trong STT” đã viết

442.
Phân phân tùng Bắc khởi Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh (->Nhiễu nhiễu) Bảo sơn thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành
Có lẽ là giai đoạn gần trước, cho đến khi Hội Long Hoa xảy ra. Xem phụ chú 11.
Phân phân tùng Bắc khởi
紛紛從北起
Rối loạn theo Bắc khởi
– Khởi từ phương Bắc (VN? TQ?), rối loạn (phân) này theo (tùng) rối loạn (phân) khác
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh
擾擾出東征
Nhiễu loạn xuất Đông chinh
– Chinh chiến ở biển Đông, nhiễu loạn này làm ra (xuất) nhiễu loạn khác. Đây chính là Thế Chiến Thứ 3 mặt trận Thái Bình Dương
Bảo sơn thiên tử xuất
寳山天子出
Núi quí vua xuất hiện
– Ở trên đã nói ‘Bảo giang thiên tử xuất‘, bây giờ lại nói ‘Bảo sơn thiên tử xuất‘, tạo nhiều nghi vấn:
1. Bảo giangBảo sơn phải cùng một nơi. Chính vì lý do này, mà nhiều người tin rằng thiên tử sẽ xuất hiện vùng Thất Sơn/Cửu Long
2. Câu sau có thể hàm ý thiên tử xuất từ phái Bảo sơn, tức Bửu Sơn Kỳ Hương? Nếu nghĩ ‘thiên tử’ không phải là vua, mà là một vị con trời, tức trời sai xuống để làm một sứ mạng nào đó, thì điều này khả dĩ hợp lý.
Bất chiến tự nhiên thành
不戰自然成
Chẳng đánh tự nhiên thành

446.
Thủy trung tàng bảo cái Hứa cập thánh nhân hương Mộc hạ châm châm khẩu Danh thế xuất nan lường Danh vi Nguyễn gia tử Tinh bản tại Ngưu lang
Quê hương thánh nhân ở đâu?
Thủy trung tàng bảo cái
水中藏寳蓋
Trong nước ẩn lọng quí
– Đây là hình tượng lá sen hay súng vì có cuống giống như thân cây lọng (cái).  Để chỉ vùng nước nổi miền Tây với những cánh đồng mênh mông hoa súng (tiếng Hán thụy liên, tức sen ngủ). Bảo chỉ Phật, tàng tức đang ẩn để chờ thời cứu đời. Xem phụ chú 12.
Hứa cập thánh nhân hương
許及聖人
Hẹn đến quê thánh nhân
– Theo cách giải ở những câu kế, mà nghiệm ý nghĩa câu này.  Hẹn đến quê thánh nhân để làm gì?  Chính là để kế tục sự nghiệp còn dang dở của vị thánh nhân (cập : 及 (Động) Kế tục). Tại địa danh Hòa Hảo, Đức Huỳnh Phú Sổ đã mở đạo Phật Giáo Hoà Hảo năm 1939, và tự nhận là người thừa kế tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Phật Thầy Tây An (nguyên gốc làng Tòng Sơn, An Giang). Như vậy thánh nhân chỉ Đức Phật Thầy Tây An.  Nghiên cứu sự liên hệ giữa Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Phú Sổ, người viết gặp bài này: Tìm hiểu về bài thơ Bát Nhẫn.
Mộc hạ châm châm khẩu
木下針針口
Dưới cây khâu cài miệng
– Rất nhiều người giải theo lối chiết tự câu này. Hãy dùng google search trên mạng sẽ thấy nhiều lời giải khác nhau. Ở đây, do đã định vị Bảo giang, tức sông Vàm Nao, như vậy, câu này có liên hệ đến giáo phái Hoà Hảo hay không?
Mộc hạ: nghĩa là dưới cây, chỉ phần gốc, rễ. Châm châm: chích chich (bằng mũi nhọn). Đây là hành động cấy lúa ngày xưa, và có lẽ vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay, bằng cách dùng cái nọc cấy, hay có thể dùng vài ngón tay, đâm xuống đất bùn cho có lỗ nhỏ (khẩu), rồi nhét phần gốc rễ của lúa non (cũng là nghĩa của chữ ‘miêu‘ trong ‘gia miêu‘, gọi là mạ) xuống, hết cây này tới cây khác. Toàn bộ 4 chữ ‘mộc hạ châm châm‘  cho ta chữ ‘hoà‘ là lúa. Cộng thêm ‘khẩu‘ thành ‘hoà‘ (和).
Bản khác: Mộc hạ liên đình khẩu: liên (連 nối liền) đình (停 đặt để) tức là liên tục đặt để phần gốc rễ của cây mạ (được chữ hòa tức lúa) vào lỗ nhỏ trên bùn (tức khẩu),   thành hoà (和).
Danh thế xuất nan lường
名世出難量
Danh thế hiện khó lường
– Tên ở thế gian xuất hiện một cách rất khó lường (hàm ý chẳng ai nghĩ tới).  Câu trên chỉ mới cho ta được chữ hoà (和), nhưng chưa khẳng định ở đâu.
Danh vi Nguyễn gia tử
名為阮家子
Tên gọi con nhà Nguyễn
– Như đã bàn ở đoạn ‘Dục thức thánh nhân hương‘, tên đó là Gia Miêu, nghĩa là lúa tốt, Hán dịch ngược lại thành ‘hòa hảo‘ để chỉ vùng Hoà Hảo (和 好).  Một chữ tử khác, , gồm chữ hòa là lúa và tử , dịch nghĩa là hạt giống, hay động từ nghĩa là lấy đất lắp vào gốc lúa cho chắc, cũng dẫn đến Gia Miêu và Hòa Hảo.
Tinh bản tại Ngưu lang
精本在牛郞
Sao mạng tại Ngưu lang
– Vùng này có tinh bản là sao Ngưu, như trong ‘Ngưu tinh tụ Bảo giang‘ (đã dẫn ở đầu bài), là chủ mệnh tinh của dân Việt tương lai.

452. Mại dữ lê viện dưỡng Khởi nguyệt bộ đại giang Hoặc kiều tam lộng ngạn Hoặc ngụ kim lăng cương
Hành trạng của 4 vị phật. Xin xem Sấm Trạng Trình – Thầy Nhân Thập.
Mại dữ lê viên dưỡng
賣與棃園養
Bán cho vườn lê nuôi
Khởi nguyệt bộ đại giang
起月大江
Trăng lên bước sông lớn
Hoặc kiều tam lộng ngạn
三弄岸
Hoặc đậu bờ tam lộng
Hoặc ngụ kim lăng cương
金陵岡
Hoặc ở biên non vàng

454.
Thiên dữ thần thực thụy Thụy trình ngũ sắc quang Kim kê khai lựu điệp Hoàng cái xuất quí phương
Giai đoạn thiên tử xuất hiện
Thiên dữ thần thực thụy
天與神殖瑞
Trời cùng thần dựng điềm
Thụy trình ngũ sắc quang
瑞呈五色光
Điềm bày 5 sắc sáng
– Theo quan niệm đông phương, khi các vị tiên phật giáng thế thì có mây ngũ sắc xuất hiện.
Kim kê khai lựu diệp
金雞開橊葉
Gà vàng mở lựu điệp
– Chắc chắn liên hệ tới năm Dậu. Kim là vàng, màu vàng thuộc hành thổ, can Mậu Kỷ. Có lẽ là Kỷ Dậu 2029. Các trang mạng viết ‘lựu điệp’ có lẽ hợp lý hơn. Lựu 餾: (v) luyện lọc, điệp 牒: công văn. Đây là Hội Long Hoa, Phật xuất hiện, gạn lọc con người, như bảng Phong Thần thuở xưa.
Hoàng cái xuất quí phương
黄蓋出癸方
Lọng vua ở quí phương
– ‘Quí‘ cũng đồng nghĩa với ‘bảo‘ 寶, và ‘phương‘ 芳: hương thơm của cỏ hoa, đồng nghĩa với ‘hương‘ 香, chữ đầu và cuối trong ‘Bửu Sơn Kỳ Hương‘.

460.
Nhân nghĩa thùy vi địch. Ðạo đức thùy dữ đương (->thục) Tộ truyền nhị thập ngũ Vận khải ngũ viên trường
Vị thánh vương là chân mệnh thiên tử. Chú ý đoạn này có các cặp câu đối từ và ngữ nghĩa.
Nhân nghĩa thùy vi địch
仁義誰為敵
Nhân nghĩa khó ai địch
Ðạo đức thục dữ đương
道德孰與當
Đạo đức chẳng ai đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
祚傳二十五
Ngôi truyền 25 đời
Vận khải ngũ diên trường
運啓五延長
Vận mở 5 vạn năm
– Vì thời Thượng Nguyên Thánh Đức con người sống rất thọ. (Họ Hồng Bàng với 18 đời Hùng Vương, 4000 năm). Đồng nghĩa với: Lục thất dư ngũ vạn xuân (Triều đại Lục Thất kéo dài trên 5 vạn năm).

464.
Vận đáo dương hầu ách Chấn đoài cương bất trường Quần gian đạo danh tự Bách tính khổ tai ương
Đây là chuyện tương lai, chỉ bàn chớ không nắm vững. Chưa chắc mọi người còn sống đến giai đoạn này để kiểm chứng.
Vận đáo dương hầu ách
運到羊猴厄
Vận đến dê khỉ ách
– Có thể là “Qua năm dê [Mùi] tới lúc mùa hè (tháng Thân 7), Trong bá tánh biết ai hữu chí” (Đức Huỳnh Phú Sổ)? (link).  Trong ‘Dự Ngôn Của Lưu Bá Ôn Trên Bia Đá‘ có câu: ‘Cho dù là La Hán làm bằng đồng bằng sắt, khó qua ngày mười ba tháng Bảy‘. Tháng 7 là tháng Thân, chắc chỉ giai đoạn này. Đến tượng La Hán làm bằng đồng mà cũng không chịu nổi, có lẽ bị nạn lửa trời, hoặc bom hạch nhân.
Chấn đoài cương bất trường
震兌綱不長
Đông Tây cứng không trường
Đông: CS, đỏ (hồng), âm, ma. Tây: TB, trắng (bạch), dương, quỷ. Hai thế lực dùng sức mạnh (cương) không trường thọ. Đồng nghĩa với ‘Đông Tây vô sự‘ ở câu chót.
Quần gian đạo danh tự
群奸盜名字
Bầy gian trộm danh tự
– Có lẽ nhiều người trộm xưng danh hiệu phật tiên để lừa người
Bách tính khổ tai ương
百姓苦災殃
Trăm họ khổ tai ương
– Người dân sẽ chịu đủ mọi thứ tai trời ách đất. Âu cũng là do con người tạo nghiệp làm ra.

468. 
Can qua tranh đấu khởi Phạm địch thán hung hoang. Ma vương sát đại quỉ Hoàng thiên tru ma vương
Chiến Tranh Thế Giới 3
Can qua tranh đấu khởi
干戈争鬥起
Chiến tranh thế giới khời
Phạm địch thán hung hoang
犯敵嘆兇荒
Phạm địch thán hung hoang – Kẻ thù (địch) xâm phạm (phạm) bờ cõi làm trăm họ ta thán (thán), bất an (hung), khắp nơi tan hoang (hoang)
Ma vương sát đại quỉ
魔王殺大鬼
Vua ma giết quỉ lớn
– Theo câu này thì thế lực CS (ma) sẽ thắng TB (quỷ). Xem phụ chú 13.
Hoàng thiên tru ma vương
皇天誅魔王
Trời cao diệt vua ma
– Cuối cùng trời cũng diệt bọn ma vương.

472. 
Kiền khôn phú tái vô lường Ðào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân Ta hồ vô phụ vô quân Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành. Ðoài phương phúc địa giáng linh Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân. Phá điền thiên tử giáng trần Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm. Trần công nãi thị phúc tâm Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du Tướng thần hệ xuất Y Chu Thứ ky phục kiến Ðường Ngu thi thành Hiệu xưng thiên hạ thái bình Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia.
Trận chiến ở Thất Sơn, thánh vương cùng bầy tôi xuất hiện và kết quả
Kiền khôn phú tái vô lường
乾坤覆載無量
Đất trời che chở không bao dung
– Thiên phú: trời che, địa tái: đất chở, nhưng hình như không còn sức chứa nữa, tức mất thăng bằng, phải có cuộc thay đổi.
Ðào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng
桃園鼎沸群羊争雄
Vườn đào lộ vạc bầy dê tranh giành
Đào viên: vườn đào, là nơi quần tiên tụ hội theo tích Tây Vương Mẫu mở hội Bàn Đào. Ý chỉ vùng núi Thất Sơn. Có câu “sơn bất tại cao, hữu tiên tất danh; thuỷ bất tại thâm, hữu long tất linh” (thơ Lậu Thất Minh của Lưu Vũ Tích) rất thích hợp để chỉ vùng Thất Sơn và Cửu Long.
Núi ở Thất Sơn (đào viên) nổ, vạc (đỉnh) là vật truyền đời nắm giữ uy quyền của nước bá chủ (như ‘cửu đỉnh‘ của TQ từ thời Hạ Vũ) lộ ra (phí), các nước (quần dương) tranh giành (tranh hùng). Quần dương hàm ý đa số là các nước Tây phương.  Bản Anh Phương dùng ‘phát‘ 發: (Động) hiện ra, lộ ra chớ không phải ‘phí‘, có lẽ đúng hơn.  Người viết nghĩ chữ đỉnh , tức đỉnh đầu, chỗ cao nhất để chỉ đỉnh núi thì hợp lý hơn.
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
機二五雌雄未決
Cơ nhị ngũ âm dương chưa định
Cơ nhị ngũ, tức âm dương, cuộc thiên địa tân tạo chưa xong, có lẽ vì cần một thời gian dài.  Cơ nhị ngũ có thể xảy ra 2 giai đoạn: 1) Chấn (CS, hồng, âm, ma) với đoài (TB, bạch, dương, quỷ) như trong ‘chấn đoài cương bất trường‘, và 2) Hoàng thiên với ma (nhóm chiến thắng ở trên) như trong ‘hoàng thiên tru ma vương‘.
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân 橫山三裂五分 Đảo Hoành sơn xẻ 3 phân 5
– Chữ ‘Hoành sơn‘ ý chỉ toàn miền Nam Việt Nam từ sự tích của câu ‘hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân‘ của Nguyễn Bỉnh Khiêm bày kế cho Nguyễn Hoàng.  Có lẽ chữ ‘đảo’ , nghĩa là sụp đổ, phá sản.
Ta hồ vô phụ vô quân
嗟乎!無父無君
Than ôi! Không cha không vua
– Ta ở vào tình trạng không còn người đứng đầu.
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
桃園散落吾民守城
Vườn đào tán lạc dân ta giữ thành
– Vùng Thất Sơn sẽ bị 18 nước hùng mạnh xâm chiếm, dân chúng sẽ lâm vào cảnh không còn thủ lĩnh, phải tự lo bảo vệ sinh mạng và nơi mình đang sống.
Ðoài phương phúc địa giáng linh
兌方福地降靈
Hướng Tây đất phúc giáng linh
– Hướng Tây là hướng của Phật A Di Đà. Ý chỉ vị phật sẽ giáng linh ở đất phúc, tức vùng Bảo giang. Hướng này cũng còn gọi là hướng Dậu, ám chỉ phật sẽ xuất hiện năm Dậu.
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
九重瑞應龍成五雲
Điềm trời ứng thành rồng 5 sắc mây
– Câu có chữ cửungũ, chỉ bậc chí tôn.  Long thành có lẽ là Núi Cấm.  Mây ngũ sắc hiện trước ở long thành, đón chào vị minh chúa.
Phá điền thiên tử giáng trần
破田天子降塵
Phá ruộng vua xuống trần
– Nhiều người giải ‘phá điền‘ bằng cách chiết tự chữ ‘điền‘ để tìm vị thánh nhân. Nhưng người viết nghĩ rằng, ‘phá điền thiên tử‘, hàm nghĩa vị thiên tử phá điền, tức phá ruộng, tức cày ruộng, là công việc của con trâu, ám chỉ Ngưu tinh. Giáng trần hàm ý từ trên trời giáng xuống, khi thời cơ đến, chớ không phải đã xuất hiện ở nhân gian.  Câu trên chỉ phật, câu này chỉ vua, chính là vị phật vương tương lai. Sau khi thánh vương xuất hiện, không thấy nói tới chiến tranh, rõ ràng ‘Bất chiến tự nhiên thành‘.
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
勇士若海謀臣如林
Dũng sĩ nhiều như nước ở biển, mưu thần nhiều như cây trong rừng
Trần công nãi thị phúc tâm
塵公乃是腹心
Vị mang chức công thời xưa ấy là người tâm phúc
– Vị tâm phúc (phúc tâm) giúp vua chính là (nãi thị) người đã từng có dấu vết (trần 塵) là một vị quan mang chức công (công) trong quá khứ, tức Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm tái sinh.  Đây là vị thánh nhân.
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
江湖處士陶潛出遊
Sông hồ ẩn sĩ Đào Tiềm xuất du
Đào Tiềm: ẩn sĩ phiêu diêu ngoại vật. Giai đoạn này những ẩn sĩ thanh cao mới xuất hiện giúp đời.
Tướng thần hệ xuất Y Chu
相臣系出[伊周
Hệ tướng thần xuất Y Chu
Y Doãn (Y) thời Thương, Chu Công (Chu) thời Châu bên tàu thuở xưa, là những bậc tài giỏi giúp vua dựng nước.
Thứ ky phục kiến Đường Ngu thi thành
庶機復見唐虞施成
Nhiều kế sách phục lại thành thời Đường Ngu
Đường Nghiêu (Đường), Ngu Thuấn (Ngu) là 2 vị vua thượng cổ của TQ, 2 triều đại thái bình an lạc.  Còn nhớ Hồ Quý Ly sau khi chiếm ngôi nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, hàm ý họ Hồ là con cháu vua Thuấn.
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
號 稱天下太平
Xưng hiệu thiên hạ thái bình
– Hàm ý sau khi xưng hiệu nước “Đại Nam Quốc”, thì thiên hạ thái bình.
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia
東西無事南城國家
Đông Tây không tích sự, Nam thành quốc gia
Đông: CS, đỏ (hồng), âm, ma. Tây: TB, trắng (bạch), dương, quỷ.  Đông Tây rốt cuộc chẳng làm nên trò trống gì, trong khi Nam, tức VN, sẽ trở thành quốc gia gọi là Đại Nam Quốc! Thiên hạ thái bình!

KẾT LUẬN
Qua những kiến giải trên, người viết có thể kết luận như sau:
1. Những tài liệu của các giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Hoà Hảo, Hồng Tâm, chính là chìa khoá để giải bài sấm này.
2. Thánh nhân hương, tức quê quán thánh nhân, là làng Hoà Hảo, thánh địa của đạo Phật Giáo Hoà Hảo.
3. Thiên tử tức Ngưu tinh, và thánh nhân là Trạng Trình tái sanh, tức Đức Huỳnh Phú Sổ (sẽ trở lại trong tương lai như ngài hứa).
4. Bảo Giang là sông Vàm Nao (xem Định Vị Bảo Giang). Nơi đây thiên tử và vị thánh nhân sẽ đồng xuất hiện.

Hết
2/2018
-8+

PHỤ CHÚ
1.
Theo tổng kết của Nguyễn Thiên Thụ trong Sấm Trạng Trình Toàn Tập, có rất nhiều phiên bản sấm khác nhau.  Vì sao?  Người viết nghĩ rằng mỗi phiên bản là một kiến giải của một người nào đó, dựa vào một bản sấm nguyên thủy nào đó, qua hình thức thơ ca để tạo vẻ huyền bí.  Họ cắt xén, thêm bớt, hoặc di chuyển thứ tự các đoạn sấm.  Những câu thuần Hán Việt mà có lẽ khó hiểu thời của họ, vẫn còn sót lại, nên chúng ta vẫn còn gặp rải rác ở vài phiên bản sấm, nhưng lại không thống nhất với nhau.

2.
Người viết sống ở Mỹ, có tham gia một vài diễn đàn ‘bàn sấm’. Qua một thời gian, thấy rằng mỗi khi nói ‘xấu’ (tức sự thật) về VNCH, mặc dù người viết là dân miền Tây, đã từng sống dưới 2 chế độ VNCH, liền bị chụp mũ này mũ nọ. Cảm thấy không thích hợp với môi trường đầy sân hận, và biết không đi tới đâu, nên người viết tự ý rút lui, về nhà tự mình nghiên cứu, hy vọng giải đáp được những ẩn ý người xưa để lại.
Ở hải ngoại, là di sản của VNCH, nên hiện tượng ‘đa khuyển phệ’ (xin xem lời giải thích của ‘hoả thôn đa khuyển phệ‘ ở trên) vẫn tiếp diễn, mạnh nhất là giai đoạn 1975-80s. Những năm gần đây có vài phong trào làm sống lại bóng ma VNCH, Ngô Đình Diệm, thành lập những ‘chính phủ lưu vong’, .., của những người vẫn còn mơ tưởng về hào quang quá khứ, dù kết quả chẳng đi đến đâu. Những câu sấm lục bát của Trạng Trình, và bài cơ bút của công chúa Liễu Hạnh, đã nói lên được điều này:
Nực cười những kẻ bàng quan, Cờ tàn lại muốn toan dường chống xe Lại còn áo mũ sum soe, Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang
hay
Thôi thôi mặc lũ trò hề Gió mây ta lại đi về gió mây

3.
Để đi tìm vị trí sông Bảo giang, và tung tích vị thánh nhân, người viết tốn rất nhiều thời giờ nghiên cứu những bài thi văn, cơ bút của các vị đắc đạo tiên phật từ Nam chí Bắc, vì nghĩ rằng, qua đó sẽ thấy được những lời tiên tri xa gần. Khi tìm được Bảo giang ở đâu, sẽ biết vị thánh nhân là ai. Người viết rất tin tưởng về thuyết ‘địa linh sinh nhân kiệt’, nên dùng đó để định vị trí sông Bảo giang, và cuối cùng vài năm trước, đã kiến giải được đây chính là sông Vàm Nao, qua những lời tiên tri của Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ đạo Phật Giáo Hoà Hảo, và bài thơ thần của bà Trúc Lâm Nương, giáo chủ tiên phái Hồng Tâm. Trước khi post bài Định Vị Bảo Giang lên trang phatgiaohoahaohaingoai.com, người viết đã rất đắn đo, vì sợ tiết lộ thiên cơ, vốn không phải cho quảng đại quần chúng biết, nhưng cảm nhận rằng thời cơ gần tới, có lẽ thánh thần cũng muốn càng nhiều người biết càng tốt để họ có thể tu tĩnh phần nào, nên đã thành tâm xin phép qua quẻ bói dịch.

4.
Trong bài “Khúc Hát Giữa Mùa Thu“, Bà Trúc Lâm Nương có viết:
Siêu nhiên mùa hoa nở Muôn hướng đón Thánh Nhân! Xuân về đưa nhân loại Gặp gỡ đức Chân Nhân! Thánh Nhân và Chân Nhân Ẩn bóng tự thuở nào?… Lạnh lùng nước trôi chảy Bàng bạc mây bay cao; Tìm đâu thấy bóng người!
Rõ ràng thánh nhân xuất hiện trước, thu xếp mọi công chuyện, rồi dẫn dắt nhân loại gặp gỡ đức chân nhân, một vị chuyển luân thánh vương.  Điều này rất dễ thấy trong truyện Phong Thần Diễn Nghĩa (xem Thử Giải Bài ‘Tứ Bửu Linh Tự’) vai trò quan trọng của Khương Tử Nha, phải cáng đáng mọi công chuyện để giúp nhà Châu dựng nghiệp, và cuối cùng Võ Vương mới xuất hiện.
Tuy nhiên, theo định nghĩa, thánh 聖: (Tính) Sáng suốt, đức hạnh cao, thông đạt. ◎Như: thánh nhân thần thánh , và trong các bản sấm lục bát cùng ngũ ngôn, có rất nhiều danh tự để chỉ người như thánh nhân, thiên tử, thánh quân, Ngưu tinh, đại nhân, song thiên, chân nhân, thầy tăng, thầy nhân thập, .. rất khó hiểu.  Tất cả danh tự trên ai cũng có thể là thánh nhân cả. Có lẽ người viết sẽ tìm hiểu thêm và viết một bài khác trong tương lai về đề tài này.

5.
Bàn thêm về ‘nhị ngũ‘:
Trong Sấm Trạng Trình, từ ‘nhị ngũ’ và ‘lục thất’ rất khó hiểu. Người viết có tìm được một số định nghĩa như sau:
5.1. Cao Đài Dịch Lý:
Bởi Bát-quái Tiên-thiên do Đức Phục-Hi sáng lập ra, nói rằng vua Phục-Hi trị thủy trên sông Mạnh-Hà mới thấy trên lưng của Long-Mã có xuất hiện nhiều điểm, dưới dạng chữ thập, nhờ tài trí thông-minh quán thế, ông mới toán ra bằng số, tổng cộng là 55 điểm, như trên có nói đến.
Có nghĩa là trong 10 con số này đã có âm dương, chẵn lẻ của nó. Nếu cộng cả hai tổng-số của âm-dương-số lại sẽ được là:
Tổng-số dương là: 1+3+5+7+9 = 25
Tổng-số âm là: 2+4+6+8+10 = 30
Cộng hai tổng-số lại: 25+30 = 55.
Tổng-số là 55. Hai con số 5 đi liền nhau Dịch nói là nhị ngũ, tức là hai con số (5) ngũ.
Ngũ đây là Ngũ-hành, nên mới phân ngũ-hành dương và ngũ-hành âm; đấy là lý-do tại sao không đọc là 55 mà nói là cơ nhị ngũ. Bởi Dịch là biến, có biến mới có hóa, sự biến-hóa từ xưa đến giờ là vô cùng tận; nếu không như vậy thì địa-cầu này sẽ bị tiêu-diệt mà thôi.
Thật vậy, đó là nguyên-lý:
Bát-quái biến hóa vô-cùng, phân định Ngũ-hành, càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh LƯỠNG NGHI và cứ thế tiếp-tục biến-hóa ra mãi.
Ấy cũng gọi là số của Hà-đồ, hay còn gọi là cơ nhị ngũ, tức là Khí-Hư-Vô phát-khởi, là trung-tâm điểm của vũ-trụ.
5.2. Ý Nghĩa Các Hào
Hào chẵn là âm, lẻ là dương
Những sự trùng hợp về ‘nhị ngũ’ âm dương:
5.2.1. Trong Kinh Thánh, Revelation 12:2 The woman and the dragon: And a great sign appeared in heaven: a woman clothed in the sun, with the moon under her feet and a crown of twelve stars on her head. She was pregnant and crying out in the pain and agony of giving birth. 3 Then another sign appeared in heaven: a huge red dragon with seven heads, ten horns, and seven royal crowns on his heads. Một con rồng đỏ khổng lồ với 7 đầu, 10 sừng, và 7 vương miện trên những đầu của nó.
Người viết lý giải như sau: 7 đầu, 10 sừng tức 5 đầu rồng đực với 2 sừng mỗi đầu, 2 đầu còn lại không sừng là rồng cái. Vương miện ám chỉ vua chúa, người đứng đầu một nước. Giai đoạn hiện tại có thể đây là G7 gồm Canada, Pháp, Mỹ, Ý, Nhật (thủ lĩnh đàn ông), và Anh, Đức (đàn bà). Sẽ trở lại đề tài này trong một bài viết khác, nếu có dịp.
5.2.2. Núi Thất Sơn: – Thiên Cẩm Sơn – núi Ông Cấm (thân, center) – Phụng Hoàng Sơn – núi Cô Tô (south) – Ngọa Long Sơn – núi Dài Giảng Liên (east????)
Thuỷ Đài Sơn – núi Nước (west, west of núi Tượng)
– Liên Hoa Sơn (Kỳ Hương Sơn) – núi Tượng (west) – Ngũ Hồ Sơn – núi Dài Năm Giếng (southwest, southeast of núi Tượng) – Anh Vũ Sơn – núi Ông Két (north)
5 dương: gấm trời, phụng hoàng, long, tượng, két, và 2 âm: nước, năm giếng

6.
Bàn về ‘long vĩ xà đầu‘.
Xà đầu: đầu rắn. Nước Syria có bản đồ giống như chiếc đầu rắn quay về hướng Tây Nam (xem bản đồ), với biên giới tiếp giáp: Bắc – Thổ Nhĩ Kỳ, Đông – Iran, Nam – Jordan, Tây – Israel và Lebanon. Hiện chiến tranh đang xảy ra (10/10/2019). Rắn sống trên đất nên đây là trận địa chiến. Đầu mang ý nghĩa xảy ra trước.
Long vĩ: theo truyền thuyết vịnh Hạ Long là phần đuôi của con rồng. Tức cuộc chiến sau chiến tranh Trung Đông sẽ xảy ra ở biển Đông, mà thủ phạm gây chiến không ai khác hơn là Trung Quốc. Rồng sống dưới nước nên đây là cuộc thủy chiến. hàm nghĩa xảy ra sau.

7.
Bàn về ‘tam nguyên‘.
7.1. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) trong Hoàng Cực Kinh Thế:
12 canh/ngày
30 ngày/tháng
12 tháng/năm
30 năm/thế
12 thế/vận
30 vận/hội
12 hội/nguyên
Như vậy: nguyên = 12^2 x 30^2 = 129600 năm
Luật Lịch Chí trong Hán Thư, nguyên = 4617 năm
(trích) Nhưng về Vũ trụ quan, PGHH hay có thể nói cả giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương đã phân tách tinh tế về quá trình diễn biến của Vũ trụ qua ba thời kỳ mà Môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương gọi là Tam nguơn : Thượng Nguơn, Trung nguơn, và Hạ nguơn. Cái chu kỳ Tam nguơn cứ diễn đi diễn lại mãi trong suốt lịch trình diễn biến của kiếp trụ.
Mỗi một Nguơn còn chia ra làm ba thời kỳ nữa. Như Thượng nguơn chia ra làm : Thượng Nguơn Thượng, Thượng nguơn Trung, Thượng nguơn Hạ; đến Hạ nguơn cũng vậy, có Hạ nguơn Thượng, Hạ nguơn Trung, và Hạ nguơn Hạ. Mỗi thời kỳ có mỗi hoàn cảnh và đời sống con người khác nhau.
Ở thời kỳ Thượng nguơn hoàn cảnh cưc kỳ tinh khiết, con người rất mực khinh thanh có đủ huyền năng của con người ở cõi Thiên sa xuống.
Đến thời kỳ Trung nguơn thì hoàn cảnh có phần ô trược và con người cũng mất bản tính huyền linh.
Nhưng xuống đến thời Hạ nguơn thì hoàn cảnh trở nên ác liệt và con người trở nên hung ác để rồi đi đến hoại diệt, trở lại thời kỳ Thượng nguơn. Nghĩa là thời kỳ Thượng xuống đến thời kỳ Hạ nguơn con người càng ngày càng trở nên thối hóa.
Cứ theo Sấm Giảng của Môn phái Bửu Sơn Kỳ Hương thì nhân loại ngày nay đã bước vào Hạ nguơn Hạ, giai đoạn cùng cuối của chu kỳ Tam nguơn.
(hết trích)

8.
Lời giải đoạn này dù hợp lý, tuy nhiên theo trình tự thời gian lại xuất hiện trước giai đoạn “Ký mã xu dương tẩu“, do vậy người viết thử kiến giải lại như sau cho phù hợp lịch sử:
Bắc hữu kim thành tráng
Kim chỉ quặng mỏ kim loại có nhiều ở miền Bắc, vùng đồi núi Tây Bắc và Đông Bắc. Thành: bức thành tự nhiên tức đồi núi. Tráng trong trường hợp này là 壯 tráng (Tính) mạnh mẽ, cường kiện, hàm ý châm ngôn miền Bắc hay dùng sức mạnh, quân sự để giải quyết vấn đề.
Nam tạc ngọc bích thành
Ngọc chỉ lúa gạo (như bài Hạt ngọc Việt). Tường: thấp và nhỏ hơn thành hàm ý bình nguyên miền Nam tức vùng đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa. Tạc hàm ý một quá trình có công sức của con người. Thành trong trường hợp này là 誠 thành (Tính) Thật, không dối, tức lấy tôn chỉ đạo đức, tôn giáo làm phương châm.
Hai câu đầu làm nhớ tới đoạn sấm khác: Nước Nam thường có thánh tài, Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường Kìa nhị thủy, nọ đảo sơn Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho Bãi ngọc chính để chỉ lúa gạo trên vùng đất phì nhiêu của đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, âu vàng là vùng quặng mỏ miền Bắc. Nhị thủy: 2 dòng nước, ám chỉ nước ngọt và mặn chan chứa, bao phủ khắp đất nước với biết bao con sông, và một vùng biển từ Nam chí Bắc. Đảo sơn: nhiều đảo và núi.
Hỏa thôn đa khuyển phệ
– Đây là giai đoạn Nam Bộ Kháng Chiến 1945-46. Hành Hỏa chỉ phương Nam và thuộc can Bính Đinh. Thôn là một đơn vị địa lý, cũng như bộ. Khuyển là chó, thuộc chi Tuất. Chỉ năm Bính Tuất 1946. Đa khuyển phệ: nhiều chó sủa, thường chỉ xảy ra khi chúng cắn nhau, hay hùa nhau. Chỉ chiến tranh của Việt Minh với Anh, Pháp và Nhật. Giai đoạn này , “nhân sĩ yêu nước theo lời kêu gọi của Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ rời bỏ Sài Gòn và các thành phố khác về nông thôn”, khiến chó sủa nhiều vì có lẽ các hoạt động ban đêm. Hỏa là lửa cũng chỉ chiến tranh, tức giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”.
Mục giả dục nhân canh
– Giai đoạn sau Nam Bộ Kháng Chiến, VN tiếp tục công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. 牧 Mục: (Động) Tu dưỡng, nuôi dưỡng (Động) Cai trị, thống trị. Giả: người. 欲 Dục (Động) Muốn. 更 Canh: (Động) Sửa đổi, cải biến; (Động) Thay thế.  Toàn câu nghĩa là những nhà lãnh tụ các đảng muốn nhân dân tham gia cách mạng chống Pháp.

9.
Đoạn này thật khó hiểu, và mặc dù đã giải thích, người viết cũng cảm thấy chưa hoàn toàn thuyết phục, nên bỏ công ra nghiên cứu một chút về thiên văn:
Nam Việt hữu Ngưu tinh
– Trích từ Việt Sử Tiêu Án: “Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách Thiên Quan, từ sao Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là Tinh Kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi Sửu, cùng một phận dã tinh truyện với nước Ngô. Cõi nam là Việt môn, có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt, cho nên gọi là Bách Việt. Bởi vì miền này ở phía nam Dương Châu, nên lại gọi là Nam Việt. Vùng đất từ núi Ngũ Lĩnh xuống phía nam thuộc về Nam Việt. An Nam là miền đất ở phía nam nước Việt nay là quốc hiệu thường gọi”. Như vậy, Nam Việt là vùng thuộc phạm vi thần Tinh Kỷ, thứ Sửu (Ở trên trời có 12 Thần, 12 Thứ, thì ở dưới đất có 12 nước (), 12 châu. Xem Thiên Văn Học Cổ Trung Hoa, Chương 6).  Sao Đẩu, Ngưu, Nữ thuộc nhóm Huyền Vũ của Nhị Thập Bát Tú.
hoacai
Quá thất thân thủy sinh
– Đây để chỉ vùng Thủy Chân Lạp 真臘. Chân 真 (Tính) Thật, không phải giả, đồng nghĩa với thân 信: (Danh) Sự thành thực, lòng thành thực.  Lạp 臘: (Danh) Người sinh ra, bảy ngày sau gọi là lạp. Quá 過: (Động) Trải qua, sống qua. Quá thất sinh: Sinh qua 7 ngày, như vậy tức là lạp.  Với chữ thủy ta được Thủy Chân Lạp (tương ứng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền nam Campuchia ngày nay).
Địa giới xỉ vị bạch
– Như đã giải, đây là vùng đất chứa làng Hòa Hảo, như cái cù lao bao bọc bởi các con sông Tiền, Vàm Nao, Hậu và Kinh Xáng, như chiếc răng chưa lộ.
Thủy trầm nhĩ bất kinh
– Để chỉ lá hoa súng giống lỗ tai, nước muốn nhấn chìm nhưng nó không sợ, vì loài này nước càng lên cao thì cuống và lá cũng lớn theo. Cũng chỉ vùng nước nổi miền Tây, chủ yếu là An Giang, Đồng Tháp.
Như vậy, đoạn này có thể được giải thích như sau: Vùng Nam Việt, cụ thể là Thủy Chân Lạp, hay hẹp hơn là địa phận Hòa Hảo, xuất hiện Phật (biểu hiện bởi hoa súng thụy liên).

10. Thủy trầm nhĩ bất kinh
Lỗ tai (nhĩ) cũng là hình tượng của lá bông súng có một bên bị khuyết. Bông súng có nhiều khắp miền Tây (xem Bông Súng – Đặc Sản Mùa Nước Nổi Miền Tây). Đặc điểm của loài cây này là vươn lên theo con nước. Nước càng dâng cao thì cuống lá và thân càng dài ra. Mùa nước nổi thì khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng, nhưng có lẽ mực nước dâng cao nhiều ở An Giang, Đồng Tháp, nên các nhà thường là nhà sàn. Xem Những ngôi nhà đặc trưng vùng sông nước miền Tây.  Câu sấm có ý nghĩa: Nước (muốn nhấn) chìm những lá bông súng, nhưng nó không sợ, vì nước lên tới đâu, nó lớn tới đó, để chỉ vùng An Giang, Đồng Tháp.

11.
Có thể đây là giai đoạn được diễn tả ở tượng từ 52 đến 54 trong Sấm Ký Trung Quốc – Thôi Bối Đồ.

12. Thủy trung tàng bảo cái
Nhân đọc bài “Trao đổi thêm về mấy câu sấm ký nói về làng Kim Liên và khe Bò Đái ở Nam Đàn” của tác giả Nguyễn Cảnh Phức đăng trên trang vanhoanghean.com.vn, giải thích từ ‘cái‘ tức lá sen, vì giống như chiếc lọng. Đây là hình tượng khá thuyết phục, do vậy thử liên hệ với lời giải thích của người viết ban đầu xem sao. Nước VN nơi nào cũng có hoa sen thường mọc trong đầm lầy. Ở các tỉnh miền Tây, nhất là An Giang, Đồng Tháp, ngoài hoa sen còn có hoa súng, tiếng Hán là thụy liên 睡莲, hoặc tí ngọ liên 子午链. Người miền Tây gọi là cây bông súng, thân của nó làm được nhiều món ăn ngon. Lá bông súng không vươn lên khỏi mặt nước như lá sen, mà lại nằm sát mặt nước. Hoa súng vua gốc Amazon, Nam Mỹ vừa lớn và tròn nhìn giống cái lọng hơn hết. Sen và súng, cái nào tiếng Hán cũng có chữ liên, có rất nhiều ở VN, nhưng chỉ miền Tây thì hoa súng nhiều vô kể, diễn tả qua chữ thủy trung, trong mùa nước nổi mênh mông. Tức chỉ Phật (chữ bảo) ẩn tàng vùng này.
Tóm lại: chữ ‘cái để chỉ lá hoa súng, mà chẳng phải lá sen vì:
1)  lá sen mọc khỏi mặt nước (tức không còn ‘thủy trung‘),
2) lá sen bung ra, hướng lên chẳng giống cái lọng (hướng xuống),
3) sen ở đâu cũng có chẳng phải đặc thù một vùng như là hoa súng miền Tây,
4) lá súng hình giống lỗ tai (nhĩ) và ‘bất kinh‘ chẳng sợ khi bị nước nhấn chìm (đoạn ‘Thủy trầm nhĩ bất kinh‘),
5) hoa súng nở sáng, chiều khép lại để giải thích sự ẩn tàng và trở lại của 4 vị phật (đoạn ‘Mại dữ lê viên dưỡng‘).

13.
Cũng giống như Sấm Trạng Trình, người Âu Mỹ đua nhau giải sấm Nostradamus, với đoạn sau đây mà người viết không tìm được ở đâu trong nguyên bản Centuries hoặc nguồn wiki Les Propheties:
Nostradamus wrote, “the big war will start in France and all Europe will be attacked, it will be long and terrifying for everyone and then finally there will be peace but only a few will enjoy it – a war will start between the two great world powers and it will last for a period of 27 years.”
Tạm dịch:
Nostradamus viết, “Cuộc chiến tranh lớn (hàm ý Thế Chiến Thứ 3) sẽ bắt đầu ở Pháp và tất cả Âu châu sẽ bị tấn công, cuộc chiến này sẽ dài và sẽ là nỗi kinh hoàng cho mọi người, và rồi cuối cùng hòa bình sẽ lập lại, nhưng chỉ có số ít người được hưởng thụ nó – một cuộc chiến xảy ra giữa hai đại cường và sẽ kéo dài tới 27 năm.”
27 năm có lẽ tính từ lúc châu Âu khủng hoảng (như giai đoạn hiện tại bắt đầu từ Pháp), chớ cuộc Thế Chiến Thứ 3 chắc khoảng 5-7 năm, như Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), Thứ 2 (1939-1945).



13 thoughts on “SẤM TRẠNG TRÌNH – Bản Sở Cuồng, Phần Hán Việt”

  1. Pingback: SẤM KÝ Trung Quốc – Thôi Bối Đồ | Cửu Long Văn Đàn
  2. Pingback: SẤM TRẠNG TRÌNH – Bạch Vân Ca | Cửu Long Văn Đàn

No comments:

Post a Comment