Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 27 October 2016

THÔNG ĐIỆP XUÂN BÍNH THÂN = NEW YORK TRONG BÃO TUYẾT =MÙA XUÂN HÀ NỘI

THÔNG ĐIỆP XUÂN BÍNH THÂN



THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 3-2-2016


Thông Điệp Xuân của Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo


— Câu Chuyện Cuối Tuần về Bốn Ân lớn


Web: http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=2606

http://pttpgqt.org/2016/02/03/thong-diep-xuan-cua-ht-vien-truong-vien-hoa-dao


PDF: http://www.queme.net/vie/doc/Tcbc_2016-02-03_Thong_diep_Xuan_cua_Vien_Hoa_Dao_&_Noi_ve_Bon_An_lon.pdf


PARIS, ngày 3.2.2016 (PTTPGQT) - Viện Hoá Đạo vừa gửi sang Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Thông điệp Xuân Bính Thân 2016 của Hoà thượng Thích Thanh Quang, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).


Sau đây là toàn văn Thông điệp Xuân :




GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN HOÁ ĐẠO


Tu Viện Long Quang, Phương Tứ Hạ, Thị Xã Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên – Huế

Phật lịch 2559

Số 02.16/VHĐ/TĐX



THÔNG ĐIỆP XUÂN BÍNH THÂN 2016

---------------------VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Kính gởi : - Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa,

Đại Đức Tăng, Ni.


- Kính gởi Đồng Bào Phật Tử các giới Quốc Nội và Hải Ngoại.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ ĐƯƠNG LAI TỪ THỊ TÔN PHẬT


Kính Bạch Chư Tôn Đức.


Kính thưa Liệt Quí Vị.


Thời gian lặng lẽ trôi, đêm ngày luôn di động.



Đông tàn, Xuân lại đến.


Quy luật tạo hóa muôn đời không thay đổi.



Hạnh phúc thay thế giới loài người hôm nay sinh ra đã có Phật như có một mùa Xuân thường hằng trong cuộc sống đầy khắc khoải và âu lo giữa cõi Sa Bà ô trược.


Phật luôn hiển hiện trong con người bằng hai tố chất Từ Bi và Trí Tuệ


Hai tố chất ấy tách lìa thì con người đắm chìm trong vô minh và chấp ngã.


Cũng hai tố chất ấy, Phật luôn hiển hiện trong vũ trụ nhân sinh, tạo nên dòng nước trong lành để vạn vật gội sạch phiền trược trong biển cả Hải Triều Âm, và bình an trong giòng sông Bát Nhã.

Hai tố chất ấy tách lìa thì vạn hữu bị tiêu diệt bởi tranh chấp và cuồng vọng.

Vì vậy Từ Bi và Trí Tuệ đã tạo nên những mùa Xuân rực rỡ của 2000 năm Phật Việt. Biển cả Hải Triều Âm và giòng sông Bát Nhã đã làm cho những mùa xuân Dân Tộc thêm thăng hoa trong nền văn hiến 4000 năm.


Kính Bạch Chư Tôn Đức

Kính thưa liệt Quý Vị


Một mùa Xuân nữa lại về, chim thi nhau chuốt giọng trên cành, nhưng tiếng hót rộn ràng ấy không át được tiếng bom rơi, đạn nổ, tiếng gào thét xé lòng của trẻ thơ trong hận thù và cuồng bạo khắp mọi miền trên thế giới.


Một mùa xuân nữa lại về, hoa thi nhau khoe màu trong lá, nhưng sắc màu rực rỡ ấy không che được cảnh tù đầy áp bức của vạn người vì tự do và hạnh phúc toàn dân, cảnh lầm than đói khổ của vạn dân oan lê lết trên mọi miền đất nước.

Nhưng trong niềm đau thương đó lại vang vọng đâu đây lời kinh bất hủ của Vạn Hạnh Thiền Sư :

“Thân như bóng chớp chiều tà

Xuân về tươi tốt, thu qua rụng rời

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như giọt sương rơi đầu cành.”

Lời kinh trên như một định hướng cho tâm hồn tự tại của người con Phật trước thắng duyên cũng như nghịch cảnh để mùa Xuân thường hằng trong cội nguồn Dân Tộc.

Nhân thân nan đắc ! Được thân người là khó, nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kính chúc Đồng Bào các giới hãy lắng nghe tiếng gọi Hải Triều, mà hành động Vô Úy trong trí tuệ Bát Nhã để góp phần đem lại một mùa Xuân Dân Tộc, bảo vệ mạng mạch của 90 triệu lương dân không rơi xuống vực thẳm của nô lệ và áp bức.

Phật Pháp nan văn ! Được Pháp Phật là khó, nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kính chúc các giới Phật Tử hãy lắng nghe tiếng gọi của Từ Bi mà hành động với Trí Tuệ, hãy lấy giới luật làm Thầy để đem lại một mùa xuân giải thoát cho Phật Giáo Việt Nam.

Đức Phật đã dạy : DUY TUỆ THỊ NGHIỆP


Tất cả mọi chướng duyên hay nghịch cảnh đều do Tâm tạo tác. Vì vậy :

- Đối với các Quốc Gia trên Thế Giới, nhân mùa Xuân về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất một lần nữa kêu gọi các thế lực vô minh hãy vì hạnh phúc chúng sanh mà buông dao đồ tể đem lại một mùa Xuân thái hòa cho nhân loại, người người hạnh phúc, đẩy lùi mọi hiểm họa làm ung nhọt địa cầu.


- Đối với Đảng Cọng Sản Việt Nam : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất một lần nữa kêu gọi Đảng Cọng Sản hãy vì hạnh phúc của lương dân mà buông bỏ tham vọng, độc tài, thù hận để toàn dân được góp phần vào việc dựng nước và giữ nước.


Mùa Xuân nầy là mùa Xuân của Đảng Cọng Sản còn âm ỉ Đại Hội lần thứ 12.

Một nhà nước cọng sản luôn nêu cao chiêu bài Do Dân và Vì Dân.


Vậy xin Đảng hãy biến chiêu bài ấy thành hiện thực :


Nếu Do Dân thì sau Đại Hội Đảng, yêu cầu Đảng hãy triệu tập một Quốc Dân Đại Hội gồm mọi thành phần trong Cộng Đồng Dân Tộc, từ tôn giáo đến các đảng phái quốc gia, để Đại Diện Toàn Dân được nêu cao ý chí quật cường Dựng Nước và Giữ Nước.


Nếu Vì Dân thì hãy lắng nghe những gì Quốc Dân Đại Hội nói : Những điều Quốc Dân Đại Hội tán thành thì hãy thực thi, những điều Quốc Dân Đại Hội không chấp nhận thì hãy buông bỏ. Đừng vì một chủ nghĩa ngoại lai mà bán đứng linh hồn Dân Tộc để manh tâm nô lệ ngoại bang.


Đây không chỉ là ước vọng bao năm qua của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Thích Quảng Độ cùng Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà là một khát vọng cháy bỏng sớm có một nền Dân Chủ Đa Nguyên cho Toàn Dân Tộc Việt.


- Đối với Phật Giáo Đồ trong cũng như ngoài nước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kêu gọi tất cả Phật Tử hãy quán chiếu tự thân để định hướng cho chính mình trong việc tu tập cũng như phục vụ Đạo Pháp và Dân Tộc : Y Pháp Bất Y Nhân.


ĐỪNG TƯỞNG XUÂN TÀN HOA RỤNG HẾT

ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC MỘT NHÀNH MAI


Kính Bạch Chư Tôn Đức,

Kính thưa liệt Quý Vị,

Trong khói hương của mùa xuân Bính Thân, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, xin thắp nén hương lòng :

- Tưởng nguyện Chư Lịch Đại Tổ Sư, Chư Tiền Bối Hữu Công, Chư Anh Linh Thánh Tử Đạo đã cùng Dân Tộc tạo nên những trang sử oai hùng.


- Tưởng nguyện Chư Tiền Nhân, Hồn Thiêng Sông Núi đã cùng Dân Tộc tạo nên một quá khứ vang dội của Dân Tộc trên vòm trời Đông Á.

- Tưởng nguyện những Anh Hùng, Tử Sĩ vì Đại Nghĩa đã nằm xuống cho Dân Tộc đứng lên ngang tầm thế giới.

- Cầu nguyện cho những người con ưu tú của Đất Việt đang chịu đựng gian khổ tù đày để mong một ngày mai Quang Phục Đất Nước.
- Cầu nguyện cho 90 triệu Đồng Bào thoát cảnh lầm than nô lệ bước sang thời đại mới dưới thể chế Dân Chủ Đa Nguyên.


Nhân Tết đến Xuân về, Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng xin trân trọng gởi lời cầu nguyện an lành đến Tổ Hợp Luật Sư The Tammy Tran Law Firm đã đồng lao cọng khổ cùng Giáo Hội trong cuông cuộc bảo vệ Công Lý và Sự Thật vì hạnh phúc và an lạc của Phật Giáo đồ trực thuộc.


Viện Hóa Đạo cũng xin tán thán công đức Phật Tử các giới đã không ngừng ủng hội Giáo Hội cả tinh thần lẫn vật chất, góp phần để Giáo Hội uy dũng tồn tại trước mọi thách thức của nghịch cảnh.

Tất cả ước mong ấy, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vừa được Đức Đệ Ngũ Tăng Thống ban hành Giáo chỉ suy cử cho nhiệm kỳ mới, xin đê đầu đãnh lễ Năm đời Tăng Thống, đặc biệt Đức Cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đức Đương kim Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ đã khai mở ý chí và quyết tâm bảo vệ pháp lý lịch sử GHPGVNTN suốt bốn mươi năm qua làm tiền đề cho chúng con tiếp bước Xương Minh Giáo Pháp, Quang Phục Đất nước.
Kính chúc Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni, Pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, bảo toàn mạng mạch Chánh Pháp để đồng hành cùng Dân Việt trên con đường mưu cầu hạnh phúc, tịnh hóa nhân gian.

Kính chúc Đồng Bào Phật Tử Bồ Đề Tâm kiên cố góp phần kiến tạo một mùa Xuân giải thoát trong tinh thần Vô Úy, Vị Tha, Từ Bi và Trí Tuệ.


NAM MÔ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẶC TÔN PHẬT
Phật Lịch 2559, Tu Viện Long Quang

cuối đông Ất MùiVIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(đã ấn ký)SA MÔN THÍCH THANH QUANG 



Thong Diep Xuan 2016 (1/4)
Thong Diep Xuan 2016 (2/4)
Thong Diep Xuan 2016 (3/4)
Thong Diep Xuan 2016 (4/4)

Câu Chuyện Cuối Tuần Về “Bốn Ân Lớn”

“Câu Chuyện Cuối Tuần” là một đề mục của Đài Phật giáo Việt Nam phát thanh về trong nước, trình bày vấn đề Phật Pháp& Thời luận phát thanh mỗi thứ sáu hàng tuần, do ký giả Triều Thanh phụ trách.


Hôm nay xin mời bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn Cư sĩ Võ Văn Ái về “Bốn Ân Lớn” chép lại từ cuộc phỏng vấn trong chương trình Đài thứ sáu 27 tháng giêng dương lịch 2016 :


Về Bốn Ân lớn



Triều Thanh : Thưa ông Võ Văn Ái, trong cuộc ưu tư cứu nước bốn mươi năm qua trước hai vấn nạn độc tài toàn trị và ngoại xâm, tôi không thấy sự hiện hữu một đảng chính trị Phật giáo, thì làm sao giải quyết vấn đề chủ quyền đất nước ?



Võ Văn Ái : Không thể đánh đồng một tôn giáo, một phương pháp sống để diệt khổ, để giải thoát giác ngộ như Phật giáo với một đảng chính trị. Các lối sống trong đời ở bất cứ lĩnh vực nào đều biểu trưng cho sự hoàn thiện lĩnh vực ấy. Nhà làm chính trị âu lo việc quản lý quốc gia, xã hội sao cho người dân ấm no, hạnh phúc. Nhà bác học tìm tòi, phát kiến những quy luật vũ trụ để mở mang dân trí, kiến thức con người trước những bí ẩn của trái đất và các hành tinh. Nhà kinh tế chuyên lo việc phát triển cơ cấu kinh doanh để phục vụ loài người trên mặt vật chất. Nhà tu hành chuyên lo về đời sống tinh thần, đời sống tâm linh, là nhu cầu khai sáng thân tâm con người trước vấn đề sống chết đã có từ thời tiền sử mà hư vô là dấu hỏi nghìn đời đặt ra cho con người.



Ta nên nhớ Đức Phật không là một thượng đế. Ngài là người giác ngộ, người đã thể-hội chân lý và khai phát chân trí, thấy rõ sự sinh diệt của bốn khổ là sinh, lão, bệnh, tử rồi đưa ra Bốn chân lý diệt khổ, gọi là Tứ Diệu đế. Đạo Phật là con đường diệt khổ, giải phóng thân tâm đạt tới giác-ngộ-trí, là trí của Phật.




Triều Thanh : Như vậy đạo Phật xa lánh chính trị, xa lánh cuộc đời. Hiện nay Việt Nam mình đang bị trôi lăn trong nạn độc tài toàn trị, thêm nạn đảng cầm quyền bán đứng biển đảo, lãnh thổ cho Bắc Kinh, người Phật tử chỉ âu lo giải thoát, giác ngộ thôi sao ? Đạo Phật cứu khổ như thế nào đây khi 90 triệu dân bị bức bách, đày ải, thiếu ăn, thiếu mặt, thiếu tự do, nhất là không được tự do sống theo tôn giáo, tín ngưỡng của mình ? Xin ông cho biết ý kiến ông theo đạo Phật về thảm trạng Việt Nam ngày nay ?



Võ Văn Ái : Câu hỏi gay cấn đấy, chẳng khác chi lời luận tội một tôn giáo hiện hữu trên đất nước ta hơn hai nghìn năm lịch sử. Để dễ thâm nhập vấn đề. chúng ta thử lật ngược câu hỏi để tự vấn :



Thế thì những đảng phái chính trị, từ đảng Cộng sản cho đến bao nhiêu đảng Chính trị quốc gia khác, đã làm gì suốt 40 nếu không là 70 năm qua trong lĩnh vực chính trị để cứu nước cứu dân ? Những người làm chính trị đảng phái đã thất bại ngay trên lĩnh vực chính yếu của họ, là chính trị, thì sao lại đổ lỗi lên đầu một đạo giáo ? Một câu hỏi tế nhị cần đặt ra, là vì sao chính trị đã bó tay và thất bại ? Vì sao chính trị không làm lành với tôn giáo để cứu người, cứu nước ?


Xây cất ngôi nhà, nhưng lại quên chọn gạch hay đá tốt làm nền móng, tất có nguy cơ nhà sập. Sự đóng góp của một đạo giáo vào xã hội nhân quần khác với sự đóng góp của một đảng chính trị. Phật giáo không có đảng chính trị là vì thế. Trái lại, điều cơ bản mà đạo Phật đã và đang làm là cung cấp cho xã hội những con người lương thiện, bỏ ác, làm lành. Đó là đá gạch tốt để cho chính trị xây nhà, dựng nước.


Đừng tưởng người Phật tử xa lánh đời, xa lánh chính trị. Hơn hai nghìn năm Phật giáo có mặt và chung dự tại Việt Nam là minh chứng thực hữu, hùng hồn. Chúng ta đã có dịp đề cập tới Năm giới cấm, tức Ngũ giới của người Phật tử theo truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua đó, chứng minh tính chất tích cực phục vụ dân và nước quan trọng như thế nào với Năm Giới cấm. Những cuộc kháng chiến chống xâm lược Bắc phương từ thời Hai Bà Trưng đến các triều đại sau, người Phật tử có đóng góp lớn. Chỉ nói sự thực hiện hằng ngày của người Phật tử để đền đáp Bốn Ân lớn là một đóng góp xã hội và chính trị trong nghĩa rộng.


Triều Thanh : Xin ông giải thích Bốn Ân lớn ấy là gì ? Sao lại có thể có dự phần đóng góp chính trị ?


Võ Văn Ái : Bốn Ân lớn này còn gọi là Tứ Ân. Ân là tiếng Hán Việt đồng nghĩa với chữ Ơn trong quốc ngữ. Theo các kinh Tâm Địa Quán, Chính pháp niệm xứ, Tứ Ân hiếu thuận sao, v.v… có đôi điều sai khác trong tên gọi bốn ân. Nhưng tựu trung vẫn là Ơn cha mẹ, Ơn Thầy bạn, Ơn Quốc gia, và Ơn Chúng sinh, có nơi gọi là Ơn Tam Bảo. Phật dạy hàng đệ tử phải ghi nhớ và báo đáp bốn ơn nặng này trong đời sống của mình.


Ân đối với cha mẹ thật như trời biển, từ sinh đẻ, nuôi nấng, dạy dỗ làm cho con nên người. Kinh Đại phương tiện báo ân cho rằng cha mẹ là nhân phúc tối thắng trong ba cõi. Lòng thương của cha mẹ đối với con cái không gì sánh kịp, có khi vì con mà hy sinh tất cả. Phong trào Người Vượt Biển thập niên 70, 80 là chứng tích của lòng cha mẹ hy sinh cho tương lai con cái. Cho nên con cái có bổn phận báo hiếu cha mẹ bằng nhiều cách. Cung cấp vật thực, sự sống, thuốc men khi cha mẹ già yếu. Luôn tỏ lòng thương mến, kính trọng cha mẹ, gìn giữ gia phong. Người Phật tử còn có bổn phận khuyến thỉnh cha mẹ tu học Phật Pháp, tìm đường giải thoát giác ngộ và ra tay cứu độ quần sinh.



Thứ hai, là Ân đối với Thầy bạn. Cha mẹ sinh ra ta, nhưng thầy bạn lại là người kề cạnh chúng ta, dẫn dắt ta lên đường học vấn, biết điều hay lẽ thật, tránh dữ làm lành. Ân này cũng liên hệ tới ân Tam Bảo đã mở mang trí tuệ và chân lý cho ta, tức báo ân Phật bằng cách cứu độ chúng sinh, báo ân Pháp bằng cách loan truyền, xiển dương Chánh pháp đặc biệt vào các thời tà đạo hoành hành, báo ân Tăng bằng cách bảo vệ đoàn thể các đệ tử Phật, giúp đỡ, khuyến khích sự tu học, giữ giới của chư Tăng…



Triều Thanh : Nói như vậy, nhưng thời đại ngày nay giới Tăng lữ chưa chắc đại biểu cho lời Phật dạy, ông có nghĩ vậy không ? Những biểu hiện gần đây của giới Tăng lữ trong cũng như ngoài nước, khiến ai nấy đều buồn lòng, ngao ngán cho tư cách một số ông Tăng thua xa người tu Phật tại gia. Theo ông Phật tử cũng phải báo ân với những vị Tăng như thế hay không ?



Võ Văn Ái : Hiển nhiên là không. Tôi dùng chữ Tăng trong nghĩa cao cả của đạo Phật. Nghĩa là một con người đã hy sinh hết đời sống thấp hèn, cắt ái từ thân để xuất gia đầu Phật, học Phật, mong làm lợi cho chúng sinh theo lời Phật dạy. Tức một con người giữ gìn giới hạnh, Chư Tăng Đại thừa giữ 250 giới, chư Ni giữ 345 giới, theo Tạng luật Pāli, thì chư Tăng Nam tông giữ 227 giới, chư Ni 311 giới. Vậy Tăng là con người đạo hạnh, hay ít nhất cũng đang nỗ lực và tinh tấn bước trên đường đạo hạnh. Không phải là loại Tăng thời cuộc, Tăng giả danh mà Triều Thanh vừa mô tả.



Thời nào cũng có loại Tăng cạo đầu, mặc áo nâu sồng hay khoác áo vàng không để tu mà để tìm kiếm lợi danh, không hơn không kém những kẻ buôn bán lừa đảo, họ là giới mua thần bán thánh. Thời đại nào không có hạng giả Tăng như thế ? Ngay thời Phật giáo cực thịnh dưới hai triều Lý và Trần, mà hiện trạng Tăng hủ hóa cũng đầy rẫy trong xã hội. Đọc Đại Việt Sử ký Toàn thư, hay nghe lời đề xuất của Đàm Dĩ Mông ta thấy nổi cộm vấn đề triều đình sa thải Tăng, bắt hoàn tục, vì sống không đúng đạo đức một vị Tăng.


Ngay vua Trần Thái Tông, một vì vua và là Phật tử, tác giả các bộ sách cao thâm Phật giáo như Thiền tông chỉ nam tự, Khóa hư lục, Phổ khuyến phát bồ đề tâm… đã phải than lên về hiện trạng các Sư Tăng lấm bụi hồng, tôi xin trích lời vua Trần Thái Tông :


“Khi tới chùa chiền, phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ trai gái, cuối mắt đầu mày, ham mê sắc dục, không kiên Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần, trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.



“Chẳng riêng người tục, cả đến Thầy Tăng, kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích, chê các Sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha, buông lời đau vật, cất tiếng hại người, không nghĩ từ bi, không theo giới cấm, bàn thiền tựa thánh, trước cảnh như ngu, dẫu ở cửa không, chưa thành vô ngã”.




Gần đây vào những năm 30, 40 thế kỷ trước, tôi đọc thấy trên báo Viên Âm ở Huế, lời của Bác sĩ Lê Đình Thám, vị Đại Cư sĩ Phật giáo, một trong vài ba cột trụ của Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, và cũng là thầy dạy kinh điển, Phật Pháp cho thế hệ Tăng thời ấy, mà cuối thế kỷ vừa qua, các vị mới thọ Sa di năm 1940 thời Bác sĩ Thám, nay vụt trở thành những gương mặt sáng giá, những nhà lãnh đạo kỳ vĩ của Phật giáo Việt Nam khiến thế giới thán phục.



Bác sĩ Thám viết như vầy trong bài “Chỉnh đốn Tăng già”, tôi xin trích :


“Chúng tôi thường thấy lắm kẻ hô hào làm Phật sự mà ở nơi nguồn đã sai lầm, thời những Phật sự họ làm, chỉ là ma sự mà thôi.


“Chúng ta quy y là quy y theo Thập phương Thường trụ Tam Bảo, chớ không phải quy y một ông Thầy (…) Các ông Thầy, nếu phá giới thì còn gì đáng gọi là ông Thầy đâu. (…) Vậy ông Thầy mà được làm ông Thầy là vì trì giới ; nếu ông Thầy không trì giới thì có khác chi một người thế gian, có lẽ lại thua một người thế gian nữa, vì là một người giả dối. (…) Nếu ông Thầy đã thụ giới mà không giữ giới thì chính ông là người phá hoại giới luật, không tin Phật Pháp, không sợ nhơn quả, giả dối báng Phật. Vậy còn nhờ ông thay mặt mình bạch trước Tam Bảo mà làm gì !


“Kinh Luật thường dạy : không nên nói đến lỗi của các bậc Tăng-già ; nhưng đó chỉ là hạng Tăng-già chơn thiệt chớ không phải về hạng Tăng-già giả dối. Không nên nói việc lỗi của Tăng-già, là không nên đem phàm tâm mà phê bình các ông Thầy đủ giới hạnh. Đến như các ông Thầy không giữ giới thì các ông ấy đã tự đặt mình ra khỏi vòng Tăng-già rồi, các ông đâu còn là Tăng-già nữa mà không dám công bố những điều phạm giới. Thiệt ra, công bố những sự phạm giới có chứng cớ của các hạng Tăng-già giả dối là một việc rất hay, có công đức hơn việc làm chùa, đúc tượng nhiều lắm.


“Người đạo Phật nên phản đối những người phá giới bao nhiêu thì lại càng nên hộ trì cung kỉnh cúng dường các Thầy trì giới bấy nhiêu”.


Triều Thanh : Tại sao đạo Phật cao siêu, giáo lý thâm huyền giải thoát như vậy, mà những ông Sư tu hành theo giáo lý này hàng mấy chục năm trời lại có thể hủ hóa, giả dối, kiêu mạn như ta thấy nhan nhản ngày nay ? Ông nghĩ sao về sự trạng này ?


Võ Văn Ái : Đừng đánh lầm người với đạo. Có sự cách biệt rất lớn như trời biển giữa đạo và người theo đạo.



Muốn cầu biết đạo Phật, phải hiểu tâm chúng sinh. Lý do là vì chúng sinh mê muội đạo Phật, chứ không phải đạo Phật mê muội chúng sinh. Hiểu được tự tính giác ngộ thì Phật tức là chúng sinh. Khi tự tính hiểm tà, thì chúng sinh xa lìa Phật.


Học Phật nhưng có hiểu Phật không ? Tu Phật nhưng có trì giới và khai mở trí tuệ Bát Nhã không ? Cho nên giữa cái trong sáng, tinh anh của đạo, khác xa với mê chấp, vọng tưởng, vô minh của người. Đức Phật cũng từng xác định : Theo ta mà không hiểu ta là báng ta.


Nhà khoa học bỏ suốt đời khổ hạnh trong phòng thí nghiệm để khám phá các bí ẩn của thiên nhiên, con người, vũ trụ, đem lại kiến thức khoa học diệt bỏ sự ngu dốt, dị đoan, cuồng tín, hoặc chữa trị các bệnh lý ngày càng tinh xảo.


Nhà tu Phật giáo chẳng khác chi nhà bác học trong phạm vi chém phá vô minh thành trí tuệ giác ngộ. Hãy nhìn hành trạng các tổ sư, thiền sư khổ công tu luyện đạo hạnh tâm linh như thế nào trong các thế kỷ xưa để thấu đạt giác ngộ.


Nếu việc tu đạo, hành đạo mà chỉ thu bé vào chuyện cúng sao giải hạn, lo tiền điện, tiền nước, tiền vay nhà băng xây chùa, thay cho công phu trì giới và hiển lộ Sáu Ba la Mật, thì tương lai truyền thừa chánh pháp trên mặt đất khổ đau, tranh chấp này, chẳng cần là nhà tiên tri cũng biết ngay giáo nghĩa tối thắng của đạo Phật sẽ suy tàn tới đâu.


Triều Thanh : Ông đề cập Tứ Ân, là Bốn Ân lớn trong đời qua Ơn Cha Mẹ, Ơn Thầy bạn, vậy còn hai Ơn kia là gì ?


Võ Văn Ái : Hai Ơn kia, thứ ba là Ơn Quốc vương và thứ tư là Ơn Chúng sinh theo kinh sách. Trước kia dưới thời đại vua chúa, thì hẳn nhiên sự an cư lạc nghiệp, bảo vệ lãnh thổ quốc gia, chống xâm lược… nằm trong tay một ông vua, một dòng họ. Người dân có bổn phận đền đáp bằng sự thi hành nhiệm vụ công dân.


Nhưng này nay, thời vua chúa đã qua, đa số các quốc gia sống theo thể chế dân chủ, cộng hòa, nên ta phải gọi là Ơn Quốc gia thay vì Ơn Quốc vương, nhưng bổn phận người dân thì chẳng khác chi trong việc thi hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước để phục vụ lợi ích của nhân dân và đất nước.


Hiển nhiên nhân dân chỉ đền đáp Ơn Quốc gia, khi giới cầm quyền đất nước biết chăm lo đòi sống vật chất và tinh thần cho dân, thể hiện qua no cơm, ấm áo, tự do, hạnh phúc, cũng như bảo vệ chủ quyền dân tộc. Một Nhà nước mải quốc cầu vinh, mặc dân đen thống khổ, thì Nhà nước ấy có ra ơn gì đâu để nhân dân đền đáp, phải không ?



Sự hậu thuẫn và thi hành chủ trương, chính sách Nhà nước của người Phật tử tối ư quan trọng, vì hai lẽ. Lý thuyết thì người đạo Phật sống theo lời Phật dạy. Giáo lý đạo Phật chủ trì sự tương kính, tương sinh bằng lòng từ bi, thì chắc chắn những đóng góp trên cương vị công dân, người Phật tử chỉ đem lại an lạc và lợi ích cứu khổ xã hội chứ không chi khác.


Trên mặt thực tế, thì sau hơn hai nghìn năm đạo Phật có mặt trên đất Việt, số lượng người theo đạo Phật đông hơn cả, nên sự đồng tình của Phật giáo có giá trị ngang bằng với lá phiếu biểu quyết.


Cho nên dù không tham chính bằng hình thức đảng phái, chỉ nói riêng việc trả ơn Quốc gia của người Phật tử đã mang yếu tố quyết định như cái gật đầu hay lắc đầu trước một chính quyền vì dân, cho dân, hay trước một bạo quyền độc tài, đoản hậu.


Ơn cuối cùng là Ơn Chúng sinh. Theo quan điểm Phật giáo, con người trải qua vô lượng vô số kiếp. Tất cả do nhân duyên mà con người là cha mẹ nhau, bằng hữu nhau. Qua vô số kiếp đó, chúng ta đều mang ơn nặng với nhau nên phải báo đáp chúng sinh.


Đó là nói chuyện tiền kiếp xa xôi hàng thế kỷ, hàng a tăng kỳ kiếp. Trước cảnh hiện tiền ngày nay, việc báo ơn chúng sinh là báo ơn nhân loại trên thế giới và đồng bào nơi quốc nội đã ưu ái, bảo bọc cho sự tiến thân hòa hợp của ta.


Xem thế thì người Phật tử sống trong sự trả ơn, bằng sự trả ơn với mọi người, từ cha mẹ, thầy bạn, quốc gia, đến nhân loại, chúng sinh. Một người biết trả ơn, người ấy chỉ làm cho trái đất thêm mỹ miều, huynh đệ. Người ấy phá đổ bi kịch nhân sinh qua câu nói mà ta thường nghe : “Cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán”.


Triều Thanh : Xin ông câu hỏi chót, ông có thể nói ngắn gọn trong một hai câu về chủ trương chính trị của đức Phật ?


Võ Văn Ái : Chuyện ai cũng biết, là đức Phật không làm chính trị. Ở ngôi vị Thái tử, Ngài đã bỏ tất cả quyền lực một triều đình huy hoàng để ra đi tìm đạo. Câu hỏi của Triều Thanh trở nên mâu thuẫn.


Tuy nhiên có thể giải toả câu hỏi, khi biết rằng không làm chính trị, xa lìa chính trị, nhưng đức Phật có thái độ chính trị trong phương hướng cứu chúng sinh. Kinh sách nói đã nhiều, tôi chỉ trích một hai câu Phật nói trong sách Pháp uyển châu lâm :


“Người làm vua một nước, cả nước đều mong đợi ngóng trông, nhà vua nên như cái cầu tế độ cho muôn dân, nhà vua nên như cái cân, dầu thân dầu sơ đều cân nhắc cho đúng, nhà vua nên như mặt trời soi khắp thế gian, nhà vua nên như mặt trăng, chiếu ánh sáng cho loài vật được tươi mát, nhà vua như cha mẹ, nuôi dưỡng thương yêu tòan dân, nhà vua như trời che phủ tất cả, nhà vua như đất bồi dưỡng mọi loài”. Phải chăng đây không là cẩm nang trị nước, ta chỉ cần thay chữ Vua bằng một thể chế Dân chủ ?



Triều Thanh : Xin cám ơn Cư sĩ Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.

NEW YORK TRONG BÃO TUYẾT


New York đẹp như thiên đường trong cơn bão tuyết lịch sử
By on January 28, 2016


Nữ nhiếp ảnh gia Vivienne Gucwa đã chụp lại những khoảnh khắc rất tình của New York trong trận bão tuyết lịch sử.
New York đẹp như thiên đường trong cơn bão tuyết lịch sử


Bờ Đông nước Mỹ vừa trải qua một cơn bão tuyết lịch sử, khiến nhiều khu vực chìm trong tuyết trắng và phải báo động khẩn cấp trên 13 bang. Lạnh lẽo là thế, kinh khủng là thế, chẳng một ai dám ra đường, thế nhưng với tâm hồn nghệ sỹ, các nhiếp ảnh gia chẳng thể ở yên trong nhà theo khuyến cáo, để rồi phải bỏ lỡ dịp chụp được những bức hình đẹp đến nao người.


Tuyết phủ, người dân không một ai muốn mạo hiểm tính mạng mà ra đường,thành phố New York náo nhiệt là thế bỗng dưng trở nên vắng lặng lạ thường. Nhân cái dịp này, nữ nhiếp ảnh gia Vivienne Gucwa đã thực hiện bộ ảnh về một New York rất đỗi tĩnh lặng trong cơn bão tuyết tới bời. Bộ ảnh là một trong số các tác phẩm thuộc dự án “NY through the lens” mà nữ nhiếp ảnh gia kiêm nhà văn đang theo đuổi.


“Tôi bị ám ảnh bởi cảm giác mất mát xen lẫn chút khát khao khi dạo quanh thành phố New YorkYork: một sự gắn kết dài lâu với một nơi chốn chẳng biết gọi nó là gì, thế nhưng lại có cảm giác thật thân thuộc như là nhà mình vậy. Tôi cứ mải miết đi tìm cái sự hoài cổ trong lúc quẩn quanh khám phá sự thay đổi chuyển mình của thành phố New York thân yêu thông qua những bức ảnh và cả từng câu chữ của mình.“


“Khi tôi sống tại Manhattan trong những năm 1970, điều tuyệt nhất ở những trận mưa tuyết như thế này là sự tĩnh lặng.”, Susan F.Bragg, một người dùng Facebook tóc đã điểm bạc chia sẻ.


Đây quả thực là mùa đông thần tiên cho tất cả người dân New YorkYork.  
Đây quả thực là mùa đông thần tiên cho tất cả người dân New YorkYork. Hy vọng đây sẽ là đợt đầu tiên và cũng là đợt bão tuyết cuối cùng của mùa này”.
Tuyết thổi trắng cả một góc đường của thành phố không ngủ.

Tuyết thổi trắng cả một góc đường của thành phố không ngủ.

Tuyết dày đến nỗi ngập quá nửa bánh xe đạp. Đợt bão tuyết lần này được coi là mạnh nhất trong nhiều năm qua.

Tuyết dày đến nỗi ngập quá nửa bánh xe đạp. Đợt bão tuyết lần này được coi là mạnh nhất trong nhiều năm qua.
Có thể những khoảnh khắc này thần tiên và tình là thế, nhưng sự thật là cái tình này đã khiến 11 bang trên khắp quốc gia phải báo động khẩn cập.

Có thể những khoảnh khắc này thần tiên và tình là thế, nhưng sự thật là cái tình này đã khiến 11 bang trên khắp quốc gia phải báo động khẩn cập.
Công viên Central Park nổi tiếng trong ngày tuyết phủ.

Công viên Central Park nổi tiếng trong ngày tuyết phủ.
Dân New York vốn nổi tiếng có nhịp sống vô cùng nhộn nhịp, đây có lẽ chính là dịp hiếm hoi để họ chững lại và cảm nhận cái đẹp từ thành phố vội vàng này.

dân New York vốn nổi tiếng có nhịp sống vô cùng nhộn nhịp, đây có lẽ chính là dịp hiếm hoi để họ chững lại và cảm nhận cái đẹp từ thành phố vội vàng này.
Dân New York vốn nổi tiếng có nhịp sống vô cùng nhộn nhịp, đây có lẽ chính là dịp hiếm hoi để họ chững lại và cảm nhận cái đẹp từ thành phố vội vàng này.

Không phải lúc nào đường phố New York cũng vắng lặng như thế này.


Dân New York vốn nổi tiếng có nhịp sống vô cùng nhộn nhịp, đây có lẽ chính là dịp hiếm hoi để họ chững lại và cảm nhận cái đẹp từ thành phố vội vàng này. Tuyết tinh

khôi ở khắp mọi nơi khiến sự vật nào cũng trở nên cô quạnh hơn nhiều.
Người bán hotdog dạo kia xứng đáng được trao huy chương dũng cảm. Không phải ai cũng dám mưu sinh giữa trời tuyết kinh khủng thế này. Nhưng anh thì khác. 

Người bán hotdog dạo kia xứng đáng được trao huy chương dũng cảm. Không phải ai cũng dám mưu sinh giữa trời tuyết kinh khủng thế này. Nhưng anh thì khác.

Các tác phẩm của Vivienne thường mang chút gì đó dư vị của sự cô liêu và nỗi nhớ nhà da diết.

Các tác phẩm của Vivienne thường mang chút gì đó dư vị của sự cô liêu và nỗi nhớ nhà da diết.


Sau khi xem xong những tấm ảnh này, nhiều người lại muốn tới New York một lần.

Sau khi xem xong những tấm ảnh này, nhiều người lại muốn tới New York một lần.
New York không chỉ đẹp bởi rừng nhà chọc trời nơi hiện thực hoá giấc mơ nhưn những gì mà Alicia Keys từng hát. New York còn đẹp ở sự tinh khôi sương tuyết thế này. New 

York không chỉ đẹp bởi rừng nhà chọc trời nơi hiện thực hoá giấc mơ nhưn những gì mà Alicia Keys từng hát. New York còn đẹp ở sự tinh khôi sương tuyết thế này.
New York không chỉ đẹp bởi rừng aMàu tinh khôi của tuyết, màu lơ mơ của những cột đèn đường, không gian dường như lắng xuống, nhường chỗ cho những ưu tư của Vivienne gửi gắm qua từng bức ảnh.nhà chọc trời nơi hiện thực hoá giấc mơ nhưn những gì mà Alicia Keys từng hát. New York còn đẹp ở sự tinh khôi sương tuyết thế này.

Màu tinh khôi của tuyết, màu lơ mơ của những cột đèn đường, không gian dường như lắng xuống, nhường chỗ cho những 
 ưu tư của Vivienne gửi gắm qua từng bức ảnh.
Có lẽ vì cũng là dân viết lách nên ảnh của cô có cái gì đó như một lời tự sự.
Có lẽ vì cũng là dân viết lách nên ảnh của cô có cái gì đó như một lời tự sự.
Vivienne hiện đang theo đuổi dự án có tên "NY through the lens" (NY qua ống kính), tập hợp những khoảng khắc rất New York khi cô lang thang quanh thành phố. Vi

vienne hiện
đang theo đuổi dự án có tên “NY through the lens” (NY qua ống kính), tập hợp những khoảng khắc rất New York khi cô lang thang quanh thành phố.
Người ta bình luận rất tích cực về các tấm hình, và gần như chẳng có một lời chê nào dành cho cô nhiếp ảnh gia lắm tâm tư. 
Người ta  bình luận rất tích cực về các tấm hình, và gần như chẳng có một lời chê nào dành cho cô nhiếp ảnh gia lắm tâm tư.
Vivienne chia sẻ rằng cô bị ám ảnh bởi cảm giác mất mát khi chứng kiến từng góc phố New York thay đổi theo thời gian bởi sự hiện đại hoá.
Vivienne chia sẻ rằng cô bị ám ảnh bởi cảm giác mất mát khi chứng kiến từng góc phố New York thay đổi theo thời gian bởi sự hiện đại hoá.
New York đối với cô là một chốn không tên. Vừa có cảm giác lạc lõng lại mang tính thân thuộc như mái nhà. 

New York đối với cô là một chốn không tên. Vừa có cảm giác lạc lõng lại mang tính thân thuộc như mái nhà.
Nào ai nghĩ đây là một trận bão tuyết đáng sợ? Tất cả những gì người ta thấy chỉ là một New York trong trời đông mà thôi.

Nào ai nghĩ đây là một trận bão tuyết đáng sợ? Tất cả những gì người ta thấy chỉ là một New York trong trời đông mà thôi.


Theo Khoa Học


Tuesday, February 2, 2016

KIM THANH * MỘT NGÀY VỚI MÙA XUÂN HÀ NỘI

 



MỘT NGÀY VỚI MÙA XUÂN HÀ NỘI


kim thanh



I. Tôi sinh ra, và lớn lên, tại Nha Trang. Gia đình bên ngoại gốc “Nhe Treng” rặt, và bên nội, gốc Quảng Trị, cũng rặt. Bởi vậy, anh em tôi trong nhà nói một thứ tiếng lai căng, ở trường học không nói tiếng Việt, nên ra ngoài không có cái giọng, kiểu “chu che bữ nê mềnh lợi eng cuôm dí ké nữ” (dịch nghĩa: Chu cha bữa nay mình lại ăn cơm với cá nữa) cố hữu của dân địa phương thứ thiệt, như mấy đứa bạn cùng xóm. Rồi sau năm 1954, người Bắc di cư vô Nam nói, ôi thôi, đủ thứ tiếng Bắc kỳ, nghe rất mệt tai. Trong số, tôi chỉ chấm, và mê, tiếng hát mượt mà, đài các, phát âm chuẩn xác của những nữ ca sĩ chính gốc Hà Nội, như Kim Tước, Thái Thanh, Mộc Lan, Tâm Vấn, và những minh tinh, như Kiều Chinh, Mai Trâm. Tất cả những mỹ nhân một thời ấy đã mang theo vào Miền Nam dáng vẻ thanh lịch và giọng nói quý phái từ Hà Nội cổ kính, và cố đô Thăng Long ngàn năm văn vật.


Hà Nội mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng biết qua thơ văn nhờ hồi đi lính bắt đầu đọc những tiểu thuyết tiền chiến và những tạp chí của mấy ông nhà văn nhà thơ Bắc kỳ di cư. Nhất là nghe những ca khúc đương thời thương về Hà Nội. Trong đó có một câu, trong một bài, mà ông cậu ruột mười sáu tuổi, em út của mẹ tôi, nghĩa là dân Nhe Treng đặc sệt, cứ âm ư mãi, riết rồi thành lố bịch: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu…” Lố bịch là phải, bởi lẽ không ai có thể gây xúc động mạnh lên trái tim thính giả trong những bài hát nhớ Hà Nội cho bằng những nhạc sĩ, ca sĩ di cư chánh hiệu Hà Nội của thời trước 1975.


Quả vậy, Trịnh Công Sơn, tên nằm vùng phản chiến, gốc Huế, sau 1975, muốn lấy điểm với chế độ mới, cũng bắt chước viết hai ca khúc về Hà Nội, nhưng không hay bằng, vì cảm xúc, nguồn hứng rất giả tạo, và hình ảnh rất ước lệ, khuôn sáo: cũng vẫn là Hồ Tây, cũng mùa thu mây bay, cũng mùi hoa sữa, cũng cây bàng lá đỏ… Chưa kể, câu kết, trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội / Nhớ đến một người để nhớ mọi người”, muốn nhắn gửi gì đây? Chưa vội chụp nón cối, người ta phải thắc mắc: Mùa thu nào? Tổng khởi nghĩa 1945 ư? Một người nào? Đồ tể Hồ Chí Minh, với khẩu hiệu “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, mà các tù binh cải tạo đã phải nghe lải nhải hoài, phát ớn đến tận cổ?



II. Hà Nội, tôi đã thấy, đã nghe, đã gặp một lần, vào tháng 4 năm 1983. Cách đây ba mươi hai năm. Không như một du khách, hay một Việt Kiều yêu nước. Mà như một tù binh cải tạo. Đúng ra gặp hai lần.


Lần đầu, cuối năm 1975, một cách chớp nhoáng, bất đắc dĩ. Tại bến cảng Hải Phòng, tôi được bốc từ tàu Sông Hương ra và tống lên xe lửa, chực sẵn để chở, cùng với hàng trăm ngàn đồng đội, lần lượt, đến các trại giam vùng biên giới, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cổng Trời… Khi đoàn tàu đi ngang Hà Nội, chắc quá nửa đêm, tôi cố nhướn mắt nhìn ra bên ngoài, từ song cửa sổ hẹp. Tàu chạy nhanh, trời lại tối, và đèn đường leo lét, chỗ có chỗ không, nên tôi không thấy gì cả, ngoài một Hà Nội còn đang ngủ say, phố xá lặng thinh, sương rơi lả tả, và những hàng cờ đỏ sao vàng giăng mắc, ủ rũ, trên những góc phố. Làm nhớ đến hai câu thơ oan nghiệt –đã bóp chết đời tác gỉả, Trần Dần: Tôi bước đi, không thấy phố, thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ… Rồi tàu rẽ lên cầu Long Biên, khá dài. Tôi thấy hai bên đường sắt vài người dân đi bộ hay đạp xe, không biết về đâu, co ro trong chiếc áo tơi thô sơ. Trên sông, vài chiếc thuyền câu đậu bến im lìm.


Lần thứ hai, lần này, tám năm sau, được tiếp xúc với Hà Nội lâu hơn, đúng một ngày, nghĩa là mười hai tiếng đồng hồ. Quả thế, một buổi sáng đẹp trời, tại trại giam Vĩnh Phú, K1, đang chuẩn bị đi lao động, tôi nghe đọc tên mình được thả –áp chót trong danh sách một trăm mười người thuộc tất cả các trại Miền Bắc, mà Vĩnh Phú chiếm nhiều nhất: có bốn mươi tên trúng số độc đắc, trên toàn năm K, trong khi ở một số trại, nhỏ hơn, chỉ có vài mạng thôi. Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao mình lại được thả, nhưng chắc chắn không phải vì công đức cải tạo tốt, trái lại. Thây kệ, tôi tự nhủ, thắc mắc làm chi. Vội vàng về “buồng” (phòng), vì chỉ được mười phút sửa soạn tư trang. Không có gì, ngoài bộ đồ tù đang mặc trên người, và mùng, mền, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một bịch đường táng đen, một gói bánh mì khô, hai hộp sữa đặc, và một mớ thuốc cảm, đau đầu, đầu bụng, để dành từ những lần thăm nuôi trước. Tôi tặng hết đồ ăn và thuốc men cho những anh em, lúc ấy, khai bệnh nằm nhà.


Rồi tất cả lội bộ xuống K5, tức K chỉ huy, cách khoảng 15 km, để làm thủ tục xuất trại. Tại đây, được trả lại quần áo “dân sự”, đồng hồ, và tiền bạc bị “đăng ký” để “Cách mạng giữ hộ” khi bước chân vào trại tù đầu tiên, ở Miền Nam. Không biết đủ, thiếu thế nào, vì sau tám năm, không nhớ và điều đó không quan trọng nữa. Tù binh được thả sinh hoạt tại một buồng riêng, không được “quan hệ linh tinh” với các cải tạo viên khác.


Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi trút bỏ bộ đồ tù, mặc lại quần áo cũ, có anh diện giày da thay dép râu. Ai nấy mặt mày tươi rói, đẹp trai hẳn ra, như dưới chiếc đũa thần của một bà tiên, không còn hốc hác, bèo nhèo như dạo nào, nhất là sau mấy ngày được vỗ béo, ăn no ngủ kỹ. Được xe trâu chở ra tận bến phà trên sông Hồng. Sau hơn nửa giờ, cập bờ Ấm Thượng. Ở đây, phải chờ đến 10 giờ đêm mới có chuyến xe lửa từ Lào Cai đến “rước” về Hà Nội. Đi theo có hai cán bộ. Hai tên này, bình thường thuộc loại hắc ám, bữa nay có vẻ dễ dãi, chắc vì được dịp đi chơi Hà Nội hoặc tin rằng không thằng tù binh nào được thả lại dại dột âm mưu làm điều “phản động”. Để giúp thời gian qua mau, chúng tôi tụm năm tụm ba nói chuyện, cười đùa rổn rảng, hoặc mua bún, bắp luộc, xôi vò và bánh gai của các bà và em bé bán hàng rong tại chỗ –đã quá quen thuộc với những đợt thả tù binh. Nghe nói Ấm Thượng có đền thờ Hùng Vương, tôi và một anh bạn xin phép đi viếng, nhưng cán bộ bảo xa lắm, không cho. Trời hơi nóng, tôi bèn cởi áo quần nhảy xuống sông tắm. Nước phù sa đỏ ngầu, nhuộm cả ra quần đùi mới, trắng tinh. Lội ra xa, thấy sóng lớn quá, sợ bị cuốn đi, chết uổng mạng, tôi bơi vào, lên bờ nằm nghỉ, phơi nắng, đợi xe lửa.



III. Ấm Thượng không xa Hà Nội bao nhiêu, trên dưới 100km, mà ì ạch mãi đến 8 giờ sáng hôm sau, tàu mới đến ga Hàng Cỏ, sau khi dừng lại nhiều trạm dọc đường. Đám tù phải đợi đến 8 giờ tối mới có chuyến tàu Thống Nhất vào Sài Gòn. Hai tên cán bộ điểm danh, và bắt tất cả “tập trung” ở một góc nhà ga, dặn không được đi đâu xa, “vì các anh chưa được phát giấy ra trại”. Ga tấp nập hành khách và bộ đội chờ đi các tỉnh phía Bắc, và rất đông “gian thương” (buôn bán chui) lượn tới lượn lui, rình mồi, nhiều nhất là những người mua đi bán lại quần áo, vai vác bao tải to kềnh, trông như một cảnh chợ trời, sau 30 tháng 4, 1975 tại Sài Gòn. Tất cả đều quay nhìn chúng tôi, biết ngay là đám sĩ quan tù binh cải tạo từ biên giới được thả về Nam, với cặp mắt tò mò, hoặc cảm thông. Một vài thanh niên, thiếu nữ còn dạn dĩ, đến bắt chuyện, hỏi về “quân hàm” (cấp bậc) của anh em, và xuýt xoa với nhau: “Ghê nhỉ! Trông trẻ thế mà đã là đại úy, thiếu tá cả, gần mười năm trước cơ đấy!”



1) Các cô, các bà mua bán chui thấy một số tù binh, trong đó có tôi, mặc quần jeans, mà họ gọi là “quần bò”, liền sà đến, gạ mua. Một cô, khá xinh, mồm dẻo kẹo, chỉ vào cái quần xanh, bạc màu, bụi đời (càng bụi càng có giá, cô nói) của tôi, và bắt đầu dụ, ngon lành:


- Ông anh bán cái quần bò này cho em nhá!


Tôi giật mình, khoát tay:


- Đâu được cô! Hiện giờ tôi chỉ có mỗi cái quần này trên người, bán cho cô, lấy gì mặc?


Cô vẫn nài nỉ:


- Thì em đổi rẻ cho anh cái quần tây thường khác.


Tôi vẫn lắc đầu. Rồi cặp mắt thiện nghệ của cô bỗng rà lên khắp châu thân tôi, như radar, ngừng trên chiếc áo pull trắng, cổ cao, tôi đang mặc, tuy còn mới, nhưng sau tám năm “biệt giam” trong nhà kho kín mít, đã ngả sang màu vàng nhạt, và thoang thoảng có mùi mốc, pha lẫn với hương nách cũ, chưa kịp giặt, bay ra… khá nồng. Cô lên tiếng tán, ngọt xớt:


- Hay là ông anh bán cái áo này cho em!


Trong túi xách tôi còn một áo sơ mi xanh, nên đồng ý bán. Cô ta trả giá 3 đồng. Tôi ngồi im re. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ đến nay, tôi có đem áo quần đi bán bao giờ đâu, làm sao biết giá cả? Một bà già, hàm răng đen láy, ngồi cạnh cô bỗng lớn tiếng nói: “Ối giời, chỉ có quân ăn cướp ngày mới giả cái giá đó. Tôi giả 5 đồng đấy, cậu bán, tôi lấy ngay!” Tôi lại càng phân vân, chưa biết xử trí thế nào thì cô nọ liếc xéo bà kia: “Tôi tăng lên 10, mụ già nhà quê Quảng Ninh có theo nổi không nào?” Nghe hai người sừng sộ với nhau, đám tù binh và cả tên cán bộ xúm lại, xem màn bán đấu giá “đột xuất”, càng lúc càng hấp dẫn. Một anh thiếu tá đồng tù đập đập tay xuống thềm xi măng, hỏi: “Mại dô, mại dô. Có ai trả thêm nữa không?” Bà già cười khẩy: “Tôi giả 12 đồng đấy, con nặc nô Hà Tĩnh có ý kiến gì không nhỉ?” Cô gái tức khí, đáp lễ: “Tôi trả thêm 3 đồng, tổng cộng 15, mụ già nhà quê Quảng Ninh thấy thế nào?” Cả đám vỗ tay rào rào, tên cán bộ cũng cười. “Mụ gìà nhà quê Quảng Ninh”, cuối cùng, chịu không thấu, bỏ cuộc. Anh thiếu tá chỉ vào “con nặc nô Hà Tĩnh”, phán: “Không ai trả thêm nữa, tôi khóa sổ nè và long trọng tuyên bố rằng cô em gái Hà Tĩnh này được trúng tuyển mua áo pull của anh trai đại úy tù binh ngụy Vĩnh Phú, với giá 15 đồng chẵn, không bớt xu nào”. Cả đám, tù cũng như dân, ôm bụng cười lăn. Tiền trao áo múc, tôi bèn cởi ra ngay tại chỗ, giao tận tay cho cô. Vào thời điểm đó, 15 đồng là món tiền phải chăng, vì giá một tô phở khoảng 7 đồng, một ly bia 3 đồng. Tổng kết, có hai mươi tù binh “bị” mua áo, mua quần trong buổi sáng đó. Đủ tiền bát phố Hà Nội trong một ngày.



2) Bất ngờ có tiền phụ trội trên trời rớt xuống, cộng vào món tiền khiêm tốn được trại trả lại, tôi bỗng nổi hứng, đóng vai trưởng giả học làm sang: tắm nước nóng. Phòng tắm kế bên sân ga, thấp, nhỏ, mái tôn và vách lợp bằng tre đan. Trên cửa, viết nguệch ngoạc ba chữ bằng vôi trắng: Tắm lước lóng. Phòng chỉ có một lối ra vào. Giá vé là 2 đồng, trả trước cho một chị sồn sồn, hô răng, ngồi gác bên ngoài. Vừa lom khom chui vào, đóng cửa lại, chưa kịp làm gì, tôi nghe có tiếng nước xối ở gian trong, và dưới ánh nắng lùa qua khe hở, thấy vắt ngang trên tấm liếp ngăn hai gian một quần tây xanh đậm, và một áo lụa vàng, có thêu chim cò, kèm theo hai mảnh đồ lót, trên trắng, dưới hồng, rất “hiện đại”, rất khêu gợi mà, tôi đoán nhanh, chủ nhân chắc chắn không thể là một trong những “mụ già nhà quê Quảng Ninh” khi nãy. Tôi đang đứng lóng ngóng, chưa biết phải làm gì, thì từ phía trong vọng ra một giọng Bắc còn trẻ, nhưng không phải âm hưởng Hà Nội, của một cô chắc đã nhìn thấy tôi qua khe liếp, trong gian ngoài đầy ánh sáng: “Anh là tù cải tạo hả? Đừng ngại, cứ vô tư cởi quần áo ra, phòng tắm công cộng, ai cũng làm như thế cả!” Tôi im lặng, vì sợ gặp phải thứ dữ, chứ có gái nhà lành nào cả gan dám tắm truồng chung đụng như thế, chưa kể tắm xong, làm sao đi ra, nếu gian ngoài đang có người? Tôi đứng bất động như người trúng gió, căng mắt dòm vào, nhưng bị bóng tối ghen tuông che kín, không cho thấy chi hết. Sau tám năm thiếu đàn bà, trí tưởng tượng vụt bay lên, bay cao, bay xa, rạo rực, nhưng cố dằn xuống kịp thời.


Tôi múc, bằng gáo, nước từ trong hai cái vò sành, bắt đầu súc miệng. Nước quá lạnh, buốt thấu răng, và óc, làm tê liệt giây thần kinh thèm muốn. Tôi mở hé cửa ngoài, thò đầu ra, khiếu nại với chị bán vé. Chị ta trả lời, đúng bài bản, như quá quen với “sự cố” này: “Bữa lay, nhiều khách tắm quá, bác ạ, đến nượt bác thì lước lóng hết đột xuất, em đun không kịp, bác cố gắng khắc phục tắm bằng lước nạnh hộ em!” Tôi đành rửa mặt, và nhúng khăn lau sơ phần trên, rồi mặc lại áo, đi ra. Xong một buổi tắm “lước lóng”. Tại thủ đô nước CHXHCNVN, năm 1983. Không biết bây giờ phòng tắm dã chiến bên hông ga Hàng Cỏ ngày ấy có còn không.



3) Vì thời gian chờ xe lửa quá lâu, theo đề nghị của anh em, trưởng đoàn tù binh, trung úy người Huế –được bầu một cách “khẩn trương” do nhu cầu công vụ– xin cán bộ cho phép anh em đi “tham quan” Hà Nội mùa xuân. Hai cán bộ “hội ý” với nhau, và chấp thuận, với điều kiện không đi xa và phải trở lại ga trước 7 giờ tối, ai trễ sẽ bị bỏ lại, ráng chịu. Lúc đó mới 11 giờ trưa. Tất cả hồ hởi phấn khởi xuất quân. Một vài anh em già, yếu, bệnh, mệt, ở lại nhà ga, và tình nguyện giữ hộ các túi xách với lời bảo đảm sẽ được “đền ơn bội hậu” khi anh em đi chơi về.


Tôi rủ ba người bạn khá thân cùng đội tù K1 đi chung, trong số có một ông Thiếu tá già Tiếp Liệu Bộ Tổng Tham Mưu, cởi mở, chính gốc Hà Nội, nói năng lúc nào cũng từ tốn, chậm rãi, rề rà, nghe sốt cả ruột. Vừa rời sân ga, ông Thiếu tá bỗng dừng lại, vẻ mặt đăm chiêu, mắt ngó ngang ngó dọc, chỉ chỏ cho ba chúng tôi, không phải dân Bắc kỳ, và nói:


- Hồi năm 1954, nhà tớ ở gần ga Hàng Cỏ này, trong khu Hàng Bông - Thợ Nhuộm, tức phía Cửa Nam. Không biết căn nhà có còn đấy không.


Rồi ông dẫn cả bọn đi loanh quanh, và cuối cùng chui vào một dãy phố, đối diện ga. Những túp nhà chạy dọc theo con phố đều cũ mèm, mái đã rêu phong với những viên ngói lung lay, như răng bà lão, không biết bay theo gió lúc nào, tường vôi lâu ngày loang lổ thành màu trắng đục, có chỗ lòi ra một lớp gạch xám xịt. Phía trước là những hiệu buôn, được ông thiếu tá gọi là “hàng”, thấp lè tè, bước vào sơ ý là bị đụng vỡ đầu, nối liền với những “căn hộ” phía sau, cao hơn, lớn hơn. Sau một phút lưỡng lự, ông bước vô một gian “hàng”, không biết tên gọi là gì, có lẽ hàng Giày, vì bán toàn giày dép. Nghe ông kể, khi cả gia đình ông leo lên tàu há mồm vào Nam, thì, dĩ nhiên, cửa hiệu bán guốc và nhà ở của gia đình ông bị tịch thu, và đổi chủ. Chủ mới, không biết mấy đời rồi, là một anh trung niên, nói tiếng Quảng Bình giả giọng Bắc, lịch sự hỏi: “Các bác muốn gì ạ?” Ông thiếu tá già cười, mà như mếu, theo nghĩa hoàn toàn đen, vì tám năm dài đằng đẵng trong tù bạn bè đã bẻ giùm ông, bằng những sợi chỉ bện lại, mất hết năm răng cửa và hai răng hàm: “Trước năm 1954, tôi đã ở nhà này”, ông trả lời. Rồi xin ra phía sau để nhìn lại nó, và kể hết đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong thiên tình sử, anh chủ mới mủi lòng, ân cần mời ông chủ cũ lên cầu thang gỗ thăm lại căn nhà của chính ông.



4) Ba thằng chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà Nội, hay tàu há mồm, xin rút lui, để mặc ông thiếu tá già thoải mái đi tìm thời gian đã mất, như văn sĩ Pháp Marcel Proust. Lúc ấy có hai đồng tù trẻ, khác K, xin nhập bọn. Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn. Hay lãng mạn, hư cấu hơn, những nữ nhân vật có học, duyên dáng trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng –mà khung cảnh đều là Hà Nội của những thập niên 30, 40. Và, trên hết, các công chúa Mỵ Châu, Lý Chiêu Hoàng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân của Thăng Long nghìn tuổi, mang kiếp hồng nhan bạc phận trong thực tại lịch sử, đã làm ngây ngất trí tưởng nơi người hậu thế “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (Kiều), như những giấc mơ huyền thoại quyến rũ, dị kỳ.


Những cô gái, gọi là Hà Nội, dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc, không bao giờ được học và nói hai chữ “cám ơn” và “xin lỗi”. Mặc áo sơ mi nhét trong quần tây, theo mốt hiện hành, bỏ chiếc áo dài cổ truyền, và chân đi “sa-bô” (sabot?), danh từ tôi mới nghe lần đầu, tức loại giày nhựa, bịt kín phía mũi, gót để trống, đế rất cao, như một thứ dép tân thời, thay cho “thanh bình tiếng guốc reo vui” ngày xưa của nhạc sĩ Hoàng Dương. Lại còn giọng nói nữa. Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như pha với giọng Nghệ An của “Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè, còn hơn giấm. Bởi thế, khi giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi đời, người dân Sài Gòn nhận ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ lớ, chói tai, của những ca sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây giờ, thừa thắng xông lên, xâm nhập luôn những Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ, vô tình hay hữu ý thực hiện chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC, tiếp tay bởi tên nhà văn MC thò lò hai mặt. Về dung nhan, các ca sĩ ấy vượt trội những cô gái mà tôi đã gặp tại Hà Nội năm 1983. Nhưng giọng nói “2 nút” chua lè thì vẫn y chang.



5) Lang thang mãi, mỏi chân, và đói bụng, chúng tôi tắp vào một quán phở, không xa ga Hàng Cỏ là bao. Ba cô gái “phục vụ” (chạy bàn), mặc đồng phục, sơ mi và quần tây, đứng ở quầy hàng, thấy năm ông khách quý bước vào, trơ mắt ngó, không thèm chào mời. Và phớt lờ, tiếp tục trò chuyện với nhau. Quán lúc ấy không có ai ngoài năm đứa tôi.


Chờ lâu, một anh, cựu trung úy Biệt Động Quân, người Nam hiền khô, nhưng tướng rất ngầu, da ngăm ngăm đen, nói năng bạt mạng, lại ngọng nữa, sốt ruột, lớn tiếng hỏi:


- Nè, bộ mấy bà chê tụi tui không tiền hay sao mà không ai ga (ra) tiếp dzậy?


Một cô trả lời, giọng Bắc the thé như lai tiếng Thanh Hóa, Nghệ An:


- Ăn gì thì đến quầy mà gọi.


Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:


- Cho tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?


Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:


- Đây là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?


Anh quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:


- Gõ gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi. Và năm chai bia.


- Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.


Anh lại hỏi:


- Bia “bốc” là bia gì dzậy?


- Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì nữa?


Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho tình hình bớt căng thẳng:


- Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi” bay đi hết, phải không cô?


Nhưng cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.


Hai thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:


- Sao lâu quá gồi mà không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?


Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:


- Đến đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!


Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.


Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul Sartre trên vĩa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều cà chớn gáo (ráo) trọi”.


Ra đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.



IV. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn ít nhất bốn tiếng nữa để mà giết. Làm gì cho hết nửa ngày nữa?


Tôi nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:


- Anh chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?


Anh mau mắn đáp:


- Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy anh ạ…


Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:


- Còn một loài hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa... Đấy, anh ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa...


Tôi hỏi lại:


- Hoa sưa hay hoa sữa?


- Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.


Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”... Nên chúng chưa có kế hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.


Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ, rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu, lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau. Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.


Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài. Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo, bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần, của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris...”, nhưng bây giờ, đứng đấy, tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires (thuyền thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu Thăng và giặc Minh...


Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố” (thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng... mà tại mọi góc đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.


Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:


- Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ...


Tôi cắt ngang:


- Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.


Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn, với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng thiết tha gọi vê từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn... những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài, đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay...



V. Từ giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut hay Romeo and Juliet. Tứ đáp:


- Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ lên xe lửa đâu.


Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định. Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do “trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.



Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm, để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1, không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:


- Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh một chuyến.


Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:


- Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc chắn em sẽ ra thăm ảnh.


Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.



Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải, tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng... Bởi một nơi không đến bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt.





Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt, biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ...



Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang, lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em kiều diễm của tôi, sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà biết rằng em, qua dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi, đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại tù đã đi qua... Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.



VI. Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không ai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua, quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay –tất cả đều là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.



Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền, tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.


Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.



VII. Khát vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng, khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trong Inferno, thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni speranza voi ch’entrate (Hãy vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).

Portland, 1 tháng 2, 2016

Kim Thanh

TS. NGUYỄN BÁ LONG * ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ VN SAU ĐẠI HỘI XII ĐẢNG CSVN



ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ VN SAU ĐẠI HỘI XII ĐẢNG CSVN: CHÍNH BIẾN SẼ XẢY RA KHI NPT & PHE NHÓM THI HÀNH CHÍNH SÁCH THU TÓM BIỂN ĐÔNG VÀ SÁP NHẬP VN VÀO TÀU. ĐỊA CHÍNH TRỊ BIỂN ĐÔNG & ĐNA SẼ THAY ĐỔI THEO KẾ HOẠCH CỦA TẬP CẬN BÌNH HIỆN NAY

TS Nguyễn Bá Long
Học Giả Chuyên Về Lý Thuyết Cách Mạng
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000


Hi`nh xem attachment tr. 47, KTTT 101




TS Nguyễn Bá Long khai mạc Đại Lễ Kỷ Niệm 15 Năm Hiến Chương 2000 tối 21/11/15 tại Nhà Hàng Dim Sum King

TS Nguyễn Quang A trong BBC tiếng Việt hôm 24-1-2016 dưới đầu đề: "Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ thắng 'áp đảo'? (cập nhật lúc 23.43ICT) có phát biểu một điều mà có thể là sẽ đúng: "Tôi nghĩ rằng bất luận là ông Dũng hay là ông Trọng thắng trong cuộc này, thì Đảng Cộng sản Việt Nam sau Đại hội này cũng sẽ không còn là cái đảng cộng sản trước Đại hội," Tiến sỹ Nguyễn Quang A nói với BBC.

Tại sao lại đánh giá là phát biểu của TS Nguyễn Quang A có thể sẽ đúng?
Lý do là với biến cố Đại Hội XII, các lực lượng ngầm trước đây trong Đảng bây giờ lộ diện ra hết và sau Đại Hội (mà khó thể hàn gắn được), họ sẽ đối phó với nhau. Chưa hẳn là một cuộc chính biến bằng vũ lực (mặc dù cũng không thể loại bỏ hẳn giả thiết này), nhưng mà đấu với nhau bằng mưu mẹo, phe cánh, quyền lực, sức mạnh tiền bạc và vật chất v.v., thì sẽ thẳng tay. Nói tóm lại là một trường quyết đấu, mà cuối cùng ra, chuyện một phe sẽ bị triệt hạ tan tành và phe kia toàn thắng cũng còn kéo dài, và có thể chỉ chung quyết với sự tan vỡ của Đảng CSVN.

Đối với người đấu tranh cho dân chủ và các lực lượng dân tộc, đây có thể là một vận hội rất lớn để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vào một thời kỳ mới, mà hai gương tranh đấu của Miến Điện (Khôi Nguyên Giải Nobel Hòa Bình San Suu Kyi với Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ - NLD trong kỳ bầu cử ngày 8-11-2015) và Đài Loan (Tổng Thống Đắc Cử Thái Anh Văn -- Tsai Ing-wen với Đảng Dân Chủ Tiến Bộ - DPP, trong kỳ bầu cử 16-1-2016 vừa qua). Cả hai đã thắng áp đảo đảng cầm quyền, mà chỉ mới mấy năm trước đây thôi, đó chỉ là những giấc mơ của người dân Miến Điện cũng như người dân Đài Loan.

Vấn đề của VN là làm sao từ một tình trạng bệ rạc của Đảng CSVN khởi đi từ Đại Hội XII Đảng CSVN, những người dân chủ dùng những phương lược gì để đưa đất nước đến đổi thay. Cần phải nắm bắt và tác động vào các yếu tố lớn sau đây:

I. SỰ THAY ĐỔI VỀ LÒNG NGƯỜI

Bằng các phương tiện truyền thông, đặc biệt Internet, chúng ta đã nhận diện được một sự thay đổi lớn của lòng người tại VN đối với Đảng CS qua Đại Hội Đảng kỳ này: đó là một sự chán nãn và xa cách tột cùng của nhân dân đối với Đại Hội Đảng cũng như đối với guồng máy bóc lột, đàn áp và tham nhũng của toàn bộ hệ thống này; đi đôi với một tình hình kinh tế lụn bại, mà nợ công cũng như sự kiệt quệ về ngân qũy cho thấy rằng Đảng CS cũng như nền kinh tế VN có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Điều này làm gia tăng sự lệ thuộc về kinh tế và tài chánh đối với Trung Cộng và làm gia tăng mối nguy mất nước của VN đối với Tàu Phù.
Lòng người hiện tại đã quá chán ngán CS tại VN và mong muốn một sự thay đổi. Mong muốn một sự thay đổi để dễ thở về kinh tế và mong muốn một sự thay đổi để thoát ly sự lệ thuộc TC.

Trong ba phần tư số bài tham dự của người trong nước vào Giải "Thơ Văn - Lý Luận - Hành Động" Năm Ất Mùi 2015 của Phong Trào Hiến Chương 2000 (một số bài trúng Giải đó có đăng kỳ này) thì số bài lên án và chỉ trích thậm tệ Đảng và chế độ CSVN là nổi bật nhất, nhiều bài của những vị nổi tiếng như Chiến Sĩ Trần Anh Kim, TS Trần Nhơn, Nhà Giáo Nguyễn Thượng Long, Nhà Văn Huỳnh Ngọc Tuấn, Chiến Sĩ Cách Mạng Trần Kiên Giang, Nhà Thơ Trần Đức Thạch, Nhà Thơ Đỗ Vũ Kỷ Hà v.v. Nhiều bài lý luận rất vững hoặc là những bài thơ rất có hồn, đoạt Giải cao, chứ không phải những bài chỉ trích không căn cứ hoặc mạt sát kiểu của các dư luận viên.
Ngay trên internet, mở You Tube ra là rất nhiều các phê phán hoặc comments hết sức bất lợi cho CS; mà ngay các dư luận viên của chế độ bây giờ cũng không dám tung hứng hoặc ca ngợi Đảng như trước kia vì quá lố bịch và ngượng ngịu.
Lòng người tại VN bây giờ đã quá nghiêng về phiá tự do. Chính yếu tố CS và yếu tố Trung Cộng gộp lại với nhau đã làm tăng sự chống Tàu và chống VC nơi người dân. Tên hèn tướng Phùng Quang Thanh phát biểu mới gần đây thôi:
"Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc"…
Đó chỉ là một sự thật trần trụi mà tay chó săn bán nước Phùng Quang Thanh đã phát biểu. Tình hình chống lại Đảng CSVN thì hiện giờ cũng đã quá phổ biến. Mới mấy ngày qua trên You Tube đã công khai một video tố thẳng tay Đảng CSVN, đòi truất phế và truy tố Đảng CS, rất mạnh mẽ, của chính một đảng viên CS (chứ không phải "ngụy" hay nhóm "phản động"). Lại có cô gái đưa ra một tấm biển trước ngực, chụp hình, đại khái "tôi rất muốn làm "phản động!". Tình hình như thế này bây giờ rất phổ biến, không nói "Dân Oan" hay người "mất đất mất nhà" đả đảo Cộng Sản!. Chuyện người dân "chống lại CS" diễn ra từ lâu, mà đỉnh điểm là vụ anh Đặng Ngọc Viết xông vào trụ sở ỦÛÛy Ban Nhân Dân Thái Bình hồi 13-9-2013, bắn 5 viên chức CS phụ trách giải phóng mặt bằng (trong đó có viên đạn trúng ngay đầu làm chết Phó Giám Đốc Trung Tâm), sau đó anh trở về quê và tự sát ở chùa Đông Sơn, dưới chân tượng "Quan Âm"; đó là chưa kể vụ anh em Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúy bắn lại đoàn vũ trang cưỡng chế đầm thủy sản của gia đình anh ở Tiên Lãng, Hải Phòng, đầu năm 2012.
Phong trào vận động cho dân chủ từ năm 2015 đã bắt đầu vào một quy mô bề thế và có tầm vóc quốc tế, với sự ra đời của Lực Lượng Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ (the National Force to Raise the Flag of Democracy, Vietnam) do Chiến Sĩ Trần Anh Kim lãnh đạo, đã ra mắt trên Internet Radio (Tiếng Nói Của Lực Lượng Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ, đặc trách bởi Lê Chân, Trần Thị Hồng Khương, và Lạc Việt) vào ngày 21-9-2015 và công bố tuyên ngôn chính thức của Lực Lượng ra thế giới bằng tiếng Anh và tiếng Việt vào ngày 21-11-2015 tại Đại Lễ Kỷ Niệm 15 Năm Hiến Chương 2000 tại Toronto, Canada, có cả các lãnh đạo và cố vấn của Lực Lượng từ Hải Ngoại về Toronto tham dự.

Một chiến dịch lớn vận động các chính phủ, quốc hội và cơ quan quốc tế cho Lực Lượng Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ sau khi Tuyên Ngôn chính thức (Anh & Việt) của Lực Lượng được công bố, sẽ được Phong Trào Hiến Chương 2000 tiến hành nhân dịp Tết Nguyên Đán Bính Thân tháng 2-2016.

Sau Đại Hội XII Đảng CSVN trong tháng 1-2016, tất yếu sẽ có các kết hợp và vận động lớn của các lực lượng dân chủ VN để kéo người dân về phiá lực lượng dân chủ, và các hoạt động này hy vọng sẽ bùng nổ vào Mùa Quốc Hận thứ 41 tháng 4-2016.

Tờ Đối Lực #166 tháng 2-2016 sẽ nói nhiều về các hoạt động của phe dân chủ VN sau Đại Hội XII Đảng CSVN mà sẽ chấm dứt ngày 28-1-2016.

II. TÌNH HÌNH NTD & CÁC PHE PHÁI ĐẢNG CSVN SAU ĐẠI HỘI XII
Bài này được tác giả viết vào hôm 25/1/2016 sau khi có tin Nguyễn Tấn Dũng cùng Trương Tấn Sang và Nguyễn Sinh Hùng rút khỏi danh sách bổ sung được đề cử bởi Đại Hội để bầu vào Ban Chấp Hành TƯ. Có nhiều lý do trong việc Nguyễn Tấn Dũng rút, trong đó có lý do có thể có nhiều ảnh hưởng với ông là áp lực của Bắc Kinh muốn phe làm đầy tớ TC (tức phe Nguyễn Phú Trọng) toàn thắng tại Đại Hội này. Ngoài ra, nếu NTD không rút, chắc chắn Đảng VC sẽ phân hai, với số đại biểu nghiêng về phiá NTD có thể đông hơn số Đại Biểu nghiêng về phiá Trọng. Đứng về phiá Bắc Kinh, họ chỉ muốn VN là một chư hầu chờ ngày sáp nhập vào "Trung Quốc Vĩ Đại", cho nên Tập Cận Bình đã làm mọi cách để không thể nào có được một phe phái trong Đảng CSVN nghiêng về phiá Mỹ. Cho tới ngày hôm nay (25/1/2016) xem như họ đã thắng với sự rút lui của NTD sau khi được Đại Hội đề cử vào danh sách bầu, nhưng NTD đã rút (cùng với Sang, Hùng) và theo tin internet, đã được chấp nhận.

Bây giờ, với điều kiện của Đại Hội XII và với tứ trụ như được hoạch định bởi phe Trọng (Trọng, Quang, Phúc, Kim Ngân), tình hình của VN hậu Nguyễn Tấn Dũng sẽ ra sao?

Giả thiết "binh biến" trước Đại Hội để hạ phe Trọng là giả thiết khả hữu để NTD khẳng định quyền lực của mình, nhưng NTD đã không làm. Như thế thì sau Đại Hội chắc là NTD sẽ không đi con đường này. Nhưng NTD ở vào một thế rất hiểm: nếu NTD không làm gì để tự bảo vệ mình thì ông ta sẽ bị phe Trọng đẩy vào con đường cùng, có thể là hết đất sống. Chẳng những là đối với ông ta, mà còn là các con của ông nữa. Họ sẽ phanh phui ra nhiều chuyện và đưa gia đình NTD vào con đường bi đát, không loại giả thiết bị truy tố hoặc hãm hại. Vì phe Trọng và tay sai còn là người của Bắc Kinh, nên Bắc Kinh sau lưng sẽ đẩy các tay sai của chúng diệt những người có khả năng thân Mỹ và cản trở chúng chiếm Biển Đông và biến VN thành một chư hầu, trước khi hoàn toàn bị sáp nhập hẳn vào Tàu theo Mật Ước Thành Đô. Tình thế của NTD sau Đại Hội XII là như mành treo chuông, nếu NTD án binh bất động hoặc chờ những ủy viên trong ĐH XII bảo vệ do trước đây NTD đã thi ơn thì sẽ không hữu hiệu. Lúc NTD nắm quyền thì chúng theo và nịnh, nhưng khi NTD đã mất quyền hoặc sa cơ thất thế thì chúng sẽ có khuynh hướng ngã theo phe Trọng và Bắc Kinh để áp đảo NTD và lấy lòng chủ mới.

NTD có thể mở ra một con đường mới bằng cách kết hợp với những người trong Đảng CS còn có lòng với đất nước hình thành một thế lực dựa vào sự hậu thuẩn của dân chúng và quốc tế để tự bảo vệ mình và chống lại Bắc Phương. Nhưng NTD có dám đi con đường đó hay không là một điều đáng nghi ngờ?
Với vốn liếng có những bạn bè quốc tế như Tony Blair, Obama, các lãnh đạo Philippines, Myanmar, Đài Loan v.v.; một khi NTD nghĩ đến giải pháp dùng hậu thuẩn của dân chúng và quốc tế để tự bảo vệ mình; thì đám giáo điều tại VN cũng khó mà thẳng tay hoặc diệt NTD dễ dàng. Và tương lai, rất có thể NTD sẽ tiến đến vị thế một người đóng góp cho một nước VN Mới; còn nếu NTD thụ động không làm gì, để mặc cho Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm áp đảo sau Đại Hội Đảng, thì tương lai của NTD và gia đình cũng như các con rất u ám, đặc biệt là Nguyễn Thanh Phượng.

Cũng có một lối thoát là NTD và gia đình tìm cách thoát sang Mỹ (hơn là Tàu) nhờ đường giây mà Nguyễn Thanh Phượng và tay chân NTD đã củng cố từ trước đến nay.

Tóm lại là nếu NTD ở lại VN thì phải hành động, còn không thì phải tìm cách đi nước ngoài. Chứ ở trong nước mà Dũng không làm gì, thụ động, tất nhiên sẽ bị nhiều áp lực và triệt hạ, có thể nguy khốn cho cá nhân và gia đình.

III. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ

Tình hình quốc tế, với sự quyết đoán và công khai độc chiếm Biển Đông của Tàu sẽ đưa đến các phản ứng quyết liệt từ phiá Mỹ cũng như các nước ĐNÁ, ĐBÁ, đặc biệt các nước nạn nhân (như Phi, VN, Mã Lai), kể cả Ấn và Úc.
Từ năm 2014 (ngày 2-5), lúc TC đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào thềm lục địa và lãnh hải VN, chỉ cách đảo Lý Sơn có 120 hải lý; tác giả đã viết một bài cảnh báo việc TC bồi đắp các đảo Gạc Ma và Đá Chữ Thập chiếm cứ của VN năm 1988, cho rằng đây mới là mối nguy của VN và TC có thể uy hiếp các đảo ở Trường Sa của VN và lập vùng nhận dạng phòng không cũng như vào đúng lúc có thể ra lệnh cho quân trú phòng của VN tại Trường Sa phải đầu hàng và giao đảo, nếu không chúng sẽ bỏ bom từ các phi trường ở Gạc Ma và Đá Chữ Thập để tàn sát. Những dự đoán đó bây giờ đã thành sự thật, và các đảo bồi đắp của TC ở Trường Sa (7 đảo), bây giờ trở thành các cơ sở quân sự với phi trường và cảng biển cho phép phi cơ phản lực hạ cánh (TC đang hoàn tất phi đạo dài 3000m ở Đá Chữ Thập, tức là loại phi trường tiếp nhận được các phi cơ phản lực lớn). Ngoài ra, TC còn xây 2 hải đăng ở vùng này, và mở cả kỹ nghệ du lịch ở Trường Sa (mới nhất là cho vợ con của binh lính đồn trú ở Trường Sa đáp phi cơ du lịch ra thăm các binh sĩ đồn trú ở đây). TC rõ ràng là đang hoạch định biến Biển Đông thành ao nhà, và đang làm mọi cách để hành xử chủ quyền trên Đường 9 Đoạn cũng như thành lập Vùng Nhận Dạng Phòng Không ở Biển Đông (sẽ đến rất sớm).

Trước tình hình này thì Mỹ và các quốc gia liên hệ đến Biển Đông phản ứng như thế nào?

Từ khi bà Hillary Clinton làm Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Obama, vấn đề Mỹ xoay trục về Thái Bình Dương đã được đặt ra; nhưng nó kéo dài và không hữu hiệu vì Obama nói nhiều hơn làm. Kịp đến khi bước sang nhiệm kỳ 2, Obama mới thấy rằng phải đối phó đúng mức với TC vì Bắc Kinh đã trở nên quyết đoán và không coi quốc tế ra gì. Vụ Giàn Khoan Hải Dương 981 xâm nhập và hoạt động trong vùng lãnh hải VN, cách Đảo Lý Sơn chỉ 120 hải lý và vụ TC hối hả bồi đắp các đảo mới có khả năng vận hành về quân sự với phi trường cở lớn và cảng biển đã làm nổi bật dã tâm của TC độc chiếm Biển Đông, và như thế sẽ gây khó khăn cho thương mại tự do thế giới qua Biển Đông, nhất là khi TC dự định thiết lập vùng nhận dạng phòng không trong thời gian tới, có thể là rất gần.

Mỹ đã cho tàu chiến cũng như phi cơ thám sát tiến sát các hòn đảo tân lâïp của TC trong vùng Trường Sa trong 2 tháng qua; ngụ ý là không công nhận các đảo tân tạo có lãnh hải riêng như được quy định bởi Luật Biển của LHQ. TC phản đối dữ dội; nhưng Mỹ cũng chỉ biểu dương thế thôi chứ không làm mạnh để có thể tạo ra đụng độ về quân sự, là cái Obama không bao giờ muốn, vì Giải Nobel Hòa Bình mà ông đã từng lãnh sau khi trở thành tổng thống Mỹ khiến ông khó làm gì để có chiến tranh.

Theo Obama, 60% hải quân Mỹ sẽ chuyển trục về Thái Bình Dương để bảo vệ các nước đồng minh (như Phi, Nhật, Nam Hàn, Đài Loan v.v.) và bảo vệ tự do hàng hải trong trường hợp TC áp đặt chủ quyền trên hơn 80% Biển Đông. Obama làm như thế thiết tưởng chưa đủ mạnh vì TC tuyên bố ngang ngược Biển Đông là ao nhà từ thời cổ đại, hành xử chủ quyền theo Đường 9 Đoạn, và tuyên bố không chấp nhận sự phân xử của Tòa án Trọng Tài Quốc Tế ở The Hague, nơi Phi kiện TC áp dụng Đường 9 Đoạn tự vẽ vi phạm lãnh hải của Phi căn cứ vào Luật Biển 1982. TC tuyên bố không chấp nhận phán quyết của Tòa và sẽ hành xử theo ý mình. Ngoài ra, trong sự thảo luận về COC (Code of Conduct) liên hệ đến ASIAN và TC trên Biển Đông, TC cứ kéo dài không cho việc thương thảo đến hồi kết thúc; chờ lúc TC đã áp đặt hết sự thực thi chủ quyền trên biển theo ý mình muốn; lúc đó TC cho rằng họ muốn cái gì thì ASEAN phải nghe theo. TC là một đối tác rất nguy hiểm trên trường quốc tế vì luôn áp đặt theo ý mình. VN là nạn nhân lớn nhất của TC trong sách lược bành trướng bá quyền nhằm làm bá chủ thế giới của TC.

Dân tộc VN phải làm gì để đối phó với ý đồ bá quyền và bành trướng của Bắc Kinh?

Nước có khả năng nhất để đối phó với TC chính là Hoa Kỳ, nhưng nước này mỗi 4 năm lại bầu cử tổng thống một lần nên chính sách ngoại giao có thể thay đổi; đặc biệt là trong năm 2016 này, Mỹ có bầu cử tổng thống. Không biết ai sẽ lên thay Obama, và chính sách xoay trục về Thái Bình Dương sẽ diễn tiến ra sao? Có thể ước đoán rằng chính sách xoay trục về Thái Bình Dương sẽ tiếp tục; nhưng hành động tới mức nào thì còn tùy thuộc vào ưu tiên trong chính sách ngoại giao của Hành Pháp Mới được bầu lên. Đối với một lãnh đạo tham vọng và kiêu hãnh như Tập Cận Bình, một tổng thống Mỹ mà không cứng cựa thì tương lai Biển Đông sẽ rất bị đe dọa, chưa nói tương lai của các nước nạn nhân như VN, Phi; nhất là VN thì bị đe dọa nuốt chững bởi Bắc Kinh rồi. Đại Hội thứ XII Đảng CSVN có thể là Đại Hội khởi đầu việc bàn giao VN cho Tàu, do phe Nguyễn Phú Trọng (là tay sai và là viên Thái Thú thi hành chính sách của Bắc Kinh) thắng thế trong Đại Hội Đảng.

Cái gì có thể làm để quật ngược thế cờ, thoát khỏi bàn tay thống trị của Tàu Cộng, cho VN, sau Đại Hội XII Đảng CSVN tháng 1-2016.

IV. NHÂN DÂN VN PHẢI LÀM GÌ ĐỂ QUẬT NGƯỢC THẾ CỜ, ĐƯA VN THOÁT KHỎI VÒNG BẮC THUỘC?

Từ ngàn xưa, lịch sử VN là lịch sử vùng lên thoát khỏi Bắc Thuộc, vì luôn luôn có các nội gián của Tàu, các Cù Thị được cấy trong nước. Bởi vậy, "PHONG TRÀO LỮ GIA DIỆT CÙ THỊ" phải luôn luôn được phát động để diệt phường BÁN NƯỚC, mà trong giai đoạn hiện nay là những kẻ như NGUYỄN PHÚ TRỌNG, PHÙNG QUANG THANH, NGUYỄN SINH HÙNG, HOÀNG TRUNG HẢI v.v.

Chính HỒ CHÍ MINH là một kẻ được cấy bởi Tàu Phù. Tàu Phù luôn luôn làm mọi cách, từ ngàn xưa, để biến VN thành một bộ phận của Tàu. Cần phải biết rõ HỒ CHÍ MINH là ai và cách mà Mao TRẠCH ĐÔNG cũng như Đảng CS Trung Hoa và tình báo Tàu đã lập nên Đảng CSVN, và chi phối Đảng CSVN từ ngày được thành lập cho đến nay. Chỉ một giai đoạn của Lê Duẫn là VN tạm thoát tay Tàu Phù, nhưng rồi như một định mệnh, Mật Ước Thành Đô lại cũng đưa CSVN vào tròng, chờ ngày sáp nhập VN thành một bộ phận của Tàu.

Thành ra muốn VN sống còn, chỉ có một cách là TIÊU DIỆT CỘNG SẢN (Đảng CSVN do CS Trung Hoa thành lập) và tiêu diệt những CÙ THỊ do Tàu cấy hoặc nuôi dưỡng tại VN, những kẻ nuôi tham vọng làm thân trâu ngựa cho Bắc Phương và đưa VN sáp nhập vào Tàu.

"PHONG TRÀO LỮ GIA DIỆT CÙ THỊ" do Phong Trào Hiến Chương 2000 khởi xướng, nhằm trang bị ý thức cho TOÀN DÂN đứng lên DIỆT CÁC CÙ THỊ THỜI HIỆN TẠI và TIÊU DIỆT CHỦ NGHIÃ và CHẾ ĐỘ CS do Tàu lập nên (HCM cũng là do CS Tàu dựng nên).

Vấn đề dính sâu vào Tàu Phù nó cũng giống như người bị nghiện cocain, chỉ chờ giờ chết thôi nếu như không có một cách thoát hẳn ra. Cứ nhìn đám Thái Thú Bắc Kinh tại Hà Nội (như Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Sinh Hùng, Hoàng Trung Hải v.v.), có khi nào chúng thoát ra được khỏi bàn tay Tàu Phù hay không?, cho tới khi chúng đã dâng nước cho Tàu và làm con chó nhỏ. Bởi vậy chỉ có cách là DIỆT ĐÁM CÙ THỊ này.

Phương cách để tiến hành cho có hiệu quả là lập nên "một tổ chức mới, một công cụ mới" (chữ dùng của Bùi Tín) do chính người CS đã thức tỉnh, đứng lên. Và người Quốc Gia cũng như các thành phần khác sẽ hỗ trợ.
Mới gần đây đã có một ngọn đèn được thắp lên; đó là sự thành lập LỰC LƯỢNG QUỐC DÂN DỰNG CỜ DÂN CHỦ (LLQDDCDC), do Chiến Sĩ TRẦN ANH KIM, cựu Trung Tá Quân Đội Nhân Dân, và các chí hữu của ông, thành lập vào ngày 21-9-2015, qua làn sóng Radio Internet: Tiếng Nói của Lực Lượng Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ; và TUYÊN NGÔN CHÍNH THỨC của Lực Lượng -- bằng tiếng Anh và tiếng Việt -- đã được công bố ra thế giới tại Đại Lễ Kỷ Niệm 15 Năm Hiến Chương 2000 tại Toronto ngày 21-11-2015.

Phong Trào Hiến Chương 2000 sẽ mở đợt vận động quốc tế cho LLQDDCDC vào dịp Tết Nguyên Đán Bính Thân năm nay (tháng 2-2016) bằng cách gửi TUYÊN NGÔN CHÍNH THỨC của Lực Lượng (tiếng Anh) và các tài liệu liên hệ đến chính giới quốc tế kèm theo thư của Chủ Nhiệm Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN, TS Nguyễn Bá Long, để Quốc Tế nắm vững về LLQDDCDC.

Con đường mà VN phải đi cuối cùng ra là CHẤM DỨT CHẾ ĐỘ CS và thiết lập một chế độ mới, tuyên bố trước thế giới: "KHÔNG CÔNG NHẬN CAC MẬT ƯỚC VÀ CÁC KÝ KẾT BẤT BÌNH ĐẲNG GIỮA ĐẢNG CSVN VÀ ĐẢNG CSTH CÓ TÁC DỤNG ĐẶT VN VÀO VÒNG BẮC THUỘC THẾ KỶ 21".

Con đường sẽ được đi lên bằng cách thiết lập một tổ chức mới có khả năng thay thế Đảng CS và được toàn dân ủng hộ, thoát ly Tàu Phù, và đi vào con đường chủ lưu thời đại, tiến bộ, dân chủ, hùng cường; như là con đường Miến Điện đang đi vào, dưới sự lãnh đạo của nhà ái quốc và nữ lưu anh kiệt San Suu Kyi, Khôi Nguyên Giải Nobel Hòa Bình.

Phong Trào Hiến Chương 2000 sẽ hỗ trợ cho LLQDDCDC trong nước tiến lên bằng cách vận động sự ủng hộ của toàn dân và quốc tế và bằng cách kết hợp trong ngoài nước. Hiện LLQDDCDC đã được sự ủng hộ của nhiều tổ chức và lãnh đạo hải ngoại, trong vai trò cố vấn hoặc đóng góp về kỹ thuật, chuyên môn, tài chánh, vận động quốc tế v.v.

Trong các số Đối Lực 166 và Khai Thác Thị Trường 102 sắp tới, chúng tôi sẽ tường trình thêm về công cuộc vận động quốc tế cũng như những công tác mà các bộ phận yểm trợ cho LLQDDCDC tại Hải Ngoại đã thực hiện để hỗ trợ cho Lực Lượng trong nước.

Mới đây, nhà tranh đấu Lê Thanh Tùng tức Lê Ái Quốc, Phát Ngôn Nhân của LLQDDCDC trong nước, đã bị công an bắt giữ, theo nguồn tin trong nước mà chúng tôi có đăng tải trong số này.

Mục tiêu tranh đấu cuối cùng của LLQDDCDC sẽ là một cuộc tổng tuyển cử dân chủ, trung thực, giống như cuộc tổng tuyển cử mà Miến Điện đã làm được hồi tháng 11-2015 vừa qua, với thắng lợi vang dội của Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ và bà San Suu Kyi.

V. NHÂN DÂN VN PHẢI ĐỨNG LÊN ĐỂ DIỆT BỌN THÁI THÚ BẮC KINH & CHUYỂN ĐỔI CHẾ ĐỘ GẤP, CÒN KHÔNG THÌ CẢ BIỂN ĐÔNG LẪN NƯỚC VN ĐỀU LỌT VÀO TAY TÀU PHÙ TRONG NHỮNG NĂM SẮP ĐẾN. TÊN CHÓ SĂN NPT & ĐẢNG CSVN ĐANG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CỦA BẮC KINH THU TÓM BIỂN ĐÔNG & VN
Tình hình rất gấp cho VN vì NPT & Đảng CSVN đang thực hiện các bước tiến của Tập Cận Bình (TCB) thu tóm Biển Đông và VN vào tay Tàu Phù. Nếu nhân dân VN không đứng lên ngay bây giờ để tiêu diệt CS và đám Thái Thú Bắc Kinh mà NPT la` chó săn thi hành chính sách của TCB, thì trong một tương lai nhãn tiền rất sớm thôi; cả Biển Đông lẫn VN đều bị thu tóm bởi tay Tàu Phù, mà Đại Hội XII Đảng CSVN là bước khởi đầu để tiến hành chuyện đó. Đó là lý do tại sao Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã phải bỏ qua Hội Nghị Quốc Tế về Syria ngày 25-1-2016 để bay sang Lào, Kampuchia và Bắc Kinh từ 25 đến 27-1-2016 để họp với Tập Cận Bình và Vương Nghị liên hệ đến Đại Hội XII Đảng CSVN vào ngày 27-1; mà kế hoạch loại Nguyễn Tấn Dũng đã được phe NPT xúc tiến thành công. Chắc chắn kế hoạch của Bắc Kinh liên hệ đến địa chính trị toàn vùng Biển Đông đang được NPT và Đảng CSVN thi hành, mà việc loại NTD và ảnh hưởng Tây Phương là một yếu tố lớn để tiến hành kế hoạch của Tàu.

Nhân dân VN phải nắm bắt được các chuyển đổi lớn lao cho vùng Biển Đông và cả VN để mà gấp rút đứng lên kịp thời để cứu non sông; còn không, tiếng kêu ai oán của Việt Khang (qua bài nhạc "Việt Nam tôi đâu?") sẽ biến thành sự thực trong một ngày rất gần đây.

NPT là một con chó săn rất là nguy hiểm đang thi hành chính sách và kế hoạch bành trướng của TCB về Biển Đông và VN. Chúng ta phải đứng lên để tiêu diệt con chó săn này và chế độ CS để cứu lấy VN trước khi quá trễ.

Để đóng góp một vài ý kiến liên hệ đến vấn đề chính biến tại VN, trước Đại Hội Đảng, tác giả có viết một bài, nhan đề: "Thử bàn về giả thiết một cuộc chính biến tại VN, đâu là những yếu tố có thể giúp cho cuộc chính biến thành công?". Cuộc chính biến đã không xảy ra trước Đại Hội, vì người có khả năng làm chuyện đó là NTD đã không làm, nhưng các ý kiến và yếu tố thành công của một cuộc chính biến tại VN vẫn còn giá trị để tham khảo cho tương lai. Tác giả viết lại những chi tiết quan trọng sau đây, để qúy độc giả và những người quan tâm có thể thấy rõ vấn đề, nhất là một cuộc đứng lên của toàn dân sẽ cực kỳ cần thiết để cứu nước, trong những ngày sắp tới, mà địa chính trị toàn vùng có thể thay đổi sau Đại Hội XII Đảng CSVN, do Tàu thực hiện chính sách thu tóm Biển Đông và VN vào tay Đại Hán.

VI. DỰ ĐOÁN: CHỐNG ĐỐI HẾT SỨC LỚN LAO DO VIỆC NPT THI HÀNH CHÍNH SÁCH CỦA TẬP CẬN BÌNH ĐỂ CHO BẮC KINH THU TÓM BIỂN ĐÔNG VÀ TIẾN TỚI SÁP NHẬP VN VÀO TÀU
Không khó khăn để thấy NPT đang thi hành chính sách của Tập Cận Bình qua Đại Hội XII loại phe NTD và những kẻ nghiêng về phiá Tây Phương như Nguyễn Thiện Nhân, tức loại ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi VN và vùng Biển Đông, để Tàu độc chiếm Biển Đông và sau đó là thu tóm luôn VN vào tay Đại Hán, hiện thực giấc mộng hàng nghìn năm nay của Tàu đối với đất nước VN là VN phải trở thành một bộ phận của Tàu bất cứ giá nào.

Tại Hải Ngoại, tình báo Tàu từ lâu dùng mọi cách để triệt hạ những người yêu nước VN có tâm nguyện chống lại mưu đồ Đại Hán muốn nuốt Biển Đông và VN. Cách mà tình báo hải ngoại của Tàu dùng để triệt hạ những nhà yêu nước VN rất bẩn thỉu, không được như người ta thường mô tả là "đánh dưới thắt lưng", mà là "đánh dưới háng", nghiã là bất cứ trò bẩn thỉu nào, dù là bịa đặt hay dựng chuyện, để có thể hạ gục những nhà yêu nước, mà sau này sẽ đứng lên chống lại Tàu, khi kế hoạch nuốt trọn Biển Đông và VN của chúng được thi hành; mà tên chó săn thi hành chính sách đó chẳng ai khác hiện nay chính là NPT và phe nhóm . Người ta từng chứng kiến việc hai "bao cao su" được dùng làm chứng cớ để bắt bớ và kết tội Cù Huy Hà Vũ, nhưng đối với tình báo Tàu thì chúng còn hơn thế nữa: dựng chuyện, vu khống và hành xử bất cứ cách nào bẩn thỉu để hạ gục đối phương. Tình báo nước nào cũng đều mưu mô, thủ đoạn, và lọc lừa để tranh thắng đối phương; nhưng tình báo Tàu thì đặc biệt là "bẩn thỉu", mà tình báo các nước có trình độ, khó có thể ra tay làm như vậy, tức là chuyên "đánh dưới háng" mọi đối tượng cần được triệt hạ. Bởi vậy các nhà ái quốc VN mang tâm nguyện chống Tàu ở Hải Ngoại cần phải lư u ýù đến các trò quá ư là bẩn thỉu của tình báo Tàu, mà những người đã từng bị chúng tập trung đánh phá, đã có kinh nghiệm.




Từ Đại Hội XII trở đi, cho đến khi NPT và phe nhóm tay sai của Tàu đã làm những điều để cho phép Tàu nuốt trọn Biển Đông và thu tóm VN, thế nào cũng có các nhà ái quốc đứng lên xiển dương ý nghiã của "PHONG TRÀO LỮ GIA DIỆT CÙ THỊ" (xin xem thêm bài của tác giả Thành Tôn về "Phong Trào Lữ Gia diệt Cù Thị" trong số báo kỳ này). Chính biến tại VN thế nào cũng sẽ xảy ra, chứ Dân Tộc VN không chấp nhận DÂNG BIỂN ĐÔNG và BÁN NƯỚC VN CHO TÀU. Chúng tôi tin rằng trong Đảng CSVN sẽ có những người không chấp nhận mất VN và sẽ đứng lên. Hiện giờ, đã có Chiến Sĩ TRẦN ANH KIM đứng lên thành lập LỰC LƯỢNG QUỐC DÂN DỰNG CỜ DÂN CHỦ; nhưng với Đại Hội XII và sự phân liệt trong hàng ngũ CS sau khi NTD bị loại, chắc chắn sẽ có những tập hợp của các phe phái không đồng ý với NPT và phe nhóm tay sai Bắc Kinh để kết nối với các lực lượng của người Việt hải ngoại, nhằm thay đổi tình hình đất nước. PHONG TRÀO LỮ GIA DIỆT CÙ THỊ trong nước và sự hình thành các lực lượng yêu nước (các "tổ chức mới, công cụ mới" như Bùi Tín gọi) sẽ phát triển hơn bao giờ hết.

Chính biến sẽ xảy ra (một thời cơ thực chất cho chính biến này trước Đại Hội Đảng đã không thành sự thật bởi sự không quyết đoán của NTD) khi phong trào chống lại NPT và phe nhóm (đang tiến hành các biện pháp giúp TC thu tóm Biển Đông và sáp nhập VN vào Tàu) bùng lên. Tình hình địa chính trị vùng Biển Đông và ĐNA sẽ có những thay đổi lớn trong những ngày sắp tới do tham vọng bành trướng của Bắc Kinh và do đám Thái Thú tay sai Bắc Kinh tại VN thi hành (xin nhắc lại Ngoại Trưởng Mỹ John Kerry đi Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình và Vương Nghị ngay khi Đại Hội XII kết thúc ngày 27-1-2016 là nhằm vào việc đó). Nhân dân VN cần phải chuẩn bị cật lực cho một cuộc đứng dậy hoặc chính biến trong tương lai do chính nhân dân chủ động để chận đứng bọn Thái Thú Bắc Kinh bán đứng Biển Đông và VN cho Tàu. (NBL)

No comments:

Post a Comment