Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 26 October 2016

NGUYỄN NGỌC BÍCH - VIỆT CỘNG -NỀN GIÁO DỤC MIỀN NAM


TIN BUỒN


GS Nguyễn Ngọc Bích, Giám Đốc đầu tiên của Ban Việt ngữ RFA từ trần, hưởng thọ 79 tuổi

Nguyễn Khanh, RFA
2016-03-03
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Bich-RFA-622.jpg
GS Nguyễn Ngọc Bích tại buổi tiệc kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Đài Á Châu Tự Do.
RFA

Tôi là Nguyễn Khanh của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do. Thưa quý vị, trong nỗi đau buồn, chúng tôi xin được báo tin Ông Nguyễn Ngọc Bích, vị Giám Đốc đầu tiên và đáng kính của anh chị em Ban Việt Ngữ chúng tôi vừa từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Ông mất trên đường từ Washington D.C. đến Manila để tham dự một hội nghị về Biển Đông.
Với mọi người, Ông là một học giả, một người hăng say làm việc, sẵn sàng tham gia mọi sinh hoạt, sẵn lòng gánh vác những việc nặng nhọc nhất. Với anh chị em chúng tôi, ông là một người thầy, một người anh và là một người bạn rất chân tình. Vì thế, không ai ngạc nhiên khi ngay sau khi được báo tin Ông mất, những người bạn và những người biết Ông đều sửng sốt, có người bảo với anh em chúng tôi rằng con người đáng quý nhất trên cõi đời này không còn nữa.
Trong suốt thời gian cả chục năm trời giữ vai trò của người điều hành Ban Việt Ngữ, điều tất cả chúng tôi đều nhìn thấy và không bao giờ quên là hình ảnh một Sếp Bích bắt đầu ngày làm việc với nụ cười, và kết thúc ngày làm việc cũng bằng một nụ cười. Vì thế, bài học lớn nhất mà Ông để lại cho chúng tôi là bài học bao dung, tha thứ, không bao giờ giận hờn ai, xem tất cả mọi chuyện đều quá nhỏ, chỉ có tình anh em, gia đình mới là điều đáng phải quan tâm.
Đó cũng chính là ước nguyện của ông ngay từ ngày đầu tiên khi bước vào nhận trách nhiệm xây dựng đại gia đình Ban Việt Ngữ, chăm sóc chương trình phát thanh hàng ngày từ khi chương trình còn là một đứa bé nằm nôi, cho đến ngày nhìn thấy đứa bé thật sự trưởng thành, và gia đình Ban Việt Ngữ mà ông đã bỏ nhiều công sức để gầy dựng ngày một lớn hơn, vững mạnh hơn và biết thương yêu nhau hơn, đúng như ý ông mong muốn trước ngày chia tay với chúng tôi để về nghỉ hưu.
Một lần nữa, trong nỗi đau buồn, toàn Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do chúng tôi xin được thông báo cùng quý vị: Ông Nguyễn Ngọc Bích, vị Giám Đốc đầu tiên và đáng kính của chúng tôi vừa từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. Ở đây, anh chị em chúng tôi xin cúi đầu chia tay với sếp Bích, thầy Bích, anh Bích, cùng nhau xin thắp nén hương tiếc thương một người sếp, một người thầy và một ông anh mà chúng tôi may mắn được gặp, được làm việc chung, và không bao giờ có thể quên.
Tiểu sử GS Nguyễn Ngọc Bích
Sinh năm 1937 tại Hà Nội, lớn lên tại Sài Gòn, năm 1954 ông Nguyễn Ngọc Bích sang Mỹ du học theo chương trình học bổng Fulbright, tốt nghiệp ngành khoa học chính trị tại Đại học Princeton University năm 1958.
Sau biến cố 30/4/1975, ông cùng gia đình rời Việt Nam sang Mỹ, và định cư tại tiểu bang Virginia.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từng có thời gian giảng dạy tại các đại học George Mason (1979-89), Trinity College (1979-81) và Georgetown University (1980-86). Ông được Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush (Bush cha) chỉ định vào chức Quyền Tổng giám đốc Giáo dục Song ngữ trên toàn quốc (1991-93).
Ông là Giám đốc đầu tiên của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do RFA từ ngày thành lập cho đến lúc về hưu năm 2003.
Ngoài dạy học và làm truyền thông, ông Bích cũng còn là một nhà biên khảo và dịch-giả có uy tín về văn thơ VN. Trong những sách nổi tiếng của ông phải kể: A Thousand Years of Vietnamese Poetry (“Một nghìn năm thi ca VN,” Knopf, 1975), A Mother’s Lullaby (dịch Trường Ca Lời Mẹ Ru của Trương Anh Thuỵ, Cành Nam, 1989), War & Exile: A Vietnamese Anthology (“Chiến-tranh và Lưu Đày: Tuyển-tập văn-học hiện-đại của VN,” Văn-bút Miền Đông, 1989), dịch thơ Nguyễn Chí Thiện (Ngục Ca / Prison Songs, VICANA, 1982; Hoa Địa Ngục / The Flowers of Hell và Hạt Máu Thơ / Blood Seeds Become Poetry, cả hai do Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ xb, 1996), và Cung Oán Ngâm Khúc / Complaints of an Odalisque, dịch thơ Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2006).
GS Nguyễn Ngọc Bích đã có công trong việc việc hiệu đính thơ Hồ Xuân Hương: Tác-phẩm (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2000), ông cũng đã dịch hai cuốn sách về mỹ-thuật VN, Vietnamese Architecture (Sứ-quán VNCH tại Mỹ, 1972) và An Ocean Apart: Contemporary Vietnamese Art from the United States and Vietnam (“Nghìn Trùng Xa Cách,” Smithsonian, 1995) cũng như giới-thiệu thơ Ba-tư trong cuốn Omar Khayyam: Thơ và Đời (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2002). 

CÁNH CÒ * CHÉM, CHỌI

Chém, chọi, cướp và thề.

Mỗi năm có ba chữ C to đùng vào những ngày tháng Giêng, khi người Việt vẫn mang nặng tâm lý là tháng ăn chơi, tháng lễ hội và cờ bạc mà trong những trò ăn chơi ấy lộ rõ tính cách người Việt, hay ít ra một bộ phận rất lớn người Việt một cách thảm hại.
Chém. Tại sao vẫn còn lễ tục dã man này trong xã hội văn minh khi nhà nước vẫn một hai cho rằng cả nước đang hòa mình vào thế giới phẳng, nơi mà cuộc sống của từng người bên này bán cầu cũng được nhín ngắm, sờ mó, thậm chí rình rập của người khác ở phía bên kia.
Chém lợn ở làng Ném Thượng năm nay xem ra thiếu ầm ỉ, đám rước ông “lợn” lèo tèo vài trăm người với hình bác to đùng đi trước. Vài người theo sau với lộng, cán, trống cùng với phướn và ông lợn nằm trên xe cây coi bộ buồn rầu ủ rũ lạ. Lễ hội chém lợn được đông đảo người trẻ tham gia, không biết nếu có dịp ra nước ngoài du học các em trả lời sao khi bạn bè ngoại quốc hỏi các em  nghĩ sao về hình ảnh dã man này?
Bên cạnh lễ hội phanh thây lợn của làng Ném Thượng Bắc Ninh thì người dân Đồ Sơn Hải Phòng lại có nguồn vui chọi trâu không kém phần dữ tợn. Con vật giúp người nông dân ngoài đồng, hiền lành chăm chỉ với công việc ngàn năm trên mảnh ruộng Việt Nam bị đem ra giết nhau với đồng loại. Biết ơn trâu cày người ta cho hai con chọi với nhau, kết quả cả hai lăn đùng ra chết!
Không biết cộng đồng nông nghiệp miền Bắc khi thấy người bạn cày của mình ngã xuống với sự hả hê gần như tàn bạo của con người thì những khán giả đa số là nông dân chung quanh sẽ nghĩ sao?
Chọi trâu không có ở miền nam vì trên những thửa ruộng cò bay thẳng cánh ấy hình như người nam bộ ý thức được rằng “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mặc dù đó chỉ là một con trâu, một sinh vật chỉ biết vẫy đuôi khi người ta vuốt ve nó. Trong cái vẫy đuôi ấy người miền nam lại thấy mối tương quan giữa người với trâu trong khi người miền bắc không thấy như thế.
Đó là trâu với người, còn người với người thì sao?
Họ không chém, không chọi nhưng họ cướp.
Chữ C, cướp, thứ ba hình thành từ vài năm gần đây khi các lễ hội giữa người với người rộ lên và người ta chăm chăm nhìn vào vật được tuyên truyển quảng bá là có sức mạnh thay đổi cuộc đời người cướp dược nó. Thứ nhất là “phết” và kế đó là “lộc” Hai vật vô tri bỗng dưng lấp lánh và linh thiêng như thánh, có khả năng làm hàng chục ngàn trai tráng nhào vào tranh cướp, đạp lên nhau không khoan nhượng, giật được nhưng không thể thoát ra khỏi cái đám đông cuồng si ấy….Phết, lộc sau đó không biết về tay ai nhưng bao năm qua không một cán bộ cao cấp nào công khai rằng mình cướp được nó, kể cả ông Bộ trưởng bộ Văn hóa thông tin du lịch, người cổ vũ cho những trò cướp giật này hàng năm để thu hút du lịch.
Hãy cùng báo chí quan sát lễ khai ấn năm nay sẽ thấy, sự nhếch nhác, vô trật tự, bất lực của cơ quan chức năng mặc dù đã gửi hàng ngàn cảnh sát cơ động và dân phòng tới giữ trật tự.
Ngay cổng vào đền, người có vé đại biểu, tức những quan chức có máu mặt, chen lấn vào cửa trước khi những người không phải là đại biểu tràn vào. Hàng ngàn đại biểu như thế nói lên điều gì? Họ tới nơi đây để tuyên dương nền văn hóa cổ của Việt Nam hay kéo nhau tới để hy vọng vào bổng lộc mà triều đình XII sẽ ban phát cho họ?
Thanh niên trai tráng đa số khỏe và lực lưỡng chừng như chỉ chờ hai ngày giật phết và cướp lộc để chứng tỏ cơ bắp của mình. Phía sau đó là ước muốn nóng rực một chức quan mà thánh thần sẽ ban cho không cần tài năng hay trí tuệ. Tâm lý nông nghiệp và lạc hậu này lại được chính nhà nước cổ vũ, tuyên truyền thì thật là lạ! Người thì bảo đó là kế sách ngu dân để trị, kẻ khác lại cho rằng văn hóa truyền thống cần được duy trì chẳng qua dân trí thấp nên nét đẹp của lễ hội bị biến tướng…
Ôi không lẽ tới thế kỷ 21 dân trí của nước ta mới thấp, còn những năm tháng trong chiến tranh trước đây lễ hội vẫn có vẫn đông sao không xảy ra những điều khó coi như vậy?
Hãy nhìn hàng ngàn đại biểu có vé vào cửa đền Trần hẵng nói. Đây là quan trí rõ ràng khi kéo nhau đi xin lộc cho ước muốn thăng quan tiến chức. Người dân chẳng qua là đám ăn theo, chút hy vọng cỏn con vì đã biết chốn ấy không thể là chỗ của mình.
Văn hóa lễ hội miền Bắc không kém và thấp lè tè như biểu hiện như chúng ta thấy bởi bên cạnh những buổi lễ đầy tính chất cướp biển ấy là một lễ hội mà không ông quan nào muốn tham gia như lễ hội đền Trần dù nó đậm chất nhân văn hơn bất cứ lễ hội nào, nó có cái tên rất đẹp: Lễ Minh thề.
Từ sau năm 2003 lễ hội này được phục dựng lại và mỗi năm vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch tại thôn Hoa Liễu xã Thuận Thiên huyện Kiến Thụy, Hải Phòng dân làng tập trung lại trong một không khí trang nghiêm và nhất cử nhất động đều theo đúng những gì mà cả làng đã làm từ nhiều chục năm về trước. Tâm điểm của lễ hội minh thề này là từ quan chí dân tham dự sẽ trực tiếp nói lên lời thề với đất trời tiên tổ những điều tốt nhắm tới xã hội, nhân quần và cho chính bản thân mình. Lời thề được đọc lên trước các anh linh và có nội dung như sau:
“Ai dùng của công dùng vào việc công xin thần linh ủng hộ; ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử; làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt".
Sau khi nghe lời thề, người dân tham dự sẽ cùng hô to hai lần : “y như miệng thề” để tỏ quyết tâm giữ lời thề do bô lão đọc lên, và như vậy là gần như toàn cái thôn nhỏ bé ấy không chừa một ai. Lễ hội tuy có hình thức thần linh nhưng tính nhân văn của nó không thể bàn cãi nhiều hơn, nó nói lên mục đích làm cho guồng máy xã hội tiến dần tới đạo đức làm người và uốn nắn quan chức trở về với lương tâm và bổn phận.
Tiếc một điều từ khi lễ hội được phục dựng lại đôi khi quan chức có tới dự nhưng hầu hết với tư cách “tham quan, chứng kiến” không ai cùng hô to câu “y như miệng thề” như dân chúng trong vùng.
Báo chí cũng nói, năm nay lễ hội Minh thề tại Hải phòng vắng khách! Thật là một cái tựa nhiều ẩn dụ.
Quan chức không về và nhất là không dám mở miệng thề vì dù sao trong thâm tâm họ, trời đất thánh thần là có thật, việc tham ô nhũng lạm của họ cũng là có thật vì vậy nếu thần thánh thi hành lời thề thì mạng sống của họ sẽ ra sao?
Thay vì chạy tới Hải Phòng họ lái những chiếc công xa sang trọng trực chỉ thành phố Nam Định để tham gia việc khai ấn đển Trần. Trách họ làm chi, có trách là trách Đức Thánh Trần vì ngài không làm phép để kẻ nào bất chính bước vào đền của ngài sẽ thổ máu tươi mà chết trước khi cướp lộc.

VIETTUSAIGON * CHUYỆN ĐẦU NAM

Chuyện đầu năm xứ Việt, ai vô văn hóa hơn ai?

Đầu năm, bắt đầu từ mồng Một tháng Giêng, câu chuyện đầu năm xứ Việt có vẻ như không giống xứ nào bởi có quá nhiều chuyện để kể và càng kể càng thấy sợ. Từ chuyện các lễ hội cho đến chuyện đi chùa xem bói, đi chùa xin lộc, đến đền miếu vay vốn cõi âm rồi ngày thơ Việt Nam, dâng bánh chưng nặng vài tạ cho mẹ bác Hồ… Kính thưa các loại lễ. Đó là chưa muốn nói đến số lượng người chết, bị thương vì đi chơi Tết, gặp tai nạn xe, đánh nhau, cướp lộc, tranh lộc, đâm chém nhau vì lộc… Dường như chuyện nào cũng nổi cộm.
Từ thị trường lộc đầu năm béo bở
Chỉ riêng chuyện đánh nhau và tai nạn, con số đã lên đến vài vạn, môt con số kinh đầu Bác! (nói theo cách của người miền Bắc), miền Nam gọi là con số kinh đầu gà! Đó là chuyện tai nạn, đánh nhau, chặt chém, chuyện mà nhà nước xem là vô văn hóa, là nằm ngoài khả năng quản lý của họ, họ đang cố gắng khắc phục và chấn chỉnh. Còn chuyện lễ hội, chuyện tranh ấn, cướp lộc, chà đạp lên nhau thì sao?
Phải nói rõ rằng đây là những lễ hội do nhà nước tổ chức. Nếu không có nhà nước đứng ra tổ chức thì không có đền miếu, ông từ hay ông thầy nào dám đứng ra tổ chức một lễ hội to lớn như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên hay vô tư mà các đài truyền hình nhà nước đưa tin, loan tải những hình ảnh tranh ấn, cướp lộc. Nói cách khác, đây là một kiểu PR cho lễ hội mà nhìn bề ngoài khó thấy được. Mọi năm, lễ hội chỉ có những người nông dân xứ Bắc tranh lộc, giành giật nhau một cách vui vẻ, không đến mức đổ máu, ngất xỉu như hai năm trở lại đây. Vì sao?
Vì cách đây năm năm, các đài truyền hình đã đưa hình ảnh tranh giành, cướp lộc một cách hồ hởi, vui vẻ của người nông dân miền Bắc. Và điều này gây tò mò cho những nhà giàu miền Nam. Đương nhiên những người giàu họ không có thời gian, sự liều lĩnh cũng như sức khỏe để xông vào cướp lộc mà họ chỉ mua lại lộc của người đã cướp được. Ví dụ như lộc hoa tre ở Đền Gióng chẳng hạn, giá sẽ dao động từ vài trăm triệu đồng đến một tỉ đồng. Tương đương với vài chục ngàn đến năm chục ngàn đô la Mỹ. Một con số có thể kích thích cho các băng nhóm, các tổ chức xã hội đen vào cuộc để giành lấy.
Trước lễ phát lộc một ngày, giới nhà giàu cả Bắc lẫn Nam có một cuộc đấu giá bên ngoài đền, họ làm rất có tổ chức, ngồi đấu giá hẳn hoi, có giá sàn, giá trần. Giá sàn lộc hoa tre của lễ hội đền Gióng năm nay là một trăm triệu đồng, và mức đấu cuối cùng là bốn trăm bảy chục triệu đồng, sau năm lần bảy lượt mua qua bán lại, giá cuối là một tỉ một trăm triệu đồng, rơi vào một tay nhà giàu người Bình Dương.
Thường những tay nhà giàu rất tin vào lộc và phép ở các lễ hội miền Bắc. Kể cả giới nghệ sĩ, ví dụ như Hoài Linh và Xuân Hinh, hai nghệ sĩ này thường đến các các đền ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai… để hầu đồng và hát chầu văn.
Riêng Hoài Linh có cả một CD anh ngồi đồng và cậu nhập vào anhh để hát múa, cho lộc, CD này bán khá nhiều ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội. Nhưng trong giới đi đền miếu phía Bắc kháo nhau rằng Hoài Linh ngồi đồng xấu hơn Xuân Hinh và cho lộc cũng không linh nghiệm bằng Xuân Hinh ngồi đồng. Nhưng đó chỉ là những chuyện ngoài lề, vấn đề vẫn là cướp lộc.
Một khi lộc ở đền miếu được biến thành một sản phẩm có giá hời, trong đó có cả những quan chức đứng sau những “đại gia” mua lộc thì câu chuyện sẽ còn đi xa nữa. Bởi tay mua lộc hoa tre người Bình Dương mua lộc một tỉ một trăm triệu đồng không phải để mang về nhà mà để mang đến biếu cho một anh cả đang công tác trong trung ương đảng. Đương nhiên không có cách đầu tư và lót tay nào chắc và khôn hơn cách lót tay này. Vài chục tỉ lót tay cho anh cả cũng chỉ là cái phong bì. Nhưng một tỉ mốt trầy vi tróc vảy để có được lộc hoa tre mang về cho anh cả thì còn gì hơn!
Và cũng theo thông tin của giới giang hồ phía Bắc, hai năm nay họ tổ chức được những đội chuyên đi tranh lộc, cướp lộc để bán. Những nông dân không bao giờ vào tranh được lộc và nếu có tranh được chăng nữa cũng sẽ bị cướp trên đường về. Lộc chỉ rơi vào tay các quan và giới quyền lực, có nhiều tiền, lộc ở các đền miếu không bao giờ rơi vào tay dân nghèo. Điều này giống như một chân lý thời bây giờ.
Và chuyện tranh cướp lộc, giẫm đạp lên nhau, chém giết nhau vì cướp lộc chỉ dừng lại, chỉ chấm dứt khi nó không còn giá tiền tỉ. Hay nói cách khác, chuyện tranh lộc, cướp ấn sẽ không còn lộn xộn như hiện tại nếu các quan biết từ chối món quà cầu may đầu năm của đàn em tặng. Thị trường lộc cầu may ở các đền miếu trở nên lộn xộn và phức tạp bởi vì các quan quá tin vào lộc và đàn em sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua lộc tặng cho các quan. Một khi các quan cùng với đàn em trọc phú biến các lễ hội thành thị trường mua bán lộc đầu năm thì chuyện người ta giết nhau vì lộc vẫn có thể xảy ra.
Đài truyền hình nhà nước, trong thời điểm này đưa tin về chuyện cướp lộc và thả sức chê trách người dân vô ý thức là một chuyện hoàn toàn sai phạm với nhân dân. Bởi không có người dân nào sai trong chuyện cướp lộc, không những thế, người dân đi lễ với tâm thành kính bị ảnh hưởng không nhỏ do giẫm đạp cướp lộc. Nếu các đài trong nước còn một chút tự trọng thì phải tìm hiểu, điều tra tận gốc rễ vấn đề. Mà vấn đề dễ tìm nhất là thử điều tra các ấn, lộc, hoa tre, tú cầu may… trong ba năm nay đang nằm trên bàn thờ gia đình nào. Kết quả điều tra này sẽ nói lên tất cả!
Đến cúng nhương sao và ngày thơ Việt Nam
Nếu như chuyện mua bán lộc đầu năm béo bở chừng nào thì chuyện nhương sao và ngày thơ Việt Nam cũng béo bở không kém phần. Bởi theo qui luật, người ta gây bao nhiêu tội thì sợ bấy nhiêu, tham nhũng, hối lộ, đút lót càng nhiều thì lễ nhương sao, cầu an càng đắt đỏ bấy nhiêu. Khi cả một xã hội nháo nhào lên vì lòng tham thì cái xã hội đó cũng cuống cuồng lo sợ tội lỗi. Chính vì vậy những ngày tháng Giêng là ngày hốt bạc ở các chùa chiền, đền miếu nhờ vào lễ nhương sao, cầu siêu…
Nhưng còn ngày thơ Việt Nam thì liên quan gì đến lộc? Có đó, đây là ngày mà những ban bệ tổ chức (gồm các nhà văn, nhà thơ quốc doanh) hốt bạc. Họ hốt ở cả hai phía, từ tiền tổ chức đến thành phần tham gia, tham dự. Về phía tiền tổ chức, một đêm thơ nguyên tiêu cấp huyện tốn ít nhất ba trăm triệu đồng, cao nhất chừng một tỉ đồng. Tiền chuẩn của nhà nước rót là ba trăm triệu, tiền mạnh thường quân cho thêm thì không biết được. Ban tổ chức thả sức chi tiêu và ghi hóa đơn.
Về phía người tham gia, hầu hết những đêm nguyên tiêu đều là đêm thăng hoa của các nhà thơ hưu trí. Họ làm thơ Đường, thơ lục bát, vè lục bát và kính thưa các loại ò e í e vần vèo. Nếu xét về mặt nghệ thuật thì không có gì nhưng họ lại được lăng xê hết mức như những nghệ sĩ lớn trong đêm nguyên tiêu. Và, phía ban tổ chức đã có sẵn những tham luận về thơ của mấy vị hưu trí. Họ viết phê bình, tham luận, bình luận để đọc trước khi vị nhà thơ hưu trí lên đọc thơ.
Và để được như vậy, các nhà thơ hưu trí đã có một cuộc chạy đua ngấm ngầm trước đó, từ tháng Chạp, họ đã quà cáp, biếu xén, lót tay ban tổ chức. Thậm chí có những vị hưu trí mạnh tiền sẵn sàng bỏ ra vài trăm triệu đồng để ban tổ chức mạnh tay làm riêng cho mình một đêm thơ nguyên tiêu.
Xét trên khía cạnh này, ngày nhà thơ cũng là một ngày cầu lộc, cầu siêu. Nếu như việc đọc thơ của các nhà thơ hưu trí là một cái lộc cho ban tổ chức thì đêm thơ nguyên tiêu lại là nơi cầu siêu, làm cho những bài thơ hưu trí được siêu thoát sau một năm mắc kẹt trong giấy bút của các vị. Và không chừng, tuy nghỉ hưu nhưng các vị vẫn còn đàn em, chân rết trong hệ thống nhà nước rất mạnh. Như vậy, nịnh những nhà thơ hưu trí cũng là cách để nhanh chân bước lên ghế cao của ban tổ chức nếu các nhà thơ hưu trí thấy đẹp lòng, chịu cúi xuống để gởi gắm, nhờ đàn em giúp đỡ cho “đứa cháu văn nghệ” đang công tác tại chỗ cơ quan A, B, C… nào đó!
Có thể nói rằng câu chuyện đầu năm ở Việt Nam là một câu chuyện hết sức lộn xộn và chợ búa. Mà sở dĩ nó trở nên lộn xộn và chợ búa như vậy là do hệ thống lãnh đạo đã không những tìm cách làm cho nó giảm đi mà còn nhúng tay vào để khuấy cho nó đục thêm. Nó đục đến cỡ nào thì phải hỏi chính các ông lãnh đạo. Và các ông lãnh đạo, các đài truyền hình nhà nước cũng nên thôi huênh hoang chê dân vô văn hóa. Chính các ông và hệ thống tuyên truyền, truyền thông của ông mới là những kẻ vô văn hóa đúng nghĩa!

 VietTuSaiGon's blog

NS TUẤN KHANH * TẬN THẾ

Tận thế, đến từ chúng ta


(Tranh: The end of the world, của họa sĩ Jose Gutierrez Solana)
Những năm gần đây, số lượng phim có đề tài về ngày tận thế của trái đất ngày càng nhiều. Đi xa hơn, là những kịch bản mô tả – như một cách nhằm hướng dẫn cách tồn tại – nơi một thế giới đã sụp đổ.

Trong Walking Dead, loạt phim truyền hình kéo dài nhiều năm về chủ đề thế giới đã tận cùng, loài người diệt vong, những vấn đề về đạo đức, nhân tâm… luôn được đặt ra rằng ở giai đoạn đã vào hỗn mang, con người có cần gìn giữ nhân tính của mình hay không, niềm tin và sự tốt đẹp có cần thiết không?

Giết người hay chấp nhận phải giết người, được coi là điều buộc phải làm khi cần thiết. Viên cảnh sát Rick đã phải chặt tay người phụ nữ mà anh yêu mến để bứt ra, tháo chạy khi cô ta (Jessie – Season 6) bị đám đông zombie vây chặt.

Nhẫn tâm để tồn tại, để được, bất chấp lý lẽ là điều phải chọn lựa dứt khoát và nhanh chóng mà trong hầu hết các bộ phim có chủ đề như vậy trong The 100, Z for Zachariah, The Survivalist…

Nếu tận thế là điều có thật, có đúng là chúng ta sẽ phải chứng kiến những nghịch cảnh đó? Chúng ta phải chấp nhận nhìn thấy sự sụp đổ của các nền pháp trị bằng bản năng thú tính, chấp nhận lọc lừa và quy lệ mới phục vụ cho bóng tối và sinh tồn bầy đàn?

Đó quả là câu hỏi mà thế giới đặt ra qua các phương tiện nghệ thuật. Và nếu bước qua giai đoạn diệt vong đó, liệu loài người có khả năng hồi phục được nhân tính và nền văn minh của mình không?

Những câu chuyện phiếm điện ảnh có lẽ còn phải bàn hàng giờ, cùng với trí tưởng tượng hết sức tự do, viễn mộng. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày hôm nay, “tận thế” có thể được nhìn thấy bằng những câu chuyện ngang trái, giày xéo lên lẽ phải mà vẫn tồn tại một cách ung dung.

“Tận thế” có thể nhìn thấy qua những đứa bé Syria theo đạo Công giáo bị ISIS thiêu sống và chặt đầu. Vùng đất linh thiêng ở Ấn Độ tràn ngập tội phạm hãm hiếp bởi không còn niềm tin vào tương lai, theo thuyết tận thế.

Đất nước tràn ngập tượng Phật và chùa chiền như Đài Loan thì không dám đón Phật sống Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, bởi sợ mua bán khó khăn với Trung Quốc.

Tận thế có nhiều hình dạng. Tận thế đến từ lúc con người tự hoại điều tốt đẹp nhất của mình. Tận thế đến khi chúng ta cố gắng gìn giữ sự tử tế trong mình nhưng hoàn toàn cảm thấy cô đơn và sợ hãi.

Ở một xã hội mà mọi giá trị bị đảo lộn, con người sẽ co cụm trong hang sâu của chính mình, không còn niềm tin vào bất cứ điều gì nữa. Một công an viên khi quay hình sếp của mình mở sòng bạc ngay tại trụ sở, tố cáo trên trang mạng thì sau đó bị săn đuổi và bị tuyên bố sẽ đưa ra khỏi ngành vì một tội vu vơ gì đó.

Trong khi những kẻ ăn tiền thuế của nhân dân và hủ bại rành rành thì được cấp trên doạ dẫm báo chí đưa tin, còn nói là phải tìm cho ra và đuổi khỏi ngành.

Những điều đó làm người dân Việt Nam ngẫm nghĩ về động cơ thật sự của hàng loạt các vụ rượt đuổi trường gà, chiếu bạc địa phương… nóng bỏng đến mất mạng người có mặt tại hiện trường mà dân đen không ai dám kêu la.

Từ năm 2013 –2015, ông Tô Minh Vương, giáo viên trường tiểu học Phú Long (xã Phú Long, Phú Tân, An Giang) sau khi cung cấp bằng chứng cho đồng nghiệp để tố cáo sai phạm ở trường, đã bị khai trừ Đảng và buộc thôi việc.

An Giang là một tỉnh rất nhiều học sinh nghèo, ông Vương không chịu nổi tình trạng nhà trường mượn cớ tổ chức lớp bồi dưỡng, ép học sinh đóng tiền nên lên tiếng.
Cả một hệ thống nhà trường cho đến Đảng uỷ bức ép ông Vương mọi điều, cho đến khi bị công luận soi chiếu. Mà chống tham nhũng thì đó là mệnh lệnh, kêu gọi của tổ chức Đảng mà ông Vương tham gia.

Mới đây, phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng có giới thiệu trường hợp bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết đã bị tạm giam tới 800 ngày, nhưng cho tới giờ viện KSND TPHCM không tìm được chứng cứ buộc tội. Nhưng dù không buộc tội gì, cơ quan này vẫn không trả tự do cho bà, cứ giam để đó.

Phó viện trưởng viện KSND Dương Ngọc Hải được động viên là hãy “dũng cảm” đình chỉ vụ án. Quả thật là một loại “dũng cảm” chỉ có trong điện ảnh ngày tận thế.

Đã hơn ba năm rưỡi kêu oan cho con, đôi vợ chồng già Hoàng Xuân Tiến, ở Nghệ An, nhớ lại như in chuyện họ đột nhiên đón tiếp hai chiến sĩ công an ở thành phố Vinh và huyện Nghi Lộc đến nhà, mang theo lời đề nghị nộp 25 triệu thì con trai của họ sẽ được trả tự do.

Anh Hoàng Trưng, con trai của hai người đột nhiên bị kết án cướp giật rồi công an đến nhà gạ đổi tiền lấy mạng. Nếu có một kịch bản mới về “tận thế”, người ta có thể viết về công lý bị chà đạp. Bất an chủ đích như trái bom nguyên tử có thể ập xuống duy một mái nhà, chứ không cần là diệt vong cả thế giới.

Đôi khi, chúng ta đọc những câu chuyện như vậy, nhưng lại chỉ có thể cảm thấy sự nhạt nhẽo và tầm thường của từng câu chuyện. “Chỉ là một vài câu chuyện oan ức bình thường trong xã hội mà?”, rõ là có ai đó sẽ nói như vậy.

Những bản tin, những điều ngang trái ngày một nhiều hơn, trôi qua nhanh hơn và khiến chúng ta cũng mệt mỏi và thờ ơ hơn khi tiếp nhận.

Những nỗi đau trong cuộc sống này đang co rút lại trong từng hang động nhỏ, lẩn khuất và không còn được chia sẻ nữa. Nó chỉ còn lưu lại trong ánh mắt thăm thẳm cam chịu hay giận dữ của ai đó, truyền đời. Nó lưu lại như trong lời kể thì thầm của người vừa sống sót qua bầy zombie.

Tất cả những chia sẻ của loài người thiếu niềm vui tương lai, mà chỉ là run rẩy nối kết với nhau với kinh nghiệm sinh tồn chưa bao giờ được dạy, chưa bao giờ được biết trong nhà trường hay trong một cuộc đời tử tế.

Nhưng bạn cũng có thể nhìn thấy chồng chất những mệt mỏi và thờ ơ mà chúng ta trải qua từng ngày, những cam chịu và lãng quên phận người chung quanh trong xã hội hôm nay, mặc cho lẽ phải bị giày vò, nhân tính bị hoán đổi… đó chính là những dữ liệu hấp dẫn cho những kịch bản đón chờ một loại ngày tận thế. Đôi khi không phải cho thế giới, mà dành cho chính bản thân chúng ta.

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

Công Chúa Giữa Rừng Lào


S.T.T.D  Tưởng Năng Tiến

Lào, dường như, là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không có nhật báo tiếng Hoa.
Patrick Boehler - New York Times
Cùng lúc với thời gian đồng tiền Đông Dương còn lưu hành ở Việt/ Miên/ Lào, chuyện (vui) sau đây cũng được lưu truyền quanh bàn nhậu:
Có một kỹ sư nông nghiệp của nước Pháp kết bạn với một ông nông dân Lào. Ông này hỏi ông kia:
  • Vậy chớ với ba mẫu đất này thì mỗi năm sản xuất được bao nhiêu tấn lúa?
  • Ba.
  • Sao ít xịt vậy, cha nội? Để tui bầy cho, canh tác theo đúng kỹ thuật thì hàng năm sẽ thu hoạch được chín tấn là giá chót.
Vài ba năm sau, họ lại có dịp hàn huyên:
  • Chớ năm rồi, thu được mấy tấn?
  • Ba.
  • Trời, bộ không làm theo phương pháp tui chỉ sao?
  • Làm đúng y chang vậy chớ nhưng bây giờ tui chỉ còn cầy cấy có một mẫu thôi.
  • Sao vậy ?
  • Ba tấn đủ sống rồi. Làm chi cho nhiều. Mệt.
     

    Người Lào, rõ ràng, không tha thiết gì lắm với chuyện làm ăn. Họ cũng chả bận tâm gì mấy tới việc dành dụm, hay tích lũy.
  • Những khẩu hiệu quen thuộc (“Một Người Làm Việc Bằng Hai/Làm Ngày Không Đủ Tranh Thủ Làm Đêm Làm Thêm Giờ Nghỉ”) ở nước CHXCNVN – chắc chắn – không cách chi lọt được vào tai của dân xứ Lào. Hổng tin, thử ghé qua thủ đô Vạn Tượng coi chơi (vài bữa, hay vài tuần) cho biết.
    Ở đây, du khách có thể thưởng thức hương vị thức ăn của rất nhiều chủng tộc (Hương Việt Vietnamese Food, Parisien Cafe, Kiku Japanese Restaurant, Korean BBQ, Indian Buffet, Ban Mai Restaurant, Antica Spaghetteria Italiana, Salana International Cuisines, Best Thai Restaurant, Quán Ăn Sài Gòn, Scandinavian Bakery) duy chỉ có nhà hàng của dân bản xứ là tìm hoài không thấy!                                                                  
    Ảnh chụp năm 2015
    Dân số ở thủ đô Vientiane ước chừng non triệu. Gần mười phần trăm là Việt Nam, nếu tính luôn số sinh trưởng tại Lào – thường được gọi là người Việt cũ. Tuy thế, trên bất cứ con đường lớn/nhỏ nào ở Viêng cũng đều có những bảng hiệu (chỉ) ghi bằng Việt ngữ:
    Phở Bò Tái Chín, Cơm Rang Mì Xào Gia Truyền Nam Định, Quán Cơm Chị Gái, Cơm Tấm Bún Bò, Sài Gòn Bê Thui, Cháo Gà Đà Nẵng, Beauty Salon Khải Băng, Kim Dung Coffee, Sửa Chữa Xe Máy, Nhuộm Tóc Làm Móng Gội Đầu, Quán Thịt Dê, Bánh Mì Đặc Biệt, Hớt Tóc Nam Nữ ... Đó là chưa kể hàng trăm xe kem, xe trái cây, xe xôi chè, xe nước giải khát ... (cũng) của người Việt len lỏi khắp nơi.                                                                                        
    Ảnh chụp năm 2015
    Thiên hạ chăm chỉ làm ăn, và tận tình khai thác xứ sở của mình ra sao – dường như – cũng không phải là nỗi bận tâm của người Lào. Khoáng sản, lâm sản, đồn điền cà phê, cao xu ... họ cũng đều vui vẻ nhường hết cho bá tánh mặc tình thao túng.
    Dân của đất nước Triệu Voi hoàn toàn hờ hững trong việc mưu sinh, và rất trầm tĩnh khi lưu hành trên đường phố. Tôi thề có trời là không hề thấy một anh cảnh sát, và cũng không hề nghe một tiếng kèn xe nào ráo, trong suốt hai tuần lễ ở Viêng Chăn. Một khuôn mặt giận dữ, hay một nét mặt nhăn nhó/cau có cũng không luôn.
    Trên những con đường ở ven đô – đôi lúc – tôi còn bắt gặp những người lái xe bình thản ngồi chờ vài con bò, đủng đỉnh qua đường, với ánh mắt cùng thái độ an nhiên của một triết nhân!
                                         
    Ảnh chụp năm 2015
    Cũng dọc theo những nẻo đường quê, loa phường được giăng đều đặn theo cột điện. Ngủ lại đây vài đêm, có sáng tôi nằm lắng nghe tiếng loa và vô cùng ngạc nhiên vì cái âm điệu khoan thai hiền hoà của những xướng ngôn viên. Hỏi ra mới biết hệ thống phát thanh này chỉ dùng để cho những nhà sư đọc kinh hay giảng kinh Phật vào những ngày rằm (và cũng là ngày nghỉ việc) thôi.
    Người Lào, kể cả đám cán bộ tuyên huấn Lào Cộng chắc vẫn còn giữ được phần nào bản tính chất phác nên không thể nói dối (xoen xoét) suốt ngày - như Việt Cộng. Thảo nào mà nhạc sĩ Tô Hải đã không tiếc lời khen: "Nước Lào rồi đây sẽ vượt VN về nhiều mặt… mà cái mình thấy họ vượt hơn hẳn là: Không muốn bẻ quẹo sự thật!"
    Cập rập, lật đật, hối hả, vội vã, hấp tấp, khẩn trương … là những hạn từ (dám) không có trong tự điển tiếng Lào. Nhiều người cứ ngỡ Chủ Nghĩa Marxism Leninism Bách Chiến Bách Thắng Vô Địch Muôn Năm đã trói chân được dân Lào; ai dè nó lại nằm (dài) giữa thủ đô Vạn Tượng – nơi mà phần lớn những lá cờ búa liềm của Đảng Cộng Sản Lào đều treo ủ rũ, và đều đã bạc hết mầu.                                                                                          
    Ảnh chụp năm 2015
    Chú dân phòng, ông công an khu vực, bà tổ trưởng dân phố, và những cuốn sổ hộ khẩu cũng không có mặt ở Viêng Chăn. Bởi thế, những người Việt tôi  gặp ở nơi đây đều không ngớt ca tụng phần đất này (“sống thoải mái hơn ở bên mình nhiều lắm”) dù phần lớn họ đều là những di dân không hợp pháp.
    Vientiane an bình thiệt. Thành phố này không có ăn xin,  không có trộm cắp, không có những căn nhà kín kẽ rào sắt (hoặc dầy đặc kẽm gai bao quanh khung cửa) như ở Phnom Penh. Cũng không dầy đặc xe cộ, cùng những toà nhà cao tầng như thủ đô Bangkok.
    Ký giả Ngọc Hoà ví von rằng : “ ... xứ sở Triệu Voi tựa như cô công chúa ngủ quên trong rừng vừa được đánh thức!” Tôi (trộm) nghĩ thêm rằng nàng hiện đang rất bối rối vì chợt mở mắt ra đã thấy có quá nhiều chàng trai đang xun xoe bên cạnh.
    Kẻ có ưu thế đến trước, chắc chắn, là cái anh người Pháp. Ở Thủ Đô Vạn Tượng vẫn còn thấy nhan nhản những bảng hiệu “Adam Tailleur,” “Boulangerie à Vientiane,” và luôn cả “Lycée Vientiane” nữa.
    Những cơ quan cấp bộ vẫn giữ nguyên tên của thời thuộc địa: MINISTÈRE DE L’ENERGIE ET DES MINES, MINISTÈRE DE LA JUSTICE, MINISTÈRE DE LA SANTÉ ... Riêng bộ Thông Tin, Văn Hoá & Du Lịch (lại) tỉnh queo "chơi" một hàng chữ tiếng Anh: MINISTRY OF  INFORMATION, CULTURE & TOURIST!                                       
    Ảnh chụp tháng năm 2015
    Ảnh hưởng của cả Pháp lẫn Anh - tuy thế - không rõ nét, cũng không sinh động, và quyến rũ bằng những chiếc xe xinh sắn với đủ loại sắc màu (Kia Soul, Hyundai Elanta, Toyota Camry, Honda Civic...) đang chạy quanh trên khắp mọi nẻo đường của Xứ Sở Triệu Voi. Hai chàng trai Nam Hàn và Nhật Bản, rõ ràng, đã để lại ấn tượng khó quên trong trái tim của cô công chúa vừa thức giấc.
                                                                                    
    Ảnh: NgyThanh

    Ảnh chụp năm 2015
    Ai cũng biết là rất nhiều tỷ Mỹ Kim, cùng hàng trăm ngàn người Trung Hoa đã “đổ” vào Lào trong hai thập niên qua. Tuy thế,  theo phóng viên thường trú của New York Times (tại Hồng Kông) Patrick Boehler: “ Lào, dường như, là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không có nhật báo tiếng Hoa.” (Laos, it seems, is the only Southeast Asian nation without a Chinese language daily newspaper.)
    Vẫn ví von mà nói thì nàng công chúa Lào, xem ra, chả mặn mà gì với cái gã Tầu già nua, thô lỗ và có quá nhiều tai tiếng (về tính đểu cán) này. Năm 2010, Viện Khổng Tử đầu tiên được thiết lập tại Trường Đại Học Quốc Gia Lào. Qua năm sau, tại đây lại khai giảng thêm lớp học tiếng Tầu – giảng dậy vào cuối tuần – do những giáo viên Trung Hoa phụ trách. Ban giảng huấn phát biểu:
    “Chúng tôi  hy vọng rằng họ có thể dùng cơ may này để mang tiếng Hoa vào chương trình trung học ở Viêng Chăn, và càng ngày sẽ càng có thêm học sinh cấp trung học hiểu được ngôn ngữ và văn hoá Trung Hoa.” (We hope that they can make use of this good chance to bring Chinese into the middle school in Vientiane, and more and more middle school students can understand Chinese language and Chinese cultures.)
    Niềm hy vọng này, ngó bộ, có hơi phi phỏng. Ngoài cái Viện Không Tử, và ngôi nhà vô cùng khiêm tốn dùng làm văn phòng của Hội Ái Hữu Người Hoa ở Vạn Tượng ra, tôi không thấy dấu vết “văn hoá” gì rõ nét của Trung Hoa ở đây cả. Bước ra khỏi khu phố này thì tiệm ăn Tầu cũng biến mất luôn. Thảo nào mà Patrick Boehler còn gọi khu phố Tầu ở thủ đô của Lào là một nơi trì trệ hay tù đọng (a stagnating Chinatown).
                                             
    Ảnh: patrickboehler
    Soft Power của Trung Cộng, nếu có, e cũng chả tác dụng chi nhiều ở xứ Lào. Khổng Tử (xem chừng) không đứng được giữa núi rừng thiên nhiên nơi mà phép tắc và lễ giáo hoàn toàn không cần thiết, nhất là cái thứ lễ giáo và đạo đức (chuyên nói một đằng làm một nẻo) của ... nền Văn Hoá Búa Liềm.
    Cái "tạng" của người Lào, rõ ràng, không hợp với loại công việc luôn nhễ nhại mồ hôi, cắm cúi suốt ngày vào chảo lửa, nấu nướng, bưng bê, và rửa chén cho thiên hạ. Họ ưa rảnh rỗi và chỉ thích những sinh hoạt tâm linh, chiêm bái, lễ lạc thôi.
    Nét nổi bật của Vientiane là những ngôi chùa u mặc và thần bí. Phải nhìn thấy thái độ hết sức nghiêm trang và thành khẩn của người Lào, khi cúng dường thực phẩm cho những vị sư đi khất thực, tôi mới “ngộ” ra tại sao chủ trương vô thần của người cộng sản không thể “trụ” được ở xứ sở của họ.

    Ảnh: NgyThanh
    Đã thế, hôm 31 tháng 1 vừa qua, nhà báo Lê Phan lại vừa ái ngại cho hay:
    "... Đảng Cộng Sản Lào đã có một quyết định làm Bắc Kinh choáng váng khi họ lật đổ toàn bộ hàng lãnh tụ thân Bắc Kinh và đưa một nhân vật vốn lâu nay bị gạt sang một bên chờ về hưu lên cầm quyền."
    Năm 2012, ngoại tưởng Hillary Rodham Clinton đã thực hiện một cuộc thăm viếng lịch sử ở Lào. Theo AP, năm nay (năm 2016) Obama sẽ là vị tổng thống Mỹ đầu tiên đến Lào trong chuyến công du Đông Nam Á.
    Lại thêm một chàng trai nữa đến từ Châu Mỹ. Công chúa Lào, hẳn nhiên, có thêm đối tượng để mà lựa chọn.
    Tôi không rành về bói toán và chính trị nên không thể đoán trước được hậu vận của nàng công chúa (vừa thức giấc) giữa rừng này. Chỉ cầu mong cô sẽ luôn luôn được an bình và gặp nhiều may mắn. Sự an bình và may mắn của đất nước Triệu Voi, chắc chắn, có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của hàng trăm ngàn đồng hương của tôi đang đang tha phương cầu thực nơi đây.                                                                       

TS. PHẠM CAO DƯƠNG * NỀN GIÁO DỤC MIỀN NAM

Nền Giáo Dục của miền Nam Việt Nam thời trước 1975
*Có bổ túc.
image060
Phạm Cao Dương
* Mười năm (2006-2016) suy nghĩ và viết lại: Liên Tục Lịch Sử, Một Đặc Tính Cơ Bản của Nền Giáo Dục của Miền Nam Việt Nam
Thời Trước Năm 1975
          Trước khi vào đề.-  
Bài này khởi sự được viết và được phổ biến năm 2006.  Tôi viết vì sự thôi thúc của bạn bè trước tình trạng phải nói là vô cùng tệ hại của nền giáo dục ở trong nước, phản ảnh qua các cơ quan truyền thông ở cả trong nước lẫn Hải Ngoại, nhất là các đài BBC của Anh hay RFI của Pháp.  Hai đài sau này mỗi độ tháng 5 hay tháng 6 dương lịch là tường thuật kể như hàng ngày với cảnh thể thảm khó tưởng tượng của các trường thi sau mỗi buổi thi và tình trạng đắt đỏ cùng nhu cầu đóng góp đến độ vô lý, vượt khỏi sức chịu dựng nổi cho giới phụ huynh khi  gửi các con em của mình đến trường.  Mọi người muốn tôi nhắc lại nền giáo dục của nước nhà thời xưa, đặc biệt là thời Việt Nam Cộng Hòa. Năm nay là năm 2016. Thấm thoát đã mười năm.  Thời gian trôi qua thật nhanh đến độ khủng khiếp.  Những người đã thúc đẩy tôi phần lớn đã vĩnh viễn ra đi.  Nhưng tình trạng thì vẫn thế cũng giống như trường hợp tôi viết về ước vọng của tôi qua bài “Viễn     Ảnh của Nước Việt Nam năm 2010”,  với cái mốc là năm 1010,  năm Lý Công Uẩn lên ngôi mở đầu cho không phải chỉ thời Lý-Trần mà còn cả thiên niên kỷ thứ hai trong lịch sử Dân Tộc Việt Nam như tôi viết trước đó.  Bây giờ thì những người đã thúc đẩy tôi phần lớn đã ra đi.  Tôi  quyết định viết lại bài nàyđể chia sẻ với bạn đọc vì mười năm trước tôi còn bỏ sót không nhắc tới một số nhân vật đã góp phần làm đẹp cho nền giáo dục của miền Nam mà không ai biết đến, vì hồi đó các vị này còn sống không muốn được người khác đề cao, cũng như một số chi tiết mà nhất thời tôi không để ý hay không nhớ ra hoặc trình bày chưa đủ rõ.
image062
Nhà Văn hóa Giáo dục Petrus Ký
            Một trong những đặc tính căn bản của sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói chung và văn hóa miền Nam nói riêng là sự liên tục lịch sử.  Nói như vậy không có nghĩa là trong thời gian này miền đất mà những người Quốc Gia còn giữ được không phải là không trải qua nhiều xáo trộn.  Chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ  những gì liên hệ tới chế độ, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn được tôn trọng. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục. Trong bài này tôi chỉ nói tới giáo dục và giáo dục công lập.  Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, đồng thời không đầy đủ. Một sự  nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.  Ở đây tôi xin được nêu lên năm đặc tính mà tôi gọi là cơ bản.  Năm đặc tính này là:
                        Thứ nhất:  Giáo dục là của những người làm giáo dục.
                        Thứ hai:  Tôn chỉ và mục đích nhằm hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống cũ.
                        Thứ ba:  Sự liên tục trong phạm vi nhân sự.
                        Thứ tư:  Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của chương trình Pháp và chương trình Hoàng Xuân Hãn thời năm 1945 và Phan Huy Quát sau đó,
                        Thứ năm:    Một Xã hội tôn trọng sự học và những người có học.
Thứ nhất: Giáo dục là của những người làm giáo dục
            Giáo dục công lập ở Việt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ nào đó định chế này đã tồn tại ít ra là trên dưới mười thế kỷ.  Mục đích của nó là để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học. Có điều coi  trọng thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói chung, chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp các làng xã ở trong nước do các thày đồ đảm nhiệm. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường tự do đảm trách với sự bảo trợ của các nhà khá giả ở trong làng hay trong vùng.  Cao hơn là các trường của các huấn đạo, giáo thụ, đốc học…Tất cả đều là những học quan.  Giáo dục do đó là của người dân, do người dân đóng góp và trực tiếp là của những người làm giáo dục. Nói cách khác, cho đến khi người Pháp sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả những học thuyết, nhửng nguyên tắc căn bản của giới này.
Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ, truyền bá và qua sứ mạng truyền bá  văn minh và văn hóa (mission civilisatrice) của họ, một sứ mạng người Pháp tự gán cho mình, họ đã lập ra một nền giáo dục mới, nền giáo dục Pháp-Việt, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là đã lựa chọn nghề dạy học làm sinh hoạt chính của mình, với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm thời về phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Chỉ cần mở các sách giáo khoa được soạn thảo, ấn hành và phổ biến trong thời gian này, người ta có thể thấy ngay vai trò của các nhà giáo Việt Nam là như thế nào. 
Cuối cùng khi người Mỹ đến Việt Nam, giáo dục đã trở thành một ngành học chuyên môn thay vì chỉ là giảng dạy.  Qua các chương trình viện trợ và du học, một từng lớp các nhà giáo dục mới đã được đào tạo từ các đại học Mỹ với các bằng cấp chuyên môn về giáo dục, từ cao học tới tiến sĩ, từ giáo dục nói chung đến, tâm lý, hành chánh, cố vấn và khải đạo… đã bắt đầu về nắm giữ những chức vụ quan trọng trong nghề mà người từ bên ngoài không khỏi không ngần ngại khi đụng tới. Đã có thời người người ta đề cập tới nhu cầu huấn luyện phương pháp giảng dạy cho tất cả các giáo chức kể cả giáo chức ở các ngành khác qua một quan niệm rộng rãi hơn là chỉ giảng dạy chuyên môn của mỗi người nhắm tới sự hữu hiệu hơn trong sứ mạng và trách nhiệm của người đứng trên bục giảng, một việc làm khác với việc hành nghề ở bên ngoài học đường.
image064
Hoàng Đế Bảo Đại
Đặc tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu Hoàng Bảo Đại.  Chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng, bí thư tức thư ký riêng của bộ trưởng... tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong bộ, từ thứ trưởng, tổng thư ký, tổng giám đốc, giám đốc, chánh sở, chủ sự.. cho tới các hiệu trưởng các trường và đương nhiên là các giáo sư, giáo viên đều là những nhà giáo chuyên nghiệp. Lý do rất đơn giản: họ là những người biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, biết rõ nhu cầu của học trò và phụ huynh cũng như xã hội, chưa kể tới sự yêu nghề, yêu trẻ, đã lựa chọn nghề  ngay từ đầu và sẽ ở lại với nghề cho đến hết đời.  Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một dân tộc hay ít ra là của những thế hệ tới mới là quan trọng.
            Trong phạm vi lập pháp, rõ hơn là ở quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay các tiểu ban liên quan tới giáo dục, dù là thượng viện hay hạ viện đều do các nghị sĩ hay dân biểu gốc nhà giáo phụ trách. 
            Trong lớp học, các thày nói chung được tự do giảng dạy.  Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường, hẹp hơn nữa là ngưỡng cửa của lớp học, đặc biệt là ở cấp đại học và tới một giới hạn nào đó ở cả bậc trung học, không ai bắt buộc các thày phải thế này, thế khác, ngoại trừ lương tâm và sự hiểu biết của chính mình. Cũng vậy, không ai rình rập hay báo cáo để bắt bỏ tù.  Không có gì gọi là của Đảng hiện diện.  Sự tôn trọng quyền tự do của người thày này giúp bảo đảm phẩm chất, tư cách, khả năng cá nhân và giá trị của mỗi người thày, không riêng ở bậc đại học mà luôn cả ở bậc trung học.  Chính vì thế mà ở miền Nam danh xưng giáo sư dịch từ tiếng Pháp professeur vẫn tiếp tục được dùng để gọi các nhà giáo bậc trung học thay vì giáo viên là danh xưng chỉ dùng để gọi các thày cô ở bậc tiểu học như sau này. 
Tưởng cũng nên để ý là ở bậc trung học người thày không phải chỉ dựa trên sách giáo khoa có sẵn để dạy mà còn phải tìm hiểu, tra cứu, suy tư thêm bằng những nỗ lực riêng của mình, đặc biệt là ở các môn văn chương và khoa học nhân văn để có thể đem lại cho học trò của mình những gì mới mẻ mà trong sách không có hay đã quá cũ.  Chính vì thế mà ngay từ thời Pháp thuộc rồi sau này ở cả hai miền Nam, Bắc. Rất đông những giáo sư các trường trung học đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng một nền văn chương và học thuật riêng cho một nước Việt Nam độc lập.  Các vị như Nghiêm Toản, Nguyễn Khắc Kham… ở miền Nam, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy… ở miền Bắc, trước đó là Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, sau này làNguyễn Sỹ Tế, Phạm Thế Ngũ, Vũ Khắc Khoan…là những trường hợp điển hình.  Các vị này bắt đầu là những giáo sư trung học nhưng những công trình nghiên cứu của các vị đều là những tác phẩm của các bậc thày.  Trong khi đó thì nhiều giáo sư khoa bảng khác tuy bắt đầu bằng những bằng cấp cao và tiếng là dạy đại học nhưng tất cả mọi  chuyện đã dừng lại ở những bằng cấp và chức vị mà họ đạt được. 
image066
            Các sách giáo khoa cũng do các nhà chuyên môn soạn thảo.  Ai cũng có quyền soạn thảo, xuất bản và phổ biến, miễn là phải theo đúng chương trình hiện hành và tuân theo những nguyên tắc kiểm duyệt.  Rất ít khi có các sách do bộ quốc gia giáo dục ấn hành.  Tất cả là tùy thuộc vào phẩm chất của tác phẩm. 
            Thứ hai:  Tôn chỉ và mục đích nhằm hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống cũ của người Việt
            Nói tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích.  Lý do có lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó làNhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của  Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học.  Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích hay không đồng ý, ba nguyên tắc Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam.  Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời. Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được, phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc.  Nó cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng giáo. Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình:
                        Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
                        Tây Âu khoa học yếu minh tâm
Trong khi đó thì nguyên tắc khai phóng đã giúp người ta thường xuyên cởi mở, khoáng đạt để sẵn sàng đón nhận những gì mới mẻ từ bên trong cũng như từ bên ngoài từ đó theo kịp đà tiến bộ chung của cả nhân loại.  Sinh hoạt giáo dục ở trong vùng Quốc Gia Việt Nam và ở miền Nam Việt Nam trong thời gian tồn tại mỗi ngày mỗi sinh động hơn là nhờ nguyên tắc này thay vì trở thành sơ cứng, ít ra không hấp dẫn với những thế hệ mới.
            Cuối cùng tưởng cũng nên nói sơ qua về nguyên tắc đại chúng.  Nguyên tắc này tuy không được kể trong ba ngyên tắc căn bản của nền giáo dục của miền Nam nhưng vẫn được mọi người tôn trọng trái hẳn với thực tế đã xảy ra trước năm 1975 ở miền Bắc và trên toàn quốc sau năm này.  Lý do là vì khi nói tới nguyên tắc này, người ta nghĩ ngay tới hai chữ dân chủ, từ đó những nhận định quen thuộc là do dân, vì dân và cho dân.  Ở đây là của đai chúng, do đại chúng, cho đại chúng và phục vụ đại chúng thay vì là chỉ do một thiểu số cầm quyền, hay giàu có.  Một trong những gì mà nền giáo dục của miền Nam đã đem lại cho đại chúng là tính miễn phí, miễn phí từ tiểu học cho đến đại học, ít ra là ở các trường công lập bất kể đất nước còn đang ở trong tình trạng chiến tranh và nghèo nàn.  Người ta chỉ cần đậu xong bằng tú tài là có thể ghi danh hay thi vào đại học.  Học phí rất thấp, hầu như chỉ vừa đủ cho thủ tục hành chánh giấy tờ.  Sinh viên ra trường hầu như không nợ nần gì cả chưa kể tới các trường đại học hay cao đẳng chuyên nghiệp, sinh viên được cấp học bổng đủ sống để có thể dốc toàn thời gian vào việc học. Các trường tư cũng được tự do coi như để bổ khuyết cho khả năng giới hạn của các trường công do số học sinh mỗi ngày một đông, trường công không đáp ứng được đầy đủ. Trong phạm vi này các tôn giáo đã đóng một trò vô cùng quan trọng.  Ngoài các trường trung và tiểu học, tôn giáo nào cũng có trường đại học: Công Giáo có trường Đà Lạt, Phật Giáo có trường Vạn Hạnh,  Phật giáo Hoà Hảo có trường Long Xuyên, Cao Đài có trường Tây Ninh…
image068image069image070image072
Thứ ba:  Sự liên tục trong phạm vi nhân sự
            Nhân sự ở đây không ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thày, làm cô của mình,  và ở với nghề cho đến hết đời, dù đó là sư phạm tiểu học hay sư phạm trung học.  Khởi đầu là các vị tốt nghiệp các trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội hay các trường sư phạm dành cho các giáo viên tiểu học.  Tất cả các vị này đã phục vụ trong ngành giáo dục ngay từ thời Pháp Thuộc và vẫn còn tiếp tục giảng dạy khi đất nước bị qua phân hoặc vì đã ở sẵn tại các trường trong Nam khi các trường này được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa. 
Sau khi đất nước bị chia cắt và qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền Bắc vô Nam,hàng ngũ của các vị lại được tăng cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng với các trường được gọi là Bắc Viêt di chuyển. Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều hành các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập, đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới. Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp tới cách viết bảng và xóa bảng, các vị này đã để toát ra một sự chừng mực của những nhà mô phạm nhà nghề.  Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập.  Nhiều vị vào những lúc tình thế vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độc lập của học đường.  Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời Nho Học còn thịnh hành, những người tinh thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các đại học văn khoa ở Saigon và Huế.  Những trường này được coi như là những trung tâm văn hóa ở mức độ cao của miền Nam và được coi là biểu trưng cho văn hóa của dân tộc.
Thứ tư:  Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của chương trình Pháp và chương trình Hoàng Xuân Hãn thời năm 1945 dù có được sửa đổi 
            Đây là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn tại.  Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. 
            Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại thay vì cứ nhắm mắt đập bỏ để sau này hối tiếc.  Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra vô cùng thận trọng trong mọi quyết định.  Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất thời dường như không được chấp nhận.  Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp lực của Mỹ đã trở nên rất mạnh. 
            Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thời chính phủ Trần Trọng Kim với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục đương thời.  Nó cho phép người ta, từ thày đến trò dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ cuối niên học 1944-1945 người ta đã tổ chức đươc những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. 
            Điều nên nhớ là chính phủ Trần Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn chưa được bốn tháng trời, đúng hơn chỉ có hơn một trăm ngày với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn.  Sau này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp và khả năng của các đương sự, không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật... vì đó là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống gần với hệ thống chung của quốc tế.
image074
Nội các Trần Trọng Kim trình diện Quốc trưởng Bảo Đại
            Duy trì mối liên tục lich sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán học, vật lý và hóa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thày mà luôn cả các học trò sử dụng làm tài liệu học thêm hay để tự học trong thời gian đã được độc lập này.
            Trong phạm vi văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo.  Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do, cởi mở.  Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình những tác giả này, thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ, bất kể họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô Hoài, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân... là những trường hợp điển hình.
            Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài.  Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự.  Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ.  Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác nhau.  Tiếc rằng chỉ vài năm sau miền Nam đã không còn nữa.
            Trong phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa.  Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình khi phải lãnh nhiện vụ ở những vùng xa thủ đô Saigon. 
            Về phía chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp can thiệp.  Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui mọi chuyện.  Ngay cả trường hợp các thí sinh là những sĩ quan cao cấp trong quân đội hay trong các lực lượng an ninh.  Điển hình nhất là trường hợp của Đại Tướng Cao Văn Viên. Tướng Viên lúc đó là Tổng Tham Mưu Trưởng của Quân Lực việt Nam Cộng Hòa.  Ông là một người ham học nên mặc dù vô cùng bận rộn với quân vụ, ông vẫn ghi danh theo học trường Đại Học Văn khoa Saigon, ban Pháp Văn. Trong kỳ thi cuối năm Chứng Chỉ Văn Chương và Văn Minh Pháp, ông đã đậu thi viết nhưng bị đánh rớt phần vấn đáp. Đây là một trong những chứng chỉ tương đối khó, nhiều khi kết quả được công bố: không ai đậu, ngay từ phần thi viết.  Tướng Viên đã đậu phần thi viết.  Điều này chứng tỏ khả năng viết và sự hiểu biết của ông, ít ra là về môn học được hỏi trong phần này, vì bài làm của thí sinh luôn luôn bị rọc phách trước khi giao cho giám khảo chấm.  Trong phần vấn đáp, thày trò trực tiếp đối diện với nhau và vị giám khảo là người Việt, không phải ngưòi Pháp, còn trẻ, ở tuổi quân dịch.  Ông đã bị chính vị giám khảo người Việt này đánh hỏng nhưng trong suốt thời gian sau đó mọi việc đều an lành, không có gì đáng tiếc xảy ra cả.  Đây là một trong những điểm son cho cả hai phía, Quân Lực việt Nam Cộng Hoà và Trường Đại Học văn Khoa Saigon nói riêng và nền giáo dục của miền Nam nói chung thời trước năm 1975
Tưởng cũng nên nói thêm là cũng trong thời gian này, Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm, Giám Đốc Nha Động Viên Bộ Quốc Phòng cũng theo học Ban Sử ở trường này.  Sang Mỹ, ông ghi tên học ở đại học Mỹ và đậu thêm bằng Cao Học.  Cũng vậy, chuyện chuẩn tướng chào chuần úy trước.  Lý do là vị chuẩn tướng này đã theo học lớp văn hóa buổi tối để dự thi tú tài do sự khuyến khích của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và người chuẩn úy trước khi nhập ngũ là một giáo sư trung học dạy lớp buổi tối.  Hai người gặp nhau một buổi sáng khi cùng đưa con đi học. Nhưng cũng chưa hết, trong thời gian này Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị cũng là được người ta biết tới như một ông “Tướng Văn Hoá”.  Cuối cùng và 
vẫn chưa hết, một vị trung tá cũng thuộc Bộ Tổng Tham Mưu trình một tiểu luận cao học ở cùng ban Sử, cùng trường.  Bình thường, khi đã được phép trình, thí sinh được kể như là đã đậu và đậu tối thiểu với hạng bình thứ.  Vị trung tá này đã bị đánh rớt.  Lý do là ông đã không sửa lại tiểu luận của mình mặc dầu đã được khuyến cáo trước đó và để nguyên những lỗi lầm bị cho là căn bản.  Cũng nên biết là trước khi trình vị trung tá này đã đặt tiệc trà ở phòng giáo sư ở ngay lầu dưới để sẽ ăn mừng cùng với bạn bè và gia đình sau khi được chấm đậu.  Người ta có thể trách cứ ban giám khảo là quá nghiêm khắc nếu không nói là nghiệt ngã, nhưng vì tiểu luận cao học cũng như luận án tiến sĩ thời này được trình trước công chúng, ai vào nghe cũng được, sau đó ai cũng có thể mở xem được.  Người ta có thể đánh giá nhà trường căn cứ vào phần trình bày và phẩm chất của tiểu luận.  Có điều vì thí sinh này là một trung tá của Quân Đội VNCH nên nhiều người tỏ ý lo ngại cho các giám khảo.  Cũng giống như Đại Tướng Cao Văn Viên, ông có thể không làm gì, nhưng đàn em của ông thì sao?  Tướng Viên có thể không làm nhưng thuộc hạ của ông làm sao ông kiểm soát được?  Nên nhớ Tướng Viên trước đó là Tư Lệnh Lực Lượng Nhảy Dù.  Lính của ông sống nay, chết mai, chuyện gì họ cũng có thể làm được.  Nhưng cuối cùng thi mọi chuyện đều đâu vào đó, an lành, không có gì xảy ra cả.  Đó là những điểm son của cả nền giáo dục của miền Nam lẫn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trước khi miền đất được coi là tự do không còn nữa, tôi xin đuợc nhắc lại.
 Thứ năm: Một Xã hội tôn trọng sự học và những người có học
            Đây là một trong những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội miền Nam nói chung và nền giáo dục miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng và được duy trì.  Đặc tính này đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị.  Sự học là một giá trị và giáo dục là một giá trị.  Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc.
                         Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thày
            Người làm công tác giáo dục luôn luôn được tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương diện tinh thần để thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những nhà chủ trương cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể.  Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất.  Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần giáo dục của miền Nam.
image076image078
Phan Thanh Giản 1796-1867
            Được xã hội tôn trọng nhưng ngược lại xã hội cũng trông đợi rất nhiều ở các thày.  Điển hình là chuyện “giáo sư mà cũng đi ăn phở”.  Câu chuyện này do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Cư kể lại.  Giáo Sư Nguyễn Ngọc Cư là một trong những vị cựu sinh viên trường Cao Đảng Sư Phạm Hà Nội thời Pháp Thuộc, một trong những vị giáo sư nổi tiếng là nghiêm túc còn lại của trường này.  Ông dạy ở trường Thành Chung Nam Định sau là Đại Học Sư Phạm Saigon.  Một trong những học trò cũ của ông sau này là Ngoại Trưởng của Cộng Hoà Xã hội Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. 
            Câu chuyện xảy ra khi Giáo Sư Cư xuống chấm thi ở Mỹ Tho khi mới từ Hà Nội di cư vào Nam hồi sau năm 1954 vào một buổi sáng khi các vị giám khảo rủ nhau đi ăn phở trước khi nhập trường và khi người dân quanh vùng nhìn thấy các thày trong tiệm phở.  Cũng nên nhớ là hồi đó các giáo sư trung học, nhất là các vị dạy ở cấp tú tài là rất hiếm và kỳ thi tú tài là một biến cố lớn ở trong vùng.   Cũng nên để ý là, khác với ở miền Bắc, nơi thày cô thời trước gọi học trò bằng anh hay chị, trong Nam học trò được thày gọi bằng trò và thường tự xưng là trò.  Quan niệm chính danh ở đây được thấy rõ, từ đó sự trông đợi tư cách phải có của người thày.   Cho tới nay, người ta không rõ danh xưng em trong học đường Việt Nam về sau này đã được sử dụng từ bao giờ.  Có thể từ thời có Phong Trào Thanh Niên Thế Dục Thể Thao của Hải Quân Đại Tá Ducoroy thời Thống Chế Pétain ở bên Pháp và Đô Đốc Decoux ở Đông Duơng, nhưng cũng có thể do Chủ Tịch Hồ chí Minh thời năm 1945.  Nói như vậy vì trong thư gửi các học sinh hồi đầu niên khóa 1945-1946, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng câu “Các em học sinh, Các em hãy nghe lời tôi…” và tiếp theo bằng ba tiếng “lời của một người anh lớn..” mặc dù lúc đó ông đã 55 tuổi và thư là gửi cho những thiếu niên, những học sinh trung và tiểu học chỉ đáng tuổi cháu nội của ông.  Lối xưng hô này đã không được một số thày cô trong Nam chấp nhận.  Nhiều người vẫn ưa thích lối xưng hô cổ truyền hơn và ngay ở bậc đại học, nhiều sinh viên, đặc biệt là các nữ sinh viên, đã xưng con với các thày của mình mặc dù thày trò hơn nhau chỉ có vài tuổi.  Điều này giải thích tại sao sau năm 1975, các giáo viên từ miền Bắc vô Nam ưa dạy các học sinh gốc miền Nam hơn các học sinh mới từ miền Bắc theo chế độ mới vào.
image080image082image083image085image087
Nhà chữ "Đinh" ở Nam bộ
image088image090 
Tạm thời kết luận
            Bài này được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục hiện tại ở Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm.  Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần quan trọng trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học.  Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến.   Nhiều người còn dùng hai chữ “phá sản” để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975. 
            Trong khi đó ở Hải Ngoại, giới trẻ Việt Nam, những người xuất thân từ các học đường ở miền Nam đã thành công rực rỡ và được các thày cô và các cơ quan truyền thông khen ngợi, nếu không nói là ca tụng.  Nhiều người không những vẫn tiếp tục làm nghề cũ, kể cả những ngành mà tiêu chuẩn quốc tế rất chính xác, rõ ràng mà họ học được ở các trường đại học hay cao đẳng ở Việt Nam.  Rất nhiều người đã trở thành  những chuyên viên cao cấp, những cố vấn, hay những giáo sư đại học bản xứ với những công trình nghiên cứu có giá trị cao và ở mức độ quốc tế.  
            Ở đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những dữ kiện căn bản.  Nhiều công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện bởi nhiều người, trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này. Tuy nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm cách mạng vì cách mạng và hệ quả của nó đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của dân tộc, nhất là khi cách mạng không bắt nguồn từ tư duy của chính dân tộc mình.  Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng trong những phạm vi sinh hoạt khác, xóa bỏ và làm lại tất cả, trong đó có giáo dục.  Cách Mạng Mỹ không làm như vậy, Cách Mạng Pháp cũng không làm như vậy…vẫn duy trì những truyền thống cũ.  Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm.  Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết được sự thật thì đã quá muộn. 
            Nhiều khi người ta phải từ bỏ cách mạng để trở về với truyền thống của cha ông vì cha ông của chúng ta cũng là người, cũng thông minh, cũng khôn ngoan, sáng suốt, cũng nhạy cảm như chính chúng ta, ngoại trừ các Cụ sống ở thời của các Cụ, mỗi Cụ chỉ sống một thời gian ngắn, còn truyền thống thì có từ lâu đời.  Phải có lý do truyền thống mới  được theo, được duy trì và từ đó tồn tại.  Lịch sử do đó đã luôn luôn liên tục vì không liên tục là đổ vỡ, là mất quân bình và xáo trộn, là thụt lùi hay ít ra là bất khả tiến bộ./
Phạm Cao Dương
Khởi viết, tháng 9, 2006
Sửa lại, đầu Xuân 2016

No comments:

Post a Comment