Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 31 October 2016

VIETTUSAIGON = TUẤN KHANH = SONG CHI= XUÂN DIỆU

VIETTUSAIGON * NGƯỜI ĐI QUA

Người đi qua đời tôi


Xin mượn tên ca khúc “Người đi qua đời tôi” của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương để thay lời tựa của bài viết này. Một bài viết có tính chất nối ghép những mảnh rời tâm cảm sau một năm dài với không ít những biến cố, một năm dài buồn nhiều hơn vui, một năm dài hoài vọng vào những thay đổi của đất nước, dân tộc, một năm dài làm con ếch ngồi ngóc cổ nơi đáy giếng để mong ngóng sự thay đổi trong khoảng trời xanh nhỏ nhoi trên đầu… Và một năm dài đứng lặng ngắm cây dân chủ Việt Nam đâm chồi nảy lộc, chịu bão táp mưa sa, sấm sét, giông tố và… tạo trầm.
Cũng xin nói thêm, một năm dài để thấy rằng cây dân chủ Việt Nam là một cây dó bầu, một loài cây mang đặc trưng của xứ Á Đông khắc nghiệt, chịu nắng chịu mưa, chịu gãy đổ và đứng vững qua nhiều phen nguy kịch để tạo trầm, làm nên hương thơm xứ sở. Có lẽ chính vì vậy mà nói về trầm, người ta nói về xứ Á Đông và nói về trầm quí của xứ Á Đông, nói về kỳ nam quí, người ta phải nhắc đến trầm kỳ đất Việt.
Sở dĩ có được loài trầm kỳ quí vào bậc nhất hành tinh như vậy là nhờ loài cây dó bầu xứ Việt đã thích nghi, đã chịu đựng và trụ nổi với mưa bão, với thời tiết khắc nghiệt, khí hậu ngày nóng đổ lửa, đêm lạnh cắt da và bão liên tục quăng quật làm gãy đổ. Và cây dó bầu sẽ khó mà tạo trầm khi nó không bị tổn thương, không bị gãy cành và không chuyển hóa được tinh túy của đất mẹ Việt Nam.
Chính những giọt mủ làm lành vết thương đã tích tụ năng lượng của đất trời, tích tụ cả nỗi đau và sức sống để làm nên lõi trầm. Và nếu như khi dó bầu đã tạo trầm nhưng vẫn phải cô đơn đứng với thiên nhiên rồi chết với thiên nhiên, chính nơi khối trầm đó đổ xuống sẽ tích tụ tinh khí của trời đất, chìm dần vào lòng đất để kết tinh thành kỳ nam. Và kỳ nam thì vĩnh cửu, cho dù có hóa thạch vẫn cứ phát ra mùi hương không lẫn vào đâu được.
Một năm trôi qua với hàng trăm cơn bão xã hội, bão lòng. Từ những người nghèo cho đến những người giàu (chân chính), từ bác nông dân bốn mùa quen với cái cày, luống rạ cho đến kẻ sĩ vắt trán suy tư về hiện tình đất nước… Dường như đâu đâu, ai ai cũng bắt gặp những vết thương nghiệp dĩ. Bởi xứ sở này, nền chính trị Cộng sản xã hội chủ nghĩa này đã không buông tha ai. Đặc biệt, những người luôn canh cánh nghĩ về tương lai đất nước, tìm đường và đấu tranh cho một nền dân chủ, một xã hội dân sự đích thực là đối tượng sát hại của nhà cầm quyền, và những vết thương của họ hoàn toàn không nhỏ chút nào.
Và có lẽ, mỗi vết thương đi qua cuộc đời chính là một lần cây dó bầu số phận của người yêu nước lại đứng vững hơn với giông bão, lòng lân mẫn và tính bi cảm trước nỗi đau đồng loại sẽ là nguồn năng lượng để tích tụ mùi thơm, để tạo trầm, để hứa hẹn kỳ nam vĩnh cửu. Một năm qua với tình hình thế giới nhiều biến cố đau lòng, khủng bố của ISIS; Những người Tây Tạng vẫn chưa bao giờ có tự do, vẫn đang đổ máu và đau đớn dưới vòng kiềm tỏa của Trung Cộng; Những người đạo hữu Pháp Luân Công vẫn chưa hết bị hành hạ, bị giết hại bởi bàn tay lông lá của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc; Crime vẫn chưa có dấu hiệu trở lại thời kỳ độc lập, tự chủ, nạn đói và tội ác vẫn vây bủa các nước thế giới thứ ba… Nổi trội nhất và gần gũi với người Việt nhất có lẽ là tình hình biển Đông.
Sự căng thẳng trên biển Đông, sự lấn lướt của Trung Quốc cũng như thái độ nhược tiểu, hèn yếu và lú lẫn của trung ương đảng Cộng sản Việt Nam trước Trung Quốc nói chung và Tập Cận Bình nói riêng có lẽ là nguyên nhân và là tiền tố của hàng triệu bất công tại Việt Nam. Chính sách và chủ trương trị nước đậm tính luồng cúi trước Trung Hoa Đại Hán nhưng lại hết sức phản động và tàn ác với dân tộc, với đồng bào mà đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện mấy chục năm nay đã đẩy nhân dân Việt Nam đến chỗ không thể chịu đựng được thêm nữa. Hàng triệu dân oan ra đời từ chính sách bóc lột của đảng và hàng ngàn cuộc phản đối, biểu tình, bày tỏ thái độ bất mãn trước nhà cầm quyền bất công, vô lý đã diễn ra.
Hàng ngàn lá đơn kêu cứu oan sai về đất đai, tù đày; Hàng trăm người con Việt Nam chết trong nhà giam công an; Hàng trăm người con yêu nước bị bắt bớ, đánh đập, hành hạ; Hàng ngàn mảnh đời trôi dạt sang xứ lạ theo con đường bán dâm, lấy chồng nước ngoài mong đổi đời; Hàng triệu em bé bị đối xử bất công, đói khổ, thiếu thốn; Hàng triệu phụ nữ bị dày vò trong các công xưởng, văn phòng; Hàng triệu gia đình bị ăn chặn tiền cứu trợ, đói khổ, rách rưới… Tất cả những nỗi đau đó là những vết thương, và mỗi vết thương mang hình hài của con người, những vết thương đi qua cuộc đời là bóng dáng “người đi qua đời tôi”.
Và một hữu thể sẽ chẳng bao giờ trưởng thành được nếu không có những bóng dáng của “người đi qua đời tôi”, bởi mỗi bóng dáng là một dấu ấn, một vết thương cho dù đó là niềm vui hay nỗi buồn. Chính những dấu ấn, vết thương đó làm cho con người trưởng thành hơn, vững chãi hơn.
Có thể nói rằng vết thương hay dấu ấn của những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam quá lớn trên mọi nghĩa. Một mặt nhà cầm quyền thả sức đàn áp, hành hạ, mặt khác, khi ý chí và khí phách cũng như trí tuệ của dân tộc đã lún quá sâu vào hố đen vật dục. Chưa bao giờ mà số rất đông người Việt lại coi trọng vật dục như hiện tại. Ngay cả những trí thức cũng không ít người dành phần lớn suy nghĩ của họ cho việc làm sao để có thật nhiều tiền, làm sao để đầu cơ, xây dựng quyền lực, phe cánh. Thậm chí, khi nói về giới quan lại Việt Nam cũng như giới trí thức có quyền lực tại Việt Nam, người ta hay bàn về chuyện ông ta, bà ta có bao nhiêu biệt thự, bao nhiêu lô đất vàng, bao nhiêu cổ vật, bao nhiêu viên kim cương, đá quí hay ông nào đang sở hữu viên thiên thạch, đồng lạnh, đồng đổi màu, kỳ nam, kỳ nam hóa thạch, sừng tê giác, ngà voi…
Tất cả những thứ đó là giá trị của giới quan chức. Và người không có quyền lực cũng cố gắng làm cho mình một bộ sư tập nào đó với hy vọng sở hữu một thứ giá trị nào đó. Và mọi giá trị đều được qui vào những thứ gắn chung quanh con người. Trong khi đó, giá trị con người lại bị bỏ trống hoàn toàn, nếu không muốn nói là trống rỗng. Kẻ trí thức có tri thức thì lại thiếu khí phách của con người, kẻ giàu có thì luồn cúi quyền lực chính trị, kẻ làm quan nhỏ thì quì mọp gối phục tùng bề trên để được chiếu cố, để có chỗ mà xơ múi, tư túi… Mọi thứ giá trị đều qui vào vật dục.
Và đáng nhục nhất là nhiều quan chức tuyên bố rằng người Việt Nam thông minh hơn cả người Do Thái. Không hiểu người ta dựa vào tiêu chuẩn nào để nói rằng người Việt Nam thông minh hơn người Do Thái? Và cứ tạm chấp nhận đó là quan điểm đúng chăng nữa thì có một vấn đề cần phải nhìn lại, xét lại.
Đó là người Do Thái suốt hai ngàn năm lưu lạc tứ xứ, không có quốc gia, không có quê hương, mãi đến năm 1947, khi chiến tranh thế giới I kết thúc họ mới có đất nước, có quê hương. Nhưng có một điều người Do Thái không bao giờ phạm phải, đó là họ chưa bao giờ coi nhẹ giáo dục. Giáo dục đối với người Do Thái là vấn đề quyết định sống còn. Và dù ở đâu, làm gì, người Do Thái cũng không bao giờ quên học tập, sáng tạo, tự xây dựng cho bản thân một nguồn vốn tri thức để qua đó tổng hợp và sáng tạo.
Và suốt hai ngàn năm lang bạt khắp bốn phương, người Do Thái chưa bao giờ ngửa tay xin ai thứ gì, người Do Thái không có ăn xin. Họ cũng không vơ vét vàng bạc, chạy đua, giết tróc đồng bào để giành miếng đất vàng xây nhà, hay chiếm hữu vật cổ, sừng tê giác, ngà voi, thiên thạch, đá quí… Những thứ đó không phải là thứ họ quan tâm giống như tri thức. Chính vì có tri thức, có lòng tự trọng và có tính hãnh tiến, tự tin mình sẽ làm ra được nhiều thứ quí giá gấp triệu lần những thứ vật dục tầm thường kia mà người Do Thái mới là người Do Thái thông minh và bí ẩn như hiện tại.
Ngược lại, cái lõi của người Việt Nam là gì? Đương nhiên, trừ một bộ phận nhỏ những người yêu quê hương, đất nước và coi trọng tri thức, coi trọng tiến bộ, nuôi óc sáng tạo… Đại đa số, thậm chí những kẻ cầm quyền chóp bu Cộng sản, cái lõi họ là gì nếu như loại bỏ những khối tài sản kết xù mà họ đã tham nhũng, đục khoét ngân sách? Hoàn toàn không có gì nếu không muốn nói là đầu óc rỗng tuếch, tham lam và kệch cỡm. Lãnh đạo một đất nước luôn tự hào mình thông minh mà làm hỏng chỉ biết xin lỗi, cố đấm ăn xôi, đi công du nước ngoài thì không dám ngẩng mặt, mở miệng ngoại giao thì chỉ có khất nợ và xin xỏ… Nói cho cùng, chúng ta vẫn chưa bao giờ thoát khỏi trạng thái ăn mày trước thế giới tiến bộ.
Cuối năm, nhìn lại một chuỗi ngày, nhìn những gì “người đi qua đời tôi” mà thấy buồn. Và cũng may trên đất nước này còn rất nhiều người biết buồn, rất nhiều người đau đáu cho tương lai đất nước và họ không bao giờ dám tự cao tự đại, tự xem mình thông minh nhất thế giới. Nhờ vậy mà người ta có quyền hy vọng và tin rằng đâu đó giữa đại ngàn nhân dân, có những khối trầm đang hình thành và trong lòng đất mẹ dân tộc vẫn còn tiềm ẩn mùi hương thơm kỳ nam. Đó mới là sức mạnh dân tộc! Xin cầu chúc anh chị đấu tranh dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam luôn mạnh khỏe, chân cứng đá mềm!


NGUYỄN VŨ BÌNH * LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN ĐÀI

Thông điệp gì từ vụ bắt giam luật sư Nguyễn Văn Đài?


     Sáng ngày 16/12/2015, luật sư Nguyễn Văn Đài bị cơ quan an ninh điều tra bộ Công an tống đạt quyết định khởi tố , bắt tạm giam 4 tháng theo điều 88 của Bộ luật Hình sự. Điều lạ là thông tin về vụ bắt giam luật sư Nguyễn Văn Đài lại được báo chí chính thống đưa tin, cùng lúc với sự việc bắt giữ đang diễn ra, tức là sáng ngày 16/12. Có thể nói, tất cả đều sững sờ và hết sức bất ngờ trước sự kiện này. Đã có nhiều suy đoán về nguyên nhân vụ bắt giữ, cũng như những thông điệp nào được gửi gắm vào quyết định gây sốc, rất bất thường như vậy.
     Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu và phân tích về luật sư Nguyễn Văn Đài, xu hướng mà luật sư Đài đại diện, tầm ảnh hưởng và những vấn đề liên quan. Luật sư Nguyễn Văn Đài là người đấu tranh dân chủ lâu năm, đã từng bị án 4 năm tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước Xã hội Chủ nghĩa (điều 88), có uy tín lớn trong phong trào dân chủ. Luật sư Nguyễn Văn Đài cũng là người có mối quan hệ quốc tế sâu rộng bậc nhất trong phong trào dân chủ hiện nay. Nhưng Nguyễn Văn Đài, trong nhiều bài viết và hoạt động, cũng như trao đổi, lại là người mong muốn có sự chuyển hóa bên trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời Anh cũng là người có quan điểm ôn hòa trong đấu tranh, ví dụ gần đây nhất là việc ủng hộ Việt Nam được vào TPP. Như vậy, có thể nói rằng, luật sư Nguyễn Văn Đài là người đấu tranh có uy tín lớn, mong muốn chuyển đổi thể chế từ bên trong nội bộ, có quan hệ quốc tế sâu rộng.
     Bối cảnh hiện nay của Việt Nam có gì đặc biệt, và điều gì làm đảng cộng sản Việt Nam lo ngại nhất? Sự kiện mà ai cũng biết, đó là đại hội toàn quốc đảng cộng sản Việt Nam sắp diễn ra. Nhưng bối cảnh hiện nay của Việt Nam vô cùng đặc biệt. Thứ nhất, nền kinh tế suy sụp tới mức nguy ngập, biểu hiện rõ nhất là việc các ngân hàng thương mại được mua với giá 0 đồng (một hình thức né tránh tuyên bố phá sản), và sự kiện hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu cạn kiệt ngân sách...Thứ hai, sự mở rộng và sức lan tỏa của hệ thống Internet và mạng xã hội đã đi vào từng ngõ ngách cuộc sống, đã thức tỉnh rất nhiều người, và lan tỏa tới những cấp lãnh đạo cao nhất. Sức mạnh của cộng đồng mạng xã hội còn hình thành trào lưu dư luận tiến bộ, phản biện xuất sắc các quan điểm, đường lối, hành động, phát ngôn sai trái và cổ vũ, tưởng thưởng cho những tư tưởng cởi mở, dân chủ cả trong và ngoài guồng máy đảng và nhà nước. Thứ ba, sức ép quốc tế ngày càng gia tăng theo cùng các điều kiện về hợp tác phát triển, ví dụ các điều kiện để tham gia TPP...
     Tổng hợp những yếu tố trên, điều mà đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam lo ngại nhất, đó chính là sự phất cờ trong nội bộ đảng nhân dịp đại hội đảng toàn quốc sắp diễn ra. Với những bối cảnh về kinh tế, xã hội và dư luận như vậy, việc phất cờ trong nội bộ đảng cộng sản là nguy cơ hiển hiện. Chỉ cần một nhóm nhỏ, biết cách vận dụng sức mạnh truyền thông, sức mạnh dư luận và quốc tế sẽ thành công mỹ mãn. Đây là vấn đề sinh tử của đảng cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, việc ra tay ngăn cản xu hướng này là một nhiệm vụ cấp bách, chiến lược của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam.
     Việc nhắm vào luật sư Nguyễn Văn Đài, một biểu tượng dân chủ, ôn hòa và mong muốn chuyển đổi thể chế từ bên trong nội bộ là thông điệp gửi tới tất cả những ai đang manh nha có ý tưởng, hoặc kế hoạch phất cờ trong nội bộ. Điều này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau của Việt Nam. Nhưng ngăn chặn sự ly khai, phất cờ trong nội bộ và bảo đảm đại hội đảng toàn quốc diễn ra suôn sẻ theo quan điểm giữ vững độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là ưu tiên hàng đầu của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam.
     Như vậy, đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đã kiên quyết vứt bỏ cơ hội cuối cùng để chuyển đổi thể chế một cách êm đẹp. Đó có lẽ cũng là minh chứng hùng hồn cho luận điểm: cộng sản không thể thay đổi mà chỉ có thể xóa bỏ./.
Hà Nội, ngày 17/12/2015
N.V.B


TUẤN KHANH * KHÁT VỌNG LÀM NGƯỜI

Khát vọng làm người




Đời thường, một người lái xe có thể bất ngờ thông minh, được thuyên chuyển sang làm lãnh đạo toàn phần của địa phương không? Hoặc một bí thư phường có thể sáng dạ đột biến đến mức chuyển sang làm trưởng phòng giáo dục đào tạo không? Những câu chuyện như vậy xuất hiện trong nước ngày càng nhiều, ngang nhiên, đang là câu hỏi lớn không chỉ cho từng con người Việt Nam, mà còn là câu hỏi mang đầy tính thách thức cho một vận mệnh Việt Nam trên đường đi tới tương lai.
Trong các phương thức sử dụng con người để phát triển, lý luận của Laurence J. Peter là một trong những đề tài rất đáng để đối chiếu với hiện thực xã hội Việt Nam ngay lúc này. Cách nhận định con người với đúng khả năng, được gọi là Nguyên tắc Peter (Peter principle) của ông độc đáo và hấp dẫn đến mức ngành truyền hình Mỹ và Anh đã từng dựng thành nhiều series từ 1995 đến 2000.
Nguyên tắc Peter có rất nhiều ví dụ cụ thể, chỉ cần đọc qua là có thể hiểu ngay. Một trong những ví dụ đó là chuyện ông bảo vệ của một toà nhà công ty. Nhiều năm làm việc ở đây, ai cũng quý ông. Cách ứng xử hoà nhã, vui vẻ và có trách nhiệm khiến ông là một trong những gương mặt được chú ý. Trong một lần đại hội để thay đổi nhân sự trong công ty, ông bảo vệ được chọn cất nhắc lên vị trí giám đốc an ninh của toà nhà. Hầu hết mọi người đều đồng ý và hài lòng với chọn lựa đó, vì không phải mất công đi tìm đâu xa, ngoài phạm vi của công ty cả.
Cái giá của Nguyên tắc Peter xuất hiện từ đây. Từ khi ông bảo vệ đáng yêu khi chuyển lên một vị trí cao hơn đã làm hỏng mọi việc. Tình trạng an ninh của công ty rối loạn, cách điều hành thủ công của ông, vốn chỉ giỏi ứng xử ở cánh cửa ra vào công ty, đã không còn thích hợp với sự vận động của toàn công ty hiện đại đang phát triển. Hơn nữa, ông bảo vệ ngày xưa cũng mất dần những người yêu mến mình bởi vị trí quan trọng mới mẻ khiến ông bất ngờ hách dịch, quan liêu và thích được quà cáp, nịnh hót.
Một trong những tiêu chí quan trọng của Nguyên tắc Peter, vốn đã được thẩm định tính chính xác của nó gần nửa thế kỷ, là "đừng bao giờ cho rằng người thạo việc, có nghĩa là người có khả năng lãnh đạo". Vì nếu chỉ dựa vào khả năng hoàn thành hạn mức cá nhân, người ta có thể dẫn đến một sai lầm nghiêm trọng trong việc quản trị nguồn lực, chẳng hạn như đưa một con trâu vào vị trí chủ tịch hợp tác xã, bởi chỉ tiêu kéo cày của nó.
Cách sử dụng người loanh quanh trong hệ thống hành chính Việt Nam hiện nay, cho thấy sự cùng quẩn của nhân lực và tính bảo thủ trong việc tiếp nhận và phát triển nhân tài cho đất nước, mà Đảng cộng sản đang co cụm trong vòng rào của mình. Một bài báo gần đây lên tiếng chỉ trích việc 11 trong số 12 nhân tài đoạt giải Olympia đã du học nước ngoài và không muốn quay về nước. Thật oan ức cho những con người tài giỏi đó. Hãy tự hỏi, ở vị trí của mình, bạn sẽ chọn một cuộc đời bên ngoài, có sự thăng tiến nghề nghiệp và được nhìn nhận như một con người tự do, hay trở về và xếp hàng để chờ được giao hạn mục của một con vật nhận lệnh kéo cày?
Một đất nước có 90 triệu dân như Việt Nam, chắc chắn nhân tài thì không thiếu. Nếu con người - tri thức không chọn tham gia vào hệ thống, thì hãy tự hỏi hệ thống đó đã làm gì, đã tồn tại cách nào để bị chối bỏ như vậy?
Tình trạng này nhắc cho người Việt nhớ về lịch sử của đất nước mình. Nhà Trần, vào giai đoạn suy tàn, đặc biệt trong thời trị vì của Trần Dụ Tông (1336-1369), đã ra lệnh chỉ cho lấy lẫn nhau trong dòng họ để bảo vệ sự thống trị. Quá mê muội và tự cao tự đại trước các chiến thắng của mình, triều đình bằng mọi cách để gìn giữ quyền lực, bất chấp nhân dân oán thán, căm hận. Việc chỉ tin tưởng và sử dụng con người của mình, bất chấp ngu trung khiến triều đại đó sụp đổ và rơi vào tay họ Hồ.
Mới đây, trong phiên chất vấn của HĐND Tp ngày 10/12,  Phó chỉ tịch UBND thành phố, ông Nguyễn Hữu Tín than thở rằng nhiều quận huyện hiện kiếm không ra cán bộ có khả năng đọc bản đồ quy hoạch thì biết làm sao để giải quyết công việc. Nhưng lời than đó thật vô nghĩa, nếu như hôm nay, nhân tài vẫn không lọt qua được cơ chế quy trình, con người muốn chống lại mỏi mòn và ngu xuẩn của hệ thống đảng nghiệp, có thể bị gọi là "có vấn đề" về tâm lý hay tâm thần.
Đừng ngạc nhiên, khi quá nhiều quan chức hôm qua hay ngày mai lên tiếng nói những điều ngớ ngẩn, vô văn hoá. Khát vọng lãnh đạo từ những kẻ không khả năng - mà Nguyên tắc Peter đã chỉ ra - sẽ mãi là câu chuyện vui cười đến quặn thắt lòng cho những ai còn nghĩ về đất nước mình. Chính cơ chế và những quy trình tự sắp đặt với nhau đã dẫn đến những thế hệ lãnh đạo mà người có tài trong hệ thống khép kín, riêng cho các đảng viên cộng sản, nay đã khan kiệt như mò kim đáy biển.
Còn bao nhiêu con người ngoài hệ thống, như những khán giả đang xem một đại bi kịch của quê hương chưa có màn cuối vô hậu? Sẽ có ai trong số đó, còn mơ mình trở thành một chủ tịch xã, hay chỉ mong được làm người tự do?

------------------------------------------------------------------------
(Minh họa: Tranh den số 37 của họa sĩ Nguyễn Thái Tuấn)


SONG CHI * BẠO LỰC

Bạo lực, cái ác lan tràn…do đâu?


Song Chi.
Sáng 17.12 TAND tỉnh Bình Phước đưa Nguyễn Hải Dương, Vũ Văn Tiến, Trần Đình Thoại ra xử lưu động ở Trung tâm hành chính huyện Chơn Thành. Ba bị cáo bị truy tố tội Giết người, Cướp tài sản trong vụ thảm sát gia đình chủ một xí nghiệp chế biến gỗ gây rúng động dư luận hồi tháng 7.
Hai thanh niên còn trẻ, trước đó chưa từng có tiền án tiền sự đã nhẫn tâm tước đoạt mạng sống của 6 con người, trong đó có cả cô người yêu cũ của một trong hai thủ phạm, mà nguyên nhân là vì nỗi căm giận bị gia đình cô gái ngăn cản mối tình không cân xứng giữa hai bên và vì tiền, còn thủ phạm thứ hai phạm tội chỉ vì nghe bạn rủ rê, hứa chia tiền và vì sợ bạn, không dám rút lui!
Đây chỉ là một trong những vụ thảm sát nhiều người cùng lúc gần đây. Cụ thể, chỉ trong vòng hơn 1 tháng, có 4 vụ thảm sát xảy ra liên tiếp, ở Nghệ An (ngày 2. 7.2015, chết 4 người trong một gia đình), Bình Phước (ngày 7.7.2015, chết 6 người trong một gia đình), Yên Bái (ngày 12.8.2015, chết 4 người trong một gia đình) và Quảng Trị (ngày 7.8.2015, chết 2 cha con). Trong cả 4 vụ, hung thủ đều ra tay một cách tàn độc, truy cùng giết tận, và nguyên nhân chỉ do thù oán cá nhân, có khi từ một sự hiềm khích rất nhỏ nhặt như vụ Nghệ An, thủ phạm vào vườn nhà hàng xóm hái chanh bị chủ nhà bắt gặp và xảy ra to tiếng, chỉ có vậy mà thủ phạm gây án với chủ nhà rồi truy sát đoạt mạng vợ, con và mẹ vợ của anh này. Lý do thứ hai là vì tiền. Dù vì mâu thuẫn cá nhân hay vì tiền thì cũng đều là những lý do rất bản năng.
Báo chí đưa tin, ngày 12.12 tại ngã ba Sài Đồng-Quốc lộ 5, một tài xế khi cảnh sát giao thông ra lệnh dừng lại để giải quyết một vụ va chạm, đã rồ ga lao thẳng vào viên cảnh sát khiến người này phải bíu vào cần gạt nước và bị kéo lê khoảng 20m, thương tích khá nặng. Tài xế sau đó bị khởi tố về tội Giết người.
Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra một vụ đụng độ giữa các tài xế đường dài và CSGT, rồi tài xế liều lĩnh tông thẳng vào cảnh sát. Trên mạng từng có video clip một cảnh sát giao thông bị tài xế tông thẳng vào phải bám vào cần gạt nước, xe cứ thế chạy hàng trăm mét với người cảnh sát đu bám rất nguy hiềm như vậy trước khi dừng lại. Thậm chí truyền hình Na Uy cũng đưa cái video clip này lên với những bình luận tỏ ra rất…kinh ngạc!
Nếu tìm hiểu thực tế ở VN lâu nay thì mối quan hệ giữa cánh tài xế đường dài với cảnh sát giao thông thường không mấy tốt đẹp, luật bất thành văn, đám cảnh sát giao thông có thói quen “làm tiền”, ăn hối lộ nhiều khi trắng trợn, quá đáng khiến giới tài xế xe khách, xe hàng ấm ức mà đành chịu. Đến khi cơn bực tức bốc lên đầu đâm ra mất khôn, nhiều tài xế thay vì dừng xe lại theo lệnh của công an giao thông, cứ thế đâm thẳng tới, gây tai nạn cho công an, bất chấp hậu quả phải lãnh sau đó.
Ngày 14.12 viên trung tá, Trưởng Công an T.P Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, bị kẻ lạ nổ súng bắn thẳng vào nhà, may không ai bị thương. Và đây cũng không phải lần đầu tiên một quan chức công an nói riêng và quan chức nói chung “hút chết” bởi một mối mâu thuẫn nào đó, nhiều phần do ân oán từ nghề nghiệp, công việc mà ra.
Ví dụ, nhà Giám đốc công an tỉnh Khánh Hòa bị đặt thuốc nổ tháng 7.2012, Phó công an xã Hưng Lộc, huyện Hậu lộc, tỉnh Thanh Hóa bị một đám đông cầm lưỡi lê xông vào nhà, ném “bom xăng” tháng 9.2013, …Những vụ này chỉ mới như hình thức “cảnh cáo”, gây thiệt hại nhà cửa, vật chất nhưng không có ai tử vong.
Điều đáng nói là phản ứng của người dân mỗi khi đọc/nghe thấy tin một công an hay quan chức bị tấn công hoặc tai nạn. Không thấy thương xót mà ngược lại, rất nhiều người tỏ ra hả hê, và lặp đi lặp lại những câu như “ác giả ác báo”, “đời có vay có trả” v.v…
Tại sao lại như vậy? Vì người dân không có thiện cảm với giới công an, các quan chức chính quyền, nhưng điều đó là do đâu? Đến mức mà người dân thường hay nói “Tay đó công an nhưng mà tốt”. “Cha đó làm quan nhưng không đến nỗi nào”! Có nghĩa là hình ảnh giới công an, quan chức ở nước này trong mắt nhân dân nói chung là tệ hai, nào tham nhũng, hống hách, chuyên hạch sách, nhũng nhiễu dân lành; chưa kể những vụ người dân bị bắt vào đồn chỉ mới trong thời gian tạm giam và chỉ vì những lý do hết sức vặt vãnh nhưng bị công an lạm quyền, bạo hành đến chết, rồi những vụ công an dùng nhục hình bức cung khiến người bị bắt vì sợ hãi mà nhận tội cho dù không có tội, dẫn đến những vụ án oan thấu trời xanh v.v…
Khi nhìn vào thực trạng xã hội VN ngày hôm nay, bất cứ ai có quan tâm cũng đều tỏ ra lo ngại trước tình trạng bạo lực và tội ác ngày càng leo thang, với hành vi phạm tội ngày càng tàn độc, mất tính người. Thật ra, dù với tỷ lệ khác nhau nhưng xã hội nào thì cũng có bạo lực, có tội ác. Chỉ có điều trong nhiều quốc gia, có những “bức tường thành vô hình” giúp ngăn chặn tội ác phát triển, đó là: có một nền giáo dục tốt, nhân bản, không chỉ đào tạo con người về mặt kiến thức mà quan trọng hơn là dạy làm người, làm công dân tốt cho xã hội, hoặc có một nền pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh, công bằng, hoặc tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần con người, hoặc có cả hai, ba yếu tố trên.
Còn ở VN, dưới chế độ cộng sản ngu dân, vô thần và chỉ xài luật rừng, cả ba yếu tố trên đều không có. Không được dạy làm người một cách cẩn thận, đời sống tâm linh trống rỗng, lại thiếu vắng niềm tin vào luật pháp, tội ác do đó cũng dễ phát triển hơn.
Thứ hai, xã hội VN ngày hôm nay tràn đầy những bất công, phi lý, sự tử tế, cái tốt, cái thiện thì hiếm hoi, sự không tử tế, cái xấu, cái ác thì lan tràn, người sống tốt thì thiệt thòi, kẻ cơ hội, bất tài thì luồn sâu leo cao, ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ hưởng bổng lộc. Các giá trị sống, những chuẩn mực đều bị đảo lộn.
Tất cả những sự trái tai gai mắt đó ngày ngày đập vào mắt người dân khiến họ đâm ra bức bối, cộng thêm những khó khăn của đời sống cơm áo gạo tiền, dồn nén trong mỗi con người những ấm ức, căm giận. Nếu là người có đầu óc suy nghĩ, thì có thể tự hóa giải mình, nhưng nếu thiếu suy nghĩ, thì chỉ nhân một cơ hội nào đó hoặc một cơn cớ rất nhỏ nào đó, cơn tức giận âm ỉ bên trong bỗng bộc phát, người ta có thể phạm những tội ác nghiêm trọng dù trước đó họ hoàn toàn là những con người bình thường, đầu óc bình thường, chưa có tiền án tiền sự. Điều này xảy ra trong rất nhiều trường hợp.
Và cuối cùng, một chế độ được xây dựng từ một học thuyết bạo lực, giành được chính quyền bằng bao lực, xây dựng và cố giữ bằng bạo lực, thì chỉ có thể tạo ra một xã hội đầy dẫy bạo lực và cái ác; một xã hội thiếu vắng lòng nhân ái với những con người chỉ tồn tại hai trạng thái: sợ hãi, bạc nhược hoặc bị dồn nén bởi những uất ức, căm giận.
Đến một lúc nào đó bạo lực lại quay trở lại nhắm vào chính những thành phần tạo nên cái chế độ, bộ máy chính quyền này. Những vụ tài xế xe tải ngày càng liều lĩnh tấn công cảnh sát giao thông, những vụ nổ súng, cài bom, trước nhà các quan chức cấp phường xã kể trên hay thậm chí, nổ súng bắn thẳng vào mặt cán bộ tỉnh như vụ anh Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình, vụ hai anh em ông Đoàn Văn Vươn dùng mìn tự chế và súng bắn đạn hoa cải chống lại lực lượng cưỡng chế ở Tiên Lãng, Hải Phòng…là những ví dụ nhãn tiền.
Giả sử một lúc nào đó, bị đẩy vào đường cùng, xảy ra những vụ người dân gài bom tự sát mạng đổi mạng với chính quyền, chẳng khác nào cách thức mà đám khủng bố Hồi giáo cực đoan hay tiến hành, thì cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên. Còn trước cả bọn al-Qaeda hay IS, các đảng cộng sản trên thế giới và đảng cộng sản VN nói riêng đã không hề ngần ngại sử dụng những biện pháp khủng bố với dân, như cài bom ở những chỗ đông người, nhà hàng, khách sạn, rạp chiếu phim…ở các thành phố lớn cho tới ném bom, pháo kích, giật sập cầu, pháp kích vào trường học…ở nông thôn….
Bạo lực sinh bạo lực là vậy. Chỉ buồn là tính thiện, lòng nhân ái, sự tử tế trong con người một khi bị mất đi sẽ phải mất rất nhiều thời gian để vun trồng, giáo dục lại.

"songchi's blog


SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

Giấc Mơ Dương Tường & Ác Mộng Bùi Ngọc Tấn


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Mặc dù nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng nhưng trong thực tế bản chất của lưu manh là thâm thù căm ghét trí thức chân chính. Và họ căm thù trí tuệ nói chung.
Vương Trí Nhàn

Thi sĩ Dương Tường vừa viết thư (“Gửi Bạn Ở Cõi-Bên-Kia”) nhân ngày giỗ đầu – ngày 18 tháng 12 năm 2015 – của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:
“Mình đang đi trên một con phố mới, hình như ở Hải Phòng. Lạ hoắc song lại có nét gì quen quen mà không tài nào xác định nổi. Giống như khi ta cố nhớ ra một cái tên rất thân quen, chắc chắn nó ở quanh quanh đâu đây trong bộ nhớ, chỉ dấn chút xíu nữa là “bắt” được mà nó vẫn vuột mất để rồi đến một lúc thôi không  cố nhớ nữa thì nó lại bất ngờ hiện ra. À, đây rồi cái biển tên phố gắn trên một cột đèn. Mình tiến lại và đọc thấy: BÙI NGỌC TẤN…
           Thế là mình thức giấc. Và ngồi viết thư cho Tấn đây...
Hà Nội đã có những đường phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng …, những điểm son của văn học Việt Nam. Thế còn bao giờ Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán?  Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn? Một dự cảm tâm linh nói với mình: rồi những giá trị đích thực sẽ được trả về đúng vị trí. Con đường mình vừa dạo chơi trong mơ – đường Bùi Ngọc Tấn – rồi sẽ thực sư có trong thực tại. Và biết đâu đấy, mình lại có dịp thả bộ trên con đường ấy, như đã thả bộ trên đường Văn Cao dăm năm trước ...”
Đại lộ Phạm Hùng. Ảnh: baomoi
Bức thư thượng dẫn làm tôi nhớ đến những mẩu đối thoại (tưởng tượng) khác, cũng của người ở cõi dương với bạn bè ở bên kia thế giới:
Tôi thỉnh thoảng dạo phố vẫn hay dừng lại nhìn lên một tên phố mà chuyện trò lặng lẽ với con người ngồi ở trên cái bảng sắt tây dó. Để nghe anh ta giãi bày. Và cũng để anh ta đừng tưởng bở.
Thí dụ Văn Cao, ngày hai lượt ra trung tâm thành phố và về Cầu Giấy, tôi từng có lần hỏi anh: Cậu khỏe không? ... Bây giờ ở trên cao này có thấy sao không?” Thì Văn Cao bảo tôi:“Tao làm nhạc, làm thơ, vẽ, ai hay nay làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài. Mày với tao sống trong cái chăn toàn rận này, mày lạ đ. gì nữa.
Hôm nọ thằng Dương Bích Liên nó lui lủi đi dưới kia, đầu chúi chúi, hai tay đút túi quần. Tự nhiên nó nhìn lên hỏi, mày lại cam ra làm bù nhìn bịp cho cái chính sách yêu vớt trí thức ư? Thế là tao rơi đánh xoáng một cái xuống. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).




Đại Lộ Mai Chí Thọ. Ảnh:  triviet24h\


Tôi thì trộm nghĩ rằng những con phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu (e) chả phải là vở kịch “đảng trọng hiền tài” hay “chính sách yêu vớt trí thức” – như cách dụng ngữ của nhà văn Trần Đĩnh đâu. Những người cộng sản Việt Nam có đời nào mà tử tế dữ vậy. Họ cũng chưa bao giờ qúi trọng hay yêu thương gì giới trí thức cả, “giả trọng” hay “yêu vớt” cũng không luôn.
Nói gần nói xa, chả qua nói thiệt, và nói theo lối thường dân (Nam Bộ) thì đây chẳng qua chỉ là “chính sách ăn theo” hoặc “chiến thuật dựa hơi” của Đảng mà thôi.
Kiểu chơi láu cá chó này ai cũng biết, đâu có xa lạ và mới mẻ gì. Tạp chí Khởi Hành số  phát hành tháng 8 năm 99 – từ California – đã có bài viết (“Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá”) của Thạc Sĩ Trần Anh Tuấn, về mấy cái mánh (lặt vặt) như thế tự lâu rồi.
Một phần của bài viết, Trần Anh Tuấn dùng để điểm cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam, Những Gương Mặt Trí Thức, tập Một – do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập – nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998. Nội dung cuốn sách được ghi nhận và phân tích như sau:
“Với hơn 700 trang, các tác giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa V.N.)”.
“Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53%. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”
“Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47%. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Khánh Toàn, Ðặng Thái Mai, Trần Huy Liệu, Phạm Huy Thông, Tôn Thất Tùng, Hồ Ðắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Trần Ðại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Văn Giáp, Tôn Quang Phiệt, Hải Triều, Ngụy Như Kon Tum, Dương Ðức Hiền, Ðặng Văn Ngữ, Hoài Thanh, Nam Trân, Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Thiêm, Từ Chi, Nguyễn Ðổng Chi, Cao Xuân Hy, Trần Ðức Thảo, Hoàng Thúc Trâm, Ðào Duy Anh, và Hoàng Xuân Hãn.”
Nhạc sĩ Tô Hải mô tả đây là “cái trò nhố nhăng định khoanh vùng lịch sử chỉ còn ở cái ‘thời rực rỡ nhất’ là do Đảng họ lãnh đạo thôi,” chứ CS chả có lòng “yêu vội” hay “yêu vớt” gì Trần Ðức Thảo,  Ðào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn... cả. Họ chỉ “dựa hơi” những nhân vật trí thức này để mở đường cho cái đám thất phu (cỡ như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh ...) được dịp “quá giang” hay “đi ké” vào lịch sử – như những gương mặt trí thức – Việt Nam.
Tương tự, những con đường mang tên Nguyễn Chí Thanh, Xuân Thủy, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn ... sẽ bớt dơ dáng và dị hợm (phần nào) khi được đặt cùng với mấy tên phố tử tế và đàng đàng hoàng khác: Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Làm thế coi cho đỡ chướng, và ngó cũng dễ “nuốt” hơn. Trông cũng giống như mấy lát mì cõng cơm (ăn độn) vậy mà!
Tôi còn sợ rằng giấc mơ của Dương Tường (dám) lại là ác mộng của Bùi Ngọc Tấn nữa chớ. Thưở sinh thời, đã biết bao lần nhà văn của chúng ta từng phải sống qua những ngày tháng hốt hoảng và tuyệt vọng:
     - "... bàng hoàng khi biết mình có ‘đuôi’….  Anh như ngửi thấy cái mùi của nhà tù. … Đó là đòn đánh ngang đầu. Là đất sụt nơi mình đứng. Là cuộc đời bỗng nhiên không còn là cuộc đời nữa... có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng lồ để hại mình.” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
     - “Tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi. Ðã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi một thế hệ tiếp theo nữa. Ðời này sang đời khác.” (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương. Fallchurch, VA: 2014).
Cho mãi đến khi từ giã cõi đời, Bùi Ngọc Tấn mới hết bị “theo dõi” và mới hoàn toàn thoát khỏi “cái cảm giác như một con thú bị nhốt trong chuồng.” Thế mà cái “con thú” này bất ngờ lại được lên tên đường, và cận kề với toàn danh nhân (của ngành công an) những nhân vật “toàn quyền làm những việc họ thích” và có thể “huy động cả guồng máy khổng lồ để hại” người cỡ như Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ, Phạm Hùng ... thì rõ ràng là một chuyện rất ... hãi hùng – một cơn ác mộng – chớ còn gì nữa? Không khéo Bùi Ngọc Tấn lại “rơi đánh xoáng một cái” như không!
Tương tự, tôi e rằng Văn Cao cũng không cảm thấy vinh dự hay hạnh phúc gì cho lắm (sau một kiếp “sống trong một cái chăn toàn rận”) khi ông bị đặt nằm giữa những con phố đầy rẫy bất trắc và tệ đoan xã hội:
- “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô
- “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin
- “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô
- “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet
-  “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng” –   báo An Ninh Thủ Đô
- “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí
-“Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn” – báo Người Lao Động
- “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn” – báo Lao Động
-“Tảng Đá Chục Tấn Rơi Trên Đại Lộ Nguyễn Tất Thành” – Báo Mới
- “Ôtô Điên Trên Đường Tôn Đức Thắng” – Báo Mới
-“Đột Kích Hàng Loạt Tụ Điểm Mát Xa Kích Dục Trên Đường Nguyễn Duy Trinh” – Báo Vnexpress.
Tiểu lộ Nguyễn Thị Nhỏ. Ảnh: Dân Việt

Sau 83 năm đô hộ Việt Nam – ngoài những tội ác vô phương chối cãi – người Pháp cũng đã để lại cho xứ sở này những thành quả hiển nhiên, thuộc nền văn minh chung của toàn thể nhân loại: hệ thống cầu cống, giao thông, y tế, giáo dục, ngân hàng, bưu điện, bệnh viện, thư viện, kiến trúc… Nói theo bác Nguyễn Gia Kiểng là “Pháp đã còng tay Việt nam và dẫn vào thời đại mới.” Sau đó, dân Việt bị còng tay (chặt hơn) bởi những người cộng sản rồi buộc phải… đi lùi! Đó là lý do tại sao trước khi được “vinh hạnh” mang tên “những vị anh hùng cách mạng,” phố phường Hà Nội (nói riêng) và của cả nước (nói chung) sạch sẽ và an lành hơn hiện cảnh rất nhiều.
Điều phiền phức và rắc rối hiện nay là dân Việt không còn chỗ để có thể lùi được nữa. Họ đã bị đẩy đến tận chân tường rồi. Bởi thế, những người cộng sản khó mà có thể tiếp tục giữ được quyền bính trong những ngày tháng tới.

Khác với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản khi sụp đổ không để lại nơi phần đất mà nó cai trị bất cứ một thứ thành quả nào – ngoài bạo lực, nghèo đói, dốt nát, dối trá, và vô số những con đường (cũng như những ngôi trường, những cơ quan, dinh thự …) buộc phải thay tên!

Đến lúc đó, có lẽ, vẫn chưa muộn để “Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán ...  Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn” – như giấc mơ của Dương Tường.


SƠN TRUNG * TÀI NGHỀ XUÂN TOC QUĂN







TÀI NGHỀ XUÂN TOC QUĂN
 SƠN TRUNG


Vũ Trong Phụng có Xuân tóc đỏ, chúng ta có Xuân tóc quăn. Xuân tóc đỏ là nhân vật tưởng tượng, còn Xuân tóc quăn là nhân vật có thật, là thi sĩ số một của chế độ cộng sản Việt Nam. Xuân không là Phó thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng như Tố Hữu, Huy Cận, Hoàng Minh Giám, Lưu Trọng Lư, hoặc là cập rằng Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Hoài Thanh, của chế độ, Xuân chỉ là con cún, con miêu được chủ cưng chiều. sáng chiều cho ở bên cạnh.

Trước 1975, tôi được biết Xuân Diệu qua thơ của ông. Sau 1975, tôi thấy ông tại viện Khoa Học Xã hội miền nam. Hình như lúc ấy có lễ lạc gì đó, các quan ta liên hoan. Tôi là quần chúng ở ngoài sân ngó vào. Tôi thấy Xuân Diệu đi ra ngoài hành lang, mặt đỏ bừng, tay cầm chai bia vửa đi vừa uống, mặt vô cùng tự đắc và phấn khởi. Ông vừa đi cái đầu lúc lắc, mặt hất lên, nghiêng tả nghiêng hữu. Tôi ngạc nhiên, dân Nam ta cũng uống bia, uống nhiều nữa là khác, nhưng không ai vừa đi vừa uống như thế.

Tại sao ông phải ra ngoài? Phải chăng ông muốn chường mặt cho đám "Mỹ ngụy" ngu dốt " tận mặt nhìn thấy ông, một trí tuệ đỉnh cao!Dân ta thường uống bia bằng ly, có cục đá bự. Nếu có cần đi ra ngoài, thì cứ để chai và ly tại bàn, cần gì đi đâu cũng phải xách theo! Trông Xuân Diệu tự đắc ra mặt. Ông tự đắc là phải. Cao Bá Quát, Xuân Diệu, Tố Hữu, Lê Duẩn ...có quyền tự cao, tự đắc vì họ là lãnh đạo, là anh hùng, là danh nhân. Ở đời có nhiều kẻ chẳng ra gì mà khinh người, mà ra sức đánh phá, tranh giành cái danh hảo không đáng một xu! Chả trách!


Xuân có nhiều tài.

I. TÀI LÀM THƠ  VÀ TÀI NỊNH

Xuân Diệu nổi danh trước 1945. Sau 1945, cộng sản cấm đoán thơ lãng mạn khiến Hữu Loan, Quang Dũng điêu đứng nhưng Huy Cận, Xuân Diệu, Thanh Tịnh có quyền làm thơ lãng mạn. Xuân Diệu tài nghề nịnh hót. Ông làm thơ ca tụng lãnh tụ, ca tụng chém giết:

Có xông pha, tranh đấu mới nên cờ.
Có máu chảy, nên sắc này mới đỏ.
Đỏ vì huyết đám đem tung trước gió,
Đỏ vì căm, vì tức, đỏ vì sao?
Đỏ vì dận như thác lũ ào ào,
Dân nổi dậy dựng cao trào cách...
... Sao vẫn sáng, máu xây nền vẫn đỏ!
Cờ là đó. Việt Nam này vẫn đó;
Hồ Chí Minh, muôn thuở Tiến Quân ca.
Sáng muôn năm, nền Dân Chủ Cộng Hoà.

( Ngọn quốc kỳ )

Ông cũng như các văn công khác, muốn sống phải chiến đấu it nhất là chiến đấu bằng mồm. Trong tập Trên Tuyến Đầu Tổ Quốc' ông tố cáo quân đội miền Nam:

Chặt đầu mổ bụng
Lấy mật moi gan, quân ác ôn chia nhau uống rượu . . . . . . .
Trận cuối cùng nhất định thắng lợi vẻ vang.


Ông cũng như Chế Lan Viên ca tụng hầm chông:
Một tên Mỹ bị sập hầm chông
Hai tên Mỹ chôn chân giữa đồng
Trăm tên Mỹ sỗ sàng cướp nước
Nghìn tên Mỹ sẽ thành số không!

(Một tên Mỹ bị sập hầm chông) 

Ghê nhất là thơ Đấu tố: Cũng như Tố Hữu, ông hô hào chém giết những đồng bào vô tội mà ông gọi là địa chủ, cường hào, phản động:

Anh em ơi quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù!
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi!

( Ngôi Sao)


Ông thẳng tay đấu tố đồng bào theo lệnh đảng. Ông cũng như bao kẻ bạo tàn thuở đó mất hết lương tri, nhân tính, đã đấu tố bố mẹ, anh chị em mình. Ông đã lôi bố mẹ ông là ông bà giáo Ngô Xuân Thu ra đấu tố! Từ Trụ Kiệt cho đến nay, người ta mới thấy một đứa con công khai gọi bố mẹ mình là thằng, là con trên báo chí. Trong đợt cải cách ruộng đất 1953, Xuân Diệu đã viết trong bài Gửi vợ chồng thằng Thu, tức ông bà Ngô Xuân Thu, bố của Ngô Xuân Diệu:


Ai về làng Bái Hạ
Nhắn vợ chồng thằng Thu
Rằng chúng bây là lũ quốc thù. . .

Ông cũng như Trường Chinh và bao kẻ khác đã theo đảng mà đấu tố cha mẹ minh. Dân Hà Nội kinh khiếp Trường Chinh:


“Hành Thiện có Bác Trường Chinh
Dạy con, dạy cháu hết mình tố cha”.

Nguyễn Khắc Viện cũng đã tố chú của mình để được cơm thừa canh cặn..

Minh Diện nhận xét tài năng của Xuân Tóc Quăn:

Ngoài làm thơ ông coi diễn thuyết là một cái nghề. Nhà văn Tô Hoài đã viết trong “Cát bụi chân ai” như vầy: “Xuân Diệu hay đi nói chuyện thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút bảy tám bài, nói khắp nước cũng ‘tủ’ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng nhấn mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉn cười!”.


Trong bảy, tám bài tủ của Xuân Diệu, ngoài ca ngợi Hồ Chí Minh, là nịnh Tố Hữu và các quan chức lớn của đảng. Xuất thân từ phong trào thơ mới, là thành viên trong nhóm “Tự lực văn đoàn”, từng được Hoài Thanh ca ngợi là “Ông hoàng của thơ tình”, Xuân Diệu đoạn tuyệt quá khứ theo cách mạng, nên phải “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” như Chế Lan Viên đã suy ngẫm. Xuân Diệu đã nâng tài nịnh hót thành nghệ thuật ngang với nghệ thuật làm thơ tình lãng mạn của ông để lấy lòng lãnh đạo, hưởng bổng lộc.


Trong tư liệu về phong trào “Nhân văn - Giai phẩm”, mọt nhóm tác giả đã nhận xét về Xuân Diệu: “Nhà thơ đã lợi dụng uy tín cá nhân của mình, và khai thác các mối quan hệ có quyền hành trong đảng ...”. Còn nhả thơ Nguyễn Bính thì khẳng định: “ Xuân Diệu và Huy Cận là một đôi đầy quyền lực trong lãnh vực văn hóa văn nghệ!”.


Lợi lộc mà Xuân Diệu giành được rất nhiều, xin chỉ đơn cử vài thứ làm bằng chứng: Tập thơ Ngôi Sao của ông theo đánh giá của nhiểu nhà phê bình rất nhiều khiếm khuyết, ông đã ép Nhà xuất bản Văn nghệ phải in sớm để dự thi. Và trong đợt xét giải thưởng văn học 1954-1955, ông trong Ban giám khảo, đã đưa tác phẩm của mình vào, tự chấm giải cho mình.


Trong những năm tháng phong trảo “Nhân văn - Giai phẩm” bị đàn áp, số phân nhiều văn nghệ sỹ bị đồn vào đường cùng, như nhà văn Phùng Quán nhớ lại: “Bao nhiêu cuộc đời bị rạn vỡ, bị ruồng bỏ, và bị lưu đày” thì Xuân Diệu hơn hớn hưởng hạnh phúc.
Ông được cấp nhà cao cửa rộng, phiếu thực phẩm Vân Hồ, và hường chế độ ưu tiên cán bộ trung cao.


Ngày ngày sau giờ làm việc, Xuân Diệu đạp xe đến cuối đường Bà Triệu, nơi có những hàng dạ lan hương thơm lừng cà một góc phố, gửi hồn vào những vần thơ tình cho một người con gái ông đang yêu. [...].Ngày đó đi nước ngoài khó hơn lên trời. Nhưng Xuân Diệu cắp cặp đi liên tục. Những “Ký sự nước Hung 1959”, “Ký sự Triểu Tiên 1960” đều là kết quả của những chuyến công du nước ngoài. Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp khắc, nơi náo ông cũng được đi.


Các nhà văn nhà thơ khác, lên kế hoạch ba, bốn năm chưa chắc được in chung một tác phẩm, Xuân Diệu viêt tác phẩm nào in ngay tác phẩm đó. “Ba thi hào dân tộc” 1959, “Riêng chung” 1960, ”Phê bình giới thiệu thơ”1960, “Một khối hồng”...


Nhờ nịnh hót mà Xuân Diệu được chức, được quyền, được, tiền , được tình.


Nếu Xuân Diệu nịnh hót chỉ để kiếm chút bổng lộc như vậy, dù không hay ho, cũng không đáng trách. Đằng này ông lại vào hùa đánh anh em bạn bè đồng nghiệp.


Đầu năm 1955, giới cầm bút lăn lộn trong rừng vể , sôi nổi phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong khi Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Tử Phác chê tập Việt Bắc ít vốn sống thực tế, nghệ thuật chưa phong phú, không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn thật sắc bén, thì Xuân Diệu khen hết lời. Ông viết: “Mới chỉ nhìn qua , đó chỉ là một bìa sách sáng tươi, trang nhã giữa bao nhiêu bìa sách khác,nhưng tập sách gọn gàng kia quả là đánh dấu một việc lớn của văn chương nước Việt Nam”.


Xuân Diệu ca ngợi Tố Hữu: “ Một nhà thơ con đẻ của cách mạng, lớn lên với cách mạng, và là kết tinh của cách mạng”. Ông cho rằng Tố Hữu đã mở lối dẫn dắt cả một thế hệ nhà văn, nhà thơ Việt Nam thoát ra khỏi vũng lầy tăm tối: “Trong khi các nhà thơ đắm chìm trong phong trào “thơ mới” mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong hát những bài ca tranh đấu!”.


Một trong những bài thơ tranh luận gay gắt nhất là bài “Đời đời nhớ ông”.
Trong khi Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến cùng cho rằng Tố Hữu thương vay khóc mướn, và bi lụy hóa tình cảm cùa nhân dân Việt Nam trước cái chết cùa Stalin, thì Xuân Diệu viết: “Sitalin mất, những dòng nước mắt của nhân dân ta đã chảy thành những câu thơ “Đời đời nhớ ông” của Tố Hữu”.


Xuân Diệu ca theo Hoài Việt: “Thật là vinh dự cho những kẻ cầm bút chúng ta. Vinh dự vì đã có một Tố Hữu. Tôi đọc ký sự Ngụy Nguy, thấy chỉ trong chế độ của chúng ta mới có những văn nghệ sỹ ưu tú như thế!”.


Bài diễn thuyết của Xuân Diệu nổi bật trong cuộc tranh luận, củng cố niềm tin vũng chắc vị trí giải nhất tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu , đồng thời tố cáo những “quan điểm lệch lạc” của một số đồng nghiệp. Trần Dần, Tử Phác bị giam ba tháng để kiểm điềm trong cuộc phê bình đó.

( Minh Diện. Ma với nhau. http://phamthang-hue.weebly.com/2013/xun-diu-ma-vi-nhau )



II. TÀI MÒ BẬY


Xuân Diệu là người đồng tính luyến ái . Ở tập thể, ban đêm Xuân Diệu hay đi mò bậy. Trong Hồi ký " Cát Bụi Chân Ai" Tô Hoài kể là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, lúc ở căn cứ Việt Bắc, hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để mò bậy. Các bạn trai của ông rất sợ, vì vậy cứ đêm đến là họ...đi tị nạn sang các nhà khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu:

Chúng nó sợ, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió Xuân Diệu ở u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi đêm ma quái về rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Nghe mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt... Lần này thì tôi lử lả, tôi chuồi ra rên ư ừ, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa.

 Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa.


Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong đêm quái quỷ lại thấy mình không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn tởm.


Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ chạy trốn dạt vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả đến thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên im như tờ. Chỉ còn cái màn đã buông sẵn của lão trai già Văn Hiên - một tay bốc trời thường khoe trước kia đã nhẵn mặt ăn chơi xóm Mông-mác bên Pa ri. Không biết lưu lạc ở đâu vào cơ quan, lão Hiến quần nâu vá gối, vá hai bả vai to bằng cái quạt mo, công tác giữ sổ công văn đi đến. [...].. Chẳng biết đêm hôm có ông kềnh nào bị bàn tay nhung sờ vào rốn không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo liền hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, nêu hướng sửa chữa và trình bày công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên đồi, màn vẫn mắc sẵn, đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai mọi việc.



Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Không biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy nhưng ai cũng to tiếng, to tiếng gay gắt nghiêm trang phê phán tư tưởng tư sản, tư tưởng tư sản xấu xa phải chừa đi. Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi... tình trai...! rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả. ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. (Ch.III.171-193)

Nguyễn Đăng Mạnh cũng niíi về bệnh và  Xuân Diệu :

Có một hồi, người ta cứ đồn Xuân Diệu ái nam ái nữ. Không rõ hư thực  thế nào. Rồi anh cưới Bạch Diệp. ái năm ái nữ sao lại lấy vợ? Nhưng được mấy tháng, Bạch Diệp bỏ luôn. Vậy là sao?
Thực ra Xuân Diệu chỉ mắc chứng đồng tính luyến ái và bất lực trongn quan hệ tình dục, chứ không ái nam ái nữ.
Hồi kháng chiến chống Pháp, tôi công tác với anh Lã Hữu Quỳnh ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc (Anh Quỳnh là một nhạc sĩ, sau 1954, về Hà Nội  làm Hiệu phó trường nhạc trung cấp). Anh quê ở Bắc Giang. Trong thời gian kháng chiến, các văn nghệ sĩ đi công tác qua, thường ghé vào nhà anh ngủ nhờ. Một lần, Xuân Diệu và Trần Văn Cẩn vào ngủ nhờ. Nửa đêm, anh thấy Cẩn đùng đùng dậy chửi mắng Xuân Diệu thậm tệ.
( Hồi Ký -Ch.IX)


III. TÀI BỐC PHÉT


Nước ta lâu lắm mới có Ba Giai, Tú Xuất là những kỳ nhân. Thời cờ đỏ sao vàng, hầu hết chiến sĩ cộng đảng là tay bán trời không văn tự, dối trá thành quỷ, thành tinh. Lừa đảo thời nay theo cộng sản đã thành quốc tế tính. Nơi nào có liềm búa là có khủng bố và dối trá.


Mikhail Sergeyevich Gorbachev, nguyên Tổng Bí Thư Cộng đảng Liên Xô nói:

Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

(I have devoted half of my life for communism. Today, I am sad to say that The Communist Party only spreads propaganda and deceives ).
Aleksandr Solzhenitsyn (1918- 2008), một nhà văn Nga nổi danh tố cộng với tác phẩm " Quần Đảo Gulag" (The Gulag Archipelago - 1973). viết:

Khi một tên cộng sản nói dối, hãy đứng dậy mà nói: Mày nói láo. Nếu anh không có can đảm nói thẳng vào mặt nó, hãy bỏ đi. Nếu anh không dám bỏ đi, đừng nhắc lại những lời nó nói láo.
(When a Communist lies to you, stand up and tell him that he is lying. If you don&#039T dare to say that he lies, walk away. If you do not dare to walk away, do not recite the lie that you heard to anybody.)


Và ông cũng nói:
Trong xứ sở của chúng ta, dối trá không phải là một thứ đạo đức mẫu mực mà là một loại cột trụ cho quốc gia. (In our country the lie has become not just a moral category but a pillar of the State. )



Tổ sư thời đại mới là cậu Nguyễn Văn Ba, gốc Ba Xạo, tiếp theo là Trần Huy Liệu, cha đẻ của Lê Văn Tám. Từ đó sinh sôi nẩy nở hàng triệu anh Ba Đía, chú Ba  Trợn, cậu Ba Lá , cô Ba  Hoa XHCN. Xuân Diệu làm nghề chọc cười thiên hạ bằng cách tuyên truyền chống Mỹ, Mỹ là bọn khờ khạo, ngu dại. Đó cũng là kiểu ba hoa: "Liên Xô viện trợ cho ta hỏa tiễn nhưng bắn không trúng B52 của Mỹ. Các nhà khoa học ta phải nối cho dài thêm thì mới hạ được máy bay Mỹ (trò giỏi hơn thầy!)... Rằng máy bay ta núp trong mây ( như trẻ con chơi trốn tìm), chờ máy bay Mỹ đến bất ngờ nhảy ra bắn Mỹ không kịp trở tay... Nào  anh hùng Nguyễn Văn Bốn  dùng dàn thun bắn lựu đạn bay xa mấy trăm mét  ,Cô tự vệ Ngô Thị Hồng dùng súng trường K44 bắn rơi máy bay Mỹ,  Nào ngoài Bắc gì cũng có. Nhà nào cũng có tủ lạnh, trưa tối cả nhà chui vào nằm cho mát... Nào là ngoài Bắc TV chạy đầy đường, cà rem ăn không hết, phải phơi khô xuất khẩu!!!



Trong Một Thời Để Mất, Bùi Ngọc Tấn viết về Xuân Diệu như sau::


Trong thời gian kháng chiến khốc liệt và vui tươi đó, Xuân Diệu về trường chúng tôi. Anh nói chuyện thời sự. Anh nói về xã hội thối nát của Pháp và Mỹ, về những đảng 3K, những điệu nhảy Hu-la-húp, Rốc-en-rôn. Xuân Diệu trợn tròn mắt:
- Các đồng chí có biết bên ấy chúng nó mặc quần áo bằng gì không? Bằng ni lông! Quần áo ni lông! Chúng tôi ào lên. Thật không thể nào hiểu được cái bọn người khốn nạn ấy lại có thể lấy ni lông làm quần áo, thứ vải mưa mầu cánh dán trong suốt mà chúng tôi mới được biết đến khi các anh tôi từ vùng địch hậu ra, có mang theo vài mảnh, vừa dùng để đi mưa, vừa dùng gói quần áo, lấy dây túm chặt làm thành một thứ phao bơi khi vượt sông ra vùng tự do. Thật là một lũ điên loạn, truỵ lạc. Mặc quần áo như vậy có khác gì cởi truồng! (Mãi mấy chục năm sau khi may chiếc áo ni lông đầu tiên trong đời mà Nguyên Hồng gọi là pha lon, tôi mới thấy loại vải ấy thật tuyệt biết bao).
Xuân Diệu bồi thêm:
- Còn quần áo may bằng vải thường các đồng chí có biết nó in gì lên đấy không. Không phải in hoa! Nó in cả một tờ Nữu ước thời báo với đầy đủ ảnh, măng sét, tít lớn, tít nhỏ, tin ngắn, tin dài lên mặt vải. Cũng không phải in lên một bộ quần áo mà in lên cả hàng bao nhiêu cuộn vải rồi cứ thế mà cắt!
Không để chúng tôi kịp ngạc nhiên, Xuân Diệu tiếp luôn:
- Còn tổng thống ở bên Mỹ, khi hết nhiệm kỳ không làm lổng thống nữa, các đồng chí có biết nó đi làm gì không? Đi quảng cáo cho các hãng buôn kiếm tiền? Chúng tôi lại ồ lên. Cái bọn người quái đản ấy cần được cải tạo. Chúng ta sẽ là người cải tạo chúng. Giai cấp vô sản, tầng lớp lao động, những người nghèo khổ bị bóc lột ở những nước ấy sẽ đứng lên. (Ch.I)



IV. TÀI VÒI ĂN VÀ THAM ĂN


Xuân Diệu hơn người cái đức ăn. Nguyễn Đăng Mạnh trong Hồi ký kể rằng Xuân Diệu, Huy Cận tham ăn : 
Hồi khoa văn Đại học sư phạm Việt Bắc đưa sinh viên về Hà Nội (đóng ở Cổ Nhuế) để mời các nhà văn đến nói chuyện, tôi có được nhờ tiếp khách hộ. Tôi thấy Xuân Diệu rất thích uống bia và húp trứng sống. Anh còn nói, tối nào, cần viết một cái gì thì buổi chiều thế nào cũng phải mua ba lạng thịt chó để bồi dưỡng. Có thế mới có sức viết (Xuân Diệu chết vì bị nhồi máu cơ tim, tức là máu nhiễm mỡ, cần kiêng ăn nhiều thịt, trứng. Khi anh mất, Vũ Tú Nam nói, Xuân Diệu đã bồi dưỡng nhầm là vì thế). Huy Cận cũng vậy. Phải nói là tham ăn. (Ch.IX)
Tuổi Trẻ Cười thuật một chuyện ăn của Xuân Diệu:
Một công ty ăn uống ở Hà Nội mới làm được một loại bánh bao ngon, hy vọng hơn cả bánh của người Hoa ở phố Hàng Buồm. Chủ nhiệm công ty là người mê văn nghệ, mời hơn chục nhà thơ đến thưởng thức.
Ngồi vào bàn, không chờ chủ mời, nhà thơ Xuân Diệu cầm một chiếc bánh bao ăn liền. Còn những người khác thì lịch sự nghe bài diễn văn của chủ nhiệm.


Đọc xong bài diễn văn ông mời các nhà thơ thưởng thức bánh. Nhìn đến cái đĩa trước mặt nhà thơ Xuân Diệu, thấy trống trơn, ông lừ mắt ra hiệu cho cô nhân viên bỏ thêm bánh vào. Nhà thơ Xuân Diệu lại thản nhiên ăn. Vừa ăn, Vĩnh Mai vừa lúi húi viết. Một lúc sau, mọi người chuyền tay nhau một mẩu giấy có bài thơ bốn câu:


Cái bánh bao hời, cái bánh bao
Mùa xuân kỳ diệu, Diệu kỳ sao!
Người ta một chiếc, ông hai chiếc
Thơ nghĩ chưa ra, bánh đã vào!
Xuân Diệu là người đọc bốn câu thơ luân lưu ấy sau cùng, ông gật gù khen hay.
( HÀ THƯỜNG NHÀN-Theo 101 Chuyện nhà văn VN hiện đại của Nguyễn Bùi Vợi)

http://chuyentrang.tuoitre.vn/TTC/Index.aspx?ArticleID=55752&ChannelID=


Thanh Thảo kể về Xuân Diệu:


Trưa đó, Hội An mời Xuân Diệu và chúng tôi đi ăn… cao lầu. Nghe danh món ăn này từ lâu, nên mấy anh em “lính pháo” chúng tôi đều náo nức. Riêng Xuân Diệu, coi bộ ông còn hồi hộp hơn cả chúng tôi, vì như ông nói, “món này mình đã ăn cách đây 40 năm rồi, giờ mới có dịp ăn lại”.

Tới khi ăn mới biết, hoá ra món này cũng không ngon là mấy, lại nhiều mỡ, ăn hơi bị ngán. Chúng tôi mỗi người chỉ xơi được một bát, rồi… ngồi nhìn. Riêng Xuân Diệu, ông xơi những hai bát. Chúng tôi nhìn ông ăn mà… thán phục.

Sao ông bác ăn giỏi thế! Khi ăn xong trên đường về, chúng tôi “phỏng vấn” ông về bữa ăn, Xuân Diệu mới thú thật: “Món cao lầu bây giờ cũng chả ngon mấy! Nhưng mình ăn chủ yếu để nhớ kỷ niệm hồi xưa thôi”. Ăn để nhớ kỷ niệm? Đúng là thế! Và đó cũng là một kiểu ăn của Xuân Diệu.
Thanh ThảoXuân D… ăn

http://motthegioi.vn/chuyen-hang-ngay/xuan-dieu-an-36375.html



Cũng trong Cát Bụi Chân Ai, Tô Hoài viết về đưc ăn của Xuân Diệu:

Chúng tôi đi công tác thuế công thương ở trung du. Xuống tận Lâm Thao, cách bốt địch ở Việt Trì không mấy chốc. Đã được trên tỉnh dặn gần vùng địch phải gọn. Gọn, nhưng ba lô Xuân Diệu vẫn đủ thứ dự trữ, mỗi chuyến đi đều sắp sắn thế. Lọ nước mắm kem đặc sệt. Một túi củ hành tỏi đã bóc bót vỏ cho nhẹ đem từ khu bốn ra. Hộp thịt bò khô ướp lá sả. Cái thịt bò kho khan ấy xào nấu ở nhà tôi, hôm chúng tôi tạt vào Thinh Cù trước khi xuống Lâm Thao. Lúc đi, tôi chỉ đeo ba lô con cóc, có cái màn và quần áo. Xuân Diệu cằn nhằn: Cậu này, có cái ăn mà cũng ẩu Thế thì cậu quý cái gì? Nói thế, nhưng khi đến bữa vẫn cho tôi miếng thịt kho và củ tỏi, và ăn nữa cũng được. Nhưng cứ phàn nàn, cảu nhảu tôi cẩu thả. Tôi cười và chén tự nhiên.


Xuân Diệu cho tôi là đứa khinh bạc, nhưng lại thương tôi, nên hay bảo ban, nhiều khi từ những việc nho nhỏ. Xuân Diệu khuyên tôi phải biết quý miếng ăn. Xuân Diệu dạy tôi khi nào đứng đái phải cắn chặt hai hàm răng lại, như thế sẽ ăn khoẻ chẳng kém hàng ngày uống vitamin B1. Xuân Diệu bảo bí quyết dưỡng sinh gia truyền ấy, ông thân sinh đã dạy từ khi còn bé. Tôi có cảm tưởng Xuân Diệu ăn uống cũng chẳng bao nhiêu, nhưng anh ăn cố. Không phải Xuân Diệu ăn, mà một người nào khoẻ lắm gắp hộ, nhai hộ, biến Xuân Diệu thành con ma ăn, trông đến thương. Một chuyến chúng tôi cùng nhau thăm nước Lào, ở khách sạn Apôlô. Mỗi sáng Xuân Diệu nhắc: cậu không ăn sữa thì để riêng đấy cho mình, không ăn hết bánh cuốn thì lấy đĩa sẻ ra cho vệ sinh để mình ăn nốt. Cố lên, ăn phất phơ thế không được. Nhà bàn bưng ra nhiều món, Xuân Diệu cứ thong thả vừa nhai vừa ngắm từng miếng và ăn đến hết. Đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu. ở bệnh viện về, Xuân Diệu thở dài:

- Cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn.
Nhưng rồi lại vẫn cứ thong thả quét sạch mâm, như mọi khi.(Ch III, 190-193)



MINH DIỆN kể cho chúng ta một giai thoại về Xuân Diệu vòi ăn,  và cố đấm ăn xôi:

Cuối năm 1983, Công ty cao su Dầu Tiếng tổ chức Hội nghị tổng kết cuối năm. Năm ấy phân u-re được Liên Xô cấp, mủ cao su được Liên Xô bao tiêu, công ty này trở thành điển hình tiên tiến toàn ngành, nên tổ chức Hội nghị tổng kết to. Trưởng phòng thi đua - tuyên truyền Nguyễn Hữu Bằng lên Sài Gòn mời nhà báo, miệng bô bô: “Ngoài đánh chén, còn có một sấp vải Seviot may quần, một sấp vải KT may áo, một kg bột ngọt và một phong bì 50 đồng nghe!”. Món quà đó ngày ấy bằng hai tháng lương chuyên viên một của tôi, hơn nữa có tiền chưa chắc đã mua được vải Seviot, KT, bột ngọt theo tiêu chuẩn phân phối .


Cánh phóng viên bàn tán lao xao trong khuôn viên Câu lạc bộ Hội nhà văn thành phố ở đường Trần Quốc Thảo, và đến tai nhà thơ Xuân Diệu đang uống cà phê sáng tại đó. Ông vào Sài Gòn cùng giáo sư Hoàng Như Mai tổ chức ‘sô’ nói chuyện thơ, nhưng ế lắm. Nhà thơ Xuân Diệu vẫy Trưởng phòng Nguyễn Hữu Bằng tới, bảo cho ông một suất dự Hội nghị tổng kết cuối năm với công ty. Anh chàng Trưởng phòng tuyên truyền hơi lưỡng lự, nhưng rồi mở cặp, lấy tờ giấy mời viết, đưa cho Xuân Diệu. Mấy nhà báo chúng tôi được vinh dự tháp tùng nhà thơ lớn nổi tiếng, rất hãnh diện.


Một phó giám đốc thay mặt công ty đón tiếp chúng tôi, phát cho mỗi người một bản tổng kết thành tích dày cộp, đựng trong túi với tờ lịch của công ty. Nhà thơ Xuân Diệu cầm chiếc túi xăm soi, rồi hỏi :- Thế quà đâu?

Anh Bằng nói:

- Qùa sẽ đưa sau ạ!

Chúng tôi nhìn nhau ngượng đỏ mặt. Không ngờ nhà thơ tình nổi tiếng lãng mạn lại hiện thực xã hội chủ nghĩa như vậy.


Hội trường trang trí rất đẹp, có hoa tươi, sân khấu, loa phóng thanh đầy đủ. Đại diện lãnh đạo tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh, huyện Dầu Tiếng và các ban ngảnh Tổng cục cao su cùng hàng trăm lao động tiên tiến của công ty ngồi kín các hàng ghế. Trong khi chờ đợi khai mạc Hội nghị, anh Bằng trân trọng giới thiệu nhà thơ Xuân Diệu lên đọc thơ. Bằng nói rất rõ là đọc những bài thơ tình tuyệt tác! Một tràng pháo tay rất dài, có ngưới đứng lên để nhìn cho rõ nhà thơ Xuân Diệu nổi tiếng.


Nhà thơ Xuân Diệu mặt bộ véc cũ, không thắt Caravate, đeo kính dâm, tóc xòa kín cổ bước lên sân khấu ngẩng mặt, nghiêng người đón tràng pháo tay, rồi cầm Micro, nói giọng trầm, bổng:
- Dân tộc Việt Nam đã sinh ra một Nguyễn Du ,để rồi: “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân kháp Tố Như!”. Không, hôm nay tôi không nhỏ lệ vì cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương ấy, mà cùng mọi người cất tiếng hát, tiếng reo vui giữa rừng thơ Tố Hữu...


Xuân Diệu ngả người chờ tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ ran lên, ông mỉm cười đón nhận. Chờ tiếng vỗ tay đứt, và mọi mọi người yên lặng , ông cất tiếng đọc bài thơ “Cá nước”, với chất giọng sang sảng. Tiếp theo là bài thơ “ Sáng tháng năm”


Bọn tôi cứ tưởng Xuân Diệu đọc mấy bài thơ của Tố Hữu và mấy bài thơ của mình rồi nhường sấn khấu để khai mạc hội nghị, nào ngờ ông thao thao bất tuyệt phân tích tính đảng, tính quần chúng, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa, tính nghệ thuật trong thơ. Cái đầu ông lắc lư, hai tay vung vẩy, hai chân nhún nhẩy, như nhập đồng.


Chín giờ, rồi chín giờ ba mươi, ông vẫn nói. Hai mép đùn ra hai cục bọt trắng như bọt xà phòng.

Ông Tư Nguyện, nguyên Bí thư tỉnh ủy Sông Bé thời chiến tranh, lúc đó làm Tổng cục trưởng cao su, ngồi trên hàng ghế đầu nhập nhổm như bị kiến cắn! Cái trán hói bóng lưỡng đỏ tía lên. Ông đã không hài lòng khi anh Bằng tự tiện làm cái việc trái khoáy mời nhà thơ bình thơ trong Hội nghị tổng kết, giờ thấy nhà thơ Xuân Diệu chiếm sân khấu nói tràng giang đại hải, nên rất bực. Nhà báo Phạm Lân thấy bất ổn, nháy Bằng lên mời Xuân Diệu xuống. Bằng lên nói nhỏ vào tai Xuân Diệu: “Qúa giờ khai mạc rồi, mời bác nghỉ thôi!”. Chẳng biết Xuân Diệu có nghe rõ không, vẫn cầm Micro bình thơ.


Một tình huống xảy ra làm mọi người ngỡ ngàng. Ông Tư Nguyện đứng dậy, xăm xăm bước lên sân khấu, giật phắt chiếc Micro trong tay nhà thơ Xuân Diệu. Rồi ông tuyên bố khai mạc Hội nghị tổng kết. Nhà thơ Xuân Diệu lủi lũi bước xuống, không có tiếng vỗ tay nào.

Chúng tôi tưởng Xuân Diệu tự ái, nhưng không, ông vẫn ở lại ăn uống thoải mái và nhận phần quà rồi mới về.
Nguyễn Chí Thiệp trong Trại Kiên Giam kể chuyện ông chú ngoài Bắc vào nói về Xuân Diệu:
Chú không biết định thế nào là tham nhũng nhiều ít, chú kể một câu chuyện, sau đó cháu tự lượng định lấy. Chắc cháu biết thi sĩ Xuân Diệu, ông ta không có công tác gì nhiều, “Cái cần câu cơm” của ông là bài thuyết trình “Đạo Đức Bác Hồ” và “Tiết Kiệm Để Sản Xuất”. Hai bài thuyết trình nối với nhau bởi một đoạn kể chuyện Bác Hồ dạy người cần vụ đặt miếng xà-phòng sau khi tắm lên viên gạch để xà-phòng ráo nước, cứng, lâu hao mòn.



“Một hôm nhà máy phân bón nơi tôi làm việc, được chỉ thị đón nhà thơ Xuân Diệu đến thuyết trình. Đảng cử đồng chí giám đốc và tôi đi đón, trên đường thi sĩ Xuân Diệu nói: “Tôi nói chuyện với nhà máy thì cũng quá trưa, vậy trưa nay nhà máy cho tôi ăn gì nào? Thôi để các đồng chí dễ quyết định, tôi gợi ý các đồng chí nhé, tôi bị bệnh bao tử, các đồng chí cho tôi ăn cơm nếp nhé, mà chẳng lẽ ăn cơm nếp suông, lẽ nào các đồng chí không cho tôi ăn món mặn? Gà nhé? ừ, cơm nếp với gà, mà gà trống thiến thì nhất”. Chúng tôi hứa với thi sĩ về sẽ hội ý với các đồng chí trong ban lãnh đạo nhà máy mới quyết định, nhưng chắc là không trở ngại. Một lúc sau, thi sĩ Xuân Diệu lại lên tiếng: “Có ăn trưa rồi thì phải có uống chứ? Mà ngay lúc tôi nói cũng phải có gì cho tôi giải lao nhé, thôi để tôi gợi ý cho các đồng chí là cho tôi uống bia nhé? Uống nước lã tôi hay đau bụng”.



Bia là tiêu chuẩn cao, giám đốc trở lên mới có, cán bộ kỹ thuật như chú chưa có tiêu chuẩn bia, đồng chí giám đốc phải hứa dành phần bia tiêu chuẩn của mình để đãi khách. Thi sĩ mới yên tâm. Sau buổi nói chuyện có ăn và uống, thi sĩ Xuân Diệu nhờ nhà máy đưa về Hà Nội, về đến nhà thi sĩ mời chúng tôi vào nhà, tại phòng khách thi sĩ nói: “Tôi đã làm việc với nhà máy, vậy nhà máy phải có tình gì với tôi chứ; đây các đồng chí xem, cái tủ chè này là nhà máy dệt Nam Định biếu tôi sau buổi nói chuyện đấy, có người đã trả tôi 800 đồng chưa bán, tượng Bác Hồ bằng thạch cao do nhà máy Pin Văn Điển biếu đấy nhé, 200 đồng tôi chưa bán. Nhà máy biếu tôi cái gì nào?”


Đó không phải là hình thức tham nhũng, nhưng nó rất thê thảm. Một xã hội đói khó đến như một viên chức cao cấp, vừa là một thi sĩ nổi tiếng mà phải gạ gẫm từng bữa ăn, món quà – chắc chắn nếu có điều kiện thì vấn đề tham nhũng không thể nào ít đi được.


Sau khi phân tích nhiều khuyết điểm của chế độ, tôi hỏi rằng có thể do chiến tranh, không thể sản xuất được, kinh tế yếu kém, đời sống nhiều khó khăn v.v… Vậy theo ý chú, nếu loại bỏ hết trở lực, liệu chế độ Cộng Sản có thể mang tiến bộ gì cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân không? (Ch.II)


Cộng sản  trước đây che đậy nhưng Xuân Diệu lộ hết những cái xấu bản chất cộng sản. Ngày nay thì cộng sản không sợ ai, không làm mẽ mà trắng trợn cướp bóc, đàn áp và phản bội nhân dân. Con người Xuân Diệu là đại biểu cho con người cộng sản tham lam, tàn ác, không biết xấu hổ là gì. Một nhà thơ, một trí thức, con nhà  khá giả mà như thế thì bọn vô sản chính cống, vô học chân chính  túy thì tệ hại không biết chừng nào cho quốc gia và xã hội!  Đó là do hoc thuyết Marx, chủ nghĩa cộng sản và hành động "chuyên chính vô sản" đã làm băng hoại xã hội!

No comments:

Post a Comment