Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday, 28 October 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = TIN QUỐC TẾ

TRẦN VĂN * CHUYỆN TÙ CẢI TẠO

 





CHUYỆN TÙ CẢI TẠO NHIỀU NGƯỜI MUỐN BIẾT TRẦN VĂN


LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI VIẾT:
 
Hơn 38 năm đối với đời người quả thật dài. Những vui buồn của ngày tháng cũ trong ký ức theo thời gian dài phải bị xóa nhòa, nhưng, đối với những người chiến sĩ QLVNCH bị gác súng tức tưởi mà kẻ thù chụp cho cái mũ có nhiều “nợ máu với nhân dân và cách mạng”, chúng trả thù và hành hạ thật ác độc, đê hèn, làm sao quên được?

Tháng 6 năm 1976, Ban Quân Quản Sài Gòn ra lệnh gom hết những người gọi là có nhiều nợ máu vào đợt “học tập cải tạo” đầu tiên, sĩ quan cao cấp từ tá đến tướng. Bên chính quyền với những vị công cử đầu não cùng với các vị dân cử trong Quốc Hội, Hội Đồng Tỉnh; các giới chức lãnh đạo các đảng phái chính trị và các tu sĩ có thành tích chống cộng…Sau đó chúng lùa hết quân cán chính VNCH vào rọ. Trại tù cải tạo được thiết lập trên khắp lãnh thổ từ miền cuối Việt Cà Mau đến tận vùng cực bắc Lào Cai, Sơn La..., và cả nước là một nhà tù khổng lồ. Đây quả là một giai đọan lịch sử bi thảm nhất trong hơn 4 ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.

Chuyện Tù Cải Tạo Nhiều Người Muốn Biết mà tôi đang viết sẽ phát hành vào năm tới, nhằm phơi bày và vạch trần tội ác của chế độc cộng sản Việt Nam đối với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị “ngã ngựa” kể từ ngày 30.4.1975. Dưới đây, tóm lược bối cảnh các trại tù mà Trần Văn đã từng trải qua: Thành Ông Năm (Hóc Môn), Suối Máu (Biên Hòa), Sơn La (Bắc Việt), Hồng Ca - Yên Bái (Bắc Việt), Tân Lập - Vĩnh Phú (các trại gọi là K - 2 - 1 - 4 - 3 - Bắc Việt), Z30D - Hàm Tân (Bình Tuy - Rừng Lá - Miền Nam VN)).

Nhân Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tổ chức ở Dallas – Texas từ 3 đến 5 tháng 10 năm 2008. Cá nhân tôi và trên 4 - 5000 người ở khắp nơi Hoa Kỳ & Canada hội tụ vê đây cùng tham dự 3 ngày đại hội do Hội Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ tổ chức. Đây là đại hội cựu tù nhân quy tụ đông đảo nhất cựu tù ở hải ngoại, đánh dấu sự thành công to lớn dù có người hô hào chống đối tẩy chay.

Xin mời quý độc giả đọc và suy gẫm, thế hệ chúng tôi phải làm gì để quên quá khứ bi thảm nhất trong cuộc đời của mình…?

-------------


NHỮNG NGÀY ĐẦU VÀO TÙ

TRƯỜNG TRUNG HỌC PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ




Theo thông báo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam từ ngày 30.4.75, theo lời cộng sản nói, những thành phần "có nhiều nợ máu" phải trình diện 3 ngày 13, 14, 15 tháng 6 năm 1975 (tôi có thể nhớ sai ngày dương lịch), nhưng, chắc chắn là trong 3 ngày trình diện đó có ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch năm Ất Mão, vợ chồng chúng tôi trình diện vào buổi chiều ngày này.

Cư ngụ ở quận 8 nên chúng tôi trình diện một lúc với các anh em khác cùng cấp bậc Thiếu tá ở các quận 6, 7 (hình như có thêm quận 9 mới thành lập không lâu ở bên kia sông Sài Gòn - Thủ Thiêm) tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký ở đại lộ Cộng Hòa (VC gọi trường này là Lê Hồng Phong). Còn những qúy vị khác tùy theo cấp chức trình diện ở các địa điểm khác, hầu hết là các trường học. Thông cáo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam nói rõ là chúng tôi phải mang theo tư trang (đồ dùng cả nhân) và đóng đủ tiền ăn 1 tháng, khoảng trên 13 ngàn mấy trăm (bằng 1/3 lương của một Thiếu tá. Sau đó, trình diện đi tù đợt 2: sĩ quan từ Đại úy trở xuống đóng tiền ăn 10 ngày…).




Sĩ quan cấp Thiếu tá trình diện ở trường Trung học Pétrus Ký ít hơn các nơi khác, trên dưới 100 người, vì các quận 6,7,8… nằm ở ven đô - Thủ Đô Sài Gòn. Người nữ quân nhân duy nhất tại điểm tập trung này, Thiếu tá Trần Thị Bích Nga, Chỉ Huy Trưởng Trường Xã Hội Quân Đội (trường nằm trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Đô). Thật đúng là hoa lạc giữa rừng gươm tua tủa của hai phía ta và địch.

Ngày đầu tiên trình diện, chúng tôi được “cách mạng” cho thưởng thức cách trị bệnh thần sầu quỷ khốc, nằm dài trên ghế học trò, được nhỏ nước tỏi tươi nồng nặc vào hai lỗ mũi. Ngày sau, truớc khi có “lệnh hành quân” chuyển đến trại tù chính , chúng tôi được nhà hàng sang trọng Ngọc Lan Đình ở Chợ Lớn đưa bàn ghế tới, cứ 10 người một bàn như “nhập đại tiệc”, có đến 7 món ăn mà chúng ta thường gặp trong các tiệc cưới… Khi nhân viên nhà hàng thân quen Ngọc Lan Đình đến “thết đải”, tự dưng tôi chảy nước mắt vì tháng 2 năm 1962, khi tôi được các giáo sư và nhà trường Phước Kiến (266 Đại lộ Khổng Tử, sau đổi tên là trường Phước Đức.Vụ Tết Mậu Thân, trực thăng xạ kích lầm nơi này làm chết và bị thương nhiều sĩ quan cấp tá) tổ chức một bữa tiệc linh đình để tiển đưa tôi nhập ngũ khoá 13 Thủ Đức tại nhà hàng Ngọc Lan Đình. Lúc bấy giờ tôi là Giám học trường trung học này [kể cả học sinh trung tiểu học có (3000 hay 5000 em?), học 2 thứ tiếng Việt và Tàu mà tôi làm Giám học đặc trách về các môn học Việt ngữ, Tiến sĩ Tăng Kim Đông làm Hiệu trưởng, sau TS Đông làm Tổng Trưởng Giáo dục thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc]. Tôi được TS Tăng Kim Đông mời phát biểu lời từ giã, sau vài lời cám ơn giáo sư và nhà trường, tôi sực nhớ đến 4 câu thơ xưa của Tàu và lên giọng to:


Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
 
Tự nhiên tôi chảy nước mắt và khi đó có một giáo sư người Hoa rất qúy mến tôi, anh cảm kích đọc lại bài thơ này bằng tiếng Hoa (Quan Thoại), cả thực khách đến mấy trăm người dự tiệc như lắng đọng, cảm kích chia xẻ với tôi “cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi”. Đó cũng là dấu ấn khó quên trong đời đi dạy học của tôi từ tiểu học đến trung học. Sau hơn 13 năm đi lính, nay cũng chính nhà hàng Ngọc Lan Đình đãi tiển chúng tôi vào một ngày mai mờ mịt…nên tôi xúc động thật sự. Bài thơ tứ tuyệt ấy lại đến với tôi và câu cuối cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi, 13 năm trước cho đến ngày vào tù, tôi vẫn sống và thăng quan tiến chức. Tôi như thầy bói suy luận, biết đâu câu thơ này sẽ vận vào cuộc đời ở tù của tôi từ đây…




Trình diện “học tập cải tạo”, một danh xưng bịp của bọn CSBV mà chúng tôi tự ý đưa thân nạp mạng cho loài quỷ dữ, đúng ngày Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng 5 năm Ất Mão (1975).

Hai vợ chồng đèo trên 1 chiếc xe đạp, người tài xế trung thành của bà xã tôi, từ Hóc Môn đạp xe xuống để tiển đưa. Khi chúng tôi mang ba lô vào cổng trường Pétrus Ký, chú Nhuận tên người tài xế thân thương trung thành đó, một tay lái xe, một tay cố kềm đưa chiếc xe đạp thứ hai về nhà. Chúng tôi ở khu lao động, dốc cẫu Chữ Y, đường Hưng Phú - đường đi đến lò heo Chánh Hưng,. Bốn đứa con nhỏ của chúng tôi, từ 3 đến 9 tuổi, được cha mẹ chúng để lại chiếc xe đạp làm phương tiện và là một tài sản sau cuộc đổi đời này.

Viết đến đây, ký ức của tôi bỗng nhiên như thấy cảnh tượng hoang mang, lo sợ, giao động của hơn 38 năm trước như hiện rõ.

Khi Thủ Đô Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, thời mạt vận của chánh thể VNCH đã ập đến nhanh quá. Nỗi nhục nhã ê chề của những người lính từng cầm súng chống quân xâm lược cộng sản Bắc Việt, nay đến thời điểm lâm vào cảnh cá chậu chim lồng. Tất cả chiến sĩ anh hùng của QLVNCH phải buông súng và sống trong cảnh phập phồng. Chúng tôi chờ đợi kẻ thù công bố chính sách đối xử với tù hàng binh mà CSBV rêu rao ra rả hàng ngày trên các hệ thống truyền thông suốt 2 tháng 5 và 6.1975. Sự phập phồng, lo âu như cảnh tượng quân Khơ Me đỏ sau những ngày tiến chiếm Thủ Đô Pnom Penh (Nam Vang) nhốt và giết sạch kẻ thù của chúng. Ý nghĩ này đã xâm nhập vào tâm tư tình cảm của mọi người, một tương lai mờ mịt u buồn, thê lương tràn ngập trong suy nghĩ của từng người từng gia đình mà gia đình chúng tôi cả hai vợ chồng đều là lính, bốn đứa con nhỏ dại sẽ nương tựa vào đâu để sống?.





THÀNH ÔNG NĂM – LIÊN ĐOÀN 5 CÔNG BINH KIẾN TẠO




Một trăm thiếu tá trình diện ở trường Pétrus Ký, khi chuyển đến thành Ông Năm ở Hóc Môn (bản doanh của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo) được chia thành 2 đội 34 và 35. Tôi ở đội 34, đội 35 có 5 Y sĩ Thiếu tá. Bà Thiếu tá Bích Nga nhập cùng với quý chị cấp tá khác ở đội nữ, cách đội 34, 35 chỉ một con đường và gần sát hàng rào kẽm gai. Hàng ngày, chúng tôi có thể trông thấy nhau dùng ánh mắt chia xẻ sự lo âu sâu xa về tương lai của 4 đứa con nhỏ dại…

Những ngày đầu, nhiều chuyện quan trọng đã xảy ra tại lán của đội 34 và 35 ở trại tù Thành Ông Năm – Hóc Môn:

Chuyện khó tin, nhưng có thật, một tên cán bộ y tá, mặt rỗ khá rõ đến lán đội 34 và 35, tập hợp 5 ông thiếu tá bác sĩ Quân Y, dẫn ra khỏi lán bảo đứng nghiêm, 5 ông là bậc thầy của chúng, nghe tên cán ngố này giảng về vệ sinh phòng bệnh… Hắn dẫn 5 ông bác sĩ tội nghiệp của chúng ta phải đi xem “thanh sát” các đường mương, nhà cầu, cách làm sạch các chỗ này. Chưa hết cán ngố còn chỉ bảo cách chửa bệnh nữa cơ làm 5 ông bác sĩ phe ta cứ ngẫng mặt mà nhìn chịu trận, nín thở qua sông. Về lán, anh bác sĩ Tôn Thất Thận (lớn tuổi nhất trong 5 ông BS) nằm gần tôi, kể lại cho chúng tôi nghe mà cùng nhau cười ngất.

Chuyện mà tôi cũng khó quên, anh Hoàng Xuân Định (hiện ở San Jose), Thiếu tá Quân Cụ, anh em thúc bá với Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên Tư Lệnh QĐ1 & QK1, đứng ra nhận lãnh chức Trưởng Ban Văn Nghệ của trại tù Thành Ông Năm (Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo do Đại tá Dương Công Liêm làm Liên Đoàn Trưởng). Không biết ai giới thiệu với anh Định, chọn tôi vào ban văn nghệ, xung vào thành phần đóng kịch vì hát xướng, giọng vịt đực của tôi bù trất. Sở dĩ, tôi chấp nhận sự chọn lựa này vì hoàn cảnh bi đát của tôi, vợ chồng đều bị đi tù, ở gần nhau mà chẳng nói được lời nào với nhau. Tôi luôn bị ám ảnh tình cảnh 4 đứa con nhỏ dại làm sao mà sống với bà mẹ vợ già cả và thường bị nhiều thứ bệnh. Hơn nữa, trước khi đi tù, có tin, nhà đang ở của gia đình sẽ có một tiểu đội bộ đội CSBV “xin” được đến đóng chốt, làm sao mẹ vợ của tôi từ chối, các con chúng tôi sẽ chịu cảnh ở chật chội, mất tự do. Tôi cần phải làm cái gì để tạm quên sự lo âu dằn vặt đang ăn sâu vào tâm trí, tôi vào đội văn nghệ để giết thì giờ.

Suýt chút nữa, ban văn nghệ của anh Hoàng Xuân Định được cách mạng “chiếu cố” cho vào cùm. Với vỡ hài kịch mà anh Định viết nói về những ngô nghê, ngu dốt của đám khỉ từ rừng mới về Sài Gòn hoa lệ làm cuộc đổi đời, dân chúng từ sung túc xuống bần cùng. Dù anh Định viết rất khéo, nhưng đến buổi phúc khảo, có người trong phe ta làm ăng-ten lập công (nghe anh em kể lại) phân tích tỉ mỉ cái ý nghĩa của vỡ hài kịch “trình” với cán bộ “răng đen mã tấu” ngu dốt “đì” chúng tôi. Nhưng, lúc đó cán bộ cộng sản còn “nới tay” vì mới chiếm Sài Gòn, lòng dân còn nhiều hoang mang và người “tù cải tạo” vừa đóng tiền nhập trại tù chưa lâu nên toán văn nghệ chúng tôi thoát hiểm “trong đường tơ kẽ tóc” chỉ bị cảnh cáo dằn mặt và đuổi về đội.

Chính đội 35 “nổi tiếng” vì có hai chiến sĩ can đảm anh hùng nhất của chúng ta lúc bấy giờ. Ai bị nhốt ở Thành Ông Năm thời điểm đó đều nghe danh 2 Thiếu tá của QLVNCH là anh Quách Hồng Quang, cư ngụ ở vùng cầu Nhị Thiên Đường, Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân ( tôi không nhớ rõ: TĐ 42 hay TĐ 44, có tên là Cọp Xám hay Cọp Ba Đầu Rằn, 2 tiểu đoàn vang danh anh dũng của vùng đồng bằng sông Cửu Long-V4CT, cộng quân khiếp sợ). Người thứ hai là Thiếu tá Phạm Hữu Thịnh, đơn vi cuối thuộc Ban Liên Hợp 4 Bên ở Sài Gòn, anh gốc là An Ninh Quân Đội, cư ngụ ở Dạ Nam Cầu Chữ Y. Cả hai chiến sĩ anh hùng của chúng ta đã can đảm “trốn trại” đầu tiên, tìm đường vượt thoát khỏi cảnh tù đày nhục nhã vào một đêm có gần nửa vành trăng trên bầu trời. Đây là vụ trốn trại đầu tiên khi CSBV lùa quân cán chính VNCH vào rọ tù của chúng, có thể nói là vô tiền khoáng hậu mà tôi chứng kiến.

Tôi chơi rất thân với hai anh Quang, Thịnh, vốn tôi quen biết anh Quang từ miền Tây, lúc ấy tôi là sĩ quan báo chí của QĐ4 từng theo ông Tướng Tư Lệnh QĐ4 đến thăm viếng đơn vị khi anh Quang còn là Trung đội trưởng. Anh Thịnh ở phía bên kia cầu Chữ Y, gia đình tôi ở phía bên này cầu Chữ Y, cả hai anh đều nhỏ hơn tôi 5-6 tuổi và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức sau tôi nhiều khóa. Hai anh Thiếu tá trẻ này xem tôi là niên trưởng, năm 1975, tôi đã qua tuổi 40.

Trước khi thực hiện chuyện phi thường, liều lĩnh, anh Quang bị đau liên tiếp nhiều ngày, tôi có tặng nhiều viên thuốc cảm và trị sốt rét mà anh Quang cần. Còn anh Thịnh, hàng ngày mải mê tập thể dục, anh Thịnh còn tự chế một cái tạ để tập, hai tay của anh cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Một lần, tôi hỏi, anh Thịnh nói tôi tập tạ nhằm luyện cho thật khỏe 2 tay để có ngày sử dụng và ngày ấy là ngày N, giờ G, giờ định mạng của cả hai anh Quang và Thịnh?.

Khoảng từ 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng của một đêm có mưa lất phất, trên nền trời và cảnh vật, ánh trăng sáng lờ mờ, hai anh Thịnh và Quang đi ra hướng cầu tiêu ở gần hàng rào kẽm gai, chọn thời điểm thích hợp này thực hiện cuộc vượt thoát. Nhiều tiếng súng nổ vang trong đêm khuya vắng lặng và tiếng kẻng báo động vang dội khắp nơi xa gần, đánh thức mọi người. Tôi choàng ngồi dậy bước ra cửa coi xem có chuyện gì xảy ra, lính tráng đơn vị canh gác trại tù này, rầm rập chạy với súng cầm tay la hét om sòm, bảo phải tắt đèn và mọi người ở trong lán không được đi ra ngoài…

Sáng hôm sau, cán bộ quản giáo cho biết có 2 anh trốn trại thuộc đội 35, một anh bị bắn chết tại vòng rào trại, một anh bị thương và bị bắt đang nằm ở y xá. Trong những ngày kế tiếp, chuyện trốn trại của 2 anh Quang, Thịnh đã được sáng rõ thêm. Khi quản giáo hỏi đội 34 và 35 có anh nào đem thức ăn cho anh Thịnh đang bị thương, không ai lên tiếng. Tôi tình nguyện mang thức ăn chánh thức của trại đến tiếp tế cho anh Phạm Hữu Thịnh. Sau khi mỗ lấy viên đạn còn ghim trong người ra, nay hồi tĩnh, anh Thịnh lại bị nhốt trong 1 connex, để gần chòi gác, còn bi thảm hơn, ngày thì nóng như thiêu như đốt, đêm khuya lạnh lẽo đến tận xương tủy. Mỗi lần đưa thức ăn đến anh Thịnh, trong đầu, tôi xếp sẵn những câu hỏi, phải thật nhanh và ngắn gọn vì lính gác trên chòi canh lúc nào cũng nhìn theo dõi tôi khi mang thức ăn đến connex. Nhờ vậy, tôi biết được khá nhiều về gia cảnh Thịnh, anh còn bà mẹ già, vợ anh gốc người Hoa. Anh Thịnh còn cho biết sở dĩ anh bị bắn trọng thương vì anh quay lại cứu bạn mình, anh Quang, quần áo đang bị vướng dây kẽm gai mà anh gỡ ra còn nhùng nhằng. Lính gác trên chòi canh phát hiện bắn anh Quang nhiều phát đạn, anh bị thương và nằm dán chặt vào hàng rào. Trong khi anh Thịnh đã chạy đến cây mít (chúng tôi thường thấy các chị ở Sài Gòn lên kiếm thăm chồng? đứng lấp ló ở khu cây mít này), cách hàng rào trại chừng trăm mét. Vừa tới hàng rào dây kẽm
gai, anh Thịnh nghe tiếng súng nổ liên hồi vội quay lưng chạy và một viên đạn cấm vào lưng anh, té qụy. Theo lời anh Thịnh kể vắn tắt, anh Quang chỉ bị thương còn sống và cái áo của anh còn dính với mấy móc kẽm gai, đám cán độ trại đến nả bồi thêm vài tràng đạn nữa, kết liễu đời oanh liệt của một chiến sĩ BĐQ ưu tú can trường QLVNCH, Quách Hồng Quang, lúc nào 2 chữ sát cộng cũng đến với binh chủng anh dũng này.
Nếu gia đình chị Thịnh may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ, xin liên lạc, tôi kể lại những ngày cuối cùng của anh Thịnh từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn cho đến trước 1 ngày anh Thịnh bị xử bắn tại trại Suối Máu - Biên Hòa mà tôi “làm gan” trò chuyện với anh đang ngồi hớt tóc. Anh Thịnh linh cảm sẽ khó sống vì đám cán bộ chấp cung thường tỏ vẽ muốn giết anh để dằn mặt đám tù còn lại. Anh Thịnh còn nhân mạnh với tôi, CSBV tàn ác lắm, chúng muốn giết anh, khi mỗ lấy đạn không có thuốc tê, thuốc mê gì cả. Anh đau đớn quá chết ngất không còn biết gì nữa, chúng muốn làm gì thì làm, may mà anh còn sống đến ngày bị xử bắn.

Thành Ông Năm ở quận Hóc Môn, trại tù đầu tiên đã nhốt chúng tôi, nhưng trại này chỉ là trại trung chuyển, sau mấy tháng lại chuyển tất cả bò tứ, bò ngũ (thiếu tá, trung tá) về Suối Máu. Đây là doanh trại của Trung tâm giam giữ tù phiến cộng của Quân Khu 3 để trao trả với phía bên kia.

Cũng chính trại tù Thành Ông Năm, sau ngày ra tù, một bác sĩ Quân Y/QLVNCH, Y sĩ thiếu tá Trần Đông A, đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản khiếp phục vì tài mổ 1 cặp song sinh dính lại mà nhiều nước, lúc bây giờ, thập niên 80 không dám mỗ tách ra. BS Trần Đông A nhờ đào tạo dưới chánh thể VNCH đã tiến hành ca mỗ thành công và đến nay BS Trần Đông A vẫn là một trong những bác sĩ giỏi và nổi tiếng nhất của Việt Nam.





TRẠI TÙ SUỐI MÁU


Từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn chuyển về Suối Máu, con đường dài 40 -50 cây số, với đoàn xe quân sự có hộ tống nghiêm chỉnh, theo lẽ di chuyển một tiếng hay tối đa 2 tiếng đồng hồ là đến nơi rồi. Đàng này, chúng tôi phải “khẩn trương” tập hợp hành quân từ 6-7 giờ tối mãi đến hơn 7 giờ sáng hôm sau mới trại Suối Máu – Biên Hòa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần chúng tôi bị ”bầm vập” thể xác và tinh thần. Chúng dồn nén đám tù này như con vật, một chiếc xe tải Molotova nhét cả 1 đội 50 người cùng với đồ đoàng lỉnh kỉnh, chen chúc ngồi bó rọ, dẫm trên chân trên người nhau. Các xe đều bỏ bạt phủ kín, không đủ không khí để thở, chỉ một cái đánh rấm của một anh nào đó kể như mọi người lãnh đủ cái mùi khó chịu không ai thích.

Lần chuyển trại đầu tiên, từ trường Trung học Pétrus Ký chuyển đến Thành Ông Năm ở Hóc Mô
n, chúng tôi đã lãnh đủ cái cơ cực khổ sở của cái vụ chuyển trại bi thảm này. Được lệnh hành quân khẩn trương, từ 9 giờ tối đã có tiếng tu-hít (còi) thổi gọi tập họp mọi người. Từ trường Pétrus Ký đến Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, mười mấy hai chục cây số. Cái dễ sợ nhất là mỗi đội chúng tôi bị nhốt trong một chiếc xe bít bùng, tiểu tiện phải đi trong quần vì từ 9 giờ tối đã lên xe, hành quân kiểu gì không biết của đám khỉ học làm người, mãi đến 6 giờ sáng mới tới Thành Ông Năm ở Hóc Môn.

Tại Suối Máu, tưởng tôi đã “bỏ mạng sa trường” vì cái bệnh kiết lỵ.

Xin nhắc lại, tôi từ giã ông Yamoto “đi cải tạo”, khoảng giữa tháng 5.1975, ông là Trưởng văn phòng nhật báo Asahi (Asahi Shimbun) tại Sài Gòn, một tờ báo lớn của người Nhật, có số phát hành các ấn bản sáng chiều và chữ Anh, trên dưới 10 triệu số mỗi ngày. Tôi đã cộng tác với ông Yamoto trên 3 năm, qua tài liệu, ông đã hiểu hơn tôi về chế độ “tù cải tạo” của cộng sản, ông biếu tôi vài trăm đô và đặc biệt tặng 2 “túi cứu thương” để tôi dấn thân vào cõi chết mà ông chỉ nói úp mở. Lúc bấy giờ, thời chiến cực kỳ khốc liệt, mỗi ký giả ngoại quốc ở Sài Gòn, gọi là ký giả chiến trường, đều kè kè bên mình một túi cứu thương, gồm đủ các thứ thuốc, trong đó có nhiều thuốc trị bệnh sốt rét, kiết lỵ, tiêu chảy…May mắn cho tôi, ông Yamoto và người phụ tá của ông có 2 túi cứu thương, ông tặng hết. Nhờ có nhiều thuốc nên ở trong trại tù, nhiều bác sĩ phe ta khám bệnh cho anh em, biết tôi có thuốc tốt, phụ nhĩ với bệnh nhân, đến tìm anh Ngà xin thuốc, tôi trở thành dược sĩ bất đắc dĩ mà chẳng cần học trường Dược ngày nào.

Khi tôi bị bệnh kiết lỵ ngặt nghèo, từ cầu lê lết về đến lán, tôi bước lên thềm không nổi phải bò mới vào được chỗ nằm và vận dụng hết sức lực còn lại mở túí balô lấy thuốc trụ sinh trị kiết lỵ uống 2 lần từ tối đến khuya, tôi không đi cầu nữa.


Tại trại Suối Máu, tôi gặp anh Phạm Đăng Có, Thiếu tá Quân Cảnh, Chỉ huy trưởng trại giam tù phiến cộng này. Anh Có là em ruột của Đại tá Phạm Đăng Tấn (đã từ trần cách nay chừng 8 năm ở Virginia, vợ chồng tôi có đến phúng viếng, tiển đưa), nguyên là Tham Mưu Trưởng QĐ4 & V4CT thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh, đó là hai ông sếp lớn của tôi. Người anh kế của anh Có là Trung tá An Ninh Quân Đội Phạm Đăng Năng, có vợ là bạn học với tôi ở Châu Đốc (anh Năng hiện còn ở VN). Anh Có rù rì với tôi, tụi VC này ác quá, hồi tôi làm sếp ở đây, đám cán binh của chúng được nằm giường sắt 2 tầng đàng hoàng, nay chúng cho bọn mình ăn chay nằm đất.




Tại trại Suối Máu, trước ngày lên đường đi ra miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” chúng tôi gồm bò tứ và bò ngũ, được học tập chính sách “khoan hồng nhân đạo” 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để thông suốt mà hồ hởi phấn khởi ra miền Bắc nghèo mạt rệp. Cũng chính lúc này, một tòa án quân sự của quân khu 7 VC được thiết đặt, gần cổng ra vào trại. Cán bộ trại bắt loa gọi anh em “trại viên” lắng nghe theo dõi buổi xử án 2 người trốn trại, có trực tiếp truyền thanh. Mỗi đội phải cắt cử 2 người (thường là đội trưởng và đội phó) đi tham dự phiên xử anh Phạm Hữu Thịnh và một anh Thiếu tá nữa là Nguyễn Văn Đương thuộc ngành Tình Báo Quân Đội (tôi vừa mới bìết tên anh Thiếu tá này do một chiến hữu ở Úc Châu gọi điện thoại cho biết) cũng trốn trại tại Suối Máu. Anh này trốn được ra khỏi trại Suối Máu, đi xe đò bị chận bắt ở một chốt kiểm soát nào đó, chưa về tới Sài Gòn. Chúng tôi đang ngồi nghe ngóng, phiên xử khai mạc, nghe rất rõ, khi gọi tên anh Thiếu tá Đương ra xử. Sau khi luận tội và kêu án tử hình, vẫn trong tư thế bị còng 2 tay, anh chiến sĩ anh hùng của chúng ta hô lớn đả đảo cộng sản trước tòa, anh vừa mới nói đả đảo tiếp theo chắc là đả đảo hồ chí minh. Hai tên bộ đội dùng tay bịt miệng và sau đó anh bị nhét giẻ vào miệng, kéo sền sệt ra khỏi phòng. Chừng 2 phút sau nghe tiếng súng AK nổ một loạt mà anh em có tham dự chứng kiến từ đầu. Trong lúc đó, bất ngờ, dù còn nắng trời đổ mưa như sụt sùi khóc cho một chiến sĩ anh hùng của QLVNCH bị giết dã man trước họng súng của quân xâm lược. Được biết, đám cán binh VC không lôi anh chiến sĩ anh hùng này đến pháp trường cát đã thiết đặt trước mà chúng bắn anh khi ra khỏi nơi xét xử trước một ụ đất . Buổi chiều, bọn xét xử, rút kinh nghiệm buổi sáng, khi chúng luận tội, anh Phạm Hữu Thịnh bị nhét giẽ đầy miệng không cho nói lời nào và đưa đến pháp trường cát kết liễu đời anh, tội nghiệp anh Thịnh bị hành hạ đày đọa mấy tháng trong connex, thân hình tiều tuỵ, da bọc xương tái méc, nhưng sắc mặt anh vẫn bình thản, lạnh lùng và vui vẻ khi tôi hỏi chuyện.

Cộng quân đã đem xử bắn 2 anh em của chúng ta để dằn mặt đám tù còn lại, trốn trại bắt được là xử bắn, không có khoan hồng nhân đạo gì ráo trọi.





CHUYẾN TÀU THỦY RA BẮC

Qua 2 lần chuyển trại trước đây, nay lại chuyển trại lần nữa vào đêm 10 tháng 6 năm 1976, nghĩa là sau 1 năm chúng tôi nằm tù cộng sản ở miền Nam. Nay lại ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ mạt rệp, cũng tập họp từ 7 giờ tối, bị kiểm tra "tư trang", chúng tịch thu vô số đồ dùng cũng như thuốc men của anh em chúng tôi. Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi được dồn lên xe chật ních cũng như 2 lần chuyển trại trước, mãi đến 6 giờ sáng mới bị dẫn xuống tàu nhỏ, cũ kỹ bẩn thỉu, loại tàu chở vật dụng, heo, trâu, bò…đậu tại tân cảng Sài Gòn, gần cầu Sài Gòn, trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa.

Mỗi chiếc tàu loại nhỏ đó chỉ chở 5-7 chục người là nhiều, đàng này chúng dồn hình như xấp xỉ 3 trăm người vì chúng tôi chỉ nhìn thấy đầu đen và người nào người nấy, ở trần trùn trục, mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi mà ngồi chen chúc chịu trận vì không có đủ chỗ nằm. Tôi mạo hiểm lấy ra một cái võng tự chế khi còn ở Hóc Môn, leo lên thành tàu cao hơn 2 mét mới có chỗ buộc dây 2 đầu căng võng nằm, còn ở sàn tàu, không ai có thể đặt lưng nằm được. Bắt chước làm theo tôi có đến cả chục người nữa mà đám bộ đội áp tải không nói năng gì.

Cái khổ nhất trần gian lúc bấy giờ là đi tiểu tiện trong 2 cái thùng thiếc miệng tròn dành cho mấy trăm người. Mỗi ngày, từ trên boong tàu mở nắp ra, thòng dây xuống để chúng tôi buộc vào thùng phân và nước tiểu lần lượt kéo lên. Vì ở trên cao, cách hơn 5-6 mét, cái thùng lại nặng, 2 tên bộ độ ì ạch kéo lên khơi khơi, làm chiếc thùng đầy lượn đảo qua lại bắn nước dơ tung toé, rơi xuống trúng người nào người đó chỉ biết kêu trời, lãnh đủ, nước không đủ uống làm sao mà có nước rữa nên phải “khắc phục”. Mỗi lần xếp hàng chờ “lấy tài” để tống hai cái của nợ, mất vài tiếng như chơi. Rủi hơn nữa tới phiên mình được phép trút cái nợ đời ra là lúc chiếc thùng đầy ắp, còn chỗ đâu mà chứa, đành gọi khan cổ xin kéo thùng lên. Chờ “bề trên” trông xuống hỏi lý do gì mà kêu cứu, họ mới thòng dây xuống kéo thùng lên, đồ phế thải dơ bẩn đó phải đổ xuống biển, còn rữa nữa mới thòng thùng xuống lại, thêm một lần nữa, thùng mới rữa lại văng nước tung toé. Anh em có dịp la lên chí choé, nhưng nước văng lần này tương đối “ thơm tho” hơn lần trước từ dưới kéo lên. Trong 4 ngày ở dưới hầm tàu này, có nhiều lần vì đợi tới phiên lâu quá, tôi lại không đi cầu được, đành rút lui để cho người khác làm “nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa”.

Sau 4 ngày ngất ngư con tàu đi, nhiều người bị say sóng ói mữa tới mật xanh, may cho tôi, thể trạng tốt không bị ói mữa nên đở tiều tụy hơn nhiều anh em khác. Cũng vì cái còn khỏe đó mà tôi lãnh cái búa tạ, khi tàu cặp bến Vĩnh Linh - Đồng Hới, tôi được một thằng bạn mắc dịch lớn giọng đề cử tôi làm Đội trưởng để “quản lý” anh em trên toa xe lửa khi có 1 tên bộ đội bảo anh em đề cử đội trưởng.




CHUYẾN TÀU HỎA ĐỊNH MỆNH TRÊN ĐẤT BẮC


Trời đã bắt đầu tối, từng chiếc tàu cặp bến cầu, đổ người lên đông nghẹt, xếp hàng đôi “2 hàng dọc, đàng trước thẳng” lần lượt tiến bước có 4-5 con chó trận vừa sủa vừa dẫn đầu. Đèn dầu, đuốc được các người dân nghèo khổ cầm đứng 2 bên đường với các tên du kích cầm súng trường CKC có gắn lưỡi lê sáng loáng như hù dọa đám tù đói khổ đang lê lết từng bước nặng nề, sau 4 ngày nổi trôi lênh đênh trên sóng biển. Không biết dân chúng bị bắt buộc đứng trên con đường này bao lâu để “chào đón” chúng tôi. Họ nói chuyện râm rang, bàn tán, chữi đổng… rất ồn ào, bọn tù chúng tôi uể oải, mệt lã, lầm lũi bước đi như kẻ không hồn. Đến ga xe lửa, cứ 50 người lên 1 wagon (toa), hàng mấy chục cái toa, loại toa tàu lửa để chở súc vật, đồ đạc, không có ghế ngồi và hoàn toàn kín mít, không có một cái cửa sổ nhỏ nào cả, 50 người ngồi bó gối chen chúc nhau. Tôi nhận chân được cái văn minh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đường rầy xe lửa quá cũ kỹ từ thời Pháp thuộc để lại, những thanh sắt ngang, nay biến đâu mất tiêu, chắc cán bộ hỏa xa gỡ đem đi bán sắt vụn để “cải thiện’ đời sống. Thay những thanh sắt ngang bằng những thanh gỗ, khi bánh xe cán lên nghe âm thanh phập phình, khập khểnh, chúng tôi có cảm tưởng đường rầy sẽ “banh xà rông” và tàu hỏa sẽ trật bánh, đưa bao nhiêu con người cùng khổ xuống sông, xuống ruộng… Tàu hỏa chạy suốt đêm, đến gần trưa tới Nam Định, ngôi giáo đường Công Giáo giữa thị xã Nam Định loang lổ phong sương như các tín hữu của tôn giáo này đã từng bị chế độ cộng sản vùi dập không thương tiếc từ năm 1954 khi đất nước VN bị chia đôi.

Vì tôi là “xếp” toa này, nên được ngồi ngay cửa lên xuống mở hé, có 2 tên bộ đội ngồi chỉa súng ra ngoài, đó là ân huệ và cũng cái khổ cho tôi. Đến trưa, trời tháng 5 âm lịch, miền Bắc nóng khủng khiếp, hôm ấy có thể đến 100 độ F hay cao hơn, toa tàu đóng kín, qua khỏi Nam Định 2 tên bộ đội biến đâu mất và cửa này hoàn toàn bị đóng khóa chặt ở ngoài. 50 anh em chúng tôi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, có người ngất xỉu vì thiếu oxy. Tôi nảy ra sang kiến kêu gọi anh em nào có vật gì bén nhọn như cọng dây kẽm… ngồi xuống nạy các khe gỗ ở sàn tàu, may ra có kẻ hở để gió lọt vào mà thở.

May quá, trong balô của tôi còn sót một cái lưỡi cưa nhỏ xíu và cọng thép dài hơn 1 tấc mà khi còn ở Hóc Môn, tôi dùng trong việc chạm trỗ trên các cái lược bằng nhôm, đám cán binh xét tới xét lui, tịch thu biết bao cái “của quý” loại này rồi, nay còn sót 2 món bảo bối quý hiếm đó. Tôi miệt mài khơi cạy chừng 10 phút , tàu lửa ngừng lại một ga xép để nhận tiếp tế và tù được nhận 1 thùng nước để uống mà đội trưởng nhảy xuống toa tàu, khi 1 tên bộ đội đến mở cửa, phải chạy thật nhanh mang thùng nước về. Khi tôi ra khỏi toa, tên bộ đội lại khóa cửa, anh em luân phiên cạy, nạy, móc ra từng mảnh rác nhỏ, đất cát… và may mắn có luồng gió mát thổi vào khi tôi mang thùng nước nặng 20 lít đưa lên tàu vừa lúc tiếng còi tàu ré lên, từ từ lăn bánh. Anh em mừng quá vừa có nước uống đở khát vừa có luồng gió mát thổi vào một cái khe nhỏ bằng đầu chiếc đủa và dài hơn 1 tấc, gặp thanh gỗ bắt ngang nên tắt tị không “khựi” thêm được nữa. Bây giờ là cái khổ của người đội trưởng, ai cũng cần khí trời để thở cho khỏe nên anh em khó nhường nhau mà người đau yếu, nhất là các anh bị suyễn kinh niên ốm yếu chỉ nằm chờ chết, làm sao chen giành lại với các anh khỏe hơn?. Tôi bèn có quyết định, lựa 4 anh to con như tôi hoặc to khỏe hơn tôi, ngồi chung quanh cái lỗ thông hơi cứu tinh này. Ai ngất xỉu được ưu tiên chuyển tới lỗ thông hơi hít thở vài phút, nhường chỗ cho anh khác tới thay. Nhờ anh em toàn là cấp chỉ huy cũ nên dễ thông cảm và tự thấy mỗi người có trách nhiệm giúp đở nhau trong cảnh cùng cực này. Dù vậy, càng về trưa, càng oi bức mà trời lại đứng gió nên có nhiều anh em ngất xỉu, tôi phải vỗ cửa bình bịch kêu cứu khi xe ngừng lại tại một ga nào đó. 
 
Nhiệm vụ của đội trưởng là phải dìu hay phải cõng anh bị xỉu chạy nhanh đến toa cấp cứu. Toa này chỉ là toa có nhiều cửa mở toang 2 tên bộ đội ngồi ghìm súng trên đó, anh nào may mắn được đưa đến đây đều được thoát chết vì được thở không khí ở ngoài tràn vào. Tôi gặp một anh bò ngũ thân quen đang nằm tại đây và anh cho biết Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng Khối Kế Hoạch Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã tắt thở, không đưa kịp đến toa cấp cứu này và xác anh ấy bộ đội áp tải cho khiên xuống rồi, cách đây 1 trạm. Tôi vốn quen biết Trung tá Hùng, vì khi ông đi làm đều phải đi ngang qua Khối Thông Tin Giao Tế mà tôi đang phục vụ, ở số 2 ter Đại lộ Thống Nhất – Sài Gòn. Sau này, tôi nghe còn có thêm vài bò tứ hay bò ngũ cũng qua đời trong chuyến tàu lửa định mệnh này. Nhờ những cái chết oan khiên của các anh ấy mà từ đó về sau khi chạy ngang Hà Nội cho tới ga cuối cùng Yên Bái, các cửa lên xuống đều được mở toang để có không khí lùa vào toa. Nhiệm vụ đội trưởng quá vất vả của tôi cũng chấm dứt tại bến phà Âu Lâu của tỉnh Yên Bái, sau đúng 1 ngày 2 đêm “nhậm chức”.

ĐƯỜNG LÊN SƠN LA GIAN KHỔ

Đến nhà ga Yên Bái gần sáng, ngày 16.6.76, bên nây bến phà Âu Lâu, chúng tôi được lùa đi cũng 2 hàng dọc đàng trước bước. Cán bộ giữ tù thông báo: Các anh được nhân dân địa phương đón tiếp và mời các anh uống nước vối cho mát để tiếp tục cuộc hành quân đến các trại. Hai bên vệ đường, có nhiều thùng nước vối đang còn lửa cháy phừng phực. Trong đời, lần đầu tiên tôi được thưởng thức nước vối có mùi khói phảng phất của đất Bắc, uống vào chả ra làm sao và tôi ao uớc nếu có một chén nước trà nóng trong đêm buồn thảm này uống chắc đả, phê lắm. Đi bộ xuống phà, nghe nhiều tiếng gà gáy sáng xa xa, báo hiệu một ngày mới nhục nhã và gian khổ đang chờ đón.

Lên bến bên kia thuộc địa phận khác, có nhiều đoàn xe molotova chờ sẵn, những người lính áp giải không phân biệt đội nào, cứ lùa tù lên đầy xe là được, hàng trăm xe lăn bánh đưa chúng tôi người về Hoàng Liên Sơn, người lên Sơn La, mãi đến chiều, tôi đến Sơn La, rừng núi ngút ngàn bất tận, đúng ngày 16.6.1976. Sau gần 6 ngày hành quân kỳ cục và khổ nhọc nhất, tôi đã nhận rõ tương lai mờ mịt của những người tù bị lưu đày lên xứ “nước Sơn La ma Hòa Bình”, đã đến đây chắc khó trở về sum họp với vợ con?.

Đoàn xe tù chúng tôi chừng vài chục chiếc, ước đoán cả 5-6 trăm người được đưa đến tận chân núi, nơi có 2 nhà tù lớn do Pháp khoét sâu vào vách núi, xây mấy chục năm trước để nhốt tù chánh trị. Sau này CSBV nhốt tù binh Mỹ và Đại Hàn mà vết tích còn ghi trên vách đá, nay nhốt chúng tôi. Trong đoàn tù này gồm toàn bò tứ, bò ngũ bên Quân Đội, bổng dưng có một xe toàn bò tam cũng đổ xuống , ngành cảnh sát đặc biệt, làm thành một đội riêng.

Chừng 2 tuần sau nhiều đợt tù kế tiếp được chuyển tới và tiếp tục chuyển tới nữa mà đa số là những anh em thuộc quân khu 9 của cộng sản, ở miền Tây. Chuyển từ Cần Thơ ra đây và nhiều anh em cấp đại úy trở xuống trình diện đợt 2 ở Sài Gòn cũng được chuyển đến xã Mường Cơi này, nơi mà không có đủ nước sinh hoạt hàng ngày cho cả chục ngàn tù binh mà CSBV gọi chúng tôi khi mới đặt chân lên xứ này.




Đợt tù đầu tiên đến đây lại gặp gần 100 anh em tù bị bắt từ mùa hè đỏ lửa 1972, ở trận Hạ Lào và đặc biệt có Trung tá Khương, Chỉ Huy Trưởng BCH Tiếp Vận V1CT bị bắt hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Tình cờ, trong khi tôi đi lao động cất nhà mới để đón tiếp các anh em chuyển ra sau, gặp lại anh Nguyễn Văn Thuế, Thiếu tá Pháo Binh cùng học với tôi tại trường Sinh Ngữ Quân Đội ở đường Nguyễn Văn Tráng Sài Gòn, cuối thập niên 60 để chuẩn bị đi du học Hoa Kỳ, khi đó chúng tôi còn đeo lon Đại úy. Anh Nguyễn Văn Thuế bị bắt lọai hàng binh trong mùa hè đỏ lửa 1972 được CSBV cho ăn bánh vẽ, nghe nói cũng “le lói” trong hàng ngũ bộ đội CSBV cũng đeo “quân hàm” thiếu tá… Sau xin đổi qua diện tù binh để được trao trả theo Hiệp Định Ba Lê nên bị cộng sản đì, không những không trao trả mà còn bị nhốt tù để cùng với những anh em khác cất thêm trại chờ đón chúng tôi.

Một chuyện hi hữu và thương tâm làm nhiều anh em chúng tôi không cầm được nước mắt. Một anh Trung tá (quên tên) cùng ở một nhà với nhà thơ Hoàng Ngọc Liên, Tô Kiều Ngân, Văn Quang ở bên kia hàng rào, nhà bên này, nằm cạnh tôi có nhà báo Phan Lạc Phúc (đang ở Úc), chúng tôi chứng kiến một cuộc trùng phùng hi hữu giũa hai bố con truớc cỗng trại. Khi chúng tôi xếp hàng ra ngoài lao động “đốn tre đẵn gỗ trên rừng”, anh Trung tá gặp lại đứa con trai yêu quý của anh, cấp bậc Thiếu úy đã bị ghi nhận là mất tích trong một trận chiến mùa hè đỏ lửa 72, nay lù lù xuất hiện nhận diện được cha mình cùng đang ở tù chung trại.


Cũng tại trại Sơn La này, người tù chết đầu tiên là nhạc sĩ Thục Vũ, tôi lại quên tên, anh là Trung Tá làm Trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ hay là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh chết vì đau và sau khi hút được 1 “bi” thuốc lào thoải mái, anh thanh thản ra đi. Người chết kế tiếp cũng tại K1 có 2 nhà tù đá kiên cố này là anh Trung tá Tường, nguyên Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ mà tôi gặp anh hàng ngày khi chúng tôi cùng làm việc tại đây. Anh Tường chết vì uống thuốc tự tử, anh chán đời, chán cảnh tù khổ sai không biết ngày nào được thả ra…


Trại tù Sơn La, khi chúng tôi đến “tạm trú” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 2 nhà đá có từ trước. Với chừng 100 anh em tù cũ gồm có Biệt Kích nhảy ra Bắc bị bắt hàng chục năm trước còn sống sót cùng với anh em bị bắt vào mùa hè đỏ 1972, cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào, cấp bậc từ hạ sĩ quan đến Trung úy, cấp cao nhứt là Trung tá Khương bị bắt 1968 tại Huế. Chính toán tiền đạo tù cũ hướng dẫn anh em chúng tôi cách “lao động xã hội chủ nghĩa” cất thêm doanh trại mới để nhốt tù lần lượt sẽ được chuyển tới từ trong Nam ra tiếp, trong phạm vi chừng 10 cây số vuông. Liên trại 2 Sơn La lúc cao điểm có đến 6 trại được phân định nhốt tù rõ rệt từng cấp bậc. Khu nhà đá gọi là K1, ở sâu trong núi “chuyên trị” nhốt tù có cấp bậc cao nhất ở đây là Trung Tá, K5 ở đồi chè Mường Cơi, gần đường lộ chính lên hướng huyện Phù Yên, gồm toàn bò tam và K6 nhốt toàn bò tứ trong đó có tôi, K6 cũng nằm gần trục lộ chính huyết mạch của tỉnh Sơn La. Còn K2, 3, 4 mới cất vội vã sau này nhốt các anh em ở các trại giam từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tập trung tại các trại giam Cần Thơ và từ đó chuyển đến Sơn La. Tội nghiệp cho các anh em này đến Sơn La cũng là nơi trung chuyển để Liên trại ở Hoàng Liên Sơn cất thêm đủ chỗ, các trại K 2,3,4 của Sơn La sẽ chuyển về đó.

Ở tù cộng sản, trại nào cũng khổ, nhưng mỗi trại tù có cái khổ nhiều ít khác nhau. Các anh ở miền Tây chuyển trại liên tục và đường lại xa hơn chắc chắn mệt khổ hơn chúng tôi từ Sài Gòn lên thẳng Sơn La.

TRẠI TÙ HỒNG CA - YÊN BÁI
Chuyện ở tù cộng sản, chúng ta viết hoài viết mãi cho đến chết cũng chưa có thể chấm hết được. Có đến 1001 chuyện khổ nhục về sự đối xử dã man tàn bạo của chế độ lao tù CS, cùng hung cực ác dành cho những người ngã ngựa của chính thể VNCH.

Đến năm 1978, có tin Trung cộng sẽ dạy cho CSBV một bài học, như chúng ta biết hồng quân TC đã xua hàng chục sư đoàn bộ chiến cùng với không yễm và pháo yễm đã tấn công vào các tỉnh cực bắc VN, giáp biên giới TC vào năm 1979. Ba trại 1, 5 và 6 ở Sơn La đã có lệnh “di tản chiến thuật” trước từ gần cuối năm 1978. Một nửa trại 6 chúng tôi được chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái do công an quản lý. Đó cũng là thời điểm, chúng tôi được chuyển sang diện tù thường không còn là diện tù binh như chúng tôi đến Sơn La được học tập chính sách 8 điểm của bộ đội cộng sản đối với tù hàng binh.

Chúng tôi thấy có sự khác biệt rõ rệt. Bộ đội quản lý trại tù có phần dễ dãi đôi chút hơn là đám công an dùng kỹ luật sắt đối với chúng tôi, mỗi lần di chuyển bằng xe thì 2 người bị chúng khóa chung 1 cái còng số 8, còn bên bộ đội khi chuyển từ Nam ra Bắc không bị còng, ngoài trừ quý vị đi bằng máy bay. Tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng bị công an xén bớt, ăn sắn quanh năm thay cơm. Chính sắn tươi quy ra gạo cũng bị công an tính gian lận. Thí dụ 1 ký gạo ở bên bộ đội quy ra thành 4 ký sắn tươi hoặc 2 ký sắn lát khô. Còn bên công an cứ 3 ký sắn tươi quy ra 1 ký gạo, có nơi công an chỉ tính có 2 hoặc 2 ký rưỡi sắn tươi thành 1 ký gạo, còn sắn lát khô, cứ 1 cân (ký) quy ra thành 1 cân gạo. Tiêu chuẩn về cung cấp đường, thuốc lá, thuốc lào bên công an cũng rút bớt của tù để chúng bồi dưỡng hoặc mua bán đổi chác với các hợp tác xã trong vùng.

Tóm lại, tại các trại tù do công an quản lý bắt người tù lao động cật lực chết bỏ, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm và có thể lao động cả ngày chủ nhật nữa mà bên bộ đội ít có xảy ra.

Chúng tôi ở trại 6 Sơn La, hơn một nửa chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái, số còn lại được chuyển về Nghệ Tĩnh. Còn trại 1 bò ngũ và trại 5 bò tam cũng vậy một số lớn chuyển lên trại Phù Yên gần quận lỵ Phù Yên-Sơn La, cách chỗ cũ chừng 20 cây số và một số chuyển về đâu đó, hình như cũng ở Nghệ Tĩnh.


TRẠI TÂN LẬP – VĨNH PHÚ KHÓ QUÊN


Bi đát nhất của cuộc đời ở tù cộng sản của tôi, gần đúng 10 năm, là K1 và K4 liên trại Tân Lập ở Vĩnh Phú. Vì vậy tôi không thể viết qua loa đại khái giai đoạn này, xin dành cho 1 bài khác vậy. Ở đây, chúng tôi chỉ tóm gọn, ở tù trại nào cũng khổ mà ai từng ở tù trại Tân Lập so sánh với các trại tù khác, quả trại này là địa ngục trần gian.

Từ Sơn La về Hồng Ca-Yên Bái, đây cũng là trạm trung chuyển, ở được vài tháng, ăn được một cái Tết tại Hồng Ca, tất cả “trại viên” được cho ăn 1 bữa khá no còn được tặng thêm gần 2 ký sắn luộc lại có kèm thêm đường cát trắng của Cuba.

Ôi! hạnh phúc biết bao! vì bao năm tháng ở tù cải tạo, lần đầu tiên tôi được ăn một bữa no và còn có sắn và đường để mang theo bồi dưỡng cho cuộc hành trình mới, chưa biết lành dữ thế nào?. Ngoài cổng trại Hồng Ca có nhiều chiếc xe đò loại nhỏ chừng 20-30 chục chỗ ngồi đậu sẵn để chở chúng tôi về trại Tân Lập Vĩnh Phú. Cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8, tôi cùng đeo chung đồng hồ với Linh mục Trần Quý Thiện, ngài cùng ở chung với tôi tổ, đội 8 ở trại 6 Sơn La. Nay tôi được ngồi ghế gần ngài có dịp tâm sự nhỏ to suốt lộ trình dài nên cũng đở lo nghĩ, sốt ruột. Khi xe đến bến phà Âu Lâu, chúng tôi xuống xe và đi bộ hai người dung dăng dung dẻ có cặp song hành, lần lượt xe qua hết thì chúng tôi lại lên xe. Trên đường đi ngang qua khu chợ đang họp vào buổi sáng gần bến phà, bỗng nhiên tôi bị đau bụng quặn thắt dữ đội. Báo cáo cán bộ áp giải xin đi ngoài, tên này không cho, tôi làm liều lôi Cha Thiện vào cái nhà nhỏ bỏ hoang cạnh đường, xin Cha thông cảm giúp tôi cởi quần cho nhanh và chưa kịp ngồi xuống là cái của nợ của một bữa ăn no và cộng thêm sắn bồi dưỡng cùng với đường cát trắng biểu tình lần lượt dzọt ra tới tắp. Tội nghiệp Cha Thiện chỉ biết nhìn trời hiu quạnh mà hít phải mùi chua lòm của tôi vừa phóng ra. Quả Cha Thiện rất gentleman ngài xé 1 mảnh báo Nhân dân có sẵn trong túi đưa tôi làm nhiệm vụ sạch sẽ cuối cùng.

Lên xe, tôi cứ tiếc mãi được một bữa ăn no lại có thêm bồi dưỡng, nay của thiên trả cho địa mà thân xác tiều tụy của tôi chắng có hấp thụ được chút chất bổ dưỡng nào.

Về trại Tân Lập với các đồi sắn chập chùng vô tận do các người tù đến trước trồng trọt, đám tù sau tiếp tục sự nghiệp đào hóc trồng sắn mệt nghỉ và ăn sắn quanh năm. Một năm chỉ có 5 lần được ăn 1 chén cơm vào các ngày chiều 30 Tết, trưa Mồng Một Tết, lễ Lao Động 1.5, ngày 2.9 cái gọi là quốc khánh của CSBV và ngày 1 tháng giêng dương lịch (Tết Tây).

Cái khó quên của tôi, đội 16 rau xanh sau qua đội 5 trồng sắn mà tôi là thành viên, có 2 anh cùng đội chết vì trời nắng gắt, Trung tá Nguyễn Văn Lạc, Trưởng phòng An Ninh QĐ2, Thiếu tá Lê Xuân Hường Trưởng khối CTCT Liên Đoàn 1 BĐQ. Một ngày nắng cực gắt ấy làm cho các cây sắn như muốn rũ lá, chúng tôi mắt nổ đom đóm như bị ngộp thở. Ai cũng đội nón đàng hoàng thế mà anh Lạc, anh Hường và 1 anh Trung tá nữa lăn quay ra chết và còn một anh cũng bị say nắng được chuyển về trạm xá, đến tối mới chết. Chỉ một ngày bị say nắng đã 4 con người vô tội đáng thương từ giã cõi đời. Chính nhờ có 4 cái chết oan nghiệt của các anh ấy đã giúp chúng tôi từ đó về sau, không còn cảnh lao động trong lúc trời đổ nắng đom đóm nữa. Đây là cảnh trại K1 vừa kể ở trên, tôi ở Tân Lập từ K2 qua K1 rồi bị chuyển sang K4 và sau cùng là K3 . Từ K3, tôi được chuyển về Nam từ tháng tư năm 1982, trại Z 30D, thuộc huyện Hàm Tân-Thuận Hải, trại này ở khu vực có tên là Rừng Lá. Đến cuối năm 1984, tôi được thả ra cùng với một số đông gần 200 người gồm nhiều cấp tá mà trước đó cấp tá thả ra rất hiếm hoi.





TRẠI TÙ CHÓT: Z 30D – HÀM TÂN (RỪNG LÁ)



Đến năm 1982, khi tôi được quy hồi miền Nam, đóng chốt ở trại Z 30D – Hàm Tân (Rừng Lá), gặp lại nhiều anh em bò tứ bò ngũ trong lần chuyển ra đất Bắc đầu tiên ngày 10.6.1976. Khi tàu hỏa đến ga chót là Yên Bái, ai đi toa nào phải sang sông qua phà Âu Lâu sẽ trực chỉ Hoàng Liên Sơn và Sơn La, toa nào ở lại Yên Bái thì có xe tải đến đón đưa về các trại ở Yên Bái.

Đợt đi đầu tiên ra đất Bắc, gồm toàn những người mà cộng sản đã xếp loại nợ máu nhiều, khó mà được thả ra trong vòng 5 - 6 năm như tin đồn đoán, hầu hết là cấp tá đến cấp tướng bên Quân Đội và bên hành chánh là những công chức cao cấp đến hàng Tổng Trưởng, các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo, dân cử…

Bên Quân Đội, những vị từ cấp Đại tá đến Tướng được đi bằng máy bay C130 của ta “bỏ của chạy lấy người”, cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8. Bên công chức cao cấp cũng vậy được đi bằng máy bay và cũng đeo đồng hồ như bên quân sự. Còn cấp thiếu tá, trung tá, hàng Giám đốc nha sở trở xuống, các đại úy thuộc Cảnh sát đặc biệt hay nhiều người cấp chức nhỏ nhưng lọt mắt xanh xếp loại nợ máu nhiều của chúng cũng được ra Bắc đợt đầu.

Cái bịp của CSBV, không những chúng bịp các người tù mà chúng còn bịp đối với mọi người dân lương thiện trong nước và ngay cả nhiều thành phần cán bộ của chúng, quốc tế cũng bị chúng cho ăn quả lừa bịp.

Trưóc khi chuyển tù ra Bắc, tại trại Suối Máu-Biên Hòa, CSBV thiết lập tòa án quân sự bắn 2 anh Thiếu tá trốn trại. Tiếp theo, chúng cho tù học tập chính sách 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mọi người tù an tâm hồ hởi phấn khởi sợ mà ở yên “học tập tốt, lao động tốt”.

Sau này, CSBV dùng tàu lớn như tàu Sông Hương chở 1 lần mấy ngàn người tù đổ xuống bến ở gần cảng Hải Phòng để có xe lửa hoặc xe tải đưa đến các trại tù khắp đất Bắc.

Tại Z 30D có 2 K1 và K2 mà tôi được “biên chế” về K2 ở trong sâu, còn K1 là nơi có BCH trại làm việc nữa. Z 30D là khu rừng lá buông bạt ngàn, người ta lấy lá làm đủ thứ chuyện. Đường vào K1 và K2 có trồng thật nhiều sua đũa tha hồ mà ăn bông, nếu ăn bông sua đũa nhiều quá dể bị “tào tháo” đuổi chạy trối chết.

Được chuyển trại về tới miền Nam, dù ở trại nào, tôi cũng vững tin là mình sẽ còn sống, lúc ấy quả thật chúng tôi rất vui mừng (hồ hởi phấn khởi) thấy được đoạn cuối của con đường hầm tối tăm bắt đầu có ánh sáng hé lộ. Khí hậu thời tiết không còn khắc nghiệt như các tỉnh ở vùng rừng núi miền Bắc, gần gia đình dễ thăm nuôi và được thông báo những tin tức hấp dẫn, tù cải tạo sẽ được thả hết qua sự vận động của Bà Khúc Minh Thơ với chánh quyền Hoa Kỳ. Tất cả tù cải tạo sẽ được qua Mỹ… Nghe vậy chỉ biết vậy và chúng tôi vẫn bán tín bán nghi, chắc gì Mỹ chịu rước của nợ các ông tù cải tạo bệnh tật đem qua nuôi báo cô. Chuyện gì đến đã xảy đến tốt đẹp cho mọi gia đình tù cải tạo từ 3 năm trở lên hoặc ở tù 1 năm và nếu có tu nghiệp ở Mỹ bất luận bao lâu, cũng được xếp vào diện HO ra đi đàng hoàng, ngẫng đầu mà đi dưới con mắt khó chịu của cộng sản.




KÉT LUẬN


Ai đã vào tù cộng trên đất Bắc từ Lào Cai, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Sơn Tây… ở tận cùng miền Bắc xuôi vào Nam qua Nam Đình, Nghệ Tĩnh, về miền Trung Bình Trị Thiên, Cao Nguyên, miền Đông Nam Bộ cho đến miền Tây đến vùng cuối Việt Cà Mau, CSBV đã thiết đặt hàng trăm trại tù lớn, khắc nghiệt, lao động khổ sai, thiếu ăn thiếu mặc, hàng ngàn tù lần lượt ra đi về bên kia thế giới. Chưa muốn nói là chánh sách nhân đạo của CSBV xuyên suốt nhằm trả thù cái vụ chúng sinh Bắc tử Nam trong thời chiến vì chúng đi xâm lược miền Nam nên chúng phải trả giá.

Nay miền Nam sụp đổ, CSBV trả thù một cách hèn hạ, tinh vi để cho những người ngã ngựa chết lần chết mòn trong các trại tù đói khổ, lao động khổ sai và bị hành hạ bỏ đói, đau không thuốc chửa trị…

Chuyện tù cộng sản không có bút mực nào mà viết hết và vì vậy mà tội ác của chúng tạo nên căn nghiệp mà luật quả báo của nhà Phật chỉ rõ “chủng quả đắc quả, chủng đậu đắc đậu” và tội nghiệp cho người dân lương thiện Việt Nam ở quê nhà cũng bị vạ lây vì luật nhân quả này./.



Trần Văn

ĐÔNG ĐOÀN * ĐỜI TÔI

 

Đời Tôi Không Còn Gì
Đông Đoàn 


 ° Bài viết này, xin được coi như một nén hương dâng lên cầu xin cho linh hồn chồng và con gái tôi được yên nghỉ trong Chúa Tiếng trẻ con la thất thanh làm tôi giật mình tỉnh giấc, thì ra đó là một đoạn trong cuốn phim ma chồng tôi đang xem. Những cảnh trong cuốn phim làm tôi nhớ lại tất cả những gì hãi hùng đã xảy ra trong chuyến vượt biển đó. Cho dù thời gian qua đã lâu, xong tôi không thể nguôi ngoai được. Nỗi niềm đau đớn này tôi không biết tỏ cùng ai nhất là với người chồng hiện tại - Vì người chồng và đứa con gái trước đó của tôi đã chết và mất tích kể từ ngày kinh hoàng đó. Con thuyền nhỏ bé rời bến Vũng Tàu được hơn một ngày, mọi người thở phào nhẹ nhõm vì nghĩ mình đã thoát nạn. Một số lên boong tầu thở không khí trong lành của biển cả sau bao ngày chui rúc ở dưới khoang chật chội và hôi hám. Con tầu cứ lầm lũi tiến thẳng trong đêm. Ngày hôm sau trời quang đãng, bỗng trở nên u ám. Gió ngày càng thổi mạnh. Rồi những giọt mưa quất ồ ạt xuống mui tầu. Về chiều, gió thổi càng mạnh hơn, con tầu lắc lư muốn bể ra từng mảnh. Trong khoang tầu, tiếng đàn bà, trẻ con la khóc, tiếng người nôn oẹ, tiếng cầu kinh...Mọi âm thanh hỗ tạp đó càng làm tăng thêm sự sợ hãi cho mọi người. Tôi cùng chồng và hai đứa con ngồi ở một góc tầu, hai đứa tay làm dấu thánh và cất giọng đọc bài kinh sám hối. Con tầu vặn mình trong cơn bão, tiếng cọt kẹt của những miếng ván tôi tưởng chừng như chúng vỡ đến nơi. Ở trên buồng lái, người tài công cố ghìm bánh lái đưa con tầu thoát cơn bão. Mặt trời ló rạng cũng là lúc cơn bão đã qua. Mọi người bơ phờ, mệt mỏi nhưng mừng rỡ vì vừa thoát chết. Con tầu tả tơi rùng mình băng tới trước. Qua ngày thứ ba trên biển khoảng chừng bốn giờ chiều bỗng có tiếng la: " Có tầu phía trước ". Mọi người mừng rỡ leo lên boong tầu, họ cầm tất cả những thứ gì có thể cầm được, quơ lấy quơ để hy vọng chiếc tầu kia nhìn thấy họ và quả thật, chiếc tầu đã nhìn thấy họ. Nó từ từ tiến lại gần chiếc tầu vượt biên nhỏ bé. Khi hai chiếc kề nhau mọi người mới tá hỏa thấy hai ba tên cầm sùng nhảy qua tầu họ. Chúng nói điều gì không ai hiểu, bỗng một tên trong họ cất tiếng, hắn nói tiếng Việt Nam bập bẹ: " Bọn tao là cướp biển, bỏ hết vàng bạc ra, chống cự sẽ bị giết ". Sau đó cả bọn hơn mười tên ào tới lục soát tất cả mọi người, mọi nơi. Một lát sau không còn gì để lấy, chúng gom lại và xì xào điều gì đó với nhau, tên chỉ huy ra lệnh cho bọn chúng đem tất cả đàn bà, con gái sang bên tầu của chúng. Còn đàn ông, chúng gôm tất cả lại một góc ở trên boong. Tôi cũng là nạn nhân bị đem qua tầu hải tặc. Khi tên hải tặc cầm tay tôi lôi mạnh bắt đi theo hắn, tôi giật lại, cố ôm ghì đứa con trai mới hơn mười tháng tuổi trong đôi tay yếu ớt của mình. Giằng co một hồi thấy không thể kéo một mình tôi hắn đành đẩy tôi đi với cả đứa trẻ. Khi qua tới tầu bọn hải tặc, tôi thấy khoảng mười cô gái, không nói không rằng, cả bọn quẳng súng ống, giáo mác vồ lấy các cô, cô nào chống cự, chúng đánh không thương tiếc. Các cô gào khóc kêu cha mẹ cứu mình, chồng con cứu mình, còn tôi dùng hết sức mình đạp mạnh vào hạ bộ của tên hải tặc nãy giờ cố đè lên mình tôi. Hắn nhăn nhó đấm thẳng vào mặt tôi, đau đớn tôi ngã vật xuống sàn tầu. Tên này xé toạc tất cả quần áo tôi và tiếp tục hành động thú vật của hắn trong tiếng cười điên loạn. Tôi cố ngước nhìn đứa con trai nãy giờ bị vất nằm trên sàn tầu. Tôi tự nhủ phải cố sống vì con, tôi gồng mình chịu đựng. Sau khi tên này xong việc, hắn ra hiệu cho tên khác chạy đến. Hắn như con thú đói mồi, lao lên mình tôi, hắn vừa hãm hiếp vừa đánh tôi. Quá đau đớn tôi gọi tên chồng tôi, tôi gào tên con tôi. Chồng tôi đứng bên kia tầu, anh thấy tôi như vậy, anh vùng mạnh đôi tay chạy qua để cứu tôi. Một tên trong bọn chúng rút phăng cây mã tấu chém một nhát ngang cổ anh. Máu tuôn xối xả, anh ngã vật xuống tắt thở trong khi đôi mắt trợn trừng căm hận. Sau đó tên này đẩy xác anh xuống biển. Nằm bên này thấy rõ cảnh đó, tôi ngất đi, sau khi tỉnh lại. Tôi thấy mình và các cô gái khác nằm ở dười gầm tầu. Không biết bao lâu, chúng lại lùa chúng tôi lên để thay nhau hãm hiếp tiếp. Không biết bao lần tôi bị đẩy lên boong như vậy. Tôi muốn cắn lưỡi để tự tử, song nhìn lại đứa con nhỏ của mình tôi đành cắn răng cố sống vì con. Có thể đó cũng là động lực giúp tôi sống đến ngày hôm nay Ngày qua ngày, bọn hải tặc vẫn tiếp tục hành động bẩn thỉu của chúng. Sau khi chán chê, chúng thả chúng tôi lên một hòn đảo và may mắn thay, vài ngày sau cảnh sát tuần duyên Mã Lai phát hiện và đưa chúng tôi vào bệnh viện. Nhìn lịch, tôi đã thấy hơn nửa tháng từ khi tôi rời Việt Nam. Sau khi lành bệnh, họ đưa chúng tôi vào trại tập trung với những thuyền nhân đã tới trước. Thời gian này tôi cố dò hỏi về chiếc thuyền của chồng và con gái tôi ở trên đó nhưng không ai biết cả. Sau này tôi được một người cho biết chiếc tầu của chồng tôi đã bị bọn hải tặc đâm thủng cho chìm hòng giết người để bịt miệng. Tôi ở đảo được khoảng tám tháng. Sau khi phái đoàn phỏng vấn, tôi được cho đi định cư tại Mỹ - đến miền đất lạ, tôi không bà con, anh em, người bảo trợ cho gia đình tôi lại là người Mỹ - hai phong tục, hai ngôn ngữ khác nhau nên cuối cùng tôi lại trở nên đơn độc. Sau khi ở chung khoảng vài tháng tôi dọn ra thuê phòng ở khu chung cư có người Việt Nam, tôi mong được nghe tiếng mẹ đẻ nơi đất khách quê người - Tôi thầm cảm ơn trời, đã cho tôi đến được miền đất hứa. Nhưng mọi việc không suông sẻ như tôi nghĩ. Hằng đêm mỗi khi tôi nhắm mắt thì hình ảnh những tên hải tặc hiện đến, rồi hình ảnh chồng tôi với cái cổ đầy máu và đôi mắt trợn trừng lại về, tôi không thể dỗ giấc ngủ, không một ai chia sẻ nỗi buồn này, rồi tôi ngã bệnh cả tháng trời. Cuối cùng tôi cố trỗi dậy và tự nhủ phải làm một công việc gì để quên đi và để lo cho con trai tôi. Tôi gởi con rồi lao vào công việc để quên đi hết nỗi bất hạnh ập xuống đời tôi. Hết rửa chén bát đến nhặt rau nhà hàng...Ngày qua ngày, mỗi khi tôi đón con thì thằng bé đã ngủ say. Tôi hôn lên trán con mà nước mắt tuôn rơi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi, hết thu sang rồi đông đến. Thấm thoát tôi đã ở Mỹ được 16 năm rồi. Một ngày khi nỗi buồn nguôi ngoai, tôi bước thêm bước nữa. Người chồng này sống với tôi cho đến ngày hôm nay. Tuy vậy tôi chỉ cho anh biết tôi đi vượt biên và chồng cùng con gái đã chết trên biển - Tôi rất sợ nếu nói lên sự thật sẽ làm anh ghê tởm tôi và sẽ mất đi chỗ dựa cuối cùng này. Nhưng tạo hóa trớ trêu lại giáng tai họa xuống đời tôi một lần nữa. Một hôm đang làm việc, bỗng xếp của tôi gọi lên văn phòng và nói cho biết cảnh sát vừa gọi điện thoại cho biết con tôi theo đám bạn nhậu say rồi bắn lộn gây chết người. Hiện nó đang bị giam tại trại giam thành phố. Tôi thấy mọi thứ như sụp xuống đầu tôi. Đứng chết lặng một hồi, tôi cố lê đôi chân về nhà sắp sếp vài thứ rồi vội vã vào nhà lao thăm con. Khi tôi và chồng tôi tới nơi, mẹ con ôm nhau khóc, chồng tôi sau khi hỏi han, căn dặn con tôi vài thứ anh ra ngoài để mẹ con tôi tiện việc nói chuyện. Nhìn sâu vào mắt con, tôi dùng hết sức mình hỏi nó:"Tại sao con lại làm như vậy?" Tôi muốn hỏi nó thật nhiều và thật rõ nguyên căn sự việc, song chỉ nói tới câu sao con làm như vậy là nước mắt tôi tuôn tràn, cổ họng tôi không thể nói thêm được. Thằng bé bây giờ đã ra vẻ đàn ông trả lời: "Tất cả tại mẹ, mẹ lo công việc suốt cả ngày. Tháng này qua tháng khác, con lớn lên không cha, không mẹ bên cạnh. Khi con gặp khó khăn trong cuộc sống, con không biết hỏi ai, không biết bày tỏ với ai con đành phải đi tìm bạn bè và kết quả như ngày hôm nay, con không ân hận gì hết ". Nghe con nói lòng tôi tan nát, tất cả hết rồi, đời tôi không còn gì nữa. Tôi gục xuống tất cả cho định mệnh. Ghi chú: " Câu chuyện này là sự thật 100%, nhưng vì để giữ hạnh phúc cho gia đình sau này, Người viết bài đành phải dấu tên họ. Nên xin quý vị đừng ngạc nhiên khi người kể chuyện là đàn bà mà người ký tên là đàn ông. Xin cảm ơn." Atlanta 1/5/03 ::: Đông Đoàn::: 
 
 

Thursday, January 21, 2016

THÔNG TIN & BÌNH LUẬN VỀ VIỆT NAM & QUỐC TẾ

 
Thứ sáu, 22/01/2016

Năm 2030: Biển Đông sẽ thành ao nhà của Trung Quốc

Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc tại cảng Đại Liên. Theo Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế CSIS, Bắc Kinh sẽ đầu tư ‘nặng ký’ cho công tác phát triển và bố trí nhiều đội tàu sân bay trong khu vực trước năm 2030.
 
Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc tại cảng Đại Liên. Theo Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế CSIS, Bắc Kinh sẽ đầu tư ‘nặng ký’ cho công tác phát triển và bố trí nhiều đội tàu sân bay trong khu vực trước năm 2030.
Không còn gì để thắc mắc, tới năm 2030, Trung Quốc sẽ là một siêu cường trên thế giới và Biển Đông sẽ trở thành ‘ao nhà’ của Bắc Kinh, theo một phúc trình mới công bố của Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế CSIS tại Hoa Kỳ.
Công trình đánh giá độc lập về Chiến lược Quốc phòng Hoa Kỳ ở Châu Á-Thái Bình Dương nói Trung Quốc chiếm lĩnh ưu thế trong khu vực nhờ vào việc tiếp tục phát triển các đội hàng không mẫu hạm và việc quân đội nước này chú trọng mở rộng khả năng hoạt động ở nước ngoài.
Trích dẫn Bạch thư Quốc phòng của Bắc Kinh, CSIS lưu ý rằng quân đội nhân dân Trung Quốc trong tương lai gần sẽ vận hành vượt xa ra ngoài phạm vi Chuỗi đảo Thứ nhất kéo dài từ Nhật Bản tới Philippines vươn ra Ấn Độ Dương.
Kế hoạch này, theo CSIS, là mối quan ngại lớn nhất đối với Hoa Kỳ vì nó sẽ giúp dần dần nới rộng tầm tay của quân đội Trung Quốc.
CSIS dự đoán để hoàn thành chiến lược này, Bắc Kinh sẽ đầu tư ‘nặng ký’ cho công tác phát triển và bố trí nhiều đội tàu sân bay trong khu vực trước năm 2030.
Trung Quốc xác nhận đang tiến hành xây tàu sân bay thứ nhì và dự kiến sẽ còn đóng thêm nhiều tàu nữa trong những năm tới.
Những sự điều động này sẽ tăng cường thế mạnh cho Trung Quốc trong các tuyên bố chủ quyền ở Châu Á, đặc biệt là Biển Đông, nơi Bắc Kinh đang tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, Philippines, Brunei, và Malaysia.
Hiện nay, các công trình xây đảo và đặt lên đó hải cảng, đê chắn biển, hay đường băng cũng giúp Bắc Kinh củng cố sự ảnh hưởng trong khu vực, đồng thời cũng là một báo động đối với các nước láng giềng bao gồm Việt Nam.
Tất cả những yếu tố này, theo CSIS, sẽ đảm bảo là trước năm 2030 Biển Đông sẽ bị biến thành ao nhà của Trung Quốc tương tự như vị trí của vùng biển Ca-ri-bê hoặc Vịnh Mexico đối với Hoa Kỳ hiện nay.
Nghiên cứu của Trung tâm CSIS chỉ ra rằng chính sách cân bằng ‘xoay trục về Châu Á’ của Mỹ hiện chưa được giải thích rõ ràng hoặc chưa được vận dụng hữu hiệu để đối phó với các mối đe dọa từ Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.
CSIS nói chính sách này cần được chú ý nhiều hơn và cần có nhiều nguồn lực hơn nữa giữa bối cảnh Trung Quốc đang tăng cường nhịp độ ‘uy hiếp’ và Bắc Triều Tiên tiếp tục bành trướng tham vọng hạt nhân.
Ngoài ra, vẫn theo khuyến nghị của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, Hoa Kỳ nên gầy dựng khả năng cho các đồng minh và đối tác trong vùng để ứng phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Việt Nam hiện là một trong những đối tác của Mỹ tại khu vực trong khi Philippines là một đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ.
Thứ sáu, 22/01/2016

Thị trường chứng khoán châu Á trồi sụt thất thường

Các chuyên gia cho rằng tình trạng bán tháo xảy ra vì các nhà đầu tư bi quan về giá dầu sụt giảm, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm cũng như viễn cảnh ảm đạm của nền kinh tế toàn cầu.
Các chuyên gia cho rằng tình trạng bán tháo xảy ra vì các nhà đầu tư bi quan về giá dầu sụt giảm, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm cũng như viễn cảnh ảm đạm của nền kinh tế toàn cầu.
Các thị trường châu Á tăng giảm thất thường hôm nay, và giảm giá lúc đóng cửa.
Các chỉ số chứng khoán tiếp tục giảm giá vì có các quan ngại về giá dầu sụt giảm và nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm.
Thị trường Tokyo giảm giá 2,5%. Thị trường Thượng Hải giảm hơn 3%, trong khi thị trường Hong Kong giảm gần 2%.

Các chuyên gia cho rằng tình trạng bán tháo xảy ra vì các nhà đầu tư bi quan về giá dầu sụt giảm, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm cũng như viễn cảnh ảm đạm của nền kinh tế toàn cầu trong năm nay.
Giá dầu thô đã giảm kể từ năm 2014, và hôm nay tăng lên đôi chút ở châu Á. Nhưng hiện vẫn còn các quan ngại về tình trạng thừa cung.
Giá dầu thô ở Mỹ, tuần này, đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 12 năm, gây tác động tới giá cổ phiếu của các công ty năng lượng vốn là một phần quan trọng của một chỉ số chứng khoán.
Hôm qua cũng chứng kiến một ngày trồi sụt thất thường trên sàn giao dịch Wall Street, trong khi các chỉ số chính có lúc giảm hơn 3%, trước khi hồi phục đáng kể lúc đóng cửa.
Lúc kết thúc phiên giao dịch, chỉ số S&P 500 giảm 1,2%, trong khi chỉ số Dow giảm 1,6%.
Thứ sáu, 22/01/2016

Chứng khoán Châu Á tiếp tục sụt giảm

Bảng điện tử hiển thị giá cổ phiếu tại một trung tâm môi giới ở Bắc Kinh.
 
Bảng điện tử hiển thị giá cổ phiếu tại một trung tâm môi giới ở Bắc Kinh.
Chuyên gia cho rằng các lãnh đạo mới của các nước ở Châu Á, như Việt Nam, Đài Loan và Philippines, sẽ phải đối mặt nhiều thách thức trong năm 2016
Giá chứng khoán Châu Á tiếp tục giảm hôm nay do giá dầu thế giới hạ thêm, kinh tế Trung Quốc sụt giảm, và triển vọng không lạc quan về nền kinh tế toàn cầu tổng thể trong năm nay.
Chỉ số Nikkei của Tokyo chính thức bước vào thị trường theo chiều giá xuống, còn được gọi là ‘bear market’, sau khi mất gần 4% vào cuối ngày giao dịch.
Trong khi đó, chỉ số Hằng Sinh tại Hồng Kông giảm 3,5% và chỉ số Kospi của Hàn Quốc sụt 2,3%. Chỉ số Thượng Hải của Trung Quốc và chỉ số ASX/S&P 200 của Úc đều giảm 1,3%.
Các nhà đầu tư đang trở nên bi quan sau 3 đợt tin xấu trong tuần này, bắt đầu với tuyên bố của Trung Quốc hôm qua rằng kinh tế nước này tăng trưởng 6,9% trong năm ngoái, tức mức tăng trưởng toàn năm thấp nhất trong vòng 1/4 thế kỷ qua, tiếp sau đó là quyết định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hạ thấp dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay xuống còn 3,4%, thấp hơn ước tính trước đó 0,2%.
Một cú giáng khác ập tới khi giá dầu của Mỹ rớt dưới 28 đô la/thùng, tức mức thấp nhất trong 12 năm, sau khi Cơ quan Năng lượng Quốc tế công bố phúc trình cảnh báo rằng các thị trường dầu trên thế giới có thể ‘ngập chìm trong tình trạng thừa cung’ vì nhu cầu giảm.
 

Những hệ lụy của 0,1% tăng trưởng của TQ

  • 19 tháng 1 2016
Bắc Kinh 
Image copyright Getty
Image caption Trung Quốc đã chứng kiến sự hình thành của một tầng lớp người tiêu dùng lớn nhất thế giới
Xin đừng tự dối mình. Với tất cả những ai vẫn có ý kiến phản bác thì phải nói rằng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong ba thập niên qua gần như là một phép lạ.
Hàng triệu người thoát nghèo đói, hàng tỷ USD của cải được tạo ra - và đất nước này đã chứng kiến sự hình thành một lớp người tiêu dùng lớn nhất mà thế giới từng biết đến.
Ngay cả với các số liệu kinh tế được đưa ra hôm thứ Ba 19/1 cho thấy tốc độ tăng trưởng thấp hơn, kinh tế gia Tony Nash vẫn nói rằng tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2015 bằng với kích thước của toàn bộ nền kinh tế Thụy Sĩ hoặc Ả Rập Saudi.
Nhưng có lên thì có xuống – hay nói theo định luật hấp dẫn là vậy. Vì thế cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi nền kinh tế này đang chậm lại.
Ít lâu nay chính phủ Trung Quốc đã nói tới quá trình chuyển đổi mà họ cố gắng thực hiện – từ bỏ đầu tư do nhà nước lãnh đạo và một nền kinh tế mà ngành sản xuất là chủ đạo chuyển sang một nền kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào các ngành dịch vụ.
Sự chuyển tiếp đó - mặc dù rõ ràng là cần thiết – vẫn là một quá trình đau đớn và mất thời gian.
Trung Quốc cũng cần phải lưu tâm tới việc duy trì mức tăng trưởng làm sao có thể đạt trên dưới 7% nhằm duy trì tốc độ tạo công ăn việc làm ổn định cho công dân của mình.
Chính những hệ lụy của tình trạng tăng trưởng chậm đi và ý nghĩa của nó đối với khu vực đang là mối quan ngại lớn nhất.

25 năm qua cho tới ngày nay

Người mua người bán tại Trung QuốcI
image copyright EPA
Image caption Nền kinh tế của Trung Quốc vẫn phát triển nhưng tốc độ tăng trưởng không được như trước đây
Trong 25 năm cuối cùng của thế kỷ - khi nền kinh tế Trung Quốc bùng nổ - các nền kinh tế châu Á và toàn cầu đã ăn theo vận mệnh của nền kinh tế hùng mạnh đó.
Từ Úc đến Anh Quốc, tất cả đều muốn bán hàng vào thị trường khổng lồ Trung Quốc – kể cả các loại hàng hóa như than đá tới túi xách Louis Vuitton và áo khoác Burberry.
Làm ăn với Trung Quốc đã trở thành một điều bắt buộc trên phương diện kinh tế vì rất nhiều kinh doanh đến từ đó.
Quý vị chỉ cần nhìn vào chuyến thăm gần đây được tiếp đón hậu hĩnh của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Anh Quốc để có thể thấy Trung Quốc đã trở thành quốc gia quan trọng như thế nào đối với các quốc gia phương Tây.
Trong khi Trung Quốc đại lục trở thành nhà máy của thế giới, người tiêu dùng được hưởng lợi từ các sản phẩm có giá thành thấp hơn mà Trung Quốc có thể xuất khẩu ra thế giới. Trung Quốc nhanh chóng trở thành động cơ siêu cường cho tăng trưởng toàn cầu. Hay chí ít tất cả chúng ta hy vọng là như vậy.
Những số liệu hôm thứ Ba cho ta thấy rằng là tập trung vào một trụ cột hỗ trợ cho nền kinh tế toàn cầu không chỉ là ngu ngốc mà còn đơn giản là sai lầm.
Trung Quốc phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu để tăng trưởng, và theo đó các nước châu Á phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc để phát triển.
Cảng tại Trung Quốc 
Image copyright AFP
Image caption Trung Quốc phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu trong khi các nền kinh tế thế giới lại phụ thuộc vào Trung Quốc
Quý vị sẽ không bao giờ làm điều đó ngay chính trong việc đầu tư tài chính của riêng mình – đa dạng hoá vốn là từ thông dụng mà tất cả các nhà quản lý tiền bạc vẫn luôn rót vào tai chúng ta.
Trung Quốc vẫn đang phát triển - nhưng không nhanh như nước này trước đây - và thật khó có thể tìm được quốc gia nào có thể thay thế sức mạnh kinh tế của nước này.
Điều đó là một tin xấu đối cho tất cả các nước còn lại và chắc chắn có nghĩa là các chính phủ cần phải tìm ra cách thức mới để nhanh chóng duy trì tăng trưởng kinh tế.
0,1%, dường như nó không có vẻ gì là nhiều?
Nhưng đó là sự khác biệt giữa tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc ở mức ổn định hay ở mức thấp nhất trong một phần tư thế kỷ qua.
 http://www.bbc.com/vietnamese/business/2016/01/160119_china_growth_effects

Dầu sụt dưới 28 đô sau khi bỏ cấm vận Iran

  • 18 tháng 1 2016
 
Image copyright Reuters
Image caption Iran được gỡ bỏ cấm vận và sẵn sàng xuất khẩu dầu thô trở lại
Giá dầu tiếp tục sụt giảm xuống mức dưới 28 đô la một thùng, trong bối cảnh phương Tây gỡ bỏ cấm vận Iran có thể gây ra tình trạng thừa nguồn cung dầu mỏ.

Giá dầu thô Brent, đơn vị đo chuẩn quốc tế, có lúc xuống tới mức 27,67 USD/thùng, mức thấp nhất từ năm 2003, trước khi tăng nhẹ trờ lại, lên giá 28,17 USD/thùng.
Giá dầu thô của Mỹ sụt giá, còn 28,86 USD/thùng.
Các nhà phân tích nói việc gỡ bỏ cấm vận Iran có nghĩa sẽ có thêm nửa triệu thùng dầu được sản xuất mỗi ngày.
Daniel Ang, chuyên viên phân tích từ hãng Phillip Futures nhận định:
"Giá dầu sụt giảm vì phương Tây đã gỡ bỏ cấm vận với Iran. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ thấy một lượng dư thừa dầu thô lớn khi dầu của Iran xuất hiện trở lại trên thị trường."
 
Image copyright Reuters
Image caption IAEA nói Iran đã tuân thủ thỏa thuận hạn chế phát triển vũ khí hạt nhân

Gỡ bỏ cấm vận

Quyết định gỡ bỏ cấm vận cho Iran được đưa ra hôm Chủ Nhật, sau khi Cơ quan Nguyên tử năng Quốc tế (IAEA) nói Iran đã tuân thủ thỏa thuận hạn chế Tehran phát triển vũ khí hạt nhân.
Iran có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ tư thế giới, theo Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ, và bất cứ động thái thêm lượng dầu sản xuất ra sẽ thêm vào con số một triệu thùng dầu dư thừa, đang gây ra hiện tượng làm giá dầu sụt giảm hơn 70% từ giữa năm 2014.
Các nhà phân tích nói Iran đã có sẵn khá nhiều dầu để bán ra.
Ric Spoon, phân tích gia trưởng của công ty CMC Markets, nói: "Hiện Iran có lượng dầu khá lớn trong kho để bán ra. Họ có thể bán ra ngay nếu muốn, và điều đó sẽ khiến nguồn cung tăng lên rất nhanh."
Giá dầu sụt giảm liên tiếp đến từ việc thừa nguồn cung, chủ yếu là do dầu đá phiến của Mỹ tràn ngập thị trường.
 
Image copyright Reuters
Image caption Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ tới Ả-rập Saudi, Iran và Ai Cập trong tuần này, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố
Trong khi đó, nhu cầu với dầu thô lại sụt giảm vì các nền kinh tế như Trung Quốc và Châu Âu đang phát triển chậm lại.
Trong một diễn biến riêng rẽ, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ có chuyến thăm bất thường tới Ả-rập Saudi và Iran, hai nước hiện đang có cuộc tranh cãi gay gắt sau vụ Ả-rập Saudi xử tử giáo sỹ Shia nổi tiếng Nimr al-Nimr.
Chuyến đi được cho là nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đóng vai trò một "nhà trung gian hòa giải chân thành", theo hãng tin Reuters.
Tuyên bố vắn tắt của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói ông Tập sẽ tới Ả-rập Saudi, Iran và Ai Cập trong chuyến công du năm ngày, 19-23/1.
Trung Quốc hồi tháng Tư 2015 đã trở thành nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, và trước đó chỉ đứng sau Hoa Kỳ mà thôi.
Sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc trong thời gian gần đây khiến cơn khát dầu thô của Bắc Kinh dịu lại đôi chút, nhưng nhu cầu năng lượng vẫn đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của nước này.

Chứng khoán VN mất 5 tỷ USD

  • 19 tháng 1 2016
Image copyright Getty
Image caption Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu dự báo kết quả Đại hội Đảng 12 sẽ có tác động đến chiều hướng của chứng khoán Việt Nam
Báo trong nước mô tả chứng khoán Việt Nam ‘hoảng loạn, rơi thẳng đứng’ sau 11 phiên giao dịch đầu năm với thiệt hại ước tính 5 tỷ đô la trong lúc chuyên gia tài chính nhận định là do 'yếu tố bên ngoài'.
Trong cuộc trao đổi với BBC hôm 19/1, chuyên gia tài chính Việt kiều Nguyễn Trí Hiếu nhận định: “Theo tôi, chứng khoán Việt Nam lao dốc trong những phiên đầu năm chủ yếu là do những tác động bên ngoài, cụ thể là diễn biến tiêu cực từ thị trường chứng khoán Trung Quốc và giá dầu giảm mạnh”.
Hôm 19/1, VnExpress tường thuật: “Sau 11 phiên giao dịch mở màn, những nỗ lực tăng điểm của thị trường trong cả năm 2015 dường như bị quét sạch. VN-Index giảm tổng cộng 53 điểm, xuống còn 526 điểm - mức thấp nhất kể từ đầu năm ngoái. Với những phiên đỏ sàn liên tiếp, vốn hóa thị trường giảm mạnh. Sau hơn 2 tuần, tổng cộng 113.332 tỷ đồng (tương đương 5,05 tỷ đô la) đã ‘bốc hơi’ khỏi thị trường”.
“Thị trường chứng khoán Việt Nam không có thông tin tốt hỗ trợ trong khi liên tiếp chịu tác động từ cơn suy thoái của chứng khoán Trung Quốc và diễn biến xấu của kinh tế thế giới. Theo các chuyên gia tài chính, đà giảm sẽ tiếp tục, VN-Index đang hướng về mốc 510-520 điểm”, báo này viết.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn hôm 18/1 mô tả: “Chứng khoán Việt Nam đã khởi động tuần mới bằng một phiên gần như “rơi tự do”.
Tâm lý bi quan của nhà đầu tư đã thật sự bị thử thách quá nhiều và hoạt động bán tháo đã xảy ra rõ nét trong phiên hôm nay. Xu hướng giảm của VN-Index vẫn đang mở rộng. Nhà đầu tư cần duy trì sự thận trọng cao độ”.

‘Tác động bên ngoài’

Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu loại trừ những nguyên do nội tại vì “các chỉ số vĩ mô tương đối tốt, lạm phát thấp, nợ công vẫn đang trong tầm kiểm soát. Ngoài ra, những phát biểu của quan chức và tình hình nhân sự tại Đại hội Đảng 12 sắp diễn ra không có tác động tiêu cực đến thị trường như suy đoán”.
Tuy vậy, chuyên gia đưa ra dự báo: “Tùy vào thành phần dàn lãnh đạo mới của Việt Nam sau Đại hội Đảng, nếu họ khiến các nhà đầu tư ngoại mãn nguyện thì chứng khoán sẽ có dấu hiệu hồi phục và ngược lại. Tất nhiên cũng không loại trừ yếu tố giá dầu thế giới tiếp tục giảm sâu ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng”.
Theo ông Hiếu, diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy chỉ dấu thị trường vốn còn ‘èo uột và sơ khai’ trong lúc thị trường tiền tệ phát triển tương đối tốt.
“Hiện 80% vốn của nền kinh tế Việt Nam là từ thị trường tiền tệ trong lúc thị trường vốn chưa đủ sức cấp vốn dài hạn. Do vậy mà yếu tố thanh khoản còn bất ổn, lãi suất ngắn hạn cao, kéo theo cấu trúc tài chính chưa ổn định. Để giải quyết vấn đề này, các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam cần quan tâm đến việc thành lập thị trường vốn bài bản”, ông phân tích thêm.
 

VIỆT NAM TẾT BINH THÂN

 

Tết của những người bán hàng rong

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2016-01-21
hang-rong-622.jpg
Bán trái cây trên đường phố Hà Nội
RFA

Bị lấy đi phần đất sống

Không khí và thanh âm tháng chạp như thúc giục đôi chân của bất kỳ ai sống xa quê muốn thu xếp thật nhanh hành lý để lên đường về nhà. Bởi dù không nói ra, nhưng với người Việt, Tết là một cuộc đại đoàn tụ gia đình, điều đó như một mẫu số chung của xã hội. Với những người bán trái cây dạo, bán hàng rong trên đường phố Hà Nội, tháng Chạp này là một tháng khó khăn bởi đại hội đảng lần thứ 12 đã lấy đi mất phần đất sống của họ. Và đại hội 12 đã lấy phần đất sống của người bán trái cây như thế nào?
Chị Ngãi, người bán trái cây dạo gốc Nghệ An, chia sẻ về những khó khăn của chị trước thềm đại hội 12: “Ở ngoài bắc này thì theo tục lệ, mọi năm thì có tổ chức chứ bây giờ tình hình khó khăn như vậy chắc không chuẩn bị Tết gì đâu. Buôn bán quần áo thì trời nắng quá nên khô ng tiêu thụ đuộc, còn hàng hóa thì quá ế ẩm. Năm nay buôn bán không ra chi bởi vì bán hàng ế ẩm, không có tiêu thụ được hàng nên khó để mà ăn Tết…”
Theo chị Ngãi, thời gian chuẩn bị đại hội lần thứ 12 của đảng Cộng sản Việt Nam tương đối dài và hết sức nghiêm cẩn, công phu. Và chính bởi sự nghiêm cẩn, công phu này đã lấy mất một phần không nhỏ đất sống của những người bán hàng dạo, hoa dạo và trái cây dạo như chị. Vì trong những ngày này, các con đường ở trung tâm thành phối Hà Nội đều có công an, dân phòng và quân đội đứng canh gác. Hầu như không chỗ nào là không có an ninh.
Và một khi an ninh đông đúc như vậy, những con đường quen thuộc của một người bán trái cây như chị Ngãi bỗng trở nên xa lạ và nguy hiểm. Nếu dắt xe trái cây hay gánh trái cây qua đây có thể bị bắt, bị tịch thu gánh hàng. May mắn một chút thì người ta nhắc nhỡ để đi tránh. Thường thì được nhắc nhỡ đừng vào khu vực cấm. Nhưng cái chỗ gọi là khu vực cấm ấy lại chính là nơi kiếm sống của rất nhiều người thuộc tầng lớp nghèo khổ, sống tạm bợ, trú ngụ qua ngày của thành phố Hà Nội.
Và chỉ cần bị cấm liên tục vài ngày thì hầu hết những người bán hàng rong, hàng dạo sẽ thất thu, giấc mơ về quê ăn Tết nghe càng lúc càng xa dần. Chị Ngãi nói rằng chỉ còn vài ngày nữa là đại hội 12 của đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc. Chị chỉ cầu mong đại hội này đến thật nhanh và kết thúc thật nhanh để chị còn có chỗ mà bán trái cây.
Trong suốt hai lần hội nghị gồm hội nghị 13, hội nghị 14 và nhiều lần duyệt binh bảo vệ đại hội, gánh xe trái cây của chị Ngãi bị thối hoàn toàn, phải mang đi đi đổ. Tính ra, chị lỗ gần hai triệu đồng. Một triệu đồng đối với người nghèo như chị Ngãi là vô cùng lớn, trong khi đó hai triệu đổ đi vì chờ đại hội, chờ duyệt bình là một nỗi mất mát to lớn của người nghèo.

hang-rong-400.jpg
Bán các loại rau, củ quả để sống qua ngày. RFA PHOTO.
Chị Ngãi chia sẻ thêm là chỉ có một cách duy nhất là để thối trái cây chứ không thể bán được vì khu vực duyệt binh và những khu vực cấm là nơi sinh hoạt, kiếm cơm của rất nhiều người bán hàng rong, bán trái cây dạo. Một khi bị cấm ở đây họ sẽ bủa ra các hướng khác để bán. Và cũng rất dễ có những đụng chạm chẳng đặng đừng giữa những người trôi giạt với những người vốn đã thành thổ địa trên địa bàn họ đã bán bấy lâu nay.
Theo chị Ngãi, có thể Tết năm nay chị không về quê đón Tết, chị sẽ tranh thủ đi rửa chén bát thuê trong những ngày đầu năm để kiếm thêm một ít tiền ra Giêng gửi về cho các con ăn học. Nhưng chị cũng lấy làm lo lắng không biết Tết này có bao nhiều người bán dạo, bán hàng rong sẽ quyết định ở lại thành phố bởi họ đã thất thu trong đại hội 12 này. Chỉ tiếc là đại hội diễn ra trong những ngày cận Tết quá, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến những người bán hàng rong, trái cây dạo. Và sẽ không ít người chọn ở lại làm suốt mùa Tết để bù vào khoản thu nhập bị mất trong thời gian đại hội 12.

Vật giá leo thang và đồng tiền nhỏ lại

Một người tên Hạ, người gốc Thanh Hóa, bán bánh pía ở Hà Nội được trên mười năm nay, chia sẻ: “Mùa này ăn Tết cũng bình thường vậy thôi chứ không có gì khởi sắc. Dân tình cũng nghèo khổ. Ngày xưa có khá hơn, bây giờ khó khăn quá, công ty cũng không ra chi, toàn dân quê lên đây buôn bán kiếm cơm nên chắc là Tết khó khăn. Chủ yếu là tới chúc nhau bà ngày tết vậy thôi chứ cũng chẳng có hội hè gì đâu!”
Theo chị Hạ, chị đã bán bánh pía qua hai mùa đại hội đảng Cộng sản Việt Nam. Và mùa đại hội này khá khó khăn, vất vả đối với chị. So với mùa đại hội đảng 11 năm 2011, đại hội lần này quá căng thẳng và gây tổn thất cho người lao động kiếm sống như chị không ít. Lần đại hội năm 2011, chị chỉ nghỉ bán hàng trong vòng một tuần đại hội, nói là nghỉ nhưng thực tế là chuyển địa điểm bán.
Còn mùa đại hội này, chị phải nghỉ trong vòng ngót nghét một tháng. Bởi vì người bán bánh pía rong bây giờ cũng nhiều hơn trước, mỗi người một khu vực để bán, dù không nói với nhau nhưng ai cũng tự hiểu và tự mặc định khu vực khách hàng quen của mình. Bây giờ, người ta cấm đường, cấm buôn bán rong, cấm khiếu kiện tập thể… Chị buộc phải nghỉ để tránh tình trạng bị tịch thu xe bánh pía và có lẽ sang tháng sau mới bán thoải mái trở lại được.
Với người lao động kiếm sống hằng ngày bằng buôn bán, chỉ cần nghỉ vài ngày là đã khó khăn, bây giờ thời gian nghỉ kéo dài cả tháng, vừa tốn tiền thuê trọ lại vừa tốn tiền ăn. Chị quyết định sẽ về quê ăn Tết sớm với gia đình, sau khi đại hội 12 bế mạc thì chị sẽ lên thành phố bán dạo bánh pía trở lại.
Chị Hạ chia sẻ thêm là hiện tại, mối bận tâm lớn nhất của chị vẫn là mọi thứ đều tăng giá rất nhanh, người thất nghiệp ngày càng nhiều và khả năng mua từ quà vặt đến nhu yếu phẩm của người dân có vẻ thấp đi. Không biết ra Giêng chị có thể trụ nổi với thành phố này được nữa hay không. Khi một cái bánh pía vẫn giữ nguyên giá cũ mà mọi thứ nguyên liệu đều tăng. Và đồng lãi vẫn mỗi ngày một ít đi mà thời giá lại tăng dần về phía Tết.
Như vậy, một cái Tết buồn đang đứng chờ trước cửa nhà của những người lao động nghèo chứ không riêng gì gia đình chị Hạ. Như để kết thúc câu chuyện, chị Hạ đưa ra kết luận rằng người lao động nghèo tuy không quan tâm chính trị nhưng lại bị tác động bởi chính trị nhiều nhất. Ví dụ như đại hội 12 lần này, nếu không có duyệt binh, không có kéo dài thời gian bầu bán gì đó thì thu nhập Tết của người bán hàng rong sẽ khá hơn, cái Tết sẽ ấm áp hơn!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
 http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/street-vendors-and-tet-01212016152208.html


Rượu bia ngày Tết

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2016-01-08
Email
000_Hkg10144856-620
Giới trẻ uống bia tại một quán nhậu ngoài trời ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2013.
AFP photo

Hầu hết từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu cũng bốc mùi rượu bia và inh ỏi tiếng hát lè nhè mỗi khi lễ lạc, Tết nhứt. Chuyện này trở thành một biểu trưng văn hóa Việt Nam.
Bia rượu và tinh thần yêu nước
Một cán bộ lão thành người Đà Nẵng, từng có thâm niên công tác hơn mười năm tại Hà Nội, chia sẻ: “Hồi xưa có rượu gạo, rượu mía, rượu nếp than, nói chung là rượu thông thường. Hồi đó ăn qua qua loa mấy miếng cóc ổi vậy chứ có gì đâu mà ăn, cứ như vậy mà uống. Bây giờ thì nhậu cao cấp rồi, nó uống gấp bảy, tám lần ngày xưa. Rượu gạo thì dân hạ lưu người ta uống thôi chứ dân có tiền thì uống rượu ngoại, trung lưu thì uống bia, rượu Volka. Nói chung bây giờ người ta ăn nhậu cao cấp lắm rồi…!”.
Theo ông này, trong suốt bốn mươi năm kể từ năm 1975, Việt Nam có thể thiếu lương thực, thiếu tự do, thiếu công bằng văn minh nhưng không bao giờ thiếu rượu bia. Bởi rượu bia là một kích thích tố nằm trong chiến lược bảo vệ đảng và giữ sự bình an cho đất nước.
Giải thích thêm cái điều gọi là bảo vệ đảng và giữ sự bình an cho đất nước, vị cán bộ lão thành này nói rằng tuy rượu bia khiến người ta trở nên mất tính người nhưng cũng chính rượu bia giúp cho người ta không bao giờ mất tính đảng. Bởi chỉ có đảng, nhà nước mới đảm bảo đời sống luôn có rượu bia và luôn có những cơn say thấy trời đất một màu rạng rỡ, tươi xanh.
Giải thích thêm, vị này nói rằng trong thời kinh tế tập trung bao cấp, mặc dù thiếu lương thực trầm trọng nhưng người ta vẫn cứ nấu rượu mía, rượu sắn, rượu ngô và số lượng không hạn chế. Đồng hành với rượu sắn, rượu ngô, rượu bắp có các chương trình văn nghệ quần chúng, hát cho dân tôi nghe. Mặc dù đói khổ, thiếu mọi thứ nhưng không bao giờ thiếu tiếng hát cổ động cũng như không bao giờ thiếu rượu.
Đến thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hàng loạt các nhãn hiệu rượu bia xuất hiện và ban đầu, rượu bia là thứ hàng hóa đánh thuế rất thấp, mãi đến khi có quá nhiều công ty rượu bia cạnh tranh và hầu như men rượu đã ngấm vào tận chân tơ kẻ tóc của các thế hệ Việt Nam, lúc này mặc dù rượu bia bị đánh thuế tương đối cao nhưng các dịch vụ hớt tóc ôm, massage, karaoke mọc ra đầy rẫy và rượu bia, tiếng hát vẫn cứ bay bổng, làm cho người ta đam mê đeo duổi nhưng trận say và những cơn đắm mình trong dục vọng… Có nhiều thanh niên khi nói chuyện, chỉ cần hỏi về tình hình đất nước thì người ta sẵn sàng trả lời rằng không có thời gian để ăn nhậu thì lấy đâu thời gian để mà quan tâm chuyện khác.
Ghê gớm hơn, có nhiều thanh niên trẻ nhưng khi hỏi về nạn xâm lăng của Trung Quốc, nói chuyện về đường lưỡi bò và những người Trung Quốc xuất hiện khắp nơi trên đất Đà Nẵng thì anh ta ù ù cạc cạc trả lời: “Trung Quốc à, quán nhậu đó ở đâu? Lưỡi bò trộn hay lưỡi bò luộc, bao nhiêu một dĩa…”. Vị này cho rằng cách hỏi như vậy, cho dù cố tình hay vô ý cũng đều cho thấy một điều duy nhất là phần đông các thế hệ Việt Nam bị chìm vào bia rượu và gái gú, hầu như họ không quan tâm đến ngay cả tương lai bản thân họ. Vì không quan tâm đến bản thân nên người ta cũng không quan tâm gì chuyện đất nước, dân tộc.


400
Một bàn ăn nhậu. RFA photo

Vị này nói rằng ông phải nói dài dòng về rượu bia và thế hệ trẻ như vậy để thấy rằng hầu như rượu bia đã làm tràn ngập tâm hồn nhiều thế hệ, làm cho người ta trở nên ngu đần và chỉ biết ăn, uống, phè phỡn. Chỉ trong dịp lễ Tết dương lịch 2016 này, có nhiều nhóm thanh niên, phụ nữ, lão thành tụ tập nhậu nhẹt. Đương nhiên chi phí này một phần do chính quyền địa phương hỗ trợ gọi là xây dựng phong trào và một phần khác do họ tự đóng góp.
Vị cán bộ hưu trí này tỏ ra thất vọng khi nói về thực trạng xã hội đầy rẫy rượu bia, sự vong thân và tính máu lạnh, quay lưng với dân tộc, quốc gia. Ông nói rằng trước đây, mỗi khi xuân về Tết đến, người ta nhấp một ngụm rượu trên môi để cảm nhận hơi ấm và hương vị của một năm mới, một mùa xuân. Còn hiện tại, những dịp năm hết Tết đến, cảm giác lẻ loi, bất lực và mất hết niềm tin vào xã hội ngày càng hiện rõ.
Người Trung Quốc đã thắng
Một vị khác tên Đồng, sống ở quận Cầu Giấy, Hà Nội, chia sẻ thêm: “Thế bây giờ báo đài nó đăng đầy rẫy ra đấy. Nói chung là Trung Quốc đầy đường. Hôm qua tôi đọc báo thấy ở Khánh Hòa mỗi ngày có chín chuyến bay chở Trung Quốc sang. Còn thanh niên mình thì làm gì nào? Uống rượu, chơi gái, đua xe, đánh hội đồng… Đến bao giờ mà tụi Trung Quốc nó sang nó ngồi trên bàn ông bà của người Việt thì lúc đó không biết tụi thanh niên làm gì nữa?!”.
Theo ông Đồng, có thể nói rằng hiện tại, người Trung Quốc đã thắng trong mưu đồ xâm lược của họ bởi sự tiếp tay của nhà nước. Ông Đồng nói rằng một quốc gia có thể bị thua về kinh tế, thất bại về chiến thuật trong chiến tranh nhưng người ta còn dũng khí, còn tinh thần yêu nước nghĩa là con hy vọng. Đằng này, suốt mấy chục năm nay, dựa vào sự mở của của nhà nước Việt Nam, hầu hết men rượu và độc dược của Trung Quốc đã dồn vào Việt Nam, nhanh chóng biến đa số nhân dân Việt Nam thành những thực thể bạc nhược, yếu đuối và thiếu vắng tinh thần yêu nước cũng như nỗi trăn trở về cộng đồng, dân tộc.
Và một khi đa phần nhân dân yếu đuối, bạc nhược thì kẻ xâm lăng cũng chẳng phải tốn kém gì nhiều cho công cuộc xâm lăng, đô hộ của họ. Hiện tại, có thể nói rằng người Trung Quốc đã đạt được mục đích và đã thực hiện được âm mưu của họ. Bởi hiếm thấy một dân tộc nào mà số lượng người mê hát, mê gái và mê nhậu nhiều  như dân tộc Việt Nam hiện tại. Người ta mất tự do nhiều thứ, kể cả mất tự do bày tỏ chính kiến nhưng người ta lại rất tự do nhậu nhẹt và tự do chửi thề trên bàn nhậu.
Năm hết Tết đến, những tiếng hô trên bàn nhậu, những dàn karaoke lại thỏa sức bung hết cỡ, dân ăn nhậu gọi là ‘chơi tẹt gas’. Theo ông Đồng, đây cũng là thời điểm mà mọi cá tính của dân tộc thể hiện rõ nét nhất. Nếu nói một cách chính xác, phải nói rằng cá tính dân tộc Việt Nam sau bốn mươi năm không thể không kể đến cá tính rượu đứng và bia ôm.
Hay nói cách khác, những ngày giáp Tết cũng là những ngày mà căn tính của dân tộc hiện ra rõ nét nhất. Một dân tộc luôn tuôn tràn bia rượu nhưng lại khô khan lòng yêu nước cũng như thiếu vắng sự quan tâm đến cộng đồng, xã hội. Có lẽ chính vì vậy mà người Trung Quốc mặc sức tung hoành ngang dọc ở các thành phố lớn Việt Nam


Blog / Cao Huy Huân

Cái Tết bây giờ sao lắm nỗi lo?

Ảnh minh họa: Mặt hàng trang trí Tết bày bán tại Hà Nội.
Ảnh minh họa: Mặt hàng trang trí Tết bày bán tại Hà Nội.
Hôm nay có người bạn nhắn tin cho tôi rằng Tết đến là lại thấy rầu. Tôi hỏi “Ở Việt Nam, Tết là lúc ông bà con cháu sum họp một nhà, sao mày lại chán? Ở hải ngoại, cực chẳng đã bà con chưa có điều kiện về, đành phải làm mâm cơm và mấy món ăn truyền thống để nhớ ngày Tết Việt, mày sống ở trên đất mẹ đất cha mà than thở về những ngày ấm cúng sum họp là sao?”
Không phải về quê ăn Tết là dễ đâu!
Đứa bạn tôi phân trần Tết nào mà Tết chẳng vui, nhưng Tết bây giờ nó khác với những cái Tết ngày xưa. Nhìn xung quanh, ai cũng hối hả, không chỉ Hà Nội mà còn ở Sài Gòn. Họ hối hả không phải vì tranh thủ làm cho xong vài ba việc còn thừa còn thiếu để về nhà với gia đình, mà họ hối hả vì phải tranh dành chật vật từng cái vé tàu, vé xe, thậm chí là từng món hàng giảm giá.
Cuộc sống phồn hoa đô thị của những thành phố lớn thu hút hàng triệu người lũ lượt kéo nhau về Hà Nội, Sài Gòn lập nghiệp, nuôi ước mơ làm giàu – thứ ước mơ trở thành hiện thực với lắm kẻ gặp may; nhưng đôi khi cũng trở thành hư vô với hàng triệu người cần lao mà cái nghèo vẫn đeo đuổi như những anh chàng si tình bám theo những cô gái đôi mươi.
Thật ra thì Sài Gòn, Hà Nội cũng chẳng phải vắng cái tình, cái nghĩa. Hàng chục ngàn vé xe, vé tàu giá rẻ, thậm chí là miễn phí cho những chị công nhân, những anh khuân vác, những sinh viên nghèo khó có cơ hội về nhà. Nhưng cái phần còn lại của xã hội chốn phồn hoa không phải là nhỏ. Ra đường bây giờ không thiếu cảnh người ta chen lấn, xô đẩy, thậm chí là chơi xấu nhau để kiếm những tấm vé nhàu nát với cái giá trên trời để có thể về quê kịp thời đón hoa đào, hoa mai bắt đầu bung cánh. Tết về, cái bon chen, bộn bề lại nhiều như lá trong rừng!
Đích thân ông Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng đã thẳng thắn quở trách “Có mỗi việc bán vé ở cả bến xe với ga Sài Gòn mà truyền hình đưa hơn một tuần nay. Phải vào kiểm tra đi, liệu có tiêu cực, có hết vé không hay có thể có 2 ngày hết còn ngày khác vẫn còn?”. Dù quyết liệt đến vậy nhưng giá vé tăng 200 – 300% vẫn cứ được rao bán nhan nhản ngoài đường, thậm chí trong các trạm xe, buộc dân bải bấm bụng bỏ tiền mua để về nhà khi ba mẹ, vợ chồng hay con cái đang nheo nhóc đợi chờ đồ Tết. Tốn kém là vậy, nhưng tình trạng nhồi nhét khách, chạy quá tốc độ, có khi các xe còn đua nhau để tranh đón khách. Mạng người treo lửng cành cây!
Không phải năm nay ông Đinh La Thăng nói riêng và lãnh đạo ngành giao thông vận tải nói chung mới đưa ra đề nghị toàn bộ lực lượng thanh tra phối hợp với công an trong dịp Tết, cố gắng làm sao giảm được nhồi nhét khách, tăng giá vé, cò vé để người dân đi lại thuận lợi, lên tàu lên xe thoải mái, không chen chúc nhau. Mà hầu như năm nào, các vị lãnh đạo cũng lên tiếng quyết liệt. Nhưng mọi thứ diễn ra trên thực tế: ngoài bến xe, trong bến tàu, trên những chuyến xe ngược xuôi xuôi ngược như chính số phận của không ít người dân... đều mang lại nỗi sợ, thậm chí được ví như những thách thức trường kỳ mà tất cả những ai muốn về quê ăn Tết đều phải trải qua.
‘Chặt chém’ và lạc hậu
Hiếm nơi nào mà như nhà mình, nạn chặt chém người du lịch hay du khách lại diễn ra bạo liệt, kéo dài suốt trong những năm qua. Giá thành các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đồng loạt tăng như thể là thông lệ. Đứa bạn tôi ở Hà Nội bảo “đi uống cafe mà gửi cái xe mất 30 ngàn đồng, còn đắt hơn cả tiền uống nước chè ngoài phố”. Người ta tận dụng tất cả mọi nơi, từ cái đường đi chung đến lề đường, vỉa hè, thậm chí là lòng lề đường để bày bán tất cả những gì người ta có thể bán với mức giá trên mây, và cười gật gù với nhau rằng như thế mới là không khí Tết.
Hôm Tết Tây vừa rồi, trước khi Việt Nam tổ chức bắn pháo hoa ở nhiều thành phố lớn trong đó có Hà Nội và Sài Gòn, tôi bảo trong bụng “thế nào báo chí cũng kéo nhau đưa tin rác nhiều như nêm sau khi chương trình pháo hoa mừng năm mới kết thúc”. Năm nào mà chả vậy, ấy nhưng năm nay còn có vẻ tệ hại hơn. Ngay cả các chậu hoa, thảm cỏ, các cây xanh hai bên vệ hồ Tây bị giẫm đạp nát không thương tiếc, những người qua đường nhìn lại mà chỉ biết lắc đầu cảm thông cho những người công nhân vệ sinh ngồi ngao ngán trước bãi chiến trường sau vài giờ “đón Tết”.
Nhưng cái nạn chặt chém, xả rác bừa bãi, không tôn trọng công trình công cộng dường như vẫn chưa phải là đề tài nóng so với những thủ tục lễ hội có phần bạo lực, bị truyền thông phản ánh và lên án dữ dội trong những năm gần đây. Năm 2014, 2015 đón Tết bằng hàng loạt các hủ tục “chặt chém” động vật hiểu theo đúng nghĩa đen, tôn sùng đó là hành động tạo phúc, dựng lộc cho cửa nhà. Mặc cho những người truyền gửi những thông điệp về nhân đạo “dù là con vật thì chết cũng phải đàng hoàng, việc hành quyết dã man không mang về ý nghĩa gì ngoài ý nghĩa bạo lực”; những người đồ tể vẫn giơ cao lưỡi dao chém tới tấp để cầu mong may mắn, an lành (!?).
Đó là chưa kể đến các tập tục liên qua đến “cướp” hay “giật”, vốn thu hút hàng ngàn người – quá sức kiểm soát của ban tổ chức. Số lượng “lộc trời cho” trong các chùa, đình thì hữu hạn, trong khi cuộc sống khó khăn, chật vật suốt một năm đã khiến lượng người mong năm mới đổi đời tăng đến mức chóng mặt. Hàng trăm, hàng ngàn người chen lấn, xô đẩy, đạp lên nhau và thậm chí dùng bạo lực như bạo động để tranh dành những mẫu vải, mẫu giấy đỏ vàng nhỏ xíu để mang về nhà. Dù thế nhưng báo chí đưa tin năm nay, huyện Sóc Sơn (Hà Nội) hôm 19-1 cho biết vẫn tổ chức nghi lễ cướp hoa tre trong Lễ hội đền Gióng ở đền Sóc dịp Tết Bính Thân sắp tới song sẽ có biện pháp để đảm bảo “cướp an toàn”. Dư luận ai nấy cũng giật mình nhớ lại “Mùa lễ hội lần trước, vào sáng ngày 24-2-2015, tại Lễ hội đền Gióng, khi kiệu giò hoa tre vừa vào đền Thượng, hàng chục thanh niên lao đến giằng xé, xô đẩy nhau để cướp lộc tạo nên cảnh hỗn loạn trên sân đền. Có thông tin cho rằng một số thanh niên mặc lễ phục hộ tống đã cầm thanh tre vụt vào đám đông. Sự việc tạo hình ảnh phản cảm trong một sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội”.
Tết là ngày sum họp gia đình, kể cho nhau nghe những câu chuyện một năm dài, truyền cho nhau lửa để tiếp tục một năm mới đầy sức khỏe và hạnh phúc. Nhưng cái Tết bây giờ, bên cạnh sự háo hức dường như có vẻ teo tóp dần, thì cái Tết sao mang lại lắm nỗi lo?
* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. 

Cao Huy Huân

Sinh trưởng ở Việt Nam và học tập tại Hoa Kỳ. Là một đại diện cho thế hệ sinh ra và lớn lên sau bước ngoặt lịch sử 1975. Luôn theo dõi sao sát những diễn biến xảy ra trong nước và nêu lên cảm nghĩ của một thế hệ hậu bối thông qua blog dưới một lăng kính trong vắt và đa chiều.

Chuyện cái phong bì

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2016-01-07
043_dpa-pa_151126-99-06226_dpai-622.jpg
Hình ảnh minh họa
AFP

Năm hết Tết đến, chiếc phong bì xã hội chủ nghĩa lại phát huy công năng của nó.

Phong bì hình tháp

Bà Thủy, chủ một cửa hàng tạp hóa ở Châu Ổ, Quảng Ngãi, chia sẻ: “Kèm ít quà cái là là nó kẹp tiền vô. Nó làm tất tần tật mọi cơ hội chứ không đợi gì Tết đâu. Cứ đến dịp lễ lạc gì là nó đua nhau kẹp phong bì bởi đó là cơ hội mà…!”
Kèm ít quà cái là là nó kẹp tiền vô. Nó làm tất tần tật mọi cơ hội chứ không đợi gì Tết đâu. Cứ đến dịp lễ lạc gì là nó đua nhau kẹp phong bì bởi đó là cơ hội mà…!
-Bà Thủy
Theo bà Thủy, mỗi năm, số lượng phong bì bà bán ra vào dịp Tết ước chừng hai ngàn chiếc. Hiện tại, số lượng phong bì cửa hàng bà bán ra đã lên đến hai ngàn rưỡi chiếc mặc dù còn hơn tháng nữa mới đến Tết. Điều đó cho thấy văn hóa phong bì năm nay có phát triển hơn năm trước.
Bà Thủy cho biết thêm là nếu tính tổng cộng số lượng phong bì tiêu thụ trong toàn huyện dịp Tết này, có thể lên đến cả triệu chiếc bởi chỉ riêng xã của bà đã lên đến hàng chục vạn chiếc được tiêu thụ. Cửa hàng bà Thủy chỉ là một cửa hàng nhỏ, trong đó, các cửa hàng lớn có thể tiêu thụ đến cả vạn chiếc mỗi dịp Tết.
Bà Thủy nói rằng hầu hết khách hàng tiêu thụ phong bì đều là thư ký các cơ quan nhà nước, mỗi cô thư ký có thể mua vài chục, vài trăm phong bì. Hỏi ra thì các cô này cho biết là mua giùm cho đồng nghiệp, cấp trên của họ. Và hầu hết đều mua ở các cửa hàng, thông qua các thư ký chứ các cơ quan không tự đặt hàng. Bởi đặt hàng sẽ gây dị nghị trong cơ quan và rất có thể điều đó sẽ lọt ra bên ngoài.
Thường thì phong bì được dùng kèm với một giỏ quà, gồm chai rượu, kẹo bánh và một phong bì. Chiếc phong bì chứa tiền là trung tâm, trọng điểm của giỏ quà. Thường thì số tiền tùy vào quan hệ, tùy vào cấp bậc mà lớn nhỏ khác nhau. Có một điều chắc chắn là một nhân viên bình thường trong cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước, mỗi dịp Tết, anh chị ta sẽ tốn ít nhất là mười phong bì.
Con số mười phong bì này được chia đều với các cấp trên, từ sếp quản lý trực tiếp đến các sếp cao nhất trong cơ quan. Hầu như bất kì nhân viên nào muốn tồn tại, muốn làm việc một cách ổn định, không bị hỏi thăm về bằng cấp thì đều phải thuộc lòng văn hóa phong bì, quà tặng vào các dịp lễ, Tết.

phong-bi-400.jpg
Phong bì bán tại một tiệm tạp hóa ở Việt Nam. RFA PHOTO.
Và thường thì các sếp cấp trên cũng không bao giờ dùng phong bì của cấp dưới mà dồn hết số tiền của cấp dưới đi lễ Tết thành một phong bì dày cộm để đi cho cấp trên nữa. Nhìn chung, mô hình phong bì xã hội chủ nghĩa có phân cấp rõ ràng, nhiều chiếc phong bì nhỏ với số tiền vừa của cấp nhỏ như những viên gạch làm móng cho những chiếc phong bì lớn hơn. Và người được thụ hưởng những chiếc phong bì lớn nhất, không phải chi cho ai, có lẽ phải là những quan chức đầu huyện, đầu tỉnh và trung ương kẻ ngồi trên đỉnh tháp quyền lực.
Bà Thủy nói thêm rằng sở dĩ phong bì ở các huyện, các xã bán chạy là vì các cấp nhân viên quèn đều nằm ở các tỉnh, các huyện. Và đây cũng là nơi có vấn đề nhất về bằng cấp, có thể nói rằng hiện tại, khi mà số lượng cử nhân tốt nghiệp đại học bị thất nghiệp mỗi năm lên đến hàng ngàn người nhưng hầu hết cán bộ cấp xã, huyện và tỉnh đều là cán bộ chuyên tu, tại chức.
Họ không hề có đủ kiến thức chuyên môn bởi quá trình học chuyên tu, tại chức của họ không hề nghiêm túc, phần đông ghi danh cho có tên, sau đó đút lót mỗi kì thi để có tấm bằng tốt nghiệp, rồi nộp bằng cho cơ quan để được tăng lương. Chính vì muốn được tăng lương, được hợp thức hóa chức vụ và trình độ nên hầu hết giới cán bộ địa phương đều vấp phải tình trạng dốt kiến thức nhưng lại giỏi chui luồn, hối lộ, đội trên đạp dưới. Có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng một đất nước đầy rẫy các loại hình phong bì mỗi khi lễ Tết.

Phong bì và đời cán bộ

Một cán bộ về hưu, tên Việt, đưa ra nhận định: “Ờ Tết thì mua chai rượu, đó là tùy theo thằng, có đứa nó mua chai Chivas. Nói chung là nó đi vậy chứ có nhiều dịp khác nữa, không riêng gì Tết nhất, thường là sinh nhật của sếp, sinh nhật vợ sếp, con sếp. Hồi còn đương chức thòi nó săn đón vậy chứ khi về hưu rồi thì cũng vậy thôi, vắng tanh, không thấy ma nào tới…!”
Theo ông Việt, một đời làm cán bộ, điều gắn kết và để lại dấu ấn nặng nhất có lẽ là văn hóa phong bì. Bởi chính phong bì đã tung hê, cho người lãnh đạo cơ quan thấy mình là vua một xứ, thấy mình tiền hô hậu ủng, có người bưng bê và cúi đầu vâng phục.
Nhưng cũng chính lãnh đạo đó, như bản thân ông Việt chẳng hạn, ông cảm thấy trống trải và cô độc khi về hưu. Bởi chỉ cần nhận quyết định về hưu là mọi chuyện khép lại, có khi nguyên cả một cái Tết không có bất kỳ đồng nghiệp nào đến thăm bởi có thể họ bận bịu đến thăm và quà cáp cho sếp mới.
Nói chung là nó đi vậy chứ có nhiều dịp khác nữa, không riêng gì Tết nhất, thường là sinh nhật của sếp, sinh nhật vợ sếp, con sếp. Hồi còn đương chức thòi nó săn đón vậy chứ khi về hưu rồi thì cũng vậy thôi, vắng tanh, không thấy ma nào tới…!
-Ông Việt
Thậm chí, với một sếp đã nghỉ hưu, việc suy tư về cuộc đời trong lúc rảnh rỗi có cả những phút giây nghĩ về thân phận cùng những chiếc phong bì. Thân phận và giá trị của một cán bộ nhà nước được thể hiện qua số lượng phong bì, quà cáp mà cấp dưới mang đến biếu tặng chứ không thể hiện trên quá trình công tác, cống hiến xã hội. Mà nói về cống hiến cho xã hội, có lẽ rất khó để tìm ra một thứ gì cụ thể cho một cán bộ để ông ta, bà ta có thể nhớ lại, nghĩ đến trong quá trình công tác.
Nhìn chung, văn hóa và quan hệ nơi công sở là văn hóa quà cáp và phong bì, quan hệ ở đây đậm tính cá lớn nuốt cá bé, kẻ ở dưới thì phải chấp nhận bề trên đạp trên đầu trên cổ và ngược lại, bị bề trên đạp bao nhiêu thì người ta lại đạp cấp dưới của mình bấy nhiêu để bù vào cái nhục của một quan chức. Ông Việt cho rằng đất nước này sẽ còn rất chậm phát triển, thậm chí rất khó để phát triển khi mà cái phong bì hiện hữu không mang ý nghĩa tình người, nó như một thứ bằng chứng của văn hóa hối lộ, đút lót, đội trên đạp dưới.
Vẫn còn hơn một tháng nữa mới đến dịp Tết Nguyên Đán nhưng hầu như kể từ đầu tháng 12 dương lịch, văn hóa và hoạt động của phong bì xã hội chủ nghĩa bắt đầu rầm rộ, trở nên hối hả. Tết nào cũng như Tết nào, ở Việt Nam, giới cán bộ quan chức vẫn là giới sử dụng phong bì nhiều nhất và đó là một truyền thống xã hội chủ nghĩa. Truyền thống của chuyện phong bì đi trước chuyện làng nước theo sau.
Và điều này, theo ông Việt, khi văn hóa phong bì phát triển lên đỉnh cao thì câu chuyện mất nước sẽ là câu chuyện đương nhiên của Việt Nam. Bởi kẻ bành trướng Trung Quốc có một lợi thế khi bước vào Việt Nam để mua đất hay làm bất kì thức gì, họ cũng là một quốc gia biết sử dụng phong bì một cách hữu hiệu nhất. Không biết trong dịp Tết này, có bao nhiêu cái phong bì  khủng của người Trung Quốc đã lọt qua cửa nhà quan chức Việt Nam?
Câu hỏi của ông Việt làm cho câu chuyện phong bì tại Việt Nam trở nên nhức nhối hơn bao giờ hết!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Sắm đồ Tết

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2016-01-04
620

Hàng tết bày bán cho khách hàng chủ yếu là công nhân
RFA photo

Sắm áo quần Tết cho con, cho cha mẹ, người thân, câu chuyện này đã thành nếp quen thuộc của người Việt, ngoài ý nghĩa tìm ra một sắc màu mới cho năm mới, nó còn chứa cả đạo lý làm người, cả sự thể hiện tình cảm, sự ân cần của cha mẹ dành cho con cái, con cái dành cho cha mẹ già… Tuy nhiên, câu chuyện sắm áo quần Tết của giới lao động nghèo tại Việt Nam lại là một đề tài nặng nề bởi mỗi đồng bỏ ra để sắm quần áo Tết còn chứa cả sự cân nhắc, tính toán và nỗi lo thiếu trước hụt sau…
Nhịn ăn để mặc hay nhịn mặc để ăn?
Chị Nguyệt, một lao động hiện đang làm việc tại khu công nghiệp Sóng Thần 2, Bình Dương, chia sẻ: “Nói qua thì tạm được thôi chứ còn… Người ta nhà quan chức, giàu có, làm ăn kinh doanh có tiền thì người ta xài thoải mái mới nghĩ đến áo quần mới đẹp đẽ chứ mình không có tiền thì mình ăn mặc bình thường thôi. Mua đại áo quần ngoài đường cho nó có mới vậy thôi, mua cho có vậy thôi chứ đâu dám nghĩ nhiều…”.
Chị Nguyệt có cách nói chuyện khá hóm hỉnh khi ví von người lao động nghèo với hai hình ảnh hai vị thần trong truyền thuyết dân gian, đó là ông “nhịn ăn để mặc” và ông “nhịn mặc để ăn”. Nghĩa là trong mỗi người lao động nghèo Việt Nam đều có cả hai ông này hiện hữu.
Nếu như ông nhịn ăn để mặc có áo quần xúng xính, bóng mượt, đẹp đẽ nhưng thân hình ốm o, gầy mòn bởi thói quen nhịn ăn để mua sắm áo quần thì ngược lại, ông nhịn mặc để ăn chỉ đóng chiếc khố sơ sài, rách tả tơi nhưng được cái là chiếc bụng khá bự và thân thể mập mạp, mạnh khỏe.
Nhưng nếu đưa cả hai ông này để so sánh với một con người bình thường thì dể dàng nhận ra cả hai ông đều thiếu thốn, đều thuộc diện nghèo. Bởi nếu giàu, người ta không bận tâm đến chuyện nhịn thứ nào để bổ sung cho thứ nào, không cần phải nghĩ mình nên nhịn ăn để mặc hay nhịn mặc để ăn.
Giới lao động người Việt làm thuê trong các khu công nghiệp cũng vậy, đa phần đều nghèo khổ, thiếu thốn, nếu muốn mặc đồ đẹp thì phải nhịn ăn, ngược lại, muốn ăn đầy đủ dinh dưỡng một chút thì phải nhịn mặc.
Người ta nhà quan chức, giàu có, làm ăn kinh doanh có tiền thì người ta xài thoải mái mới nghĩ đến áo quần mới đẹp đẽ chứ mình không có tiền thì mua đại áo quần ngoài đường cho nó có mới vậy thôi chứ đâu dám nghĩ nhiều…
- Chị Nguyệt, Bình Dương
Giải thích thêm, chị Nguyệt nói rằng trên thực tế, người lao động Việt Nam vẫn có một cơ hội duy nhất để lựa chọn, để được cả ăn no và mặc đẹp nhưng con đường này nhanh chóng đưa người ta đến nghĩa địa hoặc mất danh dự, phẩm hạnh. Tuy rằng nói là con đường nhưng nó có hai nhánh, hoặc là chọn ăn thực phẩm Trung Quốc, mặc áo quần Trung Quốc, hoặc là vẫn ăn ngon mặc đẹp, không chạm đến hàng Trung Quốc nhưng phải bán mình.
Ở hướng thứ nhất, theo chị Nguyệt đây là hướng chọn của đại đa số chị em công nhân trong các khu chế xuất, đó là cuối năm, mua vài bộ áo quần của Trung Quốc bán theo diện đồ bành dọc các nẻo đường từ Bắc chí Nam, muốn mua tại Sài Gòn, Bình Dương cũng có mà về quê mua cũng có. Còn hằng ngày, thực phẩm giá rẻ như chân gà đông lạnh, thịt heo đông lạnh, thịt gà đông lạnh đều không có nguồn gốc, xuất xứ và tuy không nói ra thì ai cũng biết đó là hàng Trung Quốc.
Với mức lương trung bình từ hai triệu rưỡi đồng tới năm triệu đồng, hầu hết giới lao động làm thuê trong các khu công nghiệp đều cảm thấy ngột ngạt, không đủ sống. Với riêng chị Nguyệt, mức lương ba triệu đồng mỗi tháng, trong đó chi phí ăn uống, điện nước, thuê phòng trọ và đổ xăng xe máy để đi làm mỗi ngày đã đội lên đến hai triệu. Một triệu đồng còn lại gánh cả chi phí card điện thoại hằng tháng, quà cáp gia đình ở quê và dự trữ phòng khi đau ốm, hữu sự. Có thể nói đời sống của chị Nguyệt hiện tại là “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, cái triết lý “cố gắng ăn mắm mút dòi để tồn tại” là triết lý chung, được chuyển hóa thành nguyên tắc sống của giới lao động nghèo Việt Nam.
Chính vì quá khó khăn nên mỗi dịp lễ Tết, người lao động trông chờ vào tiền thưởng, tiền Tết để mua sắm áo quần, quà cáp cho quê nhà. Nhưng nếu như mua các loại áo quần có tên tuổi, thương hiệu như Blue, Levis, Piacardin… Thì người lao động có mơ cũng không dám bén mảng tới các cửa hàng này. Bởi mỗi tháng lương của lao động Việt Nam không mua đủ một chiếc quần bò ở những cửa hàng Pie Cardin, Levis và không mua nổi một bộ áo quần ở Blue. Lựa chọn của người lao động vẫn là áo quần bán trôi nổi trên thị trường, miễn sao nhìn vừa mắt, không quá tệ.
Và cái câu hỏi “nhịn ăn để mặc hay nhịn mặc để ăn” vẫn là câu hỏi thường trực của người lao động nghèo Việt Nam.

Vật giá âm thầm leo thang

400

Quần áo bán dọc đường gần các khu công nghiệp. RFA photo
Ông Trung, cán bộ quản lý cho một công ty trong khu công nghiệp Sóng Thần 2, Bình Dương, chia sẻ: “Lương quản lý (mới) chừng bảy tám triệu chứ không có hơn. Thì mình cứ tiêu pha, xài co cụm vậy thôi chứ không dám tiêu xài gì đâu. Thì khéo ăn thì no khéo co thì ấm vậy thôi!”.
Với mức lương hơn mười lăm triệu đồng mỗi tháng của một cán bộ quản lý, ông Trung thú nhận là ông chưa bao giờ cảm thấy sống thoải mái. Và mặc dù cả hai vợ chồng đều làm cán bộ quản lý trong khu công nghiệp, nếu cộng lương của hai người lại cũng được khoản tiền gần ba chục triệu đồng mỗi tháng nhưng việc chọn trường tốt cho con học hành và mua sắp áo quần an toàn, ăn uống an toàn cũng đã làm tiêu tốn gia đình ông một số tiền không nhỏ.
Ông Trung cho rằng trên lý thuyết, ngân hàng nhà nước Việt Nam vẫn giữ quan điểm là đồng tiền Việt Nam chênh lệch giá không đang kể trong ba năm nay, hay dựa theo tỉ giá hối đoái, tỉ giá vàng thì đồng tiền Việt Nam ổn định. Nhưng trên thực tế, câu chuyện hoàn toàn không phải là vậy.
Lương quản lý (mới) chừng bảy tám triệu chứ không có hơn. Thì mình cứ tiêu pha, xài co cụm vậy thôi chứ không dám tiêu xài gì đâu. Thì khéo ăn thì no khéo co thì ấm vậy thôi!.
- Ông Trung, Bình Dương
Bởi trước đây ba năm, nếu có đám giỗ, một gia đình không có điều kiện kinh tế có thể đi chợ với hai trăm ngàn đồng cũng có thể nấu được một mâm trầm trà cúng ông bà. Nhưng hiện tại, cầm hai trăm ngàn đồng đi chợ, chỉ đủ mua hai nải chuối, hai bình hoa cúng và vài cái bánh chưng. Muốn nấu một mâm trầm trà để cúng giỗ, mất ít nhất cũng là một triệu đồng.
Điều này cho thấy đồng tiền Việt Nam không đảm bảo giá trị trong ba năm nay và nó liên tục mất giá trên thị trường. Ông Trung nói rằng nếu như một người lao động nghèo đi chợ, chỉ có một cách là mua vài bó rau, một ít cá lộn xộn và một ít thịt heo loại dỏm mới có thể tồn tại qua ngày. Nếu như đi chợ cho đầy đủ dưỡng chất, cầm hai trăm ngàn đồng bước vào chợ, khi ra khỏi chợ không còn đồng nào nhưng thức ăn vẫn chỉ là tạm an toàn chứ không hẳn đầy đủ dinh dưỡng.
Mà với người lao động, mỗi ngày đi chợ hai trăm ngàn đồng là chuyện không thể xảy ra. Một ngày đi chợ của người lao động thường dao động từ bốn chục ngàn đồng đến bảy chục ngàn đồng, tùy thuộc vào bậc lương của họ cao hay thấp mà chi tiêu. Với bốn chục ngàn đồng khi đi chợ, chắc chắn thứ người ta mang về không bao giờ an toàn và đảm bảo dinh dưỡng.
Năm hết Tết đến, với giới lao động nghèo Việt Nam, những người chưa bao giờ biết chiếc phong bì quà cáp là gì nếu họ không va chạm với công an khu vực hay dân phòng, chưa bị bắt chẹt thì nỗi lo lấy đâu ra tiền để sắm áo quần mới cho con cái, mua mét vải may áo mới cho mẹ già vẫn là nỗi lo đau đáu khó tả.
Và có vẻ như giữa cái xã hội mà với những kẻ ăn trên ngồi trốc, với giới quan lại rượu thịt ê hề, áo quần toàn tiền triệu, hàng hiệu, kệnh cỡm, hợm hĩnh… Thì những bộ áo quần Tết nặng nghĩa tình, nặng lòng hiếu hỉ của giới lao động nghèo như một nét chấm phá làm cho ngày Tết trở nên ý nghĩa và ấm áp tình người!
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/purchasing-the-new-clothes-for-children-in-tet-festival-ttvn-01042016103621.html


No comments:

Post a Comment