Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 31 October 2016

CHUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = CAO BÁ QUÁT

Friday, December 4, 2015


CHUYỆN TÙ CỘNG SẢN

Mưa Đồng Tháp Mười

Mỗi ngày cứ đến 5 giờ sáng là kẻng báo thức đã vang lên. Ngoài sân trời còn tối mịt. Tất cả tù choàng thức dậy sau một giấc ngủ như mê, đầy mệt mỏi, bởi lao động quá nặng nề trong việc cuốc đất đào kinh mà thời gian nghỉ quá ngắn. Có những ngày nắng gay gắt, gặp phải thế đất gò, cứng như sắt, toán đào kinh về tới trại thì trăng đã lên. Nhảy ùm xuống kinh tắm vội vàng, vô tới chỗ nằm là căng mùng ra ngủ,chẳng kịp nói với người nằm cạnh bên một câu nào. Gặp hôm mưa dầm ra lãnh lô đất nước lên tới gối, be bờ tát nước xong có khi gần hết buổi sáng. Làm việc với hết sức con người mà mỗi ngày lãnh 2 ca cơm trắng với 1 phần canh lưng chén (thường là rau, bí luộc với muối và chút mỡ heo) Ðào kinh 2 thước tới, 2 thước ngang, sâu 1 thước rưởi, đáy 1 thước, triên bờ bảy ba.


 Hai con kinh song song, phần giữa sẽ đắp thành con lộ, bờ đê hai bên bờ kinh sẽ trồng chuối và trồng khóm. Chương trình còn là xả phèn đất Đồng Tháp bẳng cách đào những con kinh nhỏ xẻ dọc ngang cho nước chảy ra con kinh lớn mà lao động chính là lực lượng tù của trại cải tạo Mỹ Phước Tây. Không biết người ngồi trên đã nghiên cứu kỹ chưa chứ theo cách đào kinh nầy thì sức khoẻ của tù ngày sẽ kiệt dần vì chế độ ăn uống quá kém mà việc làm lại quá nặng nhọc, mà mỏ phèn của Đồng Tháp Mười thì quá lớn..! Hơn 5 giờ sáng đã xuất trại, lội ruộng băng đồng trung bình mỗi ngày hơn 6 km mới tới nơi. Ði và về đã muốn hết hơi chứ đừng nói chi đến việc đào kinh.Tuần lễ đầu tiên mới chuyển từ trại cải tạo Hoà Đồng lên đây, tôi cảm thấy toàn thể xương trong người như rệu rã, bắp thịt bắp tay mỏi nhức như dần.


Không có ngày nào tôi đào xong phần đất, thường đều phải nhờ anh em trong toán phụ tiếp, một điều làm cho tôi hết sức ái ngại,bởi bạn bè đã mệt mỏi sau phần đất của mình nay phải bỏ công đào giúp. Cả toán phải xong ,sau khi tên "chịu trách" kỉểm tra thấy đạt thì toán mới được tập trung chờ điểm danh ra về, nên dù không muốn anh em cũng phải phụ nhau để được về sớm. Nhiều khi vì mệt mỏi quá, không ai phụ ai nên trăng đã lên mà tôi vẫn còn nguyên cả lớp đất cao khoảng hơn 4 tấc. Anh em tù thường gọi đùa là còn đứng trên bục thuyết trình vì mọi người tù xuống đến lớp đất đáy mà mình còn đứng trên cao. Quần xà lỏn, áo rách vá chầm, mặt mày đầy bùn đất, khi nào xong ra vũng khoát nước rửa mặt. Rửa xong lên tôi mới thấy nhẹ người, một ngày lao động với tôi mới thực sự là hết.

Ngoài cái khổ về lao động vất vả, còn một nỗi khổ khác mà hầu hết đám sĩ quan trẻ tụi tôi phải cắn răng chịu đựng là việc ăn ở chung chạ với đủ thành phần trong xã hội, từ hạ sĩ quan, binh sĩ đến trộm cắp, chiêu hồi. Nằm cạnh người biết điều còn đỡ, rủi ro nằm bên tên lưu manh thì thật là khổ tâm. Vui thì nó cười nói, buồn thì chửi xiên chửi xéo: "Đồ cái thứ quen thói ngồi mát ăn bát vàng, đồ cái thứ chỉ tay năm ngón, bây giờ cho ... chết mẹ tụi bây luôn". Chưa kể đồ đạc hở ra bị mất cắp, nếu nóng trả lời lại đêm ngủ nó giả đò mê mớ quơ chân đá vô sườn vô lưng. Trại nầy trước khi tụi tôi đến chỉ có vài sĩ quan còn lại đa số là tù hình sự.

Trại cải tạo Mỹ Phước Tây nằm trên trục lộ Cai Lậy - Kiến Tường, trước đây là căn cứ pháo binh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phía sau trại là phố chợ của khu trù mật Mỹ Phước Tây. Trước và bên hông trại là hai dòng kinh Dương văn Dương.

Mấy tháng đầu, tôi ở trong nhóm do chú Tư Hiếu làm nhóm trưởng. Chú là người có cấp bậc cao nhất của nhóm nầy, Thượng sĩ ,thuộc chi khu Cái Bè, tính đằm thắm rất dễ chịu, hiểu đời. Tụi tôi khoảng 10 ngưởi đều là sĩ quan từ trại cải tạo Hoà Đồng lên nhập vào nhóm nầy. Một gian nhà cột tràm lợp đưng, vách chầm lá, khoảng 50 mét vuông. Ðã có sẵn trên 40 tù với 6 em Phục quốc đang bị còng chân chung một thanh sắt. Phòng quá chật, nền đất. Tôi phải nằm chung mùng với Thiếu úy Tài, trung đội trưởng thám báo tiểu khu Gò Công, cạnh Tư què nhỏ hơn tôi khoảng 5 tuổi can tội trộm .

Những buổi lao động về trễ, nhìn thấy ánh trăng lấp ló trên trời tôi mới thấy thấm thía câu "Một nắng hai sương" mà trước đây tôi chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ chạm thực tế mới hiểu rõ: sáng đi sương còn mờ mịt, tối về sương rơi ướt tóc ...Nhóm sĩ quan Gò Công chuyển lên trại nầy khoảng trên một trăm.Cùng chung cảnh khổ nên dễ kết thân với nhau, nhưng hầu hết anh em đều không quen với việc lao động, nên sức khoẻ đều sút kém trông thấy rõ. Trại chia ra làm 3 hệ, mỗi hệ chia thành từng nhóm ở chung nhau, hệ quân đội, hệ cảnh sát và hệ hành chánh. Một dãy ngang, hai dãy dọc, chính giữa là nhà bếp và trại tù nữ. Sát bộ chỉ huy là dãy nhà nhỏ dành cho những người bệnh dễ lây như lao, cùi... Chức sắc trong nhóm có 3 cấp : nhóm trưởng, nhóm phó, thư ký nhóm do anh em bầu lên. Cũng có khi do trại chỉ định (thực ra do Bảy Quế chỉ định). Khi ra lao động thì do một số quân đội và cán bộ Việt Cộng bị nhốt về các tội tham ô , hủ hóa hay chiêu hồi dẫn đi , có võ trang súng ống đầy đủ đi kèm. Thường là súng trường CKC, thỉnh thoảng mới thấy có súng AK. Những tên tù chức sắc nầy được gọi là chịu trách. Thường những tên chịu trách nấy rất sắt máu và hắc ám hơn cán bộ trại bởi họ muốn lập công chuộc tội để được tha về sớm. Trưởng bên tù Nam là Bảy Quế, một tên Việt Cộng bị ghép tội phản gián. Tên nầy ốm cao, người miền nam, chịu trách điểm danh xuất trại cũng như điểm danh vào buồng buổi tối, có quyền đề nghị biệt giam và cũng thường ngồi chủ trì các buổi họp kiểm điểm ở đội .Bên nữ là Bà Hai Cốt cũng can tội gián điệp (sau ngày sập tiệm, báo Sài Gòn ...lóng cóng có đăng một tiểu thuyết gián điệp mà Bảy Quế và bà Hai Cốt là 2 nhân vật chánh.)

Tù Việt Cộng ít khi được ở yên. Ở trong nhóm nầy vừa tạm ổn, tương đối vừa mới hiểu rõ tính tình nhau là chuyển đổi qua nhóm khác. Bởi vậy trong tù có câu ..." Thứ nhất tự khai, thứ hai đổi nhóm...”. Tôi chuyển qua nhóm 20, nhóm trưởng tên Đẹp là Trung sĩ Cảnh Sát, nhóm phó là Khanh Thượng sĩ Quân Cảnh Tư Pháp. Hai tên nầy sống có vẻ cách biệt với anh em trong đội, thường thích tỏ ra vẻ mình là cấp chỉ huy, và có vẻ không ưa gì đám sĩ quan từ Gò Công lên. Tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi cũng phải cố gắng thích ứng để sống. Trong nhóm nầy cũng có vài sĩ quan Gò Công nhưng chỉ có một người bạn là Võ Văn Trầm, khóa 2 CTCT Đà Lạt, thuộc Sư Đoàn 9 là tương đối thân thiết với tôi. Ra lao động chúng tôi vẫn thường đào đất 2 lô tiếp giáp nhau. Trầm có sức hơn tôi nhưng để hoàn thành phần kinh cũng phải hết sức vất vả.

Buổi sáng các đội tập trung ngoài sân trại. Trong lúc chờ đợi điểm danh xuất trại, một số anh em tìm những tảng đá xanh mài lưỡi len cho bén Âm thanh rền vang trong cảnh trời còn tối đen. Bang, Đại úy phân chi khu trưởng xã Long Thuận thường chỉ cảnh mài len cười nói:

- Coi kiếm sĩ mài gươm dưới... mây kìa.

Hôm nay đào kinh tận giáp hạt nên Bảy Quế cho xuất trại sớm.Trên 600 tù tay cầm len tay xách bị đựng cơm nước đi thành một dọc dài trên con lộ cặp bờ kinh trên đường liên lộ đến Kiến Tường. Ngang qua trại tù Vườn Đào (tù nhân trại nầy toàn là sĩ quan, có một nữ sĩ quan là Trung Úy Nguyệt)tôi nhìn thấy anh em trong trại này còn trên sân chưa ra lao động. Gió buổi sáng mang chút sương đêm còn sót lại, cảm giác lành lạnh nhưng rất dễ chịu. Thỉnh thoảng có vài bạn tù băng vội xuống ruộng bên đường hái rau diệu, rau má hoặc rau dền, hay tấp vào quán bên đường mua nải chuối, gói xôi ... Có tốp đi trong im lặng cũng có tốp cười nói râm ran

- Ê Mỏng, hôm nay chắc trời sẽ mưa lớn.

Thằng Trầm đi bên cạnh nói với tôi

-Tao khoái trời mưa, mưa cho thiệt lớn, đỡ phải đào đất. Thật vậy, mưa có lạnh lẽo và ướt át thật nhưng nước ngập tràn thấy đường đâu mà đào với đắp.Tìm bờ đất cao ngồi rút mình dưới cái nón lá mỏng manh trông như một cây núm dại.

Thấy bầu trời còn nhiều mây đen, liệu mưa khó dứt hột là Bảy Quế cho thu quân.Phần lớn cho thu quân khi trời mưa là do đám vệ binh sợ tù trốn trại.

Trời dần sáng tỏ. Khi tới gần giáp hạt, thỉnh thoảng trên đường liên tỉnh có chuyến xe đò Sài Gòn Kiến Tường chạy ngang qua ...Rất nhiều khi tôi kịp nhìn thấy ánh mắt thật buồn của một cô gái nào đó ngồi bên cửa xe. Tôi nhớ tới những ngày công tác tại quận Phú Lộc, chiều buồn ngồi một mình trong quán bên đường nhìn xe cộ tấp nập qua lại với tốc lực thật vội vã từ Sài Gòn về Bạc Liêu hay Cà Mau,bên chai bia, gói thuốc lá mà nhớ tới Sài Gòn. Nhớ đến con đường Cường Để mỗi khi mùa hè đến, cổng trường rực rỡ xác hồng hoa phượng. Cô bé mắt nâu vén gọn vạt áo dài ngồi gọn vào yên sau chiếc xe Honda Dame màu xanh, vòng tay ôm thật sát.Quận Phú Lộc này tôi đến công tác có một tuần lễ, nhưng những người lính và dân ở đây còn để lại trong lòng tôi nhiều cảm tình đẹp. Nhất là Thiếu Tá Phát, vị Quận Trưởng đẹp trai, mà tôi cũng vừa hay tin đã tự sát trong ngày tháng tư đen ...Bây giờ nhìn chiếc xe đò chạy ngang ,tôi có một ước muốn thật tầm thường là được ngồi trên chiếc xe đò để về Sài Gòn, một việc còn khó hơn là bắc cầu qua biển nối Gò Công với Vũng Tàu ...Bây giờ trước mặt là một cánh đồng đưng mênh mông cạnh những thửa đất hoang ngập đầy nước và cây điên điển. Trời tháng mười hoa điên điển nở vàng . màu vàng thật đậm... xa trông cũng đẹp mắt lắm.

-Ê Trầm, cố gắng đào lẹ, phụ tao hái bông điên điển chiều về nấu canh chua ăn.

- Để coi trúng lô đất nào, gặp chỗ nhiều nước quá,tao mầy làm trâu nằm vũng chứ làm sao mà xong sớm được.

Thằng Trầm nói xong ngước nhìn trời, nó chỉ đám mây đen đang từ hướng Nam kéo tới.

-Tao cá với mầy là hôm nay mưa lớn lắm , lo mà tìm chỗ trú mưa chứ đào đục gì mà đào.

Bảy Quế vừa căng dây cậm tiêu chia lô vừa nhìn trời rồi lầm bầm: - Hôm nay chắc trời mưa suốt ngày.

Tôi và Trầm đứng nhìn lô đất mới lãnh , nước lên tới đầu gối, đỉa trâu lội lều bều. Trầm ngó mặt lên trời cười ngất :

-Hôm nay cúm núm kêu rồi Mỏng ơi !(cúm núm kêu lúc trời giáp tối) Hút một điếu thuốc rồi tính sau.

Trầm móc bao nylon đựng thuốc rê ra vấn một điếu rồi thảy chuyền cho tôi.

-Đắp bờ tát cạn nước cũng trưa trật rồi, chỉ còn mong mưa tới sớm .Lao động là vinh quang mà Mỏng.

Tôi nói nhỏ vừa đủ cho Trầm nghe:

-Nhưng mà không lao động là... vinh râu mà Trầm, Kệ, tới đâu tới, hút thuốc uống nước ...rồi ngồi cầu mưa.

Tôi trả lời với Trầm mà mắt nhìn quanh, bạn tù mọi người cũng đều lo lắng nhìn lô đất. Có nhiều người cùng nhau hợp tác, bắt đầu be bờ tát nước.

Trầm bắt đầu cầm len khui hộc, nó xắn ngầm từng tảng đất thật to. Tôi nhìn cục đất mà thấy ngán ngược. Ðặt len nằm trên bờ, tôi xắn quần, bắt đầu ôm đất đắp bờ. Dù đang lao động nặng nhưng vì buổi sáng hôm nay mây âm u,gió lại lành lạnh,gần nửa thân mình ngâm dưới nước nên tôi cảm thấy trong người ớn lạnh.Cho tới gần 10 giờ thì bờ bao cũng đã đắp xong. Trầm buông len,giơ chân lên khỏi mặt nước, cả chục con đỉa trâu bám đầy ống quyển mập căng đầy máu. Nó kéo từ con ra khỏi da, máu chảy đỏ nước.Trầm nhìn quanh, thấy chẳng có chỗ nào để giết đỉa, đành quăng ra xa mà coi bộ ấm ức lắm. Nó móc túi lấy chút thuốc rê quẹt lên vết đỉa cắn để cầm máu , miệng lầm bầm chửi thề. Tôi cũng chẳng khá hơn gì nó, chốc chốc thò tay xuống nước là kéo ra một chú đỉa... Dưới mắt tôi ở đây đìa đúng là...lềnh như bánh canh. Trầm phụ tôi tát nước và kiểm soát lại các nơi rò rỉ .

- Nghỉ chút Mỏng, kiếm cái gì ăn, tao thấy đói rồi .

Thằng Trầm khoát nước rửa tay, lên bờ móc thuốc vấn hút và đi lần đến chị gánh hàng. Nó mua 2 gói xôi tìm bờ cao ngồi rồi vẫy tay gọi tôi .

Tôi đi lần tới, Trầm vừa ăn vừa phân công:

-Tao xắn đất ngầm, mầy dùng thùng đạn tát nước cho nhanh, khi nào cạn nước thì phụ đào với tao.

Trong không khí lành lạnh, trên 600 tù trải dài một khoảng tầm xa nhìn mút mắt. Nhiều lô đã tát nước xong, đất được len vụt lên bờ đều đặn, mỗi cục đất với hình dáng và trọng lượng gần giống như nhau,liên tục bay bay lên bờ.

Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi .Thằng Trầm cười cười nhìn tôi:

- Ê, khoẻ rồi Mỏng à ...Coi trước chỗ nào có lùm cây cao để đụt mưa, tao nhìn đám mây nầy thấy mưa tới chiều chưa dứt. Mầy nhớ bọc thuốc hút lại cho kỹ, lạnh mà không có thuốc hút là buồn lắm đó .

Tôi nhìn quanh, cả cánh đồng đưng chẳng có cây nào có tàn cao đủ để núp mưa. Nhìn xa , ngoài đường lộ thỉnh thoảng có xe đò chạy qua, cũng có những bàn tay như vẫy chào. Nhìn lên bầu trời thì mây đen vần vũ, hạt mưa đã bắt đầu nặng hạt. Rất nhiều anh em tù bỏ lô đất lên bờ đứng hút thuốc. Gió bắt đầu thổi mạnh và cơn mưa cũng trút giọt ào ào.

Mình mẩy ướt nhem, tôi và Trầm xách bị cơm chạy núp mình vào một đám đưng gần kề che sụp nón lá nép mình tránh mưa. Mưa thật nặng hạt, chốc chốc hai đứa rút chân lên lấy tay gỡ bớt đỉa , đỉa trâu no máu con nào con nấy mập ú .

Thằng Trầm càu nhàu:

-Lao động là vinh quang, tụi mầy không làm mà cứ theo hút máu tao hoài , chết nè con.

Thằng Trầm dùng thân cây đưng lộn ngược con đỉa ra, máu đỏ ướt cả tay nó. Trời đã trưa mà mưa không dứt hột. Bụng đói mà không biết làm sao ăn. Gió lộng tư bề, tôi cảm thấy lạnh, cái lạnh không bình thường như mọi khi gặp trời mưa. Trong người tôi hình như có tới hai luồng lạnh, một từ trong xương lạnh ra, một từ ngoài lạnh vào .

-Ê Trầm, hình như tao bị cảm, tao thấy lạnh quá,không làm sao chịu nổi.

Tôi vừa răng đánh bù cạp vừa nói với Trầm. Nó nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại :

-Giữa đồng không mông quạnh như vậy thì làm sao có chỗ khô ráo mà tránh mưa tránh gió. Mầy thử lựa chỗ nào nước cao ra đó trầm mình xuống nước , ló đầu lên che nón lá kỹ lại coi có đỡ lạnh hơn không. Dân quê mình ra đồng làm ruộng gặp mưa to gió lớn vẫn chống lạnh bằng cách nầy .

Tôi đảo mắt nhìn qua một lượt, mấy cây điên điển nở hoa vàng đang lả mình theo từng cơn gió giật. Có nhiều khóm chỉ còn ló thật ngắn chút đọt. Trong lòng thấy ngao ngán ,tôi lách đám đưng lội chậm chậm về hướng bụi điên điển. Tôi từ từ ngồi xuống nước ,chỉ để ló từ cổ trở lên. Quả nhiên thấy ấm hẳn lại. Thằng Trầm nhìn vẻ mặt dễ chịu của tôi, nó cười lặc khặc:

-Ấm chưa Mỏng ? Chừng nào lạnh hết chịu nổi tao cũng xuống với mầy ...

Tầm mắt tôi chỉ cách mặt nước khoảng gang tay, hạt mưa xéo mạnh vào mặt nước,rải đều chập chũm. Tiếng mưa rơi, tiếng gió từng cơn, tiếng đưng quằn ngã theo gió vang vang bên tai tôi. Lòng tôi thật buồn, tội cho cái thân tù... Chốc chốc lại phải lấy tay rà khắp người để kiểm soát đỉa, bởi vẫn thường bị mấy con đỉa lẻn vào... "bộ chỉ huy" để hút máu. Mấy con đỉa này tù bắt được thường đề quyết là đỉa... cái

Tôi co ro ngồi dưới nước, tuy có ấm hơn ngồi trên bờ nhưng vẫn cảm thấy lạnh lắm. Gió xoáy thổi vào mặt bật tung nón lá... Mắt tôi mờ lại trước những giọt mưa . Những chùm hoa vàng điên điển, trước tôi còn thấy rõ, dần dần mập mờ nghiêng ngả theo từng cơn sóng nước ...Mẹ của tôi bây giờ đang ăn cơm trưa? Mâm cơm không biết còn được mấy món hay là chỉ trơ một dĩa rau luộc, không biết có thêm được trứng vịt luộc dầm nước mắm không? Với đồng lương dạy học của chị, vừa nuôi ba nuôi mẹ lại cưu mang thêm đứa em tội tù ...Mỗi lần gặp Mẹ bên hàng rào kẽm gai , bên bờ ruộng chỗ cho thăm nuôi phía sau trại , lần nào tôi cũng phải hết sức cố gắng cho nước mắt khỏi tuôn trào. Bao lần tôi nói mẹ tìm người gửi chứ đi thăm đường xá xa xôi quá, sức khoẻ Mẹ bị suy giảm làm sao con an tâm sống được...Mẹ ừ mẹ hử. Tay mẹ lần xoa bóp tay con, mẹ vuốt tóc, mắt mẹ đỏ hoe... Rồi vắng một tuần lại cũng thấy mẹ lên thăm ... Mẹ đâu biết rằng khi con từ giã mẹ trở vào nhóm là phải vội vàng lên trình diện ban chịu trách để đi lao động ngay. Ðó là quy luật dành riêng cho người có thăm nuôi trong ngày chúa nhật. Tùy theo mùa nên công việc có khác nhau, khi thì một thúng lúa giống lội trên 6 cây số đường ruộng, khi thì 5 cây chuối cây giống cao khoảng hơn thước. Khi thì một bó đầu khóm giống. Thúng lúa giống một giạ tuy có nặng nề, vậy mà dễ di chuyển vì khi thấy mệt ,tù cứ để xuống nghỉ. Thời gian di chuyển không bắt buộc nhưng tù nào cũng muốn xong về sớm đề sắp xếp đồ thăm nuôi. 5 cây chuối mới là nan giải, thường tù dùng dây kết lại làm bè ,dòng theo bờ kinh mà kéo Tới khúc lộ ôm từng cây băng qua,ra tới nơi đào lỗ trồng 5 cây xong mới được về. Tên chịu trách còn đến xem từng cây coi có bị bầm dập gì không. Ðầu khóm giống càng khổ hơn, nó không nặng nhưng gai góc, nếu vác vai thì gai đâm cổ. Cách nào thì cũng bị gai quào xước cả người.

Mới mười tám tháng xa nhà mà lòng tôi đã thấy nhớ lắm.Lúc ở đơn vị, dù là đơn vị tổng trừ bị luôn phải rày đây mai đó, nhưng mỗi khi thấy nhớ nhà thì dù cho cấm trại 200% đi nữa, tôi muốn về là tôi về . Không có Đơn vị Trưởng hay Quân Cảnh nào cản ngăn tôi được ...Bây giờ mẹ tôi ngồi đó, rất muốn ôm hôn mẹ mà không làm sao hôn được... Nước mất... là mất tất cả, tôi bây giờ là thằng hàng binh, nhục ơi là nhục, đánh đấm kiểu nào mà phải buông súng đầu hàng... Không trăm lần không, ngàn lần không, cá nhân tôi không đầu hàng mà tôi ở trong tập thể đầu hàng ...Ngày còn ở trại cải tạo Huyện Tây, mỗi nửa tháng được cho thăm nuôi một lần, tù bên trong nhìn rõ thân nhân từ ngoài đường di chuyển về hướng cổng trại. Ðã có lần máu tôi chợt nóng lên, mắt tôi nhìn như tóe lửa, khi nhìn thấy cảnh mẹ tôi hai tay xách đầy hai giỏ nặng lầm lũi bước vào cổng trại bị một thằng võ trang dùng mũi súng gạt ngang làm mẹ hoảng hốt mất đà suýt té...Hai tay tôi nắm chặt lại... Mẹ ơi, con trai mẹ hèn quá, mẹ ơi hoàn cảnh nào đã biến con trai mẹ thành thằng hèn ...Mẹ ơi ! chắc Mẹ vẫn biết thằng con trai út của mẹ có một trí nhớ rất tốt, cả đờI nó sẽ không bao giờ quên hình ảnh mẹ mình lảo đảo trước sắt thép của kẻ thù ...

Mưa vẫn trải đều hột, chưa có dấu hiệu gì sắp ngớt. Bầu trời vẫn một màu đen kịt, thỉnh thoảng chớp nháng sáng trời... Sấm động gầm gừ rền vang... Gió vẫn xoáy lốc từng cơn

-Mưa quá làm sao hút thuốc Mỏng, mầy đói bụng chưa ?

Tôi trở về với thực tại. Trầm đã ngâm mình xuống nước không biết lúc nào và đang ngồi phía sau tôi . Thấy tôi ngoái đầu nhìn lạI, nó nhe răng cười khục khặc, da mặt nó đã tái xanh dù nắng gió đồng Tháp Mười đã biến tù thành ... Ông táo Tàu từ lâu .Người tôi run lên từng đợt,tôi vuốt mặt mấy cái:

- Lạnh quá Trầm ơi, tao chịu hết muốn nổi rồi, chút về mấy cạo gió giùm tao nha Trầm ...Đói bụng quá mà mưa như vầy làm sao mà ăn. Tao cũng thèm thuốc lắm rồi ...Mưa điệu nầy tới chiều chưa dứt ...mà tại sao lần nầy tụi chịu trách cho thu quân trễ quá vậy?

Mắt tôi lại thấy nặng, đã lạnh, đói lại còn buồn ngủ nữa... Tôi bỗng như thấy lại hình ảnh một buổi trưa tại trại Huyện Tây... Buổi sáng mẹ đã vào thăm, buổi chiều tôi yên chí nằm trong phòng, và để rồi rất ngạc nhiên khi được gọi tên ra thăm nuôi... Tôi mặc vội bộ bà ba đen Xây Dựng Nông Thôn đi vội ra cổng trai... Mắt tôi mở to đầy ngạc nhiên lẫn thích thú... "Mắt Nâu"! Trời ơi Mắt Nâu của tôi lặn lội từ sài Gòn xuống thăm tôi.. đi chung với mắt nâu còn có Khưu thị Tuyết Mai cũng bạn chung lớp năm Nhiệm ý ban Việt... Theo phản ứng tự nhiên tôi chồm tới định nắm tay ... nhưng tôi kịp "thắng" lại, vì tôi đã tự biết tôi là ai. Tôi đâu còn là sĩ quan ở trại Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài phát thanh Sài Gòn nữa mà mừng mà vui khi thấy Mắt Nâu vào trại thăm tôi, như những ngày còn trong đơn vị... Mà ở đây là trại cải tạo, một lối nói văn vẻ thay cho trại tù hay khám đường ....

-Ê, Bảy Quế đang nói gì với mấy nhóm trưởng kìa Mỏng, không chừng thu quân đó mầy ...

Tôi đang mơ màng nhớ lại những hình ảnh đã qua thì giọng thằng Trầm đưa tôi về thực tại ...Hai hàm răng tôi đánh vào nhau nghe cồm cộp, tiếng nói run run đứt khoảng

-Về là phải rồi... mưa như vầy mà còn đào gì nữa.

Tôi đứng thẳng người lên, cơn gió xoáy ngang làm tôi lảo đảo suýt té. Ngồi lâu cẳng chân bị tê. Gió mưa đập vào người làm tôi run lên.

-Rán đi Mỏng, chắc về thiệt... Mầy lấy tấm nylon của tao quấn đỡ, về tao cạo gió cho mấy. Thằng Trầm an ủi tôi.

Chú Tư Hiếu nhóm trưởng khoát tay ra hiệu tập họp, tôi run rẩy chạy lúp xúp theo Trầm về vị trí xếp hàng... Anh em bạn tù người nào cũng loi ngoi như chuột lột, mặt mày xanh xao, đứng co ro run rẩy. Bảy Quế điển danh xong toán nào là cho toán đó về... Anh em rẽ nước băng đồng ... Mưa vẫn không ngớt hột. Chúng tôi vừa đói vừa lạnh. Nước lên ngang rún , phải lội hơn cây số mới ra tới bờ lộ cái, anh em lúp xúp chạy cho đỡ lạnh

-Rán chạy lẹ Mỏng, tới quán mua mấy củ mì ăn đỡ đói với hút điếu thuốc cho ấm lòng ...Thằng Trầm giọng run run nói với tôi.

Rồi đám tù cũng về tới trước cổng trại , không có anh em nào xuống kinh tắm như thường lệ mà tự động xếp hàng chờ điểm số để nhập trại. Gió vẫn vụt vù thổi, chớp vẫn nháng sáng trời ... Bây giờ cũng đã hơn 2 giờ trưa ...Tôi thấy trong người khó chịu ... Vào phòng thay áo quần khô xong tôi vạch lưng cho Trầm cạo gió . Nó xin chút dầu lửa và dùng cái muỗng cạo lưng cho tôi ..

-Mầy bị trúng gió rồi Mỏng , mới cạo sơ mà đã thấy tím bầm ...

Tôi cũng không màng ăn cơm chiều, trùm mền nằm thiếp luôn cho tới kẻng điểm danh tối mới ráng ngồi dậy, thấy nặng đầu và mình mẩy nóng hực. Tôi đứng lên lảo đảo suýt ngã ..

- Anh Đẹp báo cáo dùm, tôi nóng quá, chóng mặt không ra điểm số được. Tôi gượng nói với Đẹp trưởng nhóm, xong nằm ngã ra thở dốc...

Tôi nằm mê man cả hai ngày, chỉ uống chút nước do người bạn tù nào đó cũng bệnh nghỉ ở nhà như tôi. Mấy viên thuốc ABC tôi mang theo, tôi cố gắng uống mỗi ngày 4 viên.Buổi tan tầm thằng Trầm đi lao động về nấu cho tôi soong cháo, nhưng tôi cũng chỉ ăn được vài muỗng vì miệng mồm đắng nghét. Thằng Trầm an ủi tôi:

- Mầy phải rán uống thuốc và ăn nhiều cháo mới có sức mà hết bệnh được ..

Miệng đắng quá, tao thèm uống nước chanh quá Trầm ơi, tay chân tao như rã rời cử động hết muốn nổi... Tôi gượng cười: ”Không biết tao qua khỏi con trăng nầy không”.

Tôi thiếp đi nhiều hơn tỉnh ...Nhiều đêm thức giấc tôi nhớ mẹ vô cùng. Từ nhỏ sống cạnh kề mẹ, tôi ít khi bệnh. Vào quân trường cũng thế,ai sao tôi vậy. Chín tháng quân trường, ngay cả trong thời huấn nhục tôi chưa từng bị xỉu. Cũng từng dầm mưa dãi nắng khi ra đơn vị, cũng ngủ bờ ngủ bụi... Nhất là trên con đường máu 7B di tản từ Pleiku về đến Bình Tuy, biết bao nhiêu là gian hiểm tôi đều vượt qua đượ ... Không lẽ trong cảnh tù đày như vầy... Tôi không dám nghĩ tiếp,nhưng có lẽ vì quá tủi thân, nước mắt tuôn trào ướt cả má... Nhiều lúc tôi nghĩ quẩn , phải chi mình chết bờ chết bụi trên con lộ 7B cho rồi đở phải cực thân như bây giờ. Rổi tôi cũng lại nghĩ: sông có khúc, ngườI có lúc, mình phải ráng sống, sống để có ngày nhìn thấy toàn dân đứng lên xé nát lá cờ sao. Tình trạng nầy kéo dài mươi ngày tôi mới dấn tỉnh... Trầm đi lao động về cùng với thằng Quang phục quốc vẫn nấu và mang đến chỗ nằm cho tôi từng chén cháo.Tôi ăn được nửa chén, rồi một chén... Những buổi lao động gặp đất mềm tụi nó đào xong sớm, rảnh tay bắt con cá con tôm, ngang đồng nhổ nắm rau đắng đất về nấu cháo cho tôi. Trong hoàn cảnh không có người thân mà được bạn tù chăm sóc, lòng tôi cảm kích lắm.Tôi cũng tự mình cố gắng đi ra đi vào, phơi nắng buổi sáng. Gần một tháng trời mới tương đối bình phục. Thằng Trầm hôm đó về sớm nấu cho tôi một soong nước, ra phía sau pha nước cho tôi tắm. Ðã lâu mới cởi áo quần, tôi thầy người tôi toàn là xương.

Tắm mát mẻ, hòm đất đóng lâu ngày phải kỳ cọ thật lâu.Buổi tối thằng Trầm pha gô nước trà có mấy miếng kẹo đậu phọng, mời một số bạn bè trong nhóm đến uống trà mừng tôi hết bệnh... Tuy trong mình thấy nhẹ nhàng nhưng tôi cảm thấy còn yếu lắm bởi ăn cháo suốt gần cả tháng ...

Tôi chuyển qua nhiều trại tù, riêng trại Mỹ Phước Tây tôi ở gần 12 tháng .Một thời gian rất ngắn so với tuổi tù của tôi, nhưng tôi nhớ trại nầy nhiều nhất. Mỹ Phước Tây trong lòng tôi vẫn là... địa ngục trần gian, bởi chế độ lao động quá nặng nề và cai tù đánh đập tù quá tàn nhẫn...

Anh Thiếu Tá Huề kiệt sức chết ở đây , anh Đại úy Lành (giáo phái Hoà Hảo) bị tụi cán bộ dàn cảnh bắn chết phía sau trại, anh Trung Sĩ Gương Cảnh Sát bị võ trang nhắm thử súng bắn chết trong lúc lao động đào kinh.Còn biết bao nhiêu anh em tù bị chết vì mìn bẫy trong lúc cuốc đất trồng hoa màu... Bao nhiêu anh em vượt trai bị bắt lại bị đánh mềm như bột ,thất khiếu đều ra máu còn bị trói ké bỏ nằm dưới cột cờ , bắt anh em tù đều phải lên coi... Ba người bạn cùng nhóm: Sàng, Bi và Nguyễn Thanh Quang (Trung úy Không Quân) và Đại úy Triệu Tỉnh đoàn Trưởng Tỉnh đoàn Xây Dựng Nông Thôn Gò Công vượt thoát được.

Bây giờ nơi đất tạm dung, mỗi khi tan ca về gặp phải trời mưa, lòng tôi lại bùi ngùi nhớ tới những cơn mưa Đồng Tháp. Trầm qua Mỹ theo diện HO 15 bây giờ ở đâu, Đại úy Triệu vượt thoát tới bến bờ tự do hình như đã qua đời vì bệnh. Còn Quang, Sàng, Bi bây giờ các bạn ở đâu... Trái đất hy vọng vẫn tròn, có như vậy mình mới mong có cơ duyên gặp lại những người bạn đồng cảnh ngộ ngày xưa.

Nếu không có ngày tháng Tư đen, tôi sẽ không bao giờ hiểu được sự thâm ác của người Cộng Sản. Một ngày nào đó tôi sẽ về thăm lại quê hương, tôi sẽ tìm thăm lại con lộ 7B mà tôi đã bước chân đi qua. Một đoạn đường đầy máu và nước mắt,, người chết đi cũng chưa hiểu tại sao phải bỏ quân đoàn 2. Xác người chết bị đạn hất tung hai ba lần như trong một bản nhạc của người họ Trịnh đã viết. Tôi sẽ thăm lại Đồng Tháp Mười, thăm những con kênh xẻ ngang dọc như bàn cờ mà ở đó ngày ngày tôi đều bị đỉa hút máu và phải lao động khổ sai, tai phải luôn nghe những lời chửi mắng của bọn chịu trách, cai tù.

Tôi có thực hiện được điều mà lòng tôi mong muốn? Tôi phải tin tưởng cờ vàng rồi sẽ bay trên suốt dải đất quê hương... vào một ngày không xa lắm.

Viết tại Kỳ Đà Động, Quí Xuân 2003
THỦY LAN VY

CHUYEN VƯỢT BIÊN

Vượt Biển Bằng Thuyền Buồm

Tác giả/Nhân vật: |23-10-2015| 114 lần xem | |
Gởi tặng 84 thuyền nhân đã cùng tôi vượt biển năm 1982. Bây giờ các bạn đã tản mác khắp bốn phương trời không còn liên lạc được, chúc các anh, chị đều có một cuộc sống mới an bình và hạnh phúc.

Ghi chú về buồm.
Khoảng tháng 7 năm 1982 tôi ra tù, về nhà thì vợ con tôi đã qua Mỹ. Tôi đã biết quá rõ về Cộng Sản, nên không có lý do gì để ở lại với bọn chúng. Không có chế độ nào tệ hại như chế độ cộng sản từ ngày lập quốc đến nay. Bộ đội, Công an, cướp của dân, xem dân như súc vật.
Mẹ tôi nói trước khi tôi ra tù đã có 2 nhóm tổ chức vượt biên đến nhà để hỏi thăm tìm người lái tàu cho họ. Phong trào vượt biên coi như công khai, tôi đi đâu cũng nghe nói tới các tổ chức vượt biên bằng đường bộ, đường thủy, ngay cả những người bạn hải quân của tôi,khi gặp tôi họ cũng rủ tôi đi với họ,hay giới thiệu tôi với các tổ chức vượt biên mà họ quen biết.
Mẹ tôi biết thế nào tôi cũng sẽ đi, nên mua cho tôi một chiếc xe đạp, bảo tôi nên đi chơi để tránh sự dòm ngó của công an địa phương, mọi việc ở nhà để mẹ lo.
Tôi đi qua nhà ông Cậu của tôi để xem lại bản đồ và định hướng lộ trình, thích hợp (Cậu tôi có tàu đi Miền Trung).
Tôi có hai người bạn thân trong gia đình đến nói với tôi là nếu có đi thì hãy giúp họ với. Một anh là Huỳnh Hữu Thế bạn cùng học tiểu học với tôi ở Cần Giuộc. Anh học rất giỏi, đỗ thủ khoa ban toán ở đại học Sư Phạm, bị động viên, anh được biệt phái về trường Võ Bị Đà Lạt (lúc học tiểu học tôi thì gầy gò ốm yếu trong khi anh Thế thì mập mạp, nên Thày hay chọc chúng tôi gọi lên bảng, dậy là “Vous êtes maigre, il est gros…” Đó là một kỷ niệm không bao giờ quên trong đời tôi.
Hai là anh Trần Trọng Ngọc – Tiểu Đoàn Trưởng – anh là anh của em rể tôi Trần Trọng Ngà cùng khóa Hải Quân với tôi. Ngà đã hết lòng giúp đỡ con tôi khi nó mới qua Mỹ.
Tôi nghe mẹ tôi nói rất nhiều về các tàu vượt biên, vậy mà cũng không hình dung được các chuyến vượt biên như thế nào. Bà nói, bãi bị bể, bị bắt lại, hoặc ra đi song bị hải tặc cướp của, hãm hiếp và giết người trên biển thì nhiều lắm – Con phải hết sức cẩn thận!
Tôi sẽ phải chọn một trong hai nhóm đến nhà tôi để đi.Nhóm 1 do một người đàn bà tổ chức đi tại Sài Gòn.Nhóm 2 do một người đàn ông tổ chức tại Cần Thơ, bạn Thế của tôi có nhà ở Cần Thơ nên tôi chọn đi tại Cần Thơ, hơn nữa song Cửu Long, dù Tiền Giang hay Hậu Giang, tôi khá rành nhờ ba năm tôi ở Giang Đoàn thuộc Vùng 4 Sông Ngòi.
Ngày 15 tháng 10 âm lịch tôi xuống Cần Thơ do một anh chở tôi bằng xe Honda, tôi mang tên và giấy tờ giả. Muốn sống được với Cộng Sản cái gì cũng giả hết. Anh ta dặn nếu công an có hỏi tôi cứ nói đi Cần Thơ thăm gia đình, mọi việc khác đã có anh lo, xong anh đưa cho tôi mấy cái nhẫn đeo tay nói đây là bùa hộ mệnh anh đừng lo.
Tôi ở nhà anh Thế 2 ngày, ngày nào cũng có người tổ chức vượt biên đến cho tôi đi ăn nhà hàng và hỏi tôi cần gì anh ta sẽ lo. Anh cho tôi biết là sẽ có khoảng 60 người cùng đi trong chuyến này và giá được tăng lên 8 cây thay vì 6 cây vì tàu sẽ do cựu Hải Quân VNCH lái.
Tôi chỉ cần 8 bao gạo, 2 tấm vải nylon, 4 cây cột dài và dây nhợ, vì linh tính tôi thấy đến 82 tàu vượt biên còn lại toàn tàu cũ, nếu có tắt máy tôi sẽ dương buồm để đi.
Chủ tàu (nói là tàu, chớ thật ra chỉ là một ghe máy chở gạo đi miền trung) là chủ một tiệm vàng ở Cần Thơ tàu dài khoảng 12 m. ngang 4m. (12×4) có mui để chở gạo.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10 âm lịch chúng tôi xuống tàu ngay bến Ninh Kiều, có người lái ra bến đông người, tôi xem qua tàu và ngồi nói chuyện với người tổ chức. Ông ta có lẽ là một cựu cán bộ nên nói chuyện có vẻ tự tin, khoảng 4 giờ chiều tàu ra gần đến cửa biển và đó cũng là điểm hẹn rước khách, 5, 6 ghe nhỏ từ trong bờ bơi ra chở đầy người xem ra có tới hơn 80 người vì có nhiều người căn me theo.
Khoảng 5 giờ thì ông tổ chức đến bắt tay tôi, để từ giã và chúc tôi lên đường may mắn, ông hỏi tôi cần súng ông tặng tôi một cây sung ngắn, tôi từ chối.
Tôi làm lễ xuất phát bằng cách đặt tên tàu là tên một bé gái nhỏ nhứt chừng một năm tuổi tên là Ái Linh, và đổ rượu xuống sông “thề quyết đi không trở lại”.
Trời bắt đầu xế chiều nước sông bắt đầu ròng, sóng gió nổi lên rất mạnh, người ngồi trong tàu bị lắc ói mửa. Trong cảnh lặng im, nương theo ngọn sóng, tôi lái tàu ra biển suốt đêm, đến sáng tôi bắt đầu chuyển tàu về hướng nam.
Đến trưa ngày 20, tôi thấy hòn Khoai, trên hải đồ đảo này có tên là Poulo Obi, một hòn đảo nhỏ nằm phía nam của Mũi Cà Mau, khoảng 20 cây số (trước đây tôi đã làm duyên đoàn trưởng duyên đoàn 41 đóng quân trên đảo này). Và đây cũng là là lúc tai họa đến với chúng tôi, tàu bỗng dưng chết máy!
Máy sửa mãi không chạy vì không có thợ máy rành nghề trên tàu. Đúng như linh tính, tôi gọi anh em trên tàu phụ tôi căng hai tấm nylon làm buồm tấm nylon xếp chéo góc hình tam giác, một đầu cột trên ngọn hai cây cột dựng thật chắc ở mũi tàu, đáy tam giác cột vào mũi và thân tàu (theo hình vẽ). Để làm buồm, đưa tay lái cho anh phụ lái, tàu quay vòng vòng vì anh chưa hề lái thuyền buồm.
Bắt đầu từ đây tôi phải tự lái một mình.
Tôi chia các thanh niên khỏe mạnh trên tàu làm 2 tổ, an ninh và tát nước do anh Ngọc chỉ huy và một tổ lo nấu ăn.
Ngày 20 & 21 tháng 10 biển êm sóng lặng bà con tỉnh ngủ lên sàn tàu chơi,. Anh trưởng bếp lên phòng lái chơi, nói chuyện với tôi anh kể toàn chuyện xui xẻo, anh đã vượt biển 7 lần rồi mà không thoát rồi hỏi tôi có đi được không? Nếu bị bắt tôi là tù cải tạo vượt biên có thể bị tử hình. Tôi khuyên anh ta nên bình tĩnh cầu nguyện.
Đến sang ngày thứ tư 23 tháng 10 đã có chút gió từ phương Nam. Ông bà ta nói:
“Ông tha thì Bà cũng chẳng tha,
Thế nào cũng bão 23 tháng 10″.
Đó là lý do tại sao tôi lần lựa chọn ngày 19 tháng 10 để ra đi.
- Gió sẽ đẩy thuyền đi
- Mưa giông sẽ có nước ngọt cho người uống, đi biển chết vì khát nhiều hơn chết vì đói.
- Có bão sẽ không có hải tặc.
- Khi có giông bão tàu Việt Cộng cũng ít ra khơi.
Đến chiều trời bắt đầu đổ mưa to, gió mạnh, tôi phải nương theo sóng mà đi, tàu trên biển lắc như trứng hột vịt thả trong nước, hơn nữa tàu này là loại tàu chở gạo nên lườn tàu hình tròn rất khó lái, tàu ngang sóng là bị lật úp, tàu theo ngọn sóng sẽ bị đẩy chúi mũi vô nước bị nhận chìm. Học lái thuyền buồm và lái đi trong giông bão là hai chuyện khác nhau phải có kinh nghiệm và từng trải qua lái ghe trong bão mới có thể nương theo sóng và gió mà đi. Chỉ có cảm nhận (feeling) tàu chạy như thế nào để cầm tay lái, nhất là lúc về đêm, trời tối đen không còn nhìn thấy gì, chỉ còn cầu Trời! Không ai dám nhận mình tài giỏi vượt thoát qua cơn bão. May là mẹ tôi có đưa cho tôi mấy miếng sâm nên tôi ngậm sâm để tỉnh táo qua đêm, trên phòng lái có mấy quyển kinh Phật do con ông chủ tàu mang theo, em này tu từ lúc bé, tôi dựa vào đó để đỡ mệt.
Trong khoang tàu tất cả đều im lặng cầu nguyện, vật lộn với những đợt sóng lớn dồn dập, không có ai còn biết đói là gì. Con tàu trong bão giông giống như cảnh đưa võng.
Sau hai ngày giông bão tàu đi khá xa.Tổ ẩm thực báo cáo chỉ còn một bao gạo (thay vì mang theo 8 bao chủ tàu chỉ mang theo 3 bao cho 60 người) vậy là đành phải húp cháo.
Có một bé gái khoảng 10 tuổi có lẽ vì đói và hôi hám, nên khóc la suốt đêm, tiếng khóc của em thật khủng khiếp. Đêm khuya canh vắng mà nghe em khóc ai cũng lạnh cả gáy, con chủ tàu nói có mang theo tàu 15 hộp sữa khi tìm chỉ còn 5 hộp, lục soát trong tàu thấy mấy lon sữa không ở chỗ em bé khóc, vặn hỏi mãi mẹ em mới cho biết là em khóc quá nên bà đã lấy trom sữa cho em uống. Dù sao cũng còn lại 5 hộp tổng cộng là 10 hộp, mỗi ngày pha 2 hộp sữa với cháo để sống qua ngày.
Đến ngày thứ 5 thì trời êm biển lặng, bà con lên sàn tàu chơi, sau mấy ngày nôn mửa dưới hầm tàu, ai cũng hôi thối không chịu được. Khoảng 10 giờ có một tàu đánh cá Thái Lan chạy tới, mấy bà trên tàu mừng lắm, nhất định đòi gọi họ lại, tôi cảnh cáo là coi chừng bị cướp, họ nói không chúng tôi đói lắm rồi, dơ nữa cứ gọi họ lại.
Kết quả là tàu đánh cá Thái Lan ghé lại. Mấy ngư phủ Thái Lan ai cũng trẻ khỏe mạnh, chúng tôi thanh niên trên tàu qua cơn bão đói rét yếu như cộng bún thiu, họ bảo gì phải nghe vậy.
Họ bắt tất cả lên tàu để họ lục soát vàng bạc, đàn bà họ cho qua ghe đánh cá tắm rửa và cho ăn. Chủ ghe đánh cá gọi tôi lên phòng lái, tôi đưa cho ông xem một tấm hình tôi chụp chung với 2 sĩ quan Thái lúc tôi học ở San Diego. Ông ta nói được chút tiếng Anh, thấy hình ông nhận ngay ra Sĩ quan Thái, ông nói ông không phải là hải tặc ông cùng với đoàn tàu đánh cá 4 chiếc, tầu của ông ta đi sau cùng nên phải đi ngay không thể ở lâu được. Sau đó ông ta bảo nhân viên thả hết mọi người về ghe để tiếp tục đi. Cách cư xử của chủ ghe người Thái với đám thuyền nhân chúng tôi sau câu chuyện có vẻ êm hơn nhưng vẫn có một cô trên ghe bị cưỡng hiếp. Khi được thả về ghe, kiểm soát lại, tôi còn thấy cái la bàn của tôi đã bị họ lấy mất.
Khi ở nhà anh Thế anh có đưa cho tôi một cái địa bàn, mà anh dấu rất kỹ, tôi đã chỉnh hướng của địa bàn và la bàn: ngày ngắm hướng mặt trời, đêm nhìn sao bắc đẩu.
Ghe chết máy, cánh buồm tự chế tả tơi, người người đói khát, la bàn bị lấy mất, tôi hiểu mình đang bị lâm vào cảnh tuyệt vọng.
Ngày thứ 6 tôi ngủ thiếp đi vì quá mệt, tôi thấy một ông mặc áo thụng đen, khoát tay chỉ cho tôi đi xuống Đông Nam (240 Độ). Nhớ lúc ở nhà mẹ tôi có kể cho tôi nghe, là mấy người vượt biển đã có thấy một ông thánh da đen giúp đỡ họ đó là ông Thánh Martin. Chuyện này làm tôi nhớ lúc ở tù trại Thanh Hóa gần đêm Noel, đêm ngũ tôi đưa tay lên đầu nằm, lại lấy được một cây Thánh Giá. Sau đó, tôi đưa lại cho một anh tu xuất cùng phòng, anh ta rất mừng và Noel năm đó chúng tôi có cây Thánh Giá để làm lễ.
Sáng ngày thứ 7 tôi thấy hải âu, tôi nói với anh em là chúng ta đã đến quần đảo hay là đất liền rồi vì hải âu không đi xa quá bờ trên 200 hải lý. Từ xa, tôi thấy hình dạng một hòn đảo, khi thấy đã gần tới nên tôi ra lệnh neo tàu lại nghỉ vì trời sắp tối.
Đêm đó nằm xuống là tôi ngủ ngay, gần sáng tôi lại nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra khoát tay chỉ về hướng Nam (từ bé tôi đã coi Phật Bà Quan Âm là cứu tinh của linh hồn tôi mỗi khi tôi gặp khó khăn).
Sáng ra tôi cho kéo neo chuyển hướng về hướng Nam thay vì ghé vào đảo. Ai cũng ngạc nhiên, hỏi tại sao tôi không vào đảo. Tôi chỉ bảo là tàu bị dạt về hướng Bắc vì gió bão. Sau này tôi mới biết là nhờ giấc mơ, chúng tôi đã không tự dẫn vào nạp mạng, vì đó là hòn Cọp nơi giam giữ thuyền nhân bị hải tặc bắt.
Hai giờ trưa ngày thứ 8 tôi cho ghe ủi vào bãi đá của một hòn đảo lớn. Thấy trên đảo có nhiều người chạy ra tàu lại nói tiếng Việt, bà con trên ghe quá mừng, lội nước vào bờ, tôi thì quá kiệt sức không đi được, phải nhờ 2 anh phụ bếp dìu lên bờ.
Chúng tôi đã đến bờ Tự Do sau 8 ngày đêm phiêu lưu bằng thuyền buồm trên biển và bão tố, vì nơi ghe cập bờ đúng là đảo Pulau Bidong. Vậy là chuyện vượt biển bằng buồm của chúng tôi giống như một chuyến du hành của Robinson Crusoe.
Trên đảo Pulau Bidong
Sáng hôm sau chúng tôi tập họp trước văn phòng cao ủy để kiểm điểm tôi mới biết trên tàu có tới 85 người kể cả tôi. Tàu được đánh số thứ tự là 836B (có lẽ là đã có 1836 tàu tới đảo).
Một tuần sau họp văn phòng trại của người tỵ nạn, Anh trưởng trại xin từ chức vì anh sắp chuyển trại vào đất liền, Anh đề nghị tôi thay thế. Từ đây, tôi bắt đầu lo công việc của một thuyền nhân trưởng trại.
Đảo Pulau Bidông là một đảo rộng khoảng 2 square kilometer cách bờ Tenengganu Mã Lai 30 miles.
Chuyến tàu vượt biển từ Việt Nam tới đảo ngày 7/5/1975 mang theo 87 người và được gọi là “boat people” và đảo Bidong được hưởng qui chế tị nạn vào ngày 8/8/1975. Trại có thể chứa đến 8.500 người. Năm 1976 số thuyền nhân lên đến 18.000 người rồi tới 40.000 người vào tháng 6/1979. Đây là nơi đông dân nhất thế giới, nếu tính theo mật độ dân số.
Ngày 10/10/1991, khi trại đóng cửa, đã có 250.000 người đến đảo và 9000 người bị trả về Việt Nam… Số người bị chết và bị hải tặc bắt cao hơn con số người đến đảo.
Sang tuần thứ ba phái đoàn cao ủy đến trại, thường thì mỗi tháng họ tới một lần ở lại đảo để xem hồ sơ 1 tuần rồi lại vào đất liền, Ông Trưởng đảo người Mã Lai cũng vậy, ông đi theo phái đoàn.
Ông mời tôi lên gặp ông, ông thấy tôi nói được tiếng Anh ông rất thích (có lẽ trước tôi cung còn có nhiều người nói tiếng Anh giỏi hơn tôi) hỏi thăm tôi đủ thứ. Tôi nói tôi ở tù CS 8 năm mới ra tù là vượt biên ngay. Mỗi ngày ông và tôi đều đi dạo khắp đảo để xem tình hình sinh hoạt trên đảo. Tôi nói với ông là tôi nghe sau giờ giới nghiêm có nhiều cô gái bị gọi ra và bị hiếp, ông rất tức giận cho gọi ông Phó trại ra hỏi và ông này bị la rầy dữ dội, ông còn lấy gậy đánh ông phó ngay trước mặt tôi. Tôi đề nghị thành lập toán tuần tiễu hỗn hợp Mã Việt, mỗi khi đi tuần. Ông Ngọc được giao nhiệm vụ thành lập toán tuần tiễu đêm với Mã Lai. Ông Ngọc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và từ đó không còn nghe tiếng than trách.
Ông trưởng trại còn nói với tôi. Ông là người Mã Lai cấp tá, Phó trại là người Tàu lai Mã Lai chỉ được lên cấp úy mà thôi. Chúng tôi đi xem nhà thờ, chùa trên đảo và xem cầu tàu có nhiều xác tàu ở bãi trước ông kể là co 1 xác chiếc tàu sắt đến đảo năm 1975 khi chưa có qui chế tị nạn nên không được vào đảo. Tàu bị bắn đắm và kéo ra khỏi đảo 3 lần, tàu bị chìm 800 người trên tàu đều bị chết, tàu lại được sóng đưa vào bờ, vậy mà vẫn còn một ông già còn sống. Khi được đưa vào đảo, ông buồn quá ngày nào cũng ngồi dưới gốc cây dừa nhìn ra biển, một hôm gió nổi lên dừa rụng xuống trúng ngay đầu ông, ông đã chết theo bạn bè của ông. Thuyền nhân sau đó đã lấy một tảng đá đẽo một bức tượng lấy tên “Thương Tiếc” nhìn ra biển để kỷ niệm con tàu bất hạnh.
Tôi được làm việc với văn phòng Cao ủy, được vào xem phỏng vấn cũng như coi hồ sơ thuyền nhân. Hồ sơ thuyền nhân la một văn phòng nhỏ chứa tất cả hồ sơ tàu đến đảo từ năm 1975, có 1 cuốn sổ bìa cứng dầy gấp đôi so thường ghi có bao nhiêu tàu đến đảo, bao nhiêu người bị chết trên đường vượt biển bao nhiêu người bị hải tặc bắt và hãm hiếp. Tàu tôi mang số 836 B. Rất tiếc tôi không đọc kỹ xem trước tôi có bao nhiêu tàu..
Ông còn cho tôi biết là trại sắp bị đóng cửa, nên phải phá hết xác tàu để trả lại nguyên trạng cho Mã Lai, và quan trọng hơn cả là còn hơn 400 cô nhi trên đảo không ai bảo lãnh “Có lẽ phải trả về Việt Nam,” tôi phải lo liệu lấy.
Hơn 400 cô nhi trên đảo không ai trông nom nên hay tụ tập nghịch ngợm phá phách đủ thứ, ban ngày đi cưa ván ép cũ đóng xuồng, làm thủ công nghệ, đồ chơi (trại có lúc lên tới 40.000 người bây giờ chỉ còn hơn 2000 người nên có rất nhiều nhà bỏ hoang) gần sáng các em lớn ra phía nam đảo để đánh cá bán lại cho bà con trong trại, thức ăn trong trại do đó rất phong phú, có tiền là có đồ ăn (lính Mã Lai cũng đem đồ ăn từ đất liền ra đảo để bán lại cho thuyền nhân).
Hôm sau tôi họp hội đồng trại để thông báo tin các cô nhi có thể bị trả về VN, chúng tôi phân công để huấn luyện các em sao cho ngoan, có kỷ luật để trình diện phái đoàn cấp cao của Cao Ủy sẽ vào đầu tháng tới (tháng 11/1982)
Anh Thế lãnh trách nhiệm giáo dục văn hóa cho các em dậy cho các em mấy câu tiếng Anh đàm thoại thông dụng…..
Anh Ngọc tập cho các em cách xếp hang chào kính theo cung cách thiếu sinh quân mà anh đã học trước đây, anh cũng lập ra các đội bóng chuyền, bóng rổ, giờ chơi thể thao là các em lanh lẹ và thich lắm.
Anh Hải phó trại cho các em ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, hớt tóc ngắn, kỷ luật và dọn dẹp trại cho ngăn nắp.
Tôi cũng tập họp cả trại cho biết tin trên và yêu cầu mọi người phải khéo léo, nhã nhặn khi tiếp xúc với phái đoàn cấp cao của Cao Ủy để họ co thiện cảm chấp nhận các em cô nhi.
Một tháng qua rất nhanh. Được tin phái đoàn tới đảo, chúng tôi cho các em ra làm dàn chào đón tiếp, phái đoàn có vẻ hài lòng, trong phái đoàn có một anh bác sĩ người Hoà Lan tên Peter nói có quen với tôi. Tôi gặp anh ta, anh ta là con rể ông Nguyễn Thanh Niên chủ hãng xuất nhập cảng Hưng Đạo Sài Gòn (như vậy là tin tôi tới đảo đã được báo với gia đình tôi bên Mỹ rồi) anh cho tôi 100 đô, bắt tay chúc mừng, tôi đáp lại tôi xin anh hãy giúp dùm các cô nhi đừng bị trả về Việt Nam, Cộng Sản tàn ác lắm.
Đến trưa tôi mời phái đoàn ra sân vận động xem các em đánh bóng chuyền, các em rất giản dị, xi xô xi xào với phái đoàn cười đùa rất tự nhiên, phái đoàn phân tán ra ngồi với các em. Đến chiều phái đoàn rời trại.
Hai tuần sau (giữa tháng 11/82) chúng tôi được tin vui. Tất cả các em đều được vào Mỹ, cuối tháng 11 các em đi trực tiếp qua Phi Luật Tân không qua thanh lọc.
Các em qua Mỹ sớm hơn tất cả chúng tôi, nhưng khi các em đi rồi thì trại lại thấy vắng vẻ và buồn… Vì thiếu tiếng cười đùa phá phách hồn nhiên của các em, không còn cá để ăn.
Đầu tháng 12/1982, một số chúng tôi được chuyển qua Sangei Besi để thanh lọc. Ai xin đi Úc đi Châu Âu hay Mỹ thì làm hồ sơ để được bảo lãnh đi.
Sau 3 -4 tháng anh Thế và anh Ngọc được anh em bảo lãnh rời trại để đi Mỹ.
Riêng tôi có đủ tất cả hồ sơ nhưng kẹt người bảo lãnh, nên phải qua Phi làm trưởng trại ở Bataan mãi đến tháng 3/1984 tôi mới được vào Mỹ.
Vũ Đoàn
Nguồn Việt Báo

CANH CO

Cái giá của dân chủ nhân quyền.


Nước Pháp và cả thế giới một lần nữa chấn động bởi bọn khủng bố không biết tanh máu người. Một trăm hai mươi chín thân xác gục xuống dưới những viên AK47 tàn bạo nhắc nhở loài người một sự thật luôn đi kèm với đời sống bất cứ ở nước nào trên thế giới này: không bao giờ có hòa bình vĩnh cửu cho nhân loại.
Những viên đạn làm cháy lên các viên đạn khác khắp nơi, từ Iraq tới Yemen cho tới Syria hay Afganistan. Chiến dịch săn đuổi khủng bố tổng lực của Pháp và Mỹ không làm cho người ta yên tâm hơn mà trái lại câu hỏi bén như dao vẫn làm cho chính phủ các nước dân chủ mất ăn mất ngủ: liệu chính sách mở cửa cho người tỵ nạn có giúp làm cho bọn khủng bố thêm đất đai để tiếp tục giết hại chính người mở cửa cho chúng tràn vào?
Phương Tây vẫn không ngừng lớn tiếng tranh đấu cho những con người khốn khổ vì chiến tranh, vì bất công đày đọa. Phương Tây không mở cửa sẽ bị chính người dân của họ phản đối và những phản đối ấy kéo theo các phản ứng dây chuyền khác của kẻ chống người bênh. Ngay cả việc nghe lén điện thoại vì lý do an ninh cũng bị phản ứng dữ dội và sinh ra con quái vật Snowden, đẩy sự chống đối việc nghe lén lên tới đỉnh điểm.
Người Pháp có thể đặt câu hỏi: Còn bao nhiêu vụ bắn giết nữa xảy ra trên đất nước này khi mà sự căm thù của bọn Nhà nước Hồi giáo ngày một tăng cao tỷ lệ thuận với những chuyến không kích vào sào huyệt của chúng.
Chúng ở ngay nước Pháp, dưới chân tháp Eiffel, dưới những trạm xe điện ngầm và ngay cả trong Vương cung thánh đường Notredam de Paris. Người dân Paris nếu được hỏi có nên cô lập tất cả các sắc dân từ các vùng có quân khủng bố đang sinh sống tại Pháp hay không thì chắc chắn câu trả lời sẽ là không. Bởi, bọn chúng không đại diện cho tất cả các sắc dân mang cùng tôn giáo hay quốc tịch với chúng. Nạn nhân của chúng là những tấm lòng đã mở ra gói chúng vào trong và họ không hề tin rằng một hôm nào đó những con rắn cõng kinh Coran trên lưng ngoác rộng miệng ra cắn vào chính người nuôi dưỡng chúng.
Đặc điểm của sự mâu thuẩn này không bao giờ có lời giải đáp toàn vẹn cũng như bất cứ giải pháp nào nhằm chống lại những con người đang tỵ nạn trong lòng nước Pháp đều sẽ làm dấy lên hỗn loạn. Nhân quyền sẽ được mang ra và đấy cũng là cái cớ cho bọn khủng bố tận dụng chống lại hệ thống dân chủ của Tây phương: Nhân quyền bị chà đạp vì nhân danh bảo vệ cho người dân chính quốc, sẽ là câu slogan khiến giới tả khuynh nắm chặt trong tay như bùa, và lá bùa ấy vừa làm cho nước Pháp được vinh danh vừa tưới thêm máu người dân lên dân chủ, nhân quyền vốn là ánh sáng dẫn đường cho dân tộc Pháp.
Nhân quyền càng thắm máu thì giá trị của nó lại càng tăng cao.
Ý thức nhân quyền của công dân trong các nước dân chủ thực sự có vượt qua được cuộc chiến với khủng bố IS hay không cón phải chờ thời gian trả lời. Sự mệt mỏi vì bị tấn công trường kỳ có thể làm biến dạng cách mà các chính phủ tôn trọng nhân quyền nhưng chắc chắn sẽ không vì vậy mà biến thái hay méo mó như những chính phủ độc tài vẫn áp dụng cho người dân của họ. Nhân quyền vẫn sẽ là thước đo cho từng biện pháp đối phó với khủng bố kể cả phải cô lập một cộng đồng, một khuynh hướng cũng phải không được bất cẩn với hai chữ nhân quyền.
Thế giới phương Tây có lúng túng cách nào vẫn có thể đối phó với khủng bố được bởi ý thức của từng người dân và sự tôn trọng sự đóng góp của họ trong tinh thần dân chủ. Lo ngại việc khủng bố trà trộn vào dân chúng, vào các cộng đồng hồi giáo dù có làm cho dân chúng sợ hãi nhưng sẽ không làm cho họ phản ứng như đối với kẻ thù. Lý do là họ đang sống chung với những cộng đồng có cùng lo âu như họ và không ai nỡ mang xiềng xích vây bủa làng xóm mà mình biết chắc là lương thiện như mình.
Chỉ có độc tài mới cho rằng mọi biện pháp đều cần thiết, kể cả việc chà đạp nhân quyền hay dân chủ cũng tốt miễn là đạt được mục đích cuối cùng.
Khủng bố tại các nước cộng sản như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên hay Việt Nam đều mang dạng thức chà đạp nhân quyền để đạt mục đích được rêu rao là giữ gìn an ninh công cộng. Những cái chết âm thầm trong trại giam, những con người bị lôi sềnh sệch tại Tây Tạng, Tân Cương hay Hà Nội đều giống nhau vì họ tranh đấu cho nhân quyền, cho quyền làm người phổ quát mà ai cũng được quyền hưởng. Họ tập trung vì bất cứ lý do gì cũng được xem như chống lại nhà nước và vì vậy nhà nước dùng biện pháp khủng bố lên tinh thần họ để gìn giữ an ninh cho đám đông mà nhà nước cho là cần phải được bảo vệ.
Đám đông mỗi nơi một khác nhưng tại Việt Nam mọi đám đông đều được nhìn như nhau, được định nghĩa là tụ tập với hàm ý xấu và do đó cách đối phó không khác gì nhau.
Anh đi biểu tình chống Trung Quốc hay chỉ là dự định đi biểu tình chống lại công an không công bằng với những luật sư nạn nhân của côn đồ đều giống nhau. Luật Sư Trần Vũ Hải không khác với kỹ sư Trần Bang, một người bị khủng bố bê bết máu trên mặt một người bị khủng bố bê bết vết nhơ giả dối trên hồ sơ hành nghề. Hai cách khủng bố không chết ai ấy nhưng lại có tác dụng như IS trong lòng Paris: làm cho người dân Việt Nam tê cứng trong sợ hãi.
Cái giá của dân chủ nhân quyền không bao giờ là nhỏ và cách ứng xử của người dân mỗi nước vì vậy cũng khác nhau. Pháp thừa hưởng dân chủ nhân quyền đầy đủ và công dân của Xanh Trắng Đỏ sẽ tỉnh táo nhưng không khoan nhượng với IS. Trong khi đó, người dân Việt sẵn lòng im lặng khi bị khủng bố bởi họ  nằm trong chiếc kén kiên cố của những chú nhộng không bao giờ thành bướm, và những con nhộng ấy không hề có cảm giác chiếc kén của mình ngày một nhỏ hơn bởi chính sách đàn áp của chính quyền mỗi ngày một căng phồng ra.

TUAN KHANH

Đối diện con quái vật


Thái độ công dân đối với quốc gia mình, phản ánh rất nhiều điều để nghĩ. Nó có thể người tay hân hoan vỗ tay cười, và có thể khiến từng cá nhân gục mặt khóc âm thầm.
Tháng 11/2015, sau khi nước Pháp bị tấn công bởi quân IS, số lượng thanh niên xin tòng quân để bảo vệ tổ quốc và đáp trả lại những kẻ đã giết hại đồng bào mình tăng gấp bốn lần. Các cơ sở tuyển quân của Pháp cho biết họ bất ngờ trước các lời xin nhập ngũ và các thư thắc mắc về tiêu chuẩn nhập ngũ lên đến 1500 hồ sơ, mỗi tuần. Theo ước tính, từ đây đến năm sau, Pháp sẽ nhận thêm 25.000 tân binh nữa. Hầu hết các lý do trong đơn xin nhập ngũ, được ghi rõ rằng họ muốn bảo vệ tổ quốc mình.
Tổ quốc là cái gì đó rất mơ hồ, không cụ thể. Nhưng đứng trước những hình ảnh nơi sinh sống của mình đang lâm nguy, những người chung tiếng nói, quốc tịch của mình bị giết, bị đe doạ, ý thức về tổ quốc bừng dậy như một bản năng cao quý.
Nước Pháp không phải là ngoại lệ. Vụ khủng bố ngày 9/11/2001 ở Mỹ cũng đã khiến tinh thần ái quốc của người Mỹ đa chủng tộc lên cao bất ngờ. Các thống kê cho thấy chỉ một tháng sau vụ đánh vào toà tháp đôi, trang mlive.com cho biết hàng chục ngàn thanh niên đã xin đăng lính vào nhiều binh chủng, đặc biệt ghi rõ là họ sẳn lòng đi đến bất cứ nơi đâu để tiêu diệt kẻ tấn công vào đất nước mình, người dân của mình. Năm 2002, nước Mỹ đón nhận thêm 80.000 tân binh. Tình trạng bùng nổ bất ngờ này làm gợi nhớ số lượt đăng lính tăng vọt sau vụ người Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) vào năm 1941.
Đọc những tin tức này, những ai yêu lẽ phải và mang trong mình lòng tự hào dân tộc đều có thể ứa nước mắt vì xúc động. Dâng hiến cuộc sống cho tổ quốc mình và giờ phút nguy nan, là niềm hãnh diện và cao quý mà không phải nền giáo dục nào, văn hoá nào cũng có thể may mắn có được.
Đã từ nhiều năm nay, các bản tin về tàu Trung Quốc tấn công ngư dân Việt mỗi lúc càng nhiều, càng hung hãn. Tàu "bạn hữu nghị" từ phương Bắc tràn xuống, cướp, giết, bắt cóc... kể cả bao vây đường biển của Việt Nam - nói chính xác là một cuộc xâm lăng trong thời đại mới. Thanh niên Việt trong đời sống xã họi chủ nghĩa đã làm gì?
Thật kinh ngạc, tăng dần theo thời gian là số lượng cha mẹ đưa con cái đi du học, đi xa đất nước như một cuộc đào thoát lớn lao và kiên nhẫn, bao gồm trong đó là các bậc phụ huynh có chức vụ, miệng luôn hô hào xây dựng đất nước và tồn tại hoà bình, 16 chữ vàng với Bắc Kinh.
Bối cảnh Việt Nam luôn thấp thỏm trước các lời đe doạ sẽ bị tiến và chiếm trong 24 giờ của báo chí chính thống Trung Quốc, thì thống kê cho thấy nạn trốn nghĩa vụ quân sự cũng tăng cao bất ngờ. Thậm chí. Trên các trang mạng xã hội, giới thanh niên nồng nhiệt bàn với nhau cách trốn nghĩa vụ quân sự. Thậm chí cẩm nang có 17 cách thoát chuyện đi lính được chia sẻ khắp nơi. Mệt mỏi đối phó với tình trạng này, năm 2013, Trung tướng Trần Đình Nhã, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh của Quốc hội cũng đã từng đề nghị cho phép hợp pháp việc không phải đi lính, bằng việc đóng tiền thế thân.
Quả là một nghịch cảnh mà lịch sử Việt Nam từ thời sơ khai đến giờ mới có. Một dân tộc từng đánh bại mọi quân đội ngoại bang, ngay cả lúc túng cùng nhất, lại rơi vào thảm cảnh như vậy. Lẽ nào dân tộc Việt Nam hôm nay không còn yêu nước, hay không còn tin vào những món hàng vũ trang quân sự "khủng" hàng đầu thế giới vẫn được thông tin là đã về đến, đã trang bị cho cho quân đội nước mình?
Đây là một vấn đề thật đáng suy nghiệm lâu dài, nhưng để trả lời nhanh, rõ ràng con người đang mất niềm tin. Trong mọi sự hy sinh cho tổ quốc mình, chắc chắc nhân dân không ngại, nhưng họ muốn sự dâng hiến của mình phải có ý nghĩa. Và thật là ngu ngốc, nếu chết không cho ai, để làm gì, và chết thay một cách ngu ngốc.
Ngày 29/11/2015, thêm một ngư dân Việt bị bắn chết thảm thương trên biển ở Trường Sa, Quảng Ngãi. Ông bị bắn không có thông báo, không có lời cảnh cáo, bị bắn đến 2 phát đạn vào một cơ thể chỉ biết quăng lưới và thả câu.
Người ngư dân này bị bắn chết trên biển, bởi niềm tin được thúc giục từ các nhà lãnh đạo trên bờ vẫn thúc giục rằng hãy cứ ra khơi và cứ đánh bắt như một cách "thực thi chủ quyền của tổ quốc". Những người còn sống hãi hùng đã đưa thi thể của người ngư dân này về đất mẹ, thật cô đơn, vì bởi hàng trăm hải lý đầy kẻ thù đó, cũng có những tàu cảnh sát biển đi tuần tra "khống", báo cáo láo để ăn tiền dầu, tiền hoạt động, để vui vẻ an sinh trên bờ.
Người ngư dân bị bắn chết ngày 26/11, đến ngày 30 thì thi thể mới giao được cho gia đình. Thế nhưng trong những ngày di chuyển về nhà, chiếc tàu này thật cô đơn vì chỉ có một mình, dù đã báo với bộ đội biên phòng chuyện mình bị tấn công và có người tử nạn. Không có tàu kiểm ngư nào ra đón, không có ai đi cùng nỗi kinh hoàng của họ trong chuyến quay về. Mọi trang thiết bị hiện đại trên biển luôn được tuyên truyền, như chỉ nặng phần trình diễn cùng sự thờ ơ của chính quyền.
Dân tộc Việt Nam hôm nay mới đáng thương làm sao, đi biển mà yếu ớt như trẻ nhỏ. Ai cũng có thể bắt nạt. Ai cũng có thể cướp và giết. Láng giềng thì mặt cười thân thiện, quay lưng thì tay súng, tay dao. Nhưng đáng thương hơn bao giờ hết là chuyện ngư dân chết trên biển đã ngày càng nhiều và thường hơn, còn những người trên bờ nghe chuyện tang thương ngoài khơi, giờ chỉ mệt mỏi, nhíu mày thương hại mà cũng không thấy cần phải làm gì.
Người Việt Nam như đang được các chính sách đối ngoại của chế độ tập quen dần thói quen ích kỷ, sợ mình bị mất mát, nhưng lại im lặng và chọn lựa thay thế bằng mất mát của những ngư dân nghèo khó. Nó giống như những câu chuyện cổ tích về các ngôi làng xưa phải hiến tế ai đó cho con quái vật để được yên. Vẫn có những người tin rằng việc hiến tế không bao giờ đến lượt mình, và mỗi ngày vẫn ăn ngon ngủ yên với những con cá đẫm máu đồng loại. Họ không muốn một cuộc chiến đối diện thẳng với con quái vật vì chỉ sợ mất mát cho riêng họ.
Cũng như những ngôi làng khiếp nhược và u mê ấy, có bao giờ chúng ta tự hỏi rằng chúng ta sẽ mất - mất rất nhiều - thậm chí mất tất cả, mà các loại quái vật không cần mất sức cho bất kỳ một cuộc chiến tranh nào. Và những người lãnh đạo ngôi làng, nếu không có dũng khí để đối diện với cái ác để bảo vệ mọi người, thì họ tồn tại để làm gì?

THƠ CAO BÁ QUÁT

THƠ CAO BÁ QUÁT



Cao Bá Quát (Chu Thần, 1809 – 1854) quê làng Phú  Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Ông chỉ đỗ  đến cử nhân nhưng trên thực tế, Cao Bá Quát  đã trở thành một nho sĩ kiệt hiệt của thời  đại. Vua Tự Đức đã phải khen:
Văn như  Siêu, Quát vô Tiền Hán.
    (Với văn của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì  văn thời đời Tiền Hán coi bằng không).
Còn những người sùng bái ông thì gọi ông là Thánh Quát!
Danh bất hư truyền, Cao Bá Quát là người con trác việt mà non sông Việt Nam đã sản sinh ra: một con người toàn diện với trái tim vô cùng nhân hậu, tâm hồn đằm thắm, với hồn thơ và tài năng văn chương lỗi lạc, với nhãn quan vô cùng sâu sắc của một hiền triết am tường chân tướng của thời đại, với tầm vóc và cốt cách của một bậc đại hùng đại đức. Ông đã để lại trên thi đàn Việt Nam cổ kim một tên tuổi bất hủ, đồng thời để lại một trang sử chói lọi chống chính quyền phong kiến thối nát.
Mặc dù đại sự “thay đổi thời cục” không thành, Cao Bá Quát đã thực thi một sứ mạng lịch sử: dùng tất cả sức mạnh “hích” lịch sử tiến lên phía trước! Sự phủ nhận triệt để của ông với chính quyền phong kiến đương thời là một sự cảnh báo nghiêm khắc, là lời tiên tri cực kì chuẩn xác: chỉ vài ba năm sau khi ông từ trần, triều đình Tự Đức, vì cố tình cưỡng lại cú hích ấy, không tiếp nhận lời cảnh báo ấy, không chịu lột xác, đã dần đi đến chỗ bại vong, rốt cuộc phải đầu hàng nhục nhã trước thực dân Pháp, chịu để mất nước và trở thành bù nhìn cho kẻ xâm lược.
Những trăn trở, đớn đau của Cao Bá Quát với số  phận của đất nước ta thời ấy sao mà giống với những trăn trở đớn đau của thi hào Puskin với số phận của nước Nga dưới chế độ Sa hoàng đến thế!
Có  lẽ vì vậy mà cả hai thiên tài, đồng thời là hai nhân vật anh hùng ấy đều phải ngã  xuống vì mũi tên hòn đạn của những thế  lực phản động! 
Tục ngữ Việt Nam có câu: “người đôi ba đấng”. Theo chúng tôi, để tìm hiểu “chân tướng” của một hiện tượng rất lớn lao, phức tạp – hiện tượng Cao Bá Quát – có lẽ phương pháp tốt hơn cả là “giải mã” cái bản chất “đấng” ấy của ông, tức là bản chất tính cách anh hùng của ông phát lộ theo một logic nội tại trải qua các giai đoạn: ra đời, được đào luyện, thử thách trong “lò đời”, và phát triển tới tột bậc. Căn cứ nguyên lí “những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm, thì là sự nghiệp, khi thổ lộ ra lời nói, thì là văn chương” (Nguyễn Năng Tĩnh), chúng ta có thể thông qua những áng văn chương ông để lại để nghiên cứu toàn diện về ông.
Trên thi đàn Việt Nam kim cổ, ngoài thơ của Nguyễn Công Trứ và một vài thi nhân sau này như Tú  Xương, Tản Đà… thơ Cao Bá Quát đã đặc tả cái tính cách anh hùng ấy hết sức đậm nét. Sở dĩ ông làm được điều đó bởi vì ông đích thị là người mang cái tính cách ấy (những thi nhân không có tính cách ấy thì lấy gì mà miêu tả nó?).
Một người sinh sau Cao Bá Quát là Phan Bội Châu đã viết:
                Sinh vi nam tử  yếu hi kì,   
                Khẳng hứa càn khôn tự  chuyển di?
                (Sinh ra làm trai cần phải hiếm, phải lạ,
                Không lẽ để cho trời  đất tự ý xoay vần?)
Ngay từ khi còn rất trẻ, Cao đã tỏ ra là một  đấng nam tử “hiếm, lạ”. Cái “chí làm trai” của ông đã luôn luôn thôi thúc ông tìm đến hoà mình vào với đất trời cao rộng:
            Trời  đất có núi ấy,
                Muôn thuở  có chùa này.
                Phong cảnh đã kì tuyệt,
                Lại thêm ta đến đây.
                Ta muốn lên  đỉnh núi
                Hát vang với nước mây…
                (Qua núi Dục Thuý) – Ngô Lập Chi dịch
Nhiều bài thơ biểu đạt cái tráng khí ngất trời của một chàng thanh niên đang nung nấu một lí  tưởng cao vời:
                  Ví  không sóng gió phũ phàng
                  Thì  sao biết được dặm trường chí  xa?
    (Từ  Thanh Trì buông thuyền xuôi nam) – Trần Huy Liệu  dịch
                  Sáng lên Hoành Sơn trông,
                  Chiều xuống Bàn Thạch tắm.
                  Nhặt hòn  đá mỗi nơi,
                  Núi sông không đầy nắm.
         (Tắm ở khe Bàn Thạch) – Hoá Dân dịch
Cùng với thiên nhiên kì vĩ, những tấm gương hiển hách của bao đấng anh hùng trong lịch sử dân tộc đã khích lệ và đào luyện nên khí phách anh hùng của nhà thơ, đúng theo qui luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Những câu thơ Cao viết về đề tài này thật hùng hồn khác thường:
  … Phá giặc roi vàng gầm sấm sét,
      Lên không ngựa sắt lạ xưa nay.
      Công ghi cõi Việt so trời đất,
      Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ  cây.
      Miếu cũ thông reo khi gió động,
      Tưởng quân thắng trận trở về  đây.
      (Vịnh Đổng Thiên Vuơng) – Vũ Mộng Hùng dịch 
      Tiết cứng, lòng trong, khí phách hùng,
      Một tay muốn kéo lại vầng hồng.
      Cô  trung sấm sét không sờn chí,
      Thất trảm yêu ma phải rợn lòng…
      (Vịnh Chu An) – Vũ Mộng Hùng dịch
Con đường lập danh phổ biến nhất của kẻ sĩ  đương thời là… thi đỗ ra làm quan! “Ở đời thì  phải chiều đời”, Cao đã cố gắng nhập cuộc. Nhưng ác hại thay, chế độ thi cử đương thời không phải là cái thước có thể đo được những tài năng kiểu như Cao (hoặc Tú Xương sau này). Chính vì vậy mà “Thánh Quát” lúc trẻ đã nhiều lần… thi trượt:
                Đời ta vì chữ danh,
                Mười năm uổng miệt mài.
                Một chút tên trên bảng
                Phờ  phạc cả con người…
          (Viết hôm tiếp được thư nhà) – Hoàng Tạo dịch
Có  thể nói, những thất bại về khoa cử giống như “những cú đấm đầu tiên” vào tính cách anh hùng của Cao và nó làm cho chàng thanh niên nhức nhối. Thế rồi, do đỗ đạt thấp, Cao chỉ  được nhận một chức quan nhỏ: hành tẩu bộ Lễ (chạy việc vặt trong bộ Lễ). Một tiềm năng lớn lao bị cột vào một địa vị nhỏ nhoi vô bổ như vậy, khác nào một chú chim đại bàng bị nhốt chặt trong lồng? Phản ứng lại tình trạng đó là những lời thơ cám cảnh:
                Cỏ  vườn, tên chẳng rõ
                Hoa đỏ cháy bên thềm.
                Có  sắc, được người chuộng,
                Không hương, đời lãng quên.
                Cành mọc, vẻ  xuân đượm,
          Quả  ra, chẳng thể ăn!
                Nét thanh cao riêng giữ,
                Xui ta luống thở  than!
                (Cỏ trong vườn) –  Kiều Văn dịch
Cũng như Nguyễn Công Trứ, cái tôi nhân bản của Cao Bá Quát được thể hiện vô cùng sắc nét trong thơ, làm nên “máu thịt” của một dòng văn chương đích thực về con người, đối lập với thứ văn chương ước lệ vô giá trị vẫn thường xuất hiện đầy dẫy trong mọi thời:
          Đời ta vốn là hơi là bụi,
          Theo từng cơn gió  thổi tơi bời,
          Đi về chẳng có  định nơi,
          Chỉ  trong giữa khoảng đất trời mênh mang.
          Từ  trăm luyện sắt gang cứng rắn,
          Khí  hào hùng một đấng ngang tàng,
          Lưới đời từ độ vấn vương,
          Giày vò  kể đã nhiều phương giũa mài.
          Lòng ta vốn một hai phóng khoáng,
          Nỗi lo buồn bỗng vướng như không,
          Khác chi chiếc lá  vẫy vùng…
                      (…ở ngục Thừa Thiên) – Vũ Mộng Hùng dịch 
Quả  thật con người mang tính cách anh hùng ấy đã bị  dằn vặt ác liệt vì không tìm được  đường tiến thân:
          Bãi cát, bãi cát, ngao ngán lòng,
          Đường phẳng mờ mịt, đường hiểm vô cùng!
                Nghe ta hát  “cùng đồ” một khúc!
                Phía bắc núi bắc, núi muôn lớp!
                Phía nam núi nam, sóng muôn  đợt!
                Sao mình anh còn trơ  trên bãi cát!
          (Đoản ca “Đi trên bãi cát”)  – Huệ Chi dịch
“Anh hùng đa nạn”, chính lúc đang ở bước “đường cùng” ấy thì một tai hoạ lớn ập xuống: Cao bị tù tội chỉ vì lòng “liên tài” (ông đã chữa một chữ trong quyển thi của một thí sinh để cứu thí sinh này khỏi bị rớt uổng). Không còn là chuyện một thư sinh lãnh “những cú đấm” trong thời “thi trượt” nữa, mà là một nhân tài lỗi lạc, một nhân cách cao cả bị một triều đình phong kiến làm nhục, gìm sâu xuống vũng bùn nhơ:
          …Thân tù nằm sấp, vẻ xanh xám,
          Như  con dê sợ nhìn trước sau…
          Bị  tra tấn mãi miệng cứng đờ…
          Tiếng quan như  sét rường nhà rung
          Ánh roi như chớp vụt tứ tung,
          Giơ  lên, rồng quật bờ ao lở,
            Ngừng lại, nước dội nồi canh bồng…
      (Bài ca “cái roi song”) – Xuân Trang dịch 
Nội dung đặc biệt nổi bật trong thơ Cao Bá Quát là  những tâm tư, những nỗi uất hận sâu sắc về thân thế mù mịt, về cảnh sống tù hãm của một con người hào kiệt bất phùng thời. Những lời thơ rướm máu tuôn trào dưới ngòi bút của họ Cao tưởng có thể làm đau đớn đến muôn đời:
          Con nước mới, giục  đêm tàn,
          Rét  đầu mùa tiễn muộn màng cảnh thu.
          Tháng ngày  đôi mắt mịt mù,
          Giữa  đất trời, một anh tù làm thơ.
          Trông gươm tựa gối bơ  phờ,
          Gọi  đèn xem lại xác xơ áo cừu.
          Xót mình tâm lực cạn  đâu,
          Mà  thân giam hãm mối sầu khôn nguôi!
          (Đêm một mình cảm nghĩ)  – Hoàng Trung Thông dịch
          Chết trong nghiên bút, ta nào phải,
          Sống cậy văn chương, chuyện có rồi.
          Công mẹ  uổng sinh ngoài xứ sở,
          Thân con thừa gửi giữa trần ai…
                       (sau khi bộ Lễ tra tấn… gượng đau viết) –
           Khương Hữu Dụng dịch
          Dòng thơ  oán hận lệ hoà máu,
          Chén rượu phân kì  hồn dễ say.
                (Gửi hận) – Hoa Bằng dịch
Thời gian trôi qua, mối hận lớn đối với thời cuộc càng tích tụ trong lòng, và biến người anh hùng thành một… cuồng sĩ. Chúng ta hãy đọc đôi câu đối của “cuồng sĩ” dán ở nhà dạy học khi ông làm giáo thụ Quốc Oai:
          Nhà  trống ba gian, một thầy, một cô, một chó  cái;
          Học  trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Với trí tuệ sáng suốt phi thường, Cao Bá Quát nhận thức được rằng hoàn toàn không phải “những rủi ro vụn vặt” tạo nên bất hạnh của đời ông. Trái lại, bất hạnh lớn nhất của bản thân  ông cũng như của toàn dân tộc ông chính là không được ở vào một thời đại tốt đẹp như thời Nghiêu – Thuấn (ông gọi thời đại của ông là thời “vô Nghiêu Thuấn”!). Để khẳng định nhận định ấy, ông đã thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân ông, kể cả những tầng lớp cùng đinh của xã hội. Và ông đã phát hiện toàn bộ hiện thực xã hội thối nát và đen tối thời Tự Đức. Cũng như trong văn thơ của Nguyễn Du trước kia, trong thơ ông đầy dẫy những hình ảnh bi thương, đau xót của “thập loại chúng sinh”: những người nông dân “môi run, bụng lép, tơi quèn” tát nước trên đồng cao, một cô gái “chịu rét bước qua cầu” vì vừa phải cầm áo để đổi gạo cứu người nhà đang đói lả, những người dân đói đi lĩnh phát chẩn, những người ăn xin…
“Những điều trông thấy” ấy, trước kia thi hào Nguyễn Du đã mô tả trong thơ với lòng cảm thương, đau xót. Còn Cao Bá Quát thì khác, ông cũng ghi chép tất cả với lòng thương xót vô hạn, nhưng không chỉ thế, ông còn đặt ra một câu hỏi lớn: tấn bi kịch cuộc đời ấy do đâu mà có? Và những nhà nho, những bậc sĩ phu, những đấng quốc sĩ có trách nhiệm gì với tấn bi kịch đó hay không? Một câu hỏi như vậy chỉ có những ngươi anh hùng mang ý chí dời non lấp biển như Cao Bá Quát mới có thể đặt ra mà thôi! Ông cảnh cáo những kẻ mang “mục dân chi trách” (trách nhiệm chăn dân):
          Chú  bé chăn bọ ngựa
          Buộc nó  bằng sợi dây.
          Sợi dây quấn chằng chịt,
          Nó  chết trên cành cây…
          Người dắt dân ta hỡi!
          Xét kĩ  trên lông mày.
                (Chú bé chăn bọ  ngựa) – 
          Hoàng Trung Thông dịch
Với lí trí xét đoán tinh tường và tấm lòng ưu thời mẫn thế, ông nhìn rõ cảnh suy vong của đất nước:
          Bậc nhất phồn hoa kinh khuyết cũ
          Cao sâu Nùng, Nhị  vẫn sơn hà. 
          Thành trì  trơ mấy hồi kim cổ, 
          Phường phố  thay bao lớp trẻ già. 
          Tết lạnh cửa hầu, đèn lạt khói, 
          Gió  thơm quán rượu, liễu tươi hoa. 
          Hồ  Tây khôn nỡ thuyền trăng dạo, 
          Sáo gợi hồn quê rợn bóng tà.
                (Cảm xúc khi lên thành Thăng Long ngắm cảnh) – 
                Hoàng Tạo dịch
Có  thể nói, vào những năm cuối đời, trong tâm hồn Cao Bá Quát luôn luôn sôi réo một ngọn lửa cháy ngầm dữ dội… Những câu hỏi thi nhau dằn vặt  ông: 
                    - Kim cổ miên man tình đất nuớc,
          Sao mình làm mãi một thi ông?
          - Dưới thì  không ngủ có ta,
            Trên thì  sao sáng lững lờ muốn rơi.
          - Phí  công cầm bút đã mười năm,
            Lo trước vui sau chí  chửa cam.
          - Trai ba mươi tuổi chẳng nên danh,
            Mỏi gót chưa nguôi nỗi bất bình…
            Ca đoạn bảy bài nhìn trở  lại,
            Cau mày thêm giận kiếp phù sinh.
          - Thái bình một chước chưa thành,
            Tầm thường nghĩ  thẹn cho mình nhà nho.
          - Muốn khơi cạn nước dòng Tô thuỷ,
            Rửa sạch cho đời dạ nhớp nhơ… 
Mặc dù thể chất ông đã suy yếu sau những chặng đời đầy dẫy chông gai, khổ ải, lo buồn, nhưng trong người anh hùng dường như có một sức mạnh nội tại phi thường, đúng như Kinh Dịch đã nói: “Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức” (Trời chuyển vận mãnh liệt. Người quân tử cũng tự làm mạnh mình không ngừng nghỉ). Rốt cuộc cái nhân cách anh hùng của Cao Bá Quát đã đi đến chỗ “cùng”. Ông quyết chối bỏ quá khứ vô nghĩa:
            Ngán cho mình đóng cửa nhai văn, nhấm chữ  bấy lâu rồi
          Sâu  đo nọ những đòi đo thế  giới!
          Từ  vượt bể qua Ba Sơn  đất mới,
          Bừng mắt trông, ôi sáu cõi mênh mang!
          Rõ  trò chơi từ trước, chuyện văn chương,
          Khách nam tử  ai sống suông bằng sách vở?
          (Đề sau khúc “Yên  đài anh ngữ”…) – Hoàng Tạo dịch
Ông đã mô tả cái trạng thái ngột ngạt của một xã hội như đang chờ đợi những biến cố sẽ xảy ra:
          Mây trôi trôi mãi chưa về,
          Sớm hôm tất tả  chẳng hề được yên.
          Bỗng đâu trận gió nổi lên,
          Đưa mây trôi dạt vào miền núi cao.
          Trần gian đang ngóng mưa rào,
          Sấm  đâu còn ở nơi nào im hơi1
          (Đám mây trôi) – Nguyễn Văn Tú dịch
Thế  rồi “cùng tắc biến”, tính cách anh hùng hào kiệt của Cao Bá Quát đã loé sáng như một tia chớp giữa bầu trời đen tối của lịch sử. Ông rũ sạch cả món nợ văn chương vô bổ  lẫn cái “công danh” đáng phỉ nhổ, oai phong lẫm liệt bước lên chiến luỹ để tuyên bố một cuộc chiến sống mái với triều đình nhà Nguyễn! Những khái niệm “khi quân”, “loạn thần”… thường vẫn làm các nhà nho khiếp hãi và “tránh như tránh tà” thì người anh hùng họ Cao thản nhiên chấp nhận tất! Không nghi ngờ gì nữa, dưới mắt ông, Tự Đức chỉ là một tên vua hề bất lực và vô vị, không thể bén gót ông ở bất cứ phương diện gì. Ông khẳng định phẩm chất cao cường của mình và hoàn toàn tin rằng phải một nhân vật như ông mới có thể cứu vớt được nhân dân khỏi vòng khốn đốn, mới đủ bản lĩnh và tư cách lãnh trách nhiệm “chăn dân”! Mặc dù do hạn chế tất yếu của thời đại, ông chưa tìm được một “chủ nghĩa” đúng đắn, khoa học để đưa đất nước thoát khỏi chế độ phong kiến đã đến hồi tan rã, nhưng tư duy của ông có một nhân tố hết sức đúng: nếu người đứng đầu triều đình không phải một ngu quân mà là một đấng minh quân thật sự thì triều đình ấy tất sẽ lãnh đạo quốc dân tốt hơn gấp bội. Ông chủ trương một cuộc “thay đổi lãnh đạo” theo tinh thần ấy.     
Năm 1853, cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (thuộc Hà Nội) do ông lãnh đạo đã nổ ra. Tinh thần “thế thiên hành đạo” và triệt để phủ nhận triều đình Tự Đức – một điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu bức xúc của lịch sử dân tộc lúc đó - được thể hiện đầy đủ trong đôi câu đối của ông thêu trên cờ nghĩa:
          Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu – Thuấn,
            Mục Dã, Minh Điều hữu Vũ – Thang.
          (Bình Dương, Bồ Bản không Nghiêu – Thuấn
          Mục Dã, Minh Điều có Vũ  – Thang)
Sau nhiều trận đụng độ dữ dội với quan quân triều  đình, cuối cùng Cao Bá Quát đã bị trúng đạn và ngã xuống trên chiến trường. Ba họ của ông bị triều đình Tự Đức tru di.
Từ  một nhà văn hoá với danh hiệu “Thánh Quát”, bỗng chốc trở thành một lãnh tụ nghĩa quân và  tử trận trong một cuộc chiến đấu: Cao Bá  Quát trở thành một hình tượng anh hùng hiển hách, chói lọi như Spartacus (nước Ý), Pougachev (nước Nga) hoặc anh em nhà Tây Sơn trước kia. Một hình tượng anh hùng kì vĩ như vậy, lịch sử có khi phải thai nghén cả nhiều trăm năm mới sản sinh ra được. Con người kì vĩ đó lại đích thực là một bậc văn chương quán thế cho nên những tác phẩm ông viết ra ắt hẳn phải là những tác phẩm thượng thặng cả về nội dung lẫn nghệ thuật!
Sau khi ông chết, tri kỉ của ông là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã vô cùng thương tiếc khóc  ông:
                  Duy biên thư  sử, bích biên cầm,
                  Nhất mộng du du thất hảo  âm.
                  Sơn  hải di tung hà xứ ẩn,
                  Hương quan li hận thử  hồi thâm…
                  (Đàn cầm bên vách, sách bên màn,
                  Một giấc miên man bặt tiếng vàng.
                  Non biển chốn nao lưu dấu cũ,
                  Quê hương mấy bận xót li tan…)
                                Kiều Văn dịch  
Vậy mà, nếu chỉ khảo sát tính cách anh hùng của Cao Bá Quát qua thơ ông như chúng tôi vừa trình bày thì chúng ta vẫn chưa thấy được toàn bích bức chân dung tuyệt diệu của con người ông. Thật vô cùng đáng kinh ngạc: Cao Bá Quát là đấng anh hùng cái thế, nhưng ông đồng thời là một “đệ nhất tao nhân mặc khách” trong đời, một tâm hồn đa cảm, lãng mạn, và một nhà thơ trữ tình lớn! Những áng thơ của ông viết về đề tài “tình cảm cá nhân và gia đình” thật quí vô giá trong nền thơ cổ điển Việt Nam.
Là  bậc quốc sĩ trọn đời lo lắng về đất nước, ông đồng thời là người của quê hương, là con, là chồng, là cha trong một gia đình Việt Nam bình thường với những tình cảm vô cùng thắm thiết. Ông thú nhận ông không thuộc hạng “thánh nhân vong tình”:
          Vong tình riêng những thẹn không hay,
          Vui, xót, lòng ta rộn bấy chầy.
          Mảnh kính còn phong niềm biệt cũ,
          Ngọn  đèn không tỏ mối sầu tây.
          Hồn quê  bên gối ba canh dõi,
          Hoa tuyết trong khăn một tối dày…
          (Từ biệt người nhà…) – Nguyễn Văn Bách dịch
Là  “lữ khách xa nhà”, nhà thơ đã bao phen phải  “thổn thức gan vàng” mỗi khi được nghe chuyện quê hương, làng xóm, gia đình:
          Lặng lẽ  nhìn nhau gạt lệ dồn,
          Rì  rầm chưa dứt chuyện trong thôn.
          Cha già  mạnh khoẻ thương con vắng,
          Bé  dại mừng vui biết bố còn…
          (Thấy người ngoài Bắc vào, nhân hỏi chuyện quê) – 
          Hoá Dân dịch
Sau khi bị nếm đủ mùi cay đắng của cuộc đời, thoát cảnh gông cùm, ông lê gót trở về quê hương và “ngã vào lòng gia đình” như sau:
          Mái tóc bơ  phờ sự chẳng dè,
          Trở  về nay lại thấy làng quê.
          Điếm Cây gạo đó sương vừa ngớt,
          Hồ  Ngựa trời đây nắng chửa hoe.
          Hàng xóm xôn xao dồn chuyện hỏi,
          Mẹ  già mừng tủi thấy con về.
          Đời gian nan mãi từ nay hối,
          Bàn chuyện xa nhà  dạ những e.
          (Về đến nhà) –  Nguyễn Văn Tú dịch
Những vần thơ ông dành cho vợ thật là âu yếm nhưng thường là tràn đầy nước mắt vì vợ  chồng ông phải hứng chịu biết bao nghịch cảnh khe khắt nhất của cuộc đời:
          Người viễn tái, kẻ cô phòng,
          Tương tư  ai chẳng não lòng như ai!
          (Mưa dầm suốt đêm cảm tác) – Hoàng Tạo dịch
          Tựa gối, vợ  đần tung tóc chải,
          Lôi tay, con nhỏ  ngã đầu nằm…
          (Trong lúc ốm) – Nguyễn Quí Liêm dịch
          Trước đèn thư mở, lệ muôn hàng,
          Hồn gửi  phòng the luống vấn vương!
          … Áo mền ủ ấm bao tình tứ,
          Bút mới dầm tan mọi thảm thương!
          Rồi nữa nhà  Lai, khi trở lại,
          Bước vào mừng có  bạn tao khang.
          (Tiếp thư vợ gửi  áo rét…) – Nguyễn Quí Liêm dịch
Chắc chắn Cao Bá Quát là một người hiểu thấu chân giá trị tình yêu nhân bản của tất cả giống người trên khắp trái đất. Chính vì vậy, có lẽ ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên, ngay từ giữa thế kỉ XIX đã “cảm” được thứ “tình yêu phương Tây” mà phần đông các nhà nho lúc ấy cảm thấy... nghịch mắt! Thật hiếm thấy trong thơ chữ Hán một bài thơ mang “tứ mới lạ” như thế này:
       Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
          Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,
          Ngó  thuyền Nam thấy đèn le lói,
          Kéo  áo rì rầm nói với nhau.
          Hững hờ  cốc sữa biếng cầm tay,
          Gió  bể đêm sương thổi lạnh thay!
          Uốn  éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
          Biết  đâu nỗi khách biệt li này!
               (Dương phụ hành) – Lê Tư Thục dịch
Cao Bá Quát cũng có những bài thơ viết về  con cái mà ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn thấy cảm  động:
          Đôi trẻ nhà ai đó
          Thỏ  thẻ bước khoan thai.
          Quên tình nào mấy kẻ?
          Ta nhớ  con ta hoài,
          Khi quấy mẹ, kêu  đói,
          Lúc học  ông, vái người…  
                          (Nỗi nhớ) – Hoá Dân dịch
          Nhà  xa bệnh lại dày vò,
          Nhớ  con hằng nén xót chua nghẹn ngào.
          Đêm qua bỗng thấy chiêm bao,
          Gặp con, giọt lệ  tuôn dào như mưa.
          Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
          Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung.
          Tuy nghèo, dưa muối  đủ dùng,
          Đắng cay con hãy về cùng với cha!
          (Chiêm bao thấy con gái đã mất) – Nguyễn Văn Bách dịch
Thơ  Cao Bá Quát còn cho thấy ông là một đấng tao nhân mặc khách hay rượu, hay thơ và yêu thiên nhiên một cách vô cùng say đắm nhưng với phong cách rất “Cao Bá Quát”: phóng khoáng, lãng tử, mạnh mẽ, táo bạo!
          Ta muốn lên  đỉnh núi
          Hát vang với nước mây.
          (Qua núi Dục Thuý) –  Ngô Lập Chi dịch
          Sông tựa dải là  cô gái đẹp,
          Núi như  chén ốc khách làng say.
          (Dọc đường Ninh Bình) –  Vũ Mộng Hùng dịch
          Chao đảo lòng xuân khôn cầm nổi,
          Tây Hồ  đây thật một Tây Thi!
          Mươn mướt nét mày, cơn sóng dịu,
          Lả  lơi dải lụa, cỏ đương thì.
          (Tứ tuyệt chơi Hồ  Tây) – Kiều Văn dịch
Thậm chí nhà tài tử còn nảy ra một ý “ngông” như sau:
          Ước ao quả  động to kia
          Có  ai chịu khó khênh về  cho ta
          Để bày những chỗ lại qua,
          Hồ  Tây, Phượng Chuỷ cùng là  Châu Long.
                (Chơi động Tiên Lữ)  – Hoa Bằng dịch
     
Qua những phân tích trên, chúng ta thấy: Cao Bá Quát đích thực là một con người viên mãn và ưu việt trước khi là nhà thơ. Và chính sự viên mãn, ưu việt ấy đã quyết định tính ưu việt của thơ ông, đã khiến ông được đời suy tôn bằng một danh hiệu cao quí “Thánh Quát”!   
Tóm lại, chúng ta chỉ có thể hiểu được thơ Cao Bá Quát trên cơ sở tìm hiểu bản chất con người ông và lịch sử cuộc đời ông. Cũng giống như các trường hợp của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ…, con người ông, đời ông là một với thơ ông và quyết định phẩm chất thơ ông cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Điều đó phân biệt ông với những “thi nhân”… rởm, suốt đời chỉ làm thơ trên “đầu môi chót lưỡi” bằng cách học mót nghệ thuật thơ của thiên hạ, bởi vì họ bị thiếu những cái vốn không thể thiếu đối với một người làm thơ: một con nguời đích thực và một cuộc đời đích thực!
Cao Bá Quát hiểu hơn ai hết về “nguyên lí sáng tạo thơ” ấy, và ông đã rung chuông cảnh cáo các “thời bệnh”: kẻ kém cỏi thì làm thơ  dễ dãi, kẻ có sức học dồi dào một chút thì mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo nhưng tinh thần còn thấp… (Đề cuối tập thơ của Miên Thẩm). Ông cực lực phê phán những kẻ làm thơ chỉ cốt “ham khoe nhiều những điều… không quan hệ gì đến tính linh cả” (nói theo ngôn ngữ bây giờ, đó là thứ “thơ không hồn”).
Bất luận viết về đề tài nào, thơ Cao Bá Quát cũng chứa chất cái “hồn” và cái khí lực rất mạnh mẽ của tinh thần ông. Vì vậy, nghệ thuật thơ của ông có phong cách rất gần với thơ Nguyễn Gia Thiều, hay thơ Hàn Mạc Tử sau này: đó là thứ thơ huyết lệ. Ông luôn vứt bỏ không khoan nhượng tất cả những gì “không phải thơ” cho dù chúng được người đời ưa chuộng, sùng bái đến mấy. Và chính vì luôn sáng suốt nhìn ra được những yếu tố đích thực là thơ mà ông có được những sáng tạo kì diệu như bài thơ “tả chân” sau đây:
          Sương nặng gầu đôi mới kéo lên,
          Môi run, bụng lép, chiếc tơi quèn.
          Ven đê cỏ vỡ ngoài trăm dặm,
          Dăm thước vừa gieo mạ  ruộng trên.
          (Thợ tát nước trên  đồng cao buổi sáng) – Khương Hữu Dụng dịch
Rõ  ràng bài thơ này (cũng như bài Dương phụ hành) có thể được coi là những bài thơ tiên khu của dòng thơ hiện thực trữ tình sẽ phát triển mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỉ XX, nhất là trong thời kì Thơ Mới. Cao Bá Quát đã đi trước thời đại mình đến gần một thế kỉ! Thiên tài thơ của ông thật đáng khâm phục biết bao!



No comments:

Post a Comment