Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 31 October 2016

CAO BÁ QUÁT =NGUYỄN VĂN SIÊU = NGUYỄN HÀM NINH = TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ

CAO BA QUAT

Mấy bồ chữ của Cao Bá Quát
       Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Lược Sử
II) Lời tuyên bố cao ngạo
III) Cái SAI của Cao Bá Quát
IV) Chẳng phải tuyệt thế thông minh
V) Hay chữ không có nghĩa là giỏi kinh luân
VI) Phải tu học, tu luyện
VII) Vô Sở Đắc , một đặc điểm của Thiền Tông
VIII) Đắc Vô Sở Đắc : phải tu luyện
__________________________________________
I) Lược Sử
Tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Hiên, quê gốc ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh cũ
Năm 1831, ông 22 tuổi, đậu á nguyên trường thi Hà Nội
Năm 1841 sung chức Hành tẩu bộ Lễ, sau thăng chức Lang trung.
Cuối năm 1841, làm sơ khảo ở Trường thi hương Thừa Thiên cùng với Tiến sĩ Phan Nhạ. sửa mấy quyển thi phạm húy, cả hai đều bị kết vào tội chết ; sau ông được vua Thiệu Trị giảm tội và phát phối vào Đà Nẵng
1843, theo sứ bộ Đào Trí Phú sang Tân Gia Ba công cán, đ lập công chuộc tội (gọi là đi "dương trình hiệu lực") . Xong việc bị thải hồi về quê .
1847, được bổ vào Viện Hàn lâm, rồi thăng làm chủ sự, sưu tầm và xếp đặt văn thư.
Năm 1850, làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, năm sau lấy cớ mẹ già ông xin từ chức.
Năm 1854, làm quân sư cho Lê Duy Cự ( giặc Châu Chấu). Ông bị bắt rồi bị hành quyết cùng với 2 con trai . Anh Đạt b bắt, rồi t t.
Người đương thời phong ông làm "Thánh Quát" (Thánh văn chương).
Tác phẩm : Cao Chu Thần thi tập, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập và bài phú Tài Tử Đa Cùng
II) Lời tuyên bố cao ngạo
Cao Bá Quát là người cao ngạo, đã từng tuyên bố như sau :
{{  Trong thiên hạ có 4 bồ chữ.
Một mình  tôi giữ hết 2 bồ.
Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn văn Siêu giữ một bồ.
Còn một bồ phân phát cho thiên hạ !   }}
III) Cái SAI của Cao Bá Quát
Câu tuyên bố trên SAI bét vì :
       Giả sử thiên hạ có 4 bồ chữ.
       Nếu Cao Bá Quát học  hết 2 bồ.
       Thì thiên hạ vẫn còn lại 4 bồ chữ.
Làm gì mà có chuyện : Còn một bồ phân phát cho thiên hạ!
IV) Chẳng phải tuyệt thế thông minh
Cao Bá Quát chẳng phải là người tuyệt thế thông minh
Tôi đã chứng minh điều này. Vì tôi đã chứng minh rằng lời tuyên bố cao ngạo của Cao Bá Quát có một lỗ hổng lớn.
Nay thử xét tài năng của ông Cao Bá Quát :
1) Thơ : thơ Cao Bá Quát tuy hay, nhưng thử so sánh với hai nhân vật cách đó mấy chục năm :
       so với Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát không bằng
       Cao Bá Quát không xuất khẩu thành thi hơn được Lê Quí Đôn
2) Tài thao lược : vừa mới làm quân sư mấy tháng là bị bắt ngay ! Thua xa Lê Quí Đôn !
3) Sự nghiệp của ông có gì, ngoài những giai thoại ngông nghênh ?
Những tập thơ văn của ông để lại chẳng thể sánh bằng Lê Quí Đôn. Lê Quí Đôn tiên-sinh là nhà bác học nhân văn vĩ đại của nước ta, để lại cho hậu thế một sự nghiệp kếch sù . Ngoài ra, Lê tiên sinh còn tinh thông Phật Pháp , tử vi, vv . . .
Sở dĩ  tôi so sánh ông với vĩ nhân Lê Quí Đôn là vì ông tự cho, tự xưng là người tuyệt thế thông minh ; phải so sánh với người thông minh tuyệt thế !
V) Hay chữ không có nghĩa là giỏi kinh luân
Nhà nho xưa thường tự cho là giỏi kinh luân, lược thao gồm tài. Tu thân , tề gia, trị quốc mà.
Kẹt một cái là họ có tu thân đâu, người được khen là giỏi chỉ là hay chữ.
Mà hay chữ không có nghĩa là giỏi kinh luân.
Vấn đề này chẳng phải là mới lạ chi. Ngay từ đời Hán , nhiều nho gia cũng đã chê bai lối học khoa cử. Vua chúa cũng có người biết thế. Nhưng khoa cử vẫn cứ để đó ; có lẽ vì họ không tìm ra cách hay hơn để chọn nhân tài.
Và hậu quả là nhà nho xưa cứ tự cho là giỏi kinh luân.
Thật không có gì lầm hơn. Việc kinh bang tế thế đâu phải chuyện tầm thường. Viết văn làm thơ nào phải kinh luân.
Trong Phật Pháp cũng thế ; tu hành đâu phải là thuộc lòng kinh điển.
VI) Phải tu học, tu luyện
Dẫu tuyệt thế thông minh thì vẫn cần phải tu học, tu luyện.
Trong ngành văn chương cũng thế. Cao Bá Quát thì dậm chân tại chỗ, còn Lê Quí Đôn thì tiến xa, nhờ trau chuyên, nghiên cứu.
Kinh bang tế thế, thì phải cần luyện. Phải đọc kỹ lời Khổng Tử, suy nghĩ thật kỹ, xem ngài dạy ra sao (Khổng Tử là nhà chánh trị) .Phải nghiên cứu cách hành sự của các nhà trong Bách Gia. Phải nghiên cứu binh thư. Phải tiên liệu, với mỗi biến cố quan trọng, phải làm gì. Rồi còn phải trau dồi tính tình . . .
Tôi thấy ông Cao Bá Quát chẳng tu luyện , chỉ lấy cái hay chữ, cái lanh trí ứng đối cho là kinh luân. Ông nói những gì "kiến cơ nhi tác", "Nghiêu Thuấn quân dân" nhưng đó chỉ là nói khoác, ông nào có biết làm cách nào mang lại "Nghiêu Thuấn quân dân" !
Ông còn chưa biết làm thế nào để tu học cho có kinh luân !
Cho nên, vì bất đắc chí, cuối cùng ông làm loạn. Thân thì mất, mà còn di hại cho gia đình . . .
VII) Vô Sở Đắc , một đặc điểm của Thiền Tông
Cũng như bồ chữ trong thiên hạ ở trên, Chân Như trong vũ trụ chẳng thêm chẳng bớt khi có người  Kiến Tánh
Tại sao? Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh; chứng ngộ Phật Tánh của chính ta!
Phật Tánh của ta vốn sẵn có từ Vô Thủy, vốn là  Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Chỉ vì bị ngăn che nên không thấy ! Khi Kiến Tánh thì ta chẳng thêm gì và Chân Như chẳng bị mất gì!
Chân Như trong vũ trụ chẳng thêm chẳng bớt.
Người Kiến Tánh cũng chẳng đắc gì, vì chỉ chứng ngộ  Phật Tánh có sẵn của chính ta!
Đây là chân chính Vô Sở Đắc!
Một đặc điểm của Thiền Tông!
Tôi có hai câu thơ, diễn tả điều này :
       Dừng tâm đứng lại: thân, tâm, tánh
       Một niệm vuông tròn: tâm đắc tâm !
             (Dừng tâm, Anh Chí)
VIII) Đắc Vô Sở Đắc : phải tu luyện
Phật Pháp chủ ở sự thực chứng. Cần phải đắc ! Chứng tầng thiền này, tầng thiền nọ ; rồi cuối cùng đắc đạo.
Nhưng cái cao siêu nhất của Phật Pháp là cái Vô Sở Đắc.
Cái cao siêu nhất của Phật Pháp là Đắc cái Vô Sở Đắc.
Thiền Tông là vậy : Đắc Vô Sở Đắc. Tức là chứng ngộ Phật Tánh, cái có sẵn ở mọi chúng sinh.
Nhưng muốn Đắc cái Vô Sở Đắc thì phải tu luyện. Chẳng thể đi khơi khơi, khơi khơi nói khoác ; rồi đùng một cái, tự nhiên Ngộ.
Không có chuyện chẳng tu mà thành !
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Sách tham khảo
       Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Sử quan đời Trần và Lê
       Hoàng Lê nhất thống chí , Ngô gia văn phái
       Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú
       Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
       Các nhà khoa bảng Việt nam, chủ biên Ngô Đức Thọ
       Đông Châu Liệt Quốc
       Hán Sở Tranh Hùng
       Sử Ký , Tư Mã Thiên
       Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, La Quán Trung, dịch giả Tử Vi Lang
       Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
       Thơ văn Lý Trần, Ủy ban khoa học xã hội Việt nam
       Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm
Trang Nhà   Lê Anh Chí


SÔN TRUNG * CHÂU TỬ LONG TIÊN SINH

CHÂU TỬ LONG TIÊN SINH

Lúc bấy giờ Tây Sơn nổi lên, một số đại học sĩ, học sĩ, và nho sĩ trong triều đã theo Tây Sơn. Một số bỏ cha mẹ, vợ con theo Tây Sơn lên rừng chiến đấu, nhưng đa số ăn bổng lộc chúa Nguyễn lại lảm nội ứng cho Tây Sơn.

Tiên sinh Châu Tử Long là người Đồng Nai, giữ chức dại học sĩ tại Chiêu Văn quán của chúa Nguyễn. Tiên sinh là người hiền hậu, thật thà, ai ai cũng quý mến. Thân thể to cao, mặt mũi tròn trịa, là tướng phúc hậu nhưng lưỡi luôn thò ra liếm mép, là tướng ưa hưởng thụ , hay chơi bời, và cũng là kẻ bội nghĩa vong ân. Tiên sinh xuất thân con nhà đại điền chủ ở Rạch Giá, đi du học, đỗ tiến sĩ Sử học, sau về dạy Chiêu Văn quán. Có kẻ nói xấu tiên sinh rằng tiên sinh học dốt, đi du học để chơi bời, luận án tiến sĩ của tiên sinh là do mướn người làm. 
Tin đồn này làm cho nhiều người tin vì suốt đời tiên sinh không hề viết lách, lúc dạy học thì không soạn giáo án gì hết, tiên sinh cứ đọc từng trang sách của sĩ phu Bắc Hà và Tây Sơn như Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ , Nguyễn Thiếp cho sinh viên chép. Dẫu sao, điều đáng khen là Tiên sinh rất bình dân, giản dị, cho nên sinh viên cũng như một số giáo quan trẻ trong Chiêu Văn quán rất thich tiên sinh. Thỉnh thoảng, Châu tiên sinh mở cuộc ăn uống, mời một số giáo quan trẻ tới vui chơi. Trong Chiêu Văn quán hay tại những buổi ăn uống này, Châu tiên sinh luôn luôn tươi cười, nửa thật nửa đùa, bảo rằng ông là bạn thân của Trần Văn Kỷ tiên sinh là một quân sư của Nguyễn Nhạc.
Sau ngày quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, các giáo quan cũ phải đến Chiêu Văn quán trình diện, nhưng tiên sinh thì vắng bóng. Hình như tiên sinh đã được bổ nhiệm một chức vụ nào trong cơ quan trung ương của tân triều, bên cạnh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Trần Văn Kỷ. Lúc này, đám giáo quan trẻ mới biết tiên sinh thât sự theo Tây Sơn. Trước đây, tiên sinh thường tổ chức những cuộc họp mật của thành bộ Tây Sơn, mà cuộc ăn uống với các giáo quan triều đình chỉ để che mắt cơ quan an ninh nhà Nguyễn. Rất lâu, đám giáo quan cũ cũng gặp tiên sinh và đến dinh thự mới nhưng không nghe tiên sinh nói tiên sinh giữ chức vụ gì ở cơ quan nào. Tiên sinh ở dinh thự của một vị đại thần của chúa Nguyễn bỏ lại. Nhưng điểm đáng nói là tân triều không cấp hẳn cho tiên sinh một biệt thự , mà lại cấp chung với một võ quan Tây Sơn. Tiên sinh ở lầu trên, võ quan Tây Sơn ở lầu dưới. Không hiểu vì đâu hai ông xung khắc nhau thường xuyên. Ông võ quan Tây Sơn đã có lần đấm vào mặt ông và chỉ mặt ông mà mắng:

‘’Mày là thằng ngụy, chui vào hàng ngũ cách mạng để quấy phá. Mày ăn bơ sữa của đế quốc, mày là bọn tư sản phản động. không xứng đáng hưởng ân huệ triều đình. Cả cái dinh thự này là của tao vì tao đã dày công xông pha mặt trận, còn mày là đồ chó ghẻ. Mày cút đi!

Ôi! Hai cọp không thể ở chung một rừng! Ông võ quan Tây Sơn tất nhiên là muốn nắm độc quyền, độc chiếm. Người xưa đã nói:

Sống mỗi người một nết;
Chết mỗi người một mồ’’

Dù Châu Tử Long là một chiến sĩ thực thụ của Tây Sơn thì cũng bị đánh đuổi huống hồ tiên sinh chỉ là một giống ‘’ngụy Nguyễn’’, chỉ biết ăn chơi, không phải là một chiến sĩ anh hùng như các đô đốc Tây Sơn từng xông pha tên đạn, đánh đông dẹp bắc. Dưới mắt các đô đốc Tây Sơn, Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ich cũng chỉ là một thứ con ghẻ của chế độ, người ta lợi dụng họ, đánh bóng họ để tuyên truyền. Trần Văn Kỷ tiên sinh còn bị khinh miệt huống hồ Châu tiên sinh! Họ coi tiên sinh chỉ là một kẻ ăn theo, vô giá trị, không xứng đáng đứng chung hàng ngũ với họ.Thực ra triều đình có chút không phải với Châu Tử Long tiên sinh. Nguyên chúa Nguyễn truớc đây xây dựng khu làng Quốc tử giám cho các giáo sư đại học ở.
 Lúc quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, họ chiếm khu làng Quốc Tử Giám làm một Cấm thành, cho các quan lớn Tây Sơn ở, mặc dầu các quan lớn đã chiếm nhiều dinh thự ở Gia Định thành. Họ đuổi các giáo sư ra ngoài, và cấp các giáo sư các căn nhà khác. Châu tiên sinh có biệt thự rộng rãi, mát mẻ trong làng Quốc Tử Giám, là nơi mà các thầy trẻ ở Quốc tử giám , sống ở bên ngoài, thường được Châu tiên sinh mời đến để uống rượu, ngâm thơ hoặc chơi cờ tướng như đã kể ở trên. Dù có công trạng nuôi dưỡng chiến sĩ Tây Sơn hay cộng tác với Tây Sơn, Châu tiên sinh cũng bị đẩy ra ngoài. Tại sao người ta không cấp riêng cho gia đình Châu tiên sinh một căn nhà mả lại cấp chung với một võ quan Tây Sơn cho ra nông nỗi này?

Nghe nói ông võ quan Tây Sơn sau đó đóng cầu thang lại không cho tiên sinh và gia đình tiên sinh xuống nhà. Ngày xưa, cơ cấu kiến trúc dinh thự còn cổ lỗ, Những bếp núc, phòng tắm, phòng vệ sinh đều ở dưới đất. Như vậy thì làm sao tiên sinh đi làm? Con tiên sinh đi học, và Châu phu nhân đi chợ? Nhất là làm sao tắm rửa, giải quyết vấn đề vệ sinh? Không hiểu sau này Ban quân quản Kinh Đô giải quyết ra sao, nhất là Trần Văn Kỷ tiên sinh có giúp gì cho tiên sinh không, và sau này Châu tiên sinh đi về đâu? Trong bức màn sắt, con người xa lạ, khép kín, không ai biết ai nữa.


Trời đất từ nay khép chặt cửa,
Mưa gió, hoa mai rụng suốt đêm!

Trong trận đấu này ai thắng ai có lẽ khá rõ rệt. Viên võ quan Tây Sơn là chiến sĩ Tây Sơn thật sự, còn Châu Tử Long tiên sinh dẫu sao cũng chỉ là kẻ ngoại đạo tân tòng. Con nuôi sao bằng con đẻ! Hình như người con gái duy nhất của Châu tiên sinh sau này cũng đã tìm đường vưọt biên.


TRẦN LÊ SÁNG * THƠ NGUYỄN VĂN SIÊU

THƠ NGUYỄN VĂN SIÊU
PGS. TRẦN LÊ SÁNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguyễn Văn Siêu (1796-1872) tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ, sinh ở Kim Lũ (làng Lủ), mất ở Thọ Xương - Hà Nội, táng ở Lủ nay còn mộ và bia Thần Đạo.
Nguyễn Văn Siêu để lại một tập thơ lớn, đó là tập Phương Đình thi loại 方 亭詩 類, tập thơ này được in năm Tự Đức thứ 4 (1851) bằng ván khắc, chữ chân, hiện ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.188/1-2.
Phương Đình thi loại gồm 4 tập, đó là: Vạn lý tập 萬 里 集, Anh Ngôn tập嚶 言 集, Lưu lãm tập流 覽 集và Mạn hứng tập漫 興 集. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu từng tập:
1. Vạn lý tập: năm Kỷ Dậu (1849), Nguyễn Văn Siêu được vua Tự Đức phái đi sứ nhà Thanh với chức Phó sứ. Sắc chỉ: "Khanh thiên tính thông minh, học vấn uyên bác, thành thử nghi thu thập kiến văn, tác trẫm nhĩ mục, lịch lãm Bắc triều chư danh lam thắng cảnh, cập chư địa phương phong tục, tức mệnh quản thành tử chu tường, sĩ hồi trình tiến lãm, tá trẫm minh kiến vạn lý chi ngoại". Nghĩa là: "Khanh thiên bẩm thông minh, học vấn uyên bác, đi chuyến này nên thu thập những điều mắt thấy tai nghe, làm tai mắt cho trẫm, qua các nơi danh lam thắng cảnh cùng phong tục các nơi bên Bắc triều, phải ghi chép kĩ càng, đợi về dâng lên, giúp trẫm thấy được ngoài muôn dặm". Vâng theo sắc chỉ, Nguyễn Văn Siêu quan sát các nơi đã đi qua và ghi chép lại. Khi về nước, ông dâng lên tập Như Yên lịch trình tấu thảo (Bản tấu về chuyến hành trình đi Yên Kinh), chép lại cảnh vật mười ba nơi đoàn sứ bộ đi qua, từ Nam Quan sơn lộ đến Bắc Bình, phong vật mỗi nơi đều nêu được nét đặc sắc với bút pháp hết sức điêu luyện. Học giả đương thời xưng tụng "văn như Siêu, Quát". Văn ông Quát đáng tiếc nay còn lại quá ít nên khó biết rõ, văn ông Siêu thì còn lại khá nhiều, vì vậy chúng ta thấy rõ các học giả xưa bình phẩm rất tinh. Văn ông Siêu viết về địa lí thì có lẽ danh sĩ quê Hán cổ cũng kính nể. Đồng thời với việc thực hiện tập Như Yên lịch trình theo sắc chỉ, Nguyễn Văn Siêu còn làm nhiều thơ trong chuyến đi sứ, khi trở về tập hợp thành tập thơ Vạn lý tập (Tập thơ muôn dặm).
Vạn lý tập gồm 165 bài, bài thứ nhất là bài Xuất Tây môn khẩu chiếm (Cảm xúc khi ra khỏi cửa Tây ở Kinh đô):
"Minh triêu bái tiện điện
Bạc vãn xuất đô môn
Thánh ý tại căng tồn
Tính danh thông đại quốc
Nhật dịch tẩu do hiên
Vạn lý thử vi biệt
Tuần nhật quá gia viên".
Dịch:
Sáng nay lạy ở điện,
Chập tối xuất đô môn.
Lòng thần vừa run sợ,
Ý chúa lại ôn tồn.
Họ tên đưa đại quốc,
Chuyển vận có xe chuyên.
Vạn dặm tạm ly biệt,
Mười hôm đến gia viên.
Bài cuối cùng là bài Vấn Mai Hộ sứ nhập Yên phụng lão mẫu hoàn gia, nhân trí sổ vận tương úy (Vấn Mai Hộ sứ vào Yên phụng mẹ già về nhà, nhân gửi mấy vần úy lạo):
"Thánh trạch đàm phu Nhị thủy lưu
Thanh danh văn vật tế trung châu
Tính truyền Vân hán đồng xưng Nguyễn
Lộ nhập Tiên nguyên bất nhượng Lưu
Tứ thủ thành xuân nhất đại thịnh
Kỳ nhân như ngọc kỷ sinh tu
Liên ban vạn lí triều thiên tử
Chế cẩm phàm gương học sĩ chu".
Dịch:
Đức trạch vua ban đến Nhị Hà
Thanh danh văn vật khắp nước nhà
Họ truyền là Nguyễn nơi Vân hán
Đất đến chàng Lưu chốn Tiên ra
Thịnh ấy một thời xuân đã lại
Tu nên thành được dáng ngọc ngà
Một đoàn vạn dặm chầu thiên tử
Gấm chế buồm gương học sĩ ta.
Thơ làm từ buổi ra đi ở kinh đô Huế, qua Hà Nội rồi sang nước Thanh, từ Mục Nam Quan cho đến Yên Kinh, rồi lại từ Yên Kinh cho đến về nước. Nhiều bài tả phong cảnh sinh động, hiện thực:
Yên Kinh
“Vương khí do tại Yên
Đông phương mộc đắc tuế
Bắc điện triền chư hầu
Cung điện giai Minh chế
U tính khí dĩ thuần
Mãn Hán văn tương tế
Căn bản Bát kỳ trung
Xu hướng thiên hạ thế
Tam quý uy nghi phồn
Nhất tâm cung kiệm thể
Lâu các bạch vân nhàn
Trí đài mạn thảo ế
Trùng môn vô thốn binh
Bách chấp nhược hư để
Xa giá tại Minh Viên
Thành thị tự giao tế”.
Dịch:
Yên Kinh (Bắc Kinh)
Vương khí còn ở Yên,
Phương đông cây được tuổi.
Mặt bắc chư hầu chầu,
Cung điện thời Minh chế.
Khí cũ nay đã thuần,
Mãn Hán văn tương tế.
Gốc rễ trong Bát kỳ,
Mở ra thiên hạ thế.
Hoa thơm dấy uy nghi,
Một lòng cung kiệm thể.
Lầu gác mây trắng bay,
Ao đài dây leo kĩ.
Trùng môn không tấc binh,
Trăm chỗ không như thế.
Xe vua ngự Minh Viên,
Thành thị vẫn giao tế.
Về buổi được tiếp kiến ở vườn Viên Minh - Bắc Kinh, Nguyễn Văn Siêu viết:
Viên Minh viên tiểu kiến
"Cổ thụ nhàn viên lí
Ty cung hữu chí tôn
Thanh sơn hoành ngự tháp
Khê thủy nhiễu hoàn viên
Khanh sĩ tây liên bộ
Thân vương hạ đại ngôn
Chính trung từ bái khể
Kỷ vấn phụng ôn tồn".
Dịch:
Cổ thụ đầy vườn trắng,
Hành cung bậc chí tôn.
Non xanh ngoài sập ngự,
Suối biếc bọc tường biên.
Khanh sĩ hiên tây bước,
Thân vương thay vua truyền.
Trang nghiêm cúi đầu vái,
Thăm hỏi gửi ôn tồn.
v.v..
Nếu như Yên Kinh lịch trình tấu thảo trong Phương Đình văn loại cho chúng ta biết được một cách khá ngọn ngành về một số danh lam thắng cảnh phương bắc thì Vạn Lý tập ở Phương Đình thi loại lại cho chúng ta cảm nhận được đa dạng hơn, sinh động hơn về những nơi này. Khi đi sứ về, Nguyễn Văn Siêu có đưa Vạn lý tập cho Cần chính điện Đại học sĩ Đoan Trai (tức Trương Đăng Quế) xem, Đoan Trai có đề tựa, bài tựa có câu: "Nguyễn tử Phương Đình là người học rộng hay thơ… Ông đi sứ về đưa Vạn lí tập cho tôi xem và xin viết tựa, tôi đã xem những bài viết về sơn xuyên thắng cảnh, cổ kim linh tích đều thấy cấu tứ chặt chẽ xác đáng". Thơ đi sứ của nước ta có sớm và hết sức phong phú, xứng đáng là một chuyên đề nghiên cứu, nhưng Vạn lí tập của Phương Đình vẫn có chỗ đặc sắc, chỗ đặc sắc ấy là tả thực nhiều nơi mà đoàn Sứ bộ đi qua, tả thực với ý thức thực hiện sắc chỉ của vua Tự Đức mà ở trên chúng ta đã biết. Bởi vậy, trong Vạn lí tập bao gồm được cả ba yếu tố tình, cảnh, sự; tập thơ này trở thành tài liệu tham khảo quý về phương diện bang giao cho triều đình và đặc biệt cho các đoàn sứ bộ về sau; và tập thơ này cũng có ý nghĩa về phương diện văn học, văn hóa.
2. Anh ngôn tập: đây là tập thơ về tình bạn bè, nhưng cũng có nhiều bài thơ tả cảnh sông núi, đền miếu… gồm 282 bài. Mở đầu là bài Nhị Hà gồm 2 bài (ở đây chọn 1):
"Vạn cổ càn khôn nhất thủ lưu
Lâm lưu cố lũy hám tân lâu
Đông minh nhật xứ thiên nguyên định
Tây lĩnh vân trung vạn hác phù
Sự khứ bi lai quan thước cảm
Hoa phi xuân giảm khúc giang sầu
Tự hành tự chỉ yên ba lí
Thùy vấn ngư ông độc điếu châu".
Dịch:
Vạn thuở càn khôn cứ chảy lâu,
Bên sông lũy cũ thấy tân lầu.
Biển đông trời mọc nghìn dòng tụ,
Tây lĩnh mây trôi vạn hốc phù.
Việc cũ để buồn chim cuốc gọi,
Hoa nay xuân giảm khúc giang sầu.
Tự đi tự đứng trong mây khói,
Ai hỏi ngư ông một lá câu.
Cuối tập Anh ngôn là bài Sơ xuân khai bút:
"Ngô bút vị thường hạp
Thiên biến dã bất cùng
Hóa công chân điểm xuyết
Vạn tử dữ thiên hồng".
Dịch:
Nắp bút chưa từng đóng,
Bầu trời cũng chẳng dừng.
Thợ trời khéo điểm xuyết,
Vạn tía với nghìn hồng.
Nguyễn Văn Siêu có nhiều bạn, trong Kim Lũ Nguyễn thị chính phả ông kể đến các bạn thân thiết là Tạ Hiên Chu Doãn Trí ở Dục Tú, Lê Nhận Trai ở Nhân Mục, Vũ Mẫn Tốn Phủ ở Nghệ An, Vũ Đình Lễ ở Lương Đường, Chí Đình Nguyễn Văn Lý ở Đông Tác, Lỗ Am Vũ Phan ở Tự Tháp, Phúc Duyên Lê Duy Trung ở Thượng Phúc, Dương Đình Ngô Thế Vinh ở Bái Dương, Thành Tư Trần Văn Vi ở cùng thôn(1)... Khi xem Phương Đình văn loại và các tập thơ trong Phương Đình thi loại chúng ta còn thấy bạn ông đông hơn rất nhiều, chí ít phải kể thêm Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật Thận, Trần Đức Anh, Nguyễn Như Cát… Siêu, Quát, Ninh, Thận được học giả đương thời xưng tụng là "Tràng An tứ kiệt". Trần Đức Anh từng làm nhà bên Hồ Gươm (Hà Nội) và thường cùng Nguyễn Văn Siêu bàn về chuyện viết sử cho hồ Gươm; còn Án sát Nguyễn Như Cát lại là người đầu tiên bàn với Nguyễn Văn Siêu về việc trùng tu đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc. Trong Anh ngôn tập, Nguyễn Văn Siêu thu thập thơ xướng họa, viết tặng các bạn như Ngô Dương Đình, Lê Phúc Xuyên, Vũ Hoán Phủ, Lê Thường Lĩnh, Trần Thận Tư, Hoàng Phúc Đình, Chu Tạ Hiên, Nguyễn Tuần Phủ, Vũ Ngọc Khê, Hà Tốn Phủ… cũng có bài tác giả làm khi đi chơi với một nhóm bạn, lại cũng có bài chỉ làm khi một mình trước phong cảnh; có thể nói, với nhà thơ thì người, cảnh, vật đều có thể tâm tình như bạn. Điều đặc biệt là toàn bộ người, cảnh, vật trong Phương Đình anh ngôn thi tập đều là người, cảnh, vật nước nhà, bởi vậy, tập thơ vô hình trung trở thành tài liệu nghiên cứu cho giới nghiên cứu văn hóa cổ dân tộc. Mặt khác, những vần thơ vui buồn vì bạn, xúc cảnh sinh tình, ngâm hoa vịnh nguyệt, hoài cổ sâu xa này nay đọc vẫn cảm thấy tinh thần được di dưỡng.
3. Lưu lãm tập: đây là tập thơ viết về chu du quan lãm, gồm 305 bài. Mở đầu là bài Tam cử lễ bộ đáo kinh thân cổ lai tự cựu (Lần thứ ba được thăng ở bộ Lễ vào Kinh đô Huế đi thăm người quen cũ).
"Giang sơn ngô phục chí
Hội ngộ nhật trùng tân
Cộng vấn hương quan sự
Kiêm tồn lão bệnh nhân
Hưng liêm thi lực phiếm
Tình cấp tửu bồi thân.
Giáp trúc đào hoa phát
Ly ly các bán xuân".
Dịch:
Sông núi vẫn như xưa,
Bạn gặp như mới ra.
Đều hỏi quê các việc,
Sức khỏe của ông bà.
Thương nhau khó nói hết,
Cho vào rượu chan hòa.
Dậu trúc hoa đào nở,
Xuân đã đến bên nhà.
Cuối tập là bài Tống Bùi Hữu Trúc chi Tuyên Quang Án sát (Tiễn Bùi Hữu Trúc (Ngọc Quỹ) đi nhận chức Án sát ở Tuyên Quang):
"Vãn niên vật vọng chú danh khanh,
Quan sát kim vi viễn tái hành.
Mãn tọa thanh sơn giai bạch phát
Nhất cùng thọ trúc bạn tiên sinh
Đàm tâm thư quán vi ngôn kỉ,
Phân thủ đô môn bách cảm tinh.
Hùng tản thao đà thiên cổ tráng
Vị ưng chính khí nhật trầm huynh".
Dịch:
Cuối đời lại được quý quan khanh,
Xem xét biên cương cuộc viễn hành.
Khắp chốn non xanh in tóc bạc,
Một đời trúc cứng bạn tiên sinh.
Chuyện trò thư quán lời khôn hết,
Từ biệt đô môn biết mấy tình.
Hùng tản thao đà ngàn thuở tráng,
Khí thiêng không thể để trần khuynh.
Thơ trong tập Lưu lãm của Nguyễn Văn Siêu, phần lớn là thơ làm về bạn bè, nhưng chủ yếu là bạn bè đang làm quan, khung cảnh là ở kinh đô Huế. Bởi vậy, tìm hiểu về không khí quan trường và phong cảnh cố đô Huế đương thời, tập Phương Đình lưu lãm thi có thể tính là tư liệu tham khảo sinh động; tất nhiên, tập thơ này có giá trị trước hết về phương diện văn học, văn hóa.
4. Mạn hứng tập đây là tập thơ tùy hứng mà Nguyễn Văn Siêu làm chủ yếu với bạn bè ở Hà Nội. Tập thơ này có 325 bài thơ. Mở đầu là bài Thừa chu yết Định tỉnh, nhân dĩ trung thu, Ngô Dương Đình dữ Tô Thúc Nho lưỡng gia tử nữ hôn lễ, Dương Đình dĩ thi lai cố yếu, toại lưu thưởng tiết kiêm phúc dĩ tặng. (Đi thuyền vào gặp Niết đài ở Nam Định, nhân dịp tết Trung thu, Ngô Dương Đình và Tô Thúc Nho làm lễ thành hôn cho trai gái hai nhà, Dương Đình gửi thơ cố mời nên ở lại chơi tết, làm thơ này để tặng lại).
Phóng lãm Đằng xuyên nhập Vị Xuyên
"Lưỡng thành yên hỏa nhất hồ thiên
Bất lao thử dạ sầu vô nguyệt
Thử dạ kim thu lạc hữu liên
Úy ngã hoàng trì sờ giải giáp
Xân nhan thi tận phục thôi kiên
Hữu gia hữu thất tư hà hoạn
Tảo dĩ Cam đường tục thử thiên".
Dịch:
Xuất phát Đằng Xuyên tới Vị Xuyên
Hai thành khói lửa một trời liền.
Buồn chi tối đến trăng không sáng,
Phấn chấn thu nay được mùa màng.
Trong buổi loạn li vừa mới ổn,
Vào ngày thơ họa lại dấy lên.
Có nhà có cửa sao trăn trở,
Sớm nối Cam đường viết tiếp thêm.
Cuối tập là bài Hải thiên thu hứng; kì tam (Hứng thu trời tiếp biển, bài thứ ba):
"Đoàn phiến tuy thu thử bất tàng,
Phổ y tần điển bệnh tương phương.
Hồn vong nhạn tín lai viên hỏa,
Yếm kiếm loan thanh thoại đoản trường.
Hương thủy lưu quy minh hải khoát
Tùng sơn khí áp viễn phong thương.
Nhàn lai cách hữu đăng cao hứng,
Băng định phồn ưu lưỡng mẫn hương”.
Dịch:
Quạt gấp vào thu vẫn chửa rời,
Áo khăn mà bệnh vướng thêm thôi.
Muốn quên tin nhạn đưa nồng nực,
Ghét thấy oanh kêu tiếng ngắn dài.
Hương thủy chảy về nơi biển rộng,
Tùng sơn khí chạy với non ngoài.
Khi nhàn muốn được lên cao ngắm,
Rửa sạch lo phiền trắng tóc mai.
Cả bốn tập thơ là Vạn lý tập, Anh ngôn tập, Lưu lãm tập và Mạn hứng tập gồm 1077 bài thơ. Đây là con số không nhỏ đối với một nhà thơ. Thơ Nguyễn Văn Siêu có nội dung phong phú, tình cảm chân thực, sâu sắc, ông lại học rộng, viết giỏi như câu phê của vua Tự Đức "phú học, công thi" như tựa Vạn lý tập mà Trương Đăng Quế viết. Tùng Thiện Vương Miên Thẩm khen thơ Nguyễn Văn Siêu là:
"Lăng vân lão bút khí phiêu phiêu,
Thi thảo do ưng nhiến mãn biều".
Nghĩa là:
Khí bút già dặn cao trên tầng mây vời vợi,
Bài thơ mới làm nên kèm bầu rượu đầy”.
(Ký Nguyễn Phương Đình)
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm trong bài Hoài Nguyễn Phương Đình Học sĩ (nhớ Học sĩ Nguyễn Phương Đình), Cao Bá Quát trong bài Phục giản Phương Đình (lại đưa thư cho Phương Đình). Cho đến Ngô Thế Vinh, Chu Doãn Chí… và nhiều nhà thơ, học giả đương thời đã đánh giá cao tác phẩm, tác giả Phương Đình.
Thơ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu ngoài số hơn một ngàn bài trong bốn tập thơ nói trên, chúng ta còn thấy thơ ông trong các tập văn, trên trang trí nhà thờ ở quê làng Lủ(2)… Nhưng cho đến nay, ngoài một số tác phẩm văn xuôi mới được dịch(3), thơ Nguyễn Văn Siêu được dịch nhiều nhất có lẽ chưa quá trăm bài(4), đây là lỗi của chúng ta đối với một danh nhân, một người có nhiều đóng góp cụ thể cho việc xây dựng Hà Nội(5) như cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu. Nhân dịp kỉ niệm 1000 năm lịch sử Thủ đô, chúng tôi nghĩ nên có sự giới thiệu thỏa đáng về tác phẩm, tác giả Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, có thể trích tuyển thơ Nguyễn Văn Siêu viết về Hà Nội, và đặc biệt, nên có kế hoạch dịch toàn bộ Phương Đình thi loại(6); làm được vậy là đóng góp thiết thực cho lễ kỉ niệm lớn và cũng là để đáp tạ công lao của cụ Phương Đình đối với Thủ đô, trả lời sự trăn trở của nhân dân:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn.
Đài nghiên tháp bút chưa mòn,
Hỏi ai xây dựng nên non nước này?
(Ca dao)
Chú thích:
(1) Kim Lũ Nguyễn thị chính phả hiện do ông Nguyễn Tự Huy, Đạo diễn điện ảnh, hậu duệ cụ Nguyễn Văn Siêu cất giữ ở nhà thờ Đại Kim, Hà Nội.
(2) Chúng tôi đã về dập, sao chép được phần lớn.
(3) Phương Đình tùy bút lục, Trần Lê Sáng dịch, Nxb. Văn học, H. 1996.
Phương Đình văn loại (Hà Nội văn vật); Trần Lê Sáng dịch; Nxb. Văn học, H. 2001.
(4) Thơ Nguyễn Văn Siêu thường mới chỉ được dẫn trong một số bài viết hoặc sách lịch sử văn học; chỉ có tập sách nhỏ Nguyễn Văn Siêu, thi ca và tiểu sử của Nguyễn Như Thiệp, Nguyễn Văn Đề soạn; Nxb. Tân Việt, H. 1994 là sưu tầm, dịch được 52 bài.
(5) Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có công trùng tu cụm di tích đền Ngọc Sơn ở Hồ Hoàn Kiếm; Cụ là Thành hoàng đình Giáp Giang Nguyên, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
(6) Ông Nguyễn Tự Huy, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Siêu có viết cho chúng tôi một bức thư nhan đề: "Thư nhờ cậy và ủy nhiệm", ủy nhiệm cho chúng tôi giới thiệu và quyền dịch toàn bộ Phương Đình thi loại. Nhân đây, chúng tôi mong được mọi người giúp đỡ và xin mời người quan tâm đến thơ Phương Đình hợp tác./.
Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (78) 2006; Tr.3-9
Trần Lê Sáng


HOÀNG MINH TIẾN * NGUYEN HAM NINH

Chân dung văn học: Nguyễn Hàm Ninh
15:07 | 07/12/2012
HOÀNG MINH TIẾN

Nhắc đến các bậc danh nhân văn chương triều Nguyễn không ai không nhớ câu truyền tụng: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Thế mà cả Tùng Thiện Vương và Cao Bá Quát đều rất quí trọng tài năng thơ Nguyễn Hàm Ninh(1).

Chân dung văn học: Nguyễn Hàm Ninh
Khu lăng mộ Nguyễn Hàm Ninh - Ảnh: internet



Nhận xét nhiều bài thơ trong tập "Tĩnh Trai thi tập" của Nguyễn Hàm Ninh, Tùng Thiện Vương phê: "Thạnh Đường duy trứ, bách độc bất yếm" (Một bài thơ hay đời Thịnh Đường sót lại, đọc trăm lần không chán) còn Cao Bá Quát thì phê: "Phi thiện học Thiếu Lăng yên đắc linh diệu nại dư?" (Nếu không phải đã học được tài thơ của Đỗ Phủ thì làm sao mà linh diệu được đến thế?). Tài thơ là cái duyên để các cụ liên kết và tìm đến nhau, nhưng tình thơ, tình đời, tình người mới là cái cốt để các cụ tâm đầu hợp ý, "đồng bệnh tương lân".
Nguyễn Hàm Ninh là một con người thông minh, vui tính và hay đùa nghịch. Từ lúc còn nhỏ thiên tư ấy của cụ đã được bộc lộ khá rõ. Người ta kể rằng: Lúc cụ mới lên tám tuổi, một hôm có người bà con mang đến cho mấy chiếc bánh, cụ thân sinh nói đùa: Trong nhà hễ ai lớn hơn cả thì được. Nguyễn Hàm Ninh bèn hỏi lại: Thế thầy tuổi gì? Tuổi Mùi - Thế mẹ tuổi gì? Tuổi Thân. Nguyễn Hàm Ninh cười một cách tự tin và nói: Thế là cái bánh thuộc về phần con. Vì con tuổi Thìn, mà Thìn đã rồi mới đến Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân chứ!(2).
Một lần khác khi gia đình cụ đã dời về làng Trung Thuần, trong làng có một người bà con đi cưới vợ ở Thượng Sơn, cụ cũng được mời đi. Qua bến Kênh Kịa (3) Nguyễn Hàm Ninh đi sau, tự nhiên thấy cả đoàn người đứng sững lại, rồi có người ở phía trước đem đến một câu đối, cụ liền chạy lên trước, thấy các bậc đàn anh đang ngơ ngác trước mảnh giấy hồng rải trên một cái hương án mà người ta đặt chắn ngang đường để đòi nộp cheo, Nguyễn Hàm Ninh vội vàng cầm lên xem, nội dung câu đối là: "Chân giậm, tay mò bơn - Cá lờn bơn hói kia", biết câu đối ra lởm cụ cũng nhanh trí đối lởm lại: "Má kề, miệng ngậm bống - Cá bống khe Dang". Thật là một sự thông minh ứng xử tuyệt vời.
Bản tính nghịch ngợm, thông minh sẵn có góp phần tạo nên bản lĩnh và nhân cách trong con người cụ. Năm 1836 cụ đồ Nguyễn Hàm Ninh được Minh Mạng vời ra làm Quốc học độc thư. Năm 1838 khi đổi qua Tôn Nhơn phủ chủ sự, một lần trông thấy hai câu đối sơn son thiếp vàng trên điện Thái Hòa:
"Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân"
(Con thừa được nghiệp cha, tôi trả tròn ơn chúa)
Cụ không ngần ngại gì mà lấy bút phê vào bên cạnh rằng: "Tối hảo, tối hảo! Cương thường điên đảo" (hay tuyệt, hay tuyệt, song cương thường ngược hết!). Khi Minh Mạng phát hiện được, triệu Nguyễn Hàm Ninh vào tra hỏi thì cụ thản nhiên và đáp rằng: Chỉ vì chữ "Tử" đứng trước chữ "Phụ", chữ "Quân" nằm sau chữ "Thần". Minh Mạng bắt cụ chữa lại, cụ liền đọc:
"Phụ nghiệp tử năng thừa
Quân ân thần khả báo.
(Nghiệp cha con thừa được, ơn chúa tôi trả tròn).
Chỉ thay đổi vị trí của mấy chữ thôi mà ý tứ câu đối sáng sủa hẳn lên. Minh Mạng thấy thế thì lấy làm thỏa mãn và tha tội "phạm thượng" cho cụ.
Chưa hết, năm 1847 nhân sự kiện vua Thiệu Trị băng hà, rồi Tự Đức đăng quang. Lẽ ra ngôi báu này phải thuộc về Hồng Bảo (anh ruột Tự Đức) nhưng vì một lý do riêng, khi gần nhắm mắt Thiệu Trị lại truyền ngôi này cho Tự Đức (Hồng Nhậm). Sau đó Hồng Bảo bị giam đến chết vì âm mưu liên lạc với Pháp, lật đổ ngôi vàng của em. Cảnh nồi da xáo thịt, anh em giết hại nhau chỉ vì ngôi báu ấy đã làm cho Nguyễn Hàm Ninh chán nản, buồn rầu. Một hôm nhân khi Tự Đức ăn cơm vô ý cắn răng vào lưỡi lại còn ra đầu đề xướng họa cho các thi nhân, Nguyễn Hàm Ninh thừa dịp đó làm ngay mấy câu có ý ám chỉ việc Tự Đức giết anh:
"Thuở Bác (lưỡi) sinh ra chú (răng) chửa sinh
Tự sinh ra chú, bác làm anh
Tâm can từng lúc cùng san sẻ
Cốt nhục đang tâm nghiến đứt tình"
(4)
Tự Đức nghe thơ biết Nguyễn Hàm Ninh muốn lên án mình nhưng không có lý gì để hạch tội Ninh nên phải ngậm bồ hòn mà khen thơ hay.
Sinh thời cùng một năm với Cao Bá Quát (1808) bản tính của hai cụ có nhiều nét giống nhau. Đó là cái tính ngang tàng, phóng túng và sẵn sàng châm chĩa lại triều đình những lúc có thể châm chĩa được. Tuy chưa có được thế mạnh như Cao Bá Quát nhưng Nguyễn Hàm Ninh cũng đã thể hiện rõ nhân cách của mình. Điều cần nói thêm là bên cạnh cái tinh nghịch có phần ngang tàng ấy, những ngày làm quan ở Huế Nguyễn Hàm Ninh còn là người đa tình đa cảm. Mối tình thơ và tình đời của cụ với ba cô công chúa hay thơ em gái Miên Thẩm, đặc biệt với bà Mai Am đã để lại cho cụ nhiều bài thơ tình nổi tiếng(5). Con người ấy, thiên tư ấy sau này ở tuổi ngoại tứ tuần khi trở về quê cũng vẫn tinh nghịch để rồi còn "Say rượu Kịa lại mơ rượu Cầu" (6). Thông minh, vui tính và hay đùa nghịch là điều dễ thấy ở Nguyễn Hàm Ninh, nhưng điều đó mới là một phần của con người cụ. Phần nữa đáng chú ý hơn là một Nguyễn Hàm Ninh với những tâm sự u buồn, chua xót trước thời vận của nước nhà và cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ mà nhà thơ có dịp được chứng kiến. Sinh thành trong một gia đình nông dân nghèo túng trên mảnh đất Phù Kinh quanh năm đói khổ, ngay từ những ngày còn nhỏ Nguyễn Hàm Ninh đã có một tình thương đồng loại khá sâu đậm. Sau này khi đã trở thành một ông quan, Nguyễn Hàm Ninh vẫn sống trong sự nghèo thiếu. Trong sáng tác của mình, ông đã than thở: "hai mươi năm làm quan chỉ mua được một chữ nghèo (Nhất Bần). Làm quan có trăm thứ lo, trong đó có cái lo vì "Vợ con đợi gạo khóc" (Thê na đãi mê khấp), có trăm nỗi buồn nhưng điều đáng buồn hơn của nhà thơ là nỗi buồn của kẻ làm tôi mà không can gì được vua, làm quan mà không ích gì được cho dân". Đọc lại những vần thơ tâm sự của cụ chúng ta càng có dịp hiểu thêm con người ấy, tâm sự ấy, nhân cách ấy:
"Trong mưa tàu chuối khóc
Ngọn nến đóa mai cười
Đêm đỗ đặt lưng ngủ
Giường cao ôm bụng ngồi"
Nguyễn Hàm Ninh đặc biệt yêu thương và cảm thông với người nông dân lao động nghèo khổ. Những câu thơ Nguyễn Hàm Ninh viết về người dân lao động bao giờ cũng thể hiện rõ tình cảm và trách nhiệm của mình:
"Trời nung nấu gay gắt
Hoàng Hà nước đục ngầu
Hạn hán kéo dài mãi
Nông dân biết tính sao?
Cầu cúng không tin cậy
Ai tả nỗi dân đau
Các quan chính là kẻ
Làm ra hạt mưa rào"
(7)
Câu hỏi nhà thơ nêu ra đồng thời cũng là nỗi đau day dứt đi suốt cuộc đời ông. Căm tức, uất hận trước những điều chướng tai, gai mắt của xã hội lúc bấy giờ, nhiều khi Nguyễn Hàm Ninh đã muốn: "Gẫm nhân tình gươm rít muốn reo lên" và những ngày cuối đời, về sống ở quê "gươm rít" ấy đã lại "reo lên" qua bản "Phản Thúc ước" (8) đầy tính chiến đấu. "Phản Thúc ước" chính là tiếng "réo lên" cào xé bộ mặt thật của bọn quan lại ăn bám bất lương trên quê hương nhà thơ, đồng thời nó cũng là tiếng réo chung tố cáo một xã hội đầy rẫy sự bất công vô lý mà một người có lương tâm như Nguyễn Hàm Ninh không thể nhắm mắt vô tình.
Yêu thương xót xa trăn trở cùng nỗi khổ của người dân quê, Nguyễn Hàm Ninh còn luôn lo lắng đến thời vận của nước nhà. Tình yêu con người trong lòng nhà thơ lúc nào cũng tràn đầy (bài Cẩm sự). Có điều yêu thương nhưng không bi lụy. Nguyễn Hàm Ninh vẫn tìm ra nơi để gửi gắm niềm tin vào nước non này:
Mùa xuân đứng trên núi Lệ Sơn trông xa
Ở nơi đồn thú binh cũ, khói mây dày đặc sau trận mưa đêm trước.
Hoa núi khắp nơi, bao quanh thân áo ta
Ánh chiều trên nghìn ngọn núi, chiếu qua đồng đội,
mây nổi ngoài muôn dặm cuốn khắp trời xanh
Núi sông nước Nam quyết không thể xoay chuyển
Giặc cướp phương tây muốn làm trò trống gì?
Dường nghe trên chín bệ đã cất nhắc vị đại tướng
Hằng ngày mong mỏi trông thấy Cam Tuyền báo tin thắng trận
(9)
Một con người luôn trăn trở vì vận nước, luôn day dứt vì cuộc sống của dân nhưng giữa thời buổi loạn ly lúc bấy giờ Nguyễn Hàm Ninh không thể thực hiện được ước muốn của mình. Tất cả sự căm giận ấy nhiều khi nhà thơ để bật ra lời nói, ở câu đối, ở thơ văn với những lời lẽ và ý tứ sâu sắc. Nhưng cũng chính vì cái tính ngang tàng ấy mà bọn nịnh thần ngu dốt đã tìm mọi cách để gán tội cho cụ và đẩy cụ ra khỏi chốn cung đình. (Lần đầu vào năm 1840). Có điều thật lạ, tuy bị gán ép, bị đày đọa nhưng dường như không bao giờ Nguyễn Hàm Ninh tỏ ra bất lực, lép vế. Trái lại, qua mỗi lần sóng gió như vậy chí khí trong con người cụ lại trào sôi hơn, mạnh mẽ hơn. Bài thơ "Tức sự" cụ viết trong những ngày ở quê sau khi bị Minh Mạng cách chức lần đầu (1840) không chỉ bộc lộ tâm sự của một thi nhân trước cảnh vật, cây cỏ và thiên nhiên quê nhà mà nó còn là lời thách đối với thời cuộc
Đồi bên kia suối suối bên đồi
Phú quí nên xưa có một chồi
Mây sớm dậy trời bay cửa trước
Chim hôm về tổ ruỗi thành ngoài
Cửa vườn cá ruộng nhờ lộc đất
Cơm tương canh lẻ trẻ dáng người
Lui được ngày nào ngày ấy khỏe
Cười ai, ai hỡi chớ cười ai?
Một con người khảng khái, giàu bản lĩnh như cụ thời bấy giờ kể ra cũng không nhiều lắm. Chính vì vậy sự bất đắc dĩ lắm cụ phải tạm lánh mình, còn bao giờ Nguyễn Hàm Ninh cũng ưa hoạt động với một mong muốn tha thiết là làm sao cho dân đỡ khổ. Nhà thơ chưa bao giờ có ý định trốn chạy thực tại, dẫu thực tại đó nhiều khi hết sức cay đắng. Chứng cớ là sau bao lần bị cách chức đày đi đây đó nhưng lúc nào được nhà vua phục chức trở lại làm việc cụ đều sẵn sàng. Đương nhiên điều mong ước của nhà thơ chưa thể nào thực hiện được trong điều kiện hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Nỗi buồn của cụ Nguyễn Hàm Ninh trong những ngày làm quan ở Huế là nỗi buồn của kẻ làm tôi mà không can gì được vua, làm quan mà không ích gì được cho dân. Bi kịch cuộc đời của cụ và cũng là bi kịch của lớp nho sĩ có nhiệt huyết như cụ phải có một khoảng thời gian gần một thế kỷ sau mới được giải phóng. Cao Bá Quát bạn thơ thân tình và người sinh thời cùng tuổi với cụ đã gửi gắm tất cả nỗi niềm tâm sự qua bài thơ "Tiễn biệt", có lẽ đó cũng là tâm sự cuộc đời của lớp nhà nho yêu nước lúc bấy giờ mà bây giờ đọc lại chúng ta chỉ còn biết cảm thông cùng họ:
"Lênh đênh bèo bọt phận đôi ta
Sùi sụt vì ai lúc bước ra
Bóng kính bao hề rời hạc một
Ngấn mày sao nỡ dứt non xa
Tanh rình mùi máu hàng thư hận
Say ngấy hồn hoa chén rượu đưa
Rồi nữa mỗi người thành mỗi ngả
Mịt mù mưa gió biết đâu là...
Vào những năm cuối đời về quê ở Quảng Lưu (huyện Quảng Trạch), Nguyễn Hàm Ninh vẫn tiếp tục viết văn, làm thơ. Nội dung các tác phẩm thơ, văn, mà tiêu biểu là bản "Phản Thúc ước" tiếp tục chủ đề tố cáo sự tàn ác vô lương của bọn cường hào sâu mọt ở nông thôn và cảnh sống khổ cực của người dân lao động. Nguyễn Hàm Ninh cũng giành thời gian lâu lâu lại vào Huế thăm Miên Thẩm, thăm các bạn thơ và ra Nghệ An, Thanh Hóa để hiểu rõ hơn chuyện thời cuộc, chuyện đời...
Tìm hiểu thơ văn và cuộc đời của Nguyễn Hàm Ninh chúng ta lại nhớ về một nhà thơ thông minh, vui tính, ham đùa nghịch, một nhà thơ dường như suốt đời nghèo túng nhưng rất mực yêu thương dân.
Huế, 11-1986
H.M.T
(SH24/4-87)
-----------------
1. NGUYỄN HÀM NINH (1808 - 1867) tự là Thuận Chi, hiệu Tĩnh Trai, người làng Phù Kinh (nay là Phù Hóa) sau dời đến làng Trung Ái (nay là Trung Thuần), phủ Bình Chánh (huyện Quảng Trạch), tỉnh Quảng Bình. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ, sau nhờ một người cô không con nuôi ăn học. Đậu giải nguyên năm 23 tuổi (tức năm Tân Mão 1831). Đời làm quan của ông thăng giáng nhiều, một lần bị Minh Mạng cách chức (năm Canh Tý 1840 tức năm Minh Mạng thứ 21). Một lần đang làm Án sát tỉnh Khánh Hòa (1846) bị thuyền buôn lừa bắt chở sang Trung Quốc, khi trở về bị triều đình cách chức lần nữa và đày vào Đà Nẵng sung quân. Sau đó một thời gian ngắn được phục chức rồi làm trước tác Viện Hàn lâm và một lần nữa lại bị cách chức. Ông là bạn thân của Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương. Về sáng tác còn để lại hai tập thơ "Nhâm Sơn thi tập" và "Tĩnh Trai thi sao", một bài văn tứ lục chữ nôm, "Phản Thúc ước" và nhiều bài ca trù khác.
2. Theo "Đời tài hoa" bản chép tay, mùa thu năm Mậu Ngọ 1878 Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên trang 4.
3. Kênh Kịa: Một địa danh thuộc thị trấn Ba Đồn ngày nay.
4. Sinh ngã chi sơ nhữ vị sinh
Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh
Trân tu tằng kỷ đồng cam khổ
Khiết chỉ hoàn vong cốt nhục tình.
(Bản dịch của Nguyễn Văn Đề - s.đ.d. trang 24)
5. Xem thêm "Mối tình trong những lời thơ ấy" (Lương An - Sông Hương số 6).
6. Ngoài vợ chính của cụ ở làng Tô Xá (sinh được ba trai, hai gái), cụ hỏi thêm một bà người Kẻ Kịa. "Còn mơ rượu Cầu" ý là cụ còn muốn ghẹo thêm cô đào người Kẻ Cầu (Kẻ Cầu và Kẻ Kịa là hai nơi nổi tiếng rượu ngon trong phủ Quảng Trạch).
7. "Thơ tức sự gửi các bạn" Tập tuyển thơ văn Việt Nam 1858 - 1920 Nhà xuất bản Văn học - Hà Nội 1984 trang 151, 152.
8. "Phản Thúc ước" Nguyễn Hàm Ninh viết nhằm chống lại bản "Thúc ước". Theo tục lệ trước kia ở nông thôn hàng năm thường có lễ tế thần. Trong lễ tế ấy người ta đọc một bài văn gọi là Thúc ước. Nội dung nhằm khuyên răn dân làng giữ thuần phong mỹ tục, sống yên phận thủ thường mà thực chất là khuyên họ nhẫn nhục chịu sự bất công trong xã hội.
9. Lệ Sơn: Tên một dãy núi phía tây huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ở đây thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn có lập đồn binh canh phòng. Cam Tuyền: Tên một dãy núi ở Thiểm Tây (Trung Quốc), trên núi có cung Cam Tuyền của Nhà Hán đời Hán Văn Đế; Hung nô xâm lấn Trung Quốc khói lửa suốt từ núi Cam Tuyền tới Trường An.
(Chú thích của Lê Thước - s.đ.d trang 149).


TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ






Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865), tự: Diên Phương, hiệu: Đoan Trai, biệt hiệu: Quảng Khê; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu TrịTự Đức trong lịch sử Việt Nam. Trong 43 năm làm quan, có 20 năm ông giữ trọng trách lớn (có hai lần nhận di chiếu tôn phò vua mới). Ngoài ra, ông còn là nhà thơ, nhà sử học, là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện VươngTuy Lý Vương.


Mục lục

Thân thế

 

 

Trương Đăng Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi [1].
Tiên tổ của ông là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Lê Hy Tông thứ 10 (1622), tổ đời thứ sáu là Trương Đăng Trường vào Nam, làm quan đến Cai quản, tước Nham Lĩnh bá. Nhân thế, ông Trường làm nhà ở tại làng Mỹ Khê.
Trải qua bốn đời truyền nối làm quan, đến đời cha ông Quế là Trương Đăng Phác, làm Tri phủ cho triều Tây Sơn. Vợ ông Phác là bà Đỗ Thị Thiết, sinh hạ được 8 người con (4 trai, 4 gái), trong đó Trương Đăng Quế là người con thứ 5.

Sự nghiệp

Làm quan trải bốn triều

Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế có tiếng văn hay. Năm 1801, khi ông lên tám tuổi, thì cha mất. Tuy nhiên, nhờ chăm học, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân, đây là học vị cao nhất lúc bấy giờ). Theo sử Nguyễn thì ông chính là người "đầu tiên" ở Quảng Ngãi đạt được học vị này [2].

Dưới triều Gia Long, Minh Mạng

Ban đầu, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Biên tu. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Hữu Thận lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được cử lên và được dùng[3].
Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Thị độc sung Tán Thiện (1826), Thượng bảo thiếu khanh quản lý phòng văn thư (1828), Thị lang bộ Công sung làm việc ở Nội các (1830); lại đổi sang bộ Lễ sung chức khảo trong kỳ xét hạch giáo chức các tỉnh tại Quốc Tử GiámHuế (tháng 6 năm 1830).
Năm 1831, vua Minh Mạng sai ông đi Bắc Thành điểm ngạch sổ binh, khi về được nhắc lên Tham tri bộ Hộ kiêm quản Vũ khố, sung chức Độc quyển thi trong kỳ thi Đình. Tiếp theo, thăng ông lên làm Thượng thư bộ Binh, kiêm giữ ấn triện viện Đô sát, sung Cơ mật viện đại thần.
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống NguyễnGia Định. Là Thượng thư bộ Binh, Trương Đăng Quế lo trù tính phương cách đối phó. Đến tháng 7 năm 1835, cuộc nổi dậy này bị đánh dẹp, xét công, ông được thưởng hàm Thái tử thiếu bảo, sung Chủ khảo kỳ thi Hội.
Đầu năm 1836, nhà vua chọn ông làm Kinh lược đại thần đi kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Hoàn thành tốt công việc, ông được khen và được thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện, nhưng vẫn coi giữ bộ Binh.
Khoảng thời gian ấy có Quách Tất Công và Quách Tất Tại, sau khi bị đánh thua trong cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở vùng Hòa Bình, lại tôn phò Lê Duy Hiển khởi binh chống NguyễnThanh Hóa. Quan quân đánh dẹp mãi không xong. Thấy vậy, Trương Đăng Quế bèn xin đi, được vua sung chức Kinh lược sứ tỉnh Thanh Hóa (cuối năm 1836). Thắng trận trở về, ông được gia thưởng Kỷ lục quân công (1837). Cũng trong năm này, ông được cử quản lý Khâm thiên giám.
Năm 1838, cho ông kiêm coi Quốc tử giámHuế, lại sung làm Chủ khảo kỳ thi Hội và Độc quyển kỳ thi Đình.
Năm 1839, tấn phong ông là Tuy Thịnh nam, sau lại kiêm giữ ấn triện bộ Lễ.
Năm 1840, sung ông chức Tổng lý coi việc làm lăng của vua. Cũng trong năm này, ông nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn phò Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) lên ngôi.

Dưới triều Thiệu Trị

Thiệu Trị năm đầu (1841), nhà vua chuẩn cho Trương Đăng Quế làm Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh, kiêm Cơ mật viện, kiêm sung chức Tổng tài ở Quốc sử quán.
Năm 1842, nhà vua đi tuần ra Bắc, sung ông làm Ngự tiền đại thần. Khi về, nhà vua tấn phong cho ông tước tử, và thưởng một đồng kim tiền hạng nhất.
Năm 1844, vì có bệnh, Trương Đăng Quế xin phép nghỉ. Trong khoảng thời gian này, ông xin bổ dùng con cháu của Mạc Thiên Tứ, được vua nghe theo.
Năm 1846, nhà vua gả con gái là An Mỹ công chúa cho con trai ông là Trương Đăng Trụ.
Năm 1847, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế lên tước Tuy Thạnh bá, và cho khắc tên vào cỗ súng lớn có tên là "Bảo đại định công" (cỗ thứ nhất). Tháng 9 năm này, lại sung ông làm Phụ chính đại thần, nhận di chiếu tôn phò Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức Tự Đức) lên kế vị.

Dưới triều Tự Đức

Sau khi lên ngôi, Tự Đức phong ông làm Công chính điện đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), bắt đầu đặt viện Tập hiền, Trương Đăng Quế được cử làm Kinh diên giảng quan.
Tháng Giêng năm sau (1850), ông nhận mệnh đi duyệt binh. Kỳ đại kế [4] năm ấy, ông được vua ban thưởng một kim khánh có khắc 4 chữ "Tam Triều Thạc Phụ".
Năm 1853, nhà vua lại sung ông làm Chánh sứ Bắc Kỳ hà đê. Sau khi đi kinh lý miền Bắc trở về, đề xuất việc sửa sang đê điều, đều được nhà vua nghe theo. Sau đó, lấy cớ sức yếu, ông xin thôi việc, được vua chấp thuận và cho giữ nguyên phẩm hàm. Nhưng chỉ được ít lâu, thuận theo lời tâu của các quan đứng đầu sáu bộ, nhà vua lại triệu ông vào triều tiếp tục giữ bộ Binh. Năm 1855, Trương Đăng Quế xin về hưu, nhưng nhà vua không cho.
Tháng 7 (âm lịch) năm 1858, có 12 chiếc tàu Pháp đến bắn phá các bảo đài ở cửa Hàn (Đà Nẵng, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam). Theo sử Nguyễn, buổi đầu ông cùng Phan Thanh Giản đều tâu là "chiến không bằng hòa". Tuy nhiên theo ông Quế, thì trước khi hòa, "cần phải giữ vững đã". Được vua cho là phải, sau đó ông nhận lệnh đi khắp Quảng Nam đôn đốc việc xây đắp đồn lũy để phòng thủ...[5]
Sau khi bị ngăn cản ở Đà Nẵng, quân Pháp kéo vào Nam, đến tháng 2 năm 1859, thì thành Gia Định bị đối phương đánh hạ. Thấy quân xâm lược cứ lấn tới, mà mình thì đã già không thể làm tròn trọng trách, tháng 9 (âm lịch) năm 1860, Trương Đăng Quế xin về nghỉ. Trích lời tâu của ông:
Từ người Tây dương (chỉ quân Pháp) sang đây đã 3 năm nay, thần ê mặt với các quan trong triều, vì không thi thố được một kế nào để đuổi chúng lui, thì tội (của thần) tránh sao được...(Nay thần) lại bóng dâu gần ngã, tật bệnh liên miên, hầu như sắp chết, nghĩ thẹn vì cố giữ địa vị...
Lần này, nhà vua cho ông về nhà riêng dưỡng bệnh, 10 ngày hoặc 5 ngày mới phải vào chầu một lần [6].
Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công, vì để cho "bốn cõi nhiều loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần". Vua không chuẩn cho. Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói: Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí...Nhà vua phải gượng làm theo ý ấy [7]
Sau, Trương Đăng Quế còn dâng sớ xin về hưu mấy lần nữa, vua Tự Đức mới thuận cho ông về nghỉ hẳn tại quê nhà vào tháng 3 (âm lịch) năm 1863. Mặc dù vậy, khi có việc hệ trọng, nhà vua cũng thường cử người đi hỏi ý kiến ông. Có lần, được nhà vua hỏi về việc nước, ông gửi sớ tâu 5 điều, trong đó đáng chú ý là: "Đường lối trị nước, cần ở dùng người, nhất là quan lại cấp huyện; Muốn quan thanh liêm, không gì bằng bớt viên chức đi, mà tăng lương bổng; Của dùng thiếu, tùy theo trường hợp, có thể cho phạm nhân được nộp thóc hay vàng chuộc tội",...Sớ tâu này được vua giao cho đình thần bàn bạc để thi hành [8].
Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Trương Đăng Quế lâm bệnh nặng mất ở tuổi 72. Nghe tin, nhà vua cho nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông hàm Thái sư, ban tên thụy là Văn Lượng, cho khắc trên bia mộ dòng chữ: Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lượng chi mộ (nghĩa là mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lượng).
Năm Tự Đức thứ 28 (1876), nhà vua cho thờ ông trong Thế miếu tại Huế, theo lời dụ trước đây của vua Thiệu Trị.

Điểm lược một số công lao nổi bật

Đóng góp cho văn học, sử học

Vốn có một kiến thức uyên bác, một tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ, được sử Nguyễn khen là "bình hòa điển nhã", được Phan Thanh Giản khen là: "Không có sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca" [9]. Ông có chân trong Tùng Vân thi xã (còn gọi là Mặc Vân thi xã) do Tùng Thiện Vương (là học trò và là con rể ông) làm "chủ súy".
Sáng tác của Trương Đăng Quế khá nhiều, tiêu biểu là các tập:
  • Quảng Khê văn tập (Tập văn Quảng Khê)
  • Trương Quảng Khê thi văn (Thơ văn Trương Quảng Khê)
  • Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự (Tuyển tập của tiên sinh Trương Quảng Khê)
Khi làm Tổng tài ở sử quán, ông tham gia biên soạn các bộ sử và điển lệ:
Ngoài ra, thơ văn của ông còn được chép trong các sách: Đại Nam anh nhã tiền biên (Lời hay ý nhã của nước Đại Nam, phần tiền biên), Quốc triều hàn quyển (Vườn văn của bản triều), Thi tấu hợp biên (Hợp biên các bài thơ và tấu), Thịnh thế giai văn tập (Tập văn hay đời thịnh), Thúy Sơn thi tập (Tập thơ về núi Thúy Sơn), Từ uyển xuân hoa (Hoa xuân vườn văn),v.v...
Nói riêng về thơ Trương Đăng Quế, trong sách Từ điển văn học (bộ mới) có đoạn viết:
Thơ ông khoan hòa, diễn nhã…Phần nhiều là thơ xướng họa, đáp tặng, vịnh sử, vịnh cảnh…Nhưng trước hết thơ ông vẫn là tiếng nói trung hậu, ngay thẳng của một bậc đại thần danh vọng cả về tài năng và nhân cách [10].

Lập địa bạ, đinh bạ Nam Kỳ năm 1836

Đầu năm 1836, vua Minh Mạng cho là sáu tỉnh Nam Kỳ, sau khi xảy ra sự biến thành Phiên An, việc binh đinh, điền thổ cần phải sửa sang nên chọn Trương Đăng Quế làm Kinh lược đại thần đi kinh lý Nam Kỳ, và ông đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 2 năm đó.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì chỉ trong 5 tháng, Trương Đăng Quế đã hoàn tất mọi việc, và thành công nhất là công tác duyệt tuyển và đạc điền. Ông viết:
Cuộc kinh lý năm 1836 đã giải quyết nhiều việc như duyệt dân tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chính, xếp đặt lính tráng bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định thưởng, định việc thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp,v.v…Song đáng kể hơn cả là lập được đinh bạ và đia bạ cho mỗi thôn xã ở Nam Kỳ; đối với nhà nước, thì đỡ tình trạng trốn xâu lậu thuế hay lẩn vào bưng biền để "tụ tập khởi loạn"; đối với xã hội thì "bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản". Cách làm sổ bộ đó khá chính xác. Sau này, người pháp cai trị thuộc địa cũng rất thán phục, nhất là "địa bạ", có trường hợp, đến đầu thế kỷ 20, họ vẫn lấy đó làm căn cứ để giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất.
Kết quả cụ thể của cuộc kinh lý năm 1836, là tạm thời làm chậm tình trạng phân hóa giai cấp ở nông thôn Nam Kỳ [11].

Giúp trị an trong và ngoài nước

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vua Minh Mạng thăng Trương Đăng Quế lên Thượng thư bộ Binh. Kể từ đó, ông ra sức giúp việc trị an trong và ngoài nước.
Lược kể mấy việc nổi bật theo sử Nguyễn:
  • Năm Minh Mạng thứ 14 (1833),Lê Văn KhôiGia Định, Nông Văn VânCao Bằng cùng khởi binh chống Nguyễn. Thư cáo cấp liên tục gửi về kinh. Bấy giờ "Đăng Quế ngày đêm mưu tính, các việc được đúng khớp, đến sau việc yên. Quế được thưởng gia hàm Thái tử thiếu bảo"…[12]
  • Năm 1836, khi nhận trọng trách đi kinh lược Nam Kỳ (1836), song song với việc lập đinh bạ và đia bạ cho mỗi thôn xã, Trương Đăng Quế còn xin và được chấp thuận việc đặt phủ lỵ, đồn bảo ở nơi trọng yếu để "bên trong làm phên che cho Gia Định được vững, bên ngoài làm cho tăng thêm thanh thế của Trấn Tây" (Chân Lạp)[12].
  • Cuối năm 1836, thuận theo lời xin của Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng sung ông làm Kinh lược sứ Thanh Hóa để tiễu trừ cuộc nổi dậy của Quách Tất Công và Quách Tất Tại. Đến nơi, ông cho quân đóng ở Lang Chánh rồi vừa chiêu an, vừa chia quân xây đánh. Tháng 3 (âm lịch) năm sau (1837), quan binh bắt sống được Quách Tất Tại. Đến tháng 4 (âm lịch), lại bắt sống được hai nhân vật trọng yếu của quân nổi dậy là Lê Duy Hiển (minh chủ) và Hoàng Nguyệt Đồng (quân sư, dọc đường cắn lưỡi chết). Sang khoảng tháng 5 (âm lịch) thì Thanh Hóa được yên, sau khi các viên chỉ huy quân nổi dậy bị bắt hoặc bị diệt gần hết.
Để giữ yên tỉnh Thanh lâu dài, Trương Đăng Quế xin đắp một bảo lớn (gọi là bảo Ninh Lương), đắp đồn ở động Khương Chánh và ở Trịnh Vạn...Ngoài ra, ông còn xin chia động Trịnh Vạn ra làm 2 tổng (Trịnh Vạn và Quân Nhân), đồng thời xin lấy tổng Như Lăng (thuộc huyện Nông Cống) và tổng Luận Khê (thuộc huyện Lôi Dương) làm thành châu Thường Xuân...Tất cả đều được vua y cho [13].
  • Về việc giữ yên đất Chân Lạp và vùng đất biên giới phía Nam, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có chép lời tâu của Trương Đăng Quế:
Vua (Thiệu Trị) nhân bàn đến việc Trấn Tây (Chân Lạp), Đăng Quế tâu: "Bọn thổ phỉ khởi loạn (ở Chân Lạp), cũng là do quan địa phương xử trí không khéo, không trách (bọn ấy) được...Nay Trấn Tây lui quân, thì Hà Tiên thế cô cần phải giữ được vô sự. Với Quảng Biên ruộng đất tốt màu, là bức tường che của Hà Tiên. Thần trộm nghĩ cho là không nên bỏ...[14]
Năm 1847, trong một sắc của vua Thiệu Trị, những đóng góp của ông về việc này lại được nói đến như sau:
Ta chịu mệnh trời đất Tổ khảo, cai trị nước Đại Nam. Năm trước đất miền Tây (thuộc Nam Kỳ) chưa được mở mang, thường lấy làm thẹn. Năm Ất Tỵ (1845), cất quân đi đánh nước Chân Lạp, dẹp được. Năm Bính Ngọ (1846), ta lên thọ 40 tuổi, đến 30 lần ân dụ ban ra, năm ấy nước Xiêm phục, nước Miên hàng, nộp lễ cống, chầu hầu. Năm nay (1847), tướng quân kéo về, tâu thắng trận, thôi không đi đánh, võ công cáo thành, sai công thần trông nom chế ra ba cổ súng đồng thượng tướng quân, truyền đến con cháu, giữ thứ bảo khí ấy lâu dài, không say mê tửu sắc, nghĩ làm việc mới, noi việc cũ, theo noi mưu mô công liệt, trọng văn tạp võ ức muôn năm làm mạnh nước Đại Nam ta. Vả lại, ngự ban cho cố mệnh lương thần, Thái bảo, Tuy Thạnh bá Trương Đăng Quế, trước kia vâng cố mệnh của tiên đế khi gần băng hà để lại, cùng ta trù tính việc biên cương, rồi thành tựu được võ công, giúp rập đức tốt, thực không phụ ơn tri ngộ. Vậy cho khắc vào cỗ súng thứ nhất[15].

Là thầy giỏi, là viên quan tốt

Trương Đăng Quế là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện VươngTuy Lý Vương. Các công chúa như Nguyệt Đình, Huệ Phố, Mai Am..., dù không theo học, nhưng vẫn xưng là học trò ông. Đương thời, ông được đông đảo giới trí thức lúc bấy giờ kính trọng về học vấn sâu rộng và nhân cách khiêm nhường [16].
Về vai trò của một ông quan, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có đoạn chép về ông như sau:
(Trương Đăng) Quế lúc làm quan, giữ mình khiêm tốn, chính trực, kiến văn nhiều, xử đoán khéo, trài làm quan hơn 40 năm, ngồi ở chức Tể tướng; thế mà ăn mặc giản tiện sơ sài, không khác gì lúc còn chưa làm quan, và lại có tính siêng năng như bộc sạ họ Phòng (tức Phòng Huyền Linh), có mưu trí như Ngụy Công họ Hàn (tức Hàn Kỳ), đã biết thì không điều gì không nói, đã nói thì không có điều gì không nói hết lời. Triều đình lấy làm trọng, các tiên thánh vốn vẫn chọn dùng...Các danh thần lúc bấy giờ, như Tráng liệt bá Nguyễn Tri Phương, mà vua cũng bảo là phong độ không bằng (Trương Đăng) Quế. Sau khi (Trương Đăng) Quế chết, hoàng thượng (Tự Đức) thương nhớ, triều đình lấy làm tiếc. Các hoàng thân, công chúa và sĩ phu trong ngoài đều làm thơ văn câu đối đem đến phúng. Ấy là (Trương Đăng) Quế làm cho người ta cảm mộ đến như thế...[17].
Ghi nhận công lao Trương Đăng Quế, hiện ở quận Gò Vấp thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông.

Thông tin khác

Liên quan đến việc "phế, lập"

Sau khi vua Thiệu Trị mất (1847), đình thần triều Nguyễn, đứng đầu là Trương Đăng Quế, đã đưa Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên nối ngôi theo di chiếu, lấy niên hiệu là Tự Đức. Việc "phế trưởng, lập thứ" này lập tức gây xôn xao dư luận đương thời. Người ta nghi rằng có sự mờ ám trong việc này và quy cho người gây nên mọi sự chính là Trương Đăng Quế. Từ đó nảy sinh hai nghi vấn:
-Nguyễn Phúc Hồng Nhậm chính là con ruột của đại thần Trương Đăng Quế, được đánh tráo làm con của vua Thiệu Trị, và vị đại thần này đã dùng quyền uy của mình ép nhà vua đưa Hồng Nhậm lên ngai vàng.
-Trương Đăng Quế tư thông với Thái hậu Từ Dũ, sinh ra Hồng Nhậm, nên hai người này đã tìm mọi cách đưa Hồng Nhậm lên kế vị.
Hai luồng dư luận trên, có lẽ, xuất phát từ một loạt các sự kiện liên quan đến việc tranh giành quyền lực giữa hai anh em là Nguyễn Phúc Hồng Bảo (con trưởng nhưng không được nối ngôi) – Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, và sự can thiệp của Trương Đăng Quế để bảo vệ ngai vàng của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), dẫn đến việc Hồng Bảo "nổi loạn" vào năm 1851, bị vua Tự Đức tống giam và chết trong ngục thất vào năm 1854; và việc Đoàn Hữu Trưng cầm đầu "Loạn Chày vôi" vào tháng 9 năm 1866, âm mưu lật đổ vua Tự Đức, đưa con trai của Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngai vàng, nhưng đã bị thất bại. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản bác các lời đồn đãi trên, và tìm cách chứng minh sự vô can của Trương Đăng Quế trong việc "phế, lập" của vua Thiệu Trị, và cũng không hề có chuyện dan díu giữa vị Cố mệnh đại thần này với Thái hậu Từ Dũ. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề "vua Tự Đức là con của ai?" vẫn còn là một nghi vấn [18].

Hậu duệ

Đại thần Trương Đăng Quế có 5 con trai:
-Trương Đăng Trụ lấy công chúa An Mỹ, được bổ làm Phò mã Đô úy, tập phong tước hầu.
-Trương Quang Đản lấy Ngọc Lê quận chúa, làm quan trải đến chức Phụ chính đại thần, Tổng tài Quốc sử quán.
-Trương Văn Để, được bổ làm Chủ sự, dần trải đến chức Tham tri bộ Binh. Năm 1885, ông phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, nhưng vì bệnh phải ở lại Cam Lộ. Sau vâng ý chỉ của Tam cung đưa xa giá về kinh (Huế), nên theo vua không kịp, rồi ốm chết ở Quảng Trị. Khi Đồng Khánh lên ngôi cho tước hết chức hàm của ông, đến năm Thành Thái thứ hai (1890), nhờ Trương Quang Đản dâng sớ kêu oan, nhà vua mới cho khai phục nguyên hàm.
-Trương Quang Du, được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu, rồi Thương viện tỉnh vụ Quảng Ngãi.
-Trương Quang Duyệt, được bổ làm Hàn lâm Cung phụng.
Trong số cháu của Trương Đăng Quế, có Trương Quang Chử (con Trương Quang Trụ), sau cũng lấy công chúa; và Trương Đăng Trình, là người thi đỗ Tiến sĩ "đầu tiên" của tỉnh Quảng Ngãi [19].
Đầu năm 1836, Trương Đăng Quế nhận lệnh vua đi kinh lược xứ Nam Kỳ. Trước cảnh hoang tàn của thành Phiên An, cảm xúc ông làm bài thơ:
Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm
(Cảm xúc khi lên thành Phiên An cũ)
Dịch nghĩa:
Trải xem chiến trường mà xót xa,
Một khối thành vững chắc đã gây nên mầm họa.
Nhân dân bỗng dưng gặp phải kiếp nạn,
Tướng sĩ chinh chiến dãi dầu gió bụi.
Tường đổ vách tan phá làm bờ lũy,
Kích gãy thương hư chất lại thành đống.
Đáng giận kẻ bề tôi tầm thường [20] đã làm điều sai lầm cho nước,
Nhớ lại việc đã qua, mấy phen ngậm ngùi.
(Trương Quảng Khê thi tập)
Một người bạn thân đi vào Nam để lo việc chống ngăn quân Pháp, Trương Đăng Quế làm thơ tiễn, đồng thời gửi gắm tình ý qua bài:
Tống Gia Định Phương Bá Huỳnh Kiện Trai
(Tiễn đưa Gia Định Phương Bá Huỳnh Kiện Trai)
Dịch nghĩa:
Ông với tôi kết giao đã ba mươi năm nay, chúa cũng biết,
Một đời ông ngay thẳng nên được mọi người tôn trọng.
Nay ông đi vào Nam, tôi làm thơ giãi bày nỗi buồn mùa thu,
Đông Phố [21] đang lúc thiết tha mong đợi cảnh thịnh trị.
Nơi đó đất ruộng rất màu mỡ, việc cày bừa gieo trong thuận lợi,
Nhưng nhân dân vừa trải qua nạn binh lửa, ông nên vỗ về họ.
Chính tôi từng đặt bước tới đó [22] để liệu biện công việc,
Và thấy nơi đấy phảng phất như cảnh Đào nguyên.
(Trương Quảng Khê thi tập)
Chú thích
  1. ^ Theo [1]. Nguyễn Đình Đầu ghi là "làng Mỹ Khê Tây".
  2. ^ Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 430.
  3. ^ Theo Quốc triều sử toát yếu (bản dịch), tr. 145.
  4. ^ Đại kế là kỳ xét công các quan để nghị thưởng, cứ 3 năm tổ chức một kỳ.
  5. ^ Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 446-447.
  6. ^ Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 448.
  7. ^ Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 449-451.
  8. ^ Lược theo Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 454-456.
  9. ^ Trích trong Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 464) và bài Tựạ của Phan Thanh Giản đề cho Trương Quảng Khê tiên sinh tập tự.
  10. ^ Quách Thị Thu Hiền, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1860.
  11. ^ Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I, tr. 214). Những chữ nằm trong dấu ngoặc kép được trích trong Đại Nam thực lục, tập 17, tr. 290 (ghi chú của tác giả).
  12. ^ a ă Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 431.
  13. ^ Lược kể theo Quốc triều sử toát yếu (tr. 266-269) và Đại Nam chính biên liệt truyện (tr. 433-434).
  14. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch), tr. 435.
  15. ^ Đại Nam thực lục (Tập 6). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007, trang 1040-1041.
  16. ^ Theo Quách Thị Thu Hiền, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1860.
  17. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 459 và 464.
  18. ^ Lược theo Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập thượng, tr. 13-16) và bài viết ở đây: [2].
  19. ^ Phần hậu duệ lược kể theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 464-466.
  20. ^ Chỉ Lê Văn Khôi.
  21. ^ Đông Phố, nghĩa hẹp chỉ tỉnh Gia Định, nghĩa rộng chỉ chung cả 6 tỉnh Nam Kỳ.
  22. ^ Ý tác giả muốn nhắc đến lần đi kinh lý xứ Nam Kỳ vào năm 1836.

Sách tham khảo

  • Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2004.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều sử toát yếu (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
  • Nguyễn Đình Đầu, phần Địa lý lịch sử thành phố trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập I). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
  • Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập Thượng),Sài Gòn, 1962.
  • Quách Thị Thu Hiền, mục từ "Trương Đăng Quế" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.



Danh thần Trương Đăng Quế : Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương 
 Lê Ngọc Trác


Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu Đoan Trai, Quảng Khê, xuất thân trong một gia đình nhà Nho thanh bạch. Ông sinh vào năm 1794 tại làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi (có tài liệu cho rằng: ông sinh tại làng Mỹ Lại thuộc huyện Bình Sơn, nhưng chính xác làng Mỹ Khê thuộc xã Tịnh Khê, quận Sơn Tịnh).






Ông là một người thông minh, hiếu học. Năm 1819, Gia Long năm thứ 18, Trương Đăng Quế đổ Hương tiến tại trường thi hương Thừa Thiên. Có thể coi Trương Đăng Quế là người khai khoa đầu tiên của Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn.






Minh Mạng là một vị vua thông minh, hết lòng chăm lo việc nước, sáng suốt trong việc dùng người. Dưới thời Minh Mạng những người được bổ nhiệm làm quan đều có thực tài và thực học (không câu nệ bằng cấp). Trương Đăng Quế là một người tài năng, có tầm hiểu biết rộng về chính trị, văn hoá và quân sự. Chính vì vậy, tuy Trương Đăng Quế chỉ thi đậu hương tiến, năm 1820, vua Minh Mạng vẫn mạnh dạn bổ ông vào làm hành tẩu bộ lễ. Đến năm 1831, bổ nhiệm ông làm việc ở Hàn Lâm Viện và được vua Minh Mạng phân công dạy các hoàng tử và công chúa. Ông được thăng tiến nhiều chức vụ quan trọng: Thượng Thư bộ lễ, bộ lại, bộ công và bộ binh. Năm 1833, năm 1835, Trương Đăng Quế lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược chỉ huy đánh giặc Thổ phỉ ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Hoá để an dân. Năm 1836, tiếp tục lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ. Trương Đăng Quế chỉ đạo việc đạt điền lập địa bạ công điền công thổ ở các tỉnh phía Nam tổ quốc. Và, quy hoạch, phân chia địa giới từ cấp làng, xã đến tỉnh trong toàn miền Nam, tạo cho nhân dân có cuộc sống an cư lạc nghiệp. Theo Sử gia Trần Trọng Kim: “Công cuộc kiểm tra lập địa bạ định lại việc đinh điền và thuế khoá ở Nam Kỳ vào năm 1836 đã tạo cho đất nước có bước phát triển vững chắc về kinh tế và quốc phòng. Toàn Nam Kỳ sau khi đạt điền, đã tính ra được số ruộng đất đưa vào sản xuất lên đến trên 630.075 mẫu. Các thứ thuế điền thổ cũng được định lại một cách tương đối hợp lý”. Năm 1853, ông lãnh sứ mệnh kinh lược xứ Bắc Kỳ để lãnh đạo việc đắp đê điều lo phát triển kinh tế cho các tỉnh ở phía Bắc.






Trương Đăng Quế được triều đình cử làm Chánh chủ khảo các kỳ thi Hội vào các năm 1835, 1838 và thi Đình vào các năm 1838, 1844,… nhằm tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Dưới triều Minh Mạng, ông là một đại thần của viện Cơ mật, được thăng Hiệp điện đại học sĩ. Đời vua Thiệu Trị, Trương Đăng Quế là Phụ chánh đại thần, Văn minh điện đại học sĩ. Sang đời vua Tự Đức, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được phong tước Tuy Thạnh Quận công. Trương Đăng Quế được cử làm Tổng tài ở Quốc sử quán chủ biên các bộ sách lớn của Triều Nguyễn: Đại Nam thực lực tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam hội điển toát yếu,…






Dưới thời Tự Đức, trước tình hình binh lực hùng mạnh và tân tiến của Pháp, nhiều người lo sợ, muốn giảng hoà với giặc. Trương Đăng Quế là người cầm đầu phe chủ chiến tại Triều đình, quyết tâm đánh Pháp đến cùng (năm 1861, Pháp chiếm Định Tường, Thượng thư bộ hộ Nguyễn Bá Nghi làm khâm sai kinh lý ở Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết không thể chống được quân Pháp đã dâng sớ về triều xin nghị hoà với Pháp. Trương Đăng Quế cực lực phản đối, ra lệnh cho Nguyễn Bá Nghi phải tìm mọi kế để đánh Pháp bảo vệ đất nước).






Năm Tự Đức thứ 16 (1863), sau nhiều lần xin cáo lão từ quan, Trương Đăng Quế mới được triều đình đồng ý cho nghỉ hưu. Ông trở về quê hương Quảng Ngãi sống một cuộc sống thanh bần như một người dân quê bình thường.


Trương Đăng Quế mất vào ngày 14 tháng 2 năm Ất Sửu (1865), thọ 73 tuổi. Nghe tin ông qua đời, vua Tự Đức bãi triều 3 ngày tổ chức quốc tang, ban tặng ông hàm Thái sư tên thụy là Văn Lương.


Trương Đăng Quế là một nhà thơ lớn của Triều Nguyễn.






Xuân giang khúc






Tạc dạ vũ thủy hạ


Xuân giang vi lãng sinh


Thiếp tâm hữu sở cảm


Diên ngạn tự vi hành






(Đêm qua có mưa nhỏ


Lòng sông sóng gợn mờ


Lòng em sao xuyến bấy


Ven sông bước bước hờ)






Bản dịch của Hoàng Tạo






Đọc bài ca sông xuân của Trương Đăng Quế, chúng ta nhận thấy một vị quan đại thần, một nhà chính trị kiệt xuất của Triều Nguyễn có một tâm hồn rộng mở và cũng đầy lãng mạng.


Giáo sư Vũ Khiêu đã có những nhận xét tinh tế về thơ của Trương Đăng Quế: “Thơ của ông sâu sắc về nội dung, chặt chẽ về cấu trúc, tràn đầy tình yêu và đạo lý làm người, đặc biệt là tấm lòng của ông đối với quê hương Quảng Ngãi”.






Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương






Xuân phong tống chinh nghích


Thuấn tức việt trùng ba


Lộ chỉ cố hương quá


Tinh huyền du tử đa


Không hoài Tang tử Kính


Trùng xướng Thử miêu ca


Khởi lập thuyền đầu vọng


Dao thôn ẩn nguyệt la






(Gió xuân đưa nhẹ thuyền xuôi,


Liếc nhìn theo lớp sóng dồi xa xa.


Bên đường thấp thoáng quê nhà,


Tình vương lữ xót xa can trường


Nỗi niềm Tang tử mang mang,


Thử miêu ca khúc âm vang chẳng ngừng.


Dựa đầu thuyền ngóng mông lung


Nhà thôn dần khuất theo cùng chồi cây)






Bản dịch của Giáo sư Vũ Khiêu






Bài thơ trên, Trương Đăng Quế viết khi nhận lãnh trách nhiệm kinh lược xứ Nam Kỳ. Trương Đăng Quế và đoàn tùy tùng đi bằng đường biển, thuyền của ông đi sát dọc theo Quảng Ngãi quê hương ông. Nhưng vì mệnh vua và là một người có trách nhiệm với công vụ, không thể dừng lại thăm quê nhà, đứng ở đầu thuyền, nhìn về quê nhà, Trương Đăng Quế xúc động thành thơ với tấm lòng dạt dào thương nhớ quê hương.






Trương Đăng Quế sáng tác văn học rất nhiều. Những danh sĩ cùng thời với ông như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ đều rất quý mến ông về tài học và tài thơ. Trương Đăng Quế đã để lại cho đời những tác phẩm sau đây: Thiệu Trị văn gia, Quảng Khê thi văn tập, Học văn dư tập,…






Sự nghiệp chính trị của Trương Đăng Quế gắn liền với triều đình Nhà Nguyễn trong suốt thời kỳ đất nước và triều đình phong kiến Nhà Nguyễn còn tự chủ. Trương Đăng Quế đã có những đóng góp xuất sắc với lịch sử. Nhất là trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, văn chương và học thuật.






Tài liệu tham khảo:


- Từ ngàn xưa cho đến mai sau của Giáo sư Vũ Khiêu (2005).


- Đất thiêng người tài của Trường Lưu (Văn hiến số 5 – 2005).


- Tịnh khê xã Văn hiến của Cao Chư (VHNT số 7 – 2007).


- Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.


- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Bá Thế


Nguyễn Quang Thắng (1999).


Thái sư, Tuy Thạnh Quận công Trương Đăng Quế -

  Trương Quang Cảm


. Các tham luận tại hội thảo khoa học về Trương Đăng Quế lần 1, Sở Văn hóa thông tin và thể thao, Quảng Ngãi, 1994.


2. Cao Văn Chư, Nhìn lại Sơn Mỹ, Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình, 1988.


3. Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1993.

4. Đoàn Thu Vân, Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỷ XI thế kỷ XIV, Luận án phó tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 1995.

5. Huỳnh Như Phương, Dẫn vào tác phẩm văn chương, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1986.

6. Lê Bá Hán và các tác giả khác, Tự điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1992.


7. Lê Trí Viễn, Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ X - Giữa thế kỷ XIX, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 1985.

8. Lê Trí Viễn, Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
9. Lê Trí Viễn và các tác giả khác, Lịch sử văn học Việt Nam tập 3, NXB Giáo dục, 1976.

10. Ngô Văn Chương, Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lý xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1973.

11. Nguyễn Công Trứ, Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn học Hà Nội, 1983.


12. Nguyễn Du, Thơ chữ Hán, NXB Văn học, Hà Nội, 1988.

13. Nguyễn Đắc Xuân, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, NXB Thuận Hóa, Huế, 1992.

14. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội, 1993.

15. Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển, Hội văn học bình dân Sài Gòn, 1960.


16. Nguyến Khắc Thuần, Thế thứ các triều vua Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.


17. Nguyễn Khuê, Tâm trạng Tương An Quận Vương qua thi ca của ông, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970.

18. Nguyễn Lộc, Nguyễn Du con người và cuộc đời, NXB Đà Nẵng, 1990.
19. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Đại học, Hà Nội, 1976 tập I.

20. Nguyễn Minh Tấn và các tác giả khác, Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, 1988.

21. Nguyễn Q. Thắng- Nguyễn Bá Thế, Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB KHXH, Sài Gòn, 1993.


22. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1968.

23. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Khuê, Trần Khuê, Sài Gòn Gia Định qua thơ văn xưa, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1987.

24. Nguyễn Thông, Tác phẩm Nguyễn Thông, Sở Văn hóa thông tin, Long An, 1984.


25. Nguyễn Văn Khôn, Hán Việt Từ Điển, NXB Khai trí, Sài Gòn, 1960.

26. Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh , Trương Đăng Quế cuộc đời và sự nghiệp – NXB Văn học, 2008.


27. Phạm Trung Việt, Non nước xứ Quảng tân biên, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1971.

28. Phạm Trung Việt, Khuôn mặt Quảng Ngãi, NXB Nam Quang, Sài Gòn, 1973.

29. Phạm Văn Diêu, Văn học Việt Nam, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1960.

30. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 5 (Việt Nam kháng Pháp sử), Thư lâm ấn quán, Sài Gòn 1962.


31. Phương Lựu, Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, 1985.

32. Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, NXB Nghĩa Bình, 1990.

33. Quốc Sử Quán, Đại Nam chính biên liệt trụyện, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.

34. Đại Nam nhất thống chí quyển 6, tỉnh Quảng Nghĩa, Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1964.

35. Đại Nam thực lục chính biên, quyển 28 tập 30, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.


36. Quốc triều chánh biên toát yếu, Nhóm nghiên cứu sử địa, Sài Gòn, 1972.

37. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Tân việt, 1958.

38. Trần Văn Giàu và các tác giả khác, Địa chí thành phố Hồ Chí Minh, NXB Khoa học Xã hội, 1987.

39.Trần Mạnh Thường, Các tác giả văn chương Việt nam, NXB Văn hóa thông tin 2009.


40. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân tự điển, Tu thư Siêng học, Sài Gòn, 1966.
41. Trương Quang Gia, Học văn dư tập (bản dịch)

42. Tùng Thiện Vương, Thơ Tùng Thiện Vương, NXB Thuận hóa, Huế, 1994.

43. Ưng Trình - Bửu Dưỡng, Tùng Thiện Vương, tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1970.


44.Vũ Ngọc Khánh, Mai Am công chúa, NXB Thuận Hóa, 1992.

45. Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội sử học Việt Nam, Hà Nội, 1993.


II. Tạp chí:


1. Bửu Kế, Khi viết về giặc chày vôi ông Nguyễn Quang hay tôi xuyên tạc lịch sử? Tạp chí Bách khoa số 84 - 85, Sài Gòn 1-7-1960 vài 15-7-1960.


2. Lê Trí Viễn, Một đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam: Vô ngã - Tạp chí Thông tin khoa học 1985.


3. Minh Tú - Đôi điều hiểu biết về Trương Đăng Quế, Tạp chí Toàn cảnh, số11, Tp. Hồ Chí Minh, 1992.


4. Nguyễn Quang. Minh oan Hồng Bảo và Đoàn Trưng, Tạp chí Phổ thông, số 40, Sài Gòn 15/8/1960.


5. Nguyễn Quang. Giặc chày vôi của Đoàn Trưng mưu toan truất phế vua Tự Đức như thế nào? Tạp chí Phổ thông, số 31-32, Sài Gòn 1/4/1960.


6. Nguyễn Viết Trung, Bài thơ Cù Huân Vãn Bạc trong Học văn dư tập của Trương Đăng Quế, Tạp chí Trầm hương Khánh Hòa tháng 8/1992.


7. Trúc Khê Bài tựa của Trương Đăng Quế giới thiệu Mai Am với tập thơ “Diệu Liên thi tập”, Tạp chí Văn học, số 150 ra ngày 1/7/1972 Sài Gòn.


8. Trương Quang Cảm, Chống tham nhũng dưới triều Nguyễn, Tạp chí Thế giới mới, số 52/1993.


9. Trương Quang Cảm, Minh oan Trương Đăng Quế, Tạp chí Cảo thơm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật và đời sống, số 2 /1992.


10. Trương Quang Cảm, Quảng Khê thi tập (tức Học văn dư tập) tác phẩm bị bỏ quên, Tạp chí Dân trí, số 19/1995.


11. Trương Quang Cảm, Tác phẩm Học văn dư tập Trương Đăng Quế, Tạp chí Nha Trang, số 6 -1992.


III. Bộ gia phả dòng họ Trương










MỤC LỤC






Chương I: Đời người 04


1. Quê hương 04


2. Gia đình 08


3. Bản thân 10


Chương II: Mạch thơ Mặc Vân 22


1. Tao đàn Mặc Vân 25


2. Quan điểm thơ 31


3. Các đề tài thơ 35


4. Thể thơ 50


5/ Ngôn ngữ thơ 51


Chương III: Thơ Học văn dư tập 60


1. Tấm lòng trung quân ái quốc 60


2. Tình yêu thiên nhiên đất nước quê hương 68


3. Tình gia đình 93


4. Tình bằng hữu 128


5. Tình bác ái 141


6. Nỗi niềm tâm sự 151


Kết luận 162


Phụ lục 169


1. Hà Nội hoài cổ, Thăng Long thành hoài cổ, hai bài thơ một tâm hồn 170


2. Chuyện tình lãng mạn của Thái sư Trương Đăng Quế 175


3. Nhân cách Trương Đăng Quế 186


4. Văn bia của ông Trương Đăng Quế viết cho thân sinh là ông Trương Đăng Phác 193


Tư liệu tham khảo 198









TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ, ĐỜI NGƯỜI ĐỜI THƠ


Khảo luận của Trương Quang Cảm






Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Cừ


Biên tập: Triệu Xuân, Hồng Ngọc






Trình bày: Thiên Hương


Bìa: Họa sỹ Đỗ Duy Ngọc


Sửa bản in: Chi nhánh
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC


18 Nguyễn Trường Tộ - Hà Nội


ĐT: (84.4) 3829 4685 * Fax: (84.4) 3829 4781
E-Mail: NXBvanhoc@gmail.com
CHI NHÁNH TP HỒ CHÍ MINH


290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, TP.HCM


ĐT: (84.8)3 848 3481; 3846 9858


* Fax: 3 848 3481


E-Mail: xuantrieuwriter@gmail.com


Website: www.trieuxuan.info


__________________________________________


In … cuốn, khổ 14.5 x 20.5 cm tại Xí nghiệp in ….


Số đăng ký KHXB: 1133-2009/CXB/21-125/VH. Quyết định xuất bản số 919/QĐ-VH do NXB Văn học cấp ngày 23-12-2009. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01- 2009.

No comments:

Post a Comment