Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 26 October 2016

THƠ TRẦN ĐỘ -CHIẾN TRANH HOA VIỆT

RẤT QUAN TRỌNG : NÊN BIẾT ĐỂ KHỎI BỊ PHẠT



Gửi cho mọi người đọc đừng mang phim , nhạc sao chép ( Copy ) vô nước Mỹ sẽ bị phạt nặng lắm. (Có mua thì mua ở chợ trời bên đây để khỏi bị bắt! ( Just Kidding!)






Đọc kỹ và thông báo cho mọi người biết đừng đem vô Mỹ bất cứ đồ gì bị làm giả.


Cũng nên nhắc lại, một bà Đài Loan xuống phi trường San Francisco có mang theo cái xách tay LV thứ thiệt, hải quan hỏi bóp giả hay bóp thật. Thấy đây là bóp thật mà "thằng cà chớn" nầy hỏi như vậy, làm bả giận nên trả lời: bóp giả đó, muốn xem thì xem. Nó không xem gì hết, rồi cũng đi qua, ai dè vài ngày sau, hải quan gởi giấy tờ tới phạt 150,000 USD tội mang bóp đồ giả vào Mỹ, có video ghi hình. Bà nầy khiếu nại, phải mua vé trở về Đài Loan đến tiệm bán lấy hoá đơn về trình hải quan, xong mới yên: tiền trở lại Đài Loan lấy hoá đơn tốn thêm $5000 USD. Nếu phải đi qua phi trường Mỹ, nhớ đừng quên cái đồng hồ Rolex dỏm mang trên tay: tiêu tùng đấy...


Attention: Do not bring any copied DVD to the US. Each illegal copy will be fine $10,000. Some one from China brought 25 copies of DVD to the US and was fine $250,000. If he doesn't pay the fine, he will never be again admitted to the US. He had to go home in Shanghai and sold some of his properties and pay for the fine before he can be admitted to the US.

Tin cần đọc cho những ai du lịch nước ngoài trở lại Mỹ và mang theo những đồ sao chép lậu. Mời đọc phần tin dưới đây:


Các bạn cần lưu ý, đừng mang DVD copy (lậu) vào USA, tôi xin dịch đơn giản đoạn văn sau:

Hơn một tháng trước đây, có người từ Đại Lục đem 25 bản copy DVD vào Mỹ, bị hải quan ở phi trường LAX xét được, 1 bản DVD bị phạt 10,000 đô la, tổng cộng là 250,000 đô la (khoảng 8,300.000 tiền Đài Loan). Hải quan nói nếu không nộp tiền phạt thì vĩnh viễn không được vào Mỹ.

Qua cuộc điều tra, người này có bất động sản ở Mỹ và con cái đang du học tại Mỹ, người này đã trở về Thượng Hải bán nhà cửa để thanh toán tiền phạt.

Xin quý vị lưu ý và share cho các bạn và người thân của quý vị biết (kể cả ở Canada luôn)

THƠ TRẦN ĐỘ

Một bài thơ cuối đời của tướng Trần Độ (1923-2002)






Tôi vào bộ đội, năm mười sáu tuổi
Chia tay gia đình, bố mẹ, các em
Đôi chân cứng, rong ruổi mọi miền
Lửa chiến tranh, cháy tuổi xuân năm tháng

Nhớ mãi ngày, khi tôi vào Đảng
Nắm tay thề : “ Với Tổ Quốc, Non Sông ”.
Bên cây súng đi đến ngày chiến thắng.
Mái tóc xanh, đã chuyển màu bạc trắng.

*

Thân già nua, cùng gối mỏi, chân chùng
Nhưng lương tâm, trí tuệ cứ bồn chồn
Lòng trăn trở, vấn vương, day dứt
Cao hơn hết, tôi ngẫm suy về Đảng
Như người cha, chỗ dựa của lòng tin.

*

Đi theo Đảng, đâu phải Mác – Lê nin ?
Mà chính là Tình yêu Tổ Quốc
Đến với Đảng để làm điều nhân đức
Cùng lương tâm, cống hiến cho đời.

*

Nhưng, hôm nay, đầy méo mó, cạn vơi
Thì ắt hẳn, ngày mai tràn cay đắng.
Thời gian trôi, như bóng câu qua cửa
Đảng cứ tàn dần chân lý trong tôi.

*

Đau thắt lòng ! Tôi cất tiếng Đảng ơi !
Sao lại thế : “ Mùa thu Tháng Tám ”
Vinh dự, tự hào : “ Đảng viên Cách mạng ”
Ngày qua ngày ! Nhục nhã thế này ư ?

*

Sách mấy ngàn trang, chữ mấy triệu từ
Rao giảng rất hay, việc làm thì nháo
Khi trích Lê nin, “ xúc phạm lời Bác ”
Nên thực thi, không thuyết phục được nhân tâm.

*

Nhớ ngày xưa, Đảng phải gắn với dân !
Như cá phải rúc, chui vào nước !
Đảng đề cao Nhân dân là trên hết
Nói hộ dân và nghĩ cũng hộ dân.

*

Mọi người dân, tìm chỗ để đặt chân
Đều phải bước theo chân của Đảng !
Còn hôm nay, vẫn “ vì Dân trong sáng ” !
“ Quyền lợi nhóm ”, giọng lưỡi “ Lý Thông ”

*

Nhớ tuyên ngôn, buổi đầu Cách mạng
Đảng không tham quyền chức nghênh ngang
Cách mạng thành công, cáo lão về làng
Vui thú điền viên, thung dung câu cá.

*

Hãy nhìn trông, không có ai về cả
Cố bám quyền, giành mũ áo cao sang
Bày đặt ăn chia, tài lộc khang trang
Chẳng dại gì về quê cha đất tổ.

*

Từ huyện, xã, quận, phường, thành phố
Đảng chiếm một bên, Nhà nước một bên
Bí thư thành ủy, Chủ tịch ủy ban
Hai guồng máy, đè đầu dân đau khổ.

*

Đây Sở Ngoại thương, kia Ban Kinh tế
Nội chính bên này, bên nọ Công an
Sống đàng hoàng, bao dinh sở khang trang
Một cổ hai tròng, người dân tội nghiệp

*

Đảng dậy răn : Giữ tấm lòng liêm khiết
Sao đút túi liền những triệu đô la
Tiền nước ngoài họ tranh thủ chúng ta
Người “ ăn mảnh ” là Tổng bí thư của Đảng !

*

Để mị dân, Đảng tăng cường lao động
Chức vu vơ, trừu tượng “` chủ nhân ông ”
Làm chủ ngu ngơ, nhà máy ruộng đồng
Đảng nắm chặt tiền và quyền sinh sát.

*

Thân “ ngọc ngà ” phải về với đất
Đảng chiếm giữ riêng Mai Dịch cho mình.
Rồi cho xây Hoàn Vũ rất môi sinh
Riêng với Đảng, không ai thiêu cả

*

Nơi đô thành, chạy dọc ngang đường phố
Đặt tên đường, Đảng giành giật phần mình.
Đây đường Lê Duẩn, kia đường Trường Chinh
Đường to đẹp Đảng giành phần dự trữ

*

Các tỉnh huyện, ổn định cùng lịch sử
Đảng hội vài ba điểm vào nhau
Cuộc “ đoàn viên ” chưa “ ân ái ” bao lâu
Rồi vẫn Đảng truyền ra lệnh tách.
Quá tùy tiện, Đảng làm theo sở thích
“ Khắc khắc, nhập nhập ” như trò chơi
Cuối cùng chỉ khổ sở Dân thôi
Còn ý Đảng, vẫn luôn luôn là đúng.

*

Ghế Đảng trị, quyết giữ cho bằng được
Đảng khóa xiềng vào Dân chủ, Tự do
Từ miền quê cho tới thành đô
Cấm ngôn luận, cấm tự do báo chí.

*

Đảng chúa ghét các nhà nghệ sĩ
Nhàn cư ngồi thóc mách lăng nhăng
Ai dũng cảm, đòi hỏi lẽ công bằng
Đảng biến tướng, “ chính chuyên ” bằng nhiều cách.

*

Về bầu cử Đảng tạo khuôn bằng sắt
Rất “ tự do ”, rất “ dân chủ, khách quan ”
Nhân danh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Duyệt danh sách, đưa người ra ứng cử.

*

Thế là “ nguyên khí hiền tài ” xứ sở
Đảng loại bỏ đi, rất “ khéo ”, rất “ tình ”.
Các đại biểu đều đồng chí của mình
Chẳng ai dám chỉ danh, xung khắc.

*

Quốc hội diễn trò, điều trần vấn đáp
Như chuyện xưa “ Bài thơ Con cóc ”
“ Con cóc nhảy ra, con cóc nhảy vô ”
Bầy cơ hội, cùng ra sức điểm tô !

*

Sáng đúng chiều sai, mai lại đúng !
Chống chân lý bằng lưỡi lê họng súng.
Đảng trượt theo vết xe đổ ngày xưa
Chuyện nghĩa tình chỉ “ sớm nắng chiều mưa ”.
Từ “ Đồng chí ” là mỹ từ vô nghĩa !
Đảng thấu không, dòng đời đang mai mỉa
Đảng lộng hành, đạp Dân Chủ dưới chân.

*

Nhớ một thời Đảng chiến đấu vì Dân.
Dân tộc đã nghiêng mình kính trọng.
Rồi gặp được khi như diều bay bổng
Đảng ngất ngây trong tiếng ngợi ca.
Hàng trăm tờ báo, vài triệu cái loa
Điệp khúc, điệp ca : Công ơn của Đảng.

*

Đảng say mê, dối lừa không nhàm chán
Xóa sao được, những tội lỗi gây nên !
Đạo lý Việt Nam “ máu chảy ruột mềm ”
Cải cách địa điền, người, cửa nhà tan tác
Dù Đảng đã chia vài ba miếng đất
Suốt mấy năm nghèo vẫn hoàn nghèo.

*

Nhóm “ Nhân Văn ” hỏi tội đáng bao nhiêu ?
Đảng đày đọa bao cuộc đời chí sĩ.
Bao trí thức bắt giam thời chống Mỹ
Gán ghép “ chống Đảng ” tội tày trời
Lửa chiến tranh dẫu đã tắt lâu rồi
Sao ác tâm, cảnh nồi da nấu thịt !!!

*

Hai đảng bạn, đồng hành bao thân thiết
Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ Việt Nam
Vai sát kề vai, suốt mấy chục năm
Gắn bó thế ! Hà cớ chi loại bỏ ?!
“ Chanh kiệt nước rồi, vứt luôn cái vỏ ”
Bạn bè thủy chung, sao nỡ phản thùng !?
Nỗi đoạn trường càng lộn xộn lung tung
Sợ hậu họa, Đảng xuống tay, chấm hết….

*

Đêm đã khuya, trước khi dừng bút
Xin dùng câu của Goethe tặng cho đời
“ Lý luận nào, rồi cũng xám bạn ơi,
Còn cây đời, vẫn xanh tươi mãi mãi ”.

Xin được xếp vần thơ, dừng lại
Vài dòng chân, tôi gửi tặng cho đời
Thơ của tôi như tia nắng ban mai
Cộm mắt ai, nhưng không hề độc hại.

*

Ta biết ơn, khi Đảng còn vĩ đại
Còn hôm nay, cuộc đổi chác bán mua
Đừng biến mình thành những chúa những vua
Mà thống trị dân đen, như thuở trước.

Đảng ngụy ngôn : “ Có công giành Độc Lập ”
Chức, Quyền, Tiền dân đã trả Đảng rồi
Nơi cung đình, đâu phải chợ trời
Dân hết nợ, Đảng cứ ngồi, cứ hưởng
Để trần gian, lại công hầu khanh tướng
Đảng một bên, Dân chịu nhục một bên.

*

Những luận cứ : Các Mác và Lê Nin
Giờ xa lạ với Con Hồng Cháu Lạc !

So với Đảng, có súng bom bạo lực
Vần thơ tôi là vẫn điệu lương tâm
Tố Như ơi ! Tôi sẽ đợi trăm năm
Rồi chân lý sáng ngời vào lịch sử !

*

Đảng của ngày xưa, Đảng là bất tử
Còn tương lai !? Phút mặc niệm, bắt đầu !

Trần Độ



NGUỒN : Ba Sàm 9.2.2016
Đây là một trong những bài thơ cuối cùng của Trần Độ,
cho đến nay chỉ lưu truyền trong giới quân đội.
Về tác giả Trần Độ (1923-2002), xin đọc Diễn Đàn số 121,
tháng 9.2002, tr. 12-13.

NHỮNG CHUYỆN NÀY CHƯA BAO GIỜ XÃY RA TRƯỚC 1975



NHỮNG CHUYỆN NÀY CHƯA BAO GIỜ XÃY RA TRƯỚC 1975






Nhật rúng động vụ cướp táo tợn của nhóm người Việt

Cập nhật : 23:27 | 25/02/2016


-Suốt ba ngày nay, báo chí Nhật Bản liên tục cập nhật thông tin liên quan tới vụ cướp tài sản táo tợn do một nhóm người Việt gây ra tại tỉnh Saitama.
Thông tin mới nhất trên kênh truyền hình Nhật Bản Nihon TV News cho biết, cảnh sát nước này cuối cùng cũng đã tóm gọn được toàn bộ nhóm nghi phạm tham gia vụ đánh cướp tài sản nói trên.
cướp giật, cướp tài sản, người Việt Nam, Nhật Bản, Tokyo, Saitama, Nagano, tin nóng
Nghi phạm Nguyen Van Du trên xe của cảnh sát. (Ảnh cắt từ clip của Nihon TV News)
Trước đó, hôm 23/2, tại một khu chung cư ở thị xã Kamisato thuộc tỉnh Saitama, cách thủ đô Tokyo hơn 80km, một nhóm nam giới người Việt đã cướp đi một túi xách chứa 500.000 Yen (khoảng gần 100 triệu đồng) của một phụ nữ người Việt.
Sau đó, một nam giới người Việt khác đã đuổi theo và bị nhóm cướp đâm trọng thương. Nhóm cướp đã lên xe bỏ chạy và bị cảnh sát Nhật Bản truy đuổi.
Tới trưa ngày 24/2, cảnh sát Nhật Bản phát hiện được xe của nhóm cướp chạy trên đường cao tốc tại thành phố Iida, tỉnh Nagano. Khi bị cảnh sát yêu cầu dừng lại, 3 người trên xe đã bỏ chạy. Cảnh sát đã vây bắt được một đối tượng tại làng Achi gần đó.
Nghi phạm được xác định danh tính là Nguyen Van Du, 21 tuổi. Du khai nhận đã tới chỗ nạn nhân định vay tiền. Khi không vay được, Du đã cướp số tiền của nạn nhân. Riêng vụ chém người truy đuổi, Du cho biết là do một đối tượng khác trong nhóm gây ra.
Đêm cùng ngày, cảnh sát truy bắt được nghi phạm thứ hai Nguyen Ba Cong, 22 tuổi. Tới sáng 25/2, cảnh sát bắt được nghi phạm thứ ba Nguyen Dao Tran, 23 tuổi. Cong và Tran khai nhận có mặt tại nơi xảy ra vụ cướp, nhưng không nhận đâm người truy đuổi.
Trong khi đó, cũng vào sáng 25/2, một nam giới người Việt xuất hiện tại một công ty ở thành phố Takasaki, tỉnh Gunma, nằm cách thủ đô Tokyo gần 100km, và tự nhận đã tham gia vụ cướp trên. Người này cũng nhận là thủ phạm chém người truy đuổi.
Cảnh sát đã đưa người này về điều tra. Nghi phạm thứ tư được xác định là Vu Ngoc Tuc, 26 tuổi. Nguồn tin cảnh sát sau đó khẳng định, cả bốn nghi phạm bị bắt đều có liên quan tới vụ cướp tại Saitama hai ngày trước đó.
Tại cơ quan an ninh, Tuc khai nhận không tham gia vào vụ cướp tiền, mà chỉ đâm người truy đuổi. Hung khí gây án, Tuc đã vứt trên đường trốn chạy.
Hiện vụ việc đang tiếp tục được điều tra.
Mai Hoa (từ Tokyo)


N

KC/

BA ĐIỀU SƯỚNG NHẤT ?

BA ĐIỀU SƯỚNG NHẤT ?

Ngày xưa, có ông lão cứ vui cười ca hát suốt ngày.

Thấy lạ, có người hỏi:
- Tại sao ông vui tươi mãi như thế?
Ông lão đáp:
-Trời sinh ra muôn loài muôn vật, trâu chó dê ngựa… Người là sinh vật cao nhất, “Tối linh ư vạn vật”. Ta được làm người. Ấy là điều sướng thứ nhất.

-Trời sinh có người tàn tật, đui què. Ta được lành lặn, ấy là điều sướng thứ hai

-Người đời thường vì sự giàu có, danh vọng mà phải gian khổ. Ta có ăn đủ một ngày ba bữa, không lo lắng gì cả. Ấy là điều sướng thứ ba
-Còn như sinh lão bệnh tử là điều không ai tránh được. Ta cũng như mọi người, việc gì phải buồn.

-Nghĩ tới ba điều sướng ta có được, ta vui ca cũng là chuyện thường tình, mắc mớ chi phải hỏi.

(Cổ Học Tinh Hoa)
ƠN ĐỜI CHỨA CHAN

Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn sống. Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!

Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.

Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân người. Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời. Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.

Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi, có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch, phải uống nước dơ bẩn.” Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người. Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già.

Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho, không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh hiền”, tư tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”. Phải gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong việc, may mắn lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng đất cày, đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lị, chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm thành một tấm màn trắng-ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng thức ngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi hoảng hốt đập cánh bay lên kêu quang quác và vung vãi ‘ám khí’ khắp trong không gian, làm ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời phòng.
Ông Tư tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm thầm: “Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm nga hai câu thơ : “Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng. Ba nguồn thân thiết dạt dào thương” . Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: “Tiên trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”. Ông nhớ đến cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?

Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình, lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây gổ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn bà không phải dễ.”

Ông Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ còn đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.

Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả tơi, không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có nhiều tù nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng sang trọng như đi ăn đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất nước tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng. Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm. Ông, từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính quyền cuả xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản. Đến đất nước này, ông được bình đẳng, có công ăn việc làm hợp với khả năng, con cái ông được đến trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp vững chắc và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết không bao giờ trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.

Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông chào lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì không sợ ai cả. Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm gì sai quấy cả, cũng bị cảnh sát giao thông chận lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì bị quy kết đủ thứ tội mà mình không có.

Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông Tư lớn tiếng:

“Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!” Ông cụ trả lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.” Ông Tư nói to: “Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?” Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À, nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì vui nỗi gì? ” Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng trời cho” Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.

Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ. Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời. Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt da. Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nói dịu dàng yêu thương…

Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần phải là ôm chặt người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm chủ được một tòa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan. Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường, chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.

Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.

Về nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon hơn sơn hào hải vị.

Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi.” Đã từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.

Ông Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác. Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.

Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến động. Đôi khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà bình luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì? Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người giàu triệu phú khác.

Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong không gian và cả thời gian.

Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.

Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và nói : “Thà tự sướng hơn là tự khổ”

Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của trời ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau ./
.

HUỲNH TAM * CHIẾN TRANH HOA VIỆT

Đầy đủ tài liệu để đọc về sư dã man mọi rợ của Tàu Khựa đối với kẻ thù của chúng đặc biệt tội ác quá kinh tởm và hãi hùng với nữ tù binh Việt Nam 
Đọc để rõ tương lai khủng khiếp một khi đất nước nằm trong tay bọn ác quỷ này ,số phận người dân Việt không hơn số phân con vật-con heo hay con trâu




C

hiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn (林山), Bác Lý Hà (八里河), và Đông Sơn (东山) tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. [1]



















LTG. Năm 1986, chúng tôi có dịp đi những chuyến thực tế tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc, được biết một phần về trại tù binh Lâm Sơn (林山), Bác Lý Hà (八里河), và Đông Sơn (东山), ngày nay những địa danh này thuộc về lãnh thổ Vân Nam, Trung Quốc. Trên đường đi gặp những nữ tù binh Việt Nam, họ rơi vào tình cảnh chiến tranh quá khủng khiếp, thân phận trôi nổi, bị hảm hiếp, phanh thây, xác vùi dập đó đây khắp nẻo rừng sâu nước độc.




























Từ đó đến nay chúng tôi tưởng chừng quá khứ đã quên đi ký ức của mình. Nay có dịp tiết lộ về thân phận của nữ chiến binh đã bị nhà nước lãng quên sau chiến tranh. Trong khi ấy đảng Cộng sản hưởng thụ trên xương máu của nữ chiến binh, bỏ lại sau lưng những linh hồn phụ nữ Việt Nam cao quý.



















Viết về những sự kiện mắt thấy tai nghe với những tham khảo hồ sơ lưu tại Ban tuyên giáo của Quân ủy Trung ương Trung Cộng, cùng những lời chứng nhân tường thuật từ cõi tù binh vọng về. Rất tiết thương cho họ đã sống không ra kíp người và chưa bao giờ tiếp nhận được một đoái hoài của nhà nước Cộng sản Việt Nam, sau khi kết thúc chiến tranh tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc vào thập niên (1979-1989).







Đến hôm nay những mãnh đời tù binh sẽ xuất hiện để người đời nhớ mãi không quên chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc.



















Dấu ấn tù binh chiến tranh 1979-1989.







Chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc, hơn mười năm (1979-1989), đã từng xuất hiện nhiều trại nữ tù binh Việt Nam tại Vân Nam. Nơi tăm tối nhất đe dọa đời sống, họ phải chịu đọa đày vô cùng tàn nhẫn, cắt đứt đường liên lạc với thế giới bên ngoài, những tin tức về họ hầu như biến mất trên cõi đời này cho đến ngày nay!



















Ba mươi sáu năm trước (1979-2015), cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung vẫn còn mãi dư âm một thời đẫm máu nhất thế kỷ, thế nhưng ít ai biết. Trong chiến tranh, cả hai bên binh sĩ đã bị bắt. Tù binh Việt Nam không được hưởng ưu đãi quy ước chiến tranh. Trung Quốc đã vi phạm những tội ác ghê tởm trong cuộc chiến tranh biên giới.



















Nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc lạm dụng vô cùng tàn nhẫn.







Một khi nữ tù binh Việt Nam rơi vào phía Trung Cộng, sợ nhất những con người trần trụi bám vào thân nữ tù, người lính Trung Cộng lập tức hiếp dâm, đôi lúc lặp đi lặp lại nhiều lần, vì vậy có một số nữ tù binh mang thai, sau đó bị xẻ tay chân lìa thân thể! Một số tù nhân nữ chết, chôn vùi, lấp vội.



















Đôi khi, chúng tôi gặp những thi thể trên bãi cỏ dưới triền núi, đôi mắt loay hoay nhìn kỹ không khác một con hải cẩu nằm bãi biển, thực ra những người nữ chiến binh đã chết bằng hình thức nào chỉ thấy trơ trụi không có chân tay, thi thể quá kinh hãi, đó là người nữ chiến binh Việt Nam bị quân đội Trung Cộng hảm hiếp sau đó cắt đứt tay chân!






























Ấn phẩm truyện tranh của Họa sĩ Thiết Huyết (铁血); Cho thấy cảnh tù binh bị lính Trung Cộng hảm hiếp tập thể, đã phản ánh chiến tranh biên giới VN-TQ. Điển hình những nữ tù binh Việt Nam, đang bị an ninh quân đội Trung Quốc tra tấn. Họ phải chịu đựng mọi thử thách qua nhiều năm trong chiến tranh. Cán bộ quản chế nhà tù tàn bạo đối với những nữ tù binh, cuộc đời và cái chết trên chiến trường quá bi thảm, Trung Quốc đối sử độc ác, không còn tính nhân đạo, ngoài ra còn có nhiều nữ tù binh chết sau khi cưỡng hiếp tập thể. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. [2]



















Việt Cộng-Trung Cộng trao đổi tù binh chiến tranh, nữ tù binh xuất hiện chân dung chờn vờn như một bóng ma, mất hết sắc diện người phụ nữ Việt Nam, trong trận chiến lính Trung Quốc bắt được một nữ tù binh gọi là "con dấu", được xem như độc quyền chiến lợi phẩm, nữ tù binh chỉ còn đôi hàm răng cắn chặt vào nhau, sang bên kia thế giới không thể chấp nhận con ác quỉ dục tính Trung Cộng!






























Nữ tù binh Việt Nam bị hảm hiếp, sau đó đốt cháy thủ tiêu. Cảnh này chúng tôi đã nhìn thấy trên chiến trường, và những chứng nhân tường thuật lại trong cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.



















Ngoài ra, chúng tôi còn chứng kiến một bệnh viện dã chiến của Việt Nam bị Trung Cộng tấn công, hàng trăm người bị thương, lính Trung Cộng bắt sống nữ y tá làm phương tiện sinh lý, cực kỳ tàn nhẫn. Vào lúc này những người lính Trung Quốc sai khiến nữ tù binh làm gái giải sầu, bằng cách đe dọa thủ tiêu hay cho tàn phế.







Một người nông dân Nùng nói với chúng tôi. "Tất cả các con chim sẻ đều sợ hãi khi nghe tiếng súng nổ", như nữ tù binh rơi vào cảnh quá thương tâm. Điều này cho thấy tù binh có hai lần bại trận, dù trước đó họ ý thức chính trị, và người thanh niên cất cao tư tưởng chiến đấu vì đảng nhưng hôm nay họ là bao thịt không giá trị đối với đảng "Bác".



















Nông dân Nùng cho biết. Trước năm 1977 đã có nhiều binh sĩ Trung Quốc tiến vào biên giới Việt Nam. Thanh niên trong làng tham gia vào lực lượng dân quân, thường xuyên tổ chức đánh đuổi chúng, đôi khi có những nữ dân quân xa vào phục kích Trung Quốc từ đó họ mất tích. Dân làng cảnh giới trước đã nói rằng Trung Quốc sẽ khởi động một cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, do đó trên núi đã lập những đường mòn nhỏ, bố trí nhiều trạm kiểm soát của dân phòng.







Chúng tôi hỏi về quan điểm của người Trung Quốc,







Ông lặp đi lặp lại, Trung Cộng tuyên truyền vô lý, Việt Nam sẽ có âm mưu xâm chiếm biên giới Trung Quốc, cho nên dân quân cố gắng kiểm soát biên giới, chiến tranh bùng nổ, dân làng mang thức ăn chia xẽ cho dân quân để đề phòng địch và gìn giữ đồng ngô, khoai. Vào tháng 2 năm 1979, dân quân chiến đấu không may đã tử thương 71 thường dân, 153 thương nhẹ, 27 nữ, và 56 nam thanh niên làm tù binh, cán bộ cấp xã mất tích 5 người. [3]



















Năm 1989, được biết Quân đội nhân dân Việt Nam có đến 10% nữ làm tù binh, chính quyền Việt Cộng dối trá chưa bao giờ tuyên bố con số tù binh nằm trong tay Trung Cộng, Cộng sản thống trị đất nước nhưng hẹp hòi tính dân tộc, đứng trước Trung Quốc đem lòng sợ hãi.



















Nữ tù binh có bốn đặc điểm.







- Tình cảm, gia đình coi trọng nặng hiếu, hầu hết các tù nhân nữ không có ý định đào thoát trại giam, ở tù một vài ngày đã nhớ đơn vị, nỗi nhớ nhà cũng không kém, đôi khi khóc về thân phận. Thường thích trao đổi với nam tù binh, có nhiều người mở cửa cho nam tù binh tán tỉnh.







- Nữ tù binh bắt đầu nhút nhát, thích nói dối, họ chú ý học tập chính sách khoan hồng. Khi cán bộ quản chế giáo huấn cũng nói dối để che đậy những ý tưởng riêng của họ, một số gián tiếp trốn tránh câu hỏi về đảng CSVN, nữ tù binh có nhiều lo âu, nếu gặp phải hiểu lầm tình báo của địch hay nội gián sẽ có hậu quả khôn lường.







- Họ thường bận tâm cho những nam tù binh, thậm chí họ không quan tâm bản thân.







- Tuy ở tù vẫn tìm hiểu thân thế nam tù binh không nghi ngờ đối tượng, hy vọng ngày về hứa hẹn hạnh phúc.







Tuy nhiên, những nữ tù binh này không được về lại quê hương, sau khi trao trả tù binh, Việt Cộng lập tứ phi tang họ trong rừng sâu. Cho đến ngày nay nhân dân Việt Nam không hề biết thân phận của tù binh chiến tranh sống chết thế nào! Việt Công không công bố vì bí mật quốc phòng.



















Theo đặc điểm sinh lý của nữ tù binh trong cuộc sống tù binh, sau khi nhập trại giam họ sống rất là đặc biệt do thiếu chăm sóc vệ sinh, Trung Cộng không cung cấp điều này, họ phải xé áo quần làm băng vệ sinh, tù binh không hưởng quy định quần áo cần thiết, cũng không có phương tiện trang điểm như bàn chải, gương, kẹp tóc, giấy vệ sinh, đồ lót phụ nữ, khó khăn hơn họ không có ít được tắm rửa, giặt giũ quần áo. Nếu có quan khách đến thăm, cai nhà tù tổ chức các hoạt động giải trí nhưng do nữ tù binh thực hiện theo trò vui dân gian bình thường.



















Trung Cộng thực hiện mục tiêu quản lý khắt khe đối với nữ tù binh quân sự, giáo huấn theo quan điểm Mao. Đặc điểm Trung Cộng tuyên truyền chính sách chiến tranh "Tự vệ". Cố gắng loại bỏ quan điểm thù địch. Thậm chí có nữ tù binh ham sống sợ chết nói: "Nếu ai đó hỏi tôi những gì Trung Cộng tốt nhất, tôi sẽ trả lời Trung Cộng chiếm được Việt Nam là tốt nhất". bởi họ đã bị lột võ biến chất trở thành tình báo trong trại tù. Có một số nữ tù binh không hài lòng cách phát biểu trên.






























Những nữ tù binh Việt Nam bị Trung Cộng trói thắt gút tay chân, cho dễ tra tấn và di chuyển không sợ tẩu thoát. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.



















Tù binh nam và nữ quản lý riêng biệt, không được thường xuyên liên lạc và trao đổi chỉ hiểu nhau bằng tác động. Một số tù binh nam yêu cầu chung sống và khuyến khích nữ tù binh tuyệt thực, nhà tù mạnh tay kiểm tra hành vi bạo động, sử dụng các nữ tù binh lớn tuổi quản lý tình cảm trong các buổi giáo huấn, sau khi nhà tù quản lý chặt chẽ, kết quả chấm dứt một phần bạo hành tình dục giữa nam và nữ tù binh.



















Nhà tù tích cực quan tâm, quản chế hành động của nữ tù binh vì dễ quản chế hơn nam tù binh. Họ chú ý quản chế những tù binh tâm thần, bởi họ thường hô to "chúng tôi ủng hộ Việt Nam" và cũng đôi khi "ủng hộ Trung Quốc". Có vài vụ nữ tù binh sau khi sẩy thai, cán bộ kịp thời quản lý, nuôi-nhốt chung với tù binh bị bệnh nhưng không cho bác sĩ chăm sóc.



















Trong cuộc chiến tranh biên giới, có những nữ tù nhân tay chân co rút, người trần trụi, bởi nhiều vết thương lâu ngày lở loái, cũng có những hình ảnh phụ nữ bị cháy đen vì boom đạn và bị lính Trung Cộng thủ tiêu bằng cách đốt cháy. Phóng viên Trương Tiệp Lực tiếp cận cô Triệu Mai tặng một bánh thực phẩm khô, cùng với một bi-đông nước. Lúc đầu sợ hãi, sau đó chúng tôi thấy Trương Tiệp Lực chân thành, khuyến kích cô uống gần hết bi đông nước, sau đó mới lấy lại được hơi thở.



















Cán bộ quản chế nhà tù sử dụng nhiều hành động bất nhã đối với nữ tù binh chiến tranh. Họ không thể tránh những nông nỗi sợ hãi, đôi mắt nhìn lên bầu trời xanh, tay chân run rẩy từng hồi và khóc, khóc mãi!




Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 Kỳ 2 (Huỳnh Tâm)







Trại tù Bác Lý Hà (八里河) tăng cường đội ngũ cai tù, đẩy mạnh quan điểm chiến tranh "tự vệ", chủ yếu giáo huấn nữ tù binh Việt Nam thấm nhuần tư tưởng thân Mao. Quản lý tù binh sống trong giam cầm chặt chẽ, về cơ bản cải tạo tù binh có mối quan hệ tốt với nhà tù, dần dần sâu đậm đem lòng cảm kích Trung Cộng.



























Xe bọc thép Trung Cộng thuộc Trung đoàn 55, đang làm nhiệm vụ thảm sát trại nữ tù binh Việt Cộng. Những tù binh còn sống họ khai thác tình dục, đối sử bất lương, mỗi khi có bệnh nhân, bác sĩ không quan tâm, cai tù lạnh nhạt. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.































Đặc biệt nữ tù binh có một số làm rối loạn trật tự, mục đích tập trung vào mối liên hệ nam nữ, một số ít nữ tù binh công khai quan điểm chiến tranh biên giới của Trung Cộng. Nhà tù tăng cường quy định giáo dục và phê bình chiến tranh, nhưng không làm tổn thương lòng tự trọng của họ. Từ khi có các biện pháp quản lý chặt chẽ được hiệu quả, không còn hiện tượng ăn mòn tâm trí của nữ tù binh. Có một số tù binh cẩn thận phát biểu về sự tra tấn của ban quản chế trại tù, do đó, các nữ tù binh Việt Nam đã trải qua những thay đổi quan điểm lên án Việt Cộng thân Trung Cộng, lúc này trong lòng họ xuất hiện nhiều câu chuyện lẫn lộng dối trá trong chiến tranh.































Cai tù Danh Khiếu Đinh, và Vương Việt Quân cho biết những nữ tù binh nhập trại càng ngày càng đông, họ là lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nay họ được giáo huấn tư tưởng Mao Chủ tịch, cho thấy những nhà lãnh đạo thối nát hiện trên khuôn mặt chế độ chủ nghĩa bá quyền Việt Nam. Ông thẳng thừng phát biểu: "Chúng tôi, và người dân Việt cũng đều muốn sống trong hòa bình, xây dựng tư hữu quốc gia, nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam đi với Liên Xô, việc thực hiện chính sách mở rộng, tham gia chủ nghĩa bá quyền bất kể cuộc sống và cái chết của con người, sở dĩ Trung Cộng mở cuộc chiến tranh "tự vệ", cơ bản cho Việt Cộng một bài học".




































Trên chiến trường biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989. Nữ tù binh Việt Cộng bị đánh đập, tra khảo, lấy khẩu cung và làm mồi tình dục cho lính Trung Cộng. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.



















Chiến binh Nguyễn Thị Liễu, phục vụ trong Quân đội Việt Cộng sau khi bị thương và làm tù binh, cô thất vọng ngày đêm phá vỡ nước mắt, cô phải vật lộn để ngồi dậy từ trên đôi cáng, đưa cô vào trạm xá dã chiến nghỉ qua đêm, cô vội vàng trốn nhưng không thoát khỏi bàn tay hảm hiếp, tràng trề nước mắt, đầu hàng: "Việt Nam sẵn sàng tuyên bố bất khả chiến bại. Việt-Hoa mãi mãi tình bạn!" Cho thấy chỉ có tinh thần chiếu đấu của người Cộng sản sợ kẻ thù muôn kíp, còn cảm ơn các lực lượng vũ trang và chính phủ Trung Cộng!



















Những tình báo Trung Cộng so sánh, nếu đem trại tù binh chiến tranh của Trung Quốc có thể tương đương với Đức Quốc Xã. Việt Cộng-Trung Cộng không đề cặp đến vì nó là tội ác chiến tranh, đáng trách Việt Cộng không lên tiếng tố cáo Trung Cộng có phải vì lý do khiếp nhược.



























Xe bọc thép Trung Cộng T-62 cỡ nòng trơn 115-mm, tầm hoạt động trên địa hình xấu là 320 km, trên đường bằng phẳng 450km, trước khi viên đạn ra khỏi nòng, những nữ tù binh Việt Nam treo lên đại pháo sẽ nhận được độ nóng và độ giật, rồi chết, đây là một lối tử hình tù binh trong chiến tranh Việt Cộng-Trung Cộng 1979-1989. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]



















Năm 1970, Cán binh Việt Cộng Phùng Bảo Hiến đã từng bị VNCH bắt làm tù binh, không may, nay làm tù binh lần thứ hai dưới tay người anh em Trung Cộng, ông nói: "Tôi đã bị VNCH bắt làm tù binh, nhốt tại trại Phú Quốc, một đảo chuyên về ngư nghiệp của những người giàu có, các doanh trại được bao phủ bằng tấm lưới sắt, thông qua các hàng lang trại, mọi người ngủ rộng rãi, ăn uống thừa thải, ngủ trên tấm phản xi măng có chiếu, màn chống muỗi, một năm nhận được ba bộ quần áo, cấp giày, dép, phương tiện vệ sinh rất tốt. Cổ phần mỗi ngày, ăn sáng, trưa và chiều có rau, cá, thịt, trứng, nước mắm, đường và sữa.







Còn cho thân nhân gửi tiền mua thuốc lá, bánh kẹo v.v...không bị đánh đập, cho nghe đọc báo đài, tự do tập thể dục và chơi thể thao, tổ chức văn nghệ, đờn ca lúc nào cũng thuận tiện, tự do tín ngưỡng có nhà nguyện, chùa và thánh thất rất chu đáo. Trừ phi tù binh vi phạm kỹ luật trại, nếu nhẹ ngủ một đêm trong căn phòng tối, hoặc không cho ăn rau, trốn trại tù binh phải chịu phạt ngồi trên dây thép gai một buổi.



















Trước khi tôi bị bắt, trái tim rất sợ hãi, nhưng bây giờ chúng tôi sống quá tốt, cảm thấy nhẹ nhõm. Chính sách VNCH đối xử nhân đạo với tù binh, tôi ngưỡng mộ điều này, chỉ có chính phủ VNCH xử lý rất ưu đãi duy nhất trên thế giới về tù binh chiến tranh. Có vào nhà tù mới biết đâu là chân lý, tôi xin chân thành cảm ơn VNCH!"



















Trong khi ấy chúng tôi ở tù tại trại Đông Sơn (东山) tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sống và học tập theo Mao, thiếu thốn tối thiểu nhu cầu thiết yếu hằng ngày, chịu đựng tra tấn "7 không". Không khiếu nại, nguyền rủa, nói chuyện, ăn mặt, phát biểu, phương tiện sinh hoạt tập thể, liên lạc trong ngoài trại. Và "5 học tập" theo quy định của nhà tù: Học tập theo gương Mao Chủ tịch, chiến tranh "tự vệ", ăn năng hối cải, tù binh gương mẫu, chấp hành quy định nhà tù. Người bị tù như chúng tôi đã hết không còn hy vọng để sống.



























Nữ tù binh trên đường chuyển trại. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.



















Những tù binh sau khi giáo huấn, phát biểu theo cảm hóa:







Dương Đức Bình cựu chiến binh Việt Minh hoạt động quân báo, trong thời chiến tranh chống Quốc Dân Đảng đã có mười lần đến Trung Quốc tiếp nhận nguồn cung cấp chiến tranh cho Việt Nam và giao thông vận tải nói: "Trong chiến tranh đời tôi quá trớ trêu đã từng làm tù binh của Trung Cộng, từ đó hóa thân sâu sắc và nhận rõ đâu là giáo dục của nhà tù chiến tranh".



















Ô, Mai Liêu một tù nhân chiến tranh cho biết: "Tôi là một chứng nhân của Trung Cộng chân thành truy tố chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc. Họ tuyên truyền dối trá và bóp méo sự thật tù binh trong chiến tranh 1979-1989, đôi khi vu khống sai thực tế". "Họ rêu rao tối ngày về tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước và những nỗ lực để khôi phục lại các nhân chứng, nhưng không bao giờ thực hiện bất kỳ điều nào". "Sau khi học tập vì sợ hãi người tù phát biếu như một, tất cả mọi thứ nghe một chiều. "Trung Cộng giáo dục những thế hệ tương lai trân trọng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước và phục hồi tình hữu nghị Việt Nam và Trung Quốc đã một lần chiến tranh tự vệ".



















Tù binh Nguyễn Đinh Chí cho biết: "Trong những năm qua, Trung Cộng viện trợ cho Việt Cộng vô điều kiện, cho dù đó là vũ khí đạn dược, hoặc gạo, vải, thậm chí cả giày và vớ, bàn chải đánh răng và những vật dụng cần thiết hằng ngày, cuộc xung đột vũ trang tại biện giới vào những năm 1979-1989, các nhà chức trách Việt Cộng-Trung Cộng đã biết trước".



















Cai tù Ngô Hiểu Khoa (Wu Division) cho biết: "Tôi là người Việt Nam, lớn lên ăn cơm của Trung Cộng, bây giờ mặc đồng phục viện trợ Trung Cộng, cao hơn tôi phải sử dụng vũ khí Trung Cộng để chống lại nhân dân Việt Nam, mà tôi đã tham gia chiến tranh xung đột biên giới 1989, hồi tâm tôi là người bất lương, sau khi hoàn tất nhiệm vụ cai tù giết lại người Việt".







ÿ Huỳnh Tâm




Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 - Kỳ 3 (Huỳnh Tâm)
























Ngày 06 tháng 3 năm 1979, quân đội Trung Cộng chia làm hai hướng di chuyển sâu vào khu vực biên giới đã chiếm của Việt Nam, súng pháo không giật nòng trơn cỡ B-10 82mm, súng máy hạng nặng quét sạch dân quân trên dọc đường rút quân về bên khi biên giới, sau khi tiêu diệt các ổ dân quân, tìm thấy bên đường có sáu đường dây điện thoại, nhận ra có ba hang động gần đó. Kiểm tra toàn bộ khu vực thấy nhân dân bị thảm sát, mùi thuốc súng còn bốc khói khét lèn lẹt, chỉ còn lại một phụ nữ Việt cao tuổi, nằm xỏa tóc ngất liệm.
















Theo phân tích chiến sự, tại khu vực có một số dân quân du kích còn ẩn náp trong một hang núi phía đông bắc Thạch Sơn, có hai bóng đen cảnh giới vừa nhanh chóng trốn vào hang động, lính TC đã nhiều lần yêu cầu đầu hàng nhưng không thấy trả lời, phải chờ một số lựu đạn bộc phá, giật sập cửa động, dùng lựu đạn cay, khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi... giết chết và bắt sống hàng trăm người dân, có hai nữ dân quân đầu hàng, lính TC khai thác nữ tù binh, cho biết, người dân địa phương ẩn náu trong hang động Thạch Sơn đã bị TC thảm sát tập thể đã chết nhiều ngày qua. [1]



























Lệnh chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình, gọi là chiến tranh "Tự vệ". Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.



















Đoàn binh TC tiến vào Thạch Sơn, đầu tiên xác định kiểm soát địa hình gần đó, lính trinh sát tiến vào vị trí, xác nhận đối phương (VC) đang tổ chức đội hình có khả năng tấn công tiêu diệt kẻ thù (TC). Tình thế đổi thay chiến thuật, Trung Cộng triển khai sáu lớp tiến quân, dẫn đầu bởi phó chỉ huy, theo đường lối phía đông bắc Thạch Sơn, nhóm trinh sát báo cáo có 4 Trung đoàn của kẻ thù đang phòng thủ, kiểm soát phía tây của hang động, tựa lưng vào núi cao làm bình phong kiên cố để phòng thủ, khi chiến đấu bao quanh 2 hướng phía tây-nam chân núi.







Quân TC tái kiểm soát phía tây-bắc mở đường tiến vào làng Thạnh Sơn, tiếp theo quân TC kiểm soát phía đông và phía nam; nơi đây có 1 hàng rào quân dự trữ; 82 súng không giựt, trấn thủ hai lối, ba khẩu súng máy hạng nặng, chiếm đóng phía nam sườn đồi có địa hình khá thuận lợi, sẵn sàng để ngăn chặn lửa pháo, và tăng cường 6 Trung đoàn sung kích.



























Phụ nữ, trẻ em và dân quân Việt Nam bị Trung Cộng thảm sát trong ngoài động Thạnh Sơn. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]



















14:00, quân binh TC cần nước uống, phó chỉ huy Chu Phú Hải (Zhou Fuhai) nhận lệnh lãnh một tiểu đội đi tìm nước, đột nhiên phía VC phục kích làm sạch một tiểu đoàn tại chỗ, bỏ lại 10 khẩu súng, nhiều loại đạn. Đoàn trinh sát TC chỉ đạo thực hiện phục kích tảo thanh địch, dẫn đầu đi luồn qua những con đường mòn dọc theo sườn núi phía đông bắc của Thạch Sơn. Khi tới núi tổ chức đội hình leo vách đá vì những ngọn đồi dốc, chia thành hai hướng di chuyển về phía trước, sau khi bắn tỉa tiêu diệt một tiểu đội đối phương, chỉ huy bố trí lại hỏa lực đội hình thu quân trở lại tìm kiếm dân trong làng tiếp tục giết. Một ngọn lửa của VC vừa bùng lên, quả bom nỗ đoàn quân Trung Cộng thiệt mạng trên 23 tên, bị thương 8 tên, trận chiến tuy nhỏ nhưng TC thiệt hại nặng.



















Quân binh Trung Cộng lùi lại một con đường mòn, thay đổi chiến thuật, hướng tiến công vào mục tiêu, quyết tâm thực hiện một trận chiến có tính phục thù để bù trừ lại đồng đội thương vong, súng không giật, súng máy hạng nặng bắn xối xã xuống các lỗ hang động, bởi nghi ngờ có VC, nhưng không may mắm trước đó một giờ quân VC đã rút lui chỉ để lại những dấu vết cối pháo, không tìm thấy bóng kẻ thù.



















Gần hoàng hôn quân TC, lục xét lại dấu vết vị trí của quân thù, đi theo đường sương mù xuống đồi núi, chạm mặt hai mũi địch-thù cài răng lược cố thủ, quân binh TC có dấu hiệu bổ xung quân, đình chỉ các cuộc tấn công chờ sáng mai, như một lời cảnh cáo mạnh mẽ, hứa hẹn chiến đấu một trận chiến cuối cùng, kẻ nào nao núng sẽ thua trận trước, phá vỡ ý chí địch quân, trong đêm VC biết mình quân ít, chuyển quân vào chân núi trụ lại điểm yết chờ hầu phục kích.



























Người lính VC trúng đạn pháo của TC. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [3]



















Lúc 4:00 vào ngày 17, tháng 3-1979, hỏa lực của sáu Trung đoàn TC trở lại chiến đấu, lúc này VC đã bỏ vị trí chỉ còn lại hai người lính tử thương đem đi không kịp, quân TC đánh mất một cơ hội buôn chân kẻ thù. Quân TC tăng cường hỏa lực đại pháo cho Trung đội 6, Trung đội 3, và Trung đội 8, mỗi Trung đội tiếp cận từ bên trái sang bên phải tiến vào mục tiêu. Đúng 10 giờ sáng, ba lớp binh chiến đấu chiếm được vị trí thuận lợi. Phó chính trị viên đem theo 2 Trung đội di chuyển nhanh chóng tiếp cận các lỗ châu mai, đầu tiên bắn hai quả tên lửa, ngay lập tức hai trung đội tận dụng lợi thế cắt đứt các con đường vào làng, và hang động chia thành ba nhóm trên cả hai mặt trước của bức tường núi thiên nhiên, dọc theo hướng phía trước tìm kiếm địch, dù bầu trời đang tăm tối.



















Để xác định tình hình bên trong hang động, đầu tiên hai lớp đèn pin, cụ thể sau khi mở đèn, phía trước đã có ánh lửa của đối phương, và phạm vi giới hạn của ánh sáng, nếu sử dụng động cơ chiếu sáng sẽ quan sát bất tiện, dùng đèn pin chỉ đủ ảnh hưởng đến tầm nhìn, cách tiếp cận này không thành công. Trong trường hợp này, mặc dù đã tìm thấy dân làng Việt Nam trú ẩn trong hang động, nhưng bên trong hang động không thể cung cấp các điều kiện sống lâu một khi có chiến tranh. Phía quân đội TC vì tình hình an ninh, họ tìm mọi cách xóa vết tích, đưa tập thể nhân dân Việt xuống lòng đất, hành động chông tập thể, rải rác biên cương mồ viễn xứ, sử lý hơn sáu giờ.



















Tiểu đoàn Trưởng 159 của TC, xem xét hàng ngũ sau một ngày giao tranh dữ dội tại Thạnh Sơn, bây giờ chỉ còn lại tiếng súng rải rác, quân TC quyết định tạm dừng tiếng súng, thậm chí còn gọi 2 Trung đoàn, rút ra ​​bên ngoài hang động, ngăn chận được địch, có khả năng vượt trốn thoát, quân đội TC cũng có những trở ngại, khó kiểm soát được "mìn tóc kéo" (Nữ chiến binh VC) đang phục kích trong hang khoảng 100 mét, quân TC luân phiên di chuyển để tráng phục kích, lúc này hai phía theo quy luật đánh du kích. Phó chính trị viên, chỉ huy hai tiểu đoàn TC, chuẩn bị đủ dây thừng, cọc tre dài và các thiết bị khác để sử dụng trong việc tìm kiếm hang động; tăng cường cảnh giác bên ngoài, chống kẻ thù chạy thoát.



























Tiểu đoàn 159 của TC, bám sát động Thạch Sơn, trong động hiểm trở có nhiều bậc thang và ngõ ngách. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [4]



















Vào ngày 8, đổi chiến thuật, đại đội trưởng và phó chính trị viên lãnh đạo một trung đội Sưu Tiễu (Souchao) dẫn theo 3 Trung đội, bố trí một cánh quân bên phải, một trung đội trưởng và hai nhóm trên bên trái, một nhóm đi về phía trước tìm kiếm, cả ba liên lạc với chỉ huy Tùy Ban (Suiban). Sau khi theo dõi 3 lỗ động cách đó khoảng 30 mét, trước mặt có thêm động Sơn Đỗng sâu thẩm khoảng 60 mét, tất cả đều một màu đen. Một nhóm có cọc tre 4 mét dài, xuống trước chạm bức tường đá dọc theo động, đôi chân thăm dò từng bước về phía trước, vô tình một tảng đá nhỏ rơi xuống van lên âm thanh manh theo gió hó, thu hút các vị trí của đối phương tiếp xúc được tiếng động. Chắc chắn, những âm thanh hướng đến đối phương như một quả bom. Theo ánh sáng phát ra khi kẻ thù (VC) đủ thời gian tránh được lựu đạn cay, khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi, sau khi xác định vị trí cụ thể của nó, những quả bom tiến về phía trước đối phương, những kẻ thù phải chết, binh lính TC cũng nhận thấy rằng kẻ thù khó trốn thoát.



















Đội quân 1 và 2 của TC luân phiên trải rộng đuổi theo dân quân địa phương, đến lỗ động nhỏ giết sạch cách miệng động khoảng 100 mét, phó chỉ huy khám phá một lỗ nhỏ, nơi đó có một số người ẩn nấp, vội cho một tốp lính đi dọc theo bức tường ở hai bên đầu, bắt sống được toàn bộ dân quân còn lại làm tù binh, hộ tống họ ra khỏi lỗ động. Trong số tù binh muốn kháng cự lại, quân TC bắn ngay tại chỗ chết 3 người dân cách khoảng 10 mét, khiến binh sĩ TC tiến hành theo dõi, tìm kiếm những lỗ động còn lại, đến cuối hang động, lính TC phát hiện nghe trẻ con đang khóc.



























Quân Trung Cộng không tha bất cứ già trẻ, giật sập cửa động, dùng khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi giết sạch mọi người trong động. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.



















Trong trường hợp này, quân TC chia nhau kiểm soát mỗi lỗ hang động, tiếp theo tập trung lực lượng quét sạch từng hang động một. Điểm đặc biệt có nhiều lỗ hang nhỏ khoảng năm mét được kết nối với nhau thành hai đầu lỗ, có độ dốc lớn, cho nên không rõ bao nhiêu người ẩn nấp. Trong các hang động ở phía cuối càng sâu hơn, đèn khí đá treo trong lỗ cũng là cách đánh lừa lạc hướng kẻ thù.







Quân Trung Cộng tổ chức đội hình tấn công vào hang động, việc đầu tiên dập tắt đèn khí đá, hai binh sĩ sử dụng một cột tre dài cho xuống lỗ, tiếp theo tìm kiếm phía dưới và ngụy trang không bịt lỗ ở đầu bên kia để thu hút đối phương, sau khi tìm được kẻ thù, chỉ cần một quả bom sẽ giết sạch, và sau đó nhanh chóng di chuyển bằng cách trượt tre dọc theo bức tường lỗ, tránh phản công.



















Sinh hoạt trong hang động, TC cho nhóm tình báo gián tiếp trà trộn trong quần chúng, bám vào dân quân du kích và lính VC, họ lấy quần chúng làm lá chắn ở phía trước, lính TC còn hãm hiếp phụ nữ trong hang động khuất, phần đông người dân tộc thiểu số, một điều lạ lúc sợ hãi tất cả mọi người tụng kinh "nặc tùng lá trống!"



















Sau khi thẩm vấn những nữ tù binh, họ cho biết bị lính TC tra tấn vô nhân đạo, lẫn ngày cả đêm, không gián đoạn bạo lực. Lính TC đã trở thành băng đảng hảm hiếp, xem nữ tù binh là chiến lợi phẩm, họ cho rằng trên chiến trường có quyền hưởng giải sầu, chúc mừng hạnh phúc, lính TC suy nghĩ đời chiến binh, chuyện đồng lõa hảm hiếp như một cơn say quá tuyệt vời. Tất nhiên họ có biện pháp không thể để có thai, hoặc sau khi hảm hiếp thủ tiêu.



















Ở phía trước núi Lâm Sơn (林山) thuộc dãy núi Laoshan, có hai phụ nữ Việt nằm trong lửa đã chết, chúng tôi ngập ngừng đi về phía trước cách hàng chục mét. Hỏi lý do nào "Hai người phụ nữ là kẻ thù của TC!" Một chỉ huy trưởng cho biết chết vì pháo binh. Tôi nói, không đúng họ chết vì hai viên đạn súng trường theo lối bóp cò, một tia bắn xuyên qua thung lũng thái dương tức khắc chết. Tôi thấy trong tầm nhìn, người phụ nữ Việt, lông mày bắn lên sợ hãi, viên đạn từ đầu cô nở ra, giật gân xương, đầu co lại một chút, sau đó mất hỗ trợ trên cổ, tiếp theo thân và chân mất sức mạnh, cơ thể mềm lăng xuống đất, họ bị thiêu xác phi tang. Một lập luận khác, lính TC hảm hiếp, sau đó tẩy rửa phi tang chứng.



















Tất cả điều này xảy ra trong chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc vào 1979-1989. Một lính TC còn lương tâm nói. Tôi không muốn sống trong chiến tranh, tôi không thể giết những người phụ nữ Việt Nam, chứng tỏ điều đó tôi thường giúp đỡ nữ tù binh về thuốc men. Nếu tôi cần cơ thể phụ nữ thì xin và có đồng tình cả hai, chính xác hơn tôi phải đặt mình trong phạm vi đạo đức. 60 ngàn binh sĩ TC trên chiến trường Việt Nam chỉ mới có một người chưa hẳng hoàn toàn lương thiện.



















Rất nhiều xác chết phụ nữ Việt Nam phía sau tôi, ông Dương Minh Vĩ (Yang Ming Wei) và ông Hoàng (Huang) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh, ghê tởm nhất họ lấy từng bộ phận làm thịt nhậu với rượu, trên môi của họ sảng khoái hút thuốc lá Hồng Tháp Sơn (Hongtashan). Cũng ngày hôm ấy tôi nhớ, doanh trại VC bị tấn công, giao tranh khoảng nửa giờ, TC kéo về chục xác chết của đồng đội, và pháo binh VC cắt đường dây điện thoại liên lạc về căn cứ Laoshan.



























Hai lính TC, Dương Minh (Yang Ming-杨明) và Hoàng (Huang-黄) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [5]



















Chúng tôi đi trong rừng nhiệt đới, ẩm ước khó thấy vệt sáng mờ, dễ dàng làm mồi cho phục kích hay mục tiêu của tay súng bắn tỉa. Ở trong rừng cảm thấy thời gian nào cũng có rủi ro, thê thảm nhất tử vong bằng khối lựu đạn "Bạo phá đồng" (爆破筒). Mỗi ngày sống trong tình trạng như vậy, khi ngủ đôi mắt cũng phải dè chừng phục kích. Hôm sau chiến sự ác liệt tại núi trọc, một phần của Lão Sơn để lại không bao nhiêu cây súng, nó đang âm thầm quan sát người lính thương vong, trên chiến trường không thể dự đoán trước, một viên đạn sẽ lấy đi tất cả mọi thứ của người lính.



















Dừng chân tại đỉnh núi, xa xa có đồi nhỏ, nơi quân đội TC trú đóng hơn một trăm lính, chúng tôi vừa đến nơi chuyện trước tiên đào hố cá nhân giữ mạng, đêm đó VC lẻn vào vị trí, nhưng rất may mắn được lệnh thu hồi binh từ bộ chỉ huy Laoshan. Đối với tôi, cái chết không phải là một điều khủng khiếp, bởi vì muốn nhận diện mặt trắng chiến tranh 1979-1989 phải chấp nhận gian lao và chết sống theo định mệnh. Như tất cả các phóng viên chiến trường họ chết sống vì lý tưởng truyền thông hay vì đất nước.



















TC tạo ra chiến tranh "tự vệ" chỉ để tàn sát trẻ em, giết sạch phụ nữ, nhân dân, cướp sạch tài sản và cướp phần đất biên giới của VN! cho thấy TC xâm lăng Việt Nam chỉ vì mục đích duy trì chiến sách quân sự gian manh, một áp lực lớn đối với nhân dân VN hôm nay.







Rất tiết VC không tuyên truyền cuộc chiến đúng như sự thật, không nâng sự quan tâm hiểu biết của quần chúng về cuộc chiến tranh biên giới vào thời điểm ngày 17 tháng 2 năm 1979-1989. Từ đó lòng dân đã mất phương hướng, Tổ quốc còn tồn hay đã vong, do đó chiến tranh bành trướng đã đi vào quên lãng!



















ÿ Huỳnh Tâm







Tham khảo.










TÙ BINH CHIẾN TRANH VIỆT NAM-TRUNG QUỐC 1979-1989 – KỲ 4







THÁNG MƯỜI 21, 2015 VIETNAMDAILY.NEWS ĐỂ LẠI PHẢN HỒI







Cựu nữ tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc nhớ lại: Vào tháng 2 năm 1979, khi quân đội TC xâm chiếm VN với khẩu hiệu “phản công tự vệ”, tiến quân từ quận Bàn Khê, Côn Minh, Vân Nam. Trong tháng TC đã lập hai trại tù chiến tranh tổng cộng 771 tù binh, riêng huyện Quân Thành Quảng Tây lập trại tù binh quân sự 1, 2 , 3, 4, 5. Quân đội tỉnh Quảng Tây thành lập trại tù binh 6, 7, 8.







Cán bộ quản chế trại tù binh giám đốc chính trị viên, dưới bộ phận tuyên truyền, khoa học vật liệu, giao cho Quản Khoa (IMSS), trạm y tế và ba đội canh phòng, mỗi đội canh giữ 120 tù binh, tổng số 995 tù binh, trong đó có 117 tù binh nữ, 878 tù binh nam, cấp úy hơn 15 tù binh. Tháng 2 năm 1979, quân đội của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam tiến vào biên giới Việt Nam tiêu diệt 40.000 người, bắt sống 2.766 tù binh, họ gọi là kẻ thù của chiến tranh. Đến cuối tháng 6 năm 1979, Trung Cộng khởi động trao đổi tù binh chiến tranh. [1]




Ngày 17 tháng 2 năm 1979. TC xua quân chiếm biên giới VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Ngày 16 tháng 3 năm 1979, tạm kết thúc cuộc chiến tranh “tự vệ” để chuyển qua chiến tranh “thu hồi biên giới”, tuy nhiên các cuộc xung đột vũ trang biên giới Trung-Việt vẫn tiếp tục, tù binh thường bị bắt trong các cuộc xung đột vũ trang.







Tháng 7 năm 1980, tỉnh Quảng Tây hình thành 1 trại tù binh chiến tranh mã 54.271, ở thời điểm này có 66 tù binh nam, 7 cán bộ, 59 binh sĩ. Ngoài ra, những người đào trốn trại 48 người, trong đó có 10 cán bộ, 35 binh sĩ, dân quân 3 người. Ngày 07 tháng 8 năm 1980, huyện Ngọc Khê, tỉnh Vân Nam thiết lập tiểu đoàn quân sự tạm trú tại VN, đến tháng tư năm 1989, ủy ban quân sự nhận được tổng cộng 94 tù binh. Ngoài ra, trốn trại 24 người, riêng văn phòng quân sự tỉnh, và phó tham mưu trưởng của bộ phận hải ngoại, tiếp nhận hơn 160 tù binh, tất cả trao trả vào đầu năm 1990.




Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ kéo dài hơn 10 năm, phía VN sử dụng tên lửa bắn rơi Trung đoàn 921 pháo binh, Tiểu đoàn 371 pháo binh, 2 Captain phi hành đoàn Thiểu Giáo. Trình Thủ Tông (John Chen), phó tham mưu trưởng của các bộ phận không quân, và tổng cộng 1.926 tù binh TC bị bắt bởi quân đội Việt Nam. Riêng tù binh VN bị TC bắt thuộc thành phần chính quy quân đội, lực lượng dân quân, cảnh sát, nhân viên vũ trang khác. Còn có những thành phần dân tộc thiểu số (kinh tộc-Jing), sống trong khu vực biên giới Trung-Việt như dân tộc Choang (Zhuang), Miêu, Dao và Dai.







Theo báo cáo quản lý phân khu, nhân viên quân sự TC, có ba khía cạnh tù binh:







Thứ nhất, cuộc chiến tranh trong môi trường dài hạn nghèo đói và lạc hậu kinh tế, thói quen không còn khả năng kiên trì để tồn tại. Kể từ khi có chiến tranh không bao giờ dừng lại, do nó chưa phải là xương sống của chiến đấu liên tục, kinh nghiệm thực tiễn, đa số các binh sĩ trong quân đội Việt Nam trước khi là thành viên của lực lượng dân quân hoặc huấn luyện quân sự nhận được tại các trường trung học cơ sở, nó có một phẩm chất quân sự nhất định. Chiến sĩ Việt Cộng không yêu cầu cuộc sống, nhất là giới trẻ từ các vùng nông thôn, cho ăn ba bữa một ngày là đã hài lòng.




Trại nữ tù binh tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Thứ hai, binh sĩ có tình cảm dân tộc hẹp hòi và quyền bá chủ của đảng kiểm soát tư tưởng tối đa. Người chiến binh Việt Nam tự tin Việt Cộng một cách quá mù quáng, họ suy nghĩ rằng “trong quá khứ đã đánh bại Nhật Bản, Pháp, giặc Mỹ, VNCH, bây giờ đã trở thành sức mạnh quân sự thứ ba trên thế giới, và xâm lăng Campuchia, kiểm soát Lào là “nghĩa vụ quốc tế.” Trong khi đó Việt Cộng chưa sản xuất được thực phẩm nuôi quân, kể cả cây kim sợi chỉ để khâu vá áo quần rách cũng không có, thử hỏi làm sao chế tạo ra một viên đạn cây súng, nếu không có Trung Cộng, Liên Xô chung cấp, viện trợ tối đa. [2]







Thứ ba, Việt Cộng tuyên truyền dối trá, trái lại nhân dân thích nghe lời mị dân lấy làm lạc quang nhưng không biết dó là địa ngục, khi ấy VC đẫm màu tiêu diệt những người có khác ý và cấp tiến. Theo các tù binh phản ánh nhà chức trách Việt Cộng vẫn xem Trung Cộng là “Anh em tình đảng tình đồng chí”, chỉ có “nhân dân Việt Nam chống lại kẻ thù quân xâm lược Trung Cộng.” Và có tin loan truyền về tù binh VC: “lính Trung Cộng bắt được một tù binh bằng mọi cách giết chết, hoặc chôn sống, lột da, hảm hiếp, châm kim độc sau vài ngày sẽ chết, được đảng khen thưởng một đầu người giá 500 nhân dân tệ.” “Binh lính Việt Nam sau khi bị bắt, sử lý nghiêm trọng, nhiều binh sĩ TC cho rằng Hồ Chí Minh không còn giá trị.




Báo tường trại tù binh, học tập chiến tranh “tự vệ” và theo lời dạy của Mao chủ tịch. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Để tăng cường anh ninh trại tù, TC ra sức quản lý tư tưởng và giáo dục cải tạo quan điểm, chính phủ TC không bao giờ thực hiện công ước “Geneva về quy định tù binh chiến tranh”, Tổng cục Chính trị TC đã ban hành “giáo dục, quản lý quan điểm tù binh”, đặc biệt công khai hướng dẫn tù binh theo nguyên tắc: Quan hệ hữu nghị giữa nhân dân, nâng cao “hòa bình, hữu nghị Mao-Hồ”.







Nhà chức trách Việt Cộng để lộ sự tuyên truyền dối trá, hầu xua tan nỗi lo âu và giảm bớt sự hiểu biết của nhân dân về chiến tranh biên giới. Nhà nước Việt Cộng khuyến khích nuôi lòng bạo lực đối với đồng chí trong tù. Việt Cộng không phản ánh tình trạng tù binh do TC bắt giữ. Sau khi trao trả tù binh VC sàng lọc phân chia nhiều thành phần, có thể mất mạng vì nghi ngơ phản động hay tình báo của TC.




TC di chuyển tù binh VN đến trại Lâm Sơn trong lãnh thổ VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Quân TC, chuyển tù binh VN đến trại mới phải xuyên rừng núi mất vài ngày, không chạm vào một giọt nước, chỉ hai ngày nóng, mồ hôi nhễ nhại cả người, ướt đẫm trên đôi vai, môi nứt nẻ ướm máu. Những người lính TC lấy con dao găm đâm vào cây chuối rừng để lấy nước uống, còn tù binh phải chịu đựng khát nước, thân thể lê thê khắc khoải. Bên đường có khu thảo vĩ, vị ngọt rất nhiều nước, những tù binh túm lấy ăn cả cây lẫn rễ, TC xem đây một cung cấp cho tù binh. Tất cả họ quì xuống đất tay chấp biết ơn trời cao, đã cung cấp sự vật cho họ qua cơn khát. Đi đến nửa đêm, tù binh ngủ tại sườn đồi, quân binh TC canh gác cẩn thận, sau ba đêm di chuyển cuối cùng có nữ tù binh Nguyễn thị Thắng bị chết.




TC trao trả tù binh cho VC. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Cán bộ quản giáo yêu cầu tù binh Tô Trung Lương (Su Zhongliang) hồi tưởng tình đồng chí của Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông, rất nhiều tù binh không đồng ý cho rằng, Tô Trung Lương là dân quân địa phương ở huyện chưa đủ quan điểm chính trị để giáo huấn tù binh. Quản giáo chỉ thị Tô Trung Lương viết lời cảm xúc trên báo tường: “Không có sự hỗ trợ chân thành của Trung Cộng, cách mạng Việt Cộng không thể thành công”. Nhiều tù binh với những giọt nước mắt, nói cho vừa lòng kẻ xâm lăng: “Chúng tôi sẽ không bao giờ quên lòng tốt của Trung Cộng đã duy trì tình hữu nghị với Việt Cộng và đóng góp lơn lao cho sự nghiệp của Bác.” Sau khi giải độc tù binh chính trị, Trung Cộng ken thưởng học tập tốt. Trại thực hiện một loạt hoạt động giải trí, cho xem phim chiến tranh biên giới VN-TQ, phát tiền cho mỗi tù binh được mua bán, thuốc lá, đèn pin, bút giấy mực vv…chơi thể thao trong thời gian rảnh rỗi, thường xuyên tổ chức đánh giá tù binh học tập tốt, hiểu biết chính trị, chiến tranh và tình bạn “Trung Cộng, tôn trọng đối với “Bác Hồ”, các dân tộc Việt Nam đều bạn bè, phản ánh quan điểm chính sách của Trung Cộng đã không thay đổi”. Những tù binh học tập tốt được kiểm tra sức khỏe, điều trị lúc bệnh, trái lại những tù binh học tập không tốt xem như nhà tù không quan tâm.




Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Nữ tù binh Việt Nam tại trại Đông Sơn tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Chiến binh Bảo Hoàng bị thương, quân đội nhân dân Việt Cộng bỏ rơi trên chiến trường, tự sống với một vết thương nghiêm trọng, lâu ngày nhiễm trùng viêm loét, đến lúc ông phải ra đầu hàng vì không có cách nào chống lại vết thương, sau khi được gửi vào trại tù, nhân viên y tế quân đội lập tức kiểm tra và điều trị. Ông biết ơn nói: “Tôi là người lính của chính phủ Việt Cộng hy sinh cuộc sống vì họ, khi bị thương họ xem không có vấn đề đối với tôi, nhưng đối với quân đội Trung Quốc cho tôi cuộc sống mới có nghĩa là chết đi sống lại”.







Tù binh không thể hiểu được chính sách TC, giáo dục tạo ra ấn tượng tốt về kỹ năng cuộc sống và phản công tổ chức đảng Cộng sản VN, phần nhiều trình độ học vấn của dân quân ở miền biên giới mù chữ, chỉ có 30% tiểu học, TC tha hồ giáo hoá tù binh theo một chiều chính trị Mao.







Huỳnh Tâm

TÙ BINH CHIẾN TRANH VIỆT NAM-TRUNG QUỐC 1979-1989 – KỲ 5







THÁNG MƯỜI 25, 2015 VIETNAMDAILY.NEWS ĐỂ LẠI PHẢN HỒI
















Ngày 17 tháng 2 năm 1979, chiến tranh biên giới diễn ra quá thảm thương và tàn nhẫn đối với nữ tù binh VN. Trung Cộng bắt đầu đẩy mạnh chiến tranh “tự vệ”. Theo “vòng hoa dưới núi” tiếng lóng giảm thiểu thương vong tại chiến trường. Biển người ồ ạt tiến vào biên giới, trong khi ấy dân quân Việt Nam tự phát chiếu đấu bảo vệ làng mạc. Người lính Trung Cộng thường gọi nữ tù binh “Con dấu” tiếng lóng, ám chỉ chiến lợi phẫm tha hồ hưởng thụ.







Trong khoảnh khắc Trung Cộng chiến thắng nhưng chưa đủ vinh quang nhận trả giá một chi phí cao không bao giờ ngờ đến hậu quả, cũng không thể quên rằng đã có 20.570 tuổi trẻ Trung Quốc chết một lúc tại 6 tỉnh biên giới trong lãnh thổ Việt Nam. Một trả giá bi thảm nhất của lịch sử Trung Quốc. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm [1]







Một tháng chiến tranh (17/2-16/3/1979) quân TC phải trả giá chi phí tử vong, bị thương và mất tích, theo thống kê của ký giả Lý Tồn Bảo (Li Cunbao). Ngày 16 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc trải qua đẫm máu nhất để lại dấu ấn lịch sử với con số chi phí sinh mạng phi thường tại chiến trường Việt Nam.




Tù binh TC tái phục hồi vũ trang, tiếp tục ra chiến trường. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm







Tổng kết từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3 năm 1979, phía quân đội Trung Cộng thiệt hại hy sinh, bị thương, và mất tích. [2]







Đại đoàn 41.







Sư đoàn 121 bộ binh, chi phí 734 binh sĩ thiệt mạng, 1172 bị thương 716 mất tích.







Sư đoàn 122 bộ binh, chi phí 582 binh sĩ thiệt mạng, 2294 bị thương, 1235 mất tích.







Sư đoàn 123 bộ binh, chi phí 1056 binh sĩ thiệt mạng, 1323 bị thương.







Tổng số thiệt hại của Quân đoàn 41: 2372 binh sĩ thiệt mạng, 4789 bị thương, 1951 mất tích.







Đại đoàn 42.







Sư đoàn 124 bộ binh, chi phí 215 binh sĩ thiệt mạng, 246 bị thương, 754 mất tích.







Sư đoàn 125 bộ binh, chi phí 432 binh sĩ thiệt mạng, 1215 bị thương, 1102 mất tích.







Sư đoàn 126 bộ binh, chi phí 302 binh sĩ thiệt mạng, 274 bị thương, 883 mất tích.







Quân đoàn 42 thiệt hại: 949 binh sĩ thiệt mạng, 1735 bị thương, 2739 mất tích.







Đại đoàn 55.







Sư đoàn 163 bộ binh, chi phí 612 binh sĩ thiệt mạng, 1.064 bị thương, 21







Sư đoàn 164 bộ binh, chi phí 209 binh sĩ thiệt mạng, 633 bị thương, 54.







Sư đoàn 165 bộ binh, chi phí 429 binh sĩ thiệt mạng, 1374 bị thương, 32 mất tích.







Quân đoàn 55 thiệt hại: 1250 binh sĩ thiệt mạng, 3071 bị thương, 107 mất tích.







Đại đoàn Quảng Tây.







Trung đoàn Zhuo biên phòng, chi phí 412 binh sĩ thiệt mạng, 859 bị thương, 54 mất tích.







Trung đoàn Border biên phòng, chi phí 276 binh sĩ thiệt mạng, 46 bị thương, 153 mất tích.







Trung đoàn 47 biên phòng, chi phí 219 binh sĩ thiệt mạng, 74 bị thương, 81 mất tích.







Tiểu đoàn biên phòng Li Zhuo, chi phí 521 binh sĩ thiệt mạng, 40 bị thương, 95 mất tích.







Quân đoàn Quảng Tây thiệt hại: 1428 binh sĩ thiệt mạng, 973 bị thương, 383 mất tích.







Đại đoàn 43.







Sư đoàn 127 bộ binh, chi phí 816 binh sĩ thiệt mạng, 202 bị thương, 342 mất tích.







Sư đoàn 128 bộ binh, chi phí 120 binh sĩ thiệt mạng, 447 bị thương, 291 mất tích.







Sư đoàn 129 bộ binh, chi phí 142 binh sĩ thiệt mạng, 374 bị thương, 174 mất tích.







Quân sự trực tiếp chi phí 21 binh sĩ thiệt mạng, 60 bị thương, 353 mất tích.







Tổng số thiệt hại của Quân đoàn 43: 1099 người thiệt mạng, 1083 bị thương 1.160 mất tích.







Đại đoàn 50.







Sư đoàn 148 bộ binh, chi phí 242 binh sĩ thiệt mạng, 541 bị thương, 242 mất tích.







Sư đoàn 150 bộ binh, chi phí 209 binh sĩ thiệt mạng, 504 bị thương, 156 mất tích.







Sư đoàn 58 bộ binh, chi phí 481 binh sĩ thiệt mạng, 176 bị thương, 198 mất tích.







Tổng số thiệt hại của Quân đoàn 50: 932 binh sĩ thiệt mạng, 1221 bị thương, 596 mất tích







Chú ý: Tháng 5 năm 1979, sau chiến tranh Sư đoàn 150, trung đoàn 448 bộ binh trao đổi tù binh 202 người.




Quân đội TC bị thương vong trong trận chiến Lào Cai. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm







Đại đoàn 54







Sư đoàn 160 bộ binh, chi phí 138 binh sĩ thiệt mạng, 245 bị thương, 71 mất tích.







Sư đoàn 161 bộ binh, chi phí 325 binh sĩ thiệt mạng, 346 bị thương, 162 mất tích.







Sư đoàn 162 bộ binh, chi phí 416 binh sĩ thiệt mạng, 152 bị thương, 329 mất tích.







Tổng số thiệt hại của Quân đoàn 54: 879 binh sĩ thiệt mạng, 743 bị thương, 562 mất tích.







Quân đoàn Tây Đô tuyến quân.







Ngày 11 -14 tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 50 thành lập Sư đoàn 149 tổng số 6.500 binh lính, bổ sung vào chiến trường Việt Nam.







Tổng số toàn diện chiến trường Đông-Tây, quân đội Trung Cộng trả giá chi phí thương vong, và mất tích, từ ngày 17/2-16/3/1979 tại 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Chi phí 8909 binh sĩ thiệt mạng, 13.615 bị thương, 6691 mất tích. Quân đội TC (PLA) tổng cộng thiệt hại 29.215 binh sĩ. [3]




Nghĩa trang Ma Lật Pha (Malipo) tỉnh Vân Nam Trung Quốc, thành lập vào năm 1979, hoàn thành năm 1988, diện tích 50 mẫu Anh. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.







Ngày tiết Thanh Minh mỗi năm đối với những người lính TC đã chết trong cuộc chiến tranh mùa Xuân năm 1979, có ý nghĩa lịch sử đáng nhớ về chiến tranh ô nhục của TC. Nhân dịp nhà nước công bố một danh sách nghĩa trang và binh sĩ tử vong, trên toàn quốc ghi ơn, tưởng nhớ “tử vì đạo” (chết vì TC).







Danh sách đối chiếu, sự thật của lính TC, tử vong tại biên giới Việt Nam 1979.







Nghĩ trang Quảng Đông có khoảng 1773 ngôi mộ tử vì đảng, hy sinh vì nhà nước Bắc Kinh. Quảng Châu 82 ngôi mộ, Phật Sơn 120 ngôi mộ, thành phố Đông Quan 142 ngôi mộ, thành phố Hà Nguyên 91 ngôi mộ, thành phố Huệ Châu 54 ngôi mộ, Giang Môn (Jiangmen) Yết Dương (Jieyang) 138 ngôi mộ, Mậu Danh (Maoming) 194 ngôi mộ, Mai Châu (Meizhou) 178 ngôi mộ. Nghĩa trang Phổ Trữ (Puning) Thanh Viễn 208 ngôi mộ, Sán Vĩ 29 ngôi mộ, Thiều Quan 46 ngôi mộ, Giang Dương Thẩm Quyến 55 ngôi mộ, Triệu Khánh 232 ngôi mộ, Trạm Giang 180 ngôi mộ, Trung Sơn 32 ngôi mộ, Chu Hải Quảng Đông 21 ngôi mộ, Vân Nam khoảng 1449 ngôi mộ, Côn Minh 232 ngôi mộ, Đại Lý Bai 199 ngôi mộ, Chiêu Thông (Zhaotong) Bảo Sơn 64 ngôi mộ, tự trị Châu tộc Sở Hùng (Dehong) Thái tộc 97 ngôi mộ, Cảnh Pha tộc (Jingpo) 25 ngôi mộ, Địch Khánh (Diqing) khu tự trị Tây Tạng 9 ngôi mộ, Hồng Hà Hani 198 ngôi mộ, Nộ Giang 9 ngôi mộ, Lệ Giang 53 ngôi mộ, thành phố Lincang 37 ngôi mộ, nghĩa trang người Phổ Nhị (Pu’er) Khúc Tĩnh (Qujing) 118 ngôi mộ, Ngọc Khê (Yuxi) 155 ngôi mộ, Nghĩa trang Văn Sơn Tráng tộc (Zhuang) và Miêu tộc (Miao) 264 ngôi mộ, Tây Song Bản Nạp (Xishuangbanna) và Thái tộc (Dai) 33 ngôi mộ; khu vực tự trị người Zhuang Quảng Tây 1420 ngôi mộ, Bắc Hải 22 ngôi mộ, Nam Ninh 242 ngôi mộ, Sùng Tả 80 ngôi mộ, Phòng Thành Cảng 27 ngôi mộ, Quế Lâm 106 ngôi mộ, Hạ Châu Hezhou 28 ngôi mộ, Hà Trì (Hechi) 149 ngôi mộ, Lai Tân Laibin 136 ngôi mộ, Liễu Châu 351 ngôi mộ, Khâm Châu (Qinzhou) 13 ngôi mộ, Ngô Châu (Wuzhou) 95 ngôi mộ, Du Lâm (Yulin) 72 ngôi mộ, Quý Cảng (Guigang) Quảng Tây (Guangxi) 92 ngôi mộ, Tịch Vô 7 ngôi mộ, Hồ Nam 1285 ngôi mộ, Trường Sa 146 ngôi mộ, Changde 196 ngôi mộ, Zhuzhou 47 ngôi mộ, Tương Đàm 51 ngôi mộ, Sâm Châu 63 ngôi mộ, Hành Dương 133 ngôi mộ, Huaihua 38 ngôi mộ, Lâu Để 119 ngôi mộ, Shaoyang 168 ngôi mộ, Vĩnh Châu 93 ngôi mộ, Ích Dương 70 ngôi mộ, Nhạc Dương 120 ngôi mộ, Trương Gia 12 ngôi mộ, Tương Tây thổ gia tộc (Xiangxi Tujia) 14 ngôi mộ, Hồ Nam, 15 ngôi mộ, Quý Châu tử đạo khoảng 1053 ngôi mộ, Quý Dương 108 ngôi mộ, Lục Bàn Thủy 63 ngôi mộ, tuân nghĩa 122 ngôi mộ, An Thuận (Anshun) 65 ngôi mộ, Đồng Nhân Tongren 126 ngôi mộ, Quý Châu 71 ngôi mộ, Tất Tiết (Bijie) 208 ngôi mộ, Đông Nam Quý Châu 147 ngôi mộ, Kiềm Nam Bố Y tộc Miêu tộc (Qiannan Buyi và Miao) 134 ngôi mộ, Quý Châu 9 ngôi mộ, Tứ Xuyên khoảng 699 ngôi mộ, Thành Đô 68 ngôi mộ, Nội Giang 52 ngôi mộ, ba trung (Bazhong) 48 ngôi mộ, đạt châu (Dazhou) 7 ngôi mộ, Đức Dương 79 ngôi mộ, Quảng An 10 ngôi mộ, Quảng Nguyên 23 ngôi mộ, Lạc Sơn 34 ngôi mộ, Lô Châu 31 ngôi mộ, Mi Sơn 41 ngôi mộ, Miên Dương 36 ngôi mộ, Nanchong 59 ngôi mộ, Zigong 16 ngôi mộ, Suining 6 ngôi mộ, Tử Dương 26 ngôi mộ, Ya’an 37 ngôi mộ, Phàn Chi Hoa 4 ngôi mộ, Aba Tây Tạng 25 ngôi mộ, Qiang 21 ngôi mộ, Ganzi tự trị Tây Tạng 27 ngôi mộ, Lương Sơn, Tứ Xuyên 43 ngôi mộ, Tứ Xuyên 16 ngôi mộ, Hà Nam 571 ngôi mộ, Trịnh Châu 39 ngôi mộ, An Dương 30 ngôi mộ, Hebi 4 ngôi mộ, Khai Phong 19 ngôi mộ, thành phố Lạc Dương 28 ngôi mộ, Nam Dương (Nanyang) 83 ngôi mộ, Bình Đỉnh Sơn 25 ngôi mộ, Bộc Dương 23 ngôi mộ, Tiêu Tác 10 ngôi mộ, Tam Môn Hiệp 20 ngôi mộ, Thương Khâu 35 ngôi mộ, Tân Hương (Xinxiang) 27 ngôi mộ, Tín Dương 97 ngôi mộ, Hứa Xương 25 ngôi mộ, Chu Khẩu 58 ngôi mộ, Zhumadian 17 ngôi mộ, Tháp Hà 14 ngôi mộ, Hà Nam 4 ngôi mộ, Hồ Bắc 544 ngôi mộ, Vũ Hán 57 ngôi mộ, Bristol City 9 ngôi mộ, Xianning 55 ngôi mộ, Tương Phàn Thành 29 ngôi mộ, thành phố Xiaogan 49 ngôi mộ, Nghi Xương 20 ngôi mộ, thiên môn (Tianmen) 51 ngôi mộ, tiềm giang (Qianjiang) 31 ngôi mộ, Hoàng Cương 44 ngôi mộ, Ngạc Châu 24 ngôi mộ, Thành phố Hoàng Thạch 12 ngôi mộ, kinh môn (Jingmen) 6 ngôi mộ, Kinh Châu 34 ngôi mộ, Thập Yển 14 ngôi mộ, Suizhou 44 ngôi mộ, Enshi Tujia và Miao 44 ngôi mộ, Hồ Bắc 71 ngôi mộ, Sơn Đông khoảng 431 ngôi mộ, Tế Nam 15 ngôi mộ, Đức Châu 21 ngôi mộ, Đông Dinh 8 ngôi mộ, Hà Trạch 52 ngôi mộ, Tế Ninh 38 ngôi mộ, Lai Vu 11 ngôi mộ, Liêu 20 ngôi mộ, thành phố Binzhou 15 ngôi mộ, Thanh Đảo 36 ngôi mộ, Lâm Nghi 59 ngôi mộ, Nhật Chiếu 8 ngôi mộ, Thái An 14 ngôi mộ, Duy Phường 22 ngôi mộ, Uy Hải 36 ngôi mộ, Yên Đài 17 ngôi mộ, Tảo Trang 32 ngôi mộ, Truy Bác 18 ngôi mộ, Sơn Đông 10 ngôi mộ, Giang Tô 387 ngôi mộ, Thường Châu 15 ngôi mộ, Nam Kinh 42 ngôi mộ, Hoài An 92 ngôi mộ, Liên Vân Cảng 9 ngôi mộ, Nantong 57 ngôi mộ, Tô Châu 21 ngôi mộ, Suqian 11 ngôi mộ, Taizhou 26 ngôi mộ, Vô Tích 9 ngôi mộ, Từ Châu 19 ngôi mộ, Diêm Thành 45 ngôi mộ, Dương Châu 67 ngôi mộ, Trấn Giang 24 ngôi mộ, Giang Tô 82 ngôi mộ, Trùng Khánh 320 ngôi mộ, Giang Tây 293 ngôi mộ, Nanchang 23 ngôi mộ, Cửu Giang 29 ngôi mộ, Phúc Châu 15 ngôi mộ, Ganzhou 76 ngôi mộ, Ji’an 16 ngôi mộ, Bình Hương 8 ngôi mộ, Jingdezhen City 12 ngôi mộ, Shangrao City 36 ngôi mộ, Tân Dư 6 ngôi mộ, Yichun 68 ngôi mộ, Ưng Đàm City 24 ngôi mộ, Phong City 2 ngôi mộ, Thỏa hiệp l4 ngôi mộ, An Huy tử đạo khoảng 246 ngôi mộ, Hợp Phì 29 ngôi mộ, An Khánh City 45 ngôi mộ, Bạng Phụ City 9 ngôi mộ, Original Chaohu 5 ngôi mộ, Chizhou 3 ngôi mộ, Hao Zhoushi 8 ngôi mộ, Chuzhou 9 ngôi mộ, Phụ Dương 14 ngôi mộ, Lu’an phố 47 ngôi mộ, Tuyên Thành 10 ngôi mộ, Tô Châu 21 ngôi mộ, Wuhu City 7 ngôi mộ, Ma’anshan City 81 ngôi mộ, Hoài Nam 18 ngôi mộ, Huaibei 11 ngôi mộ, Đồng Lăng City 52 ngôi mộ, Huangshan City 4 ngôi mộ, Phúc Kiến 238 ngôi mộ, Fuzhou 32 ngôi mộ, Long Nham 24 ngôi mộ, Ningde City 18 ngôi mộ, Phủ Điền 15 ngôi mộ, Tuyền Châu 64 ngôi mộ, Tam Minh 15 ngôi mộ, Hạ Môn 3 ngôi mộ, Chương Châu 12 ngôi mộ, Nam Bình 15 ngôi mộ, Hà Bắc tử đạo khoảng 202 ngôi mộ, Thạch Gia Trang 30 ngôi mộ, Baoding 29 ngôi mộ, Cangzhou City 19 ngôi mộ, Thừa Đức City 2 ngôi mộ, Handan 53 ngôi mộ, Hành Thủy City 42 ngôi mộ, Lang Phường 35 ngôi mộ, Qinhuangdao City 18 ngôi mộ, Hình Đài City 7 ngôi mộ, Zhangjiakou City 5 ngôi mộ, Đường Sơn 16 ngôi mộ, Hà Bắc Ji 93 ngôi mộ, Chiết Giang 190 ngôi mộ, Hàng Châu 33 ngôi mộ, Hồ Châu 11 ngôi mộ, Gia Hưng 8 ngôi mộ, Kim Hoa City 22 ngôi mộ, Lishui City 10 ngôi mộ, Ningbo 26 ngôi mộ, Cù Châu 11 ngôi mộ, Thiệu Hưng 37 ngôi mộ, Taizhou 11 ngôi mộ, Ôn Châu 17 ngôi mộ, Zhoushan 4 ngôi mộ, Thiểm Tây 79 ngôi mộ, Tây An 5 ngôi mộ, Xianyang City 13 ngôi mộ, Yan’an City 15 ngôi mộ, Weinan 23 ngôi mộ, Ankang City 78 ngôi mộ, Baoji 4 ngôi mộ, Hanzhong 13 ngôi mộ, Shangluo City 5 ngôi mộ, Hải Nam 71 ngôi mộ, Haikou 24 ngôi mộ, Sanya City 68 ngôi mộ, Sơn Tây 56 ngôi mộ, Thái Nguyên 31 ngôi mộ, Đại Đồng 23 ngôi mộ, Tấn Thành 53 ngôi mộ, Jinzhong City 43 ngôi mộ, Lâm Phần 81 ngôi mộ, Luliang phố 61 ngôi mộ, Yuanping City 11 ngôi mộ, Changzhi 26 ngôi mộ, Thượng Hải 55 ngôi mộ, Bắc Kinh 97 ngôi mộ, Cam Túc 46 ngôi mộ, Lan Châu 21 ngôi mộ, Longnan City 12 ngôi mộ, Bình Lương 13 ngôi mộ, Khánh Dương City 11 ngôi mộ, Thiên Thủy City 9 ngôi mộ, Mighty City 7 ngôi mộ, Liêu Ninh 13 ngôi mộ, Dalian 24 ngôi mộ, Đan Đông 33 ngôi mộ, Cẩm Châu 2 ngôi mộ, Andong 8 ngôi mộ, Dinh Khẩu City 7 ngôi mộ, Anshan City 61 ngôi mộ, Wafangdian City 21 ngôi mộ, Thiết Lĩnh 11 ngôi mộ, Fuxin City 61 ngôi mộ, Hắc Long Giang 12 ngôi mộ, Harbin 6 ngôi mộ, Hulin 11 ngôi mộ, Qitaihe City 31 ngôi mộ, Tuy hóa Đại Khánh 21 ngôi mộ, Hắc Long Giang 95 ngôi mộ, Cát Lâm 89 ngôi mộ, Cát Lâm 16 ngôi mộ, Trường Xuân 92 ngôi mộ, Yanji City 52 ngôi mộ, Baicheng City 21 ngôi mộ, Songyuan City 53 ngôi mộ, Ninh Hạ Hui 42 ngôi mộ, Ningwu City 2 ngôi mộ, Wuzhong 91 ngôi mộ, Ninh Hạ Ji 13 ngôi mộ, Mongolia khoảng 23 ngôi mộ, Xích Phong 21 ngôi mộ, Xinganmeng 13 ngôi mộ, Tongliao 51 ngôi mộ, Qinghai 35 ngôi mộ, Tây Ninh 23 ngôi mộ, Tân Cương 132 ngôi mộ, Urumqi 129 ngôi mộ.




Trung Quốc có 24.787 ngôi mộ, Liễu Châu Quảng Tây là một trên 315 nghĩa trang. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.[4]







Từ một quan điểm thống kê này đã nhận định được quân đội TC tổn thất quá nặng tại chiến tranh biên giới phía đông. Thuộc khu vực quân sự Quảng Châu dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou-许世友), Hứa Thế Hữu xua quân biển người chống Việt Nam! Còn lão Đặng Tiểu Bình (邓小平) giữ chặt lệnh “âm phụng dương” (Yinfeng Yang) không sợ vi phạm tội ác chiến tranh!







Dòng tiến quân thứ hai từ Quân khu Côn Minh do tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi杨得志) chỉ huy, Lương Quang Liệt (Liang Guanglie-梁光烈) được trao trách nhiệm phó soái, áp dụng chiến thuật thận trọng, ít tổn thất, tuy nhiên, quân đoàn 316A bị xóa sổ một bộ phận tác chiến. [5]







Việt Nam bước vào cuộc chiến tranh 10 năm tiêu hao (1979-1989), nền kinh tế sụp đổ, xã hội tụt hậu hơn 100 năm. Ngày nay đất nước đã trải qua 36 năm (1979-2015), Việt Cộng vẫn chưa công bố trước nhân dân hiểu biết về danh sách tử vong, mất tích, và không tổ chức ngày lễ ghi ơn liệt sĩ, cho thấy “Bác” đảng quá xem thường nhân dân Việt Nam.







Huỳnh Tâm







Tham khảo.







[1] http://www.licai.com/yuedu/201402-55652.html







[2] http://club.china.com/data/thread/272425572/2759/24/23/2_1.html







[3] http://www.ilishi.com/shijiefengyunlu/20140928/10883.html







[4] http://club.china.com/data/thread/12171906/2738/04/62/8_1.html







[5] http://www.timetw.com/5194.html










Về quảng cáo




CHIA SẺ:

No comments:

Post a Comment