Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 31 October 2016

NHIỀU TRÁI ĐẤT = HOA HÂU = BÚN BÒ

TRÁI ĐẤT THỨ HAI VÀ THỨ BA



Những bí ẩn mới khám phá về 'Trái Đất thứ hai'

Kepler-452b, hành tinh giống Trái Đất nhất được phát hiện cho đến nay, có thể ấm hơn, rộng lớn hơn, và có nước trên bề mặt.
 
kepler452b-9240-1437735298.jpg
Mô phỏng Kepler-452b và mặt trời của nó. Ảnh: NASA
Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ hôm nay tuyên bố tìm ra Kepler-452b, hành tinh được coi như "Trái Đất thứ hai", với nhiều đặc điểm thích hợp cho sự sống phát triển như địa cầu.
Thời gian trên Kepler-452b tương tự như Trái Đất
Một năm trên "Trái Đất thứ hai" - thời gian để Kepler-452b quay quanh sao mẹ là 385 ngày, chỉ hơn 20 ngày so với một năm trên địa cầu.
Đây là sự khác biệt đáng chú ý so với những hành tinh khác gần Trái Đất như sao Kim. Một năm của sao Kim là 88 ngày Trái Đất, còn một năm trên sao Hải Vương - hành tinh xa hơn trong hệ Mặt Trời, là 185 năm Trái Đất.
Nó đã trải qua hàng tỉ năm bay trong vùng thích hợp quanh sao mẹ
Kepler 452 - sao mẹ của Kepler-452b, già hơn Mặt Trời của chúng ta khoảng 1,5 tỷ năm tuổi. Nếu một hành tinh quá gần sao mẹ, nó sẽ quá nóng để hình thành sự sống. Nếu quá xa, nó sẽ quá lạnh, cũng không thể hình thành sự sống.
Kepler-452b giữ khoảng cách lý tưởng
với sao mẹ của nó trong hảng tỉ năm. Theo Jon Jenkins, dữ liệu phân tích của tàu thăm dò vũ trụ Kepler cho thấy, điều này có nghĩa là rất có thể nó thích hợp cho sự sống nảy sinh trên bề mặt, hoặc ít nhất, là từng có sự sống tồn tại.
Có thể có núi lửa đang hoạt động và nước trên bề mặt
Rất có thể Kepler-452b có nhiệt độ thích hợp để nước tồn tại ở dạng lỏng trên bề mặt. Đây là điều cần thiết để hỗ trợ sự sống. 
Theo John Coughlin, nghiên cứu viên Viện SETI, California, Mỹ, nhóm nghiên cứu thuộc dự án Kepler đã hợp tấc với các nhà địa chất học, tìm ra cấu trúc của hành tinh này. Dựa theo kích cỡ và tuổi của nó, đây dường như là một hành tinh đá, đồng nghĩa với việc có thể núi lửa đang hoạt động dưới bề mặt.
keplersurface-3086-1437735298.jpg
Mô phỏng núi lửa đang hoạt động trên bề mặt Kepler-452b. Đồ họa: Independent
Con người có khả năng sống tại nơi có lực hấp dẫn mạnh ở Kepler- 452b
Hành tinh mới to hơn Trái Đất một chút, ước tính có trọng lực mạnh gấp đôi địa cầu. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học dự án Kepler, điều này không có nghĩa là nó không thích hợp cho việc sinh sống trên đó.
Jenkins cho biết, con người có thể "thích nghi" với trọng lực đó, thậm chí cơ thể sẽ "rắn chắc và cơ bắp hơn qua nhiều thế hệ."
"Con người sẵn sàng thích nghi với trọng lượng nặng - loài người được sinh ra để làm điều này. Cơ thể người có khả năng tự sửa chữa tuyệt vời. Vì vậy, theo thời gian, con người có thể thích nghi."
Hệ thực vật phát triển
Sao mẹ của Kepler-452 to hơn Mặt Trời của chúng ta. Ánh sáng và nhiệt năng mà nó nhận được từ sao mẹ không chỉ khiến nó ấm hơn Trái Đất, mà còn đồng nghĩa với việc hệ thực vật có thể phát triển ở đó.
Cây cối quang hợp, sinh ra không khí cho con người hít thở. Theo đó, nếu xây dựng thảm thực vật đủ lớn, sản xuất đủ không khí cho con người và động vật sống ở Kepler 452b.
"Ánh sáng mặt từ sao chủ hệ Kepler gần giống với Mặt Trời của chúng ta. Do đó, cây cối có thể quang hợp tương tự. Trên đó chắc sẽ rất giống Trái Đất," Jenkins cho biết.
Làn da rám nắng
"Kepler 452b nhận cùng một loại quang phổ và cường độ ánh sáng như chúng ta nhận được trên Trái Đất. Do đó, nếu hành tinh này là một hành tinh đá và có khí quyển, cây cối có thể phát triển. Chúng ta thậm chí còn có thể đi nghỉ ở đó, phơi cho làn da rám nắng," tiến sĩ Daniel Brown, chuyên gia thiên văn học, đại học Trent, Nottingham, cho biết.
Các nhà khoa học đang tiến hành rất nhiều nghiên cứu về hành tinh này, để tìm hiểu chắc chắn thứ gì có thể phát triển được trên Kepler 452b.
Du hành đến "Trái Đất thứ hai"
Kepler-452b ấm áp, có thể có nước và sự sống, tuy nhiên, nó cách chúng ta đến 1.400 năm ánh sáng. Một năm ánh sáng là khoảng cách một chùm sáng có thể di chuyển được trong một năm. Ánh sáng di chuyển khoảng 670 triệu dặm (1.078 triệu km) một giờ. Ánh sáng từ Mặt Trời mất đến 8 phút mới rọi tới Trái Đất.
Nếu một con tàu vũ trụ chở người đi đến Kepler 452b, cần mất tới 25,8 triệu năm để tới đó. Đây là thời gian không tưởng đối với con người, trừ phi chúng ta tìm được cách cải thiện tốc độ tàu vũ trụ trong tương lai.
Hồng Hạnh (theo Independent)

TRÁI ĐẤT THỨ BA

Hành tinh này có một bề mặt rắn, có thể chứa nước dạng lỏng và tiềm năng nuôi dưỡng sự sống.

Mới đây các nhà thiên văn học người Úc đã phát hiện ra một hành tinh có tiềm năng rất lớn để trở thành một "Trái đất thứ 3". Hành tinh mang tên: Wolf 1061c.
Hành tinh này có khối lượng gấp 4 lần Trái đất, và là một trong 3 hành tinh có quỹ đạo xoay xung quanh sao lùn Wolf 1061 - ngôi sao có nhiệt độ thấp và khối lượng nhỏ hơn Mặt trời rất nhiều lần. Điểm đặc biệt là hệ thống sao - hành tinh này chỉ cách chúng ta 14 năm ánh sáng - tức là gần hơn rất nhiều so với "Trái đất thứ 2" Kepler 452b.

\


Theo tiến sĩ Duncan Wright tại ĐH New South Wales (Úc): "Phát hiện này thực sự ấn tượng, vì cả 3 hành tinh đều có khối lượng thấp vừa đủ để có một bề mặt rắn. Hành tinh ở giữa - Wolf 1061c - còn nằm trong vùng Goldilocks - cho thấy có khả năng hành tinh này chứa nước dạng lỏng, và thậm chí có sự sống nữa".




Quỹ đạo của Wolf 1061c (giữa) nằm trong vùng Goldilocks - khu vực ở được (màu xanh lá cây)
Bộ 3 hành tinh Wolf 1061 b, c, d có quỹ đạo xoay quanh sao chủ lần lượt là 5, 18 và 67 ngày. Trong đó, Wolf 1061 b và d ở khoảng cách quá gần hoặc quá xa nên không thể hỗ trợ sự sống.
Tiến sĩ Wright chia sẻ thêm: "Do khoảng cách khá gần với sao chủ Wolf 1061, chúng ta sẽ có thể tìm hiểu được bầu khí quyển của những hành tinh này trong tương lai, và xác định xem chúng có thể nuôi dưỡng sự sống hay không".


 
\Wolf 1061c có thể là hi vọng mới cho loài người


Theo một số chuyên gia, các hành tinh có bề mặt rắn có rất nhiều trong vũ trụ nhưng hầu hết đều cách chúng ta hàng ngàn năm ánh sáng - đồng nghĩa với công nghệ hiện tại, việc di chuyển đến đó là bất khả thi. Do đó, Wolf 1061c có thể đang là niềm hi vọng số 1 của nhân loại.
Nguồn: Daily Mail
Theo Oct / Trí Thức Trẻ



CHÂU HIỀN LY * NHÌN LẠI



Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai .


Châu Hiển Lý 
( Bộ đội tập kết 1954 ).

Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!
150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 37 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.

Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.
Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :
_ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
_ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?

Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
_ Tại sao đàn ông? của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm công cho các nước tư bản?
_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?

Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.
Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.
Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.
Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .
Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.
Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…

Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.
Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.
Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.

Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.

Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !
Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẻn.
Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”
Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?
Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?
Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.
Châu Hiển Lý
(Bộ đội tập kết 1954)

HOA HẬU



  

Nữ sinh viên Tây Ban Nha đoạt vương miện Hoa hậu Thế giới 2015


media 

Mireia Lalaguna giành vương miện "Hoa hậu Thế giới 2015" - DR

Chiếc vương miện "Hoa hậu Thế giới 2015" đã đuợc trao cho người đẹp Tây Ban Nha Mireia Lalaguna trong cuộc thi lần thứ 65 tổ chức vào đêm thứ Bảy 19/12/2015, tại thành phố Tam Á, đảo Hải Nam, Trung Quốc.
Cô sinh viên ngành dược khoa, đại học Barcelona, đã đánh bại 113 đối thủ mỹ nhân địa cầu. Mireia Lalaguna tuyên bố « được kết quả này là nhờ vào tình yêu thương ủng hộ của gia đình, của những người mà tôi đã gặp và mong ước thành công. Tôi muốn chứng tỏ với mọi người là tôi xứng đáng với danh hiệu hoa hậu thế giới và tôi sẽ làm cho tất cả hãnh diện ».
Á hậu thế giới 2015 là hoa hậu người Nga Sofia Nikitchouk ? Hạng ba là người đẹp Indonesia Maria Harfani. Cuộc thi hoa hậu diễn ra tại Trung Quốc không hẳn là thành công tốt đẹp. Chính quyền Trung Quốc không cấp visa cho hoa hậu Canada đến tham dự.
Cô Anastasia Lin - Lâm Gia Phàm đã tố cáo chính quyền Trung Quốc trả thù cá nhân vì các hoạt động chống đàn áp nhân quyền tại Trung Quốc. Không riêng cá nhân cô sinh viên gốc Canada bị trừng phạt mà thân nhân ở Hoa lục cũng bị hù dọa.
Hoa hậu Pháp 2016
Tại Pháp, trong hai năm liên tiếp, người đẹp vùng Nord - Pas de Calais đoạt vương miện hoa hậu. Người đoạt giải năm nay là Iris Mittenaere, 22 tuổi, sinh viên Nha khoa năm thứ năm. Còn lần trước là cô Camille Cerf cũng là hoa hậu đến từ vùng Nord - Pas de Calais.
Cuộc thi Hoa hậu Pháp hàng năm thu hút gần 9 triệu khán giả truyền hình. Chủ tịch ban giám khảo xướng tên thí sinh trúng giải trong đêm thứ Bảy 19/12/2015 là nhà thiết kế thời trang lừng danh Jean Paul Gaultier.
 http://vi.rfi.fr/xa-hoi/20151220-nu-sinh-vien-tay-ban-nha-doat-vuong-mien-hoa-hau-the-gioi-2015





Bắc Kinh không cấp visa : Hoa hậu Canada tiếp tục lên tiếng


media 
Hoa hậu Canada Lâm Gia Phàm nhắn tin trên mạng xã hội (DR)
‘‘Không có gì sai trái trong những chuyện tôi làm, không có gì sai trái trong việc tôi lên tiếng’’. Bằng hàng tin nhắn trên các mạng xã hội, cô Lâm Gia Phàm (Anastasia Lin), đại diện cho Canada dự thi Hoa hậu Thế giới, tổ chức tại Trung Quốc tiếp tục nói về việc chính quyền Bắc Kinh không cấp visa nhập cảnh, cũng như quyết định cấm cô đáp chuyến bay từ Hồng Kông sang Hoa lục hôm 26/11/2015.
Cuộc thi Hoa hậu Thế giới dự trù diễn ra hôm 19/12/2015 tại thành phố Tam Á (Sanya), thời hạn chót để nộp visa cho ban tổ chức là 20/11. Các cuộc tập dợt cho lễ trao vương miện Hoa hậu Thế giới 2015 đã bất đầu từ hôm 23/11. Điều đó có nghĩa là cô Lâm Gia Phàm người gốc Hoa hầu như không còn hy vọng nào để đại diện cho Canada trong cuộc thi này.
Trả lời phỏng vấn của báo Huffington Post, cô Lâm Gia Phàm nói thẳng đây không phải là một vấn đề về thủ tục cấp visa hay giấy tờ hành chính, mà là biện pháp trả đũa của Bắc Kinh hầu ‘‘bịt miệng’’ những người bất đồng chính kiến. Cô Lâm Gia Phàm từng tham gia điều trần trước Quốc hội Mỹ hồi tháng Bảy 2015 về tình trạng đàn áp tôn giáo tại Trung Quốc. Cô cũng từng đóng vai một thành viên Pháp Luân Công bị cầm tù trong bộ phim ‘‘The Bleeding Edge’’.
Ngoài việc bày tỏ nỗi thất vọng khi không được trở về nước sau 12 năm sống xa nhà, cô cũng cho biết nỗi lo ngại cho thân phụ của cô còn ở Hoa lục. Cô cho biết là vì sợ bị nghe lén, cha cô không còn muốn nói chuyện qua điện thoại, lần cuối cô nhận được tin nhắn của ông bố là vào ngày 02/11. Tin nhắn chỉ vỏn vẹn có vài chữ : ‘‘Tốt nhất là con đừng về’’.
Cô Lâm Gia Phàm cũng cho biết là cô thất vọng vì chính phủ Canada không có lập trường dứt khoát hơn về vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc. Phía Bộ Ngoại giao Canada cho biết không bình luận gì về quyết định không cấp visa của Trung Quốc. Cả hai ban tổ chức Hoa hậu Thế giới, phía Canada cũng như phía Trung Quốc, cũng không nhận điện thoại của phóng viên Huffington Post.
Trả lời báo New York Times về vụ này, cô Lâm Gia Phàm cho biết cô bức xúc nhưng không ngạc nhiên trước quyết định không cấp visa của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, chính quyền Bắc Kinh từng cấm các đợt biểu diễn của Bon Jovi, Oasis hay Bjork. Các diễn viên như Brad Pitt, Christian Bale, Harisson Ford và nhất là Richard Gere cũng bị Trung Quốc từ chối cấp visa, do họ đã từng có phát biểu ủng hộ Tây Tạng hay Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng với trường hợp của cô Lâm Gia Phàm, thì đây có lẽ là lần đầu tiên một hoa hậu bị Bắc Kinh cấm cửa.
 http://vi.rfi.fr/xa-hoi/20151129-bac-kinh-khong-cap-visa-hoa-hau-canada-tiep-tuc-len-tieng




Nữ sinh tóc vàng Nord Pas-de-Calais trở thành Hoa hậu Pháp


media 


Zénith d'Orléans, nơi diễn ra cuộc thi Hoa hậu nước Pháp 2015, ngày 06/12/2014.Ảnh Wikipedia


Hôm qua, 06/12/2014, tại Orléans, danh hiệu Hoa hậu Pháp lần thứ 68 đã được trao cho một thiếu nữ 19 tuổi, người vùng Nord Pas-de-Calais. Cuộc thi Hoa hậu đã thu hút 8,5 triệu khán giả kênh truyền hình TF1, kênh độc quyền cuộc thi Hoa hậu nước Pháp.
Camille Cerf - cao 1,80 mét - đã vượt qua 32 đối thủ tuổi từ 18 đến 24 để giành ngôi vị nữ hoàng sắc đẹp nước Pháp. Trong số các ứng cử viên Hoa hậu năm nay, có 8 người tóc vàng, 16 tóc đen và 9 người tóc hạt dẻ. Danh hiệu Hoa hậu nước Pháp do chính các khán giả truyền hình quyết định, trong số 5 ứng cử viên vào vòng chung kết. Camille Cerf sẽ đại diện cho nước Pháp tranh giải Hoa hậu thế giới 2014 tại Luân Đôn (ngày 14/12).
Sinh viên năm thứ hai một trường thương mại ở Lille, Camille Cerf đã từng có dự định trở thành kỹ thuật viên nha khoa, người mẫu hay phóng viên tạp chí mốt. Hiện tại cô muốn làm nghề tùy viên báo chí. Sau khi đoạt giải, cô cho biết sẽ tận dụng những cơ hội để thực hiện một số việc cụ thể như khởi động một hiệp hội giúp những người ung thư sống tốt hơn (Camille Cerf có người cha mất vì ung thư hồi tháng 9). Cô cũng mong muốn phát triển một doanh nghiệp địa phương và nâng nó lên tầm quốc gia. Cuối năm tới, Camille Cerf sẽ trở lại trường học.


Về lý do chiến thắng của Camille Cerf trong cuộc thi, tạp chí L’Express nhận xét Camille Cerf đã giành được cảm tình của rất nhiều người vùng Nord Pas-de-Calais, nơi chưa có ai đoạt vương miện Hoa hậu nước Pháp. Cô đã tiến hành một chiến dịch quảng bá khôn khéo về bản thân, rất sớm trước vòng chung kết. Hoa hậu tương lai từng làm người mẫu và cảm thấy rất thoải mái trên sân khấu…
Về thứ nhì trong cuộc thi là một thiếu nữ người Tahiti, cô Hinarere Taputu. Tahiti là một đảo thuộc Polynésie trên Thái Bình Dương, vùng lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp. Đây là lần thứ ba liên tiếp một thiếu nữ Tahiti trở thành Á hậu Miss France. Năm 2013, chính quyền địa phương Polynésie từng khiếu nại vì hơn 122.000 phiếu của dân cư Polynésie không được tính đến. Sau vụ bê bối này, tài tử Alain Delon từ chức « chủ tịch Ban giám khảo suốt đời ».
Có nhiều cách nhìn khác nhau về cuộc thi Hoa hậu. Bên cạnh cuộc thi lớn Miss nước Pháp, một cựu chủ tịch của Miss France - bà Geneviève de Fonteney - đã lập ra một giải Hoa hậu « đối lập » : Miss Prestige National. Giải - hoạt động từ năm 2010 - cũng cử người tham dự Hoa hậu thế giới.


Giải Hoa hậu Nông nghiệp Pháp và những cách nhìn khác về cuộc thi Hoa hậu
Còn năm nay, theo AFP, để phản đối tính độc quyền của cuộc thi Hoa hậu, với các thiếu nữ « trong các trang phục theo quy định và không có sắc thái riêng », Patricia Ferayssac – một phụ nữ làm nghề nuôi bò – tỉnh Cantal, vùng Auvegne, miền Trung nước Pháp, đã lập ra một giải Hoa hậu Nông nghiệp Pháp trên Facebook. Cuộc thi khởi sự đúng vào dịp chung kết Miss France. Hàng trăm bức ảnh được gửi đến dự thi, với hình các phụ nữ với các trang phục đa dạng, trong bối cảnh đời sống hàng ngày của chính mình, trong chuồng trại hoặc trên đồng ruộng.
Cô Milie Marin-Fournier, mang một chiếc tee-shirt với dòng chữ « nông dân và niềm tự hào là chính mình », là người chiến thắng trong cuộc thi này.


Về các cuộc thi Hoa hậu nước Pháp, trên Le Monde có bình luận của phóng viên chuyên về mốt, Carine Bizet (« Hoa hậu Pháp : những bản sao và chất ‘‘cải lương’’ », ngày 06/12/2014). Tác giả lên án các cuộc thi Hoa hậu chỉ là một cỗ máy tạo ra một bản sắc nữ mang tính đồng phục : cao tối thiểu 1m70, hình thể thanh mảnh, ngực không quá to, tóc dài… Các thiếu nữ được tôn vinh thường là những người yêu thể thao, gia đình, hoạt động nhân đạo, muốn làm những công việc được coi là « nữ tính ». Giải Hoa hậu, theo phóng viên Le Monde, truyền đi một thông điệp xưa cũ hàm chứa thái độ phân biệt giới tính : hãy đẹp, hãy ngoan ngoãn, như vậy bạn sẽ có một vương miện.
Về phần mình, trả lời Le Monde (trong bài « Cần nhìn các cuộc thi Hoa hậu nước Pháp với con mắt phê phán », ngày 07/12/2014), nữ phóng viên Raphaelle Peltier - chuyên về thể thao và nữ quyền – cho biết, trên thực tế những người giành thắng lợi trong các kỳ thi Hoa hậu hiểu rõ : họ cần phải chấp nhận nhập thân vào những vai diễn mang tính thời thượng, nhằm thỏa mãn một số định kiến thống trị trong xã hội, để giành chiến thắng. Họ không hề « ngớ ngẩn », không hề « ngốc nghếch » như nhiều người phê bình, họ chỉ « khai thác một hệ thống có sẵn ». Nếu đáng trách, thì phải trách cứ cái xã hội với những định kiến đó. Trên thực tế, thanh niên ngày càng có thái độ phê phán nhiều hơn đối với những điều không ổn trong các cuộc thi. Mỗi năm, trên mạng Twitter, có rất nhiều chế nhạo, chỉ trích. Theo tác giả, điều đáng buồn là, trong hiện tại đằng sau màn hình, có rất nhiều thiếu nữ nhập tâm một thông điệp : « Để thành công, thì phải đẹp, thanh mảnh, cao ráo, v.v. ».
 http://vi.rfi.fr/phap/20141207-nu-sinh-toc-vang-nord-pas-de-calais-tro-thanh-hoa-hau-phap

Như thế nào là vẻ đẹp hoàn mỹ?

  • 22 tháng 12 2015
Image copyright Reuters
Image caption Việc hoa hậu Colombia được tuyên bố thắng giải Hoa hậu Hoàn vũ 2015 nhưng nhanh chóng bị gỡ vương miện chuyển sang cho hoa hậu Philippines gây tranh cãi ồn ào về việc ai là người xứng đáng đăng quang
Nữ diễn viên hài ngoại cỡ Dawn French có lẽ không cho mình là một biểu tượng gợi cảm nhưng có khi nào chỉ là cô đã sinh ra không gặp thời?
“Nếu tôi ra đời lúc họa sỹ Rubens còn vẽ thì đã được tôn thờ như một hình mẫu đáng mơ ước rồi,” cô từng mỉa mai. “Kate Moss ư? Cô ta chỉ là cây cọ vẽ thôi.”
French có lẽ chỉ nói đùa cho vui, nhưng điều mà cô đặt ra là một vấn đề lớn.
Có phải quan điểm về cái đẹp của con người đã thay đổi theo thời gian? Hay là có một số nét được nhìn nhận đại trà qua các thời kỳ và trong các nền văn hóa khác nhau là nét đẹp chung của con người?

Đặc điểm sinh học

Có một số lý do về mặt tiến hóa giải thích cho quan điểm theo đó nói rằng cái đẹp có thể vượt thời gian.
Một số đặc điểm sinh học có thể là dấu hiệu của sự khỏe mạnh, sung mãn và mắn đẻ – những yếu tố làm thành một người bạn giao phối tốt – và chúng ta có thể xem những đặc điểm này là quyến rũ về mặt thể xác.
Tuy nhiên khi các nhà sinh học và các nhà tâm lý học càng tìm hiểu sâu thì họ càng khó xác định một cơ sở của cái đẹp thuần về mặt sinh học.
Hãy xem quan điểm được thừa nhận rộng rãi rằng con người chúng ta thích nét cân đối, hài hòa.
Cách giải thích khoa học nghe có vẻ hợp lý: bệnh tật và sự căng thẳng thời thơ ấu có thể có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, tạo ra một sự ‘không ổn định’ khiến cho một bên phát triển hơi khác một chút so với bên kia.
 
Image caption Liệu có phải những người có khuôn mặt cân đối luôn được coi là đẹp không?
Một gương mặt hơi lệch do đó có thể được xem là một dấu hiệu của sự thiếu khỏe mạnh và khiến cho người sở hữu gương mặt đó không thật sự quyến rũ để được chọn làm người phối ngẫu.
Vấn đề là nhiều thử nghiệm trước đây chỉ yêu cầu một nhóm nhỏ đối tượng đánh giá các gương mặt khác nhau – điều này khiến những kết quả kỳ lạ dễ xảy ra.
Khi Stefan Van Dongen tại Đại học Antwerp tổng kết các kết quả trong các thử nghiệm có nhiều người tham gia, ông nhận thấy rằng nếu chúng ta nghiên cứu với số lượng người tham gia đủ mức thì sẽ không còn dẫn đến những kết quả kỳ quặc nữa.
Thật ra, sự cân đối trên gương mặt không cho biết nhiều về sức khỏe của người đó.
Mặc dù các khảo sát trước đây đã tìm ra một số bằng chứng về vấn đề này, một nghiên cứu hồi năm 2014 đã dùng máy quét ba chiều để chụp khuôn mặt của gần 5.000 thiếu niên và hỏi họ về tiền sử sức khỏe của từng người.
Kết quả là những người có khuôn mặt cân đối nhất không hề khỏe mạnh hơn những người khác.

Khác biệt trong cách nhìn nhận

Các nhà sinh học cũng đưa ra giả thiết rằng chúng ta thích những gương mặt thể hiện nét 'nam tính’ hay ‘nữ tính’: chẳng hạn như chiếc cằm rộng của Jon Hamm đối với nam, nét mảnh mai của Miranda Kerr đối với nữ.
Một lần nữa, cơ sở giải thích cho điều này cũng hợp lý: cấu trúc xương phản ánh mức độ hormone sinh sản trong máu do đó nó có thể cho biết một người phụ nữ có mắn đẻ hay không, hay một người đàn ông có mạnh mẽ hay không. Đây là những yếu tố quan trọng khi chọn một người bạn tình.
 
 
mage caption Càng phân tích kỹ khuôn mặt, ta càng khó định nghĩa thế nào là đẹp
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ được tiến hành trên các cộng đồng xã hội phương Tây.
Khi Isabel Scott tại Đại học Brunel và các đồng sự quyết định mở rộng phạm vi nghiên cứu sang cả các cộng đồng ở châu Á, châu Phi, Nam Mỹ và Nga, họ nhận thấy có sự khác biệt trong quan điểm về cái đẹp.
Thật ra, chỉ ở những vùng đô thị hóa cao nhất họ mới thấy đàn ông có gương mặt nam tính và phụ nữ có gương mặt nữ tính có sức cuốn hút mạnh mẽ, còn ở những cộng đồng nhỏ, xa xôi, nhiều phụ nữ lại thích đàn ông có nét mặt thanh tú như phụ nữ hơn.
Điều này cũng đúng đối với ngoại hình cơ thể.
Ở phương Tây, mọi người thích phụ nữ có chân dài và đàn ông đừng quá cao lêu nghêu.
Tuy nhiên, xã hội du mục Himba ở Namibia lại có cặp mắt thẩm mỹ hoàn toàn trái ngược.
Ngay cả quan điểm về cái đẹp của phương Tây cũng thay đổi theo thời gian.
Bức tranh Thần Vệ nữ của danh họa Ý thời Phục hưng Botticelli – một thời được xem là hình mẫu lý tưởng cho cái đẹp ở phương Tây – có đôi chân ngắn so với toàn bộ cơ thể nhất là nếu so với hình dáng các người mẫu được yêu thích hiện nay.
Dáng người đồng hồ cát ở nữ và vai rộng hình chữ V kéo nhỏ lại ở phần eo ở nam được ưa chuộng ở hầu hết các nước, thế nhưng mức độ ưa chuộng tới đâu, như thế nào là lý tưởng, lại tùy thuộc vào từng xã hội.
 
Image copyright Getty
Image caption Không phải nền văn hóa nào cũng tán thưởng vẻ đẹp của đôi vai rộng ở người đàn ông

Căn cứ vào hoàn cảnh

Có lẽ sự lựa chọn bạn tình ở con người cần phải linh hoạt để họ có thể chọn được đối tượng phù hợp nhất căn cứ vào hoàn cảnh của họ.
“Chẳng hạn như trong các nền văn hóa mà nạn đói là một nguy cơ thực sư, người ta thích bạn tình nặng cân hơn bởi vì những người này có sức đề kháng mạnh nhất khi thực phẩm thiếu hụt,” Anthony Little từ Đại học Stirling nói.
Tương tự, những ai đối mặt với nguy cơ bệnh tật cao nhiều khả năng hơn sẽ thích những người mang dấu hiệu cho thấy có sức khỏe tốt.
Khi cân nhắc tới yếu tố mạnh mẽ, thống trị thì phụ nữ sẽ nhiều khả năng chọn những người đàn ông có cằm vuông và mức độ testosterone cao.
“Chúng tôi đã phát hiện ra rằng nếu người phụ nữ chứng kiến đàn ông đánh nhau thì họ sẽ có khuynh hướng thích những người đàn ông có gương mặt nam tính,” ông nói.

Hiệu ứng bầy đàn

Do đó, quan niệm về cái đẹp của chúng ta có thể không khác nhau ở các thời kỳ khác nhau mà là kết quả trực tiếp của hoàn cảnh cụ thể.
Ngoài ra, ta cũng cần tính đến hiệu ứng bầy đàn: các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nếu bạn nghe hay thấy ai đó thích một kiểu người nào đó thì bạn cũng có xu hướng say mê kiểu người tương tự.
Bằng cách này, thị hiếu đối với cái đẹp có thể lan rộng ra trong một cộng đồng và từ đó định ra những chuẩn mực được xem là đẹp.
Hãy xem xét thí nghiệm mới đây của Trường Kinh doanh Johns Hopkins Carey ở Baltimore.
 
Image copyright Getty
Image caption Phẫu thuật thẩm mỹ cho phép chúng ta tiền gần hơn tới việc có được dáng vẻ hoànn hảo - nhưng như thế nào là hoàn hảo?
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một trang web làm quen cho phép người dùng đánh giá những khuôn mặt bất kỳ.
Sau khi một số người đã đưa ra quyết định của mình, họ được cho xem điểm trung bình từ những người khác.
Mặc dù không có câu trả lời ‘đúng’ hay ‘sai’ ở đây, mọi người nhanh chóng nhận rằng kiểu người nào đang được yêu thích nhiều hơn và bắt đầu đánh giá các gương mặt theo tiêu chuẩn tương tự.
Chẳng mấy chốc, quan điểm thẩm mỹ của mọi người đều trở nên giống nhau và quan niệm về cái đẹp của họ đã thay đổi.
Việc này xảy ra bất chấp việc họ không cần phải nêu danh tính và không có lợi ích gì trong việc hòa nhập với chọn lựa của số đông.
Chúng ta dễ dàng hình dung ra hiệu ứng bầy đàn này có lợi cho một số người nổi tiếng như thế nào.
Ở phạm vi hẹp hơn, bạn có thể đạt được hiệu ứng tương tự khi người ta nhìn thấy bạn đi cùng một người nào đó và hai người được cho là một cặp. Những người khác sẽ cho rằng bạn là người có sức hấp dẫn, và rồi họ sẽ cảm thấy bị bạn hấp dẫn.
Sức hấp dẫn của chúng ta cũng được định hình từ sự giống nhau: càng nhiều người nhìn thấy bạn trong một hình dáng nhất định nào đó, thì hình dáng đó trông càng trở nên hấp dẫn hơn.
Vào cái thời mà giải phẫu thẩm mỹ đang trở thành phong trào, thì điều này đem lại cho chúng ta một bài học quan trọng: Thay vì thay đổi bộ dạng khác thường của mình để phù hợp với thời trang xung quanh, bạn có thể dùng bộ dạng của mình để thay đổi thời trang.
Bản tiếng Anh bài này đã đăng trên BBC Future.
 http://www.bbc.com/vietnamese/culture_social/2015/12/151222_the-myth-of-universal-beauty_vert_fut

CÁNH CÒ * MÃ VIỆN

Khi Mã Viện làm giám khảo.


Trong trăm mối của cuộc sống quăng quật hôm nay, người phụ nữ Việt Nam có lẽ là nạn nhân chung của mọi điều đang xảy ra từ gia đình đến xã hội. Từ một gánh hàng rong cho tới cõng con tới trường bằng phương tiện hiện đại của ngày nay là chiếc xe gắn máy, người đà bà nào cũng gánh trên lưng thứ bổn phận ngàn năm chưa thoát được từ khi Mã Viện trút thâm thù tuyệt hận trên lưng hai anh thư xứ Giao Chỉ: Hai bà Trưng.
Cái truyền kiếp Mã Viện ấy không thể chết theo lịch sử, cũng không thể giải thích bằng cách nào khác ngoài cách hiểu duy nhất: Trung Quốc luôn ghi bài học thua cuộc nhục nhã trước một nhóm dân nhỏ bé phương Nam khi hai bà Trưng cho giặc biết thế nào là Giao Chỉ trước móng vuốt quân thù.
Móng vuốt ây chưa bao giờ ngưng đe dọa Việt Nam, kể cả khi hai nước tạm thời là đồng chí. Hai chữ đồng chí lạnh lẽo và đầy tráo trở ấy đã dạy cho Việt Nam rất nhiều bài học mà bài học nào cũng phải trả học phí bằng máu của người dân. Từ việc xâm lược bằng súng đạn ở 6 tỉnh miền Bắc cho tới chiếm trọn Hoàng Sa rồi Gạc Ma cùng các đảo khác ở Trường Sa. Máu người lính chiến hai miền Nam Bắc cùng đổ xuống cho quê hương chưa đủ, người Trung Quốc đang đầu độc cả nước Việt qua thức ăn, hóa chất và ngay cả việc phá hoại hoa màu, nông sản của dân Việt.
Phục Ba tướng quân Mã Viện luôn nằm trong não của người Tàu ở mọi trường hợp, sự căm thù ấy không thể nhạt phai nếu Việt Nam tỏ ra vững mạnh và được thế giới ngưỡng mộ. Tâm lý ghen ăn ghét ở của Trung Quốc thật ra cũng dễ hiểu vì con người không ai có thể bỏ qua mối nhục của nước lớn bị đánh đuổi thảm hại nhiều lần từ các trận xâm lược Việt Nam. Chỉ có ai tin vào tình hữu nghị viễn mơ của hai đảng mới có thể yên tâm sống trong ảo tưởng rằng Chủ nghĩa xã hội có khả năng hàn gắn mối nhục của Trung Quốc hôm xưa, và sự đớn hèn của lãnh đạo Việt ngày nay.
Rõ nét nhất về tâm lý ghen ăn ghét ở của Trung Quốc đối với Việt Nam xảy ra ngay trong cuộc thi Hoa Hậu thế giới 2015 được tổ chức tại Hải Nam trong hơn một tháng qua. Trong 114 thí sinh toàn thế giới có cả đại diện Việt Nam là Trần Ngọc Lan Khuê, một khuôn mặt trong sáng và thông minh của phụ nữ Việt Nam, tuy chưa phải là điển hình vẻ kiều diễm của nhan sắc Việt nhưng có lẽ cô là một ngôi sao hiếm hoi gần như duy nhất trong tất cả mọi người đẹp mà chúng ta biết trên các sàn catwalk hay trong các cuộc thi hoa hậu gần như phá sản khắp nước.
Trần Ngọc Lan Khuê như con thiên nga lộng lẫy trên sân khấu. Tự tin trong ánh mắt, hãnh diện trên từng nụ cười, nhuần nhuyễn mỗi bước đi và lung linh sắc màu trong trang phục đã làm cử tọa bị thuyết phục từ những vòng đầu. Chiến thắng quan trọng nhất của Lan Khuê là giải thưởng do khán giả bình chọn (People’s Choice) và theo như điều lệ thì người đoạt giải thưởng này đương nhiên hưởng quyền đặc cách vào Top 5 có nghĩa là vòng chung kết để chọn ra hoa hậu và á hậu trong 5 thí sinh. Thế nhưng niềm vui này bỗng dưng bị ban tổ chức lạnh lùng phủ nhận và Lan Khuê chỉ còn biết ngồi khóc với người cuồng nhiệt ủng hộ cô trong suốt cuộc thi.
Điều kỳ quặc đáng xấu hỗ này của ban tổ chức cuộc thi do chính phủ Trung Quốc đứng sau chỉ đạo xuất phát từ tâm lý nhỏ mọn của một tay nhà giàu keo bẩn. Nó cho thấy mối thù tiềm ẩn của Bắc Kinh chưa bao giờ quên bất cứ chi tiết nào với cựu thù Hà Nội. Thứ nhất nếu Việt Nam trở thành Hoa hậu thế giới thì Trung Quốc cực kỳ ê mặt, không thể chấp nhận cho con cháu của Hai bà Trưng cỡi voi mà trên đầu mang chiếc vương miện thắng Tàu một lần nữa. Thứ hai, có lẽ quan trọng hơn, chính phủ Trung Quốc không chịu nỗi một cô gái bằng ấy tuổi đầu lại có thể hiên ngang bộc lộ ý chí của nhân dân Việt Nam trong khi cả guồng máy chính trị của Hà Nội không dám bộc lộ.
Báo Thanh Niên tường thuật chi tiết đáng trân trọng của cô gái thông minh này như sau: Trong các giải thưởng giúp cho thí sinh tiến sâu vào vòng chung kết có một giải tên là Beauty with a Purpose, hay còn gọi là Hoa hậu nhân ái. Trần Ngọc Lan Khuê đã tự chọn cho mình một chuyến đi trước đó vào cộng đồng những bệnh nhân ung thư tại Nghệ An, Dak Lak. Lan Khuê đã quay lại một video clip dài 6 phút cho hoạt động này và cô gắn bản đồ Việt Nam vào clip để giám khảo có ý niệm về một đất nước Việt Nam hôm nay với những hình ảnh nao lòng của những con người bất hạnh.
Thế nhưng, cũng chính cái bản đồ ấy làm cho ban tổ chức nổi giận, bất cứ giá nào cũng phải gạch tên Lan Khuê ra khỏi cuộc thi bởi nó đưa hai khu vực mà Trung Quốc cho là của họ: Hoàng Sa và Trường Sa.
Cô gái bé bỏng dường ấy lại có cái chính kiến mạnh mẽ của một nhà kỹ trị thì hỏi sao ban giám khảo dám cho qua nếu không họ muốn bị vào tù. Trách chi giám khảo Trung Quốc mà hãy trách chính phủ mình trước: ngây thơ và dại dột khi chọn bạn mà chơi. Thằng bạn không những là cựu thù khó đối phó mà nó còn được trang bị tận răng thứ vũ khí mà Mã Viện đã đóng xuống thân thể Việt Nam từ khi hai bà Trưng bị chúng giết: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (Trụ đồng gãy là ngày tận diệt xứ Giao chỉ)
Viết trên trang facebook của mình, Lan Khuê chia sẻ:
“Điều gì không giết được tôi sẽ khiến tôi mạnh mẽ hơn.
Tôi vẫn tồn tại và vẫy vùng ở tận đáy vì tôi biết có biết bao con người ở đất nước tôi đang ngày đêm chung tay, đoàn kết vì dải băng Việt Nam mà tôi đang đeo.
Tôi khóc cạn nước mắt khi tôi không được xuất hiện mở màn Dances of The World. Tôi sững sờ với điểm số khi các phần thi của mình đều được đánh giá cao và nhận được sự trầm trồ từ các thí sinh. Nhưng không sao sóng gió đã đi qua. Mọi thứ đã ở lại phía sau. Những sóng gió này là động lực để tôi phải làm điều gì trong tương lai để tiếng nói của đất nước tôi mạnh mẽ hơn, có trọng lượng hơn.”
Vâng, Lan Khuê của chúng ta đấy, một nhân cách đáng trọng, một tự hào chung cho phụ nữ Việt Nam nhưng quan trọng hơn cũng là một chứng cứ làm không ít người bẽ bàng. Nếu may mắn tấm gương của em sẽ là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai còn tự bịt mắt mình đi trên con đường bị rải đinh cùng khắp lại tưởng là hoa hồng nở ra của tình đồng chí.
 
 canhco's blog
 http://www.rfavietnam.com/node/2964

TRẦN KIÊM ĐOÀN * BÚN BÒ HUẾ

BÚN BÒ HUẾ
***
Mạn đàm về “BÚN"



    Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch)

    

Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế… mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương… Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào.



    Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là “mình cảm thấy…” mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa…

    Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas. Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh Bà Bún.




    Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên…” là đẹp nhất.

    Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày 19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.

    Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu nămcủa mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù.

    Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm.. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo.



    Sau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn.

    Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà.

    Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh… nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.

    Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:

    Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm


đồng tiền… nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại… Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.

    Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc.

    Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.

    Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất.

    Từ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc. Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn.

    Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ.

    Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang… có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc.

    Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô.

    Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.

    Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. 

    Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.

    Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc… Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò… và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.

    Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị… đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas.

    Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ân năn:

- Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua!

    Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích:

- Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được!

    Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời. Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh… tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân. Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và phổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được

ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.

    Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, “bún bò Mụ Rớt”.

“Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”.

Chừ ri hỉ…!

Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.

    Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ… Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang “mả ông trạng” sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối “hữu xạ tự nhiên hương”, không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.

    Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:

- Mấy o, mấy cậu thời bún chi?

Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:

- Dạ, cho mấy tô bún nước.

    Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.

    Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.

    Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng “gia vị bún bò bắc đẩu”, nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!

    Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen… là những biểu hiện thường tình trước tô bún.

    Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm… đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.

    Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình.. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.

    Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ… Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.

    Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.
Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy.


    Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”.

    Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.

    Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.
    Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.

    Ngoài ra, rau hành, gia vị… thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn… mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.

    Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. 

    Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”: “Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX – 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Chicken Fried của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu… đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

Những huyền thoại quanh tô Bún Bò Huế

    Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn

những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh.

    Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu “càng cua”, cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.

    Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm.. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:

- O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng…

    Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.
Một lát sau o mới hỏi:

- Ai ăn rứa?
Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:


Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.

    Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:

- Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!

    Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”… bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:

- May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!
Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.

    Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt.. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ… làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.

    Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:

- Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!

    Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:

- Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.

    Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó.

    Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời:

- Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt.
    Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi… suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh… Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng.

    Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần.

    Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.

    Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là “Đường Cơm Hến” và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là “Đại Lộ Bún Bò” vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự

mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ… Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.

    Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng.. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây “sên”, trong “ổ líp”. Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp… đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.

    Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe.. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:

- Ngó dữ chưa tề, dị chết!

    Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:

- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!

    Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:

- Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.
    Cái “ớn phát sợ” của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một “múi đũa” ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!

    Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng “thương con đường đi học”.. Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới “xui” về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d’Arc để chuẩn bị đi Tây.

    Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: “Partir, c’est mourir un peu!… Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!”. Tôi là học trò ban B (Toán – Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai.. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.

    Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:

Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương
Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não
Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão
Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ…
    Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.
    Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh “thương bắt chết” vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món “bún bò Huế chính gốc”. Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:
- Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!
    Tôi cười cười nhắc lại:
-Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?
    Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư “nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm” và ánh lên màu kỷ niệm:
- Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!
    Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:

- Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!
    Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:
- Thơ của ai rứa Hoàng?
    Hoàng trả lời “mần đày”:
-Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!
    Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm.
    Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình.

    Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật… Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp.

Trần Kiêm Đoàn
***
__._,_.___

No comments:

Post a Comment