Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday, 21 October 2016

LÊ QUANG VINH - CỘNG SẢN

Saturday, June 4, 2016


LÊ QUANG VINH * CHUYỆN CŨ BẠN BÈ CÙNG XÓM…



Quà tặng xứ mưa

Thức trong hạt cát lặng thinh – Mới hay biển cũng đang tìm như tôi.


CHUYỆN CŨ BẠN BÈ CÙNG XÓM…

Đăng bởi: Ngô Minh | 03.06.2016



QTXM: Hôm nay bạn đọc được gặp lại nhà báo Lê Quang Vinh, một đứa con Quảng Bình luôn đau đáu nỗi nhớ quê, thầy; nhớ bạn bè cùng trường, cùng xóm. Thật hiếm những nhà báo thủy chung như thế. 70 tuổi rồi mà nhớ thầy, nhớ bạn, lại thức đêm viết về thầy về những người bạn hồi nhỏ, thì quả là con người tâm huyết. Kỳ này, QTXM xin giới thiệu bài “CHUYỆN CŨ BẠN BÈ CÙNG XÓM” của nhà báo Lê Quang Vinh, mời bạn đọc cùng chia sẻ.





Nhà báo Lê Quang Vinh





Ảnh: (Từ phải sang) Đoàn Văn Thận, vợ Thận là Nguyễn Thị Kim Suê, Trần Đình Quang, Hoàng Thị Minh Lý (trong bài là “Lý Hội Khuyện”) – 3 bạn ni cùng học lớp 10 với LQV.
THẦY MỸ
Nhớ chúng mình – Đoàn Văn Thận và Lê Quang Vinh, hồi học lớp 4 với nhau (1960 – 1961) – Lớp 4 A do thầy Lê Quang Mỹ – người Tuyên Hóa, dạy. Thầy Mỹ dáng cao, nước da trắng; bị bớt sẹo to (có lẽ do mụt hờn để lại) ở một bên mang tang (thái dương) cỡ đồng bạc hình – đồng tiền Đông Dương đúc bằng bạc thời Pháp thuộc, một bên nổi rõ hình bà đầm nên dân ta gọi nôm na là “bạc hình”. Đồng bạc hình là loại tiền vốn rất có giá trị, sót lại không nhiều vào hồi chúng tôi còn nhỏ tuổi. Người ta hay dùng nó để “cạo gió” nhằm giải cảm khi ốm.
Thầy Lê Quang Mỹ là một trong số rất ít người thầy giáo để lại trong đời các thế hệ học trò làng ta những ấn tượng tốt đẹp về khả năng giảng dạy cũng như “nghệ thuật sư phạm” đạt ở trình độ khá cao của nền giáo dục nước nhà. Thầy vô cùng nghiêm, nhưng lại thân thuộc, đáng kính đối với học trò. Thầy mô phạm từng lời ăn tiếng nói, cử chỉ, cách trang phục, đi đứng ở trên lớp cũng như bên ngoài. Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt nhìn của thầy thực âu yếm và nụ cười thực sảng khoái, hồn nhiên khi vui chơi cùng học sinh.
Năm 1995, trên đường đi công tác báo chí ở huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình); qua thầy Phan Văn Khuyến, tôi đã hỏi được địa chỉ và vào tận nhà riêng thăm thầy Mỹ ở khu vực gần cây xăng Đồng Lê. Nhưng rất tiếc, đúng ngày ông giáo đi cúng tận đâu xa nên không thể gặp được. Tôi có chụp ảnh vợ và con gái (còn nhỏ tuổi) của thầy. Sau ngày nghỉ hưu, thầy giáo Mỹ chuyên đi cúng – như một nghề mới của mình.



***


NƯỚC MẮT NGÀY HỎNG THI

Lớp 4A gồm con em các chòm (xóm): Cao Hòa, Cựu Hòa, Biên Hòa, Bắc Hòa, Thanh Hòa, Tân Hòa ,Thuận Hòa, Trung Hòa, Phú Hòa (Khoảng năm 1960, hai chòm Trung Hòa – Phú Hòa, tách ra mỗi chòm một phần đất và bộ phận dân cư ở phía Bắc mé đường quan – khu vực Chợ Trường, Đình làng và xóm “thợ rèn” – để lập nên một chòm mới là “Nhân Hòa”) – cùng thuộc xã Quảng Hòa. Từ chòm An Hòa, Vĩnh Hòa đến hai chòm thuộc Xóm Vụng – tức Vĩnh Lộc cũ: Hợp Hòa, Thái Hòa (có tên “Thái Hòa” bởi đa phần bà con mới từ Thái Lan về nước vào mấy năm đầu thập niên 60 – thế kỷ XX) là lớp 4B do thầy Hiệu trưởng Đoàn Tiến Lực kiêm nhiệm dạy.
Xóm chúng mình xưa, nôm na là “Xóm Đình”, hay còn gọi theo tên nữa là “Xóm Chợ” (vì địa dư này có Đình Hòa Ninh và Chợ Trường). Từ năm Cải cách ruộng đất (1954), Xóm Đình (tức Xóm Chợ) ta được tách ra, lập 2 chòm với tên mới là “Trung Hòa” và “Phú Hòa” – sau mấy năm, lại tách để lập thêm chòm “Nhân Hòa” như đã kể.
Bạn bè đồng học lớp 4A ở chòm Trung Hòa có: Hoàng Thị Lý (Hội Khuyện), Đoàn Thị Vân, Nguyễn Thị Tâm (Tâm Thứ), Hoàng Thị Tâm (Mẹt Trưu), Nguyễn Thị Viện, Nguyễn Văn Tiếu (Chó Tiêu – con ôông Tri Tiêu), Nguyễn Thị Định (lò rèn); ở chòm Phú Hòa có: Lâm Thị Thai (Mẹt Út), Hoàng Thị Phê (Em Nậy), Lê Quang Vinh (Chắt Tíu), Lê Đình Hải (Mẹt Thạch), Nguyễn Tuất (Mẹt Chịt), Nguyễn Giản (Cu Kinh), Đoàn Anh (Cu Ngành), Nguyễn Văn Dân (Cu Rề – con mệ Duyển bán nác (nước) chè xanh ở chợ Trường), Đoàn Văn Thận (Chó Thé), Đoàn Thanh (Chó Xướng), Đoàn Khác Diệm (Có lẽ thời gian đi học Trường Y sĩ Quảng Bình, tự đổi thành “Đoàn Khắc Diện” để tránh tên Ông Ngô Đình Diệm – kẻ “bán nước, hại dân” chăng? Nếu thế thì nay càng ngày càng quá sai rồi! Ông Diệm là một nhà “Ái quốc” dựa vào Mỹ để chống Cộng), Nguyễn Thị Di (Cháu Song), Nguyễn Thị Thục (Lý Nhẫn), hai chị em Nguyễn Thị Dùng và Nguyễn Bình (con Cu Ý), hai chị em Nguyễn Thị Nghị và Nguyễn Sĩ Đồng (Cu Khải), Hoàng Thị Cháu (con Mẹt Tràn, cháu mệ cai Vựng – sau lấy nhôông bên Vĩnh Phước, đổi tên thành “Châu”), Đoàn Các (Kiểm Đạt), Đoàn Thị Bê (Tri Dinh), Đoàn Thị Thảo (Trợ Học).
Ngày công bố kết quả thi lên cấp 2 (tháng 5/1961) – thi chuyển cấp, cực kỳ khó; nên trong xóm có mấy đứa bị trượt thẳng cẳng: Thận (Đoàn Văn Thận), Mẹt Nậy (Hoàng Thị Phê – con ông Cu Hạ, cùng em trai là Cu Hường – chuyên đóng giường bằng gỗ tươi do người Thổ Hạ vác xuống chợ Trường bán cho), Thai (Lâm Thị Thai – con o Xếp Út), Đoàn Thị Bê…khoảng chục đứa đấy. Thận mếu máo khóc ngay tại trường; dại dột thế nào lại chạy về nhà, liền bị bọ (trượng Thé – cha Thận) đánh cho một trận…chí chết. Sao dạo đó, các cụ hay đánh con thế không biết. Nhà mô cũng rứa cả. Chúng mình nhởi (chơi) thân nhau; lại hay nghịch dại nữa nên bị ăn đòn luôn.
Người bạn thiếu thời này, khổ hơn tôi nhiều lần vì tuổi thơ mất mạ quá sớm. Tôi mồ côi cha khi mới 18 tháng tuổi; dẫu vậy, vẫn được như câu tục ngữ “Mất cha ăn cá, mất mạ liếm lá ngoài đường”. Tôi cũng là đứa trẻ suốt đời không bao giờ hình dung nổi khuôn mạo, hơi ấm Cha mình; với Mạ – hắn cũng như vậy. Mạ đẻ của Thận gọi mệ nội Đoàn Thị Diệp của tôi là “O” (tức “cô” họ). Cụ năm đời bên mệ Nội tôi chính là cụ Ngoại của Thận. Ngày nhỏ Thận suốt ngày rèo bò, bứt cỏ (chăn bò, cắt cỏ); mọi việc nặng nhọc của đồng áng đều qua tay. Vì thế mặt dài ngoẵng, người còm nhom, gầy đen như “quỷ đói”. Tôi ít khi chộ (thấy) Thận mặc áo – trừ những ngày đông, tháng giá. Hắn lầm lũi với làn da chai sần ngoài đôồng, lại thoắt bụi cây này sang nương tre khác nên chằng chịt không biết bao nhiêu vết gai xé; luôn oằn lưng cùng sọt cỏ, sọt lá tre được lèn đầy suốt ngày này sang ngày khác...như là “số kiếp” hắn phải thế.
Anh em tôi cùng học liền tù tì cả cấp 1, cấp 2. Ôi, còn đến ngày nay là cả một “bồ phúc đức” đối với hai đứa; bởi bạn bè cùng lứa đa phần đã …đi rồi. Nào là Cu Quyền - Nguyễn Quyền (tên hồi nhỏ là “Bình con” - cháu mệ Hội Vị, lứa bạn cùng “ù mọi”, “đánh củi”, “đánh khăng”, “trọi vụ” (đánh quay)...với nhau; nhưng học trên 1 lớp. Quyền đang đi học năm đầu trung cấp chi đó thì bị bệnh “ung thư xương”, phải cưa dần cẳng chân mấy lần đến tận bẹn, rồi chết trong điên dại, đau đớn), Lê Đình Hải (liệt sĩ), Trương Thị Định (lẽ ra là “liệt sĩ”, nhưng chẳng hiểu sao lại không được?), Nguyễn Tuất, Nguyễn Bình, anh Hậu (Nguyễn Chí Thành), Đoàn Anh (con bác Cu Ngành thợ nề), Đoàn Thị Vân; còn mấy đứa thua vài tuổi như Nguyễn Cho (con ông Tri Trác, nhà ở phía sau nương mệ cai Ngô), Dần (con gái ông cu Khải)…Xin thắp nén nhang lòng vọng bái tới các anh chị đó. Thận nhé.


***


KẸO NGON TỪ TRÊN…TRỜI


Đã tới cữ thời gian cuối thu của năm 1956 – thế mà tôi vẫn chưa được đi học lớp 1, vì gia đình còn mang án thành phần giai cấp bóc lột: “địa chủ”! Đúng thời điểm ni, có một việc xẩy ra mà hàng chục năm sau nữa, tôi đi đâu cũng bị trêu chọc, khiến vô cùng e thẹn, ấm ức.
Vốn là thế này. Anh Trương Văn Cấu – em ruột ôông Câu Chắt (ông Trương Ngô) từ Hà Nội về thăm làng. Gia đình ôông Câu Chắt vốn thân thiết với gia đình Mự tôi từ xưa; nên đã không quản chi tiếng xấu “gia đình địa chủ” mà lại muốn hỏi ả Liệu (chị Lê Thị Liệu) tôi cho anh Cấu. Thế là anh Trương Văn Cấu và gia đình chọn một buổi chiều, chắc là “ngày tốt” rồi, nên lên chơi nhà để “xem mắt” ả Liệu. Trước khi đi, nghe đâu anh Trương Văn Cấu đã được ôông Câu Chắt dặn dò rất kỹ: Nhà ả Chắt (tục danh Mự tôi), có thằng con út đã 8 – 9 tuổi gì đấy, nhưng ngài (người) nhỏ thó, nhẳng (gầy) và đen nhẻm. Khi gặp hắn thì trao gói kẹo, như một cử chỉ để “làm quen” với nhà người ta.
Thật không may, chiều đó tôi đang men theo từng đám mả ngoài đôồng (đồng) để tìm hái rau “choòng” cho lợn ăn. Trong khi Thận (tên tục là “Chó Thé”), thấy người ăn mặc mới lạ vào nhà tôi; liền chạy theo rồi cùng vô nhà và hồn nhiên đứng cạnh khách như con cái trong gia đình vậy. Có lẽ anh Cấu cũng đã ngắm nghía rất kỹ người ngợm thằng “không dư hơi” mà đứng cạnh mình này rồi, nên chắc mẩm: đây chính là “đứa em trai út” của o Liệu, thế là “anh rể tương lai” trao luôn cho cậu ta (Chó Thé) bọc kẹo rõ to, có chữ Trung Quốc in bên ngoài bao cùng màu sắc rất đẹp. (Nghe đâu, anh Cấu cũng từ Khu học xá Nam Ninh – Trung Quốc vừa về nước, nên mới có bọc kẹo “ngoại quốc” thậy sang và quý đó). Nhận bọc kẹo từ trên tay anh Cấu, Chó Thé chạy vụt ra cươi (sân) và ngay tức khắc biến liền khỏi nhà tôi như con sóc. Mự Chắt không kịp phản ứng bất cứ động thái gì, nên anh Cấu cũng chẳng biết việc mình quá “nhầm lẫn” vừa xẩy ra.
Vớ được bọc kẹo đặc biệt ngon, Thận chạy nhanh ra đồng reo hò inh ỏi và chia cho vài ba đứa mấy cái để khoe. “Tiếng lành đồn xa” thành tiếng “rất xấu” với tôi – một đứa trẻ thôn quê đang mùa đói khổ bởi vẫn trong cơn hoạn nạn, điêu linh của gia đình: “Anh rể thằng Vinh “mắt đui lồi” ra (anh Trương Văn Cấu vốn bị cận thị nặng. Thời đó, ở xứ Hòa Ninh ni, người ta coi như là “dị nhân”), đã “nhìn gà hóa cuôốc” nên trao nhầm kẹo cho thằng Chó Thé”. Cứ thế, đi đâu, tôi cũng bị chế diễu bởi cái “điệp khúc” thật không hay, tơi bời đó.



* * *


THẦY PHẨM MẤT TRÚM
Còn nhớ lần thầy Đoàn Phẩm (dạy tụi ta hồi lớp 1 hay lớp 2 ấy?) bị mất cả bộ trúm thả lươn. Thầy liền đi tìm và quả nhiên thấy ngay sau chuồng bò o Tri Hóc (mạ anh Hậu – tức anh Nguyễn Chí Thành). Thầy Phẩm nghi ngay Chó Thé (tên tục Thận hồi nhỏ) lấy trộm. Người đang “đằng đằng sát khí”, thầy xách cả xâu trúm vừa tìm lại được (khoảng trên chục chiếc), đến nhà Cu Thé (tục danh bọ Thận) để trị học trò đã ăn trộm trúm của mình cho biết tay. Gặp ngay được kẻ “phản thầy”, nhưng Thận kêu oan, liền đổ cho (khai ra) thằng Cu Nậy (Lê Đình Hải – con thím Mẹt Thạch). Thầy Phẩm xách cổ Thận vô nhà thím Mẹt Thạch để đối chất. Biết chuyện, chưa cần đúng sai, thím Mẹt xắn hai ống quần đũng què lên sát bẹn, đứng ngay tại nơi vừa gặp thầy Phẩm sát chuồng lợn đầu hồi nhà, rồi hướng mặt về phía nhà thầy Phẩm ở, nhảy lên như con choi choi chưởi (chửi) đổng ông con trai bằng một “giọng Bắc” ngân dài thứ thiệt: “Ôi thằng nghịc tử Hải ơi, răng mi dè mặt trời mà chợn (giỡn)?“. Thầy Phẩm tím mặt, phải chịu thua mà bỏ về.
Hồi đó, thầy Phẩm đan trúm bằng tre cật, nắp thì khót (đẽo gọt) bằng thân cơn dưới (cây duối) rất kỳ công, tất cả đều tròn vo mười nùi như một (hầu hết mọi người trong làng thường dùng nùi rơm để bịt miệng trúm rất chi đơn giản). Nhà Cu Nậy (Hải) không có tre pheo gì nên phải ăn trộm trúm thầy giáo để nộp anh Thành mới được vô hội “thả trúm” do anh lập ra. Nhà Vinh có cả nương tre rậm rạp, nhiều vô kể; đã chặt lén khi mự (mẹ) Vinh đi chợ, nộp anh Thành 2 cơn (cây) vừa to vừa dài mới được anh ấy cho đi theo. Thế nhưng cả mùa thả trúm lươn, chưa bao giờ được anh Thành chia cho con lươn mô (con nào).


***


CON CẤY CHỌC ĐÁI THẦY, CON TRAI ‘LÃNH ĐỦ’


(Con gái chọc dái thầy, con trai lĩnh đủ)


Thím Mẹt Thạch “ám chỉ” thầy giáo Phẩm qua câu chưởi đổng “răng mi dè mặt trời mà chợn” là có cái lý của thím ấy. Bởi ông thầy ni đập học trò dã man lắm. Bạ cấy chi là phang cấy nấy (vớ được thứ gì đánh thứ nấy). Nhiều phen thầy đấm vô trôốc (đầu), tát học trò cả nam lẫn nữ không tiếc tay. Bao lần gọi học trò lên bảng, do không thuộc bài hoặc nói chuyện riêng bị thầy bắt được, ông túm tóc từng đứa đập trôốc vô tường hoặc bảng gây tiếng kêu “chạch! chạch!”…
Đúng hôm thầy Phẩm mặc quần soóc đi dạy, Em Nậy (Phê) đem chiếc thước dài khoảng nửa thước Tây tới lớp (thường nhật, hắn hay bào thước gỗ cho hết đứa ni đến đứa khác trong lớp rất hào phóng); giữa tiết học, khi ông giáo ngồi xuống ghế đặt ở trên bục giảng và đang “thì” cao giọng giảng bài, nó dùng chiếc thước đó cùng con Thai chỉ trỏ thế nào mà lại bị “quá tay” nên đụng luôn đái (dái) thầy giáo bởi đang thò ra ngoài quần khiến hai đứa chộ (nhìn) được. Thầy giật bắn mình lên, mặt đỏ gay như máu đang sôi, rồi điên khùng xông thẳng tới chỗ Vinh – Chắt Tíu (Lê Quang Vinh), Chó Thé (Đoàn Văn Thận), Hải – Mẹt Thạch (Lê Đình Hải) và Chó Xướng (Đoàn Thanh); quát bắt tất cả đứng lên. Thầy dơ nắm đấm đập vô trôốc, vô mặt túi bụi cánh tui. Xong đuổi cả 4 đứa ra ngoài thềm, còn tiếp tục lấy dùi trôống (trống) phang cho đến khi “khói” trên trôốc bay lên nghi ngút (hồi nhỏ ăn ở rách rưới, bẩn thỉu nên người ngợm đứa mô đứa nấy đầy ghét, đập vô là bụi bay lên như “khói”).
Lâu nay, trong thâm tâm thầy giáo Phẩm, cả lớp chỉ có 4 thằng ni là quỷ sứ (nghịch nhất), nên phải cho 3 đứa con cấy (gái) ngồi xen kẻ để “kèm” là Thai, Phê và ả Dùng (Nguyễn Thị Dùng, chị gái Nguyễn Bình – hai chị em con ông Cu Ý cùng học lớp 1 đến lớp 4 với LQV). Đội hình 7 đứa ngồi ngay bàn học đầu, sát bàn thầy giáo để ông dễ “kiểm soát”.
“Sự cố” (thọc thước vô đái thầy) vừa xẩy ra, thầy giáo đã nghĩ ngay chỉ 4 đứa ranh ni chọc tức ông thôi (không hề ngần ngại đắn đo gì, phản ứng theo kiểu “mặc định” như trong máy tính bây giờ). Thế là thầy dần (nện) luôn cả “bộ tứ” nghịc tặc này không thương tiếc. Thầy trừ hẳn 3 đứa con cấy, vì ông không bao giờ nghi ngờ tới tụi nó. Mà tụi tui cũng không biết việc chi đang diễn ra…Thực sự như vậy.

Thật oan quá, oan tụi tui quá.


Thầy Đoàn Phẩm hay đánh học trò, mà đánh rất dữ nữa; ai ai cũng biết. Cha mẹ học sinh càng biết rõ qua con cái họ. Bao thế hệ học trò từng học ông, đến nay hễ nhắc đến người thầy giáo này đều không thể quên chuyện buồn đó ở thời thơ ấu. Thế nhưng chẳng hiểu sao, nhà trường ngày ấy không bao giờ có được sự ngăn cản hành vi bạo lực học đường của giáo viên; khiến nó diễn ra hằng ngày, hết năm này đến năm học khác đối với bao trế hệ con trẻ? Còn chúng tôi, từ bé chí lớn đều một lòng kính thầy, có lẽ không một ai oán trách thầy giáo của mình. Đúng như câu châm ngôn: “Nhất tự vi sư, bán tự cũng vi sư“! Cầu mong thầy giáo nay đã qua tuổi 90, sức khỏe ổn định để sống thọ tới trăm năm…



***


MÙI VỊ TUỔI MỚI NẬY (LỚN)

Anh Thành (Hậu) là “Hiệu Đoàn trưởng” của Trường Cấp 2 xã Quảng Hòa (Bí thư Đoàn trường) – to lắm; Đoàn Văn Khương – con ôông mệ Dịch Thái (khác xóm, ở chòm Vĩnh Hòa) là “Liên đội trưởng” Đội Thiếu niên Tiền phong (TNTP) của ngôi trường này. Cánh ta sợ và phải luôn nịnh thằng Khương mới được hắn cho vô Đội.
Thằng Khương lúc ni nhỏ rứa, đã ưng con Viện (Nguyễn Thị Viện – con mệ Tổng Đồng, đang học lớp 4 với mình). Khương viết nhiều thư tán tụng con Viện; Viện không ưng, cứ đưa cho Lê Quang Vinh đọc và nhờ Vinh “bút chiến” lại. Vinh thấy chuyện kỳ kỳ, hay hay, đã “trổ tài” viết hàng chục bức thư chưởi bới lại Đoàn Văn Khương. Chuyện ni, thằng Bằng Lé (Nguyễn Bằng – con ông Nguyễn Khánh) – gọi Khương bằng “chú”, biết rõ ngọn ngành, vì Nguyễn Bằng là người được Khương tin tưởng nhờ chuyển thư qua lại con Viện. Mấy chục năm sau, gặp nhau ở Hải Phòng, Lê Quang Vinh kể lại cho Khương biết, Khương “cú” lắm. Con Viện được mấy đứa nữa ưng, như thằng chi con mệ Hương Lon ấy; à nhớ rồi: thằng Hoàng Văn Du, cũng ưng mê mệt Viện (hình như sau này thành vợ chồng thiệt?).
Lê Quang Vinh lúc ni, chưa hề ưng ai, mà chỉ hơi… “thích thích” con Lài mẹt Ngụ – Lê Thị Bích Lài (chỉ tí tẹo, chút đỉnh thôi). Nên nhiều hôm ra rào (sông) tắm, lại cứ đi vòng qua trước cửa nhà con Lài để được nhìn hắn.
Năm học lớp 5 (1961 – 1962), thằng Hải (Lê Đình hải) yêu con Năm – Nguyễn Thị Năm – con cấy (con gái) ôông Khởi thợ may ngài (người) Phù Trịch, dân ngụ cư làng ta – nhà ở ngoài chợ Trường. Con Năm ngài phổng phao to cao trước tuổi, da trắng, mặt đầy mụn trứng cá (lúc mô cũng chín đỏ lựng cả hai má). Con ni, phía sau hay buộc tóc kiểu “đuôi ngựa” hất cao, trước trán lại cắt tém “tóc thề” ngay ngắn. Cổ đeo cườm hạt huyền lấp lánh (đen nhánh). Hắn học sau cánh ta đến 2 lớp, nhưng trông như “thanh niên” vậy. Thím Mẹt Thạch biết chuyện, ra chợ tìm con Năm túm chưởi bới dữ lắm, thế mà hai đứa vẫn “không buông nhau”.
Sau lên lớp 7 (1963 – 1964), Hải lại yêu con Định (Trương Thị Định – con ôông Câu Chắt, tức Trương Ngô, chòm An Hòa). Tháng 9/1964, đêm cuối cùng tiễn Hải lên đường nhập ngũ, Lê Quang Vinh và Lê Đình Hải cùng nằm với nhau tại Trường cấp 2 Ba Đồn (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Đêm đó, Hải thức trắng, viết cho Định bức thư kín 4 trang giấy bù bằng bút chì. Chữ Lê Đình Hải rất đẹp. Vừa chân phương, vừa bay bướm. Thế mới lạ. Thư để trần, không phong bì nên mình có đọc. Văn của Hải chan chứa bao yêu thương và hy vọng.
Chiều hôm sau, về làng; mình chuyển thư Hải tận tay Định. Định nhận thư, im lặng; không nói gì. Mệ Câu Chắt (mạ Định) đang đau (ốm) gì mà nằm im trong giường chỉ cách bàn tiếp khách trong nhà một màn vải treo ngang, nên nghe hết mọi chuyện. Thế nhưng, cụ cứ tưởng Lê Quang Vinh đang tán tỉnh, tỏ tình với Định, liền vùng lên chưởi cả hai đứa. Lê Quang Vinh và Định sợ quá, ngậm câm, không nói được câu nào và mình thì xấu hổ bỏ về.
Chia tay Hải và Định chỉ có vậy. Không ngờ đó là các cuộc chia ly mãi mãi. Thật thương hai đứa vô vàn Thận ạ…


LQV


Hà Nội, 15 giờ 8’ – ngày 20/5/2016

Các ý kiến gửi qua FB và Email tới tác giả
Thích · Trả lời ·  6 giờ - 1/6/2016
Đoàn Văn Thận  (Nhân vật trong bài là “Chó Thé”): Nhà báo còn nhớ nhiều kỷ niệm của một thời học trò quá. Trong tất cả những câu chuyện mà nhà báo Lê Quang Vinh kể  lại, tôi vẫn thích nhất là chuyện mệ mẹt Thạch chưởi con mình, nhưng thực chất đó là lời “chơi chữ” đối với người. Các bạn nghĩ lại những câu phân tích trong bài viết, mới cảm thấy sự tế nhị và sâu sắc biết nhường nao. Tình bạn bè của chúng tôi là vậy đó.
Lê Quang Vinh Cảm ơn rất nhiều người bạn thiếu thời, khổ hơn tôi nhiều lần vì tuổi thơ mất mạ quá sớm (Tôi mồ côi cha khi mới 18 tháng tuổi; dẫu vậy, vẫn được như câu tục ngữ “Mất cha ăn cá, mất mạ liếm lá ngoài đường”). Mạ đẻ của Thận gọi mệ nội Đoàn Thị Diệp của tôi là O (tức “cô” họ). Cụ năm đời bên mệ Nội tôi chính là cụ Ngoại của Thận. Ngày nhỏ Thận suốt ngày rèo bò, bứt cỏ (chăn bò, cắt cỏ); mọi việc nặng nhọc của đồng áng đều qua tay. Vì thế mặt dài ngoẵng, người còm nhom, gầy đen như “quỷ đói”. Tôi ít khi chộ (thấy) Thận mặc áo – trừ những ngày đông, tháng giá. Anh em tôi cùng học và chơi thân suốt thời cấp 1, cấp 2. Ôi, còn đến ngày nay là cả một “bồ phúc đức” đối với hai đứa; bới bạn bè cùng lứa đa phần đã …đi rồi. Nào là Lê Đình Hải, Trương Thị Định, Nguyễn Tuất, Nguyễn Bình, anh Hậu (Nguyễn Chí Thành), Đoàn Thị Vân; thua vài tuổi như Nguyễn Cho (nhà ở phía sau nương mệ cai Ngô), Dần (con gái ông cu Khải)…Xin thắp nén nhang lòng vọng bái tới các anh chị đó. Thận nhé.
Ðến
22 tháng 5 năm 2016 – lúc 10:15 PM
Kính gửi Anh Vinh,
Em đọc văn của Anh mà thấy mọi việc cứ như đang trước mắt. Em cảm ơn Anh đã tái hiện lại những ngữ cảnh đầy yêu thương này.
Kính,
Lê Tuấn Anh
Dang Dinh Dai (Thầy gáo Ưu tú – nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Gia Thiều – TP. Hà Nội): Những kỷ niệm của 60 năm trước mà vẫn nhớ được như thế này, xin bái phục ông ! Riêng chuyện thầy Phẩm chắc ông cũng biết người xưa vẫn truyền tụng “hay chữ – dữ đòn” vì vậy không ít nhà giáo thời đó thể hiện “dữ đòn” để khẳng định “hay chữ” đáy ông ạ !
Ðến
Hôm nay 22/5/2016 vào lúc 21:27
                Thân gửi Nhà báo Lê Quang Vinh
                   Anh đưa tôi về tuổi thơ ngây
                Những chuyện cũ mà nhớ lâu đến thế!
                Sông chảy từ nguồn, sông về với bể
                Lớp bạn bè tóc đã trắng hoa cau.
                Dù ở đâu, dù cách xa nhau
                Vẫn vương vấn thủa “trôốc” trần, chân đất.
                Chuyện xưa – tuổi học trò rất thật
                Trong tôi cũng có một “Ba Đồn”…
                                      Lê Tuấn Hiến
Minh Ly Hoang (Trong bài là “Lý Hội Khuyện”): Thán phục L.Q.V biết và nhớ nhiều chuyện thời trẻ con, dù mình học cùng lớp, nhưng chỉ biết và nhớ chuyện con Nậy chọc thước vô thầy Phẩm và cả chuyện thầy hay đánh học trò…Có lần lâu rồi, tình cờ gặp Phê ở Cảnh Dương, nhắc lại chuỵân xưa, hai đứa cười chảy nước mắt, không biết nay Phê sao rồi, Vinh co tin gì không?
Lê Quang Vinh Gần 60 năm nay, Vinh không hề gặp lại Em Nậy. Buồn quá. Ngày nhỏ, nó làm thợ mộc vô cùng giỏi. Mỗi ngày làm được một cái giường đôi đấy.
Minh Ly Hoang (Trong bài là “Lý Hội Khuyện”): Vinh ơi, Lý vừa vào trang bạn bè của V, thấy có Đòan khắc Diện, có phải Diệm ở gần nhà Thận và vợ tên là Anh con mệ Bống không, nay D ở Hà Nội à, nếu gặp cho Lý gửi lời thăm nhé.
Minh Ly Hoang (Trong bài là “Lý Hội Khuyện”): Sao Vinh biết và nhờ được nhiểu chuyên thế, bái phục, bái phục.
Khắc Diện Đoàn Cám ơn Bạn Vinh đã sao lục lai những kỷ niệm cảa thời thơ ấu làm cho tôi vô cùng xúc động ôn lại một thời quá khứ.
Mình chúc Vinh cùng đại gia đình sức khoẻ, vui vẻ luôn ngập tràn niềm vui và hạnh phúc.
Lê kinh Thắng lethangbtm@yahoo.com 
Ðến
Ngày 21 tháng 5 năm 2016 lúc 1:31 PM
Bác có nhiều chuyện đời thường hay thế. Đúng là một thời ai dễ bỏ qua. Bác có nội tâm sâu lắng không phôi phai, không hề nhạt nhoà… Không phải ai cũng lưu chuyện thuở ấy được!
Kính chúc Bác vui khoẻ với nhiều tác hẩm mới.
E Thắng Lê
Đã gửi từ iPhone cá nhân
Ðến
Ngày 21 tháng 5 năm 2016 – lúc 2:43 PM
Vinh thân mến! Mình đã đọc bài của bạn và phục tài về trí nhớ của bạn về những kỷ niệm thời đi học.Thời ấy còn nhiều kỷ niệm khó quên như đánh khăng, đánh đáo, đánh củ, i, ù mọi, làm pháo đất mà giờ đây không còn gặp ở tuổi học trò. Bạn viết di nhé! Viết thành sách hẳn hoi. Chúc Vinh thành công.
Khắc Diện Đoàn (Trong bài là Đoàn Khác Diệm): Cám ơn Bạn Vinh đã sao lục lai những kỹ niệm cũa thời thơ ấu làm cho tôi vô cùng xúc động ôn lại một thời quá khứ.
Mình chúc Vinh cùng đại gia đình sức khoẻ,vui vē luôn ngập tràn niềm vui và hạnh phúc.
Ðến
Hôm nay 21/5/2016 vào lúc 15:17
  Trên đời này mấy ai còn nhớ dược những kỷ niệm thời để chỏm với thày giáo mình như nhà báo. Thật xúc động. Xin cảm ơn !
Đoàn Văn Thận
 Đoàn Văn Thận That may man cho minh la mot dua tre mo coi tu luc nho nhung nho phuc am ong ba to tien va su cuimang dun boc cia xom lang ban be nhat la mu chat nen minh da vuot qua con hoan nan va vuon len tuy chua bang ban be cung trang lua song do cung la su co gang cua ban than chuc ba vui ve co nhieu ki niem dep de ke cho nhau nge cua mot thoi tuoi tho chuc ban hanh phuc gui loi tham chi lieu chi lai cau chuc dai gia dinh vui khoe tre mai
Thích · Trả lời · 8 giờ (4/6/2016)

LQV biên tập lại cho dễ đọc:

Đoàn Văn Thận

Đoàn Văn Thận Thật may mắn cho mình là một đứa trẻ mồ côi mẹ từ lúc nhỏ, nhưng nhờ phúc ấm Ông bà Tổ tiên và sự cưu mang đùm bọc của xóm làng, bạn bè; nhất là mự Chắt (mẹ Lê Quang Vinh) nên mình đã vượt qua bao cơn hoạn nạn va vươn lên. Tuy chưa bằng bạn bè cùng trang lứa, song đó cũng là sự cố gắng của bản thân. Chúc bạn vui vẻ, nhớ thêm nhiều kỷ niệm đẹp để kể cho nhau nghe về một thời của tuổi thơ. Chúc bạn hạnh phúc; gửi lời thăm chị liệu, chị lài; cầu chúc đại gia đình vui khỏe, các anh chị trẻ mãi... 

This message has been truncated


NGUYỄN ĐÌNH CỐNG * CỘNG SẢN LỪA BỊP

03/06/2016


Sung sướng vì được mắc lừa

Nguyễn Đình Cống

Hãy phân tích thật kỹ xem câu “Hai bên cam kết không liên kết với nước khác để chống nước thứ ba” [trong hiệp định ký kết với Trung Cộng] có những ý nghĩa gì. Nước khác là nước nào, nước thứ ba là nước nào. Có khả năng xảy ra nước thứ ba chính là Việt Nam, là Trung Quốc hoặc một nước thân cận của hai nước trên hay không. Không có một qui ước nào loại trừ khả năng đó. Vậy nếu xảy ra như vậy thì sao. Mà sự tranh chấp ở Biển Đông vừa qua và sắp tới có khả năng xảy ra như thế.
Giả thử xảy ra tranh chấp giữa Trung và Việt đến mức dùng vũ lực. Với sức mạnh của mình thì Trung Quốc cần gì liên kết với nước khác để chống nước thứ ba là Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam, dù là để tự vệ, dù để chống lại sự xâm lược phi nghĩa của Trung Quốc thì rất cần sự liên kết với nước khác cùng chí hướng, cùng mục tiêu (ngoài việc nhận sự cổ vũ chỉ bằng mồm của nhiều nước yêu hòa bình). Lúc này, nếu VN nhận sự viện trợ quân sự của một nước nào đó thì rõ ràng là đã vi phạm cam kết, Trung Quốc có cớ để lên án như đã từng viết khẩu hiệu và tuyên truyền “Việt Nam ăn cháo đái bát” và gây chiến tranh biên giới năm 1979 để dạy cho VN một bài học. Còn nếu VN sợ bị vi phạm vào cam kết mà không thể liên kết với nước khác thì rõ ràng là đã tự trói mình để chịu lâm vào thế nguy hiểm.
Điều quan trọng, có ý nghĩa là : “Hai nước cam kết không gây hấn, không lấn chiếm đất và biển của nước khác” thì không viết, lại viết “Cam kết không liên kết với nước khác…”. Bất kỳ một người nào có suy nghĩ đều dễ nhận ra ý đồ lừa bịp, chỉ có những lãnh đạo cộng sản VN là không thấy hoặc có thấy nhưng vì lý do nào đó mà cứ đưa ra để khoe khoang, để tự sướng. Xem lại lịch sử, sứ thần của các triều đại trước khi đi sứ Thiên triều không có ai bị mắc lừa như vậy.


1- Bị lừa hay được mắc lừa
Thông thường mắc lừa là “bị” chứ không thể “được” và khi phát hiện ra bị mắc lừa thì đau khổ, tức giận, hối tiếc rồi rút bài học, rút kinh nghiệm để khôn ra chứ không thể sung sướng . Thế mà lại có chuyện sung sướng vì được mắc lừa mới oái oăm chứ. Tất nhiên người ta không reo mừng rằng tôi sướng quá vì được mắc lừa đây, chỉ thể hiện bằng cách khác mà người ngoài đoán ra được.
Tại sao bị lừa mà vẫn tỏ ra sung sướng, có thể do 1 trong 2 nguyên nhân sau: 1- Vì kém thông minh (nói đúng ra là vì ngu dốt) mà nhận thức nhầm, trong một thời gian cứ tưởng rồi sẽ được lợi gì đó, không biết đã bị lừa. 2- Biết bị lừa, nhưng vì đã thông đồng với kẻ lừa để hưởng một món lợi nào đó hoặc vì biết mình quá ngu mà bị lừa nhưng đã quá huênh hoang nên tìm cách che giấu hoặc tìm cách lừa dối người khác để trốn tội.
Xét trong chiều dài lịch sử, bọn phong kiến Trung hoa đã nhiều lần lừa vua quan Việt, trong đó chỉ một số ít lần người của ta bị mắc , còn phần lớn nhờ cảnh giác cao mà tránh được. Chỉ có dưới thời thống trị của Đảng CS, lãnh đạo và nhân dân Việt Nam đã bị lừa trong rất nhiều chuyện mà vẫn cứ sung sướng nhắc đi nhắc lại mỗi khi có dịp.

2- CSVN đã bị CSTQ lừa rất nhiều, chỉ xin nêu vài chuyện
1- Từ năm 1941 đến 1946 Hồ Chí Minh rất muốn kết bạn với Mỹ. Chuyện này nhiều người đã biết, nay kể thêm: Ngày 2 /9/1945, tại quảng trường Ba Đình, sau khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập thì trong diễn văn tiếp theo Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc đánh bại kẻ thù của ta nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt”. Nhưng rồi từ 1949 CS VN bị Mao Trạch Đông lừa, cho rằng đế quốc Mỹ là kẻ thù của giai cấp vô sản toàn thế giới, kẻ thù số 1 của phe XHCN. Việt Nam có vinh dự là tiền đồn phe XHCN, là người lính xung kích chống đế quốc. Trung cộng sẽ giúp Việt Nam đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng. Và rồi Lê Duẩn sung sướng công nhận VN đánh Mỹ là đánh cho cả Liên xô và Trung quốc. Bây giờ mới tỉnh ngộ ra là Mỹ chỉ muốn ngăn chặn làn sóng cộng sản từ Liên xô và Trung Quốc chứ không hề có ý đồ xâm lược nước nào. Biết ra thì đã quá muộn nhưng vẫn không dám công nhận, vẫn tuyên bố là rất tự hào đã làm người lính xung kích chống đế quốc.

2- Năm 1958 Chu Ân Lai ra tuyên bố về quyền lãnh hải của Trung quốc bao trùm một phần lớn Biển Đông. Bản tuyên bố này bị nhiều nước phản đối. Chỉ có Phạm Văn Đồng và cả Hồ Chí Minh bị lừa để ra Công hàm 1958, gián tiếp công nhận nhiều đảo ở biển Đông là của Trung Quốc. Năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. ĐCSVN sung sướng vì Trung Quốc đã lấy được các đảo từ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, cho rằng để TQ giữ các đảo đó tốt hơn so với việc chúng do chính quyền Việt Nam cộng hòa kiểm soát.
3- Thời gian trước năm 1979 ĐCSVN bị Trung Cộng lừa tôn thờ tư tưởng Mao Trạch Đông, sung sướng cho rằng được theo Mao để chống đế quốc và bọn xét lại là hạnh phúc lớn. Cũng chính vì mắc lừa ĐCS TQ mà đã gây nên thảm họa đàn áp không biết bao nhiêu người ưu tú (vụ án chống đảng do Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn tạo dựng). Sau năm 1990 bị lừa ở Hội nghị Thành Đô, ký kết 16 chữ vàng và 4 tốt, tôn sùng ĐCS Trung Quốc là lãnh đạo, là thành trì của CM vô sản thế giới, sung sướng cho rằng còn Trung Quốc XHCN thì VN không lo gì hết, sung sướng và tự hào rằng ngọn cờ tiên phong của cách mạng vô sản thế giới đã chuyển vào tay của ĐCS Trung Quốc và Việt Nam. Thực chất thì Trung cộng lừa cho Việt Cộng kiên trì đường lối XHCN để dễ bề thôn tính.

3- Phân tích vài điều gần đây
1- Trong Hiệp định và tuyên bố chung có điều sau: “Hai bên cam kết không liên kết với nước khác để chống lại nước thứ ba”. Đó là điều lừa dối vô cùng xảo quyệt của Trung Cộng mà mỗi lần có dịp là các lãnh đạo Việt Nam lại nêu ra với đầy vẻ tự hào.
Hãy phân tích thật kỹ xem câu “Hai bên cam kết không liên kết với nước khác để chống nước thứ ba” có những ý nghĩa gì. Nước khác là nước nào, nước thứ ba là nước nào. Có khả năng xảy ra nước thứ ba chính là Việt Nam, là Trung Quốc hoặc một nước thân cận của hai nước trên hay không. Không có một qui ước nào loại trừ khả năng đó. Vậy nếu xảy ra như vậy thì sao. Mà sự tranh chấp ở Biển Đông vừa qua và sắp tới có khả năng xảy ra như thế.
Giả thử xảy ra tranh chấp giữa Trung và Việt đến mức dùng vũ lực. Với sức mạnh của mình thì Trung Quốc cần gì liên kết với nước khác để chống nước thứ ba là Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam, dù là để tự vệ, dù để chống lại sự xâm lược phi nghĩa của Trung Quốc thì rất cần sự liên kết với nước khác cùng chí hướng, cùng mục tiêu (ngoài việc nhận sự cổ vũ chỉ bằng mồm của nhiều nước yêu hòa bình). Lúc này, nếu VN nhận sự viện trợ quân sự của một nước nào đó thì rõ ràng là đã vi phạm cam kết, Trung Quốc có cớ để lên án như đã từng viết khẩu hiệu và tuyên truyền “Việt Nam ăn cháo đái bát” và gây chiến tranh biên giới năm 1979 để dạy cho VN một bài học. Còn nếu VN sợ bị vi phạm vào cam kết mà không thể liên kết với nước khác thì rõ ràng là đã tự trói mình để chịu lâm vào thế nguy hiểm.

Điều quan trọng, có ý nghĩa là : “Hai nước cam kết không gây hấn, không lấn chiếm đất và biển của nước khác” thì không viết, lại viết “Cam kết không liên kết với nước khác…”. Bất kỳ một người nào có suy nghĩ đều dễ nhận ra ý đồ lừa bịp, chỉ có những lãnh đạo cộng sản VN là không thấy hoặc có thấy nhưng vì lý do nào đó mà cứ đưa ra để khoe khoang, để tự sướng. Xem lại lịch sử, sứ thần của các triều đại trước khi đi sứ Thiên triều không có ai bị mắc lừa như vậy.
2- Điều khác: “Hai bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng hòa bình mà không đe dọa dùng vũ lực”. Điều này là đúng nhưng chưa đủ. Nếu xảy ra tranh chấp, một bên đòi thương lượng hòa bình nhưng bên kia không chịu, hoặc thương lượng không đi đến kết quả thì giải quyết như thế nào. Theo các hợp đồng dân sự, khi hai bên không tự thỏa thuận được với nhau thì phải đưa tranh chấp ra xét xử ở một tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Điều này phải được ghi rõ trong hợp đồng. Vậy quan hệ giữa 2 nước Việt - Trung thì sao. Phải chăng là không sao cả, trông chờ vào đại lượng của Thiên triều.

Trong Lời kêu gọi vào tháng 12 năm 1946 Hồ Chủ tịch viết: Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Còn hiện nay. Cứ mỗi lần Trung Quốc lấn chiếm hoặc gây sự thì từ phía VN chỉ có người phát ngôn Bộ Ngoại giao ra tuyên bố phản đối và yêu cầu đừng tiếp tục, lại huênh hoang là tôn trọng hòa bình và luật pháp quốc tế, còn Chính phủ và Quốc hội thì quyết giữ phương châm“ Im lặng là vàng”. Thế rồi Trung Quốc cứ lấn, Việt Nam cứ lùi, vừa lùi vừa tuyên bố. Phải chăng chúng ta muốn hòa bình nên năm 1988 để cho 64 chiến sĩ trên đảo Gạc Ma khoanh tay chịu sự thảm sát của lính Trung Cộng, để cho tàu ngư dân bị bọn lạ đâm chìm mà không dám chống cự, để cho hết hòn đảo này đến hòn đảo khác lọt vào tay Trung Cộng. Cùng bị lấn chiếm biển đảo, Philipin bị ít hơn nhưng họ kiên quyết kiện ra Tòa án Quốc tế sau khi TQ không chịu thương lượng. Còn chúng ta, chỉ thấy tuyên bố của Bộ Ngoại giao. Phải chăng trong việc này lãnh đạo VN cũng sung sướng vì được mắc lừa.
3- Chuyện gần đây. Trước khi xảy ra thảm họa Biển Miền Trung từ tháng 4/2016, nhiều lần qua báo chí và về Hà Tĩnh tôi được nghe ca ngợi hết lời về khu công nghiệp Vũng Áng và những mối lợi to lớn do Formosa hứa hẹn mang lại. Bây giờ mới vỡ lẽ đang mắc lừa, đang không phải ở mức “ngậm bồ hòn làm ngọt” mà là dùng độc dược để giải khát. Bị mắc lừa rồi nhưng không dám nhận mà đang tìm cách quanh co để bao che, phải chăng để tiếp tục hưởng sự sung sướng và đi lừa lại người khác.

4- Đến lượt CSVN lừa nhân dân
Việc lãnh đạo CS và dân VN bị Tàu chệt lừa thì viết vài quyển sách dày để dẫn chứng và phân tích e cũng chưa hết, trên đây chỉ mới nêu ra một phần rất nhỏ. Người ta bảo, sau khi biết bị lừa thì sẽ thu được bài học quý giá mà khôn ra, thế nhưng mãi mà chả thấy CSVN khôn ra được tí nào. Không những thế, sau khi bị lừa, một số lãnh đạo CS còn mang những điều đó lừa lại nhân dân. Hay biết đâu, CSVN không cho rằng họ bị lừa mà thực chất họ muốn như vậy, muốn làm tay sai đắc lực cho CSTQ, muốn đem đất nước này lệ thuộc vào CSTQ để tạo nên một thời kỳ Bắc thuộc mới. Thảm thương thay cho một số khá đông trong dân tộc VN mấy chục năm bị lừa mà vẫn sung sướng, vẫn tự hào vì nhận được sự lừa gạt đó, vẫn tưởng rằng đang được hưởng một nền “dân chủ đến thế là cùng”, đang được dẫn dắt đến thiên đường nơi hạ giới. Có một số ít người nhận thức được, nói ra điều bị lừa thì lại bị vu cáo, bị đàn áp. Biện pháp để tránh bị mắc lừa là nâng cao dân trí, chống lại sự u mê và nhồi sọ, mở mang sự tiếp xúc với xã hội văn minh. Điều đáng mừng là một số dân Việt đã nhận ra và đang đi theo hướng đó.
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN

TRUNG QUỐC TÀN PHÁ TÂY TẠNG

Câu chuyện phá hoại nền văn hóa tôn giáo Tây Tạng ở TQ

Việc chính quyền Trung Quốc chỉ hạn chế dùng người Hán cầm quyền ở Tây Tạng là không hợp lý, mục đích của thủ đoạn này để giữ vững quyền thống trị.

Thủ đoạn của chính quyền Trung ương Trung Quốc một mặt để Tây Tạng luôn lệ thuộc vào Trung Quốc, mặt khác vì muốn đồng hóa nền văn hóa Tây Tạng. Nói cách khác,  hiện nay không chỉ vấn đề “một nước hai chế độ” mà ngay cả “một nước hai văn hóa” cũng trở thành mối đe dọa đối với sự thống trị của Trung Quốc. Vì Trung Quốc luôn lo sợ phần tử mà họ coi là “phản động” sẽ dùng chiêu bài truyền thống và tôn giáo, cho nên chính quyền Trung Quốc muốn loại bỏ những giá trị này để nó không thể phát huy tác dụng được nữa!
Trong lịch sử, chính sách “đồng hóa” của những kẻ đi chinh phục đối với dân tộc bị chinh phục thường thấy là: loại bỏ tính khác biệt của dân tộc bị chinh phục. Nhưng muốn ép một nền văn hóa sâu sắc có lịch sử phát triển hàng ngàn năm theo một mô hình khác sẽ gây phản kháng mạnh mẽ, vì đi cùng quá trình đồng hóa là những chính sách tàn bạo. Nhìn lại lịch sử, đồng hóa là bắt người ta làm theo mô hình của mình, bao gồm kiểu trang phục, nghi lễ, luật lệ, xóa bỏ chữ viết và hủy hoại tôn giáo bản địa… thậm chí ở Tây Tạng còn xảy ra nạn thanh trừng quy mô lớn trong thời “dẹp loạn đòi Tây Tạng độc lập” (1959) và thời “Cách mạng Văn hóa” sau đó.
Tây Tạng còn được gọi là “Phật Quốc” vì Phật giáo là nền tảng của xã hội truyền thống nơi đây, toàn bộ nền văn hóa Tây Tạng được sinh trưởng và phát triển từ đây, nó đã bám rễ vào cuộc sống của đa số người dân Tây Tạng. Bạo loạn những năm 1950 có nguyên nhân vì chùa chiền bị biến thành cứ điểm của quân đội, và nhiều nhà sư trở thành nhà lãnh đạo phong trào bạo loạn. Khi chính quyền Trung Quốc “dẹp loạn” đã tấn công vào chùa chiền, nhiều nhà sư bị bắt, chùa chiền bị san bằng.
Trong “Sự kiện Lhasa”, ông Mao Trạch Đông đã đề ra khẩu hiệu “Lạt-ma hãy về nhà”, khi đó tăng ni Tây Tạng có khoảng 110.000 người. Sau “Sự kiện Lhasa”, có khoảng 10.000 người chạy trốn ra nước ngoài. Trong khoảng 100.000 người ở lại chỉ có khoảng 7.000 người được cho phép ở lại trong chùa miếu. Trong số hơn 2.600 ngôi chùa của Tây Tạng chỉ cho phép giữ lại hơn 70 ngôi chùa. Theo con số này thì có đến 97% chùa bị phá hủy, 93% tăng nhân bị xua đuổi. Ông Mao Trạch Đông nhiều lần lên tiếng, nguyên nhân chính khiến dân số Tây Tạng không tăng được là vì Lạt-ma không được kết hôn, để giải quyết vấn đề này, Mao cưỡng ép Lạt-ma phải thành thân với ni cô.
Cùng với cơn giông tố của “Cách mạng Văn hóa”, số chùa chiền còn sót lại ở Tây Tạng tiếp tục bị phá hoại, trục xuất toàn bộ tăng ni ra khỏi chùa, nghiêm cấm mọi hoạt động tôn giáo, cuộc chiến “đấu tranh giai cấp” này đã phá hoại toàn bộ nền văn hóa tôn giáo của Tây Tạng. Đồng thời, chính quyền muốn người Tây Tạng xem Mao Trạch Đông là vị thần mới, hàng ngày bắt đọc những câu nói của Mao, “sáng xin chỉ thị, tối báo cáo tổng kết” trước chân dung Mao để tỏ lòng trung thành; tượng Mao Trạch Đông được đưa vào thế chỗ những tượng Phật bị hủy hoại. Tác phẩm của Mao phát hành ở Tây Tạng khi đó đạt đến con số mà mỗi người Tây Tạng phải có hơn 4 quyển; số người bị ép đi “tẩy não” lên đến hơn 1/3 dân số Tây Tạng; tổ chức hơn 20.000 người tập trung tại Lhasa đồng thanh hát ca khúc ca ngợi Mao… Từ góc nhìn thời đại ngày nay, những hành vi này là vô cùng man rợ.
Có thể thấy, chính quyền Trung Quốc đã phá hoại toàn bộ tôn giáo Tây Tạng. Nhưng dù sao tất cả chỉ là hiện tượng bề ngoài. Vấn đề Tây Tạng cho đến ngày nay vẫn là một phiền phức lớn đối với chính quyền Trung Quốc, nguyên nhân chính là những oán hận trong lòng người Tây Tạng chưa bao giờ hết.

NGUYỄN BÁ CHỔI * XHCN VIỆT NAM

Việt Nam đã hoàn thiện CNXH

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Không đúng như lo ngại của đảng trưởng CSVN trước đây hai năm, đảng “ta” đã xây dựng dứt điểm CNXH vượt chỉ tiêu trước thời hạn ít nhất là một thế kỷ.
Hẳn mọi người đều nhớ, đặc biệt là những người còn đang tiếp tục mê man con đường “bác đi” lại càng nhớ nhanh nhớ mạnh nhớ vững chắc, lời Tổng Bí Lú phát biểu ngày 23/3/2013 trong cuộc thảo luận góp ý về bản dự thảo hiến pháp mới:
“...Đổi mới chỉ là giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. (Thanh Nien online ngày 26-10-2013)
Khi nghe người thừa kế sự nghiệp “tìm đường kíu nước” của cha già DT phán như thế, Cu Tèo hơi bị nản, nếu không nói là tuyệt vọng - nay gọi chung một túm là “bức xúc”- vì chắc tỏng cu không còn ngo ngoe đến ngày đó để mà thò vào thiên đường XHCN. 
Cu đã có công với cắt mạng bằng việc bỏ học từ lớp ba trường làng, để đi xây dựng CNXH. Ngày lên đường vô bưng, cu hồ hởi phấn khởi, những tưởng nếu đời cu chưa được hưởng, thì cũng tới đời con- “hy sinh đời bố, củng cố đời con” ấy mà, nhưng dè đâu, theo lời bác cả Lú, “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”, thì chẳng những đời cu, đời con cu bỏng dỏng *, mà đời cháu cu cũng chắc gì có được chút cơm cháo của “CNXH hoàn thiện”.
Nói đến “CNXH hoàn thiện” là nói đến cái gì cũng tuyệt cú mèo. Nghe mà ham. Ham nhất là nhân dân được leo lên làm ông chủ, bà chủ; còn cán bộ thì xuống làm thằng đầy tớ, con đầy tớ nhân dân; không như dưới thời Thực Dân, Phong Kiến, nhất là thời Mỹ Ngụy, nhân dân bị bọn cầm quyền bóc lột tận xương tủy, ăn thì cơm độn sắn mì, bo bo; mặc thì, đàn ông con trai “mỗi năm ba tấc vải thô, lấy gì che kín cụ Hồ em ơi” ; đàn bà con gái mỗi năm một bẹt vải mùng, giặt đi giặt lại, bùng nhùng háng em.
Ấy thế mà giấc mơ nay đã hiện thực. Tục ngữ VN có câu “Lụt thì lút cả làng”, nhưng nay VN ta nhờ đã xây dựng xong CNXH hoàn thiện, lụt không còn lút cả làng theo truyền thống nữa, mà lụt chỉ lút ông bà chủ nhân dân, còn đầy tớ thì đã có ông chủ, bà chủ cõng:
Một đầy tớ đến sở
Một bầy chủ đi làm
Thấy hai bức hình chủ và tớ cùng đi làm trên đây, Cu Tèo hết biết còn nói năng chi nữa, vì một bức hình bằng nghìn lời nói. Cu chỉ biết hồ hởi phấn khởi và tri ân Cắt Mạng đã dứt điểm CNXH hoàn thiện trước thời hạn “không biết cuối thế kỷ này đã xoay xong chưa”.



NGUYỄN THỊ CỎ MAY * HAI TẤM HÌNH

Lời của hai tấm hình

Nguyễn thị Cỏ May (Danlambao) - Người dân Việt Nam ở hai thành phố lớn đứng đầy hai bên lề đường, dưới trời mưa lớn, vẫy tay chào đón tổng thống Hoa Kỳ đi ngang qua, với những tiếng reo hò đồng thanh "Obama! Obama!". Tên của ông tràn ngập cả trên vỉa hè, quán café, quán nhậu,… trong những ngày qua.
Hình ảnh đó quả thật là một sự bất ngờ, khó có ai có thể hình dung được người dân Việt Nam lại bày tỏ tình cảm nồng nhiệt như vậy đối với tổng thống Hoa Kỳ, một quốc gia thù địch như chế độ ra rả tuyên truyền cho tới ngày 30/04 vừa qua. Trong khi đó, chánh quyền Việt Nam dành cho quốc khách một sự đón tiếp với nghi thức tối thiểu phải có.
Về phía khách, ông Obama vẫn thản nhiên, hoàn toàn không để ý đến nghi lễ ngoại giao, vẫn thoải mái, chân tình, cười hồn nhiên, ngồi lê hàng quán, bắt tay mọi người đứng gần một cách thân thiện,… Trọng tâm thật sự của ông là muốn đo lường thái độ của người dân đối với chánh phủ Hoa Kỳ và dân huê kỳ. Có ý kiến cho tất cả đó là sự giàn cảnh tinh vi của Holywood nhưng thực tế là đã thu hút nhân tâm của mọi từng lớp người dân Việt Nam. Ngoại trừ nhà cầm quyền bởi theo biện chứng hể cái gì dân hoan nghênh thì họ đề cao cảnh giác. Do từ nguyên lý nhà cầm quyền cộng sản là không phải do dân và vì dân.
Obama đã đi rồi
Giới cầm quyền ở Hà Nội, cũng như đồng chí vàng của họ ở Bắc Kinh, khi tới thăm viếng Hoa Thịnh Đốn hay Paris, chẳng những không được kiều bào của họ đón tiếp nồng nhiệt, mà còn bị la ó, phản đối sự thăm viếng, tố cáo những hành động dã man của chế độ ở trong nước, làm cho họ nhiều lúc đã phải ra về bằng cửa hậu.
Trái lại, ông Obama, sau bốn ngày viếng thăm Việt Nam, ra về còn để lại trong lòng người Việt Nam, nhất là tuổi trẻ, những tình cảm trân quí.
"Hỏi vì sao dân tôi mến mộ ngài
Có phải vì ngài là tổng thống
Hay vì xứ ngài đôla chất đống
Không! Chúng tôi yêu vẻ đẹp tỏa từ ngài.

…Nụ cười tươi và những cái bắt tay... dệt lối chân tình
…Mà rung động hàng triệu con tim người Việt
Ngài bàn việc đại sự bằng lời chân thành tha thiết
Chẳng buộc tội ai... nhưng bao kẻ phải cúi đầu"…(Thơ của Thương Hoài )
Và người phụ nữ Phượng Trần bị sự chơn tình của khách đã làm cho trái tim của bà rung động sâu xa:
"…Em như đang trong mơ
Khi nghe Anh nói đến
Nam Quốc Sơn Hà ấy
Chỉ có Nam Ðế cư 
Anh muốn nói gì ư?
Dẹp dã tâm Khựa nhé!
Anh ơi lời Anh khẽ
Chạm đến triệu lòng dân!"… (Thơ của Phượng Trần)
Và cả chân dung của ông cũng được sinh viên hội họa tự ý thực hiện với lời ghi chú đầy thiết tha quí mến.
Obama và tấm hình ở Tòa Bạch Ốc
Ông Obama có gốc gác từ một gia đình da màu nghèo, cha mẹ xa nhau, thuở nhỏ từng sống ở Nam Dương, một xứ Đông Nam Á kém mở mang, tức ý muốn nói ông thuộc thành phần xã hội không lấy gì làm khá hơn đám cộng sản lãnh đạo ở Hà Nội nhưng ông lại hoàn toàn không cùng bản chất với họ. Nhờ hấp thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, tự do.
Chính giáo dục đào tạo con người. Nhìn tấm hình dưới đây để hiểu tại sao ông Obama qua Việt Nam lần đầu tiên mà được dân chúng dành cho ông những tình cảm quí trọng sâu xa như vậy. Thực tế này là phản ứng nghịch lý của những điều mà dân chúng tiếp thu được từ truyền thông chánh quyền. Cũng là kết quả trái chìu của sự giáo dục quần chúng về bạn và thù của chế độ. 
Ảnh: Pete Souza/The White House
Nhiều thập kỷ qua, Nhà Trắng treo rất nhiều ảnh chụp các đời tổng thống, hoặc làm việc hoặc vui chơi. Tấm mới thay chỗ tấm cũ. Nhưng tấm ảnh này chụp Tổng thống Barack Obama đã yên vị suốt 3 năm qua, không bị tháo xuống. 
Bé trai trong ảnh là Jacob Philadelphia, sống ở Columbia, bang Maryland. Khi chụp tấm ảnh này vào tháng 5 của ba năm trước, Jacob mới 5 tuổi. Lúc đó, cha cậu là ông Carlton Philadelphia, một cựu lính thủy, rời Nhà Trắng sau hai năm làm việc trong Hội đồng An ninh quốc gia. Như nhiều nhân viên khác, ông Philadelphia cũng đề nghị tổng thống chụp ảnh cùng gia đình ông trước khi ra đi.
Ảnh chụp xong, gia đình Philadelphia sắp giã từ thì ông Carlton nói với ông Obama rằng hai con trai của ông có hai câu hỏi tổng thống, mỗi đứa một câu. 
Jacob nói trước: “Cháu muốn biết tóc cháu có giống tóc tổng thống không?”. Cậu bé nói nhỏ đến nỗi ông Obama phải bảo nhắc lại. Sau khi nghe rõ, ông Obama trả lời: “Sao cháu không sờ thử đi, xem có giống tóc cháu không”? Rồi Obama hạ thấp đầu ngang tầm với của Jacob. Cậu bé ngần ngừ, tổng thống khuyến khích: “Sờ đi, anh bạn!”.
“Cháu thấy sao? – ông Obama hỏi. 
- “Dạ, cũng giống nhau”, Jacob đáp lời.
Cậu bé Isaac, nay đã 11 tuổi, thì hỏi ông Obama tại sao lại loại trừ chiến đấu cơ F-22. Ông Obama cho biết vì quá tốn kém.
Theo thông lệ có từ thời Tổng thống Gerald R. Ford, mỗi tuần các phóng viên ảnh Nhà Trắng lại chọn ảnh ấn tượng để trình bày. Tuần đó, tấm ảnh của Jacob là số một. (Theo Bằng Vy, The New York Times) 
Đỗ Mười và nhà Toán học Ngô Bảo Châu
Đỗ Mười, cựu Bộ trưởng, cựu Thủ tướng và cựu Tổng Bí thư đảng cộng sản Hà Nội, khi tiếp thanh niên Ngô Bảo Châu vừa kết thúc Trung học với thành tích học tập xuất sắc, thể hiện rõ thái độ căm thù những người có học và học giỏi. Theo quan điểm của ông thì chính cách mạnh mới nâng cao con người chớ không gì khác hơn hết cả. Quan điểm này phát xuất từ bản thân của ông và từ quá trình học tập giáo lý của người cách mạng.
Đỗ Mười tên thiệt là Nguyễn Duy Cống, người làng Đông Phủ, gọi quen thuộc là làng Nhót, Thanh Trì, Hà Đông. Giáo sư Đại Học Khoa học Sài Gòn, ông Nguyễn Trọng Ba, nhỏ hơn Nguyễn Duy Cống vài tuổi, cùng làng nên quen biết Nguyễn Cống và kể chuyện lại (Bảo Giang). Cụ Tiên chỉ là thân sanh của Giáo sư Ba, có mở lớp chống mù chữ miễn phí dành cho trẻ trong làng. Thù lao thầy giáo do sự đóng góp vì lòng hảo tâm của viên chức và những nhà có tiền trong làng. Nhờ đó Nguyễn Cống tới học được ít lâu.
Người được làng mời dạy học là thầy giáo Dư. Vốn đã được bổ làm giáo học, Dư hoạt động cho Việt Minh, bị bắt, sau hơn một năm tù, được tha và trở về làng Nhót, không có công ăn việc làm.
Dư được đề nghị lãnh dạy trẻ con nhà nghèo, với thù lao khiêm tốn của dân làng đóng góp nhưng với điều kiện không được hoạt động và tuyên truyền cho Việt Minh nữa.
Vài năm sau, Cống đã biết đọc, biết viết và có thể làm được những bài toán cộng, toán trừ đơn giản. Khi ấy, mẹ Cống ngửa mặt lên trời: trước là cám ơn Trời Phật, sau là cám ơn các viên chức làng đã cho bà một niềm vui ngoài sự ước mong của bà.
Cũng từ dạo ấy, bà không bao giờ ngớt lời khuyên Cống phải biết ơn, phải giữ lễ nghĩa đối với những người đã ban ơn cho gia đình nó. Và bà cũng tính đến việc, vì Cống đã biết làm toán cộng toán trừ, sẽ mua chịu phần thịt thặng dư và lòng lợn của bà phó Hồi để mẹ con bà gánh đi bán, thay vì tiếp tục gánh thuê bán mướn như trước giờ.
Phần Cống, từ ngày được đi học, nó vẫn không thấy thiết tha việc học. Tuy nhiên, nó cảm thấy cũng dễ chịu phần nào vì được ra khỏi nhà trong những giờ giấc nhất định mà mẹ không thể la mắng nó. Hơn nữa, nó nhờ những con số cộng trừ giúp mẹ trong việc bán thịt như một lá bùa cho phép nó tự do rong chơi với bè bạn, và mặc tình đi sớm, về trễ.
Riêng thầy giáo Dư, tuy đã có lời cam kết với viên chức trong làng là sẽ chuyên tâm dạy dỗ cho lũ trẻ thoát nạn mù chữ, nhưng cứ mỗi khi nhìn thấy thầy Thông, thầy Phán hoặc các viên chức và những nhà phú hộ trong làng là uất khí hận thù giai cấp vụt bốc lên nghẹn cổ. Do đó, thay vì dạy cho trẻ chữ nghĩa, lễ phép, Dư lại lén tuyên truyền Việt Minh cho chúng. Đám trẻ được Dư sớm nhồi sọ lòng thù hận, dạy dùng mã tấu để giành lấy phần cơm ăn áo mặc từ những người có chút ăn, chút để ngay trong làng.
Học được những điều mới mẻ này, Cống như mở bừng con mắt. Trí nó linh động nghĩ đến ngày đi làm Việt Minh, với mã tấu trong tay. Quả thật, chỉ ít lâu sau đó, nó liền hăng hái đứng dậy, đi theo bọn thằng Chân, thằng Khắc, cùng bỏ học, đi làm cách mạng dưới sự dìu dắt của thầy Dư.
Trong khi ấy, bà đậu Tiến, tức mẹ của Cống, lại không thể hiểu và cũng không bao giờ biết cậu con trai của mình đang nuôi dưỡng giấc mơ đi làm cách mạng. Bà nghĩ đến việc phải cưới vợ cho Cống. Bà chọn được một người con gái trong làng, báo tin mừng cho con. Nghe qua, Cống chẳng vui và cũng chẳng buồn. Nó chỉ muốn bỏ nhà đi theo Việt Minh. Nhưng chưa đi được nên đành tạm nghe lời khuyên của mẹ. Cưới vợ xong, Nguyễn Cống giữ lấy một phản thịt heo trong chợ cho mẹ. Nhơn đi tìm heo mua đem về làm thịt, Cống lãnh luôn thiến heo. Thiến con nào chết, Cống mua đem về làm thịt cho mẹ bán. Lúc nào không có heo, Cống đi lãnh sửa ống khóa và cửa nhà cho người trong làng. Giá cả do Cống đề nghị. Nhưng sau này, khi thật sự cán bộ đảng viên, Cống thường lấy bản thân minh chứng giới lao động bị tư bản, cường hào bốc lột!
Một hôm, vợ Cống hớt hải để đôi quang gánh xuống trước cửa, chạy bay vào trong nhà báo tin cho bà đậu Tiến:
- U ơi! thầy thông Ký chết rồi! Tất cả mọi người ở chợ đều chuyền tai, bảo nhau rằng chồng của con và đám thằng Khắc, thằng Chân, đã giết ông ấy! Anh Cống đã bỏ đi từ nửa đêm... Lợn thì đêm qua không mổ.
Nhờ thành tích giết “cường hào” trong làng, Cống được sớm kết nạp vào đảng. Và đời Cống cũng phất lên từ đây, dưới tên Đỗ Mười.
Hai tấm hình, mỗi tấm có lời nói của nó. Người đọc hiểu chắc không khác nhau lắm.

No comments:

Post a Comment