Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 18 October 2016

VIỆT NAM NGUY VONG -LÀNG VĨNH LỘC, QUẢNG BÌNH

QUỐC PHƯƠNG * VIỆT NAM NGUY VONG

Xã hội VN đã ‘chạm ngưỡng báo động'

  • 12 tháng 3 2016
TS. Nguyễn Thị Từ Huy
 
Image caption TS. Nguyễn Thị Từ Huy cho rằng xã hội Việt Nam đang ở tình trạng khủng hoảng báo động về mọi mặt vào thời điểm 2016.
Xã hội Việt Nam thời điểm 2016 đã ở vào tình trạng khủng hoảng ‘chạm ngưỡng báo động’, trên mọi phương diện dù rằng nền kinh tế có vẻ như đang được phục hồi, theo một nhà quan sát chính trị xã hội Việt Nam từ Pháp.

Đảng cộng sản Việt Nam liệu có đủ năng lực để tiến hành cải cách hay không còn phụ thuộc vào việc Đảng có thể vượt qua được trở ngại lớn trong chính cơ chế và lề lối tư duy của mình, đó là quan điểm của Tiến sỹ Nguyễn Thị Từ Huy trong cuộc phỏng vấn với BBC hôm 12/3/2016. Mời quý vị theo dõi toàn văn cuộc trao đổi được thực hiện qua bút đàm sau đây:
BBC: Gần đây, một số ứng viên độc lập ở Việt Nam đồng loạt bước ra tự ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó có TS. Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội dân sự có tiếng, trong lúc đó Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản khóa mới và Quốc hội Việt Nam sắp mãn nhiệm đã đang bàn bạc về sắp xếp nhân sự lãnh đạo nhà nước cho cuộc bầu cử, bà nói gì về các chuyển động này?
TS. Nguyễn Thị Từ Huy: Trong giới bất đồng chính kiến và giới hoạt động cho dân chủ hóa ở Việt Nam, tôi là một trong số rất ít người nhìn thấy một vài khía cạnh tích cực trong việc lựa chọn nhân sự cao cấp ở Đại hội XII vừa rồi. Đa số dường như rơi vào tình trạng bi quan và mất hết niềm tin, vì nhìn nhận sự thất bại của Thủ tướng như là dấu chấm hết của hy vọng cải cách. Tôi biết, tôi bị mọi người cho là « lạc quan tếu » khi nhìn nhận ngược lại rằng, chính là cùng với Tổng bí thư mà chúng ta có hy vọng cải cách.
Tuy nhiên, một cách khách quan, và dưới con mắt lạnh lùng của một người làm phân tích và làm nghiên cứu, tôi phải nói rằng, cách thức bổ nhiệm nhân sự lần này mất dân chủ hơn rất nhiều lần, so với trước đây. Lấy một ví dụ : Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh hoàn toàn không có quyền lựa chọn lãnh đạo của mình. Chức Bí thư của hai thành phố này bị áp thẳng từ trên xuống. Đảng hoàn toàn không thể dùng từ « bầu cử » (dù chỉ là mị dân, dù chỉ là hình thức, như vốn xưa nay), trong những trường hợp này chỉ có thể nói là đảng áp đặt lãnh đạo lên người dân của hai thành phố này. Ví dụ này điển hình cho việc người dân Việt Nam hoàn toàn không có quyền chọn lãnh đạo của mình. Thế nhưng, lãnh đạo các cấp, kể từ người lãnh đạo cao nhất, đều tự nhận là hệ thống hiện đang rất « dân chủ », bầu cử lần này rất « dân chủ ». Nếu làm việc theo cách thức như vậy mà vẫn tự cảm thấy mình dân chủ, thì hoặc là tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân, hoặc là không hiểu một chút gì về khái niệm dân chủ.
Image copyright Kham Getty Images
Image caption Tác giả cho rằng từ 2-5 năm tới khó có gì gọi là 'ẩn số' khi bình luận về chính trị Việt Nam và quyền lực của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Vậy thì hãy để cho các ứng viên tự do như ông Nguyễn Quang A tiến hành phép thử của họ. Phép thử này sẽ giúp cho tất cả các bên (đảng, ứng viên tự do, nhân dân) nhận rõ nhiều điều. Theo tôi, đây là một việc hết sức cần thiết trong thời điểm này.

Không có ẩn số

BBC: Đảng Cộng sản Việt Nam được cho là đang trong một giai đoạn chuyển giao, chưa rõ khi nào ông Nguyễn Phú Trọng sẽ bàn giao chức Tổng Bí thư mà ông mới tái đắc cử cho người kế nhiệm, dường như chính trị Việt Nam từ ít nhất 2-5 năm tới còn nhiều ẩn số?
TS. Nguyễn Thị Từ Huy: Từ 2 đến 5 năm tới, khó có cái gì gọi là ẩn số. Quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam hiện tại vẫn rất vững chắc. Đảng đang có tất cả các phương tiện để củng cố quyền lực của mình.
Đa số người dân đã quen chịu đựng và bị buộc phải đặt vào tình trạng phi chính trị, họ không quan tâm đến các hoạt động chính trị, và cũng chưa hiểu được ý nghĩa của chính trị đối với cuộc sống của mình, nhu cầu vật chất vẫn đang là mối quan tâm hàng đầu, kể cả ở giới lao động trí óc. Sự tiến triển của xã hội dân sự hiện đang rất chậm chạp. Các tổ chức chính trị và các đảng phái chính trị ngoài đảng cộng sản chưa hình thành được ở Việt Nam.
Vì vậy, những người muốn Việt Nam được dân chủ hóa sẽ phải làm việc rất nhiều, rất nhiều, nếu họ muốn sau 5 năm nữa có những thay đổi mang tính chất ẩn số.
Nếu chúng ta không nỗ lực đủ thì tình trạng sẽ còn kéo dài chưa biết bao lâu. Václav Havel (BBC: nhà văn, kịch tác gia, cố tổng thống CH Czech) từng nói rằng hệ thống toàn trị làm tha hóa con người, và đến lượt mình con người tha hóa sẽ củng cố hệ thống đó.
Đông Âu cộng sản đã thoát khỏi hệ thống tha hóa ấy từ hơn hai mươi năm nay, và trong chừng đó thời gian chúng ta đã tiếp tục trượt dốc tha hóa. Liệu chúng ta còn đủ khả năng chống lại sự tha hóa đó hay không, hay sẽ tiếp tục củng cố nó, cốt chỉ để tồn tại qua ngày?
Hãy nhìn Bắc triều tiên, vốn cùng một dân tộc với Nam Triều tiên, để thấy rằng một hệ thống chính trị tha hóa có thể dẫn con người tới đâu.
Václav Havel
 
Image caption Năm 1975, Václav Havel, nhà văn, kịch tác gia của Tiệp Khắc, từng cho rằng quốc gia cộng sản này khi đó đang rơi sâu vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử.
Sự chuyển giao quyền lực từ một tổng bí thư này sang một tổng bí thư khác không làm thay đổi hệ thống chính trị, không làm giảm thiểu khả năng tha hóa và làm tha hóa của hệ thống quyền lực, chừng nào quyền lực chính trị vẫn còn không được kiểm soát bằng một cơ chế thực sự dân chủ: cơ chế tam quyền phân lập.

Chạm ngưỡng báo động

BBC: Từ một người làm nghiên cứu, lý luận về văn học, nay quan sát và phân tích chính trị Việt Nam từ hải ngoại, bà có nhận xét gì về xã hội và chính trị Việt Nam giai đoạn hiện nay?
TS. Nguyễn Thị Từ Huy: Năm 1975, Václav Havel, trong một bức thư gửi Gustav Husák, Tổng bí thư đảng cộng sản Tiệp Khắc lúc đó, có nói về xã hội Tiệp Khắc như sau:
"Tôi dám khẳng định rằng – bất chấp mọi thực tế hấp dẫn bên ngoài – bên trong, xã hội của chúng ta […] đang rơi vào một cuộc khủng hoảng ngày càng sâu hơn, một cuộc khủng hoảng mà về mặt nào đó còn nguy hiểm hơn mọi cuộc khủng hoảng chúng ta từng biết trong lịch sử cận đại," (theo bản dịch của Phạm Nguyên Trường).
Nếu xã hội cộng sản Tiệp Khắc ở thời điểm năm 1975 được đặc trưng bởi tính chất của một cuộc khủng hoảng mà Havel xem là nguy hiểm nhất, thì xã hội Việt Nam thời điểm 2016, theo tôi, đã ở vào tình trạng khủng hoảng chạm ngưỡng báo động, trên mọi phương diện. 
Dù rằng nền kinh tế có vẻ như đang được phục hồi, nhưng những nguy cơ tiềm ẩn (được tích tụ trong suốt nhiều thập kỷ quản lý bằng tham nhũng) thì chưa biết sẽ bùng nổ cụ thể vào thời điểm nào và dưới hình thức nào, nếu vẫn tiếp tục phương thức quản lý hiện tại và không có các biện pháp hữu hiệu để xử lý hậu quả của các đường lối và chính sách vẫn duy trì cho đến tận lúc này.
Trên những phương diện khác (văn hóa, giáo dục, y tế, luật pháp, đạo đức xã hội…) cuộc khủng hoảng cũng đang ở ngưỡng báo động, chỉ có điều là người dân và chính phủ Việt Nam có dám đối diện với sự thật về cuộc khủng hoảng này hay không mà thôi.
Chính trị Việt Nam
 
Image caption Đang có một phong trào tự ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam, mà TSKH Nguyễn Quang A là một trường hợp.
Và có bao nhiêu người tự xem là thuộc tầng lớp trí thức dám nhìn nhận rằng mình đang sống trong khủng hoảng, và đang tạo ra nó, bằng chính lối sống và lối làm việc hàng ngày của mình?

Cải cách chính trị?

BBC: Bà từng đặt câu hỏi trong một series bài blog trên truyền thông quốc tế rằng liệu Việt Nam có thể thực hiện cải cách chính trị. Câu hỏi đó chỉ đặt ra riêng cho Đảng Cộng sản đang cầm quyền, hay còn cho toàn xã hội, hoặc cho những chủ thể chính trị, xã hội nào khác?
TS. Nguyễn Thị Từ Huy: Câu hỏi đó dĩ nhiên được đặt ra cho Đảng cộng sản Việt Nam và cho tất cả mọi người, hay như ông nói, cho toàn bộ xã hội.
Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện đang ở thời điểm phải tự biện minh cho tính chính danh của mình. Sự yếu kém trong việc quản lý và xây dựng đất nước, sự thất bại trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh hải, giờ đây đã không còn có thể giấu giếm được nữa.
Vì thế mà nhu cầu tự biện minh cho tính chính danh của độc quyền lãnh đạo xuất hiện một cách thường trực trong diễn văn của các đảng viên lãnh đạo (dưới nhiều hình thức khác nhau: tự kể công lao của đảng, tự ca ngợi đảng, bắt nhân dân phải nhớ ơn đảng…).
Nhu cầu tự biện minh này chứng tỏ rằng những người lãnh đạo hiểu rằng độc quyền lãnh đạo không phải là điều đương nhiên đối với đảng cộng sản, kể cả khi họ dùng điều 4 của Hiến pháp để áp đặt độc quyền này lên toàn xã hội. Họ biết như tất cả mọi người rằng đảng viên không phải sinh ra là để làm lãnh đạo. Họ cũng hiểu rằng, đảng muốn mạnh, muốn có chính danh và được thừa nhận thì không thể tiếp tục suy thoái như hiện nay.
Nói cách khác, họ biết rằng cần phải cải cách. Tuy nhiên, Đảng cộng sản Việt Nam có đủ năng lực để tiến hành cải cách hay không, đối với Đảng, đó là một câu hỏi lớn và là một câu hỏi khó. Bởi vì, không ai khác, không cái gì khác, mà chính cơ chế và lề lối tư duy sẽ ngăn cản Đảng cải cách.
Tuy nhiên, khi toàn xã hội có nhu cầu cải cách, và bộc lộ nhu cầu này thành những áp lực đủ mạnh, lúc đó đảng buộc phải cải cách. Bởi vì, nếu như đảng có thể chống lại một vài người bất đồng chính kiến hoạt động đơn độc, bằng cách đàn áp họ và biến họ thành phản động (làm vậy thật quá dễ, và có thể nói là hèn, đối với cả một bộ máy quyền lực!), thì đảng không thể chống lại cả xã hội. Bởi vì một khi cả xã hội, hoặc phần lớn mọi người trong xã hội đều phản ứng, thì lúc đó, phản động sẽ trở thành tiến bộ.
Tiến sỹ Nguyễn Thị Từ Huy có bằng tiến sĩ văn chương bảo vệ tại Pháp năm 2008 và từng giảng dạy tại một số trường đại học ở Việt Nam. Hiện bà đang làm luận án tiến sĩ về triết học chính trị tại Đại học Paris Diderot, Pháp.

SƠN TRUNG * LÀNG VĨNH LỘC, QUẢNG BÌNH


LÀNG VĨNH LỘC
Sơn Trung 
Tài liệu Tổng hợp  


I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ

Làng Vĩnh Lộc  huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình nằm giữa bãi bồi rộng lớn ở phía hạ nguồn sông Gianh. Từ thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch theo đường tỉnh lộ 12 khoảng 3 km rồi rẽ trái qua cầu Quảng Hải là đến địa phận làng Vĩnh Lộc. Làng Vĩnh Lộc xưa phía bắc tây giáp làng Hòa Ninh, Vĩnh Phước, đông giáp làng La Hà, Phù Trạch, Nam giáp sông Gianh,Cồn Sẻ (nổi danh chống Formosa), Cao Lao, bắc giáp sông Gianh,  thôn Lũ Phong, Pháp Kệ, Hướng Phưong, bên kia bờ nam là làng Cao Lao, là quê của Lưu Trọng Lư. 


Làng có bề dày lịch sử hình thành từ thời vua Trần Minh Tông (1314-1357) phát triển đến nay trên 600 năm. Lịch sử dòng họ Đinh- làng Vĩnh Lộc gắn liền với võ công hiển hách, mở mang bờ cỏi xuống phía nam Đại Việt thời nhà Trần của Ngài thượng thư Đại hành khiển tả bộc xạ Trần Bang Cẩn. Ban đầu làng có tên là giáp Thị lang, dân quen gọi là Thị Làng, sau thành làng Vĩnh Khang, đến đời Nguyễn vì kiêng tên nên đổi thành Vĩnh Lộc.

Làng Vĩnh Lộc cũng như  Minh Lệ,Thọ Linh, Lâm Xuân,Vĩnh Phước, Hòa Ninh, Phù Trạch, La Hà, Thuận bài...đều một giải nằm giữa hai nhánh sông Gianh. . Sau cải cách ruộng đất 1956, bên làng
( bên đoài ) hợp với Vĩnh Phước thành Quảng Lộc, còn bên giáp, ( bên Đông ) hợp với Hòa Ninh thành Hợp Hòa, xã Quảng Hòa. Làng Vĩnh Lộc chia ra hai giáp Đông và Đoài vì bị ngăn bởi con sông đào gọi là Hòa giang (Địa phận Hòa Ninh), Vĩnh giang (địa phận Vĩnh Lộc). Sau 1954, CCRD, Việt Cộng tổ chức HTX nông nghiệp, giáp Đoài  đi theo Vĩnh Phước thuộc xã Quảng Lộc, côn giáp Đông  theo làng Hòa Ninh, thuộc xã Quảng Hòa, và có tên là HTX Nam Hòa.

Dân cư nay khoảng bốn ngàn. Trong phủ Quảng Trạch có bốn làng nổi danh vì đỗ tiến sĩ nhiều và khá giả là Sơn Hà Cảnh Thổ. Sơn là làng Lệ Sơn, Hà là làng La Hà, Cảnh là Cảnh Dương (nay nổi danh là chống Formosa) và Thổ Ngọa nổi danh gái đẹp và có tướng Đỗ Mậu! Làng Vĩnh Lộc chỉ là một làng nhỏ, theo nông nghiệp, không có nghề khác. 



Trong 23 đạo sắc các vị thần của các dòng họ làng Vĩnh Lộc có hai vị là tước công, bốn vị tước hầu, một vị tước bá, một vị tước tử, với trung đẳng thần, thượng đẳng thần, tôn thần... có một sắc phong vào loại sớm, năm Cảnh Hưng thứ 15 (1785).

 Điện Thành hoàng làng Vĩnh Lộc, nơi lưu giữ 7 sắc phong quý.
 Điện Thành hoàng làng Vĩnh Lộc, nơi lưu giữ 7 sắc phong quý.

Riêng tại Điện Thành hoàng làng Vĩnh Lộc (Đông Đoài - Hai Giáp) - di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia hiện đang lưu giữ 7 sắc phong cho Thượng thư Đại Hành Khiển Trần Bang Cẩn - người có công lớn dẹp giặc Lồi (Chiêm Thành), được dân làng lập điện thờ và tôn ngài là thần Thành hoàng của làng Vĩnh Lộc.

Sau bao biến cố, nhân dân đã giữ gìn miếu mạo, sắc phong các đời nhưng đình làng bị phá hủy và các sách vở, cổ vật tại các tư gia bị CCRD cướp phá và hủy hoại. Đây là tình trạng chung cho miền Bắc XHCN thờiCCRD vô nhân đạo.

   Nay vì du lịch, vì UNESCO cho tiền tái thiết các cổ tích, thấy có lợi, Việt Cộng ra sức sơn phết các đền, miếu và tổ chức các lễ hội.


II. ĐIỆN THÀNH HOÀNG VĨNH LỘC

 

Điện thành hoàng Vĩnh Lộc



Điện thành hoàng Vĩnh Lộc nằm ở đầu làng, trên một thế đất cao. Điện hướng về phía Nam , nhìn ra bờ sông Hòa Giang, đến thăm di tích có thể đi bằng nhiều phương tiện nhưng thuận lợi nhất vẫn là đường thuỷ. Từ bến đò thị trấn Ba Đồn du khách qua sông Gianh đến bến đò Cửa Hác, tiếp tục hành trình bằng thuyền dọc theo sông Hòa Giang du khách sẽ được du ngoạn trên một vùng quê sông nước miên man. Thuyền cập bến ở Vĩnh Lộc, du khách đi bộ chừng 300m về phía Bắc xã là đến di tích.

Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc được xây dựng năm 1483 do dân làng đóng góp. Điện lúc đầu được làm bằng tre nứa để thờ vị Thượng thư Đại Hành khiển Trần Bang Cẩn, Ngài vốn dòng dõi vua Trần, là người có công đánh dẹp giặc Chiêm Thành, chiêu mộ dân khai hoang lập ấp.


Đến năm 1815, Điện Thành hoàng được xây dựng một cách hoàn chỉnh hơn. Đây là một quần thể các điểm di tích gồm sân ngoài, sân trong, bình phong, tiền điện, hậu điện, miếu tả, miếu hữu. Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc là một kiểu kiến trúc độc đáo trong loại hình kiến trúc thời phong kiến ở Quảng Bình. Điện xây khá đẹp, phối trí hài hoà, công phu, có khuôn viên, cảnh quan môi trường, toạ lạc trên một vị thế rất hữu tình, làng mạc, cây đa, bến nước. Hình tượng con rồng ở điện được thể hiện dưới mọi góc độ: Rồng nhìn chính diện, nhìn nghiêng; rồng bay trên trời xuống, dưới đất lên; Lưỡng long chầu nguyệt, đầu rồng cách điệu ở các đầu đao... thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của các nghệ nhân xưa. 

Sự hiện diện của điện thành hoàng Vĩnh Lộc là bằng chứng một thời về sự mở mang bờ cõi phương Nam , khai phá đất đai 2 châu: (châu Ô, châu Lý) cho Đại Việt từ thời nhà trần.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và gia phả chữ hán còn lại của các dòng họ trong làng Vĩnh Lộc, thì Vĩnh Lộc được hình thành cách đây khoảng 600 năm, từ khi thành hoàng Trần Bang Cẩn dẫn đầu đoàn quân đánh dẹp giặc Chiêm Thành lập ấp Thị Lang; hai giáp Đông, Đoài dưới thời vua Trần Minh Tông (1314-1357). 

Do công lao và đóng góp của Ngài, các triều đại  gia phong với các tước vị: Bản thổ Binh Lồi (đánh giặc Chiêm Thành). Gia Vương Trần Hành Khiển tăng Vĩnh Lộc thành hoàng, gia tăng chính trực hữu thiện đôn ngưng, Dục bảo Trung hưng tôn thần.v.v... 


Lễ hội kỳ phúc và rước kiệu Thành hoàng làng Vĩnh Lộc 

Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc, nơi thờ tự, nơi tế lễ, nơi tưởng niệm vị thành hoàng Trần Bang Cẩn. Nơi thực sự gắn với những lễ hội, tín ngưỡng của cư dân Vĩnh Lộc nói riêng, cư dân nông nghiệp nước ta nói chung. Di tích kiến trúc nghệ thuật Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc là Di sản văn hóa cực kỳ quý báu mà mỗi chúng ta cần có ý thức bảo tồn, phát huy giá trị trong đời sống văn hóa tinh thần hiện nay. Sau điện nằm trong khuôn viên điện là một khu rừng quý.


 Lễ hội kỳ phúc và rước kiệu Thành hoàng làng Vĩnh Lộc 


III. ĐẠI HÀNH KHIỂN TRẦN BANG CẨN


Triều nhà Trần thời vua Trần Minh Tông, việc cai quản các lộ Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh... được giao cho con em vua Trần. Vâng lệnh triều đình, Trần Bang Cẩn đã thống lĩnh một đạo quân vào phía Nam của quốc gia Đại Việt. Tại đây, vùng đất hai bờ hạ lưu sông Gianh, sau khi đánh thắng nhiều trận và dẹp yên quân Chiêm Thành, ông đã tụ tập dân binh, chiêu dân, hướng dẫn khai phá đất đai, lập ra hai xứ Đông, Đoài của xã Quảng Lộc và một phần xã Quảng Hòa bây giờ. Thành hoàng Trần Bang Cẩn là người có công đối với đất nước, quê hương; vì thế, qua các triều đại phong kiến đều được phong sắc và phong sắc nhiều lần. Đặc biệt, thời Trần ông được vua Trần rất ca ngợi. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển II, kỷ nhà Trần, Ngô Sĩ Liên chép: ''Trần Bang Cẩn là vị Đại Hành Khiển thượng thư tả bộc xạ, là người tin thực, giữ gìn, giản dị, điềm tĩnh, không xa hoa”. Ngài khi còn sống được vua Trần ban cho bức tượng vẽ và bài thơ ca ngợi:

形容骨格耐冬寒,
相貌亭亭亦可觀。
風流一段渾描盡,
心裏難描耿耿丹。


Hình dung cốt cách nại đông hàn,
Tướng mạo đình đình diệc khả quan.
Phong lưu nhất đoạn hồn miêu tận,
Tâm lý nan miêu cảnh cảnh đan.

“Dạng hình cốt cách nại đông hàn,
Tướng mạo đình đình diệc khả khan,
Phong lưu nhất đoạn hồn miêu tận,
Tâm lý nan miêu cánh cánh đan”.

Dịch thơ:

Dạng hình cốt cách tựa cây thông
Tướng mạo nghiêm trang cũng đáng trông
Mọi vẻ phong lưu tô được hết
Khôn tô choi chói tấm son lòng

Trong bài văn tế Thành hoàng Trần Bang Cẩn ở làng Vĩnh Lộc có đoạn :

Cung duy Tôn thần
Gương oanh liệt sáng soi kinh cổ
Tiếng anh hùng vang dội non sông
Chí mở mang đất nước an dân
Công khai thác giang sơn phong thổ
Nguyên thế hệ vốn dòng ngọc phổ
Dòng dõi vua Trần tài đọ cả hơn”


Hàng năm nhân dân hai làng (giáp), Đông, Đoài, trong vùng thường tổ chức 1ễ hội cúng Thành hoàng tại Điện thờ. Đặc biệt, vào ngày giỗ vị Thành hoàng, bên cạnh việc cúng tế, rước sắc, có làm lễ hèm diễn lại sự tích lịch sử của vị Thành hoàng, theo đó có nhiều trò vui chơi giải trí và hát xướng. Việc thờ cúng này vẫn bảo lưu cho đến ngày nay, là một dạng tín ngưỡng khá đặc biệt mang nhiều yếu tố dân giả, là môi trường tốt góp phần làm cho những xu hướng nghệ thuật dân gian nảy nở và phát triển, làm đậm đà bản sắc văn hóa của làng Vĩnh Lộc.

Sau khi bình giặc Lồi, khai phá miền Nam Nghệ An cho đến Quảng Bình, chúng ta không biết quan  Trần Bang Cẩn có về Thăng Long hay không, và ở ngoài Bắc, Ngài có vợ con hay không., còn ở làng Vĩnh Lộc không để lai hậu duệ và gia tộc, nhưng cả làng, cả vùng luôn tỏ tấm lòng tôn kính, sự tôn kính đó được biểu hiện ở hai câu đối trong điện:

Khai thác hình huân tồn giả sử
Công hoàng long cảo điệp triều ân”.
(Công ngài khai thác còn ghi nhớ
Ơn triều đình mãi mãi còn ghi).


Với những đóng góp cực kỳ to lớn, được đánh giá là công thần đối với đất nước quê hương, phúc thần với nhân dân, các triều đại phong kiến đều gia phong vị thượng thư tả bộc xạ Trần Bang Cẩn ở làng Vĩnh Lộc với các tước vị như: Bản thổ bình Lồi (dẹp giặc Chiêm Thành). Gia vương Trần Hành Khiển tăng Vĩnh Lộc Thành hoàng. Gia tăng Chính trực Hữu thiện Đôn ngưng. Dực bảo Trung hưng Tôn thần. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và gia phả các dòng họ trong làng Vĩnh Lộc, làng hình thành cách đây trên 600 năm, từ khi Thành hoàng Trần Bang Cẩn cùng các vị tướng họ Nguyễn, họ Đinh dẫn đoàn quân đánh dẹp Chiêm Thành.

Theo Ngài, có Tả Phó quan Nguyễn Chiêm người quê Thanh Ba Ngoại (Thanh Hóa) sung chức Đốc vận lương, sau Ngài ở lại khai khẩn vùng này, sau  được vua Khải Định năm thứ 9 (1924) sắc phong: “Tả phó quan Nguyễn Chiêm, Quân chi thần”. Ngài là đệ nhất tổ của họ Nguyễn Vĩnh Lộc, hâu duệ là quan  Tổng Trấn Nghê An Nguyễn  Đạt.  Ngoài ra con có vị tướng họ Đinh quê Lam Sơn, Thanh Hóa theo Trần Bang Cẩn, sau này được vua Duy Tân năm thứ 7 phong là: “Thiếu giám quan Đinh tướng công”.

Điện thờ Trần Bang Cẩn nhìn ra bờ sông Hòa Giang (một nhánh sông nhỏ chảy về bến đò Cửa Hác của sông Gianh). Điện là điểm tham qua du lịch văn hóa tín ngưỡng dân gian của Quảng Trạch nói riêng và Quảng Bình nói chung,   luôn tỏ tấm lòng tôn kính, sự tôn kính đó được biểu hiện ở hai câu đối trong điện:  

“Khai thác hình huân tồn giả sử
Công hoàng long cảo điệp triều ân”.
(Công ngài khai thác còn ghi nhớ
Ơn triều đình mãi mãi còn ghi)



IV. CÁC HỌ TRONG LÀNG VĨNH LỘC


Trong làng có nhiều họ Nguyễn, họ Đinh và họ Hoàng, họ Ngô (dòng Ngô Văn Sở) và họ Mai.
Trong khuôn viên Điện thành hoàng còn có hai miếu thờ hai vị thần tướng họ Đinh (một vị thần quan văn -gốc Đường Lâm, Sơn Tây; một vị thần quan võ- gốc Lam Sơn, Thanh Hóa). Như vậy là có hai họ Đinh có công đánh giặc và khai phá vùng này

A. HỌ NGUYỄN


Sau khi thắng Chiêm Thành, Tả phó quan Nguyễn Chiêm ở lại khai hoang lập ấp, thành ra đệ nhất tổ dòng họ Nguyễn ở làng Vĩnh Lộc.  Sáu đời đầu đều là con một, nay được 19 đời. Tổ thứ tư là Nguyễn Đạt, làm Tổng trấn Nghệ An triều Lê, tước Yên Bài Tử, hàm Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại  phu, trông coi vùng biên giới phía Nam gồm Ngệ An cho đến Quảng Binh ngày nay. Ngài Tổng trấn đóng tại đồn Cầu Dinh ( Nghệ  An ), đi săn bị giặc vây, thất tích, phải lấy thân dâu đầu gáo mà tống táng.
Đời thứ năm là Nguyễn Công Phụ,giữ chức Phó đội dinh Phi Kị  ở nội triều, tước Đặng Xá Bá. Bà huý Cầu, sinh hạ Công Bật.Tổ làm quan khoảng Lê Gia tông niên hiệu Dương Đức  (1672-1673), và đời Lê  Hy tông  (1678-1680).
Tổ thứ sáu là Nguyễn Công Bật , giữ chức Chánh Đội, có quân công , được phong tước Thị Truyền Hầu. Từ đời này sinh hai con.



Đời thứ mười có ông Nguyễn Văn Trường  quán xã Thị Lễ, huyện Minh Chánh, đậu cử nhân thứ ba, tại trường thi Thừa Thiên, làm quan tới  Tán Tương quân thứ Tuyên Quang. Cùng khoa này có ông Nguyễn Cơ người xã Thị Lễ, huyện Minh Chánh, tỉnh Quảng Bình đỗ thứ hai. Khoa này có Hoàng Diệu cũng đỗ cử nhân. ( Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục,bản dịch TP.HochiMinh,1993,tr.275) 

Gia phả họ Nguyễn ghi : Tổ Nguyễn Văn Trường khởi đầu làm tri huyện, sau vào triều làm Ngự sử viên ngoại, tài kiêm võ nghệ nên được cử làm phó  giám khảo võ học, sung Tán tương quân vụ Tam Tuyên Bắc Hà, mất tại chức năm 1873. Tổ đã cùng Nguyễn Tri Phương đánh Pháp. Trong triều, tổ bàn luận nhiều điều xác đáng.



Đời  thứ 12 có  Nguyễn Hữu Phỉ đỗ cử nhân khoa kỷ mão niên hiệu Tự Đức thứ 32 (1879) , đứng thứ 11 tại trường thi Thừa Thiên . Khoa này có Trần Tiến Ích người Thỗ Ngọa đứng đầu. (QTHKL. tr.453)

Cũng đời thứ 12, ông Quỳnh đổi tên là Hữu Trác,  em Nguyễn Hữu Phỉ, sinh ngày 28 tháng 7 năm ất sửu  tức ngày 17-9-1865.

Sử chép Tổ là người xã Vĩnh Lộc, tỉnh Quảng Bình, đỗ cử nhân khoa mậu tí niên hiệu Đồng Khánh  thứ ba ( 1888) , đứng thứ 30 tại Thừa Thiên. Khoa này tại làng La Hà có hai cha con ông Trần Hữu Xứng và Trần Văn Dĩnh đồng khoa. ( QTHKL,tr.453)
Tổ làm tri huyện ơ Yên thành, mất ngày 7 tháng 6 năm bính thìn,tức6-7-1916 lúc đang tại chức, thọ 52 tuổi , được rước linh cửu  về nhà trong tháng 6 năm ấy, đặc truy  hàm Phụng nghị đại phu ,Hồng lô tự Thiếu khanh.
Sau có cụ  Nguyễn Như Thiệp ,Nguyễn Bá Ky  bị tai họa CCRD, Nguyễn Mạnh Hạp, đỗ đầu xứ,  Nguyễn Tri Ân làm tòa án tỉnh, Nguyễn Cầm làm tỉnh ủy Quảng bình, Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề nhà văn, Nguyễn Văn Phần , Vụ trưởng  bộ  Lao Động, Nguyễn Bá Sinh thạc sĩ, kỹ sư, Nguyễn Bá Trinh tiến sĩ.





[1] Tử : Huân cấp ,  ngang Tùng nhất phẩm.
[2]  Kim tử Vinh Lộc Đại phu : Huân cấp này là văn quan, ngang chánh nhất phẩm. Ngày xưa, các quan từ cao đến thấp chia ra chín bậc ( nhất phẩm đến cửu phẩm; mỗI phẩm lại chia ra chánh và tòng ( chánh nhất phẩm, tỏng nhất phẩm. Như vậy là có 18 bậc.

 MIẾU QUAN TỔNG TRẤN

Miếu Tổng Trấn ở cửa Hác (giáp La Jà) không biết lập ra từ đời nào, xưa thấp nhỏ,  nhỏ ở  cuối  sông Vĩnh giang, nhỏ  chừng 3, 4 tấc tây,  khoảng năm 2000 thì tu bổ cao  khoảng 2 m, được trang trí khá đẹp.

 




VĂN BIA LƯỢC SỬ
CÔNG ĐỨC QUAN TỔNG TRẤN
Cây trăm cành lớn lên nhờ cội, nước trăm sông đều khởi từ nguồn. Tổ tông chính là nguồn gốc của
con cháu đó.
Thần Thành hoàng làng xưa là: Hoàng tử vua Trần, giữ chức Thượng thư Đại hành khiển- Lĩnh ấn
Bình Lồi gia vương, phụng mệnh triều đình chinh phạt Chiêm Thành, mở mang bờ cõi (Niên hiệu
Minh Tông 1314- 1357).
Cụ thủy tổ Nguyễn Tộc Đại Tôn húy Nguyễn Chiêm, quê Thanh Hoa ngoại, được đặc cách, bổ giữ
chức tả phó quan - kiêm đốc vận quân lương, cùng con là quan Yên Lễ Hầu, từng rong ruổi xông pha ghi nhiều công trạng. Sau khi yên giặc, thấy châu Ma Linh - Địa Lý là đất hoang nhàn, ngài hợp cùng các tướng là các cụ thủy tổ họ Đinh, họ Hoàng cùng lưu lại lập ấp- an dân, đặt tên làng, làm sổ bộ. 
Trước đặt là Thị Lang giáp, sau đổi thành làng Vĩnh Khang, lại cải hiệu là làng Vĩnh Lộc.
Quan Tổng Trấn húy Nguyễn Đạt là vị tổ đời thứ tư của Nguyễn Tộc Đại Tôn, ngài sinh trưởng tại
làng Vĩnh Khang. Tài văn võ song toàn, tước Yên Bài Tử, mới ngoài ba mươi tuổi đã được vua Lê và triều đình giao trọng trách Tổng Trấn Nghệ An (bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh,và châu Bố Chánh
(Quảng Bình ngày nay)). Là một trấn quan trọng của nước Đại Việt lúc bấy giờ.
Ngài có công trấn thủ Nghệ An. Với tài thao lược đã lập được nhiều công danh, giữ vững bờ cõi, quốc thịnh dân yên. Lâm trận tại Cầu Dinh (Nghệ An) gặp cơn địch thế khôn đương vẫn quả cảm, can trường, quyên sinh báo quốc. Gương oanh liệt sáng ngời kim cổ, đạo trung quân vì nước chu toàn.
Với công lao đức độ của ngài, triều đình tấn phong: Đặc Tiến Kim Tử- Vinh Lộc Đại Phu, liệt vào
hàng trọng thần của triều đình và chỉ dụ cho lập miếu thờ tại quê nhà, xứ Kim Cương trông ra cửa Đại Hác, án ngữ ngã ba sông Gianh.
Sau khi quy tiên, ngài hiển thần rất anh linh. Gia phổ Nguyễn Tộc Đại Tôn còn lưu giữ bài văn luyện cầu, con cháu và dân làng ốm đau, hoạn nạn cầu xin, ngài hiển trứ, linh ứng phù hộ muôn dân. 
Đến thời triều Nguyễn (Gia Long) tên làng Vĩnh Khang phạm vào quốc húy. Nên làng mới giữ nguyên chữ Vĩnh thay chữ Khang thành chữ Lộc, để lưu giữ ân lộc vua ban.
Năm thứ bảy hiệu Duy Tân (1913) có sắc gia phong: Kim Tử- Vinh Lộc Đại Phu, An Bài Tử
Nguyễn Quý Công Chi Thần- Vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.
Trước đây làng có ruộng thờ ngài. Hàng năm tế lễ hai kỳ vào Rằm tháng Giêng và Rằm tháng Sáu.
Nối chí cha Quan Đặng Xá Bá lãnh chức phó đội Dinh Phi Kỵ trong Dinh Nội, Hạch Điểu Thương
đậu hạng ưu, đánh giặc có công được phong tước Đặng Xá Bá, vua ban thưởng hai mẫu ruộng, ngườinhường lại cho dân. Công danh của người được ghi trong lịch sử triều đình Niên hiệu Dương Đức năm thứ 2 (1673) và niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3 (1678) đời Lê.
Quan Thị Truyền Hầu, cháu ngài lãnh chức Chánh Đội trong Dinh Nội, xông pha trận mạc, đánh giặc có công lớn được phong Tước Thị Truyền Hầu.
Quan Thần Sách Vệ Tri Bộ vị tổ đời thứ chín của Nguyễn Tộc Đại Tôn là bậc hiền tài, công đức của người được ghi trong lịch sử triều đình Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 đời Lê (1784) và Niên hiệu GiaLong năm thứ tư triều Nguyễn (1805)
Sáu vị tổ hiền tài được vua phong sắc & làng thờ làm thần khai khẩn, khai canh.
Thủy Tổ Tả Phó Quan Quan Yên Lễ Hầu (kế tổ đời thứ hai)
Quan Tổng Trấn (kế tổ đời thứ tư) Quan Đặng Xá Bá (kế tổ đời thứ năm)
Quan Thị Truyền Hầu (kế tổ đời thứ sáu) Quan Thần Sách Vệ Tri Bộ (kế tổ đời thứ chín)
Thật đã từng trải mấy trăm năm đến nay. Trong thời gian ấy, bậc trung trinh kế thế, người thi lễ truyềngia, mở mang, chỉ bảo cho con cháu những điều chính đáng, không sót vẻ gì. Bởi nền cũ, nếp xưa, concháu noi gương lo tròn bổn phận mới thấy càng ngày càng thịnh vượng.
Rõ là, nhờ có gốc vững, rễ sâu, nguồn nước xa, nên cành cây xanh tốt ươm chồi, dòng nước trong như thế!
Vậy bíên chép châu tường Lưu truyền vĩnh viễn, gọi là Kỷ niệm bia bất hủ.


Xin nêu một vài người Vĩnh Lộc đã có nhiều đóng góp cho Văn học: 

    Đẩu Tiếp (1913-1947)

Nước: Việt Nam (Hiện đại)
40 bài thơ
    - Mừng phụ thân lục tuần
    - Gái hàng hoa
    - Mượn tiền gửi về nhà
    - Bài chiêu hồn nữ sĩ Hường Hoa
    - Gần Tết ở quê người

    Mới nhất


    B. HỌ ĐINH

    Họ Đinh gốc từ xã Đường Lâm, Sơn Tây: Thủy tổ là Ông Đinh Phúc Sỹ , theo Hoàng tử Trần Bang Cẩn vào nam dẹp giặc Lồi (Chiêm Thành), sau khi giặc yên, thấy châu Ma Lý hoang nhàn, nhân đó xin ở lại thiết lập xã hiệu, khai khẩn đất đai, đăng tiến danh sách hiệu Thị Lang giáp, nhiều năm sau thủa ấy làng đổi tên là giáp Vĩnh Khang, thời nhà Nguyễn vì phạm húy phải đổi tên là làng Vĩnh Lộc.

    Sắc phong

    - Sắc Quảng Bình tỉnh, Quảng Trạch phủ, Vĩnh Lộc thôn, phụng sự Tiền hiền khai khẩn Đinh Thị Đại Lang (Thủy tổ-Đinh Phúc Sỹ); Hậu hiền khai canh (Đinh Phúc Nhân, đời thứ sáu- Trưởng nhánh hai); Hậu hiền khai khẩn Đinh Ba Đại Lang (Đinh Phúc Hoa, đời thứ sáu- Trưởng nhánh ba); Hậu hiền khai canh Tiền triều phấn lực tướng quân Đinh Thực Đại Lang (Đinh Phúc Thiệt, đời thứ tám, thứ nhánh hai, Trưởng chi hai). Niệm tứ linh ứng, tứ lĩnh chính trực . Trẫm tứ tuần Đại khánh tiết, kính ban báo chiếu đàm ấn-lệ long đăng trật quan tước phong Dực bảo trung hưng linh phù chi thần, chuẩn cờ sự phụng thần, cờ tướng hữu bảo ngạ lê dân.
    Khâm tai
    Khải Định năm thứ chín tháng bảy ngày hai mươi lăm.

    - Sắc Quảng Bình tỉnh, Tuyên Chính huyện, Vĩnh Lộc thôn, phụng sự cẩm y vệ Văn bân hầu Đinh Quý Công chi thần ( Đinh Phúc Truyền, đời thứ ba), nậm trứ linh hướng lai vị, hưu dự phong: tứ lĩnh phủ thừa , định mệnh diễn niệm thần hưu, tứ phong vi Dực bảo trung hưng linh phù chi thần. Chuẩn y, cựu phụng sự thần, cờ tướng hữu bạo ngạ lê dân.
    Khâm tai.
    Duy Tân năm thứ bảy tháng mười ngày mồng tám.

     Gia phả Họ Đinh làng Vĩnh Lộc, Quảng Bình. (Bản dịch)

    " Nước có sử, nhà có gia phả, Tổ nguyên quán Đoài Sơn, tỉnh Sơn Tây , theo Trần Hoàng Tử, bản xã Thành Hoàng, vào nam đánh giặc Lồi. Sau khi giặc yên, thấy châu Ma Lý hoang nhàn , nhân đó xin ở lại thiết lập xã hiệu, đăng tiến danh sách hiệu Thị Lang giáp, trung gian hiệu Vĩnh Khang, từ đó đến nay xưng Vĩnh Lộc thôn. Trãi qua nhiều năm thủa ấy trong họ hội hợp niệm: vật chất do trời đất, người sinh do Tổ. Nhưng tìm lại Gia phả gốc chỉ còn bản sao ở Trưởng nhánh thứ, mục lục để lại: từ tiên tổ truyền đến đời thứ năm , Ông tổ đời thứ năm hiệu Ông Phó sinh ba nhánh. Đến một thời gian nhà Trưởng bị hỏa, nơi hội họp khó khăn ai nấy thờ phụng riêng, vì lẽ đó Họ xây dựng nhà thờ Tổ thờ phụng chung. Để đời đời trước sau kế thừa theo tập gia phả củ, làm gia phả lâu dài, có ghi rỏ danh vị , tên húy, mổi nhánh giử một bản, đời đời kế tự , giữ gìn không để thất lạc và con cháu sau này khỏi nhầm lẫn."
    Thành Thái năm thứ mười tám, ngày mười lăm tháng ba năm Bính Ngọ (08-04-1906).
    Thừa sao
    Cháu đời thứ mười hai, Trưởng chi thứ Đinh Văn Nga cẩn bút.
    Đinh Văn Uất cẩn tự.


    . [IMG]

    Trên đây là bản dịch theo gia phả gốc từ thủy tổ đến đời thứ bảy, Họ đã làm gia phả đến đời thứ mười ba vào năm 1981. Đến thời điểm này, hậu duệ đã đến đời thứ 19 nhưng chưa làm được gia phả kế tiếp (con cháu gần 2 000 người, sinh sống khắp mọi miền đất nước.

    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .



    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .
    [IMG]
    .




    [IMG]



    2 Video rước thần trong  lễ kỳ phúc ở làng Vĩnh Lộc, Quảng Bình
    https://docs.google.com/uc?id=0BzAYz0vHiAfRQ0N1VTU2UTJHVFU&export=download https://docs.google.com/uc?id=0BzAYz0vHiAfRenBCcnlRMFkzUTA&export=download




    Saturday, July 23, 2016

    MỸ &TRUNG CỘNG

    Mỹ không ra tay sớm, TQ sẽ thống trị Biển Đông

    Nếu Mỹ không ra tay, chỉ trong 5 năm nữa Bắc Kinh sẽ có một chuỗi các căn cứ, sân bay, quân cảng trên các đảo nhân tạo trên Biển Đông. Không nghi ngờ gì những đảo nhân tạo, tiền đồn này sẽ phục vụ như bàn đạp nhằm triển khai sức mạnh quân sự của Trung Quốc trên toàn bộ khu vực. 
     

    Trung Quốc ngang nhiên xây dựng đảo nhân tạo và đường băng trái phép trên Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam
     
    Biển Đông đã trở thành một trong những điểm nóng nguy hiểm nhất trên thế giới vì Trung Quốc không ngừng mở rộng ảnh hưởng và năng lực của họ tại đây. Đối thoại Shangri-La gần đây cho thấy căng thẳng trong khu vực gia tăng. Trung Quốc vẫn gia tăng hoạt động hiếu chiến và dường như những hành động của Mỹ không hề có ảnh hưởng gì. Mỹ và các đối tác không có lựa chọn nào khác ngoài việc xem xét một loạt phản ứng kiên quyết hơn.
    Mỹ không tìm kiếm xung đột với Trung Quốc và cũng không ủng hộ một cuộc chiến. Mỹ không tin rằng Trung Quốc sẽ là một đối thủ không thể tránh khỏi. Nhưng Mỹ đang ngày càng lo ngại rằng những hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông nếu không ngăn chặn thì sẽ đưa đến kết cục Trung Quốc thống trị trên thực địa tại một khu vực thuộc lợi ích chiến lược thiết yếu của Mỹ. Những hoạt động trực tiếp của Mỹ có thể mang lại những nguy hiểm, nhưng nếu không làm gì thì còn nhiều nguy hiểm hơn.
    Tại sao Biển Đông lại quan trọng? Đó là một trong những tuyến vận chuyển hàng hóa trên biển quan trọng nhất thế giới với khoảng một phần ba hàng hóa thương mại toàn cầu mỗi năm. Nó có trữ lượng ít nhất là 7 tỷ thùng dầu và khoảng 25,5 triệu mét khối khí đốt tự nhiên. Những tuyên bố chủ quyền trong khu vực này có liên quan đến các quốc gia đồng minh, bạn bè của Mỹ và nhiều khả năng sẽ càng trầm trọng hơn khi có kết quả của vụ kiện giữa Trung Quốc và Philippines. Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm thiết lập tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển quốc tế này không chỉ đe dọa quyền tiếp cận với tuyến vận chuyển hàng hóa đường biển và đe dọa tới các đối tác của Mỹ trong khu vực mà còn đặt ra một tiền lệ nguy hiểm. Trung Quốc có ý đồ thiết lập quyền bá chủ thông qua việc tạo ra một khu vực mà họ có thể đưa ra quyền kiểm soát duy nhất
    .
    Năm ngoái, những hành vi của Trung Quốc đã ngày càng quyết đoán. Họ hoàn thành việc cải tạo đất ở 3 căn cứ lớn nhất ở Biển Đông và hiện đang tập trung xây dựng cơ sở vật chất. Mỗi căn cứ đều có sân bay với đường bay dài gần 3 km - đủ dài để hầu hết các máy bay quân sự có thể hạ cánh. Họ cũng đã hạ cánh một máy bay quân sự ở đá Chữ Thập và triển khai những máy bay chiến đấu hiện đại, tên lửa đất đối không tại đá Vành Khăn ở quần đảo Hoàng Sa. Những thiết bị này tạo cơ sở cho những kế hoạch triển khai máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay do thám.
    Máy bay từ những căn cứ này có thể dễ dàng tiếp cận và có thể thực thi cái mà Trung Quốc gọi là "đường 9 đoạn". Tàu Hải quân Trung Quốc và lực lượng dân quân cũng có thể sử dụng những căn cứ này như điểm dừng chân tiếp nhiêu liệu, điều này khiến họ có thể gia tăng sự hiện diện trong khu vực rộng lớn này. Các tàu sân bay của Mỹ nhiều nhất cũng chỉ ghé qua trong thời gian ngắn. Không có quốc gia nào trong khu vực có thể thực hiện và duy trì sự hiện diện trên không và trên biển tại Biển Đông như vậy.
    Mỹ đã phản ứng bằng những lời cảnh báo và hoạt động mạnh mẽ hơn trước sự bành trướng này của Trung Quốc. Đáng chú ý nhất là việc Mỹ tiến hành hoạt động tự do hàng hải (FONOP) lần đầu tiên vào tháng 10/2015 khi một tàu khu trục Mỹ đi vào khu vực trong phạm vi 12 hải lý từ đá Xu bi để thể hiện rằng Mỹ phủ nhận bất cứ tuyên bố chủ quyền nào của Trung Quốc bắt nguồn từ những đảo nhân tạo của họ. Kể từ đó ít nhất đã có hai hoạt động tự do hàng hải được Mỹ thực hiện và Tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris, cho biết các hoạt động tự do hàng hải trong tương lai sẽ gia tăng về số lượng, phạm vi và tính phức tạp.




    Khu trục hạm William Lawrence của Mỹ từng tuần tra sát Đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa


    Tuy vậy, các hành vi đối đầu của Trung Quốc vẫn tiếp tục và thậm chí còn gia tăng hơn. Trong vài tháng gần đây, máy bay chiến đấu Trung Quốc đã bay quá gần với máy bay do thám của Mỹ tại Biển Đông và biển Hoa Đông, vi phạm một thỏa thuận mà Mỹ và Trung Quốc mới ký kết năm ngoái về hoạt động an toàn trên không. Việc chính phủ Trung Quốc gần đây tuyên bố rằng họ đang xem xét thiết lập Vùng Nhận dạng phòng không (ADIZ) đối với Biển Đông là một tín hiệu cho thấy Trung Quốc muốn khẳng định quyền sở hữu của họ đối với khu vực quan trọng này. Trung Quốc cũng rất khôn khéo và quyết tâm trong việc hình thành sự hiện diện thường trực của họ tại một loạt căn cứ mà không hề tồn tại 5 năm trước đây. Đây là một thực tế ở Biển Đông.
    Kết quả là Mỹ và các đối tác trong khu vực không còn nhiều lựa chọn ngoài việc xem xét những phản ứng mạnh mẽ hơn. Những hoạt động này cần phải đạt được hai mục tiêu lớn là ngăn chặn Trung Quốc thực hiện hành vi bành trướng lớn hơn và chuẩn bị cho Mỹ cũng như các đồng minh về các hoạt động quân sự để bảo vệ lợi ích chung. Mỹ sẵn sàng thừa nhận những mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau và những lựa chọn này có thể gây ra chính kiểu xung đột mà Mỹ đang cố tránh. Tuy vậy, nếu không có hoạt động cứng rắn hơn thì cũng dẫn tới mối nguy hại nghiêm trọng, đó là Trung Quốc sẽ dần dần giành quyền kiểm soát khu vực quan trọng này. Điều đó sẽ làm suy yếu vị thế của các quốc gia đồng minh, đối tác của Mỹ trong khu vực và quan trọng hơn là có thể thách thức những lợi ích quan trọng và lâu dài của Mỹ trong duy trì tự do hàng hải toàn cầu.
    Có 6 sự lựa chọn mà Mỹ và các nước đối tác có thể xem xét, được liệt kê theo trình tự tăng dần về mức độ kiên quyết: Một là tăng cường và mở rộng sự minh bạch ở Biển Đông. Mỹ và các đối tác phải gia tăng những nỗ lực nhằm thể hiện rõ Biển Đông là một vùng biển quốc tế mở đối với tất cả các quốc gia. Sáng kiến an ninh biển mới đây là một bước đúng hướng nên cần được tiếp tục và mở rộng. Mỹ và các đối tác nên thúc đẩy sự minh bạch nhiều hơn về các lực lượng dân quân biển của Trung Quốc - một lực lượng quân sự không chính quy của Trung Quốc thường được triển khai ở những "vùng xám" mà các vụ đụng độ ở khu vực này không được coi là chiến tranh. Mỹ nên hỗ trợ cải thiện nhận thức về lĩnh vực biển trong khu vực nhằm tạo điều kiện cho việc định vị, quá cảnh an toàn, tìm kiếm và cứu nạn, đối phó với thảm họa thiên nhiên. Các bước đi này có thể củng cố một giả thuyết quan trọng là khu vực biển này là yếu tố then chốt trong lợi ích quốc tế mà không phải là khu vực riêng của một quốc gia.
    Hai là tiếp tục gia tăng sự hỗ trợ về quân sự và sự hiện diện của Mỹ tại Philippines. Sự phối hợp quân sự và các cuộc tập trận chung Mỹ-Philippines hiện đang ở mức độ chưa từng có từ khi Mỹ rời khỏi Vịnh Subic và căn cứ không quân Clark vào đầu những năm 1990. Hai bên bắt đầu thực hiện các cuộc tuần tra Hải quân chung vào tháng 3 và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter tuyên bố vào tháng 4 rằng Mỹ sẽ luân phiên cử binh sỹ và máy bay chiến đấu tới Philippines trong tương lai. Bước tiếp theo có thể là một chương trình tập trận mạnh mẽ thể hiện sức mạnh quân sự song phương. Lực lượng Hải quân Mỹ và Philippines có thể thực hành đổ bộ vào quần đảo Palawan, khu vực tiếp giáp với "đường 9 đoạn" của Trung Quốc.
    Quân đội Mỹ có thể thể hiện khả năng triển khai nhanh lực lượng từ các căn cứ quân sự của Mỹ để hình thành nên các điểm phòng thủ tên lửa và các căn cứ hậu cần tại các đảo xa xôi của Philippines, trong khi đó, lực lượng Không quân Mỹ có thể mở rộng các cuộc tập trận trên không với lực lượng Không quân Philippines. Hai bên cũng có thể tiếp tục cải thiện cơ sở vật chất tại các căn cứ quân sự mà cả hai có thể sử dụng khi có xung đột, bao gồm khu nhà chứa máy bay quân sự kiên cố, các sân bay hiện đại, kho vũ khí, các điểm phòng thủ tên lửa và phòng không. Một sự lựa chọn có thể gây tranh cãi hơn nữa là Mỹ tuyên bố Hiệp ước Phòng thủ chung với Philippines bao gồm bãi cạn Scarborough - tương tự như Tuyên bố của Mỹ năm 2014 rằng quần đảo Senkaku thuộc phạm vi bảo vệ của Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật.
    Ba là đẩy mạnh quan hệ quân sự với Việt Nam. Quan hệ song phương Mỹ-Việt đã ấm lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Tổng thống Obama dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam hồi tháng 5 và và các chuyến thăm cảng Việt Nam của quân đội Mỹ gần đây thể hiện sự bắt đầu của mối quan hệ quân sự thân thiết hơn. Mỹ có thể tìm kiếm những cơ hội thực hành sử dụng các phương tiện trên bộ và trên không như sử dụng các căn cứ không quân và cảng biển. Mỹ cũng có thể bán cho Việt Nam loại máy bay F-16 hoặc F/A-18 thế hệ thứ tư để cải thiện đáng kể khả năng phòng thủ trên không của Việt Nam. Những bước đi này có thể mở ra triển vọng dài hạn về việc Mỹ có thể tiếp cận, bay trên bầu trời Việt Nam và có thể luân phiên bố trí tàu, máy bay và các lực lượng khác ở Việt Nam.
    Bốn là duy trì sự hiện diện đáng kể Lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Mỹ cũng như của các nước khác tại Biển Đông. Bắc Kinh đã sử dụng những tàu thương mại và tàu tuần tra biển để củng cố chủ quyền của họ và đe dọa các nước láng giềng tại Biển Đông trong nhiều năm thay vì sử dụng các tàu hải quân nhằm tránh nguy cơ chịu sự phản ứng của lực lượng quân sự quốc tế. Mỹ và các nước đối tác có thể chống lại thủ đoạn này bằng cách hình thành sự hiện diện của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển thường xuyên. Tuy chỉ có Mỹ mới có năng lực bảo vệ bờ biển nhưng các quốc gia khác trong khu vực cũng có thể tham gia hỗ trợ. Như Trung Quốc đã giải thích, các tàu bảo vệ bờ biển ít gây khiêu khích hơn là các tàu chiến, vậy nên việc Mỹ và các đối tác triển khai các tàu bảo vệ bờ biển cũng có thể viện vào lý do tương tự như Trung Quốc để tránh gây căng thẳng quân sự.
    Năm là tăng cường các hoạt động quân sự của Mỹ tại Biển Đông. Mỹ định kỳ tuần tra Biển Đông bằng tàu sân bay lớp Nimitz và tàu sân bay có thể đỗ trên cạn với mức độ ít thường xuyên hơn. Mỹ có thể triển khai một chiếc tàu sân bay tại Biển Đông ít nhất 6 tháng trong một năm. Lực lượng Không quân Mỹ có thể bay vào khu vực này thường xuyên hơn, có thể bao gồm cả máy bay ném bom B-1, B-2, B-52. Mỹ cũng có thể tăng cường các hoạt động do thám trên các hòn đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền bằng cách bay trực tiếp trên các đảo này tại vùng mà Mỹ coi là không phận quốc tế.

    Cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường trực tại Biển Đông thời gian gần đây, gửi thông điệp không thể nhầm lẫn tới Trung Quốc
    Mỹ có thể giảm nguy cơ gia tăng căng thẳng quân sự bằng việc khuyến khích sự tham gia của quốc tế và thông báo trước về các hoạt động này. Sự lựa chọn này không chỉ là tín hiệu cho thấy ý định của Mỹ mà còn đảm bảo khả năng tấn công nhanh của Mỹ trong trường hợp có xung đột - những điều có thể làm đối trọng với các trang thiết bị của Trung Quốc được xây dựng trên các đảo nhân tạo.
    Sáu là xây dựng các căn cứ quân sự di động trên Biển Đông. Mỹ có thể phản ứng với việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo bằng cách xây dựng những căn cứ quân sự di động tạm thời nhằm duy trì sự hiện diện của Mỹ và của quốc tế tại đây. Mỹ có thể triển khai một hoặc nhiều căn cứ quân sự di động viễn chinh (ESB) tại Biển Đông - đóng vai trò như những căn cứ nhỏ, di động, nổi trên mặt nước mà có thể triển khai lực lượng theo nhiều cách, trong đó có bố trí các máy bay trực thăng và các lực lượng hoạt động đặc biệt.
    Mỹ cũng có thể tái khởi động lại việc phát triển tổ hợp căn cứ di động ngoài khơi xa (JMOB). Trong tương lai, hàng loạt JMOB (tương tự như các giàn khoan nổi liên kết lại với nhau), đủ lớn để các máy bay vận tải lớn có thể cất hạ cánh và chứa các doanh trại cho hàng trăm hoặc thậm chí hàng nghìn binh lính. Trung Quốc cũng đang đánh giá việc phát triển các căn cứ di động này nhưng Bắc Kinh đã đạt được nhiều mục đích tương tự thông qua các chương trình bồi đắp đảo nhân tạo.
    Ưu điểm lớn nhất của các căn cứ kiểu ESB và JMOB là những cơ sở hạ tầng di động này có thể hỗ trợ các hoạt động phi chiến đấu ít có tính khiêu khích hơn, ví dụ như hỗ trợ nhận thức về lĩnh vực biển, tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển, cứu trợ nhân đạo. Lực lượng đóng trên các căn cứ nổi, cùng với lực lượng bảo vệ bờ biển và thủy thủ trên các tàu dân sự của các nước khác cũng như của Mỹ có thể làm giảm nguy cơ khiến Trung Quốc cáo buộc đây là sự leo thang quân sự. Những căn cứ này có hai giá trị sử dụng đối với Mỹ, có thể hỗ trợ nhiệm vụ quan trọng thường xuyên (trong đó có các cuộc tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển đã đề cập ở trên) và có thể tạo điều kiện cho Hải quân Mỹ có được khả năng nhanh chóng triển khai lực lượng trong khu vực nếu có xung đột.
    Nhìn chung, không có phương án nào nêu trên là hoàn hảo, các rủi ro và sự cân bằng lợi ích có thể làm tăng nguy cơ xung đột. Nhưng nếu tiếp tục với tình trạng hiện tại, sự lựa chọn chính sách kém hiệu quả hiện nay cũng sẽ đưa đến hậu quả nghiêm trọng. Nếu không kiểm soát được tình hình, chỉ trong 5 năm nữa Bắc Kinh sẽ có một chuỗi các căn cứ, sân bay, quân cảng trên các đảo nhân tạo trên Biển Đông, từ hướng bờ biển Việt Nam đến quần đảo Palawan của Philippines. Không nghi ngờ gì những đảo nhân tạo, tiền đồn này sẽ phục vụ như bàn đạp nhằm triển khai sức mạnh quân sự của Trung Quốc trên toàn bộ khu vực.
    Mỹ cần phải đưa ra quyết định khó khăn, hoặc chấp nhận hành động của Trung Quốc như một sự đã rồi hoặc kiên quyết chống lại những hành động quyết đoán hơn nữa. Những khuyến nghị này cung cấp luận điểm cho những cuộc hội đàm sâu hơn, có nội dung và kết quả hơn giữa Mỹ với các đối tác và đồng minh trong khu vực về những động thái quyết đoán, bất chấp luật pháp quốc tế ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong tình huống không bị ngăn chặn ở Biển Đông.
    * Bài viết trên Warontherock của hai tác giả Trung tướng nghỉ hưu David Barno và Tiến sỹ Nora Bensahel hiện là thành viên cao cấp tại Hội đồng Đại Tây Dương
    http://www.biendong.net/bi-n-nong/7962-my-khong-ra-tay-som-tq-se-thong-tri-bien-dong.html

    No comments:

    Post a Comment