Thursday, June 23, 2016
VÕ VĂN ÁI * ĐẢO ÁNH SÁNG
ĐẢO ÁNH SÁNG : NHÌN LẠI PHONG TRÀO VƯỢT BIỂN & GIỚI TẢ KHUYNH CHÂU ÂU
Đảo Ánh Sáng: Nhìn lại phong trào người vượt biển và giới tả khuynh Châu ÂuThi Vũ
2.05.2016
http://damau.org/archives/42324
Lời giới thiệu của tác giả: Tạp chí World Affairs (Thế giới Vụ)
ra đời từ thế kỷ XIX, năm 1837, hiện là tạp chí của giới trí thức và
chính trị gia Hoa Kỳ. Khách mua báo giấy dài hạn, ngoài số độc giả bình
thường còn là Toà Bạch Ốc và Quốc hội Hoa Kỳ dành cho các Viên chức,
Thượng Nghị sĩ và Dân biểu. Chưa kể 12 nghìn độc giả mua bản điện tử
Email, 100 nghìn người đọc qua Facebook, và 40 nghìn người theo dõi qua
Twitter của World Affairs.
Bài viết “Đảo Ánh Sáng, Nhìn lại phong trào Người Vượt
Biển và giới Tả khuynh Châu Âu”- Isle of Light: A Look Back at the Boat
People and the European Left, đăng trên số tháng Ba và Tư năm 2014 của World Affairs, được ông James S. Denton, Chủ nhiệm phát hành, giới thiệu trong Lá Thư Người Biên tập như sau:
“Thêm vào số bài về những diễn biến quốc tế, chúng ta có một tiểu
luận như món quà thưởng ban thêm của nhà văn Việt Nam Võ Văn Ái đưa
chúng ta về lại kinh đô Paris năm 1978, khi tin tức xuất hiện chuyện
chiếc tàu của khoảng hai trăm năm mươi người tị nạn Việt Nam chết đói và
mất nước bị mắc cạn trên bờ biển Mã Lai mà chẳng có quốc gia nào đón
nhận. Họ trốn khỏi triều đại khủng bố của Cộng sản Bắc Việt ngự trị lên
Miền Nam trước đó ba năm, sau cuộc rút quân nhục nhã của Hoa Kỳ. Thời
ấy, nửa triệu người tị nạn chết chìm trên biển khi tìm cách trốn khỏi
ngục tù gulag của Hà Nội vừa thiết lập, và đã giết nửa triệu người khác
trong quãng thời gian 1975 đến 1985. Nhưng chủ đề của Võ Văn Ái là một
tia sáng, bị lịch sử bỏ quên, chiếu rực vào tấn thảm kịch.
Vào lúc những
người tị nạn vô vọng trong dòng nước chết, một nhóm trí thức Pháp có
gốc rễ tả khuynh tung chiến dịch vận động quốc tế để đi vớt và tái định
cư hàng nghìn những “thuyền nhân” này, một từ ngữ được phổ biến. Họ vận
động giới tả khuynh Pháp và Châu Âu, không những tham gia nỗ lực nhân
đạo này, mà còn xác nhận và tố cáo sự tàn bạo của những kẻ mà trước đây
họ hậu thuẫn mạnh mẽ. Điều suy nghĩ can đảm thứ hai này đã gây tác động —
không riêng trong nghĩa cứu sống người, mà trong nghĩa khẳng định tư
cách và ứng xử của người trí thức”.
Những chú thích trong bài viết, bản dịch Việt ngữ hôm nay, nhằm cho
độc giả người Việt biết thêm các nhân vật quốc tế, vốn không có trong
bài đăng trên World Affairs.
Hình bía Tạp chí World Affairs (Thế giới Vụ)
Một ngày tháng 11 năm 1978, đang ngồi trong quán Cà phê bên bờ tả
ngạn sông Seine, bỗng nghe tin loan 2564 người vượt biển cập bờ Mã Lai
trên con tàu han gỉ Hải Hồng. Họ đã trốn khỏi Việt Nam trong niềm tuyệt
vọng đi tìm tự do và tị nạn ở nước ngoài. Sau mười sáu ngày lênh đênh
trên Biển Đông, vùi dập trong bão tố, khi thì nóng cháy nung người,
không thức ăn nước uống, họ cập bờ Nam Dương rồi Mã Lai, nơi nào cũng bị
lính gác biển xua đuổi. Họ không còn đất sống, và tàu không thể đi xa
hơn. Kẹt lối không người cứu, đói cồn cào và cơ thể mất nước, họ đang
chết trước mắt chúng ta khi giăng tấm biển viết bằng tiếng Anh bên hông
tàu : “LHQ ơi ! Hãy cứu vớt chúng tôi.”.
Họ không phải là những người đầu tiên làm cuộc hải trình vô vọng
thoát khỏi Việt Nam. Từ năm 1975, khi Hà Nội “giải phóng” Miền Nam và
chấm dứt cuộc chiến dai dẳng, hơn một triệu người liều chết trên những
chiếc thuyền đổ nát để thoát xa cuộc khủng bố. Nửa số người trong họ đã
bỏ thân — vì chết đuối, vào bụng cá mập, hay bị hải tặc hãm giết trong
vịnh Thái Lan. Lúc ấy, truyền thông quốc tế chẳng chú ý bao lăm chuyến
hải hành hoảng hốt này, ai ai cũng chỉ muốn phủi tay với vấn đề Việt
Nam. Nhưng con tàu Hải Hồng lại hình tượng lên tấn thảm kịch nhân sinh
nơi phòng khách mỗi nhà. Uyển ngữ “thuyền nhân” trở thành chuyện đầu
môi.
Lẽ ra những người Việt Nam này đã phải thoát đi trong những ngày
cuồng động khi Hoa Kỳ rút quân. Nhưng họ đã ở lại. Nhiều người chống
chính thể quân đội của Tướng Thiệu ở miền Nam, đặt niềm tin trong hy
vọng họ có thể góp tay tái thiết và làm lại đất nước. Nói cho cùng, thì
chiến tranh đã chấm dứt, cộng sản cũng là người Việt Nam thôi. Hà Nội đã
ký kết Hoà ước Paris hứa hẹn kiềm chế mọi cuộc trả thù. Người cộng sản
có thể đối đãi hung ác không khoan nhượng với kẻ thù, nhưng chắc hẵn sẽ
có cái nhìn khác với anh chị em đồng chủng ?
Thế nhưng, những ai mắc mình vào ảo tượng này, những ai còn tin rằng
có chỗ đứng cho mình trên đất nước thống nhất dưới mái nhà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam theo đường lối cai trị của Hà Nội, thì chẳng có sai lầm
nào sai lầm hơn. Tức khắc nhà cầm quyền Cộng sản phân loại dân chúng
Miền Nam thành ba thành phần : bọn ngụỵ quân phản động, bọn nguỵ quyền
phản động, và nhân dân phản động. Nói tóm, toàn dân miền Nam đều “phản
động”. Những tháng kế tiếp cuộc cưỡng chiếm, một mạng lưới rộng lớn
“trại cải tạo” phủ trùm khắp lãnh thổ miền Nam, mà kỳ thật chỉ là những
trại tập trung lao động khổ sai, giống như hệ thống Lao cải bên
Tàu. Khởi sự lùa đi những sĩ quan rồi binh lính Việt Nam Cộng hoà, tiếp
đến là các nhà văn, nghệ sĩ, giáo sư đại học, nhà báo, nhà hoạt động
công đoàn, nhà giáo, sinh viên, nông gia, tất cả mọi thành phần xã hội
đoàn lớp kéo nhau vào “trại cải tạo”. Thoạt đầu họ được lệnh mang áo
quần và lương thực đủ dùng cho hai tuần lễ. Nhưng biết bao người chẳng
trở về. Có những kẻ mút mùa hai mươi năm trong những trại này, hay được
trả tự do khi sức khoẻ kiệt cùng, và nhắm mắt khi tới nhà[1].
Dù chẳng có bản thống kê nào được công bố, nhưng Hà Nội đã thú nhận có hai triệu rưỡi người bị giam giữ trong các trại cải tạo từ năm 1975 đến 1985[2]. Khoảng một trăm năm mươi nghìn người bị xử tử hình[3], với
hàng trăm nghìn người chết vì đói, kiệt sức, hay đau ốm không thuốc men
trong hệ thống tù ngục Gulag Việt Nam. Cùng thời gian, hàng trăm nghìn
dân chúng bị đưa đi Kinh tế mới làm vật trái độn dọc biên giới Việt
Trung và Kampuchia. Ai chống đối sẽ bị bỏ tù vì tội phá rối an ninh quốc
gia[4].
Trong quán cà phê một buổi tối năm 1978 ấy, các bạn Việt và tôi đều
nghĩ rằng con tàu Hải Hồng không chở đi những người tị nạn kinh tế, mà
là những người đi tìm tự do thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị, và đây
là chuyến hải trình không tiền khoáng hậu. Trải qua lịch sử bốn nghìn
năm, vào những giai đoạn bi thảm nhất vì nạn đói hay chiến tranh, người
Việt chúng tôi chưa bao giờ rời bỏ mảnh đất chôn nhau cắt rốn của cha
ông. Thế mà nay Người Vượt Biển đã bỏ phiếu bằng đôi chân đổi lấy sự
sống.
Trong nhóm bạn chúng tôi thời ấy có chị Claudie và anh Jacques
Broyelle, những nhà Hán học và cựu Mao-ít mới trở về từ Trung quốc, với
nỗi thất vọng tràn trề về chế độ Bắc Kinh; Alain Geismar, cựu lãnh tụ
sinh viên nổi dậy năm 1968 từng làm lung lay chính phủ De Gaulle tại
Pháp; và André Glucksmann[5],
nhà văn được xem như khuôn mặt tân triết gia của thời đại. Những người
bạn nung nấu trong nhiệt tình lý tưởng, tất cả mang nặng quá khứ tả
khuynh, nhưng chẳng ai còn ảo tượng về đời sống con người dưới chế độ
Cộng sản. Chúng tôi họp nhau và quyết định phải làm một cái gì cho lớp
Người Vượt Biển.
Thập niên 1970, Paris là bến đổ ẩn náu cho các nhà ly khai Liên xô và Đông Âu. Đầu năm 1976, tôi xuất bản tạp chí Quê Mẹ bằng tiếng Việt, một thứ samizdat
cổ võ cho phong trào dân chủ và nhân quyền, các nhà ly khai này là kẻ
hậu thuẫn đầu tiên cho chúng tôi. Nữ thi sĩ Nga Natalya Gorbanevskaya[6], nhà toán học Leonid Plyushch[7], người xứ Ukraine, và Vladimir Bukovsky[8]
tham gia cuộc vận động của chúng tôi mà chẳng cần chúng tôi mời gọi.
Nhà văn Lỗ Mã Ni, Paul Goma, viết trên tạp chí Quê Mẹ số Quốc Kháng 30
tháng Tư năm 1978 rằng : “Ngay cả những người phu quét đường ở thủ
đô Bucharest còn thấu tỏ hơn các chính trị gia Tây phương về những chi
đang xẩy ra tại Việt Nam, và họ có chánh kiến. Chỉ trong vòng bốn năm mà
Cộng sản Việt Nam trả thù và tàn phá hơn ba mươi năm chiến tranh”.
Trong khi các nhà ly khai khắn khít bảo bọc mục tiêu chiến đấu của
chúng tôi, thì việc thuyết phục công chúng Tây phương vô cùng khó khăn,
đặc biệt trong giới tả khuynh. Thời chiến tranh Việt Nam, hàng nghìn
người đổ xuống các đường phố ở Paris, Berlin, Washington, Tokyo… và
nhiều nơi khác để tố cáo xâm lược Mỹ vào Việt Nam, hô gào chấm dứt sự
chém giết. Thế nhưng ngày nay, cùng những người xuống đường biểu tình
mấy năm xưa ấy, lại im lặng thin thít khi hàng nghìn người Việt Nam chết
âm thầm trong các trại cải tạo hay chết đuối trên Biển Đông. Giới phản
chiến tả khuynh chẳng sao chấp nhận chuyện các “anh hùng liệt sĩ” chiến
đấu cho tự do thời trước, nay trở thành kẻ bạo ngược, và những kẻ “tay
sai của đế quốc Mỹ” đang hoá thành nạn dân.
Đáp ứng cuộc vận động cho Người Vượt Biển của chúng tôi, đông đảo trí
thức Pháp toàn tâm và tự nguyện hậu thuẫn, không những cứu sống hàng
nghìn người lâm nạn, mà còn phá vỡ lối nhìn rập khuôn tác động sâu sắc
quan điểm giới tả khuynh Châu Âu và Pháp.
Cuộc họp đầu tiên vào tháng 11 năm 1978 tại Paris, chúng tôi tập
trung việc xây dựng phong trào nhắm mục tiêu cứu sống Người Vượt Biển.
Tối hôm sau chúng tôi gặp sử gia Ilios Yannakakis trong một căn hộ ở đại
lộ Saint Michel, chuyển đề án thành sự thực. Ban đầu chúng tôi quyết
định ra tuyên cáo khẩn về vụ Hải Hồng để lấy tối đa chữ ký hậu thuẫn.
Nhưng tôi thúc đẩy các bạn phải tiến xa hơn vụ Hải Hồng, bởi vì Hải Hồng
không là sự cố riêng biệt nhất thời. Đang có hàng nghìn trường hợp như
thế trên Biển Đông, và người Vượt biển lâm nạn mỗi ngày. Lúc ấy, nhà văn
Bernard-Henri Levy đề nghị làm cuộc biểu tình lớn tấn công Toà Đại sứ
Việt Cộng tại Paris. Chợt một ý kiến bật ra — tại sao không đưa tàu ra
Biển Đông vớt Người Vượt Biển ? Thế là một Uỷ ban thành lập ngay, cử nhà
văn nữ Claudie Broyelle làm chủ tịch, dự án “Một Chiếc Tàu Cho Việt
Nam” nổi lên trên mặt nước nhân tình. Ngày 17 tháng 11 năm ấy, 1978,
chúng gửi đi lời kêu gọi đến các cơ quan báo chí truyền thông:
SOS – Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam
2564 người tị nạn trên con tàu Hài Hồng. Họ vừa rời khỏi Việt Nam
trước bao hiểm nguy tính mạng. Chúng ta phải giúp đỡ họ tìm đất sống
tiếp đón. Phải tức khắc cứu họ ra khỏi cảnh lênh đênh trôi nổi. Chính
phủ Pháp vừa tuyên bố đón tiếp họ, ta hãy tin lời đó đi. Và hãy cùng
nhau tới Kuala-Lumpur đón những nạn nhân trên tàu Hài Hồng. Tuy nhiên,
không riêng gì nước Pháp phải lo chuyện này. Và con tàu Hải Hồng không
là con tàu độc nhất.
Mỗi lần có những chuyến vượt biển chênh vênh trên bão táp giữa
Thái Bình dương, hàng nghìn người Việt Nam đang đi tìm lẽ sống. Một nửa
bị chết chìm, bị cưỡng bức, bị bọn hải tặc cướp giết. .. Chúng ta hãy
tìm cho ra những quốc gia đón tiếp họ tại Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á. Và
hãy làm hơn nữa : Hãy tới tận nơi cứu sống họ. Một chiếc tàu thường trực
hoạt động trên Biển Đông để tìm và vớt họ — những người Việt Nam hy
sinh thân mạng rời nước ra đi.
Không riêng gì các chính quyền phải lo lắng, dù nhiều nước đã
tích cực cứu trợ. Đây là trách vụ mà chúng ta phải lo toan cứu cấp tức
thì. Nhu cầu cấp thiết : Một chiếc tàu, một đoàn thuỷ thủ và tiền bạc.
Đó chính là chiếc phao cứu mạng, mẩu đất nương tựa phò nguy. Để sau đó
đưa tới các xứ sở tiếp thu.
Chúng tôi ký tên dưới đây ngày hôm nay, xin đem thân quy hợp
những cơ hội và phương tiện cần thiết để thể hiện cuộc cứu sống cấp kỳ
này.Paris, ngày 17 tháng 11 năm 1978
Vào lúc Uỷ ban “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” chính thức ra đời ngày 27 tháng 11 năm 1978,
chúng tôi thu nhận được 160 chữ ký của các nhân vật nổi danh hậu thuẫn
chiến dịch. Danh sách bao gồm các siêu sao điện ảnh, nghệ sĩ, nhà văn,
nhạc sĩ, nhà báo, nhà hoạt động công đoàn, và chính giới đủ mọi khuynh
hướng — đọc lên như cẩm nang Who’s Who các nhà văn hoá Paris:
Yves Montand, Brigitte Bardot, Simone Signoret, Simone de Beauvoir,
Mstislav Rostropovich, Eugene Ionesco, Lionel Jospin, Michel Rocard,
Jean Lacouture (nhà văn viết tiểu sử Hồ Chí Minh), Michel Foucault,
Claude Mauriac, Olivier Todd, Jean François Revel, Bernard Kouchner…
Lần đầu tiên, kể từ năm 1945, hai triết gia đại thụ của Pháp, nhưng
thù nghịch không đội trời chung, người phóng khoáng Raymond Aron và
Jean-Paul Sartre, có thời biện hộ cho Staline — gặp nhau nơi lời kêu gọi
cứu sống những nạn dân của chế độ độc tài toàn trị Hà Nội. Vài tháng
sau, trong cuộc họp báo do Uỷ ban Con Tàu tổ chức, hai người ngồi cạnh
bên nhau — lần đầu tiên trên ba mươi năm trời họ mới cùng nhau ngồi
chung trong một căn phòng ở Paris. Sartre, kẻ địch thủ cuồng hung chống
Mỹ can thiệp vào Việt Nam, và hậu thuẫn cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam do Cộng sản giật dây, đã tuyên bố rằng vì “nghĩa vụ đạo đức” và
“nhân quyền cấp bách phải cứu sống những con người lâm nạn”, dù rằng họ
không bạn hữu với chúng ta. Lời tuyên bố của Sartre mang tác động khổng
lồ. Với tiếng tăm uy tín của Sartre, người dám từ khước Giải Nobel Văn
chương, được làm thước đo cho một lời phát biểu thời thượng trong giới
tả khuynh Paris thời bấy giờ : “Thà sai lầm với Sartre còn hơn là có lý
với Aron”. Thế là “Con Tàu Cho Việt Nam” mớm cho mọi người chuyện khả
thể, là chúng ta đều có lý với cả hai người.
Mối khẩn nguy hiện hình trong thực tế. Lúc chúng tôi họp nhau vào
tháng 11 năm 1978, mỗi giờ có 55 người vượt biển cập bờ biển Mã Lai, số
lượng này ngày càng tăng. Theo Cao uỷ Tị nạn LHQ, đã có một triệu rưỡi người Vượt Biển rời Việt Nam thời gian ấy, nhưng một nửa chết trên đại dương.
Các trại tiếp cư ở Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương, và Hồng Kông đầy ắp
như muốn vỡ ra. Bỗng nhiên, ông Phó Tổng thống Mã Lai, Mahatir Mohamad,
tuyên bố không chấp nhận người vượt biển, và xuống lệnh đuổi bảy mươi
sáu nghìn thuyền nhân ra biển. Một sắc luật ban hành cho phép bắn vào
bất cứ ai quay lại vào bờ. Những ai tự phá huỷ thuyền của mình trong
niềm tuyệt vọng mong được tị nạn đều bị lâm lụy.
Chống lại bối cảnh ấy, chúng tôi quyết gia tăng nỗ lực đưa con tàu đi
vớt bằng bất cứ giá nào. Hồi đó Olivier Todd làm Chủ bút tuần báo Express,
đã ráo riết vận động giới truyền thông. Hầu hết các báo chí lớn của
Pháp đều cho đăng miễn phí lời kêu gọi của chúng tôi, kể cả tuần báo
bình dân Télé 7 Jours, có số lượng phát hành bảy triệu bản mỗi
tuần. Tiền đóng góp bắt đầu gửi tới, cùng với những hứa hẹn cho nhà ở,
công ăn việc làm, áo quần, thực phẩm, đủ thứ không thiếu thứ nào. Mổi
buổi sáng toà soạn Quê Mẹ ở Gennevilliers, ngoại ô bắc Paris, nhận được
năm trăm bức thư hậu thuẫn như thế.
Do thị xã Gennevilliers nằm dưới sự cai quản của đảng Cộng sản Pháp,
trong vòng “đai đỏ” bao quanh thành phố Paris, ông thị trưởng không mấy
vui có một cơ sở như chúng tôi, nên nhiều lần hăm doạ tống xuất cơ sở
Quê Mẹ khỏi thị xã. Song với tình thế lúc bấy giờ, ông ta đành cúi đầu
trước sự liên đới hậu thuẫn lời kêu gọi vang ra rộng rãi của chúng tôi.
Phải nói một trong những người đầu tiên ủng hộ chiến dịch của chúng
tôi là Irving Brown, Trưởng phòng Châu âu của Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO.
Chúng tôi tiếp xúc ông một năm trước đó, 1977, khi chúng tôi tổ chức
cuộc họp báo quốc tế đầu tiên tại Paris để công bố hệ thống tù cải tạo
tại Việt Nam với bản Chúc thư đầu tay của các tù nhân chính trị Việt Nam
do Đoàn Văn Toại, một trong những lãnh tụ sinh viên đấu tranh, vừa
thoát khỏi Việt Nam mang tới. Đó đã là lần đầu tiên tiếng nói của giới
tù nhân chống kháng thuộc miền Nam cũ tố cáo những ghê tởm độc địa của
hệ thống trại cải tạo. Brown thấy ngay ý nghĩa của bản Chúc thư, và tức
khắc ra tay giúp đỡ.
Không những ký tên hậu thuẫn chúng tôi, ông còn lấy thêm chữ ký của
Chủ tịch Công đoàn AFL-CIO, George Meany, và Paul Hall, Chủ tịch Liên
đoàn Thuỷ thủ Hoa Kỳ, đang có mặt tại Paris. Trước đây tôi chưa hề quen
biết giới thuỷ thủ, nhưng Hall ứng vào mắt tôi hình ảnh một thuỷ thủ lão
luyện. Mái tóc bạc, cử chỉ nghiêm nghị, cứng rắn, chắc hẳn ông phải ở
cấp chỉ huy. Trong mắt ông, chúng tôi là bọn tài tử. Ông ngắt lời tôi
với vẻ khó chịu : “Các anh nói tàu — ship, chứ đâu phải thuyền — boat,
phải không”. Nhưng rồi ông cũng chào đón mục tiêu chúng tôi nhắm. Sau
buổi nói chuyện, tôi mừng rỡ gọi điện cho các bạn trong Uỷ ban Con Tàu
thông báo tin bất ngờ : “Chúng ta chưa thể có một con tàu, nhưng Công
đoàn AFL-CIO hứa giúp chúng ta một thuỷ thủ đoàn điều hành tàu không lấy
lương”.
Irving Brown đề nghị phát huy chiến dịch bằng một cuộc họp báo quốc
tế tại Paris về phong trào Người Vượt Biển. Nhấc vài cú điện thoại,
Brown đã nhận được lời hứa của những nhân vật đầy biểu tượng như Leo
Cherne[9], Chủ tịch Uỷ ban Cứu trợ Quốc tế, và nhà hoạt động dân sự Bayard Rustin[10]
tham gia họp báo. Tiếc thay cuộc họp báo chẳng bao giờ xẩy ra. Nguyên
do vì có tranh chấp ý kiến trong nội bộ Uỷ ban. Bernard Kouchner và vài
người không ưa Công đoàn AFL-CIO nhúng tay, e ngại sự dấn thân mạnh mẽ
chống Cộng làm dao động phong trào. Nhóm người này nại cớ “Con Tàu Cho
Việt Nam” phải thuần tuý phi chính trị. Không thể là một con
tàu cứu người khỏi chế độ Cộng sản, mà là “chiếc xe cứu thương” trên
biển, một thứ bệnh viện nổi bỏ neo bồng bềnh trên mép biển Đông Nam Á.
Với chúng tôi, hay những bạn như Alain Geismar, thì vị trí chính trị là
chính yếu. Người Vượt Biển hy sinh thân xác mang lại thông điệp cho thế
giới về bản chất chế độ Cộng sản. Nghĩa vụ của chúng tôi không những
phải cứu họ, mà còn phải vọng âm tiếng nói họ. Mãi lâu sau, bị công luận
tác động, Kouchner mới chịu thay đổi quan điểm. Nhưng Irving Brown nhận
thức ra sự bất hoà nên bỏ dự tính ban đầu.
Mặc dù tiền được gửi tới, chúng tôi phải chi trả hai mươi nghìn quan
Pháp (khoảng hai nghìn Mỹ kim) mỗi ngày cho việc ăn uống và cung cấp y
tế, nhưng ngân qũy chưa đủ cho Con Tàu lên đường. Đang cơn bối rối, một
sự kiện làm đảo lộn hoàn cảnh. Đài Truyền hình Hoà Lan đến toà soạn Quê
Mẹ xin phỏng vấn tôi. Ông ký giả thuộc đảng Xã hội, tâm tư ông giống như
đa số người Hoà Lan ủng hộ cho phong trào Hoà bình trong cuộc chiến
Việt Nam. Tôi đang giải thích chiến dịch cứu Người Vượt Biển, thì đột
nhiên ông ta hỏi : “Vì sao ông cứu những người miền Nam này ? Bọn
này nối giáo cho chế độ quân phiệt tham nhũng, chúng là bọn ma cô, đầu
cơ trục lợi, rất đáng để cho chúng lâm nạn ngày nay. Vì sao ông — vì sao
chúng tôi, phải cứu giúp họ ?”. Tôi nhẹ nhàng đáp : “Nếu ông
đang đi cạnh những con lạch ở thành phố Amsterdam và thấy có người đang
chết chìm trong nước, phản ứng ông lúc ấy ra sao ? Ông ngừng lại và lên
tiếng hỏi “Người chết chìm kia khuynh tả hay khuynh hữu ?” — hay ông
nhảy ngay xuống nước cứu người ấy ?”.
Cuộc phỏng vấn trước lễ Giáng Sinh năm 1978, đem về chiếu tại Hoà Lan
mấy lần. Chỉ trong một tuần lễ nhân dân Hoà Lan gửi tặng 8 triệu quan
Pháp (tương đương một triệu Mỹ kim thời ấy) đáp ứng lời kêu gọi của
chúng tôi (tôi nhớ mãi khi Truyền hình Hoà Lan gọi sang thông báo, tôi
đã bàng hoảng hỏi “Mấy con zeros sau số 8 ?”). Một sự tăng cường tài
chính khích lệ tuyệt vời, đưa chiến dịch vào quỹ đạo quốc tế. (Vào thời
điểm chúng tôi đưa tàu ra biển, có thêm hàng chục tàu khác cứu trợ trên
Biển Đông do những uỷ ban nối gót ra đời tại Na Uy, Đức, Ý Đại Lợi, vân
vân).
Tiền có đó, nhưng vấn nạn khôn giải khác hiện ra — kiếm không ra tàu
cho thuê. Chúng tôi cần thuê loại tàu cắm cờ Pháp để đoan chắc có thể
cứu người Vượt biển nhập cảnh Pháp. Tất cả tàu cho thuê ở Pháp nằm dưới
sự bảo trợ tập trung của một Công đoàn. Bất hạnh cho chúng tôi, Công
đoàn này nằm trong tay Đảng Cộng sản Pháp,Confédération Générale du Travail
(CGT, Tổng Liên đoàn Lao động). Thời gian ấy Đảng Cộng sản rất mạnh —
một phần tư cử tri Pháp bỏ phiếu cho phe Cộng sản tại Pháp, và Tổng Liên
đoàn Lao động rất thế lực, một thứ quốc gia trong quốc gia, có khả năng
đình công làm tê liệt toàn quốc trong chớp nhoáng. Khi Tổng Liên đoàn
Lao động biết rằng chúng tôi thuê tàu đi vớt Người Vượt Biển Việt Nam,
họ liền phá bĩnh các nỗ lực điều đình thuê mướn. Tuần này sang tuần khác
kéo lê, chiến dịch trên báo chí Pháp khựng lại. Tuần báo cực hữu Minute chạy hàng tít lớn “Con Tàu Ma”, nhật báo Cộng sản Pháp L’Humanité (Nhân loại) tung những bài mạ lỵ chiến dịch con tàu.
Bỗng nhiên từ trời xanh hiện ra sự cứu thoát. Nửa khuya tiếng điện
thoại của một nữ độc giả tạp chí Quê Mẹ gọi tôi từ Nouméa, thủ phủ xứ
New Caledonia, quần đảo nằm trên Thái bình dương giữa Úc châu và Fiji.
Chồng bà là người Pháp, có con tàu dài tám mươi lăm thước cho thuê. Tàu
thượng cờ Pháp. Bà kể cho chồng nghe chuyện Việt Nam, các trại cải tạo,
những khổ đau nguy biến của người vượt biển đi tìm tự do. Ông liền đồng
tình giúp đỡ. Chiếc tàu mang tên kỳ diệu — Île de Lumière — Đảo Ánh sáng. Dường như định mệnh đặt để. Chiếc tàu như hòn đảo ánh sáng nổi trên đại dương đi vào vũng tối tuyệt vọng của Người Vượt biển.
Tàu Đảo Ánh Sáng nhổ neo vào tháng Tư năm 1979 với đoàn thiện nguyện
gồm những y sĩ và y tá. Tàu vào đảo Pulau Bidong ở Mã Lai cung cấp thuốc
men và chữa bệnh cho khoảng ba mươi sáu nghìn thuyền nhân sống chen
chúc trên dải đất chỉ có thể chứa hai nghìn người. Tháng sáu năm ấy,
chính quyền Mã Lai xuống lệnh đuổi người vượt biển ra khơi, Đảo Ánh Sáng
ra khơi vớt người, cứu sống hàng nghìn kẻ lâm nạn. Chúng tôi được chính
phủ Pháp hứa cho nhập cư vào Pháp tị nạn tất cả những ai được tàu vớt.
Những tháng tiếp đấy, lượng người vượt biển đến trời Âu kể lại thảm
cảnh họ cho báo chí truyền thông Âu Mỹ. Lời kể xoá nhoà hình ảnh và
thành kiến gán lên họ như những tướng tá, chính trị gia tham nhũng hay
tội phạm chiến tranh : những kẻ đã rời nước trước khi Saigon thất thủ,
ra đi với hai túi đầy vàng. Không. Họ là những dân thường, mà thảm nạn
rơi lên đầu họ qua từng câu chuyện làm mủi lòng dân Pháp. Các thầy giáo
nói lên nỗi lăng nhục phải đi bán hủ tiếu cho con cái cán bộ giàu sang
để nuôi thân. Tăng sĩ Phật giáo, Linh mục Thiên chúa giáo, Tin Lành,
chức sắc hay tín đồ Hoà Hào, Cao Đài bị bắt tù vì thực hành tín ngưỡng
đạo mình. Những bà vợ của tù nhân cải tạo bươn chãi nuôi con trong khốn
cùng, chắt chiu những món quà nhỏ đi thăm nuôi chồng. Nỗi khốn cùng của
những nhà văn bị đóng vai kiểm duyệt nơi văn phòng, chụp mũ “tác giả
phản động quốc tế” cho những nhà văn như Pearl S. Buck hay Victor Hugo,
hoặc bị bắt giam vì trích dẫn những tác giả kia trong tác phẩm mình.
Cảnh trạng các trại cải tạo vô cùng khủng khiếp. Những ai cứng đầu
“học tập” không chuyên sẽ bị biệt giam trong thùng sắt, hay “connex”,
ban ngày nóng như lò lửa, đêm về lạnh thấu xương, cốt cho họ phải thú
khai tội lỗi mình không phạm. Tất cả tù cải tạo đều bị đói, lằn ranh
giữa sống còn và chết đói mảnh như tơ. “Những chi động đậy đều chứa protein”, họ nói như thế và tranh nhau một con gián, con nhện, con chuột nhắt…
Các chuyện kể thương tâm như thế tác động công luận mà ít bài diễn
văn chính trị nào đạt tới. Chính Người Vượt Biển đã thay đổi lối suy
nghĩ của giới tả khuynh Châu Âu, và phá vỡ xung lượng của các đảng Cộng
sản Pháp, Ý, cùng các nước Châu Âu khác. (Riêng tại Pháp, cử tri bầu cho
Đảng Công sản rơi từ 25% xuống còn 6, 7% thôi),
Chiến dịch “Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam” là cuộc mạo hiểm kỳ dị cho
tất cả chúng tôi. Có chăng trong tôi là một điều tiếc nuối. Jean-Paul
Sartre đề nghị làm một cuộc hội thoại. Ông đã tỏ ra khó khăn phải dẹp bỏ
tình cảm ủng hộ cách mạng, và vô cùng bối rối đối với chế độ ở Hà Nội,
mà ông đánh giá cao cuộc chiến đấu anh dũng cho nền độc lập, nay bỗng
trở thành những tên đao phủ cho nhân dân họ. Vì sao như thế ? Là Phật
tử, tôi từng bị bắt, bị tra tấn năm mười một tuổi vì tham gia cuộc kháng
chiến chống Pháp, tôi đã quá biết rõ về Cộng sản Việt Nam trước khi tôi
rời nước ra đi để vận động cho một giải pháp thứ ba không-cộng-sản
trong thời chiến tranh Việt Nam, cuối cùng phải lưu vong ở Paris.
Thực tình tôi muốn được thảo luận về vấn nạn cộng sản và “cách mạng”
với con người khác thường này. Buồn thay, Sartre đến tham dự cuộc họp
báo của chúng tôi năm 1979 là lần ông xuất hiện cuối cùng trước công
chúng. Ông gần như mù hẳn, và qua đời ngày 15.4.1980 vì chứng phù phổi.
Thi Vũ – Võ Văn Ái
04.2014
__________________
[1]
Như trường hợp xẩy ra rất sớm cho thi hào Vũ Hoàng Chương, và trường
hợp Nhà văn Hồ Hữu Tường bị bệnh ở trại Hàm Tân, sắp chết thì được cho
đưa về nhà. Nhưng chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang
Khải là đến nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe.
[2] Lời tuyên bố với báo chí của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch năm 1985 nhân 10 năm chiến thắng (chiếm Saigon).
[3] Xem Repression in the Socialist Republicof Vietnam:Executions and Population Relocation, byJacqueline Desbarats, The
Vietnam debateedited by John Norton Moore, 1990 and “Vietnam
1975-1982: The Cruel Peace”, Desbarats and Jackson, 8 Wash. Q. 4 (Fall
1985). Cơ sở Quê Mẹ đã cộng tác với bà Jacquelines Debarats và nhóm
nghiên cứu tại Đại học Berkeley, Hoa Kỳ, về số liệu điều tra tù nhân
Trại Cải tạo thời ấy.
[4] Trên báo Saigon Giải phóng ngày 2.6.1975 ông Lê Đức Thọ viết rằng : “Chúng
ta phải đưa chế độ cũ vào hồ sơ. Chúng ta không thể xoá đi món nợ máu
đối với đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Nhân dân ta phải vạch trần và xác
định những tội ác của chế độ cũ, để càng thấy rõ xấu xa của chúng, ta
càng quyết tâm… quét sạch những tàn dư [chế độ cũ] để xây dựng đời sống
mới tốt đẹp. Chúng ta phải tiếp tục chiến đấu chống bọn thù địch trong
thành phố, đồng thời xây dựng đời sống tốt đẹp”.
[5]
André Glucksmann xúc động vụ tàu Hải Hồng, vì gia đình người Do Thái
của anh sống sót sau vụ Đức Quốc xã tàn sát dân Do Thái, được tàu SS Exodus chở đi năm 1947, nhưng đã bị các quốc gia từ khước, nên cuối cùng bị đưa về Đức để chấm dứt sinh mạng trong các trại tập trưng.
[6]
Khi Hồng quân Xô viết đưa quân xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, ngày
25.8.1068 chị Natalya Gorbanevskaya đẩy chiếc nôi con mới sinh 3 tháng
cùng với bốn người bạn biểu tình phản đối trên Công trường Đỏ mênh mông ở
Mạc Tư Khoa.
[7]
Nhà toán học ly khai nổi danh xứ Ukraine nhờ áp lực của công luận quốc
tế đã được cứu thoát khỏi Nhà thương điên Xô Viết đưa sang Pháp. Năm
1981, khi Nhà in Quê Mẹ bị phá sản do vận động cho con tàu Đảo Ánh Sáng
ra khơi vớt người vượt biển, và bị ba bên bốn bề đánh phá, Plyush kêu
gọi các bạn ly khai Liên Xô và Đông Âu thành lập “Hội Những Người Bạn
Của Quê Mẹ” để cứu sống Cơ sở đấu tranh Quê Mẹ, đăng lòi kêu gọi trên
báo chí Pháp và tthe New York Review of Books (xem sách “Nguoi Tri Thức Hành Động và Dẫn đường” của Võ Văn Ái, NXB Quê Mẹ, Paris 2010, trang 279).
[8]
Vladimir Boukovsky nhà văn ly khai Liên Xô nổi danh, nhờ áp lực của
công luận thế giới được trả tự do năm 1976 trao đổi với một tù nhân
chính trị Chili, sau 12 năm giam trong nhà tù và nhà thương điên. Hiện
là Giáo sư Đại học Cambridge Anh quốc.
[9]
Leo Cherne nhà nhân bản lớn, Chủ tịch Uỷ ban Cứu Cấp Quốc tế thành lập
để cứu sống những nạn nhân Đức Quốc Xã ở Châu Âu. Sau này, Uỷ ban cứu
cấp và giúp đỡ định cư cho những người tị nạn trong thế giới. Ông đã cứu
giúp đông đảo các nạn nhân tại Cuba và Cam Bốt.
[10]
Bayard Rustin, người Mỹ da màu, lãnh đạo phong trào dân sự Hoa Kỳ, và
là người tổ chức cuộc biểu tình khổng lồ “Tiến về Hoa Thịnh Đốn” năm
1963 nơi Mục sư Martin Luther King thốt bài diễn văn nổi tiếng “Tôi có một giấc mơ – I have a dream”. Ông cũng không ngừng lên tiếng.
TIẾN SĨ RUPERT NEUDECK
Rupert Neudeck (sinh ngày 14.5.1939 tại thành phố tự do Danzig (ngày nay là Gdańsk, Ba Lan, mất 31.5.2016) là nhà báo và người theo chủ nghĩa nhân đạo người Đức, nổi tiếng về việc làm nhân đạo, cứu vớt hàng chục ngàn thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông năm 1979 bằng tàu Cap Anamur. Ông là người sáng lập Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V. (Ủy ban Cap Anamur/Bác sĩ cấp cứu Đức) và là chủ tịch tổ chức Grünhelme (Mũ bảo hiểm xanh lá cây).
Rupert Neudeck tại Frankfurt năm 2007
Cuộc đời và Sự nghiệp
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, gia đình ông bị trục xuất về Đức. Ông lớn lên và học tập ở Tây Đức. Năm 1958, sau khi tốt nghiệp bậc trung học, ông học ngôn ngữ và văn minh Đức, triết học, xã hội học và thần học Công giáo. Năm 1961. ông ngưng học để gia nhập Dòng Tên, nhưng ít năm sau ông ra khỏi Dòng và tiếp tục học. Năm 1972, ông đậu bằng tiến sĩ triết học với bản luận án Politische Ethik bei Jean-Paul Sartre und Albert Camus (Đạo đức chính trị của Jean-Paul Sartre và Albert Camus).Ông bắt đầu làm nhà báo cho đài phát thanh Công giáo ở Köln, và từ năm 1976 làm nhà báo tự do. Năm 1977, ông làm biên tập viên chính trị cho đài phát thanh Deutschlandfunk [1].
Năm 1979 vợ chồng Rupert Neudeck và nhà văn đoạt giải Nobel Heinrich Böll – cùng một nhóm bạn – đã thành lập Ủy ban "Ein Schiff für Vietnam" (Một tàu cho Việt Nam) và thuê tàu Cap Anamur làm nhiệm vụ cứu các thuyền nhân Việt Nam vượt biển tỵ nạn. Năm 1982, tổ chức "Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e. V." được thành lập, theo tên tàu Cap Anamur. Những tàu này đã vớt 10.375 thuyền nhân Việt Nam từ 226 ghe thuyền trên Biển Đông, đưa sang tỵ nạn ở Đức. Ông đã xuất hiện trong cuộc phỏng vấn trên băng video Paris by Night 77 - dịp kỷ niệm 30 năm Sài gòn thất thủ – nói về việc làm của tàu cứu nạn Cap Anamur.
Cho tới năm 1998, ông là thành viên Ban điều hành tổ chức Cap Anamur, sau đó ông làm phát ngôn viên của tổ chức này.
Tháng 4 năm 2003 ông là người đồng sáng lập tổ chức hòa bình quốc tế Grünhelme eV (Mũ bảo hiểm xanh lá cây)[1] nhằm giúp xây dựng lại những trường học, làng mạc trong các vùng bị chiến tranh tàn phá như ở Iraq, Afghanistan vv...[2].
Từ năm 2002 Neudeck đã nhiều lần tới thăm Israel và vùng lãnh thổ Palestine để tìm hiểu hàng rào ngăn cách mà Israel đã dựng lên, cùng hiện trạng sinh sống của người Palestine ở Bờ Tây. Năm 2005 ông đã xuất bản quyển "Ich will nicht mehr schweigen. Recht und Gerechtigkeit in Palästina" (Tôi sẽ không im lặng nữa. Luật pháp và Công lý ở Palestine) nhằm bênh vực những người Palestine, và bị Hội hữu nghị Đức-Israel chỉ trích dữ dội[3].
Tháng 6 năm 2010 Neudeck chỉ trích chính sách của Israel về cấp giấy
phép xây dựng và việc phá nhà ở Bờ Tây, nhân dịp ông nhận thông báo của
chính quyền Israel cảnh báo có thể phá bỏ ngôi nhà gọi là "Vocational
Training Centre" của Tổ chức Grünhelme eV nằm ở giữa Bethlehem và Hebron.
Theo Neudeck thì những người Palestine trong khu vực này (vùng C, gồm
khoảng 60% khu vực Bờ Tây) ít có cơ hội xin được giấy phép xây dựng nhà
ở, trong khi người Israel chiếm đóng xây nhà ở đây ngày càng nhiều[4].
Rupert Neudeck công khai ủng hộ việc tự do biểu tình phản kháng, thay vì sợ hãi[5].Đời tư
Năm 1970 ông kết hôn với Christel Neudeck. Họ có 2 con gái và 1 con trai.[6]Giải thưởng và Vinh dự
Thư mục
- Vertrieben – verjagt. Das Schicksal der Kurden. 1992, ISBN 3-499-20653-6.
- Abenteuer Humanität. Mit der „Cap Anamur" unterwegs. 1998, ISBN 3-87868-129-1.
- Reise ans Ende der legalen Welt. Die Nuba-Berge des südlichen Sudan. 2001, ISBN 3-8258-5602-X.
- Die Menschenretter von Cap Anamur. 2002, 2. Auflage C. H. Beck, München 2003, ISBN 3-406-48879-X.
- Jenseits von Kabul. 2003, ISBN 3-406-50952-5.
- Die Flüchtlinge kommen. Warum sich unsere Asylpolitik ändern muss. 2005, ISBN 3-7205-2573-2.
- Grünhelme. Bleiben, wenn andere gehen. 2005, ISBN 3-7831-2437-9.
- Eine bessere Welt ist möglich. 2005, ISBN 3-570-50069-1.
- Ich will nicht mehr schweigen. Recht und Gerechtigkeit in Palästina. 2005, ISBN 3-937389-73-3.
- Abenteuer Menschlichkeit. 2007, ISBN 978-3-462-03774-6.
- Die Kraft Afrikas – Warum der Kontinent nicht verloren ist. C. H. Beck, München 2010, ISBN 978-3-406-59857-9.
- Mutbürger – Gelebter Widerstand. Zwölf Beispiele. Publik-Forum Edition Oberursel 2011, ISBN 3-88095-215-9.
- đồng tác giả: Nach dem Krieg. Vor dem Frieden. 2003, ISBN 3-451-28255-0.
Tiến sĩ Rupert Neudeck, ân nhân của thuyền nhân Việt, qua đời tại Đức
Trên trang sử tị nạn cũng như trong lòng bao thuyền nhân Việt đi tìm tự
do sau 30 tháng Tư 1975, hình ảnh tiến sĩ Rupert Neudeck và hình ảnh
những chiếc tàu cứu mạng Cap Anamur không bao giờ có thể phai mờ trong
ký ức.
Ngày 31 tháng Năm vừa qua, tiến sĩ Rupert Neudeck, người đã vận động với chính phủ Đức để có được 4 chiếc tàu mang tên Cap Anamur lướt sóng ra khơi cứu người vượt biển Việt Nam trong thập niên 75 cho đến 85, đã qua đời tại thành phố quê nhà của ông ở Troisdorf nước Đức, hưởng thọ 77 tuổi.
Trái tim nhân ái
Ngày 31 tháng Năm vừa qua, tiến sĩ Rupert Neudeck, người đã vận động với chính phủ Đức để có được 4 chiếc tàu mang tên Cap Anamur lướt sóng ra khơi cứu người vượt biển Việt Nam trong thập niên 75 cho đến 85, đã qua đời tại thành phố quê nhà của ông ở Troisdorf nước Đức, hưởng thọ 77 tuổi.
Trái tim nhân ái
Có thể xuôi tay nhắm mắt ở tuổi 77 là hãy còn quá sớm, thế nhưng với rất
nhiều người Việt thì con người phi thường ấy, tiến sĩ Rupert Neudeck,
dù đã lìa đời nhưng khoảng trống để lại thì quá đầy, bởi nhờ ông mà từ
1979 đến 1986 đã có 11.300 người già trẻ lớn bé được những chiếc tàu của
Ủy Ban Cap Anamur vớt từ biển cả mênh mông đưa về bến bờ an toàn hạnh
phúc.
Tôi rất cảm phục ông Neudeck, một người sống rất giản dị và sống rất
bình thường. Từ hồi còn trẻ, ông bị ám ảnh nhất là trong thời gian ông
mới năm hay sáu tuổi thì đã phải đi lánh nạn cộng sản Nga. Thông cảm
được nỗi đau khổ của người tị nạn, những nạn nhân của chiến tranh, nghèo
đói hay chủng tộc mà ông xả thân ra làm. Khó có thể tưởng tượng được
một con người đã hy sinh toàn bộ cuộc sống của mình cho tha nhân.
Là người Công Giáo thuần thành, ông lấy tấm gương một người
Samaritain nhân hậu trong Thánh kinh là xả thân cứu người. Khi cứu
người thoạt đầu ông bị biết bao nhiêu chống đối, thậm chí có những người
quá khích đã ném phân vào nhà ông, nhưng ông vẫn chịu đựng và làm đủ
mọi cách. Đầu tiên ông thành lập ủy ban có tên là Ủy Ban Một Con Tàu
Cho Việt Nam, chỉ để chuyên cứu với những thuyền nhân Việt Nam đang thập
tử nhất sinh trên biển cả. Cuối cùng ông đã cứu được 11.300 sinh mạng
thuyền nhân Việt Nam. Từ đó ông tiếp tục cho đến ngày ông mất.
Những người mời ông đi thuyết trình hay đi nói chuyện đều đề nghị trả
tiền vé máy bay hay tiền khách sạn thì ông đều từ chối hết, ông yêu cầu
lấy tiền đó để vào quĩ cứu giúp người nghèo. Tôi tin chắc rằng đại đa
số người tị nạn, không được tàu Cap Anamur vớt hay được tàu Cap Anamur
vớt, khi biết về ông đều tỏ ra kính phục.
Bên Công Giáo nhiều người gọi ông là Thiên Thần của Chúa gởi đến cho
nhân loại, người bên Phật Giáo thì gọi ông là một vị Bồ Tát đã xả thân
cứu người không phân biệt chủng tộc, màu da, xu hướng chính trị.
Bên Công Giáo nhiều người gọi ông là Thiên Thần của Chúa gởi đến cho nhân loại, người bên Phật Giáo thì gọi ông là một vị Bồ Tát đã xả thân cứu người không phân biệt chủng tộc, màu da, xu hướng chính trị.
- Ông Nguyễn Hữu Huấn
Những nơi nguy hiểm nhất mà không người nào thèm đến để cứu giúp thì
ông đến một mình. Thí dụ cuộc kháng chiến của Afghanistan chống lại sự
xâm lăng của Liên Xô trong thập niên 80 thì ông tự một thân một mình ra
đi, hòa nhập vào đoàn người tị nạn ở Afghanistan để cứu những người
Afghanistan đó. Ông đã một lần bị máy bay trực thăng của Nga bắn nhưng
rất may ông thoát chết.
Đó là lời ông Nguyễn Hữu Huấn, thành viên trong Ủy Ban Cap Anamur ở
Hamburg, từng được tàu Cap Anamur vớt, sau trở lại làm việc trên những
chuyến tàu ra khơi cứu người mà tiến sĩ Rupert Nudeck vận động thành
lập:
Đầu năm 1980 tôi đi vượt biển lần thứ ba, ghe của tôi bị hải tặc cướp
2 lần. Khi ghe lênh đênh ngoài biển và không còn dầu nhớt nữa, máy đã
bị hư thì chúng tôi được tàu Cap Anamur cứu. Lúc đó cảm giác như là được
sống lại. Nhìn thấy con tàu đồ sộ còn cái ghe của mình quá nhỏ thì
chúng tôi rất bàng hoàng, có thể nói là được một lần nữa tái sinh. Tôi
được chính phủ của tiểu bang Hamburg cho đi học tiếng Đức trong vòng 11
tháng. Cuối năm 81 tôi bắt đầu trở thành thành viên của Ủy Ban Cap
Anamur, tôi đi liên tục trong 5 năm rưỡi.
Ông Nguyễn Đình Phúc, có người anh cả được tàu Cap Anamur vớt hồi năm 1980:
Ngày 9 tháng Tám năm 1979, con tàu Cap Anamur bắt đầu khởi hành từ
Hamburg. Chuyến cuối cùng thì tàu cũng cập cảng Hamburg tháng Tám năm
1986. Cộng đồng người Việt tị nạn toàn nước Đức nói chung và tại Hamburg
nói riêng chân thành cảm ơn ông Neudeck và dân tộc Đức đã mở lòng nhân
đạo, cứu vớt và nhận cho thuyền nhân Việt Nam được cư ngụ tại nước Đức.
Theo cựu thuyền nhân Lê Ngọc Tùng, đang sinh sống tại Hamburg, nếu không
có tiến sĩ Rupert Neudeck và những chiếc tàu Cap Anamur đi vớt người
vượt biển từ 1979 đến 1986 thì:
Thống kê cho biết khoảng 200.000 người Việt Nam đã đi tìm tự do đã
chết giữa biển. Nếu không có con tàu Cap Anamur thì chắc chắn số người
chết giữa biển vì hải tặc, bị sóng cuốn, bị thiếu lương thực ... sẽ là
rất nhiều. Cap Amamur là con tàu tình thương đã vớt tổng cộng 11.300
người tất cả. Và 11.300 người người này sau đó còn bảo lãnh thân nhân từ
Việt Nam sang nữa để có cuộc sống tự do.
Vì được tài trợ bởi chính phủ và người dân Tây Đức lúc bấy giờ, 4 chiếc
tàu của Ủy Ban Cap Anamur được trang bị như một bệnh xá di động, hoàn
tất ngoạn mục sứ mạng vớt người trên biển cho đến khi chấm dứt năm 1987:
Ủy Ban Cap Anamur lấy mỗi con tàu đều là tên Cap Anamur hết. Bốn con
tàu đi liên tiếp nhau chứ không phải đi vớt một lần 4 chiếc. Tôi được
chuyến Cap Anamur số 1 vớt. Tàu Cap Anamur số 1 từ 1979 đến 1982 chia
thành 29 chuyến thì đã vớt được 199 chiếc ghe. Cho đến khi chấm dứt vào
năm 1987 là tàu Cap Anamur số 4.
Sau khi các trại tị nạn tại các nước Đông Nam Á loan báo đóng cửa và
không nhận thuyền nhân vào nữa, những con tàu Cap Anamur 5 và Cap Anamur
6 đã không vớt người mà chỉ dẫn dắt và cứu hộ những chiếc ghe vượt
biển, tìm cách đưa họ an toàn vào trại tị nạn mà thôi.
Tang lễ đơn giản
Ngày 8 tháng Sáu 2016 vừa qua, tang lễ chỉ được cử hành đơn giản trong
vòng gia tộc thể theo ý nguyện của người quá cố. Là người thân thiết với
gia đình qua nhiều năm làm việc cùng tiến sĩ Rupert Neudeck và Ủy Ban
Cap Anamur, cũng là người Việt duy nhất có mặt tại ngày vĩnh biệt, ông
Nguyễn Hữu Huấn chia sẻ:
Gia đình từ vợ đến con cháu chỉ muốn mai táng ông một cách âm thầm
thì vợ chồng tôi may mắn được tham dự. Tôi chưa thấy tang lễ nào đơn sơ
như vậy bởi vì bà làm theo ý nguyện của ông là không hoa, không nến,
không kèn không trống và chính những người con người thân khiêng quan
tài của ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hiện tại ngày hôm nay trước mộ
của ông chỉ vỏn vẹn có cây Thánh giá và vái ba cây cỏ dại và chính ông
bà muốn như vậy.
Trái với vẻ bình lặng đơn sơ của tang lễ ở Troisdorf, lễ tưởng niệm tiến
sĩ Rupert Neudeck, cha đẻ những con tàu tình thương Cap Anamur, hàng
ngàn người Việt đã đổ về thành phố Koln để chào kính vị ân nhân, vị anh
hùng không cùng máu mủ ruột thịt với mình:
Buổi tưởng niệm ngày 14 tháng Sáu vừa qua là Tòa Tổng Giám Mục ở Giáo
phận Koln( Cologne) tổ chức và Đức Hồng Y đúng chủ lễ. Trong ngày đó
chỉ có một bức hình thật lớn để trên Cung Thánh và một bó hoa của nhà
thờ.
Bà Neudeck nói bà không mời bất cứ một chính trị gia hay là những người nổi tiếng trên nước Đức mà riêng người Việt Nam thì bà mời đến. Đó là ý nguyện của bà và gia đình.
- Ông Nguyễn Hữu Huấn
Bà Neudeck nói bà không mời bất cứ một chính trị gia hay là những
người nổi tiếng trên nước Đức mà riêng người Việt Nam thì bà mời đến. Đó
là ý nguyện của bà và gia đình.
Đó là một buổi lễ tưởng niệm long trọng, cảm động, ngập tràn nước mắt
của thuyền nhân. Chủ lễ buổi tưởng niệm là Đức Hồng Y Giáo Phân Koln
cùng 12 linh mục người Đức gốc Việt:
Mười hai linh mục Việt Nam là những người được tàu Cao Anamur cứu vớt
hồi trước, được phép làm lễ đồng tế chung với Đức Hồng Y trên bàn thờ.
Trong khi đó thì người Việt Nam kéo đến, theo báo chí là đến khoảng
hơn một ngàn rưỡi người đến nỗi không còn chỗ ngồi. Thật tình ngày đó
tôi thấy người Việt Nam người ta sụt sùi người ta khóc. Thậm chí trong
khi làm lễ và sau khi làm lễ người Việt Nam mình kéo nhau đến tạ ơn ông
Neudeck, cứ xếp hàng mà quì lạy trước chân dung ông Neudeck. Người ta cứ
hỏi là muốn viếng mộ ông rồi muốn thắp nhang ở đó. Nhiều người theo
kiểu Việt Nam mình là muốn đưa phong bì cho tang gia nhưng bà Neudeck
không nhận, nói là xin chuyển vô hai hội thiện nguyện đi giúp người của
ông Neudeck.
Điều bất ngờ là không chỉ người Việt mà người bản xứ cũng đến quá đông, ông Nguyễn Hữu Huấn nói:
Không ngờ người Đức đến quá đông, kể cả những người nổi tiếng,
mặc dù bà Neudeck không chính thức mời. Thí dụ cựu thống đốc tiểu bang
rồi cựu phó thủ tướng, cựu chủ tịch quốc hội rồi một số chủ tịch những
đảng chính trị cũng đến nữa. Chúng tôi là người tổ chức chung với gia
đình cho nên cái khó khăn là không biết làm sao mà sắp xếp chỗ ngồi cho
họ cho đàng hoàng thì cũng chỉ biết cách xin những người Việt Nam nhường
chỗ cho họ mà thôi.
Rồi lại còn thêm hầu hết những người đã từng ở trên tàu để đi vớt
người thời thập niên 80, những người thiện nguyện của Ủy Ban Cap Anamur
hồi trước là bác sĩ, là y tá đều đến hết.
Cũng nên nhắc lại hồi tháng Tám 2014, đại hội 35 năm tàu Cap Anamur,
thay vì vẫn diễn ra tại quê nhà Troisdorf của tiến sĩ Rupert Neudeck,
nơi một chiếc ghe của người vượt biển được kéo về trưng bày tại đó, thì
lần tổ chức 35 năm Cap Anamur này được dời qua cảng Hamburg với cả ngàn
người Việt khắp nơi trên nước Đức về tham dự:
Có hai lý do giải thích sự thay đổi này, thứ nhất là tại cảng Hamburg
cách đây 5 năm một tấm bia biểu tượng người tị nạn đã được dựng lên nhằm
đánh dấu nơi xuất phát mà cũng là nơi trở về của các con tàu định mệnh
Cap Anamur.
Thứ hai chính là yêu cầu của tiến sĩ Rupert Neudeck, người sang lập Ủy
Ban Cap Anamur, nói rằng sức khỏe của ông ngày một kém vì thế đây có thể
là lần cuối cùng và ông mong muốn tổ chức ngày kỷ niệm 35 Cap Anamur
tại Hamburg.
Không ai ngờ đến lần kỷ niệm 37 năm Cap Anamur thì tiến sĩ Rupert
Neudeck đã lặng lẽ và thanh thản bay vào đại dương mênh mông trong sự
nuối tiếc nghẹn ngào của những thuyền nhân vì ông mà được sống.
Một nén hương lòng thắp muộn cho vị đại ân nhân của người vượt biển Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/the-grand-savior-of-vns-boat-people-died-tt-06232016134146.html
Lá thư của Bà Neudeck gởi người Việt Nam
Các bạn Việt Nam thân mến!
tôi chân thành cám ơn các bạn về những lời cầu nguyện, những phát biểu phân ưu sâu sắc, những vinh dự, mà các bạn đã dành cho chồng tôi – Rupert Neudeck. Các bạn vẫn luôn duy trì bảo tồn nền văn hóa Việt Nam của các bạn và các bạn cũng là những người đã mang lại sự phong phú tuyệt vời cho xã hội Đức này. Điều này có lẽ/hy vọng rằng sẽ tạo cho con người có được sự can đảm để nhìn ra được những việc phải làm không phải với sự sợ hãi, mà với lòng tự tin qua những người tỵ nạn mới đang đến với chúng ta.
Tôi xin các bạn thông cảm cho chúng tôi, khi chúng tôi đã mai táng Rupert chỉ trong vòng gia đình cùng với một số rất ít bạn bè thân cận nhất. Những đứa con và những đứa cháu nội ngoại của chúng tôi đã mất đi một người cha, mất đi một người ông. Tất cả đã phải được tiễn biệt cha/ông mình trong vòng nhỏ bé rất riêng tư của gia đình. Con cháu ngoại Lotto vừa được 3 tuổi cứ muốn hóa phép để ông ngoại nó sống lại, nhưng nó không tìm ra được chiếc đũa thần.
Chúng tôi phải cố gắng thực hiện việc mà Đức Hồng Y Woelki đã yêu cầu chúng tôi, đó là : phải tiếp tục con đường của Rupert đã theo đuổi. Ông Navid Kermani (trong buổi lễ tưởng niệm) cũng phát biểu rằng, tất cả chúng ta bây giờ cần phải cố gắng làm việc hơn nữa. Tôi chắc chắn một điều rằng, từ một nơì nào đó Rupert cũng đồng hành và phù hộ chúng tôi.
Tôi tin rằng, đoạn Thánh Vịnh số 23 được trích ra từ Kinh Thánh (Cựu Ước) là những lời an ủi không chỉ dành cho những người Thiện Chúa Giáo mà thôi và đó cũng là lời cầu nguyện của chúng tôi bên giường của Rupert trong giờ lâm chung, mà tôi muốn trích ra đây :
Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
Người cho tôi nghỉ ngơi trên đồng cỏ xanh tươi
và Người đưa tôi đến bến nước thanh bình.
Người phù giúp linh hồn tôi;
Người dẫn dắt tôi đi trên đường chính nẻo ngay,
vì danh Người.
Dù tôi phải bước đi trong thung lũng tối tăm,
tôi chẳng sợ tai họa nào,
vì Người vẫn ở bên tôi.
Cây côn và cây gậy của Người làm tôi được vững tâm.
Người dọn bàn tiệc cho tôi
trước mắt những kẻ thù nghịch tôi.
Người xức đầu trên đầu tôi,
Người đổ tràn đầy ly tôi.
Lòng nhân hậu và tình thương của Người sẽ theo tôi suốt cuộc đời
và tôi sẽ được ở trong Nhà Chúa cho đến lâu dài Người bạn của các bạn
Christel Neudeck
Thứ năm, ngày 16 tháng 6 năm 2016, 16:52 giờ
TƯỞNG NIỆM ÔNG NEUDECK, BỒ TÁT CỦA LÒNG NHÂN ÁI
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/the-grand-savior-of-vns-boat-people-died-tt-06232016134146.html
Lá thư của Bà Neudeck gởi người Việt Nam
Các bạn Việt Nam thân mến!
tôi chân thành cám ơn các bạn về những lời cầu nguyện, những phát biểu phân ưu sâu sắc, những vinh dự, mà các bạn đã dành cho chồng tôi – Rupert Neudeck. Các bạn vẫn luôn duy trì bảo tồn nền văn hóa Việt Nam của các bạn và các bạn cũng là những người đã mang lại sự phong phú tuyệt vời cho xã hội Đức này. Điều này có lẽ/hy vọng rằng sẽ tạo cho con người có được sự can đảm để nhìn ra được những việc phải làm không phải với sự sợ hãi, mà với lòng tự tin qua những người tỵ nạn mới đang đến với chúng ta.
Tôi xin các bạn thông cảm cho chúng tôi, khi chúng tôi đã mai táng Rupert chỉ trong vòng gia đình cùng với một số rất ít bạn bè thân cận nhất. Những đứa con và những đứa cháu nội ngoại của chúng tôi đã mất đi một người cha, mất đi một người ông. Tất cả đã phải được tiễn biệt cha/ông mình trong vòng nhỏ bé rất riêng tư của gia đình. Con cháu ngoại Lotto vừa được 3 tuổi cứ muốn hóa phép để ông ngoại nó sống lại, nhưng nó không tìm ra được chiếc đũa thần.
Chúng tôi phải cố gắng thực hiện việc mà Đức Hồng Y Woelki đã yêu cầu chúng tôi, đó là : phải tiếp tục con đường của Rupert đã theo đuổi. Ông Navid Kermani (trong buổi lễ tưởng niệm) cũng phát biểu rằng, tất cả chúng ta bây giờ cần phải cố gắng làm việc hơn nữa. Tôi chắc chắn một điều rằng, từ một nơì nào đó Rupert cũng đồng hành và phù hộ chúng tôi.
Tôi tin rằng, đoạn Thánh Vịnh số 23 được trích ra từ Kinh Thánh (Cựu Ước) là những lời an ủi không chỉ dành cho những người Thiện Chúa Giáo mà thôi và đó cũng là lời cầu nguyện của chúng tôi bên giường của Rupert trong giờ lâm chung, mà tôi muốn trích ra đây :
Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì.
Người cho tôi nghỉ ngơi trên đồng cỏ xanh tươi
và Người đưa tôi đến bến nước thanh bình.
Người phù giúp linh hồn tôi;
Người dẫn dắt tôi đi trên đường chính nẻo ngay,
vì danh Người.
Dù tôi phải bước đi trong thung lũng tối tăm,
tôi chẳng sợ tai họa nào,
vì Người vẫn ở bên tôi.
Cây côn và cây gậy của Người làm tôi được vững tâm.
Người dọn bàn tiệc cho tôi
trước mắt những kẻ thù nghịch tôi.
Người xức đầu trên đầu tôi,
Người đổ tràn đầy ly tôi.
Lòng nhân hậu và tình thương của Người sẽ theo tôi suốt cuộc đời
và tôi sẽ được ở trong Nhà Chúa cho đến lâu dài Người bạn của các bạn
Christel Neudeck
Thứ năm, ngày 16 tháng 6 năm 2016, 16:52 giờ
TƯỞNG NIỆM ÔNG NEUDECK, BỒ TÁT CỦA LÒNG NHÂN ÁI
Tưởng Niệm Ân Ông Ruper Neudeck
Khi ông Neudeck mới sinh thì người cười ông khóc
Phút sau cùng thì người khóc ông cười
Người mừng vui khi ông mở mắt chào đời
Còn người khóc vậy thời thương tiếc
Tiếc hiền nhân phút cuối cùng giã biệt
Lưu lại đời bao công nghiệp trọng mang
Gương hy sinh lòng đạo đức vẹn toàn
Ngày tạ thế tuổi tên còn vang tiếng
Ông mỉm cười bởi ông tròn toại nguyện
Khi lìa đời bao kẻ luyến tiếc thương
Ngàn thuyền nhân lòng dào dạt vấn vương
Ân cứu tử thuyền lênh đênh biển cả
Được vượt thoát và bình yên nơi xứ lạ
Xem Đức là quê hương mới thứ hai
Sống an thân, ổn định tháng năm dài
Lòng ghi tạc đã nhờ ông cứu mạng
Hay tin ông đã ra đi thanh thản
Biết bao người, tưởng niệm khắc ghi ân
Kẻ tâm hương, người đưa đến đến mộ phần
Cầu ông được sinh miền vĩnh phúc
(Thích Thiện Minh)
Suốt đêm qua con chập chờn thao thức không ngủ được, lòng trông mong cho trời mau đến sáng để được trở về chùa cùng chư Tôn đức Tăng Ni và quí đồng hương làm lễ truy điệu cho ông Rupert Neudeck; „vị Bồ Tát của lòng từ ái „
Không biết tại sao cả tuần nay bầu trời lúc nào cũng ảm đạm, âm u, vần vũ như đau buồn thương tiếc cho một con người được vạn người kính trọng với lòng biết ơn và được gọi với rất nhiều quí danh: „Kẻ chài lưới người“ (Menschenfischer), Samaritanô nhân hậu thương người. Riêng con, với lòng kính ngưỡng Ông con luôn gọi Ông là „BỒ TÁT CỦA LÒNG TỪ Ái“, một con người có trí lực dũng mãnh, lòng từ bi cao hạnh như Mẹ Hiền Quán Thế Âm đã xông pha giữa trùng dương xung trận đạp những ngọn sóng ba đào để cứu vớt hàng ngàn sinh linh Việt Nam trên đường vượt thoát bạo tàn CS.
Con đến chùa lúc 10 giờ, hôm nay Phật Tử tề tựu về đông đủ, mọi người nét mặt đều trầm tư và ít nói, chắc rằng tất cả đều hướng lòng về ông Neudeck, người đã cứu vớt thuyền nhân qua khỏi cảnh hiểm luân để được bình an và hôm nay mọi người đã và đang sống nơi bến bờ tự do tìm cầu hạnh phúc.
Sư Diệu Hạnh bước vào khệ nệ bưng 1 chồng khay, con tiếp tay bưng hộ Sư, Sư nói con đặt ở chánh điện rồi châm những ngọn đèn cầy đặt vào trong mâm để lát nữa khi tụng kinh cầu siêu cho ông Neudeck xong, mỗi Phật tử chúng ta sẽ cầm ngọn đèn đó tiến đến bàn thờ thành tâm cầu nguyện cho hương linh Ông được cao siêu thánh quả. Điều vô cùng ý nghĩa là ngôi chùa Phật Giáo, tín đồ Phật giáo lại thiết tha chân thành cầu nguyện cho người nằm xuống là con Chiên của Chúa Kito được an lành trong giấc ngủ bình yên…
Con châm từng ngọn đèn để trên mâm, lòng đầy xúc động, mỗi ngọn đèn vừa được thắp sáng, con liên tưởng đến những sinh linh chết oan ức trong lòng biển cả, liên tưởng đến những đồng bào ruột thịt của con được ông cứu vớt trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh. Hình ảnh ông Neudeck in đậm nét trong con, khi con được xem cuộc phóng sự của đài WRD chiếu: „Mission Menschen retten! Dr. Rupert Neudeck und die Cap Anamur“, trông hình ảnh Ông đặt tay vào trước ngực mắt đăm chiêu nhìn về Đại Dương xa xôi theo một hướng đầy lo âu. Ông thấy từ xa xa chấm nhỏ, rồi hiện dần con thuyền mong manh, lòng Ông trào dâng như muốn đem cả con tim và khối óc của mình để cứu người dân Việt,; Ông nghĩ làm sao phải có chiếc tàu, „Phải! Phải cứu vớt! đó là truyền thống dân tộc Đức phải cứu người nguy khốn trong bất cứ trường hợp nào, không phân biệt nạn nhân đó là ai? Khuynh tả hay hữu? không biết họ bên nào? Người nước nào? lòng bi mẫn của Ông chẳng khác gì lòng Đại Từ Đại Đại Bi của Chư Phật Bồ Tát, „vô duyên đại từ, đồng thể đại bi“, 1 tình thương yêu không bờ bến. Ông đã hết sức đi vận động bạn bè, dân chúng và chính quyền, nhằm cứu vớt những thuyền nhân đang trong cảnh ba đào, nhấp nhô sóng cả, những nạn nhân đang lúc đói, khát, lạnh và con thuyền bé nhỏ ôi rất mong manh sắp làm mồi cho cá mập.. Và rồi, với tâm nguyện và tình yêu thương yêu đồng loại, con tàu của Ông bà Neudeck đã được thành hình vào ngày 9.8.1979 với sự giúp sức của nhà văn hào Heinrich Böll cùng các thân hữu mang tên CAP ANAMUR để vượt trùng khơi cứu vớt tất cả 11.448 thuyền nhân Việt Nam
Hình ảnh năm ngoái con gặp Ông ở Troisdorf, Ông đến với chúng con như một người thân thương trong gia đình, hiền hòa, bình dị, Ông đã khen ngợi đàn con cháu của thuyền nhân, cho dù ly cư biệt tổ, rời nơi chôn nhau cắt rốn, xa Quê Hương, nhưng hầu như thế hệ trẻ đã biết vươn lên, biết sống học tập nên người và thành đạt cũng như không quên cội nguồn Việt Nam, điều này đã làm Ông rất hãnh diện, vì hầu như đa phần đều thành tài để góp phần xây dựng cho đất nước Đức, 1 sự đền ơn rất xứng đáng nơi đất khách được xem như là Quê Hương thứ hai.
Niềm vui chưa trọn vẹn thì tiếp theo nỗi xót xa của bản thân con và bà con người Việt khi nghe tin Ông lâm bệnh trầm kha, nghĩ tới hình ảnh trong những tháng cuối cùng của cuộc đời Ông; biết rằng cuộc đời có hợp, có tan, hoa nở rồi tàn, trăng tròn lại khuyết bởi cuộc đời là vô thường lòng con càng thêm chạnh lòng chua xót
Trong ngày Đại Hội Công Giáo mọi người đã quyên được hơn 44.000Euro, lòng con hân hoan và luôn nghĩ, hy vọng rằng Ông sẽ vui và bệnh tình của Ông sẽ thuyên giảm khi Ông nhận biết được đây là tấm lòng của người Dân Việt luôn mang nặng những ân tình, và hôm Phật Đản, con đã xin phép thầy Trụ Trì dự định mùa Vu Lan sẽ làm 1 buổi lạc quyên cho chương trình của Ông Neudeck..Thầy đã hứa khả. Giờ đây nghe tin Ông qua đời, tất cả chúng con người Việt ly Hương đều bàng hoàng xúc động!
Trước khi vào buổi truy điệu cho Ông Rupert Neudeck, thầy Trụ Trì nhắc lại những ngày tang thương sau 1975 mà cây cột đèn có chân cũng muốn đi, người dân Việt không thích sống dưới chế độ Cộng Sản, độc đoán, độc tài, phi nhân bản nên đã tìm đường vượt thoát, họ đánh đổi mạng sống với sóng to, với biển cả, trải qua những ngày lênh đênh trên mặt Đại Dương hùng vĩ, thân người bé nhỏ, sức chịu đựng mỏi mòn hiểm nguy chẳng khác gì ngàn cân treo sợi tóc, bất chấp mối lo toan bị cướp của, giết người, hãm hiếp từ bọn hải tặc hung đồ, cho đến bọn CS rượt đuổi, lường gạt, quên cả sự sợ hãi giữa biển khơi mênh mông, con thuyền như chiếc lá có thể bất cứ lúc nào làm mồi cho cá mập để tìm ánh sáng tự do.
Buổi lễ bắt đầu, tất cả chúng con đều chấp tay vang vang theo lời kinh tụng của Chư Vị Đại Đức Tăng Ni, hướng lòng về Ông Neudeck. Cầu cho Ông được về cõi vĩnh hằng, chúng con, mỗi Phật tử cầm ngọn nến tiến về bàn thờ Ông Neudeck, hình Ông được để trên chiếc thuyền rất trang trọng, tấm hình Ông tươi cười như reo hò với đám trẻ thuyền nhân Việt Nam, mắt Ông ngời sáng, như tìm được đàn con yêu trở về giữa lòng Đại Dương trùng ngát, tay Ông dang rộng như đón tất cả vào lòng mình, con xúc động làm sao! Khi tỏ lòng túc kinh tưởng vong đến con thuyền Bát Nhã của Ông đã đưa hàng ngàn sinh linh cập đến bến bờ tự do Đức Quốc
Trong buổi lễ trụy điệu, anh Phu đã nói lên tất cả lòng biết ơn của thuyền nhân đối vói Ông, ơn cứu tử như người Cha thứ hai mà không ai quên được, anh Phu đã nói lên nhũng đặc tính bình dị của Ông, mọi người vô cùng xúc cảm
Con may mắn không là thuyền nhân, nhưng lòng con luôn nhớ ơn người đã cưu mang một phần cho Dân Tộc mình, để tỏ lòng biết ơn Ông có đã nhờ nhà thơ Hoàng Phong Linh, một Người luôn gánh kiếp nạn, đi cùng khổ đau với Dân Tộc viết bài thơ Tri Ân cho Ông Neudeck, Thầy Trụ Trì đã hoan hỷ cho con đọc bài thơ trước Di Ảnh Ông:
NGUYỆN LỜI TIỄN BIỆT ÂN NHÂN(Nhận được tin Tiến Sĩ RUPERT NEUDECK, Thuyền Trưởng
Cap-Anamur, đã qua đời ngày 31.5.2016 tại Đức Quốc, xin
kính gửi lòng ghi ơn chân thành).
Võ Đại Tôn (Úc Châu).
Giữa trùng khơi cuồng phong sóng nổi
Mẹ ôm mặt khóc quỳ lạy van Trời.
Đàn con run rẩy, kiệt sức tàn hơi,
Tự Do đâu ? - Bến bờ loang vết máu.
Hải tặc vây quanh, cười vang thảo khấu,
Nghìn thân em, vùi dập xác bèo trôi.
NGƯỜI xót đau, lòng thông cảm phận Đời
Trời Đông Âu cùng thời chung kiếp nạn.
Bức tường Bá-Linh cũng hằn sâu vết đạn
Bao oan hồn mong thoát cảnh điêu linh.
Tàu ANAMUR, nhân loại chung Tình
Mong chia sẻ Yêu Thương thành bến đậu.
Bập bềnh nổi trôi, biển Đông tìm dấu
Bóng thuyền nhân, tay chung níu chia lòng.
Trời biển mênh mông, mỏi mắt chờ mong
Trong giông bão, NGƯỜI vẫn neo tàu đợi.
Hơn Mười Ngàn sinh linh, trước sau đã tới
Bờ Tự Do, dựng lại cuộc đời !
Rồi hôm nay, thanh thoát giữa mây trời
NGƯỜI ngoảnh lại, nhìn đàn em vui sống.
Chúng tôi đây, tưởng Đời là ác Mộng
Nhưng nhờ NGƯỜI, thoát được đáy trùng dương.
Xin trao Tình, tròn Ân Nghĩa tâm hương
Mong báo đáp một đời NGƯỜI nhân hậu.
Tên của NGƯỜI, biển-trời hằng ghi dấu,
Lòng Thuyền Nhân xin cúi nguyện Ân Tình
Theo chân NGƯỜI, vì Lẽ Sống Sinh Linh.
Võ Đại Tôn.
1.6.2016
· Tiến Sĩ RUPERT NEUDECK, cũng là ký giả chuyên nghiệp, sinh
tại Ba Lan (14.5.1939), qua đời tại Đức Quốc (31.5.2016), là
Thuyền Trưởng Cap-Anamur đã cứu vớt hơn 10.000 thuyền
nhân Việt Nam trên biển Đông.
Buổi lễ tưởng niệm được kết thúc trong niềm xúc cảm, Thầy Trụ Trì cảm ơn các Phật Tử đã quy tựu về chùa để dâng lời cầu nguyện cho Vị Ân Nhân Rupert Neudeck đã cứu vớt hơn 11.000 thuyền nhân. Sư DH rơm rớm nước mắt „buồn quá con ơi! Gia đình Sư mang ân Ông Neudeck nhiều lắm, không có Ông chắc Sư không còn sống tới ngày nay.
Chúng con vô cùng cám ơn Chư Vị Tăng Ni đã tổ chức buổi lễ truy điệu Vị Ân Nhân Tiến Sĩ Rubert Neudeck rất trang trọng để cho chúng con có cơ hội tụ tập về chùa để dâng lời cầu nguyện cho Ông
Vâng! Thưa Ông Neudeck, vị BỒ TÁT CỦA LÒNG TỪ ÁI, Ông đã cứu vớt hơn 11.00 người con của Mẹ Việt Nam, chúng con không bao giờ quên ân Ông, Ông sống mãi trong chúng con, trong lòng Người dân Việt. Mai này tới ngàn sau, trang sử Việt Nam sẽ còn mãi ghi khắc tên Ông, chúng con sẽ cố gắng dạy cho đàn con cháu chúng con noi gương thánh thiện của Ông để thành người hữu dụng, có đôi mắt trong bàn tay để theo gương Ông cứu giúp cho những người lâm nạn, cứu giúp trong mọi hoàn cảnh không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, và đảng phái
Một lần nữa, chúng con người dân Việt xin cảm bội ân Ông, xin tri ân nước Đức, đồng thời tri ân tất cả những quốc gia trên thế giới đã cưu mang người Việt Tỵ Nạn chúng con
Lòng từ của Ông như một nhà giáo đã trao truyền lại cho hậu thế noi theo.
Vừa rồi con đi xem đêm văn nghệ „hãy là những ngọn gió đổi thay“ do Voice thực hiện nhằm gây quỹ giúp cho những nhà đấu tranh nhân bản cho VN, cho người tị nạn; con được biết năm rồi, 85 người tị nạn VN đã được Canada nhận, hiện còn 28 người ở trại tị nạn Bangkok đang chờ sự giúp đỡ để được can thiệp định cư sau 27 năm chờ đợi, thời gian quá dài cho những đồng bào ruột thịt của con! Con vô cùng xúc động khi được biết có những người trẻ như anh Trịnh Hội khi anh tâm tình: „Trịnh Hội làm công việc thiện nguyện đã 20 năm từ khi TH 21 tuổi, vì TH nhận thức được, TH mang ơn quốc gia đã cưu mang TH trên đường đến bến bờ tự do“
Tạm Biệt Ông! Tạm Biệt Ông để rồi chúng con sẽ gặp lại Ông trong từng giây, từng phút trong Phật tánh của con người, rồi đây nước Việt Nam của chúng con sẽ đòi lại được quyền Tự Do và Công Lý, chúng con những người con ly hương sẽ trở về lại Quê nhà, mang theo hình ảnh Ông Vị Bồ Tát của lòng Nhân Ái , xây dựng Công Lý trên Tình Thương và bình đẳng của con người
Diệu Tâm
Wednesday, June 22, 2016
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Đường hẹp, xe to & đầu nhỏ
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao)
- Cũng như nhiều nơi khác ở Á Châu, vào mùa này, Cambodia
thường có những trận mưa xối xả. Tuy thế, mức độ cũng như tần
suất lụt lội ở Phnom Penh chắc cũng chỉ có thể xếp vào hàng
thứ ba của Đông Nam Á mà thôi.
Hạng nhất và nhì vẫn phải nhường (đứt) cho Sài Gòn hay Hà
Nội. Người dân Nam Vang chưa bao giờ được hưởng cái niềm vui hồn
nhiên và chan hoà (bắt cá ngay trước cửa nhà) như ở “thủ đô
mến yêu của ta.”
Bù lại sự “thua kém” này, Phnom Penh, theo nhận xét của nhiều
người, là nơi có đông xe Lexus nhất trên thế giới. Và toàn là
xe thứ dữ: LX, RX, NX, GX..., ngó rất bề thế chớ không phải
compact (gọn gàng) như loại LS làng nhàng đâu.
Một góc Phnom Penh. Ảnh tư liệu: Hà Trung Liêm
Ngay trung tâm thủ đô của xứ Chùa Tháp (nơi mà đường xá tương
đối rộng rãi) thì hình ảnh những chiếc Lexus láng bóng - trên
những con phố bầy hầy - trông chỉ hơi chương chướng thôi, chứ
không gây phiền hà cho ai cả. Nhưng ở ngoại ô, vào giờ cao điểm,
chỉ cần hai cái Lexus (dềnh dàng) đi trái chiều nhau cũng đủ
khiến cho vô số xe tuk tuk, gắn máy, ba gác, xe đạp, và khách
bộ hành bị ùn tắc phía sau.
Phần lớn giới trí thức ở Cambodia đều đã bị đập đầu, và
chết thảm, trong thời gian vài năm mà Khmer Đỏ nắm quyền. Đất
nước này hồi sinh chưa được bao lâu. Thời gian chưa đủ để có
thể tái tạo được một tầng lớp trung lưu nền nã.
Đa số người dân vẫn sống ở thôn quê, với lợi tức trung bình
không hơn 100 Mỹ Kim hàng tháng. Lớp thị dân, phần lớn thuộc
thành phần lao động, với thu nhập tuy khá hơn chút đỉnh nhưng
phải chi phí đắt đỏ hơn nhiều.
Chủ nhân của những chiếc Lexux ở Phnom Penh thường là giới quan
chức, thương gia, đại gia... thành phần có đặc quyền về kinh tế
hay chính trị, hoặc cả hai. Họ có tiền, tất nhiên, nhưng thiếu
văn hóa và thiếu sự đồng cảm với những người dân cùng khổ.
Cambodia, vì thế, là xứ sở của đường hẹp, xe to, và những chủ
nhân ông có cái đầu (cùng tấm lòng) rất nhỏ. Họ nghênh ngang
lái những chiếc xe sang trên những con đường nắng bụi mịt mù,
hay lềnh bềnh rác rưới (giữa mưa) trong một đất nước mà nhiều
đứa bé vẫn còn thiếu ăn và thất học.
Cách thể hiện đẳng cấp (bằng xe) của giới quan chức hay đại
gia ở Cambodia, tuy thế, chưa gây ra điều tiếng ì sèo gì - như ở
Việt Nam. Tuần qua, báo Vnexpress đi tin:
Tổng bí thư yêu cầu kiểm tra việc Phó chủ tịch Hậu Giang sử dụng xe Lexus...
Ông Trần Công Chánh - Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang - cho biết đã nhận
được công văn chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về việc kiểm tra
Phó chủ tịch tỉnh Trịnh Xuân Thanh sử dụng xe tư nhân gắn biển xanh.
"Ủy ban kiểm tra Trung ương đang vào làm việc. Địa phương sẽ phối hợp
tốt các đoàn công tác trung ương để thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của
Tổng bí thư. Khi có kết quả, chúng tôi sẽ cung cấp cho báo chí", ông
Chánh nói.
Về quá trình công tác của ông Thanh hơn một năm qua tại tỉnh Hậu
Giang, ông Chánh cho biết: "Chưa phát hiện anh ấy có gì xấu. Hiện nay,
anh em tập thể UBND tỉnh phối hợp điều hành tốt công việc, dù tình hình
chung của tỉnh còn nhiều khó khăn".
Theo kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội của tỉnh Hậu Giang, ông Trịnh
Xuân Thanh được cử tri bầu với số phiếu cao (75,28%), là một trong những
người đứng đầu danh sách 6 đại biểu trúng cử ở địa phương.
Thời gian qua, chiếc Lexus LX570 trị giá hơn 5 tỷ đồng, đeo biển số
xanh 95A-0699, chở ông Thanh chạy trên đường phố miền Tây gây nhiều chú ý
do giá trị ôtô vượt tiêu chuẩn Nhà nước bố trí cho cán bộ cấp tỉnh.
Ông Trịnh Xuân Thanh (trái). Ảnh: bizlive
Ông Thanh cho biết, ôtô này do ông mượn của người bạn, biển kiểm soát
29A-79093. Một năm trước khi được phân công về Hậu Giang làm Phó chủ
tịch nhiệm kỳ 2011-2016, ông đã mang từ Hà Nội vào sử dụng.
Sau đó, ông Thanh nói chủ xe là Nguyễn Đặng Toàn, em bà con bên vợ.
Khi biết anh rể vào miền Tây công tác, Toàn đã cho ông Thanh mượn xe để
đi lại nhằm tiết kiệm cho ngân sách của Hậu Giang trong việc mua xe công
phục vụ Phó chủ tịch tỉnh. Đồng thời, chủ nhân xe Lexus LX570 cũng vào
Hậu Giang làm tài xế cho ông Thanh.
Lời “giải bầy” của ông Trịnh Xuân Thanh làm cho độc giả giả của Vnexpress được một phen vui cười thoả thích:
Duc Le -
Câu chuyện hài hước nhất năm. Ông Toàn em họ bên vợ cho mượn xe để ông
có phương tiện đi lại, vừa tiết kiệm được ngân sách của tỉnh. Thật là vĩ
đại.
HT7 - Huyền
thoại một đại gia mua xe 5 tỷ chỉ để cho anh rể mượn. Vẫn chưa yên tâm,
anh còn từ bỏ sự nghiệp ở Hà Nội vào miền Tây làm lái xe đưa đón người
thân. Thật là một nghĩa cử cao đẹp. Khóc mất.
Sonnt17 - Cảm động thật là cảm động!
Minh Nguyễn Đăng
- Ban đầu nói xe mượn của bạn, giờ là của em họ bên vợ. Kể ra ông Toàn
này có lòng tốt vô biên. Cho mượn xe vì sợ tốn kinh phí của tỉnh phải
mua xe công để cấp cho ông Thanh sử dụng. Trong khi ông Toàn ở tận ngoài
bắc.
Vtuyen - Có hơn 5 tỷ mua Lexus LX570 mà đi làm tài xế, cũng hơi khó tin.
muaban76000 - Mà tài xế lương có 2 3 triệu / tháng mới đau đấy chứ...đây có thể chuyện lạ nhất 2016.haha...
Riêng giới blogger thì có vẻ xét nét hơn chút xíu.
Huỳnh Ngọc Chênh:
Việc lập 7 đoàn thanh tra cao cấp mới đây của TBT cũng chỉ là một kiểu
trang điểm cho nhiệm ký mới của TBT. Số phận của 7 đoàn này cũng sẽ như
số phận của 7 đoàn thanh tra mà ông Trọng thành lập trước kia: Ông chủ
(là người dân) cũng sẽ không được biết đầy tớ của mình thanh cha thanh
mẹ được cái gì!
Phạm Hùng Vỹ:
Muốn thăng quan thì phải trong hệ thống, phải thuộc qui hoạch tức phải
có nhiều đạn, rồi phải được ban tổ chức trung ương chấp nhận... vậy, ông
tổng bí thư yêu cầu làm rõ cái gì? Khi ban tổ chức, ban kiểm tra, ban
tuyên giáo đều là cánh tay mặt của ông? Thôi đừng diễn nữa ông tổng.
Bùi Thanh Hiếu:
Và trong cuộc truy kích, thanh trừng toàn diện nhằm vào Nguyễn Tấn
Dũng, Nguyễn Phú Trọng không dại gì mà bỏ qua bất cứ kẻ nào liên quan
đến Dũng. Ngay cả những kẻ vô tội như Đỗ Bá Tỵ, Nguyễn Thiện Nhân còn bị
hất đi vào những chỗ ngồi không, thì một kẻ có tội như Trinh Xuân Thanh
lẽ nào Nguyễn Phú Trọng bỏ qua...
Qua những sự việc lên quan đến các cá nhân trên, cho thấy sự thù hận của
Nguyễn Phú Trọng với Nguyễn Tấn Dũng cực kỳ khủng khiếp. Sự thù hận này
ám ảnh Nguyễn Phú Trọng đến mức suốt cả nhiệm kỳ trước lẫn nhiệm kỳ
này, Trọng chỉ nhăm nhăn thực hiện những biện pháp để triệt hạ Dũng bằng
được. Đến mức khi Dũng đã thất thế về hưu, im lặng và tỏ vẻ vô hại như
Dũng đi chùa, đi bộ tới nơi bầu cử...Trọng vẫn quyết không tha.
Nguyễn Hồn Việt:
Vụ cá chết, biển chết ảnh hưởng tới cuộc mưu sinh của hàng chục triệu
người dân ven biển thì chẳng thấy tổng Trọng lên tiếng lấy một câu... Ấy
vậy mà vụ cái xe biển xanh bé tí thì ngài lại nhanh nhảu tới mức, hôm
trước báo đăng thì hôm sau:“Ý kiến chỉ đạo của Tổng bí thư nêu "đây là
việc cần làm ngay..."
Cứ theo như lời của những bloggers thượng dẫn thì thì ông
Nguyễn Phú Trọng là một người giả dối, nhỏ nhen, hay là kẻ
(vụ nhỏ bỏ lớn) thiếu suy xét!
Sao mà khó dữ vậy, mấy cha?
Ông Trọng chả qua – và chả may – có cái đầu hơi nhỏ nên không thể giải quyết chuyện lớn (và nhậy cảm vì có “liên quan đến yếu tố nước ngoài”)
như chuyện “mưu sinh của hàng chục triệu người dân ven biển.”
Còn trong khả năng của mình, ông đã chỉ đạo phải làm ngay “vụ
cái xe biển xanh bé tí” đấy thôi.
Thế mới thấy là Việt Nam cũng giống y chang như nước bạn láng
giềng, cũng là một quốc gia mà đường hẹp, xe to, với những
chủ nhân ông có cái đầu (cùng tấm lòng) rất nhỏ.
No comments:
Post a Comment