TÀI LIỆU TỔNG HỢP * RẰM THÁNG BẢY
Blog / Trong lòng Hà Nội
Tản mạn mùa Vu Lan
Ngày 15 tháng 7 âm lịch hàng năm, tức rằm tháng 7, trong đạo Phật có một ngày lễ có tên gọi là lễ Vu Lan. Vào ngày này, các gia đình làm mâm cơm cúng lễ tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, tỏ lòng trân trọng biết ơn những đấng sinh thành. Những ai còn mẹ được cài lên áo bông hồng đỏ tượng trưng cho sự biết ơn, tự hào. Với những người con mà mẹ đã khuất thì cài bông hồng trắng thể hiện nỗi thương nhớ. Mùa Vu Lan ở Việt Nam năm nay phổ biến hơn đối với giới trẻ và còn lan rộng đến nỗi đại sứ Mỹ tại Hà Nội Ted Osius cũng đội mưa gió đưa mẹ lên chùa Quán Sứ làm lễ.
Nhìn những màu hoa trắng đỏ rực khắp các trang mạng xã hội, hay báo điện
tử, tôi bỗng chợt nghĩ về những người mẹ đã mất con, những người mẹ
Việt Nam anh hùng. Khi mà người người nô nức khấn vái cầu mong bình an
cho mẹ mình, lại có những người mẹ đang ngày ngày lặng lẽ thắp hương
trên bàn thờ của con qua tháng năm. Mà có lẽ, không có một đất nước nào
như đất nước tôi, có quá nhiều những người mẹ âm thầm nuôi con lớn khôn
trong bom đạn, lặng lẽ chờ chồng, mòn mỏi chờ con, để rồi “Ba lần tiễn
con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ…”
Và chắc có lẽ cũng không có đất nước nào như đất nước tôi, dọc cả Tổ quốc có hàng trăm những bức tượng tôn vinh các mẹ, nhưng đồng thời cũng có vô vàn những câu chuyện vừa khôi hài vừa đau thương về họ. Có người mẹ ở Vĩnh Phúc, cả đời loay hoay giấy tờ chứng minh có con trai là chiến sĩ đã hy sinh trên chiến trường từ 30 năm trước, chạy ngược chạy xuôi đến sau khi qua đời mới được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và hưởng trợ cấp 42 triệu đồng tiền thờ cúng. Vụ tranh chấp, phân chia số tiền này giữa các thân nhân lùng bùng đến nỗi lên các trang báo trong nước.
Và chắc có lẽ cũng không có đất nước nào như đất nước tôi, dọc cả Tổ quốc có hàng trăm những bức tượng tôn vinh các mẹ, nhưng đồng thời cũng có vô vàn những câu chuyện vừa khôi hài vừa đau thương về họ. Có người mẹ ở Vĩnh Phúc, cả đời loay hoay giấy tờ chứng minh có con trai là chiến sĩ đã hy sinh trên chiến trường từ 30 năm trước, chạy ngược chạy xuôi đến sau khi qua đời mới được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và hưởng trợ cấp 42 triệu đồng tiền thờ cúng. Vụ tranh chấp, phân chia số tiền này giữa các thân nhân lùng bùng đến nỗi lên các trang báo trong nước.
Những vụ kiện giữa chú cháu, con gái, con dâu cho đến giờ vẫn chưa đến
hồi kết. Các bài báo không đề cập đến tên tuổi của người mẹ anh hùng
này, và người đọc có lẽ cũng chẳng màng đến. Tìm hiểu thêm, với danh
hiệu này, chính sách trợ cấp là cực kỳ ít với mức 1.105.000 đồng/ tháng,
ngoài ra còn bao gồm các chế độ khác như bảo hiểm y tế và trợ cấp mai
táng sau khi qua đời theo chính sách của bộ. Cũng mới gần đây, việc trao
tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” còn được đem ra xem xét lại
với các trường hợp là mẹ hoặc vợ liệt sỹ nhưng đã…tái giá.
Đọc những thông tin lùm xùm đó, tôi bỗng thấy hạnh phúc của những người
mẹ Việt Nam sao mong manh đến thế. Một người mẹ bình thường đã phải nhọc
nhằn cả phần lớn cuộc đời vì chồng vì con, dẫu vậy vẫn có những khoảng
thời gian vui vẻ viên mãn với mái ấm gia đình riêng của mình. Còn với
những người mẹ liệt sỹ, dường như dù chỉ là nghĩ đến hạnh phúc riêng của
bản thân thôi đã là một điều khó chấp nhận.
Những tượng đài lịch sử cứ mọc lên càng nhiều mỗi năm, những chương
trình truyền hình hoành tráng được tổ chức mỗi dịp thống nhất Tổ quốc
hay Quốc khánh hàng năm như một tấm bình phong khổng lồ che đi cuộc đời
họ đã và đang sống trong mấy chục năm có lẻ, đơn côi một mình, lạc lõng
mưu sinh từng ngày trên mảnh đất đã thấm đẫm máu và nước mắt của người
thân.
So với những mất mát đớn đau đó, tôi chỉ thấy những danh hiệu này, bằng
khen nọ đều trở nên vô nghĩa. Ai mong muốn được khen tặng vì cái chết
của con mình, khi mà ẩn sau niềm “vinh dự” đó là một mái nhà hiu hắt mùi
hương trầm và những bức ảnh đã mờ đã cũ. Những câu hát về mẹ Việt Nam
tảo tần chung thủy cùng nỗi buồn cứ mãi dài ra. Mùa Vu Lan này, ai đã
cài hoa tưởng nhớ về họ?
* Blog 'Trong lòng Hà Nội' của Hoàng
Giang là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý
của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ
Hoa Kỳ.
Sự tích ngày rằm tháng Bảy
Tháng 7 âm lịch, người
Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu
Lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất – một
tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng “ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”. Rằm tháng 7 Âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà
dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh.
Chúng ta cùng tìm hiểu về những sự tích, tập tục đầy tính nhân văn này nhé! Xuất xứ lễ Vu Lan
Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của
mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công
ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp
trước.
Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công
nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông
tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn
khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải
sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận
cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn
đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác
đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành
lửa đỏ.
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông
thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có
một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu
được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy
sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy
rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan
Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
Sự tích ngày xá tội vong nhân:
Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu
Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu
chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ
miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi
tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể
khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba
ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt
cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi
khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi
mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ
được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên".
A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu
Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm
phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng
để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì
hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những
vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên
trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên
ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi
còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ)
miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận
nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng
diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng
thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy,
ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân".
Nhưng lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày
Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một
đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát,
những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.
Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu
Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu
chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ
miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi
tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể
khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba
ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt
cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi
khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi
mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ
được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên".
Saturday, August 13, 2016
TRẦN HUY BICH * TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG
Trần Huy Bích -
Một phát hiện nhỏ nhưng quan trọng của Tạ Chí Đại Trường
Thứ Bảy, ngày 09 tháng 4 năm 2016
Trong vụ "Bình Nam đồ" do nhà nghiên cứu sử học Tạ Chí Đại Trường nêu ra trong di cảo của anh, sai lầm đầu tiên đã từ một số giáo sư, học giả uy tín của miền Nam: Gs. Trương Bửu Lâm, Giám đốc Viện Khảo cổ, giáo sư Sử tại Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm Sàigòn, cùng một số giáo sư, học giả uy tín khác cộng tác với ông: Gs. Bửu Cầm, dạy Sử và chữ Nôm tại Đại học Văn khoa, và một số nhà cựu học tên tuổi như Đỗ Văn Anh, Tạ Quang Phát, Phạm Huy Thúy …, tất cả đều có danh vọng.
Trong phần về "Bình Nam đồ," gồm 15 tấm địa đồ được in từ trang 138 đến trang 167 của sưu tập Hồng Đức bản đồ (Tủ sách Viện Khảo cổ--Sàigòn: Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962), có một câu về tác giả, "Đốc suất Đoan Quận công họa tiến"
督率端郡公畫進 (Đốc suất Đoan Quận công vẽ dâng lên). Trong “Lời giới thiệu,”
Gs. Trương Bửu Lâm giải thích rằng, "Đoan Quận công là tước của Nguyễn
Hoàng do vua Lê phong trước khi cho vào trấn đất Thuận Hóa năm 1558."
Điều ấy đúng với sử sách. Trong khá nhiều năm, học giới Việt Nam và
ngoại quốc cũng công nhận như thế. Nhưng nếu quả thật Nguyễn Hoàng đã
cho vẽ "Bình Nam đồ" để dâng lên triều đình vua Lê như lời giới thiệu
của Gs. Trương Bửu Lâm thì khi xem kỹ bộ bản đồ, ta sẽ thấy một số điều
không được hợp lý.
Trước hết, tên đầy đủ của bộ bản đồ
là "Giáp Ngọ niên bình Nam đồ" 甲午年平南圖 (bản đồ bình định phương Nam năm
Giáp Ngọ). Chúng ta cùng biết mỗi 60 năm lại có một năm Giáp Ngọ. Vậy
đây là cuộc “bình Nam” vào năm Giáp Ngọ nào? Nguyễn Hoàng sinh năm Ất
Dậu 1525. Năm Giáp Ngọ 1534 ông mới lên 9. Năm Giáp Ngọ 1594 ông 69
tuổi. Ông qua đời năm 1613, không sống tới Giáp Ngọ 1654. Vậy hai chữ
“Giáp Ngọ” trong danh hiệu bộ bản đồ chỉ có thể là Giáp Ngọ 1594.
Hàng chữ lớn: Giáp Ngọ niên bình Nam đồ.
Hai hàng chữ nhỏ phía dưới: Đốc suất Đoan Quận công họa tiến
Hàng chữ nhỏ bên trái: Tự Động Hải chí Cao Miên giới (Từ Đồng Hới tới biên giới Cao Miên)
Trong bộ bản đồ này có vẽ Lũy Thầy ("Đồng Hới lũy," trang 91 của Hồng Đức bản đồ). Lũy này chưa có trong thời Nguyễn
Hoàng. Phải đến năm Tân Mùi 1631, 18 năm sau khi Nguyễn Hoàng qua đời,
chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mới cho đắp theo kế hoạch của Đào Duy Từ.
Những địa danh như "phủ Thái Khang, phủ Diên Ninh," mãi đến đời chúa
Hiền Nguyễn Phúc Tần (năm Quý Tỵ 1653) mới có. Gs. Trương Bửu Lâm cho
rằng "Những bản đồ ấy có lẽ được thực hiện dưới thời chúa Hiền," nhưng "không hiểu vì sao mà trên trang đầu lại nói đến tước của Nguyễn Hoàng."
Khi xem kỹ, ta sẽ thấy một số địa
danh nữa cũng chưa có ở thời Nguyễn Hoàng. Ngoài ra, trong bản đồ có ghi
một "Đoan công miếu" (miếu thờ Đoan Quận công, về sau là Quốc công,
tước phong của Nguyễn Hoàng). Cũng có một “Thụỵ công mộ” (mộ của Thụy
Quận công, tước phong của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, con của Nguyễn
Hoàng, qua đời năm 1635). Làm sao trong bản đồ Nguyễn Hoàng vẽ để dâng
lên vua Lê năm 1594 có thể ghi ngôi miếu để thờ chính ông cùng ngôi mộ
của con ông, hơn 40 năm sau mới qua đời được?
Bản đồ khu vực Quảng Bình, với “Động hải lũy” (lũy Đồng Hới) ở các ô 8D, 8E
Một chi tiết đáng lưu ý nữa là năm Giáp Ngọ 1594 thì Nguyễn Hoàng không còn là "Đoan Quận công." Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, ông được vua Lê phong là Thái úy Đoan Quốc công từ năm trước, Quý Tỵ 1593. Quốc công cao hơn Quận công. Tại sao một Thái úy Đoan Quốc
công lại xưng là "Đốc suất Đoan Quận công"? Nguyễn Hoàng chưa bao giờ
có chức vụ nào mang ý nghĩa "Đốc suất." Thái úy là một chức quan rất cao
thời xưa, đứng đầu hàng võ, nhiều triều đại liệt vào hàng “Tam công.”
Về sau có triều đại cải danh là Đại Tư mã, cao hơn “Đốc suất” rất nhiều.
Theo Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục,
tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), Trấn thủ Nghệ An là Đoan Quận công Bùi Thế
Đạt báo về triều đình Đàng Ngoài những suy yếu đang xảy ra ở Đàng Trong
(Trương Phúc Loan chuyên quyền, triều chính rối ren, nhân tâm ly tán,
Tây Sơn nổi dậy ở Qui Nhơn ...) và "dâng sớ xin đi đánh." Chúa
Trịnh Sâm chấp thuận, cử "Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc làm Thống suất
Bình Nam Thượng tướng quân" và "Đoan Quận công Bùi Thế Đạt (đang giữ
chức Trấn thủ Nghệ An) kiêm thêm chức Đốc suất Bình Nam Đại tướng quân" "đi kinh lược trước."
Vậy vị "Đốc suất Đoan Quận công họa tiến" nhiều phần chính là Bùi Thế
Đạt. Khi cho vẽ bộ bản đồ để chuẩn bị cho việc cất quân vào "bình Nam"
năm Giáp Ngọ 1774, nhiều phần ông đã dựa theo một số bản đồ Đàng Trong
vốn có từ trước, chỉ ghi thêm những chi tiết liên quan tới quân sự: các
đồn lũy, số quân, chỗ đặt súng, chỗ đốt lửa báo hiệu (hỏa hiệu), chỗ neo
thuyền của thủy quân ... Đó là một số chi tiết chúng ta thấy xuất hiện
trong "Giáp Ngọ niên bình Nam đồ."
Người nhận ra điều ấy từ khá sớm là Tạ Chí Đại Trường. Trong Thần, người và đất Việt (Westminster,
CA : Văn Nghệ, 1989), anh nói lên lần thứ nhất chuyện không đồng ý với
Gs. Trương Bửu Lâm. Trong chú thích số 10 ở trang 214 của cuốn sách, anh
cho biết, "Đốc suất Đoan Quận công," người cho vẽ "Giáp Ngọ niên bình
Nam đồ,” chính là Bùi Thế Đạt chứ không phải Nguyễn Hoàng. Tôi có
cuốn sách của anh từ khá lâu, nhưng thú thật là đã không đọc kỹ các chú
thích. Chỉ sau khi bản "di cảo" của Tạ Chí Đại Trường được phổ biến,
mới xem lại và tìm thấy lời chú thích ấy.
Không thể phản bác ý kiến rất hợp lý
của Tạ Chí Đại Trường, tôi thử tìm xem vì sao hai vị giáo sư uyên bác
và khả kính của Đại học Văn khoa (các Gs. Trương Bửu Lâm và Bửu Cầm)
cũng như nhiều học giả uy tín khác, đã lầm lẫn.
Các giáo sư, học giả biên tập cuốn Hồng Đức bản đồ
năm 1962 có lý do để không biết rằng Bùi Thế Đạt cũng có tước hiệu
"Đoan Quận công." Một phần vì tước hiệu ấy đã được phong cho Nguyễn
Hoàng. Phần nữa vì Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Cương Mục đều không chép chuyện ấy. Các bản Toàn Thư được phổ biến chỉ chép tới năm Bính Thân 1656, đời vua Lê Thần tông. Cương Mục chỉ cho biết Bùi Thế Đạt là “Trấn thủ Nghệ An” chứ không ghi tước hiệu. Phủ biên tạp lục có thể đã không được đọc kỹ vì chỉ là “tạp lục,” chưa đạt tới địa vị của "chính sử."
Việc Bùi Thế Đạt có tước hiệu "Đoan Quận công" được ghi trong Đại Việt sử ký tục biên (cũng gọi là Bản kỷ tục biên hay Lê sử bản kỷ tục biên),
nhưng bộ sách ấy bị cấm lưu hành từ năm 1838, do một đạo dụ của vua
Minh Mạng. Khi xây dựng quốc học cho miền Nam Việt Nam sau 1954, nhiều
phần các trí thức, học giả của miền Nam chưa có đủ thời giờ nghĩ tới
việc phiên dịch bộ sách ấy. Trong hoàn cảnh như thế, việc chỉ nghĩ đến
Nguyễn Hoàng khi nghe nhắc tới tước hiệu "Đoan Quận công" là một thiếu
sót có thể hiểu được.
Khi cho in Hồng Đức bản đồ năm 1962, Gs. Trương Bửu Lâm đã viết những lời rất khiêm tốn: "Chúng tôi đã cố gắng ... nhưng vẫn không bao giờ quên là tác phẩm còn rất nhiều khuyết điểm hay lỗi lầm," "Mong các độc giả vui lòng chỉ dẫn trong những khuyết điểm cũng như sửa chữa những lầm lỗi." Thắc mắc do giáo sư nêu ra, "Những bản đồ ấy có lẽ được thực hiện dưới thời chúa Hiền," nhưng "không hiểu vì sao mà trên trang đầu lại nói đến tước của Nguyễn Hoàng," mãi 27 năm sau (1989) mới có người lên tiếng góp ý: cựu sinh viên Đại học Văn khoa Tạ Chí Đại Trường. Anh viết trong Thần, người, và đất Việt: Những
bản đồ ấy được thực hiện năm Giáp Ngọ 1774, sau khi chúa Hiền mất
(1687) gần 90 năm. Vị “Đoan Quận công họa tiến” không phải là Nguyễn
Hoàng (1525-1613) như vẫn được ngộ nhận mà là một người ra đời sau
Nguyễn Hoàng gần 200 năm: Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt (1704-1778). Anh
nhận xét rất tinh, và đã đọc sử sách thật kỹ.
Một số nhân vật trong học giới Tây phương như David Bulbeck và Li Tana (trong “Maps of Southern Vietnam, circa 1690, Giap Ngo nien binh Nam do,” được in trong Southern Vietnam under the Nguyen
[Singapore : Institute for Southeast Asian Studies, 1993]), hoặc Brian
A. Zottoli (trong bản luận án PhD nộp cho University of Michigan năm
2011, “Reconceptualizing southern Vietnamese history from the 15th to the 18th
century”) cũng bàn về “Bình Nam đồ và đưa ra nhiều suy đoán khác nhau
về niên đại nhưng chưa đi tới kết luận dứt khoát. Niên đại 1690 do David
Bulbeck và Li Tana đưa ra chỉ là năm Canh Ngọ chứ không phải Giáp Ngọ.
Dựa theo các nhà sưu tập và chú giải Hồng Đức bản đồ năm 1962, các vị vẫn nghĩ rằng "Đoan Quận công" là Nguyễn Hoàng chứ chưa biết tới Bùi Thế Đạt.
Trong mấy năm gần đây, học giới
trong nước đã biết tới vai trò của Bùi Thế Đạt. Trong bài về "Giáp Ngọ
niên bình Nam đồ" đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 109 (số 2-2014), tước hiệu "Đốc suất Đoan Quận công" đã được chú thích lại là "Bùi Thế Đạt." Số báo này phát hành sau cuốn Thần, người và đất Việt của Tạ Chí Đại Trường đúng 25 năm (2014-1989). Tạp chí điện tử Nghiên cứu sử địa An Giang cũng đăng một bài của Trần Hoàng Vũ, được lấy từ Tạp chí văn hóa - lịch sử An Giang
số 120 (tháng 3-2015) về “Giáp Ngọ niên bình Nam đồ.” Tác giả bài viết
cũng ghi nhận “bộ bản đồ này là tác phẩm của Đoan Quận công Bùi Thế
Đạt”:
https://sites.google.com/site/vhlsangiang/cac-bai-nghien-cuu/giapngonienbinhnamdovoilichsukhanhoangmiennam
Bài của Huỳnh Thị Anh Vân (Tạ Chí
Đại Trường nhớ sai là “Ánh Vân”), thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô
Huế, góp ý về bài “Giáp Ngọ niên bình Nam đồ”của David Bulbeck và Li
Tana nhắc tới ở trên (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 342 [Hà Nội : Viện
Sử Học, tháng 11, 2004], trang 70-76).
Tuy trễ đã hơn 20 năm, phát hiện của
Tạ Chí Đại Trường đã được trong và ngoài nước ghi nhận vì phát hiện ấy
rất đáng được ghi nhận.
Trần Huy Bích
(Tháng 4-2016)
(Tháng 4-2016)
NHƯ PHONG LÊ VĂN TIẾN
THƯƠNG TIẾC NHƯ PHONG LÊ VĂN TIẾN
2001-12-21
Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến mất vào ngày thứ Ba vừa qua, 18 tháng 12, lúc 9g30 tối tại bệnh-viện Fairfax ở bang Virginia, Hoa-kỳ. Ông ra đi để lại nhiều thương tiếc nơi các bạn bè và nhất là các đồng-nghiệp mà không ít người tự xem là đàn em của ông trong ngành báo tự do... Sinh ngày 1 tháng Hai năm 1923 tại Hà-nội, ông Lê Văn Tiến đã đi vào làng báo từ rất sớm khi còn làm sinh-viên ở Đại-học Hà-nội.
Những ngày sôi động dẫn đến Cách mạng năm 45 mà ở trong nước quen gọi là Cách mạng mùa Thu hay Cách mạng tháng Tám đã sớm làm cho anh sinh-viên Lê Văn Tiến say sưa đi vào ngành viết báo, một sự-nghiệp rất mới mẻ đối với thanh-niên thời bấy giờ, và lấy bút-hiệu là Như Phong. Ta không nên nhầm lẫn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến này với một nhà lý-luận văn-học ở miền Bắc cũng có tên là Như Phong mà tên thật là Nguyễn Đình Thạc, một người lớn tuổi hơn, cũng có hồi làm báo nhưng chủ-yếu là viết truyện ngắn và phê-bình văn-học. Bắt đầu viết cho những báo như Việt Nam Thời Báo và Tuần-báo Ngày Nay, ông chả mấy lúc trở nên một cây viết chuyên-nghiệp và có uy-tín về các đảng phái Việt Nam, nhất là trong thời tranh tối tranh sáng đấu tranh chống Pháp, chống Nhật và sau đó bị Việt-minh sát hại. Những kinh-nghiệm này của ông, do ông biết quá nhiều, đã đưa ông vào nhà tù cộng-sản ở Hỏa Lò từ năm 1946 cùng với nhiều phần-tử Quốc gia mà sau đó đã bị thủ tiêu, song cũng nhờ những kinh-nghiệm đó mà về sau, vào thập niên 60 ông đã viết nên bộ tiểu-thuyết Khói Sóng được rất nhiều người say sưa hâm mộ.
Nhưng cũng kinh-nghiệm này đưa ông đến quyết-định không làm chính-trị, nhất là chính-trị đảng phái, mà chỉ chú tâm vào ngành báo để giúp cho người dân hiểu biết hơn về đất nước và thế-giới, ngõ hầu nâng cao dân-trí trong một thời-đại mà có rất nhiều biến-cố xảy ra trên thế-giới cũng như ở nước nhà. Một ý-hướng tưởng đơn giản mà lại vẫn đem nhiều nguy nan sóng gió đến cho cá-nhân ông. Sau khi di cư vào Nam năm 1954, ông cùng một số bạn sáng-lập tờ Tự Do mà có lúc được coi là uy-tín rất lớn ở miền Nam, một tờ báo độc-lập trong một nền dân-chủ hãy còn non yếu là nền Đệ nhất Cộng-hòa dưới thời Tổng-thống Ngô Đình Diệm, vào một thời mà luật báo chí còn rất khắt khe với cái kéo kiểm duyệt đôi khi cắt trắng từng mảng một trong tờ báo. Mặc dầu vậy, lập-trường đứng đắn của tờ Tự Do đã thu hút được nhiều tài-năng nổi danh một thời như giáo-sư kinh-tế-học ở Thụy-sĩ về, viết dưới bút-hiệu Từ Chung. Chính những bài sắc bén của Từ Chung đã dẫn ông đến cái chết do đặc-công của Cộng-sản bắn ở ngay cửa tòa soạn tờ báo.
Mặc dầu vậy, ông Như Phong Lê Văn Tiến cũng không sờn lòng. Ông vẫn mạnh dạn tiến tới và những bài độc-lập của tờ Tự Do, phản-đối chính-sách của nhà Ngô đối với Phật-giáo miền Trung, lại đưa ông chủ-nhiệm vào tù một thời-gian ngắn ngủi nữa. Người ta phải thả ông ra vì đến giai-đoạn này, nghĩa là đầu thập niên 60, thì ông Như Phong Lê Văn Tiến đã trở thành một tên tuổi lớn trên diễn-đàn báo chí thế-giới. Những bài ông viết về giai-cấp trí-thức ở miền Bắc và phong trào Nhân-văn Giai-phẩm đã được đăng ở những báo nghiên cứu hàng đầu như The China Quarterly ở Anh hay The Forum World Features. Viết những bài nghiên cứu này, ông đã được sự tiếp tay tận tình của G.S. Patrick J. Honey, một chuyên-viên thượng-thặng của người Anh về Việt Nam, giám-đốc ban Việt-ngữ ở BBC và cũng là người dịch cho một số bài của ông. Tình bạn của ông P.J. Honey mà thường được gọi thân mật là ỘPaddy HoneyỢ sẽ là một tình bạn lâu bền mà ông Như Phong Lê Văn Tiến giữ được đến cuối đời.
Sự trung hậu của ông Như Phong với bạn bè cũng là một đặc-tính của con người thật nho nhã dù như rất sắc bén nơi ông. Ông có những tình yêu lớn song ông cũng rất phân minh trong sự yêu ghét. Là một nhà báo trung thực, ông không bao giờ chấp nhận được sự giả dối và ông dành cho những người bẻ cong ngòi bút của mình để nịnh bợ hay phục-vụ một đảng phái hay người khác một sự khinh bỉ không che giấu. Nhưng cũng vì thế mà ông lại được sự kính nể mà người đời gần như chỉ dành cho một con người thánh thiện. Sau ngày 30-4 năm 1975, ông bị chính-quyền CS bắt vì cho là gián-điệp. Dù như bạn bè quốc-tế lên tiếng và nhiều tổ-chức quốc-tế về nhân-quyền can thiệp cho ông, ông vẫn bị giam giữ 12 năm từ 1976 đến 1988. Thời-gian này, ông dùng yoga để luyện cho thân-thể vẫn giữ được sự cường tráng và thỉnh thoảng lại nhịn ăn, lần lâu nhất tới 47 ngày, làm cho những người cai tù Cộng-sản rất lo lắng.
Thả ra được 2 năm, ông lại bị bắt lại vì bị nghi ngờ là có chân trong tổ-chức Diễn Đàn Tự Do của G.S. Đoàn Viết Hoạt. Cộng-sản giữ ông thêm hai năm nữa để tổng-cộng, ông bị 14 năm tù mà không hề bao giờ được đưa ra xét xử. Cuối cùng, chính-quyền ở quê nhà cũng đành phải thả ông ra dưới áp-lực bền bỉ của nhiều quốc gia và những tổ-chức như Amnesty International, Hội Ân-xá Quốc-tế, và Human Rights Watch Asia, tức Tổ-chức theo dõi về Nhân-quyền ở Á-châu.
Chính tổ-chức sau này vào năm 1993 đã tặng ông giải thưởng về Tự do phát biểu tư tưởng, một giải thưởng cao quý không riêng gì đối với quá-trình đấu tranh cá-nhân của ông mà còn vì ông tiếp-tục tranh đấu cho những tù-nhân của lương-tâm khác ở Việt Nam. Về mặt nhân-quyền, ông không ngừng tranh đấu cho bạn bè ông và những thành-phần dân-chủ ở trong nước ngay cả sau khi được rời Việt Nam để sang định cư ở Hoa-kỳ. Đặt chân đến Mỹ, ông được mời cộng-tác ngay tức khắc với những tờ như Asian Wall Street Journal, tức Tờ Phố Uôn ấn-bản châu Á, và International Herald Tribune ấn-bản ở Paris. Ông đã có nhiều bài đặc-sắc tiên-đoán hay phân-tích nhiều biến chuyển quan trọng ở trong nước. Từ năm 1997, ông cũng đã nhận lời cộng-tác với Đài Á-châu Tự do cho đến ngày ông nằm xuống. Trong thời-gian này, ông đã có nhiều bài nhận-định hay phân-tích sâu sắc về tình-hình trong nước, cũng như phối-hợp một số chương-trình đặc-biệt về lịch-sử Việt Nam hiện-đại, như loạt bài về khởi nghĩa Yên-báy và cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh năm 1930-31, hoặc loạt bài về Cách mạng Việt Nam năm 1945 nhìn từ mọi khía cạnh, quốc gia cũng như Cộng-sản, trong Nam cũng như ngoài Bắc.
Sự hiểu biết của ông về phong trào Cộng-sản Việt Nam đã giúp cho Đài có những nhận-định mà thính-giả cho là vô cùng chính-xác. Sở dĩ vậy là vì, sau năm 1975, ông đã có dịp ra Hà-nội gặp nhiều người có công lao với phong trào CSVN như các ông Lê Giản, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, v.v... để bổ túc thêm sự hiểu biết do nghiên cứu lâu năm đem lại. Trong đời tư, nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến thích rất nhiều thứ, đặc-biệt hoa lan và nước trà. Song về đường tình-cảm, ông chọn ở độc-thân để khỏi liên-lụy đến người. Ngược lại, là bạn của nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, sau khi Hoàng Đạo sang Trung-quốc, ông đã ở lại săn sóc chu đáo cho những người con của bạn cũng như một lòng tiếp đỡ bà Long sau khi Hoàng Đạo mất.
Những năm cuối đời, ông lại được cái may mắn là có sự trông nom của một người nghĩa-nữ để khi ra đi được an ủi là có sự thương mến của mọi người. Ông nằm xuống, ở tuổi 78, để lại nhiều tác-phẩm dở dang chứng tỏ là ở quá tuổi Ộthất thập cổ lai hyỢ ông vẫn đầy lạc-quan và tin rằng ông sẽ có đủ thời giờ hoàn-tất. Tâm Việt
© 2004 Radio Free Asia
http://www.rfa.org/vietnamese/features/72455-20011221.html
Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến
GS. TRẦN HUY BICH
VÀI CHI TIẾT CÁ NHÂN
Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến tên thật là Nguyễn Tân Tiến. Trên giấy tờ, nhân vật mang danh hiệu Lê Văn Tiến sinh 1 tháng 2 năm 1923 tại Nam Định. Đây không phải là ngày sinh và nơi sinh thật của ông. Theo ông Nguyễn Ngọc Ấn, người em ít tuổi nhất trong gia đình, song thân các ông chưa sống ở Nam Định bao giờ: nhà báo Như Phong và tất cả các em sinh ra ở Hà Nội. Ông sinh cuối năm 1922, theo âm lịch là năm Nhâm Tuất.
Ông quê ở Từ Châu, gần thị xã Đồng Quan, tỉnh Hà Đông, nhưng gia đình lên sống ở Hà Nội từ những năm đầu của thập niên 1920, trước khi ông ra đời.
GIA ĐÌNH
Ông là con thứ tư trong một gia đình gồm 7 anh em trai. Ba người anh trước ông bị Cộng sản sát hại trong những năm sôi động 1945-1946:
1. Anh trưởng Nguyễn Công Chỉnh: chuyên viên hóa học, trí thức Công giáo, bị Cộng sản hạ sát khi họ tấn công vào nhà thờ Từ Châu năm 1945.
2. Anh thứ hai Nguyễn Huy Tuyết: cựu sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật, hoạt động trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Ông là một trong những họa sĩ đầu tiên vẽ tranh Công giáo với sắc thái Việt Nam (Đức Mẹ Maria mặc áo tứ thân ...). Ông cũng là sáng lập viên và cây viết chủ lực của tờ báo Hồn Công giáo. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối năm 1946, ông bị Cộng sản bắt giữ và thủ tiêu.
3. Anh thứ ba Nguyễn Quỳnh Giao: tham dự trường lục quân Yên Bái, bị Cộng sản phục kích, sát hại trên đường di tản sang Trung Hoa cuối năm 1946.
4. Nguyễn Tân Tiến, tức nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến.
Sau khi sinh ra ông không bao lâu, thân mẫu ông qua đời. Ít năm sau, thân phụ ông tục huyền và ông có thêm ba người em khác mẹ:
1. Nguyễn Tấn Bình, sinh năm 1929, kém nhà báo Như Phong 7 tuổi, đã qua đời.
2. Nguyễn Tân An, sinh năm 1932.
3. Nguyễn Ngọc Ấn, sinh năm 1934.
NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TIÊN (1943-1954)
Chưa rõ ông bắt đầu dùng danh hiệu Lê Văn Tiến từ thời điểm nào. Trong không khí chính trị sôi động ở Việt Nam trong thập niên 1940, sự kiện một thanh niên quan tâm đến đất nước không xuất hiện dưới tên thật mà dùng một lý lịch khác là một chuyện khá thông thường, nhất là với trường hợp một người có ba anh ruột bị Cộng sản hạ sát như trường hợp của ông.
Danh hiệu “Tiến” đã đưa tới bút hiệu “Như Phong” do một câu trong binh thư: “Tiến như phong, chỉ như sơn” (tiến tới tựa như gió, dừng lại tựa như núi). Nhiều người quen biết ông đã nêu nhận xét: vừa năng động vừa thanh thoát, phóng khoáng, ông quả có đặc tính “như gió.” Nhưng với niềm tự tin mạnh mẽ và thái độ ung dung, tự tại, ông cũng có cốt cách “như núi” nữa.
Ông bắt đầu tham gia các hoạt động mang tính cách thông tin, văn hóa từ tháng 9 năm 1943 khi ông 21 tuổi, làm việc cho cơ sở xuất bản Đời Nay do Tự Lực Văn Đoàn thành lập. Sau đó:
-- Tháng 4 năm 1945: ông làm phóng viên cho tuần báo Ngày Nay (bộ mới) do Bác sĩ Nguyễn Tường Bách làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút;
-- Tháng 6 năm 1945: ông làm phóng viên chính cho nhật báo Việt Nam Thời Báo do ông Nguyễn Trọng Trạc làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút.
Theo nhiều người biết ông từ lâu, trong các nhân vật của Tự Lực Văn Đoàn, ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long sâu đậm hơn cả. Ông từng được coi như một thư ký riêng, một người em tinh thần của nhà văn kiêm nhà lập thuyết này.
Tháng 12 năm 1945, ông bị nhà cầm quyền Việt Minh bắt, giam tại Nha Công an ở Hà Nội. Cùng bị bắt với ông có con trai nhà văn Hoàng Đạo là ông Nguyễn Tường Ánh, khi ấy mới 11 tuổi. Bị bắt sau nhưng bị giam cùng phòng với ông có ông Nguyễn Ngọc Linh, sau là Tổng Giám đốc Thông tin miền Nam Việt Nam, khi ấy mới được 15 tuổi. Những ngày bị giam chung này đã để lại nơi ông Nguyễn Ngọc Linh nhiều ấn tượng thật tốt đẹp về ông Như Phong (xin xem bài của ông Linh trong Tuyển tập này) .
Theo nhiều thân hữu biết ông từ lâu, chứng kiến những tàn sát, tương tranh giữa các đảng phái, nhất là giữa hai phe quốc gia – cộng sản trong những năm 1945-1946, ông quyết định sẽ không hoạt động chính trị, nhất là chính trị mang tính cách đảng phái. Ông chuyên tâm vào thông tin, báo chí để giúp người dân hiểu rõ hơn về đất nước và thế giới, nhằm mục đích nâng cao dân trí trong một thời đại nhiều biến cố đang xảy ra ở khắp nơi. Với tôn chỉ “thông tin phải trung thực,” ông chủ trương loan báo sự thật, và cho rằng việc nhìn thấy sự thật sẽ khiến mỗi cá nhân, đoàn thể ... cũng như cả quốc gia, xã hội có thể thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Việt Pháp (1947-1949), ông tản cư về Phát Diệm, giúp tổ chức tờ báo Tiếng Kêu của giáo khu Phát Diệm, do Linh mục Đoàn Độc Thư làm chủ nhiệm. Từ năm 1950, ông lên Hà nội, làm Trưởng ban Biên tập của Sở Thông tin Bắc Việt, do ông Nguyễn Trọng Trạc làm Giám đốc. Sau khi đất nước chia đôi năm 1954 ông vào Nam. Nhiệm vụ đầu tiên là Biên tập viên, làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã ở Sàigòn.
SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1954-1963
A. Nhật báo Tự Do
Tháng 11 năm 1954, cùng một số văn nghệ sĩ di cư tên tuổi, ông đứng tên khai sinh nhật báo Tự Do ở Sàigòn. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong một cuộc phỏng vấn tại Austin, Texas tháng 6 năm 2012, sau khi di cư vào Nam, ông cùng một số bạn văn (các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng …) đã muốn dựng nên một tờ nhật báo nhằm mục đích giúp chính quyền miền Nam xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, không chấp nhận chủ thuyết cùng chế độ Cộng sản. Để xây dựng một xã hội dân chủ, các ông chủ trương “cộng tác, nhưng độc lập đối với chính quyền.” Để có phương tiện lập nên tờ báo, các ông nói chuyện với một người bạn ngoại quốc là Joseph Buttinger (quen biết từ Hà Nội, trước khi di cư), khi ông này đang ở Sàigòn trong tư cách Phó Giám đốc của cơ quan thiện nguyện IRC (International Rescue Committee), nhằm mục đích nghiên cứu việc yểm trợ cuộc định cư của gần một triệu người Việt lìa miền Bắc vào Nam lánh chế độ Cộng sản (Bản thân Joseph Buttinger cũng là một trí thức tị nạn khi nước Áo của ông bị Đức Quốc xã xâm lăng năm 1938. Tổ chức IRC mà ông góp công thành lập và phát triển đã giúp những người dân Âu châu trong những năm loạn lạc của Đệ Nhị thế chiến và ngay sau đó rất nhiều).
Theo đề nghị của Joseph Buttinger, tổ chức IRC quyết định trợ giúp nhóm trí thức di cư (do các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan làm đại diện) một ngân khoản bốn triệu đồng bạc Việt Nam, nhưng chỉ trao ngay một nửa năm 1954, để thành lập một nhật báo lấy tên là Tự Do, nhằm mục đích làm “tiếng nói của người Việt đi tìm tự do,” và cũng để làm phương tiện sinh sống cho một số trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo … vào Nam lánh Cộng sản năm 1954. Với một ngân khoản lớn như thế, IRC không thể trao trực tiếp cho một nhóm tư nhân mà phải qua chính phủ Việt Nam. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong buổi phỏng vấn ấy, số tiền hai triệu đồng được IRC trao cho chính phủ Nam Việt Nam (do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo), và được đưa vào một trương mục đặc biệt dành cho nhật báo Tự Do.
Trong giai đoạn đầu, liên lạc giữa IRC, chính phủ Việt Nam, và nhóm trí thức xây dựng tờ nhật báo Tự Do tiến triển một cách tốt đẹp. Nhà văn Mặc Đỗ lúc ấy làm Đổng lý Văn phòng Bộ Thông tin, rất tương đắc với vị Bộ trưởng, Bác sĩ Bùi Kiến Tín. Bác sĩ Tín rất được sự tín nhiệm của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Kế hoạch thành lập báo Tự Do với ngân khoản đầu tiên từ IRC chuyển qua chính phủ Việt Nam tới nhóm khởi xướng được đồng thuận một cách nhanh chóng và dễ dàng. Giấy phép xuất bản báo Tự Do do Đổng lý Văn phòng Mặc Đỗ soạn thảo, được Bộ trưởng Bùi Kiến Tín ký một cách mau lẹ.
Vì đang là công chức của chính phủ, các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng không tiện đứng tên làm Chủ nhiệm. Các vị tìm được một nhà văn độc lập vừa di cư tới Sàigòn: nhà văn Tam Lang Vũ Đình Chí. Tờ báo cần một Thư ký Tòa soạn và một Quản lý làm việc tại tòa báo toàn thời gian. Hai lựa chọn thích hợp nhất là các ông Như Phong trong chức vụ Thư ký Tòa soạn và Mặc Thu (Lưu Đức Sinh) trong chức vụ Quản lý (nhà báo Như Phong xin từ nhiệm tại Việt Nam Thông tấn xã để nhận nhiệm vụ mới này). Tờ báo cần sự cộng tác của một văn/thi sĩ được nhiều người biết tới và đang sáng tác mạnh. Các vị tìm được nhà thơ Đinh Hùng. Vì thế trên trang nhất, dưới tên báo Tự Do, không ghi danh hiệu của Chủ nhiệm, Chủ bút như các báo khác. Dưới hàng chữ “Tiếng nói của người Việt tự do” là danh hiệu năm người trong nhóm chủ trương: Tam Lang, Mặc Đỗ, Đinh Hùng, Như Phong, Mặc Thu.
Theo nhà văn Mặc Đỗ, hầu hết các bài xã luận của Tự Do trong giai đoạn đầu (mục “Lập trường”) đã do ông hay các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng thay nhau viết (chỉ ký: Tự Do). Đôi khi nhà văn lão thành Tam Lang đóng góp một vài bài. Là một tờ báo nhằm mục đích phục vụ những người di cư từ miền Bắc, Tự Do có một mục đặc biệt, “Sinh hoạt của đồng bào tị nạn,” với những tin canh tác, định cư…
Có mục “Tin Miền Bắc,” cung cấp tin từ thế giới Cộng sản, do nhà báo Như Phong phụ trách dưới bút hiệu Cô Thần. Để giúp dân di cư làm quen với miền đất mới, trên Tự Do có mục “Sàigòn muôn mặt” do nhà văn Tam Lang phụ trách, và mục “Sàigòn cũ và mới,” phóng sự điều tra, khảo cứu do nhà văn Văn Quang phụ trách. Nhà thơ Đinh Hùng giúp tờ báo phong phú và khởi sắc với mục thơ hài hước “Đàn ngang cung” (giai đoạn đầu) dưới bút hiệu Thần Đăng, và những truyện dài lịch sử “Người đao phủ thành Đại La,” “Kỳ nữ gò Ôn khâu” dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Các nhà văn Đỗ Thúc Vịnh và Tchya Đái Đức Tuấn (dưới bút hiệu Mai Nguyệt) phụ trách mục “Nói hay đừng,” được rất nhiều người theo dõi. Trên Tự Do những năm đầu còn có những truyện dài “Luyện máu” của Hi Di (bút hiệu của nhà văn Bùi Xuân Uyên), “Tình sơn nữ” của TchyA, “Vực thẳm” của Tạ Quang Khôi.
Sang giai đoạn sau, nhà thơ Đinh Hùng phải dành thêm thời giờ cho các chương trình văn nghệ tại Đài phát thanh Sàigòn, người phụ trách “Đàn ngang cung” và thỉnh thoảng tiếp tay trong mục “Nói hay đừng” là nhà thơ Hà Thượng Nhân. Một độc giả mến chuộng Tự Do gửi bài đóng góp cho “Đàn ngang cung” một cách khá thường xuyên là nhà giáo Bùi Văn Bảo (dưới bút hiệu Bảo Vân).
Tự Do có ảnh hưởng rất đáng kể trong sinh hoạt báo chí của miền Nam trong giai đoạn 1954-1963. Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ngay từ khi ông còn ở Trung học, cả gia đình ông đã là độc giả trung thành của nhật báo Tự Do. Nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa nêu nhận xét: “Như Phong đã thổi vào làng báo miền Nam một không khí mới lạ ... Cùng với TchyA Đái Đức Tuấn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hà Thượng Nhân Phạm Xuân Ninh, Đỗ Thúc Vịnh ..., Như Phong Lê Văn Tiến đã tạo ra một phong thái làm báo đầy trí tuệ và nhiệt tình.”
Tuy chung mục đích xây dựng một miền Nam ổn định và thịnh vượng để chuẩn bị đối phó với những đe dọa từ chế độ Cộng sản miền Bắc, mối liên hệ giữa nhóm chủ trương Tự Do với chính quyền càng ngày càng khó khăn, nhất là sau khi Bác sĩ Bùi Kiến Tín không còn là Bộ trưởng Thông Tin và nhà văn Mặc Đỗ không còn là Đổng lý Văn phòng của bộ ấy (năm 1955). Trong khi Tự Do muốn xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những công dân có tinh thần trách nhiệm có quyền phê bình những sai trái của chính phủ nhằm mục đích giúp chính thể trở nên tốt đẹp hơn, thì chính quyền muốn giới hạn tự do của báo chí: các báo phải được kiểm duyệt chặt chẽ. Nhiều bài xã luận hoặc “Nói hay đừng,” “Đàn ngang cung,” cùng nhiều bức hí họa trên Tự Do đã khiến nhiều vị trong chính quyền, kể cả một nữ nhân vật trong đại gia đình của vị nguyên thủ quốc gia phật ý nặng nề. Nhiều sự kiện đưa ra làm chứng cớ để phê phán một số hành động lạm dụng quyền thế (cả trong giới tu sĩ Công giáo) bị kiểm duyệt cắt bỏ.
Dự liệu trường hợp nhật báo Tự Do có thể bị thu hồi giấy phép, giữa năm 1955, nhóm chủ trương xin xuất bản thêm tuần báo Văn Nghệ Tự Do. Nhà văn Mặc Thu Lưu Đức Sinh đứng tên Chủ nhiệm và nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đứng tên Tổng Thư ký tòa soạn cho tờ tuần báo này (số đầu phát hành ngày 6 tháng 7 năm 1955).
Hai tờ báo phát hành song song được hơn 3 tháng thì một sự kiện xảy ra khiến cả Tự Do lẫn Văn Nghệ Tự Do đều bị tịch thu và rút giấy phép. Ba nhân vật quan trọng của nhóm (hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng) bị bắt giam và truy tố ra tòa.
Nhân cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến của miền Nam Việt Nam năm 1956, cả nhật báo Tự Do lẫn tuần báo Văn Nghệ Tự Do đều đăng nhiều bài về trách nhiệm các đại diện dân cử, chẳng hạn bài “Đắc cử chưa chắc đã là Nghị” trên Văn Nghệ Tự Do số 11. Bài này, cùng một số bài nêu lên những thắc mắc của người dân trước những điểm thiếu công bằng và hợp lý trong giai đoạn tranh cử, cùng những điểm mờ ám trong một vài trường hợp đắc cử, khiến nhà cầm quyền trút tất cả thịnh nộ lên nhóm Tự Do.
2 giờ khuya ngày Thứ bảy, 28 tháng 4 năm 1956, Bộ Thông Tin dùng điện thoại ra lệnh cho nhà phát hành Thống Nhất đình chỉ phát hành tất cả các tờ Văn Nghệ Tự Do số 13, đã nạp bản và đem tới nhà phát hành trước đó. Ít hôm sau, ông Trần Văn Lắm, Chủ tịch Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng Hòa, ông Lê Khải Trạch, Đổng lý Văn phòng Bộ Thông Tin, và ông Tỉnh trưởng Gia định, với danh nghĩa Chủ tịch Tố Cộng toàn quốc, cùng đứng tên khởi tố nhóm Tự Do với hai tội danh trầm trọng:
1) Bình luận xuyên tạc, có lợi cho những hành động phản quốc gia,
2) Phá rối cuộc trị an.
Nhà văn Mặc Thu (trong cương vị Chủ nhiệm Văn Nghệ Tự Do), nhà văn Hiếu Chân (trong cương vị Tổng Thư ký) và họa sĩ Phạm Tăng bị bắt, giam ở khám Catinat, chờ ngày ra tòa. Nhà báo Như Phong là nhân vật duy nhất trong nhóm chủ chốt chưa bị bắt trong cơn bão tố này. Ông vừa lo theo dõi tin các thân hữu bị giam hầu tiếp tay với gia đình họ trong việc thăm nuôi, vừa vận động dư luận để chống lại những lời cáo buộc.
Sự kiện Tự Do, tờ báo được coi như tiếng nói của một số trí thức miền Bắc không chấp nhận chế độ Cộng sản nên đã di cư vào Nam để tiếp tay xây dựng một thể chế dân chủ, bị chính quyền ghép vào tội “có những hành động phản quốc gia” khiến dư luận chấn động. Trong số ra ngày Chủ nhật 1 và Thứ hai 2 tháng 7 năm 1956, báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các đưa tin trên trang nhất với hàng tựa chạy 8 cột (xin xem phóng ảnh phía sau).
Không tán thành thái độ đàn áp một cách quá đáng của chính quyền, ba luật gia danh tiếng của miền Nam lúc ấy, các luật sư Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Huyền và Đỗ Mạnh Quát cùng nhận lời bào chữa cho Tự Do không lấy lệ phí. Dựa vào nhiều khiếm khuyết trong thủ tục tố tụng cũng như một số mâu thuẫn trong bản cáo trạng, luật sư Vũ Văn Huyền xin cho các “can phạm” được “tại ngoại hậu cứu” (tạm trả tự do). Ông Chánh án Nguyễn Huy Đẩu, một trí thức và luật gia có uy tín, cũng dành nhiều thiện cảm cho Tự Do. Nhờ thế, sau phiên xử ngày 2 tháng 7 năm 1956, trước các tội danh “bình luận xuyên tạc” và “phản quốc gia,” Tự Do được trắng án, các ông Mặc Thu, Hiếu Chân, Phạm Tăng không phải trở lại nhà giam. Tuy thế, dưới áp lực của chính quyền, nhóm Tự Do vẫn bị ghép vào tội “bình luận có hại tới việc trị an.”
Theo họa sĩ Phạm Tăng, các nhà lãnh đạo miền Nam năm 1956 cũng biết rằng Tự Do được nhiều thiện cảm của dư luận, và ý thức được rằng nếu đóng cửa hẳn Tự Do, uy tín của chính phủ sẽ bị tổn hại. Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống, đứng ra dàn xếp. Tuần báo Văn Nghệ Tự Do bị rút hẳn giấy phép nhưng nhật báo Tự Do được tái xuất bản với điều kiện phải để nhà giáo Phạm Việt Tuyền, một Tham vụ chuyên môn tại Phủ Tổng thống, có liên hệ thân với bác sĩ Tuyến, đứng tên Chủ nhiệm. Vai trò Quản lý cũng phải giao lại cho ông Kiều Văn Lân, lúc ấy là một sĩ quan an ninh tại sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống. Nhà báo Như Phong tiếp tục giữ vai trò Tổng Thư ký toà soạn
Theo nhiều độc giả, sau khi tái xuất bản, Tự Do không còn được sinh động như trước. Tuy vậy, tờ báo vẫn rất được chú ý nhờ một số truyện dài đăng từng kỳ có giá trị: “Tị Bái” của Nguyễn Hoạt và “Khói sóng” của Lý Thắng (bút hiệu chỉ dành cho truyện này của nhà báo Như Phong). Tự Do cũng được nhiều người tìm đọc vì loạt bài phóng sự “Thăm dân cho biết sự tình” của ký giả miền Nam Vũ Bình.
Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, đầu năm 1959, bác sĩ Trần Kim Tuyến mời nhóm lãnh đạo Tự Do tới ăn cơm tại nhà riêng. Trước khi vào bữa ăn, Tổng Thư ký Như Phong hỏi vị đại diện chính quyền: “Chúng ta ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì nước Việt Nam hay vô điều kiện?” Sau khi được trả lời, “Vì nước Việt Nam,” nhà báo Như Phong nói ngay: “Như thế chúng tôi NÊN và CẦN công kích chính phủ để mong chính phủ ngày một khá hơn, phục vụ đất nước ngày một hiệu quả hơn.” Sau đó, nhiều lần trong bữa ăn, ông vạch ra những điểm mà ông cho rằng chính phủ sai lầm. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, bác sĩ Tuyến “ngồi gật gù, trầm ngâm không nói.”
Cũng theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, “Linh hồn của Tự Do là Như Phong. Anh là người trẻ nhất, năng nổ nhất, làm việc có kế hoạch nhất.” Chính Tổng Thư ký Như Phong đã khám phá ra và đào luyện nên ký giả Vũ Bình. Nhà văn Bùi Bảo Trúc cũng cho biết ông bắt đầu sự nghiệp cầm bút từ những “Lá thư Tân Tây Lan” viết theo sự gợi ý và hướng dẫn của nhà báo Như Phong. “Và chính Như Phong đã đón bài của tôi gửi về, sửa chữa và cho đăng hàng tuần trong số Chủ nhật của báo Tự Do.” Gần 40 năm sau, tháng 12 năm 2001, nhà văn Bùi Bảo Trúc còn viết: “Mỗi ngày, mở máy computer ra để viết, bao giờ tôi cũng nhớ đến người bạn vong niên này.”
B. Các hoạt động khác
1. Cơ sở xuất bản Tự Do
Năm 1959, nhà báo Như Phong cùng các thân hữu khai sinh thêm Cơ sở Xuất bản Tự Do. Không nhiều vốn và không nhằm mục đích thương mại, cơ sở Tự Do không xuất bản nhiều sách (gần 30 nhan sách trong hơn 4 năm hoạt động [1959-1963], hay trung bình 7 nhan sách mỗi năm). Tuy nhiên, những tác phẩm chọn in đều là những tác phẩm có giá trị, chẳng hạn Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu qua bản dịch của Cử nhân Hán học Ngô Mạnh Nghinh, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, qua bản dịch của Ngô Tất Tố, Sàigòn năm xưa của Vương Hồng Sển ... Cơ sở Tự Do cũng tái bản ba tác phẩm quan trọng của nhà văn Hoàng Đạo: Bùn lầy nước đọng, Mười điều tâm niệm, Trước vành móng ngựa. Tự Do cũng xuất bản nhằm mục đích giới thiệu nhiều tác phẩm giá trị của những nhà văn có tài nhưng vẫn còn được coi là “mới” cho tới lúc đó: Mưa đêm cuối năm của Võ Phiến (1958), Chị em Hải của Nguyễn Đình Toàn (1961), Thử lửa của Thảo Trường (1962)... Tự Do cũng giới thiệu hai tác phẩm quan trọng của một nhà văn trong nhóm: Dì Mơ (1959) và Mùa ảo ảnh (1962) của Đỗ Thúc Vịnh, và một bản dịch mới cho bộ Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, bản dịch của Nguyễn Hoạt (1959).
Một điều đáng lưu ý – và cũng thật đáng tiếc – là Tự Do không xuất bản một tác phẩm nào của nhân vật sáng lập Lý Thắng, kể cả truyện dài “Khói sóng,” mặc dầu truyện ấy được nhiều người say mê theo dõi.
2. Văn Bút Việt Nam
Năm 1957, Văn Bút Việt Nam được thành lập như một phân bộ của Văn Bút Quốc tế (PEN Club International). Nhà báo Như Phong đã tích cực đóng góp trong cuộc vận động tiến tới sự thành lập này, trở nên một “sáng lập hội viên,” và được bầu làm Tổng Thư ký đầu tiên của Văn Bút Việt Nam (Chủ tịch đầu tiên là văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam). Nhờ sự hoạt động tích cực của Tổng Thư ký Như Phong, Văn Bút Việt Nam kịp hoàn tất những thủ tục cần thiết và ngay năm ấy, cử đại diện tham dự Đại hội Văn Bút Quốc tế tại Tokyo. Đây là lần đầu tiên văn giới Việt Nam góp mặt cùng văn hữu thế giới.
3. Liên hệ với học giới và báo giới các nước
Song song với các hoạt động văn hóa, thông tin trong nước, nhà báo Như Phong còn duy trì mối liên hệ mật thiết với nhiều chuyên gia về Việt Nam của học giới và báo giới quốc tế. Ông có giao tình thân với học giả lỗi lạc Sir Patrick J. Honey của Anh quốc, tác giả uyên bác Robert Shaplen, và nhà báo xuất sắc Sol Sanders cùng của Hoa kỳ. Theo nhà biên khảo Trần Đông Phong, người có liên hệ thân với Bác sĩ Phan Huy Quát và ông Như Phong từ giữa thập niên 1960, rất nhiều chi tiết trong cuốn The Lost Revolution của Robert Shaplen (New York : Harper & Row, 1965) đã do ông Như Phong cung cấp. Ông cũng viết một số tài liệu biên khảo có giá trị bằng Anh ngữ, điển hình là một bài tường thuật và phân tích tình trạng trí thức, văn nghệ sĩ miền Bắc từ 1954 cho đến vụ Nhân văn, Giai phẩm cuối thập niên 1950 (“Intellectuals, writers and artists”). Bài này đã được đăng trên chuyên san nghiên cứu The China Quarterly năm 1962, và về sau in lại với đôi chút sửa chữa trong cuốn North Vietnam Today do học giả Patrick J. Honey làm chủ biên (New York : Praeger, 1962).
Mâu thuẫn giữa chính quyền và Tự Do nặng thêm trong biến cố Phật giáo mùa Hè năm 1963, nhất là sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu và văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử. Tháng 8 năm 1963 Tự Do bị đóng cửa và truy tố. Tổng Thư ký Như Phong bị bắt, tòa soạn bị niêm phong.
Từ tháng 8 tới tháng 11 năm 1963, nhà báo Như Phong bị giam tại Nha An ninh Quân đội, rồi Phòng Nhì Biệt khu Thủ đô, sau cùng là Tổng nha Cảnh sát. Chỉ tới sáng ngày 2 tháng 11-1963, ông mới được trả tự do.
SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1963-1975
1) Liên hệ với giới tướng lãnh và các chính khách
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11-1963, nhà báo Như Phong được mời tham dự Hội Đồng Nhân Sĩ, một tập hợp gồm khoảng 60 nhân sĩ, trí thức, chính khách của miền Nam Việt Nam, được triệu tập để giúp ý kiến cho chính phủ. Trong các tranh chấp giữa các tướng lãnh với những đảo chánh, phản đảo chánh, chỉnh lý ... trong suốt năm 1964, uy tín ông tăng thêm. Do kiến thức vững chắc về những vấn đề liên quan tới Cộng sản Việt Nam cũng như do mối giao tiếp rộng rãi trong chính giới dân sự của ông, hầu hết các tướng lãnh tranh quyền đều muốn kéo ông đứng bên phía họ.
Khi bác sĩ Phan Huy Quát được đề cử lập Nội các đầu năm 1965, với khả năng và tình thân sẵn có, ông có thể tham chánh dễ dàng. Tuy nhiên ông vẫn đứng ngoài, chỉ giúp ý kiến khi cần thiết. Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết ông được Thủ tướng Phan Huy Quát mời làm Giám đốc Việt Tấn xã do sự đề nghị của ông Như Phong.
Khi Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát không thể tiếp tục cộng tác với nhau và quyết định trao quyền lại cho quân đội tháng 6 năm 1965, tư thế của nhà báo Như Phong nổi rõ thêm. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh và một số thân hữu khác, ông Như Phong vốn quen thân từ lâu với Luật sư Đinh Trịnh Chính và Đại tá Phạm Văn Liễu, hai người cùng theo học Lục quân Yên bái với người anh thứ ba của ông là ông Nguyễn Quỳnh Giao trước kia. Qua ông Chính và Đại tá Liễu, ông có thiện cảm với tướng Nguyễn Chánh Thi. Tuy nhiên, sau khi tướng Thi không dám nhận trọng trách lập chính phủ và tướng Nguyễn Cao Kỳ được quân đội giao cho nhiệm vụ ấy, ông sẵn sàng hỗ trợ tướng Kỳ.
Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết: sau khi được cử làm “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tướng Kỳ chưa có ý niệm rõ về việc lập chính phủ cũng như về chính sách, lại cũng chưa có ai làm cố vấn trong lãnh vực chính trị, nên đã tới nhà ông Đinh Trịnh Chính, nguyên Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Phan Huy Quát để gặp ông Chính và ông Như Phong, yêu cầu được giúp. Trong “Nội các chiến tranh” của tướng Kỳ, nhiều Bộ trưởng được mời do đề nghị của nhà báo Như Phong. Theo lời tường thuật của ông Linh, “Khi ông Kỳ muốn trong chính phủ có một số người miền Nam thì ông Tiến đưa danh tính của những người tuy không hề quen nhưng được biết là có khả năng. Sau đó gọi điện thoại, và đưa xe đi đón, ai đến gặp ông Kỳ là người đó được mời làm Bộ trưởng.”
Ông Linh cũng cho biết: theo nhiều nguồn tin, tướng Kỳ muốn ông Như Phong giữ nhiệm vụ “Phụ tá Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tương đương với Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, nhưng ông Như Phong từ chối. Theo nhiều thân hữu khác, ông Như Phong đưa lý do “chỉ là nhà báo, không phải chính trị gia” để tránh việc tham chánh. Ông cũng cho biết ông “muốn được việc” chứ “không thích làm quan.” Nhà báo Sol Sanders cũng viết: ông Như Phong đã từ chối những đề nghị cầm đầu một bộ, thích ở trong hậu trường làm người cố vấn và phân tích (“he refused offers of a ministry, preferring to remain always in the background as an advisor, an analyst ...”).
Nhà báo Đỗ Quý Toàn nêu nhận xét: “Ông chỉ góp ý kiến ... về một danh sách chính phủ với điều kiện chính ông không tham dự để bảo đảm việc đề cử của ông là cốt vì công ích, không phải vì tình riêng.” Tuy nhiên ông nhận lời, và đã thảo hộ các tướng lãnh bản “Hiến Ước Tạm Thời,” tức Hiến pháp tạm thời của miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1965-1967, phác họa cơ cấu tổ chức nhà nước với Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương). Giáo sư Tạ Văn Tài cho biết trong một lần cùng giáo sư Trần Như Tráng đến thăm ông Như Phong tại căn nhà đường Công Lý mùa hè năm 1965, các ông thấy vị “Tham vấn viên của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia” đang cởi trần, vừa soạn thảo, vừa tự tay đánh máy bản “Hiến Ước Tạm Thời” này. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, ông Như Phong cũng đã soạn hộ tướng Kỳ bài diễn văn trình diện Nội các, gồm 6 phần, đưa ra một chương trình 19 điểm.
Trong cuốn sách Buddha’s Child : My Fight to Save Vietnam (có thể tạm dịch: Con cầu tự : cuộc chiến đấu để bảo vệ Việt Nam của tôi -- New York : St. Martin Press, 2002), tướng Nguyễn Cao Kỳ viết rằng ông bổ nhiệm ông Như Phong làm Bộ trưởng Bộ Bình định (Pacification). Chi tiết này không chính xác. Theo tất cả các sử liệu, trong giai đoạn từ 19 tháng 6-1965 tới 9 tháng 11-1967, khi tướng Kỳ giữ nhiệm vụ “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương” (Thủ tướng), miền Nam Việt Nam chỉ có hai nhân vật phụ trách Bộ Bình định và Xây dựng Nông thôn. Người thứ nhất là ông Nguyễn Tất Ứng. Sau khi ông Ứng tử nạn máy bay ngày 16 tháng 9-1965, người được cử lên thay là tướng Nguyễn Đức Thắng. Từ trước tới sau, ông Như Phong chỉ giúp ý tướng Kỳ trong việc lập Nội các, chứ không nhận cho mình bất cứ một chức vụ nào.
Theo nhiều thân hữu, ông Như Phong có một dự án chính trị, và đã không thành công trong dự án này. Trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 1967, ông vận dụng những liên hệ có sẵn với các đảng cách mạng, các khuynh hướng tôn giáo và giới chuyên viên trẻ ở miền Nam để lập nên ba liên danh ứng cử cùng lấy danh hiệu “Cây Dừa” (các liên danh “Một Cây Dừa,” “Hai Cây Dừa,” “Ba Cây Dừa”). Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “Đây là một liên minh chính trị lớn mà chỉ Như Phong ráp lại được vì ông là người thân của mọi phe phái, được các phe phái mến, tin tưởng, và họ biết là ông chỉ nghĩ đến quyền lợi dân tộc chứ không thủ lợi cho chính mình” (tuy vận động lập nên ba liên danh,
ông đứng ngoài chứ không tham dự các liên danh ấy). Mỗi liên danh đều có sự góp mặt của giới chuyên viên trẻ (được tín nhiệm ở Sàigòn), Việt Nam Quốc Dân Đảng (ảnh hưởng mạnh ở miền Trung), Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo (mạnh ở nhiều tỉnh miền Nam). Nếu cùng đắc cử, ông hi vọng ba liên danh này sẽ tạo nổi đa số trong Thượng viện, ủng hộ tướng Kỳ thực hiện những thay đổi đáng kể trong chính trường miền Nam Việt Nam trong trường hợp ông Kỳ đắc cử Tổng thống và tiếp tục là một tướng lãnh “sạch.” Nhưng sau khi tướng Kỳ nhường tướng Nguyễn Văn Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống trong liên danh duy nhất của quân đội và bằng lòng làm Phó cho tướng Thiệu, cả ba liên danh “Cây Dừa” đều bị loại, hết trông cậy vào sự yểm trợ của quân đội nay đã thuộc tướng Thiệu. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh, nhà báo Như Phong coi đây là thất bại chính trị nặng nhất đối với ông.
2) Liên hệ với học giới và ngành truyền thông quốc tế
Cùng với việc quân đội Hoa kỳ sang tham chiến từ giữa năm 1965 trở đi, các báo, các hãng tin ngoại quốc gửi nhiều ký giả tới Việt Nam. Tình trạng chính trị miền Nam sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ vô cùng phức tạp. Theo nhận xét của ký giả Phan Lạc Phúc, “đảng phái mọc ra như nấm ... không biết chính, tà, thật, giả ra sao. Người trong nước cũng không biết đằng nào mà lần, huống chi các nhà báo, các hãng tin ngoại quốc.” Trong tình trạng ấy, người thường được các hãng tin, các nhà báo nước ngoài tìm tới để tham vấn là nhà báo Như Phong. Cũng theo ký giả Phan Lạc Phúc, “những đóng góp của Như Phong đối với giới truyền thông nước ngoài đã được coi là nguồn tin đáng tin cậy nhất.”
Theo một số thân hữu có liên hệ gần với nhà báo Như Phong, sau cuộc đảo chính 1-11-1963, rất nhiều lần ông tìm cách tái xuất bản nhật báo Tự Do nhưng không thành công. Tuy vẫn thuận hảo đối với ông, các chính quyền quân nhân từ 1963 về sau không muốn ông điều khiển báo Tự Do trở lại. Với nhiều lý do khác nhau, các đơn ông gửi để xin tái xuất bản báo đã bị từ khước một cách khéo léo. Từ 1969 trở đi, ông cũng có thêm một mối bận: ông được mời làm giảng viên về các vấn đề Bắc Việt tại trường Cao đẳng Quốc phòng. Theo nhiều thân hữu, trong đó có ông Nguyễn Ngọc Linh, ông Như Phong dùng rất nhiều thời giờ trong những năm đầu của thập niên 1970 để hoàn tất bộ trường thiên “Khói sóng.”
Đầu năm 1972, ông dành nhiều thời giờ giúp một trí thức Hoa kỳ sang nghiên cứu về sinh hoạt chính trị tại Việt Nam. Tiến sĩ John C. Donnell, giáo sư Chính trị học tại Temple University, Philadelphia, người từng viết nhiều bài nghiên cứu về Việt Nam, được Asia Society tại New York tài trợ để sang Việt Nam nghiên cứu về mối liên lạc giữa trung ương và địa phương của các tổ chức chính trị không Cộng sản. Ông Như Phong đã giới thiệu giáo sư Donnell với nhiều nhân sĩ, trí thức, lãnh tụ các đoàn thể chính trị hầu thực hiện các cuộc phỏng vấn. Khi về nước, giáo sư Donnell chủ biên một cuốn sách về sinh hoạt chính trị liên hệ tới bầu cử tại Nam Việt Nam: Electoral Politics in South Vietnam (Lexington, Mass. : Lexington Books, 1974). Cuốn này có sự đóng góp bài vở của các giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Tạ Văn Tài, Douglas Pike, Stephen B. Young... Giáo sư Donnell viết một chương quan trọng về những triển vọng cho sự kết hợp chặt chẽ về phương diện chính trị và việc tranh cử (“Prospects for political cohesion and electoral competition”).
3) Những ngày cuối của miền Nam
Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, giữa năm 1974 bà Hoàng Đạo đau nặng vì chứng ung thư tái phát. Theo bác sĩ Trần Ngọc Ninh, vị bác sĩ điều trị trong thời gian này, bà bị một loại bướu thịt ác tính (myosarcoma) ở tay trái. Mỗi lần vào nhà thương trị liệu là một lần cánh tay bị cắt thêm vì ung thư lan. Khi cánh tay bà mất hẳn vào tháng 2-1975, tình hình miền Nam đã trở nên tồi tệ. Nhạc sĩ Phụng nhận thấy “những nét lo lắng hằn lên khuôn mặt của cậu Tiến.”
Đầu tháng 4-1975, khi tình hình miền Nam trở nên hết sức trầm trọng, ông Như Phong khuyên nhạc sĩ Phụng nên tìm cách đưa vợ con ra đi. Trước câu hỏi, “Cậu có dự tính ra đi không?” ông trả lời: “Tôi không đi vì nhiều lý do. Trước mắt là Me đang đau nặng, cần người chăm sóc. Thứ hai là đời sống ở nước ngoài không thích hợp với tôi.” Trước nỗi lo lắng của nhạc sĩ Phụng, “Cậu ở lại thì rất nguy hiểm,” ông thản nhiên mỉm cười: “Không sao. Tôi biết họ (Cộng sản), tôi biết họ rõ lắm nên tôi có thể tìm được một lối sống.”
Nhà thơ Hà Thượng Nhân cho biết: “Những ngày miền Nam sắp mất, Như Phong thường nhịn ăn, gọi là ‘vào thất’.” Khi được hỏi, “Vào thất’ có lợi gì?” ông trả lời: “Tôi chuẩn bị để đi tù.” Bà Đỗ Thúc Vịnh và ông Hà Thượng Nhân cùng cho biết: Tuy không đi, ông Như Phong giục mọi người tìm cách ra đi vì “không thể sống với Cộng sản được đâu!”
Ngày 7 tháng 7 năm 1975, một người bạn ngoại quốc của nhà báo Như Phong, học giả Patrick J. Honey, viết thư than thở với một người bạn Việt ở Mỹ: “I could never get him to leave his beloved Vietnam” (Tôi đã không làm sao kéo được ông ta rời khỏi nước Việt Nam yêu dấu của ông ta). Theo nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Tháng 4 năm 1975, nhà báo Như Phong quyết định ở lại Việt Nam “dù có hai vé máy bay để đi Anh và Mỹ.” Ký giả Nguyễn Huỳnh Mai cũng cho biết: “Trước những ngày tháng Tư năm 1975, chú Như Phong đã có nơi hứa hẹn cho chú việc làm và vé máy bay sẵn để qua Anh hoặc Mỹ, nhưng chú đã viết thư cám ơn và từ chối cả hai.”
SAU KHI MIỀN NAM RƠI VÀO TAY CỘNG SẢN
Tính từ 30 tháng 4-1975 đến 11 tháng 4-1994, ngày nhà báo Như Phong rời đất nước Việt Nam để sang Mỹ, ông đã sống dưới quyền những người Cộng sản gần 19 năm. Trong chưa đầy 19 năm ấy, trên 13 năm ông bị giữ trong các nhà tù. Ông bị họ bắt giam hai lần: lần đầu gần 12 năm, từ ngày 4 tháng 4-1976 đến ngày 8 tháng 2-1988, lần thứ hai gần 15 tháng, từ 20 tháng 12-1990 đến ngày 7 tháng 3-1992. Trong lần bị giam nào ông cũng biểu lộ một thái độ ung dung, bất khuất.
Trước hết, ông được sống yên ổn gần một năm. Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, hai tháng sau khi Sàigòn thất thủ, bệnh bà Hoàng Đạo trở nên trầm trọng hơn. “Bà rên la suốt ngày đêm. Cứ khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi morphine hết hiệu nghiệm thì bà lại đau. Lúc này thì không còn cơ may chữa trị được nữa.” Bốn tháng sau đó, tức nửa năm sau khi miền Nam sụp đổ, bà từ trần. Cũng theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, sau tang lễ, cảnh nhà vô cùng bần bách. “Thỉnh thoảng cậu Tiến hay vắng nhà vài hôm. Dường như cậu đi xuống miền Tây lo việc gì đó mà tôi không rõ.”
1) Lần bị giam thứ nhất, 1976-1988
Cộng sản tới bắt ông đêm ngày 3 qua ngày 4 tháng 4-1976, trước sự chứng kiến của nhạc sĩ Từ Công Phụng và cô Từ Dung, thứ nữ của ông bà Hoàng Đạo. Bài viết đầy cảm động của nhạc sĩ Từ Công Phụng cho ta nhiều chi tiết hữu ích liên quan đến cuộc bắt bớ này.
Ông bị giam tại sở Công an thành phố, sau đó chuyển qua trại số 4 Phan Đăng Lưu, nơi đây ông gặp sinh viên tranh đấu Đinh Quang Anh Thái. Tới tháng 9 năm 1979, ông bị chuyển qua Chí Hòa. Ông thành bạn đồng tù với giáo sư Đoàn Viết Hoạt trong gần 9 năm tại đây. Trong thời gian ở Chí Hòa, người sinh viên tranh đấu (sau thành ký giả) Đinh Quang Anh Thái có thêm một năm sống với ông, từ đầu năm 1981 đến đầu năm 1982. Ông Thái ôn lại quãng thời gian ấy như sau: “Những tháng ở cùng cậu Tiến thật là khó quên. Xiết bao là kỷ niệm vui buồn ..., nhưng quan trọng hơn cả, tôi học được ở cậu không biết bao nhiêu điều, từ kiến thức uyên bác của cậu cho đến nhân cách sáng ngời của cậu ... Đời sống của cậu trong tù là mẫu mực của một người khí phách, an nhiên tự tại.
Không ai có thể bắt gặp nơi cậu một giây phút yếu lòng nào trước kẻ thù. Lúc nào bạn tù cũng thấy ở cậu tinh thần an nhiên, chấp nhận mọi nghịch cảnh và lạc quan, tin vào tương lai.” Giáo sư Đoàn Viết Hoạt cho biết: “Tôi học được ở ông tính kiên nhẫn và nhiều đức tính tốt khác ... Dù tuổi tác cách xa nhau hơn một con giáp, chúng tôi vẫn giữ được mối quan hệ tương thân tương kính suốt những ngày ở chung Chí Hòa cũng như cho tới tận hôm nay. Ông là một trong những người mà nếu không ở tù, chắc tôi khó có cơ hội được gần gũi và thân thiết.” Cũng theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, suốt trong thời gian bị giam, ông Như Phong và ông đều tập Yoga một cách đều đặn hầu giữ cho thân thể được khang kiện.
Một biến cố đáng lưu ý xảy ra trong lần bị giam thứ nhất này. Theo ký giả Nguyễn Huỳnh Mai: “Vào tháng 7-1976, chú bị lôi ra sỉ nhục. Chú nói với cán bộ rằng, ‘Lời lẽ đó khiến tôi phát bệnh,’ và làm đơn xin nhịn ăn 7 tuần để chữa bệnh. Khi chú nhịn ăn đến ngày thứ 47, các cai ngục buộc chú vào băng-ca, khiêng ra bệnh xá để vô nước biển và đổ sữa ... Thế là một tên kềm đầu, một tên kềm chân, một tên ngồi trên bụng, còn anh bác sĩ dùng muỗng cạy miệng chú để đổ sữa. Cuộc vật lộn kéo dài từ sáng đến trưa thì nghỉ mệt, rồi cạy tiếp suốt buổi chiều. Vì chú cắn chặt răng nên răng bị mẻ, hai nướu đổ máu và môi bị rách. Sau cùng họ thành công khi thọt được đuôi muỗng vào kẽ răng và nhét thỏi sắt vào giữa hàm răng khiến chú không cắn lại được nữa.
Họ luồn ống cao su vào miệng và bơm sữa vào bao tử.” Ký giả Nguyễn Huỳnh Mai cho biết rõ, “Chẳng phải họ ưu ái hoặc mong chú sống làm gì,” và bình luận một cách dí dỏm: “Họ không muốn chấp nhận rằng ‘duy vật biện chứng pháp’ phải thua ‘Đạo Nhịn’.” Dưới bút hiệu Tiểu Du, nhà văn Hạ Quyên tìm cách giải thích: “Vốn là một trong vài ba tù nhân được các tổ chức nhân quyền quốc tế chú ý, và trong các kỳ tuyệt thực trước, khi nói ‘nhịn’ là anh Như Phong nhịn thật sự, nhịn suốt thời gian vài ba tuần lễ như anh đã định ... Họ sợ anh nhịn đủ bảy tuần thì sẽ chết trong tù, và họ sẽ không biết trả lời các tổ chức quốc tế ra sao.”
Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ông Như Phong được trả tự do ngày 8 tháng 2-1988, một ngày trước khi chính ông cũng được thả.
2) Lần bị giam thứ hai, 1990-1992
Trong lần bị bắt trước, để chịu cảnh giam giữ suốt 12 năm, nhà báo Như Phong chỉ có một tội danh vu vơ là “phản động.” Trong lần bị bắt sau, tội danh của ông cụ thể và ghê gớm hơn nhiều: “gián điệp” và “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân.” Để đi bắt ông, những người cầm quyền huy động một lực lượng khá hùng hậu. Theo cô Thơ Thơ, cháu ngoại nhà văn Hoàng Đạo, “hai xe lính chặn đầu ngõ, hai xe chắn ngang cửa ra vào, công an có đến ba chục người.” Trước cảnh tượng ấy, cũng theo cô Thơ Thơ, ông “vẫn bình tĩnh như không, cứ như đó chỉ là một vở tuồng.”
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố HCM, ông bị buộc tội đã “trao đổi những ý kiến có tính cách chính trị” với một người Việt đang định cư ở Mỹ là nhà báo Hồ Văn Đồng (Ông Hồ Văn Đồng cho biết ông và ông Như Phong có tình thân từ 1955. Hai ông cùng bị giam tại Phan Đăng Lưu một thời gian. Sau khi ra tù năm 1988, ông Đồng tìm cách vượt biên và đến Mỹ cuối tháng 3-1989). Ông Như Phong cũng bị buộc tội đã “giao du thân” với giáo sư Đoàn Viết Hoạt và các ông Phạm Đức Khâm, Nguyễn Mậu, những người bị coi là chủ chốt trong nhóm Diễn Đàn Tự Do. (Giáo sư Hoạt cho biết trong những người bị nêu danh kể trên, chỉ có ông và ông Khâm là thực sự dính dáng tới Diễn Đàn Tự Do. Ông chỉ mới gặp ông Nguyễn Mậu có một lần. Ông và ông Khâm cùng không muốn ông Như Phong bị liên lụy với Diễn Đàn Tự Do vì năm ấy, 1990, ông Như Phong đã 68 tuổi. “Chúng tôi thấy ông đã già yếu, nên sợ nếu bị bắt lần này ông không đủ sức khỏe để chịu đựng được nữa”).
Giáo sư Hoạt và ông Khâm bị bắt trung tuần tháng 11-1990 vì bản tin Diễn Đàn Tự Do. Hơn một tháng sau, ngày 20 tháng 12-1990, ông Như Phong cũng bị bắt. Giáo sư Hoạt cho biết: “Họ vẫn cho rằng ông Như Phong mới là người lãnh đạo, hay ít nhất, cố vấn cho chúng tôi.” Sau sáu tháng bị biệt giam ở trại số 3 Bạch đằng, các ông bị chuyển qua trại giam số 4 Phan Đăng Lưu. Giáo sư Hoạt cho biết theo bản kết cung của chấp pháp mà ông được đọc cho nghe, Diễn Đàn Tự Do “chỉ là phương tiện truyền thông của một âm mưu phản động lớn” liên quan đến hàng mấy chục người ở cả trong nước lẫn hải ngoại. Ông nhận thấy “rõ ràng là phe bảo thủ trong đảng Cộng sản muốn làm lớn vụ này ... Theo danh từ chuyên môn của Công an thì Diễn Đàn Tự Do được ‘nâng quan điểm,’ trở thành một vụ án ‘điển hình.’ Có nghĩa là sẽ xử rất nặng.”
Đầu năm 1992, từ ngày rằm tháng giêng âm lịch tức 18 tháng 2 dương lịch, ông Như Phong bắt đầu tuyệt thực. Sau đây là những đoạn chính trong lá đơn ông viết để nêu lý do chuyện tuyệt thực ấy:
“Tôi ký tên dưới đây, Lê Văn Tiến, sinh năm 1923 tại Nam Định, địa chỉ thường trú 67 Đinh Công Tráng, F. Tân Định, Q.1, TP HCM, bị bắt ngày 20 tháng 12 năm 1990 về tội Gián điệp và tội Hoạt động Lật đổ Chính quyền Nhân dân, hiện giam tại Phòng số 3, Khu C 2.
“Làm đơn này xin Ban Lãnh đạo trại giam cho tôi được TĨNH TÂM một thời gian để cầu nguyện cho Tổ quốc và Dân tộc. Thời gian Tĩnh tâm là chín (9) tuần, bắt đầu từ ngày hôm nay, 18.02.1992 tức là Rằm tháng Giêng âm lịch Nhâm Thân, và sẽ chấm dứt sáu mươi ba (63) ngày sau đó. Trong thời gian Tĩnh Tâm này tôi sẽ không dùng một chút thức ăn gì, đặc hoặc lỏng, mà chỉ uống nước từ vòi nước của trại. Việc Nhịn ăn này nhằm giữ cho thể xác được trong sạch, tâm trí được sáng suốt đặng dốc lòng cầu nguyện. Tôi cũng xin nhắc lại rằng đây không phải lần thứ nhất tôi xin được phép Tĩnh tâm và Nhịn ăn trong thời gian bị giam. Lần trước cũng tại trại giam này, hồi tháng 7.1976 khi tôi bị giam tại phòng Biệt giam số 21 khu B, tôi đã làm đơn và đã được phép cho Tĩnh tâm và Nhịn ăn trong thời gian bảy (07) tuần tức là bốn mươi chín (49) ngày. Tôi tin rằng trong hồ sơ lưu trữ tại trại và tại Sở Công an Thành phố còn đầy đủ tài liệu về việc này.
Trong cuộc tĩnh tâm lần này:
- Tôi cầu Anh Linh của Tổ tiên, các Đấng sinh thành Dân tộc này, khai sáng đất nước này, đã từ ngàn đời dẫn dắt cháu con tạo dựng nên nước Việt Nam ngày hôm nay,
- Tôi cầu Khí thiêng Sông núi đã không ngừng hun đúc trí tuệ và lòng dũng cảm cho mọi cộng đồng con dân trên dải đất này từ thế hệ này qua thế hệ khác vượt qua biết bao thiên tai địch họa để Việt Nam còn bền vững đến ngày nay,
Xin hãy soi sáng
- Cho các vị Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và các vị Lãnh đạo Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, để các vị đó SỚM TỈNH NGỘ mà trả lại cho bảy mươi triệu người Việt Nam chúng tôi QUYỀN SỐNG, QUYỀN LÀM NGƯỜI, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC với đầy đủ những TỰ DO đã được minh định trong bản TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN của Liên Hiệp Quốc, bản Tuyên Ngôn mà tất cả các quốc gia hội viên đều đã long trọng cam kết thi hành trọn vẹn, trong đó có nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam;
- Cho bảy mươi triệu đồng bào tôi sớm nhận rõ những QUYỀN của mình mà không ai được phép tước đoạt, trong đó có Quyền được BÃI MIỄN bất cứ một chế độ nào, một hệ thống cai trị nào đã từng tỏ ra không xứng đáng, không đủ năng lực và không lương thiện trong nhiệm vụ mang lại lợi ích cho nhân dân, mà trái lại đã làm ngược hẳn với lòng mong ý muốn của nhân dân và đã bội phản lời thề nguyện của chính tập đoàn lãnh đạo chế độ; đồng thời cho đồng bào sớm nhận rõ TRÁCH NHIỆM của mình, Trách Nhiệm mà không một ai được phép lẩn tránh, trong đó có Trách Nhiệm phải chung lòng hợp sức xây dựng nên một thể chế mới được điều hành bởi những người thay mặt đích thực của nhân dân, do nhân dân tự do lựa chọn, những người có đủ khả năng, lương thiện và thật sự trung thành với sứ mạng mà nhân dân ủy thác cho họ và cũng chính họ tình nguyện nhận lãnh, là mang lại Dân chủ, Tự do, Công bằng và Thịnh vượng cho dân cho nước...”
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt cho biết: “Một buổi chiều tối sau giờ làm việc, anh lao động, một người có thiện cảm với chúng tôi, trở vào buồng giam đưa tôi một lá thư của ông Như Phong gửi. Giở ra xem là bản nháp tờ đơn gửi ban giám thị trại. Chữ ông Như Phong, viết trên giấy hút thuốc rê. Đó là ‘Đơn xin phép Tĩnh tâm và Nhịn ăn’.” Giáo sư Hoạt lo âu: “Trong lần tù trước, ông Tiến cho tôi biết ông đã tập được phương pháp nhịn ăn từ lâu, và có thể nhịn được 7 thất, mỗi thất 7 ngày tức 49 ngày. Nay ông quyết định sẽ nhịn ăn tới 9 thất, tức 63 ngày, không biết ông có chịu nổi không?” Giáo sư Hoạt viết tiếp: “Tôi lo ngại cho ông, nhưng hi vọng quyết tâm của ông sẽ khiến Công an phải suy nghĩ lợi hại để thả ông ra.”
Cuối tháng 2-1992, tin tức về việc ông Như Phong tuyệt thực được bà Minh Thu, trưởng nữ nhà văn Hoàng Đạo, và cô Thơ Thơ, ái nữ của bà, loan báo rộng rãi tới các cơ sở truyền thông và cơ quan tranh đấu nhân quyền quốc tế. Ngày 28 tháng 2-1992, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch ra thông cáo báo chí về việc ông Như Phong tuyệt thực, và yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do ngay cho ông. Ngày 10 tháng 3-1992, một số dân biểu Hoa kỳ gửi thư cho ông Võ Văn Kiệt, yêu cầu trả ngay tự do cho ông Như Phong.” Giáo sư Hoạt cho biết: “Sau đó không lâu, khoảng giữa tháng 3, tôi được các anh lao động từ khu A khiêng cơm nước sang cho biết ông Lê Văn Tiến đã được thả.”
Thật ra, ông Như Phong được trả tự do từ ngày 7 tháng 3-1992, 19 ngày sau khi ông bắt đầu tuyệt thực, ba ngày trước khi các dân biểu Mỹ viết thư, và một tuần trước khi giáo sư Đoàn Viết Hoạt biết tin. Với những tội danh ghê gớm như “gián điệp,” “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân,” ông bị giam chưa tới 15 tháng. Trong lần bắt giữ trước, ban giám thị trại còn cố cạy miệng ông để đổ sữa.Trong lần bắt giam này, họ thả ông một cách vội vã khi ông nhịn chưa tới 20 ngày. Một điểm đáng lưu ý là tuy bị những người cầm quyền Cộng sản bắt giam hai lần, cộng trên 13 năm, chưa bao giờ ông được đưa ra xét xử.
Nhà báo Đỗ Quý Toàn cho biết: “Khí phách của ông được tất cả các bạn tù kính nể. Những người đã thoát trước ông ... đều nói tới tư cách hào hùng, cương nghị của Như Phong, Doãn Quốc Sỹ ... với niềm thán phục.” Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt: “Việc nhịn ăn của ông Như Phong cùng kết quả tốt đẹp của hành động này đã giúp nâng cao tinh thần tù nhân trong trại ... Chúng tôi thấy được thế mạnh của chúng tôi và thế yếu của những kẻ đang giam giữ chúng tôi.‘Lực’ thì họ vẫn còn, nhưng ‘thế’ và ‘thời’ đang vuột dần khỏi sự chi phối của họ ... Viết thư công khai báo nhịn ăn với giọng điệu thách thức chế độ như thế mà không những không bị kỷ luật còn được trả tự do ngay. Đang bị giam giữ trong nhà tù Cộng sản mà được chứng kiến những chuyện như thế, làm sao không lên tinh thần được! Những gì ông Như Phong đã làm giúp chúng tôi ở tù thản nhiên hơn, vững tin hơn.”
Ông Như Phong không có gia đình riêng. Người em tại miền Nam là ông Nguyễn Ngọc Ấn đã ra khỏi nước từ tháng 4-1975. Thăm nom, tiếp tế cho ông trong suốt mười mấy năm bị giam là một số bà con và thân hữu cũng đang sống khó khăn, đầy bất trắc trong một Sàigòn vừa đổi chủ. Hi sinh tới cùng độ, không quản những nguy hiểm có thể tới với bản thân trong việc liên lạc, tiếp tế cho ông là bà Cả Trác và cô Từ Dung, em họ và thứ nữ của bà Hoàng Đạo. Một người thân của gia đình là chú Tư đi cùng bà Cả và cô Từ Dung trong các chuyến thăm nuôi. Tận lực tiếp tay với các vị vừa kể là bà Minh Thu, trưởng nữ nhà văn Hoàng Đạo, hai người con của bà Cả, một người bạn của ông Như Phong là ông Bảy, và một vài người bạn ít tuổi hơn, có tình thân với ông từ những năm đầu của nhật báo Tự Do, đáng kể nhất là ông H.V.T. Tất cả đều đang sống một cách chật vật, có bữa sớm lo bữa tối trong giai đoạn ấy.
3) Cuộc sống trong mấy năm không bị giam
Có sự khác nhau trong cách sống của ông Như Phong trong hai giai đoạn sau khi ra khỏi nhà giam: giai đoạn 1988-1990 (sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ nhất), và giai đoạn 1992-1994 (sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ hai).
Sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ nhất năm 1988, ông vẫn ở Sàigòn (nhà một người cháu họ, 67 Đinh Công Tráng, Tân Định). Ngay năm ấy ông thực hiện một chuyến ra Bắc gặp một số bạn cũ, trong đó có nhiều người theo Việt Minh từ trước năm 1945. Khi trở về, ông ghé thăm ông bà Lê Mạnh Hùng – Phan Lâm Hương (con rể và con gái của bác sĩ Phan Huy Quát, cả hai vợ chồng đều có tình thân với ông), kể lại nỗi thất vọng của những người bạn ấy đối với chính thể Cộng sản. Cũng năm ấy, ông tới dự một buổi họp mặt tại nhà họa sư Nguyễn Gia Trí để tiễn nhà thơ Trần Dạ Từ và nhà văn Nhã Ca rời đất nước Việt Nam lên đường sang Thụy Điển (xin xem các bài của bà Phan Lâm Hương và nhà văn Nhã Ca, phía sau).
Năm 1989, với sự tan vỡ của Đế quốc Cộng sản, nhiều cán bộ của chế độ tại Sàigòn tìm tới ông để hỏi han, nhờ phân tích tình hình. Một thư ông viết cho một nhân vật Cộng sản khá cao cấp, đề ngày 21 tháng 6-1989, cho ta thấy nhiều phân tích tinh tế về tình hình quốc tế và quốc nội với những dự phóng sắc bén cho tương lai. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “khó có thể tưởng tượng được rằng đó là nhận định của một người mới đi tù về sau nhiều năm bị cô lập với thế giới bên ngoài.” Năm 1990, ông tiếp xúc với giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhiều lần, hoặc ông mời ông bà Hoạt cùng ông bà Phạm Đức Khâm đi ăn phở, hoặc tới nhà ông bà Hoạt, ít nhất một lần vào ngày 10 tháng 11-1990 để tiễn giáo sư Hoàng Xuân Hào lên đường sang Hoa kỳ.
Sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ hai năm 1992, ít nhất theo bề ngoài, ông sống lặng lẽ và kín đáo hơn. Hai nhà văn Doãn Quốc Sỹ và Phan Nhật Nam cho ta nhiều chi tiết đáng chú ý về cuộc sống của ông Như Phong trong giai đoạn này.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ có một người bạn làm chủ một khu trại chừng 7 mẫu tại Hóc Môn
CHÂN DUNG VĂN HỌC
NHƯ PHONG LÊ VĂN TIẾN
TỪ TỰ DO ĐẾN KHÓI SÓNG
NGÔ THẾ VINH
Hình 1_ từ trái: Như Phong tuổi thanh xuân và Như Phong 1990 chụp trước
bức danh hoạ "Vườn Xuân Trung Nam Bắc" của Nguyễn Gia Trí
[nguồn: tư liệu ĐQA Thái & Nguyễn Tường Giang]
TIỂU SỬ NHƯ PHONG
Như Phong Lê Văn Tiến, không rõ ngày sinh thật nhưng trên căn cước
ghi sinh ngày 1 tháng 2 năm 1923 tại Bắc Việt. Tên thật ít ai biết là
Nguyễn Tân Tiến, sau do nhu cầu hoạt động cách mạng, đổi tên là Lê Văn
Tiến. Từ 1945, Như Phong làm tuần báo Ngày Nay Bộ Mới ở Hà Nội, sau đó
làm biên tập cho sở Thông Tin Bắc Việt. Năm 1954, di cư vào Nam, ban đầu
làm cho Việt Tấn Xã, sau đó từ 1955 sang làm nhật báo Tự Do xuyên suốt
cả hai thời kỳ cho tới 1963 khi Tự Do bị đóng cửa. Ngoài báo chí Việt
ngữ, Như Phong còn là cộng tác viên của The China Quarterly, London
(1964-1972); các bài viết của ông về giới Trí Thức Miền Bắc, về Phong
trào Nhân văn Giai phẩm đã tạo nên tên tuổi ông trên diễn đàn báo chí
quốc tế. GS Patrick J. Honey, Giám đốc Ban Việt ngữ BBC luôn là bạn đồng
hành của Như Phong trong nhiều thập niên và cũng là người dịch sang
tiếng Anh các bài viết của Như Phong. Sang tới Mỹ, Như Phong còn tham
gia viết bài cho The Asian Wall Street Journal, Hong Kong (1994-1996).
Từ 1997 Như Phong là cố vấn biên tập cho Đài Á châu Tự Do / Radio Free Asia.
Sau nhiều năm tù đầy cuối cùng Như Phong cũng tới được Hoa Kỳ định
cư vào năm 1994, ông mất ngày 18 tháng 12 năm 2001 tại Virginia Hoa Kỳ,
thọ 78 tuổi.
NHƯ PHONG VÀ NHẬT BÁO TỰ DO
Ngay sau Hiệp định Genève 1954, với vĩ tuyến 17 chia đôi Việt Nam,
dẫn tới một cuộc di cư lịch sử của hơn một triệu người từ Bắc vào Nam
lánh nạn Cộng sản và đã được báo chí Tây phương mệnh danh là cuộc Hành
Trình Tìm Tự Do / Journey to Freedom.
Hội nhập vào cuộc sống thanh bình và trù phú của Miền Nam lúc đó,
có thể nói đã có một nền văn nghệ báo chí di cư "trăm hoa đua nở" ở trên
vùng đất lành chim đậu, hoà mình vào sinh hoạt báo chí đã có truyền
thống lâu đời trong Nam như nhật báo Thần Chung với Nam Đình, Đuốc Nhà
Nam với Trần Tấn Quốc, Sài Gòn Mới với Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận.
Năm 1955, một năm sau Hiệp định Genève, nhật báo Tự Do ra đời tại
Sài Gòn với một ban biên tập gồm toàn những cây bút Bắc kỳ di cư. Nhóm
chủ trương báo Tự Do, đều có những trải nghiệm với Cộng sản từ Miền Bắc.
Toà soạn ban đầu gồm có: Tam Lang Vũ Đình Chí, Mặc Đỗ Nguyễn Quang
Bình, Đinh Hùng bút hiệu Thần Đăng, Như Phong Lê Văn Tiến và Mặc Thu Lưu
Đức Sinh. Tam Lang đứng tên chủ nhiệm, Mặc Thu làm quản lý và Như
Phong, trẻ tuổi nhất làm thư ký tòa soạn. Vũ Khắc Khoan viết cho Tự Do
nhưng không chính thức đứng tên. Sau đó nhóm Tự Do mở rộng, có thêm ba
người: Nguyễn Họat bút hiệu Hiếu Chân, Hi Di Bùi Xuân Uyên và họa sĩ
Phạm Tăng.
Theo Như Phong, nhật báo Tự Do giai đoạn đầu khá ngắn ngủi bị đình
bản không phải vì lủng củng nội bộ mà vì lý do chính trị. Bên Phủ Tổng
thống nhận thấy tờ báo rất có ảnh hưởng được dân Bắc di cư nhiệt tình
ủng hộ, lại có những bài chỉ trích chính quyền và thêm yếu tố khá nhạy
cảm là trong nhóm chủ trương báo Tự Do không ai có đạo Thiên chúa, cũng
không có người gốc Miền Trung.
Chỉ ít lâu sau đó Báo Tự Do được tục bản nhưng với chủ nhiệm mới
Phạm Việt Tuyền và quản lý mới là Kiều Văn Lân. Cả hai đều có gốc là
nhân viên Phủ Tổng thống và có đạo Thiên chúa. Trước đó, từ 1955 Phạm
Việt Tuyền đã từng là chủ biên của một tờ tuần báo Tân Kỷ Nguyên với ban
biên tập gồm Lê Xuân Khoa, Lê Thành Trị, Trần Việt Châu và Hồ Nam.
Bước sang giai đoạn nhật báo Tự Do bộ mới, Như Phong vẫn làm thư ký
toà soạn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt vẫn phụ trách chuyên mục “Chuyện Hàng
Ngày”, sau đó đổi tên là “Nói Hay Đừng” rất ăn khách vì lối viết châm
biếm sắc bén. Cùng với Hiếu Chân còn hai người nữa cũng thay phiên viết
cho mục này, là Mai Nguyệt tức nhà văn Tchya Đái Đức Tuấn, và Phạm Xuân
Ninh tức Hà Thượng Nhân, còn thêm bút hiệu Tiểu Nhã. Phải kể tới sự tham
dự của cây bút chính luận Mai Xuyên Đỗ Thúc Vịnh, Trần Việt Sơn và hoạ
sĩ Nguyễn Gia Trí.
Có một sự kiện liên quan tới tự do báo chí thời Đệ Nhất Cộng Hoà,
nay đã thuộc về lịch sử, tưởng cũng nên nhắc lại ở đây, đó là vụ bìa báo
Xuân Tự Do Canh Tý 1960. Vì là năm Tý, theo tập tục bìa báo năm đó có
vẽ hình chuột, hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí đã vẽ hình 5 con chuột đang ăn quả
dưa hấu đỏ. Do có người ức đoán và diễn dịch là bức tranh ám chỉ năm anh
em nhà họ Ngô đang đục khoét đất nước Việt Nam, lời đồn đãi lan truyền
tuy không có bằng cớ nhưng số báo vẫn bị tịch thu và gần như cả toà soạn
bị bắt, trừ Như Phong và Phạm Việt Tuyền. Nhưng rồi Phạm Việt Tuyền
cũng bị mất chức chủ nhiệm, báo Tự Do bị đóng cửa khoảng tháng 8 năm
1963, chỉ 3 tháng trước cuộc binh biến 11-11-1963, với cái chết bi thảm
của hai ông Diệm Nhu, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Hoà kéo dài được 9 năm.
Hình 2a_ trái: Bìa báo Xuân Tự Do Canh Tý 1960 của Nguyễn Gia Trí
Hình 2b_ phải: Hs Nguyễn Gia Trí và Như Phong, sau 1975
[nguồn: 2a tư liệu Phạm Phú Minh; 2b tư liệu Nguyễn Tường Giang]
Nhắc đến nhật báo báo Tự Do, ở cả hai thời kỳ từ 1955 tới 1963,
người ta không thể quên cái "dấu ấn" Như Phong Lê Văn Tiến. Là một thư
ký toà soạn, Như Phong hết lòng tận tuỵ lo cho tờ báo, ngoài ra Như
Phong còn viết truyện dài feuilleton hàng ngày với bút hiệu Lý Thắng.
“Khói Sóng” là một trường thiên tiểu thuyết, đọc rất hấp dẫn, viết về
thời kỳ trai trẻ khi Như Phong đi theo chân các bậc đàn anh Hoàng Đạo
Nguyễn Tường Long, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm cách mạng, chống cộng ở
các chiến khu Vĩnh Yên, Việt Trì. Cho tới những ngày cuối đời, Như
Phong vẫn nhắc tới tác phẩm “Khói Sóng” với ước mong tìm lại được. Nhưng
cũng chính tay Như Phong đã đốt tập bản thảo “Khói Sóng” sau 1975 trước
khi anh bị bắt.
Được biết thư viện Cornell và thư viện Hawaii có thể còn lưu trữ
trọn bộ báo Tự Do, trong đó có “Khói Sóng”. Cũng đã hơn 14 năm từ ngày
Như Phong mất, khi gặp lại Ánh Chân, con gái nuôi của anh, lại một lần
nữa nhắc tới ước nguyện đó của bố.
NHƯ PHONG MỘT MƯU SĨ
Sự nghiệp Như Phong là báo chí, Đỗ Quý Toàn đã quý trọng gọi ông là
"nhà báo của các nhà báo" nhưng Như Phong còn được nhắc tới như một mưu
sĩ, hơn thế nữa như một tay khuynh đảo. Nhà báo Mỹ kỳ cựu Sol Sanders,
US News & World Report, người bạn của Như Phong từ hơn nửa thế kỷ
1950-2001, từ Hà Nội vào tới Sài Gòn khi viết bài tưởng niệm về Như
Phong đã mệnh danh Như Phong là: My "Coup Broker" Friend / Người bạn
"Khuynh Đảo".
Hình 3_ Như Phong và một số bạn văn nay cũng đã mất, từ trái:
Như Phong và Đỗ Thúc Vịnh, Lê Ngộ Châu và Như Phong, Như Phong và Võ Phiến [nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]
Như Phong rất thân cận với Bác sĩ Phan Huy Quát nhưng đã không nhận
một chức vụ nào khi Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng. Như Phong quen
biết đủ thành phần chính giới kể cả đối lập, các tướng lãnh, các giáo
phái kể cả Cao Đài và Hoà Hảo.
Giai thoại về một Như Phong sau hậu trường sắp xếp các thành phần
của Nội Các Chiến Tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nhưng đứng ngoài
không nhận chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Rồi năm 1966, để hỗ trợ cho
tướng Kỳ, Như Phong lại đóng vai đạo diễn ba Liên danh Cây Dừa kết hợp
các thành phần chuyên viên, tôn giáo và đảng phái vẫn không có tên Như
Phong trong đó, nhưng rồi cả ba liên danh đều thất cử.
Lúc nào cũng chỉ là mưu sĩ, "kẻ đứng bên lề", không bao giờ trực
tiếp dấn thân tham chánh. Không thể nói tới sự thành bại trong chính trị
khi mà bản chất Như Phong chưa bao giờ thực sự là một con người chính
trị / homo politicus.
NHỮNG NGÀY THÁNG 5 NĂM 1975
Chỉ sau cụ Hoàng Văn Chí, tác giả hai tác phẩm kinh điển: Từ Thực
Dân tới Cộng Sản và Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản
sau này không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút
hiệu khác của Như Phong trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về
Cộng sản Miền Bắc.
Các nhà báo ngoại quốc đánh giá cao về sự hiểu biết thấu đáo của
Như Phong đối với thế giới Cộng sản. Anh có thể nói ngay với từng chi
tiết về các tên trùm cộng sản khi được hỏi, đến nỗi Sol Sanders một nhà
báo Mỹ kỳ cựu của US News & World Report với nhiều năm làm việc ở
Việt Nam đã phải thốt lên: "Tiến là một cuốn tự điển tiểu sử di động /
Tiến was a walking biographical dictionary."
Hiểu cộng sản đến như vậy, với biết trước những tháng năm dài đẵng
tù đầy, vậy mà Như Phong vẫn chọn ở lại. Các ký giả ngoại quốc quen biết
bấy lâu sẵn sàng giúp Như Phong thoát khỏi Sài Gòn trước những ngày 30
tháng 4, 1975, bên Hải Quân bên Không Quân cũng có chỗ cho anh đi nhưng
anh thì vẫn cứ bướng bỉnh chọn ở lại.
Cuộc chia tay cảm động của Như Phong với gia đình anh Đỗ Thúc Vịnh
trên đường Tự Đức, đã được chị Vịnh ghi lại: "Một buổi trưa cuối tháng
Tư, có lẽ vào khoảng ngày 24 hay 25, anh Như Phong đến nhà chúng tôi và
bảo: "Anh chị phải tìm cách đi ngay đi! Đi đâu cũng được, miễn là ra
khỏi đất nước này. Chúng sắp vào đến đây rồi." Chồng tôi nắm lấy tay anh
và hỏi:“Tiến thì sao? Tiến có đi không?" “Không, anh chị cần phải đi
vì tương lai của các cháu. Còn tôi, tôi sẽ về Miền Tây, tìm cách chống
lại bọn chúng. Rồi ta sẽ gặp lại nhau.” Nói xong anh chạy ra xe đi thật
nhanh. Chúng tôi nhìn nhau, bàng hoàng về quyết định can trường của anh.
Trong lúc mọi người đều cảm thấy bất lực và lo bỏ chạy, kể cả những
viên tướng oai vệ nhất, thì anh, với lòng dũng cảm, với ý chí bất khuất,
đã quyết theo gót tiền nhân, không chịu khuất phục trước kẻ thù: Anh đã
quyết ở lại chỗ chết để tìm đường sống." [Lòng Thành Tưởng Niệm]
Đến trưa ngày 30 tháng Tư, ngay sau khi lệnh đầu hàng được phát đi,
có thể thấy từ mấy tầng lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu
trắng của những mảnh vụn giấy tờ tuỳ thân của quân cán chính cần được xé
huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát Sài Gòn. Không kể những
giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên đường phố.
Và rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa đường Trần Hưng
Đạo, nhìn qua khung cửa là những chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối
hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
Mấy ngày sau đó tôi gặp lại anh Như Phong tại nhà luật sư Mai Văn
Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ
có một thời làm Khoa trưởng Luật khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây
giờ chỉ còn lại mình anh, chị và hai con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng những gì
sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu
và rồi những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rác và rồi sẽ là quần đảo
ngục tù / Gulag Archipelago. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi mua vàng, đôla
chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì chỉ gợi ý
mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài
Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Chỉ nói vậy thôi
chứ thái độ của cả mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Để rồi sau đó, Như Phong hai lần bị Cộng sản bắt, tổng cộng thời
gian tù đầy ngót 14 năm. Lần thứ nhất từ 1976 tới 1988. Lần thứ hai từ
1990 tới 1992. Sĩ khí của một Như Phong sắt thép trong tù với từng ấy
năm bị đầy đoạ, biệt giam, thiếu ăn và cả quyết định tuyệt thực nhiều
ngày không để phản đối điều gì mà mà chỉ để "Cầu Quốc Thái Dân An", với
hậu quả đưa tới một thể xác suy kiệt nhưng trí tuệ anh vẫn cứ luôn minh
mẫn. Như Phong không chỉ khiến các bạn tù mà chính nhưng những kẻ bắt
giam ông cũng phải kính nể. Trong bài "Thương Nhớ Cậu Tiến" của người tù
trẻ tuổi Đinh Quang Anh Thái đã viết khá đầy đủ với sự kính trọng và
ngưỡng mộ người tù khí phách Như Phong khi cả hai cùng bị giam trong nhà
tù Chí Hoà. Như Phong sống sót cũng là một ngạc nhiên cho rất nhiều
người nếu biết rằng ông đã từng là một bệnh nhân bị lao phổi những năm
trước đó.
Hình 4_ Trái: Như Phong ra tù, về sống ẩn dật ở trong một ngôi nhà lá
mái gồi ở Hóc Môn. Phải: Như Phong đang tưới những dò phong lan
[nguồn: tư liệu Đinh Quang Anh Thái]
Khi ra tù anh Như Phong chọn cuộc sống ẩn dật. Qua quen biết của
nhà văn Doãn Quốc Sỹ, anh được vợ chồng người chủ trại bạn anh Sỹ sang
nhượng cho được một khoảng đất nhỏ trong khu trại ruộng rộng 7 mẫu ở Hóc
Môn, trên đó Như Phong dựng một căn nhà với mái lợp lá dừa nước có nền
gạch, quanh nhà anh trồng mấy cụm hoa hồng và nhưng chủ yếu là những dò
phong lan đủ loại. Như Phong rất mê trồng lan giống nhà văn Nhất Linh
khi sống bên suối Đa Mê ở Đà Lạt.
Phan Nhật Nam cũng trải qua 14 năm tù kể cả biệt giam, khi ra tù
Nam về sống trong một căn nhà bên kia sông và thường xuyên sang thăm
anh Như Phong. Đôi lần anh chị Doãn Quốc sỹ lên trại chơi bao giờ cũng
ghé thăm Như Phong, rồi vợ chồng Đằng Giao, cả Tô Thuỳ Yên, tác giả
Trường Sa Hành, bạn văn bạn tù của Như Phong cũng là khách thường tới
thăm. Một sự kiện khó quên do Phan Nhật Nam kể lại: Nam đã vô tình phá
hại cả vườn lan của Ông Gió / Như Phong khi giúp ông tưới lan nhưng lại
bằng nước phèn lấy từ dưới một con rạch. Rồi Phan Nhật Nam đi Mỹ năm
1993, trước Như Phong một năm.
NHƯ PHONG ĐẾN VỚI NHÓM BẠN CỬU LONG 1995
Năm 1993, khi ấy Như Phong còn ở Việt Nam, tổ chức Human Rights
Watch/ Asia đã ra thông cáo trao tặng nhà báo Như Phong giải thưởng Tự
Do Phát Biểu Tư Tưởng / Free Expression Award là một giải thưởng danh
giá về báo chí và Như Phong đã được ca ngợi là ông đã dùng ngòi bút bênh
vực Quyền Con Người. Sự thực khi một tên tuổi Như Phong được chọn,
chính cuộc sống của Như Phong đã làm danh giá thêm cho giải thưởng nhân
quyền này.
Cho dù đã có những vận động từ rất nhiều phía, nhưng rồi cuối cùng
tới năm 1994, với rất nhiều toan tính, Cộng sản đã thả cho người tù
chính trị 14 năm Như Phong ra đi, nhưng ông tới Mỹ không phải như một tù
nhân chính trị mà lại theo "diện đoàn tụ gia đình/ ODP" do bảo lãnh của
người em cùng cha khác mẹ là Nguyễn Ngọc Ẩn, cũng trong giới truyền
thông / TV Cameraman ở Sacramento và của cả gia đình người bạn Đổ Hoàng/
Đường Thiện Đồng lúc đó đang sống ở Irvine.
Như Phong có biết bao nhiêu là bạn trong cuộc đời hoạt động sôi
nổi của anh, nhưng sau này trên đất Mỹ anh vẫn có thêm nhiều bạn mới,
với đặc điểm là họ rất trẻ, tuổi tác thì cách anh khoảng hai ba thế hệ.
Họ trân quý và mau chóng thân thiết với anh. Như Phong đã cấy những giấc
mơ vào đầu óc họ, anh bao giờ cũng là "người gieo mộng". Riêng tôi thì
đã quen anh Như Phong từ những năm trước 1975 với những chặng đường
sinh hoạt.
Gặp lại anh ở Nam California, vẫn một Như Phong sắc bén và ý nhị
của ngày nào. Ở tuổi 71, sau ngót 14 năm tù đầy, trông anh vẫn rắn rỏi
và khỏe mạnh, nhưng anh vẫn không bỏ được tật hút thuốc lá. Điều ấy
khiến tôi quan tâm và có nhắc anh. Như Phong mang hình ảnh của một Cây
Tùng Trước Bão / như tên một cuốn sách của Hoàng Khởi Phong. Anh còn có
đức tính của một trí tuệ rộng mở / open-minded, sẵn sàng đón nhận và học
hỏi điều mới: xử dụng computer, email, máy fax. Được các bạn trẻ tặng
một laptop, anh bắt đầu viết các bài báo, gửi bài qua eMail và chiếc
laptop như vật bất ly thân của anh về sau này.
Hình 5_ Các bạn đón anh Như Phong tới Mỹ, từ phải: Như Phong, Đường Thiện Đồng, Trần Huy Bích, Võ Phiến, Ngô Thế Vinh
[tại nhà Ngô Thế Vinh, tháng 4-1994]
Năm 1995 tôi đã có kỷ niệm về một ngày rất khó quên với anh Như
Phong nơi thủ đô tỵ nạn Little Saigon. Đó vào sáng thứ Bảy của một ngày
tiết Thu nắng đẹp miền Nam California. Anh Như Phong hôm ấy rủ tôi tới
gặp mấy người bạn trẻ thuộc Nhóm Bạn Cửu Long mà tôi chưa hề quen biết
nhân có buổi mạn đàm đầu tiên tại Phòng Sinh Hoạt báo Người Việt. Trên
bàn thuyết trình hôm đó có KS Phạm Phan Long, TS Phạm Văn Hải và nhà báo
Đỗ Quý Toàn. KS Phạm Phan Long là người đầu tiên lên tiếng báo động về
những hiểm hoạ sắp xảy đến cho dòng Sông Mekong khi Trung Quốc có kế
hoạch xây một chuỗi những con đập Bậc thềm Vân Nam. Lúc đó chỉ mới có
một con đập dòng chính đầu tiên trên sông Lancang-Mekong Manwan/ Mạn
Loan 1,500 MW vừa được xây xong (1993).
Ngày hôm ấy với tôi quả thật là mối "duyên khởi" bởi vì đây cũng là
lần đầu tiên tôi tiếp cận với một vấn nạn mới mẻ của đất nước: đó là
những bước phát triển "không bền vững / non-sustainable development" của
con sông Mekong. Cũng từ đó tôi được làm quen với những người bạn mới
như KS Phạm Phan Long, KS Ngô Minh Triết, KS Nguyễn Hữu Chung và rồi
thêm những người bạn khác của Mekong Forum, tiền thân của Viet Ecology
Foundation về sau này.
Rồi phải kể tới một bài báo đăng trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật
(03-11-1996): Khai thác sông Mekong: nhìn từ góc độ Việt Nam tuy đứng
tên KS Phạm Phan Long nhưng do 4 người viết, họ đều là những chuyên gia
từ hải ngoại: TS Phạm Văn Hải (Mỹ), KS Nguyễn Hữu Chung (Canada), TS
Bình An Sơn (Úc). Nội dung bài viết ấy cho tới nay vẫn còn nguyên tính
thời sự.
Năm 1999, một Hội nghị Mekong mở rộng do Mekong Forum và Vietnamese
American Science & Technology Society đồng tổ chức tại Nam
California với chủ đề: "Hội thảo về Sông Mekong trước Nguy cơ, Ảnh hưởng
Phát triển trên Dòng sông, ĐBSCL và Cư dân" với sự tham dự của liên hội
Tiền Giang và Hậu Giang, TS Sin Meng Srun Hội người Cam Bốt tại Mỹ, và
Aviva Imhof thuộc tổ chức Mạng lưới Sông ngòi Quốc tế/ International
Rivers Network. Kết thúc hội nghị là một bản Tuyên Cáo "The 1999 Mekong
River Declaration" được gửi tới MRC / Mekong River Commission và nhiều
tổ chức liên hệ khác.
Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây, chính anh Như Phong đã chấp bút giúp
Mekong Forum viết "Bản Tuyên ngôn Sông Mekong 1999" tiếng Việt, mà KS
Phạm Phan Long còn ghi lại cảm tưởng: "bản tiếng Việt ông viết khác hẳn
bản dịch khô khan của chúng tôi, ông mang hồn dân tộc vào để nói lên nỗi
thống khổ của đồng bào miền châu thổ trước vấn nạn thượng nguồn sắp
giáng xuống họ."
Như Phong, cho đến ngày anh mất, anh vẫn cùng chúng tôi tham gia
sinh hoạt của Nhóm Bạn Cửu Long với tầm nhìn "địa dư chính trị /
geopolitics" rộng mở trước những nan đề của Sông Mekong gắn liền với vận
mệnh của đất nước.
Và cho tới nay 1995-2016, cũng đã 21 trôi năm qua, tôi vẫn là người
bạn đồng hành bền bỉ với Nhóm Bạn Cửu Long, vẫn cứ là một con chim "báo
bão" từ những đám mây đen độc hại ngày càng dầy đặc hơn không ngừng đổ
xuống từ Phương Bắc.
Hình 6_ Khai thác sông Mekong: nhìn từ góc độ Việt Nam
bài báo đăng trên
Tuổi Trẻ Chủ Nhật 03-11-1996
GIẤC MỘNG LỚN NHƯ PHONG
Mới tới Mỹ, anh Như Phong đã có sẵn trong đầu bao nhiêu là dự án, có lẽ
được anh phác thảo từ những năm dài bị giam cầm. Trong đó phải kể tới
một dự án Truyền Thông Báo chí cho Việt Nam mang tầm vóc toàn cầu, anh
Như Phong không chỉ nói tới mà còn say sưa viết về dự án ấy. Anh Như
Phong quan niệm: phải chuẩn bị từ bây giờ cho một thời kỳ hậu cộng sản.
Anh mơ ước sẽ trở thành một " mogul / tài phiệt" trong ngành truyền
thông tại Việt Nam với trong tay một hệ thống báo chí, truyền thanh,
truyền hình... rộng khắp lãnh thổ.
Anh nói trước 1975, nếu đã có con tàu Hope ghé cảng Sài Gòn như một Bệnh
viện nổi, thì nay tại sao không thể một con tàu Truyền Thông, của cộng
đồng Việt Nam hải ngoại sẵn sàng cập bến thả neo trên bến cảng Sài Gòn,
như một tòa báo nổi với cả đài phát thanh và truyền hình. Trong đời làm
báo, chưa bao giờ anh thấy hào hứng đến như vậy, theo anh dự án Truyền
Thông ấy sẽ như một áp ứng kịp thời cho một Việt Nam đổi mới sau Cộng
sản. Trên con tàu ấy, có toà soạn nhà in để có thể ra báo, có hệ thống
đài phát thanh và truyền hình phủ sóng trên toàn lãnh thổ, tạo một mạng
lưới kết nối local-global-connect với trong nước và những cộng đồng di
dân Việt Nam trên khắp thế giới.
Giấc mộng lớn của một Như Phong rất đơn độc, trên vùng đất mới, với
không tiền bạc và cả rất giới hạn quỹ thời gian vì anh cũng đã bước qua
ngưỡng tuổi cổ lai hy. Những bạn trẻ rất trân trọng và quý anh Như
Phong, nhưng họ nhìn anh như một "người đi trên mây" -- chữ của nhà văn
Nguyễn Xuân Hoàng. Anh là hình ảnh lãng mạn của một Don Quichotte thời
hiện đại, phải chăng cũng vì thế mà anh Như Phong cứ luôn mãi trẻ trung.
Rồi tôi chợt nhớ tới dòng chữ đầy cảm khái trong bức thư tay của Dương
Nghiễm Mậu do Nguyên Khai mang qua: "Ngựa đã mỏi, đường còn xa, biết
tính sao đây."
Hình 7_ từ trái: Bùi Diễm, Trương Trọng Trác, Đỗ Văn, Như Phong, Nguyễn
Tường Giang, Phạm Dương Hiển [tư liệu Nguyễn Tường Giang]
Và bảy năm sau ngày đặt chân trên đất Mỹ, Như Phong đã quỵ ngã trên giấc mộng lớn của mình ở tuổi mới 78 vì bệnh ung thư phổi.
CHÂN DUNG VĂN HỌC NHƯ PHONG
Không cần hư cấu, Như Phong đã là một nhận vật tiểu thuyết. Nhà báo
Mỹ Sol Sanders, một "cố tri" của Như Phong của hơn nửa thế kỷ đã viết:
"Tiến đã sống sót sau ngót 14 năm trong trại cải tạo Cộng sản. Bảo rằng
tôi ngạc nhiên thì chưa đúng mức: Tiến là hiện thân của một chân dung
văn học, một người đàn ông mảnh mai với cặp kính cận dày. Không ai có
thể tưởng tượng anh đã sống sót qua vài tuần hay ít hơn vài năm trong
những điều kiện đã giết chết bao nhiệu tù nhân khác / Tien had survived
some 14 years in the Communist "re-education camps" and that he had been
released. To say that I was surprised would be a great understatement:
Tien was a personification of the literary figure, a slight man, with
his big spectacles. One coud not imagine him having survived a few
weeks, much less years under conditions which killed so many of his
fellow prisoners." [My "Coup Broker" Friend]
Với tôi, anh Như Phong đã nhập vai ông Khắc nhà báo, trong cuốn
tiểu thuyết dữ kiện "Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng" xuất bản năm
2000, một năm trước khi Như Phong mất. Trích dẫn từ CLCD BĐDS:
"Người đàn ông mái tóc điểm sương với cặp kính cận thật dầy bước đi
nhẹ và thanh thoát dọc theo hai bên hàng cây Jaracanda hoa tím nở đầy,
báo hiệu những ngày thật nắng ấm của miền nam Cali. Ông có dáng của một
cây tùng trước bão đứng vững qua bao nhiêu thăng trầm của thời thế cho
dù ông mang đủ thứ bệnh do những năm tháng dài tù đầy. Với bệnh phổi
đang thời gian điều trị thì khí hậu ở đây cũng là lý do khiến ông không
chọn Miền Đông với Trái Táo Lớn Nữu Ước như một vùng đất lành. Với ông
cũng như các nghệ sĩ lưu vong chọn cuộc hành trình tới Mỹ Quốc thì Nữu
Ước vẫn có sức mạnh hấp dẫn của một thứ lò luyện kim, để hoặc chỉ còn là
tro than hoặc trở thành chất thép tinh ròng.
Đã có một khoảng thời gian dài không biết đã mấy năm rồi, hàng ngày ông bước xuống những toa xe điện ngầm, chạy rầm rập như mắc cửi dưới lòng đất dưới cả lòng sông, như một thành phố mênh mông dưới một thành phố khác. Làm sao sức người có thể làm nên chuyện kỳ vĩ ấy khi chưa bước vào giai đọan kỹ thuật cao. Lúc đó với ông Nữu Ước mới thực sự là nước Mỹ của những bước khai phá với các thế hệ tiên phong. Nhưng rồi phải sống giữa cảnh bon chen tranh giật nhỏ nhen của Nữu Ước sau này, ông tự hỏi phải chăng đã qua rồi những thế hệ di dân lớn lao lẫm liệt, khi mà họ đã phải băng qua những sóng gió đại dương đặt chân tới tân lục địa này.
Đã có một khoảng thời gian dài không biết đã mấy năm rồi, hàng ngày ông bước xuống những toa xe điện ngầm, chạy rầm rập như mắc cửi dưới lòng đất dưới cả lòng sông, như một thành phố mênh mông dưới một thành phố khác. Làm sao sức người có thể làm nên chuyện kỳ vĩ ấy khi chưa bước vào giai đọan kỹ thuật cao. Lúc đó với ông Nữu Ước mới thực sự là nước Mỹ của những bước khai phá với các thế hệ tiên phong. Nhưng rồi phải sống giữa cảnh bon chen tranh giật nhỏ nhen của Nữu Ước sau này, ông tự hỏi phải chăng đã qua rồi những thế hệ di dân lớn lao lẫm liệt, khi mà họ đã phải băng qua những sóng gió đại dương đặt chân tới tân lục địa này.
Hôm ấy từ Nữu Ước trước khi bay về Cali, ông Khắc ghé qua Hoa Thịnh Đốn đúng vào mùa anh đào. Chưa thấy niềm vui hoa nở, ông đã khựng lại trước Bức Tường Thương Tiếc. Nhìn sang ngay phía bên kia công viên là tòa Nhà Trắng với Clinton đã trải qua hai nhiệm kỳ trong đó. Clinton thì ai cũng biết về một quá khứ trốn quân dịch. Ông ấy cũng không kém nổi tiếng về thành tích hút cần sa mà không hít vào phổi trong sân trường Đại Học Oxford giữa giai đoạn nóng nhất của cuộc Chiến Tranh Việt Nam khi mà Hà Nội đang có những nỗ lực cao nhất để nâng cao con số những thanh niên Mỹ thơ ngây can đảm và vô tội đi vào trong những nấm mồ.
Ông Khắc lúc ấy là phóng viên chiến tranh lại đang gian lao cùng với những người lính của Miền Nam lặn lội trong những cuộc hành quân trên đồng lầy hay rừng rú cao nguyên. Để rồi hai mươi lăm năm sau, lần thứ hai trở lại Mỹ đứng bên bức tường đá đen, với ông đâu phải chỉ sáu mươi ngàn tên thanh niên Mỹ mà chồng chất lên đó là hàng hàng lớp lớp xác chết của hàng triệu những người Việt Nam vô danh phải chăng đã chết vô ích do nỗi mê lầm của con người...
Bao giờ cũng vậy mỗi lần tới đây ông đã không cầm được xúc cảm. Một
nhà báo Mỹ bạn ông đã phát biểu rằng cho dù trong quá khứ anh chọn cuộc
chiến đấu chống Cộng sản trên đồng lầy ở Việt Nam hay đã chống lại cuộc
chiến tranh ấy ngay trên các đường phố ở Mỹ Quốc, thì sự hiện diện của
bức tường ấy vẫn khiến anh đau xé lòng. Huống chi chính ông đã có những
người bạn trong số sáu chục ngàn tên tuổi ấy trước khi chết vẫn còn vật
vã với ý nghĩa của cuôc chiến tranh và chưa hề bao giờ được thực sự an
nghỉ. Bỗng chốc ông Khắc có cái cảm giác mang mang giữa một thực tại thì
như là hư ảo – virtual reality, trong khi quá khứ thì có thật. Đến bao
giờ ông mới nhận ra được rằng chính quá khứ ấy mới là hư ảo, lẽ ra ông
phải sớm biết mà thoát ra để rũ đi những gánh nặng cho bước chân thênh
thang đi tới...
Sau những tháng dài đơn độc làm việc trong một thư viện miền nam
nước Pháp Aix-en-Provence, ông Khắc có dịp trở lại Little Saigon lại
đúng vào dịp 30 tháng 4 nhưng đã ở một phần tư thế kỷ sau. Giữa một rừng
cờ ấy, vẫn là những khẩu hiệu kêu đòi và ép buộc. Như từ bao giờ, chiến
thắng thì lúc nào cũng có vô số những cha mẹ trong khi thất bại thì
luôn luôn là con những bà Phước – nghĩa là mồ côi. Nhưng rồi ông Khắc tự
hỏi người Việt bên này hay bên kia đã học được gì sau cuộc chiến tranh
cốt nhục tương tàn ấy. Vẫn có đó một “nhân cách lịch sử – historic
dignity” cho phe chiến bại, tại sao không?" [CLCD BĐDS, Chương XXIII,
Nxb Văn Nghệ 2000]
Cuốn sách ấy anh Như Phong cũng đã đọc, anh có viết một bài điểm
sách nhưng cho đến nay chưa tìm lại được. Trong bản tiếng Anh "The Nine
Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil", Viet Ecology xuất bản
2016, tên nhân vật ông Khắc nay là nhà báo Như Phong.
VĨNH BIỆT NHƯ PHONG
Nhà báo Như Phong mất ngày 18 tháng 12, 2001 lúc 9:40 tối tại Thành
phố Fairfax, Virginia thọ 78 tuổi với một tang lễ đơn giản, và ước
nguyện của Như Phong là tro than của ông một ngày nào đó sẽ được rải
xuống trên mảnh đất quê nhà.
Ước mong rồi ra có những bạn trẻ thuộc thế hệ thứ hai sẽ chọn Như
Phong cho một đề tài luận án Tiến sĩ, đó cũng chính là luận án về lịch
sử báo chí Việt Nam của hậu bán thế kỷ 20 mà Như Phong là sợi chỉ đỏ nối
kết những giai đoạn của một thời kỳ giông bão nhất của đất nước.
Cuối cùng, cũng ước mong rằng tiếp sau thời điểm ra mắt Tuyển Tập
Như Phong, như một tưởng niệm giỗ thứ 15 của anh, các bạn anh sẽ có một
dự án phục hồi bộ trường thiên tiểu thuyết "Khói Sóng" là ước nguyện
cuối đời của nhà văn Như Phong.
NGÔ THẾ VINH
Little Saigon, 10.07.2016
Cậu tôi: NHƯ PHONG LÊ VĂN TIẾN
- Từ Dung
Ông Như Phong Lê Văn Tiến tại Little Saigon năm 1997
CẬU NHƯ PHONG LÊ VĂN TIẾN LÀ AI?
CON NGƯỜI – CÁ TÍNH
Thật ra, Như Phong Lê văn Tiến là nhân vật như thế nào?
Từ một người quen biết sơ giao, từ một người bạn thân tình, từ một
người cùng hay không cùng chí hướng, tất cả đều nhìn ngắm con người cậu
tôi dưới những khía cạnh, những quan điểm khác biệt, để rồi dẫn đến
những kết luận, ý kiến có tính cách cá nhân, cũng giống như nhiều anh mù
được dẫn đến sờ nắm những bộ phận khác nhau của một con voi, anh thì
cho con voi là cái quạt, cái cột đình... vân vân...
Nhưng, có một điểm chung, dù là người Việt Nam hay ngoại quốc, dù là bạn
hay thù, ai cũng phải kính nể cậu tôi, cũng tìm đến, ngồi xuống bên cậu
để được lắng nghe những lời bình luận sắc bén, những lời khuyên bảo
thẳng thắn chân thành của cậu.
Một nhà ái quốc chân chính? Không ai có thể phủ nhận điều đó. Cả tuổi trẻ, cả cuộc đời của cậu, cậu đã cống hiến cho tình yêu thương tổ quốc, dân tộc, không màng danh lợi cho chính bản thân mình. Cả tới hạnh phúc riêng tư, cậu tôi cũng gạt bỏ qua một bên để sống trọn vẹn cho lý tưởng của cậu.
Một nhà cách mạng lão thành? Nếu thế thì những tư tưởng mới mẻ cải tiến về chính trị xã hội có tính cách đi trước tương lai cuả cậu có đủ sức thuyết phục được những đầu óc bảo thủ chỉ lo thủ lợi cho cá nhân? Ở phương diện này, quả cậu tôi đã vấp phải nhiều trở lực khó khăn. Cuộc đời tù tội liên miên của cậu là bằng chứng hùng hồn của sự thất bại này trong đời cậu. Nhưng trong sự thất bại có thành công, thành công ở chỗ thông điệp của cậu có thể được truyền bá cho thế hệ mai sau, cũng như mỗi người chúng ta có trách nhiệm chuyển giao thông điệp của cậu, một khi thấm nhuần được tư tưởng sâu sắc ấy!
Một chính trị gia lỗi lạc? Nhưng mà cậu chính là người nói với tôi: «Cậu không làm chính trị, cậu không thích danh từ đó cũng như những biện luận để bảo vệ cho danh từ đó. Cậu, cũng như ba em(lối xưng hô của cậu đối với tôi vì cậu dạy tôi học từ nhỏ) chỉ có một chí hướng là làm việc hết sức mình để đem lại hạnh phúc cho đồng bào, góp phần dù nhỏ bé thế mấy cho công cuộc xây dựng đất nước».
Đúng thế, thần tượng của cậu về mọi phương diện của cuộc đời cậu là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Có những lúc tôi nhìn thấy đôi mắt của cậu chiếu lên những tia sáng rực rỡ như ánh lửa trong đêm mới hiểu được ảnh hưởng sâu đậm của ba tôi với cậu và những người cùng thế hệ cậu...
Một nhà văn, một nhà báo có tài, có nhiệt tình với nghề cầm bút? Những bút tích do cậu tôi để lại là chứng minh hùng hậu cho lập luận đó!
Tác giả (lên 6) với cậu Tiến tại Hồ Gươm trước khi di cư vào Nam năm 1954
Một người bạn tốt, chân thành, đáng tin cậy? Có thể gọi là tuyệt đối như thế! Những người bạn thân thiết, đồng nghiệp như ông Đinh Trịnh Chính, Nguyễn Ngọc Linh, Nghiêm Xuân Hàm, P.G.Honey hoặc cộng sự nhỏ tuổi hơn cậu như ông Trần Như Tráng, Tạ văn Tài, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Mạnh Hùng, Phan Lâm Hương... đều ngưỡng mộ cậu, ở một khía cạnh hay nhiều khía cạnh khác nhau. Đêm nào, ở căn nhà chúng tôi trên đường Phan Thanh Giản, cũng có ít nhất năm hay mười nhân sĩ, nhỏ tuổi có, lớn tuổi có, ngồi quây quần quanh cậu để bàn luận chuyện quốc sự, quốc tế cho đến ít nhất là 12 giờ đêm, rồi mới luyến tiếc ra về.
Về cá tính con người cậu? Cậu là một người thẳng thắn, cương trực, đầy nhiệt huyết, nóng tính đôi lúc đi đến cực đoan nếu phải bảo vệ lập trường. Có lúc cậu thích diễu cợt khôi hài, lối châm biếm của cậu nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, tưởng thế mà không phải thế. Nhiều khi người bị đùa giỡn phải về đến nhà mới hiểu được ý nghiã thâm thúy của câu nói đùa và mới cảm thấy đau. Mặc dù cậu tự cho mình là Khổng Minh Gia Cát Lượng mềm dẻo khôn khéo, thật ra, tính cương trực của cậu đôi khi dẫn đến tính cách cực đoan, do đó lời tiên tri của cậu dễ đụng chạm và bị phản kháng bởi xã hội.
MỐI LIÊN HỆ của CẬU NHƯ PHONG với GIA ĐÌNH NGUYỄN TƯỜNG
Có phải cậu là một người cậu thương cháu, biết lo lắng cho gia đình, giúp đỡ bà chị tần tảo nuôi các cháu lớn khôn? Không ai bằng cậu tôi. «Cậu giáo bê bê», đó là danh từ chính tôi đặt cho cậu lúc tôi 7 tuổi, vì cậu đã dạy tôi học phụ thêm tại nhà từ những ngày tôi mới cắp sách đến trường, với những vần mẫu tự a,b,c...
Lọt lòng mẹ không có may mắn được có cha bên cạnh vì ba tôi đã đi sang Trung Hoa hoạt động cách mạng cùng các bác, các chú, tôi được bù đắp bằng tình thương của mẹ, của bà ngoại, của cậu tôi và các anh các chị. Cậu là bàn tay đầu tiên đã bế ẵm tôi khi tôi mới chào đời, là người đầu tiên được tôi «tưới hoa rửa tội». Cậu cũng đã thay thế ba tôi để hướng dẫn tôi từ những bước đi chập chững thời thơ ấu cho đến lúc lớn khôn. Dù tên cúng cơm Từ Dung do ba tôi viết thơ gửi về cho tôi, nhưng công nuôi dưỡng cho đến thành nhân một phần lớn là nhờ công sức của cậu. Ba tôi mất vì bệnh tim trên chiếc xe lửa về Quảng Châu sau khi gặp gỡ mẹ tôi vào năm 1948, lúc đó tôi được 19 tháng và chưa một lần được nhìn mặt bố.
Tôi không được biết sự kiện nào đã đưa đẩy cậu Tiến đến với gia đình Nguyễn Tường, chỉ qua lời thuật lại của cậu, là cậu bất mãn với hoàn cảnh gia đình và người vợ hai của bố nên đã bỏ nhà ra đi, mang theo cơn bệnh phổi ngặt nghèo. Lúc đó vào khoảng 1945, cậu cũng có một người em tên là cậu Nguyễn Ngọc Ấn, thỉnh thoảng có đến thăm cậu và cũng là người ở gần cậu lúc cậu hấp hối.
Từ lúc ba tôi mang cậu về, ba mẹ tôi đã cưu mang cậu dưới mái ấm gia đình của chúng tôi. Cũng nhờ lòng thương người của bà ngoại tôi, vì ba tôi và sự săn sóc chu đáo của ba mẹ tôi, bệnh tình cậu đã hồi phục. Kể từ đó, cậu trở thành một thành phần trong gia đình tôi, sự có mặt của cậu không thể thiếu vắng được nữa!
Cùng với bà cô tôi, bà Cả, và mẹ tôi, cậu tôi đã thay mặt ba phụng dưỡng bà ngoại tôi trong thời gian ba đi họat động cách mạng bên Trung Hoa. Cậu gọi bà ngoại tôi là mẹ nuôi của cậu. Ông ngoại tôi làm tham tá thời Pháp thuộc nên người ta gọi bà ngoại là cụ Tham Bình.
Song song với sự gia nhập vào gia đình tôi, cậu cũng được ba tôi hướng dẫn về tinh thần, hun đúc ngọn lửa nhiệt tình với dân tộc đã cháy sẵn trong tâm hồn cậu. Cậu tôi bước vào sự nghiệp báo chí cũng do sự hướng đạo của ba tôi. Lý tưởng của cậu là dùng những phương tiện truyền thông để phổ biến trong dân chúng những tin tức quốc nội, quốc ngoại cũng như thẳng thắn phê bình và sửa đổi những trật tự xã hội sai lầm mang lại sự đau khổ cho dân chúng. Khi tôi bước vào ngành nghệ thuật ca hát song song với nghề dạy học, cậu tôi bảo rằng: «Con đã chọn lầm nghề rồi, nghề của con phải phục vụ cho quần chúng bằng media mới đúng».
THỜI KỲ DI CƯ VÀO NAM
Ba tôi, Hoàng Đạo, mất vào năm 1948 lúc tôi được 18 tháng. Thời gian này, để an ủi gia đình tôi, cậu Tiến đã có mặt thường xuyên bên cạnh mẹ nuôi (bà ngoại tôi, tức cụ Tham Bình), chị và các cháu để nâng đỡ tinh thần. Không biết chúng tôi sẽ ra sao nếu không có cậu lúc ấy.
Không ai trong gia đình vào thời điểm ấy không nghĩ về cậu như cậu ruột. Trước năm 1954, cậu đã nhìn trước sự việc và thuyết phục mẹ và bà tôi chuẩn bị di cư vào Nam. Bà tôi sợ sự thay đổi và còn luyến tiếc mấy căn nhà ở Hà Nội khó thanh toán, nhưng sau cùng cũng xiêu lòng.Thế là, mùa Xuân năm 1954, chúng tôi vội vã ra đi, nước mắt rưng rưng nhìn ngoái lại căn nhà quét vôi trắng số 18 bis Lý Thái Tổ, nhìn lại cây bàng lá xum xuê đỏ trong khuôn sân nhỏ, nhìn lại lão bộc trung thành tên Lui, nhìn lại căn phố quen thuộc đầy kỷ niệm thuở ấu thời. Lúc đó tôi mới được 7 tuổi, vẫn còn là em bé bêbê của cậu giáo.
Vào đến Nam, mẹ tôi phải trở lại Hà Nội để thu xếp vội vã mấy căn nhà. Cậu tôi lãnh nhiệm vụ trông nom bà ngoại và chúng tôi. Lúc đó gia đình tôi rất lo lắng mẹ tôi sẽ kẹt lại miền Bắc vì cửa ngõ phân chia hai miền sắp bắt đầu đóng. Nhưng mẹ tôi trở về kịp lúc. Bà mua một căn nhà rất rộng ở mặt tiền đường Phan Thanh Giản (bây giờ là Điện Biên Phủ) số nhà 20. Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá Thăng Long, rất được khách hàng ưa chuộng thời bấy giờ. Thời gian sau, bà cho thuê mở bar restaurant tên Kontiki.
VAI TRÒ của CẬU TIẾN trong GIA ĐÌNH TÔI
Tôi có hai người anh và một người chị. Chị lớn tên là Nguyễn Minh Thu, người anh thứ hai là Nguyễn Tường Ánh, anh thứ ba là Nguyễn Lân. Tôi là con út, nên ai cũng thương yêu chiều chuộng, nhất là mẹ tôi và cậu tôi. Nhưng cậu cũng rất nghiêm khắc khi phải uốn nắn dạy dỗ tôi về mọi mặt. Cậu luôn luôn nhắc nhở tôi về chí khí, lý tưởng của ba tôi và dòng họ Nguyễn Tường.
Tôi vốn thích thơ văn từ thuở 7, 8 tuổi. Tôi thuộc lòng nhiều đoạn trong thơ Kiều, còn cố gắng làm trường thi ca bắt chước các bậc tiền bối. Tôi trót thương thầm một chàng hàng xóm cùng tuổi hay chơi đánh bi nhà bên cạnh và làm một bài thơ như sau cho chàng:
Nhưng cũng không ai biết mối tình
Lặng thầm giữa đôi lứa thư sinh
Vì họ cũng không hề hé miệng
Tỏ cho nhau biết nỗi lòng mình
Bài thơ này làm tôi ăn đòn của cậu Tiến và vì cậu đã mất nên sau này không ai tin tôi đã làm thơ tình từ 7 tuổi!
Đi chơi với bạn về trễ 15 phút, đôi khi cũng ăn bạt tai!
Khi tôi lớn lên và tiếp tục làm thơ tình, cậu chỉ lắc đầu và nói:«Hỏng, hỏng thật»!
Trong gia đình tôi, cậu Tiến giữ địa vị của một người con, người em, người cậu thay mặt cho người cha quá cố để giúp đỡ chị nuôi dưỡng các cháu còn thơ dại. Cho đến nay, chị em chúng tôi đều khôn lớn, cũng là nhờ công của cậu rất nhiều và tôi nghĩ chúng tôi không thể nào phủ nhận công ơn ấy. Chị Minh Thu tôi là người lớn nhất trong bốn chị em, cũng góp phần giúp mẹ dạy dỗ các em mồ côi bố từ lúc còn bé bỏng.
Trong thời gian đó, cậu được nhiều nhóm khác nhau mời tham dự các tổ chức như Hội Đồng Nhân Sĩ, một ghế bộ trưởng trong chính phủ Phan Huy Quát, nhưng cậu chỉ thích đứng ngoài đóng góp ý kiến, làm quân sư quạt mo, như một thời gian cậu cũng giúp tướng Kỳ. Niềm đam mê của cậu là tờ báo Tự Do cũng như hoàn thành trường thiên tiểu thuyết «Khói sóng» mà cậu còn viết dang dở cùng thời gian với tiểu thuyết« Tị Bái» của nhà văn Nguyễn Hoạt. Cậu cũng giữ mục điểm tin ngoài Bắc với bút hiệu Cô Thần, nên một số người gọi cậu là chuyên viên về Cộng Sản Bắc Việt nhưng cậu phủ nhận danh hiệu này. Cậu thường nói cùng tôi: «Nhược điểm của cậu là chuyện tình cảm nam nữ, cậu viết chuyện đó dở vì không có nhiều kinh nghiệm thực tế, truyện cậu thiên về biện luận hay phê bình thì có chất lượng hơn».
Quả thực là đời sống tình cảm cậu nghèo nàn ít ỏi. Theo tôi biết có một cô Thu nào đó rất thương cậu nhưng không thành. Cậu chỉ miệt mài làm việc với đống sách vở cao tận trần nhà, hoặc họp mặt cùng bè bạn bàn chuyện quốc sự, hoặc đi nước ngoài dự hội nghị.
Về phần gia đình tôi, lúc đó mẹ tôi «gà mái nuôi con» cùng bà mẹ già nên rất khó khăn. Tuy có một số vốn do bán đổ bán tháo mấy ngôi nhà ngoài Hà Nội, nhưng vì tính tình bà rộng rãi và hay thương người giúp đỡ, chia sẻ những gì bà có nên mẹ tôi không giàu được. Cậu tôi cũng cố gắng giúp gia đình trong khả năng của cậu.
Có những dư luận đồn đại không hay về sự liên hệ giữa mẹ tôi và cậu Tiến, bắt nguồn từ sự ganh ghét của người ngoài họ hoặc trong họ. Những dư luận này bóp méo và bôi nhọ tình cảm trong sạch và đẹp đẽ mà người tầm thường không hiểu nổi. Gia đình tôi rất phẫn nộ vì những dư luận xấu xa đê tiện đó!
Tác giả và cậu Tiến.
SỰ CHUYỂN MÌNH của THỜI ĐẠI
Thời gian ở Saigon dưới chế độ của ông Ngô Đình Diệm êm đềm trôi. Nếp sống của người dân trong lúc đó tương đối đầy đủ và no ấm. Năm 1960, nhờ cậu Tiến nói giúp, tôi được mẹ cho tháp tùng sang Nhật Bản, Hồng Kông và Thái Lan chơi. Ở Thái Lan, chúng tôi cư ngụ tại nhà ông Đại Sứ Việt Nam tại Thái Lan là ông Đinh Trịnh Chính. Bà Chính rủ chúng tôi trở lại Hồng Kông cùng bà nhưng chúng tôi từ chối để trở về Việt Nam. Tin như sét đánh ngang tai, trong chuyến bay đi Hồng Kông, chiếc máy bay đã rớt xuống biển và bà Chính đã bỏ mình cùng với tất cả hành khách trong chuyến bay định mệnh ấy.
Năm 1963 cậu Tiến bị bắt giam vì tờ báo Tự Do có những lời lẽ chống chế độ. Mẹ tôi và tôi đi từ nơi này sang nơi khác, từ An Ninh Quân Đội sang Tổng Nha Cảnh Sát để thăm nuôi cậu. Thời gian này, ông P.G.Honey, một ký giả nổi tiếng từ Anh quốc thường xuyên lui tới hỏi thăm sức khoẻ cậu. Nhà văn Chu Tử cũng bị bắn thủng họng trong thời gian này, chúng tôi cũng lui tới thăm ông vì con gái ông là Chu Vỵ Thủy là bạn thân tôi.
Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát, cậu tôi được thả về và tiếp tục hoạt động. Mẹ tôi bán căn nhà ở đường Phan Thanh Giản, mua một căn nhà nhỏ ở Chu Văn An, Ngã Năm Bình Hòa.
Năm 1963 đến 1968 là thời gian cậu tôi lại miệt mài làm việc, gặp gỡ rất nhiều nhân vật quan trọng trong chính trường. Cậu tôi thường xuyên nhắc đến Nguyễn Chánh Thi và sau là Nguyễn Cao Kỳ. Dù thời gian đầu, cậu tìm được đôi chút phấn khởi khi làm việc với ông Kỳ nhưng về sau, tôi thấy rõ ràng là cậu đã bị thất vọng có lẽ những lời khuyên của cậu không đủ sức thuyết phục đường lối làm việc của tướng Kỳ và những người cộng sự của ông.
Năm 1968: Saigon vùi dập dưới «Khói sóng» của tết Mậu Thân. Cả gia đình chúng tôi phải di tản tạm thời sang một căn nhà ba tầng ở đường Nguyễn Thiện Thuật vì căn nhà ở Ngã Năm Bình Hòa đã bị bắn nát cả mái ngói và lửa cháy đen sạm.
Năm 1969: tôi lập gia đình và sanh con gái đầu lòng tên Từ Công Ý Uyên. Cậu Tiến tôi rất yêu qúy cô bé này. Những năm trong tù Cộng Sản, tấm hình của bé Uyên luôn luôn được ông nhìn ngắm mỗi ngày, tấm hình giúp ông sức mạnh tinh thần từ mái ấm gia đình để duy trì tinh thần bất khuất dưới áp lực của gông cùm Cộng sản.
Thời gian này, tôi tức là Nguyễn Từ Dung, tên thật do ba tôi đặt cho từ lúc ông ở Trung Hoa, tham gia những chương trình hát cho sinh viên từ các trường đại học, những buổi đại nhạc hội, những hộp đêm như Ritz, Lê Lai, Quán Tre, Khánh Ly... những chương trình truyền hình như Văn Phụng, Phạm Mạnh Cương...
Cậu tôi lắc đầu: «Con đi lạc đường rồi, nghiệp của con là viết văn, viết báo, là phục vụ cho media».
Tôi có nhà riêng nên chỉ lui về nhà mẹ mỗi ngày để thăm hỏi nên ít có dịp gần gũi chuyện trò với cậu như trước. Mãi cho đến 1975, tôi bán căn nhà riêng về ở với mẹ để trông nom bà vì bà đã bị ung thư nặng và cưa đi một cánh tay, tôi mới lại được chia xẻ cùng một mái nhà với cậu tôi. Sau đây là một đoạn chuyện trích từ tập truyện «Hồi Tưởng» của Từ Dung viết cùng với giáo sư Trần Hoài Bắc:
ĐÊM KINH HOÀNG vào THÁNG TƯ NĂM 1976 (trích trong tập truyện Hồi Tưởng)
«Tại ngôi nhà nhỏ với một vườn lan đơn sơ phía trước trong ngõ hẻm Chu Văn An của xóm Ngã Năm Bình Hòa, người ta thấy một ông trung niên tóc ngả bạc, vận một bộ đồ bà ba vải đen, đi đi lại lại chăm sóc những chậu lan Tiên Hài, Catlaya rực rỡ.
Dân trong xóm cũng mang máng biết rằng trước năm 1975, ông Ba Tốc là một nhân vật quan trọng. Mặc dù không ai biết chính xác ông làm chức vụ gì trong chính quyền, ngoài nghề viết văn làm báo. Bây giờ chỉ thấy ông sống một cách lặng lẽ, mộc mạc, với vườn lan của ông. Nụ cười thân thiện, phúc hậu luôn nở trên khuôn mặt quắc thước. Có ai nhìn kỹ thì mới thấy sau cặp kính trắng, đôi mắt hiền hậu đôi khi sáng quắc lên như ngọn đuốc bùng lên trong đêm.
Trước đó, ông Ba Tốc đã giục giã con cháu ra đi bằng bất cứ cách nào, tìm đường trốn chạy khỏi ách Cộng Sản. Ông đã gửi con trai trưởng của Nguyễn Tường Ánh tên là Nguyễn Tường Kiên đi cùng với em ruột ông là cậu Nguyễn Ngọc Ấn. Nhưng bản thân ông, ông phải ở lại vì những lý do đặc biệt sau đây:
Thứ nhất: Ông chọn lựa đối mặt thực sự với «Cộng sản», đối tượng mà ông đã dày công sưu tầm tài liệu, nghiên cứu các dữ kiện để đưa lên mặt báo. Người ta gọi ông là «chuyên viên về Cộng sản Bắc Việt» với bút hiệu Cô Thần, thì hiện tại, giờ phút này, chính là một dịp may để ông sống thực sự trong thể chế Cộng sản, làm một nhân chứng cụ thể cho những biến cố của xã hội chủ nghĩa. Đó là một thử thách mà một nhân vật tầm cỡ như ông Ba không thể bỏ qua. Đó cũng là nỗi ám ảnh về ý thức hệ, về nhân sinh quan của những người cầm bút. Văn hào Soljenitsin của Liên Xô sau khi thoát khỏi ách Cộng sản Nga đã tuyên bố rằng đời sống hiện tại của ông ở xã hội tự do quá đầy đủ, ông không còn thấy hứng thú để viết, để sáng tác những tuyệt tác như hồi còn ở bên Nga Xô!
Lý do thứ hai là chị nuôi của ông, bà Nguyễn Tường Long đã trở bệnh ung thư ngặt nghèo, cánh tay trái của bà đã bị cưa đi hai lần để tránh sự lan rộng của tế bào ung thư. Bà được chữa chạy trong 9 năm trời với sự điều trị tận tâm của bác sĩ Trần Ngọc Ninh, nhưng căn bệnh quái ác cứ lan dần như cục u nơi cánh tay bà cứ mọc rễ lan dần ra. Trong những cơn đau đớn quằn quại của cơn bệnh, phải có mặt người thân để săn sóc bà.
Trở lại chuyện ông Ba, dĩ nhiên, ông không thể ngây thơ đến độ không biết rằng, Cộng sản đã và đang theo dõi, rình rập những nhân sĩ, những nhà văn nhà báo, những nhân vật có liên hệ đến chế độ trước mà chưa nằm trong trại cải tạo của họ. Sau vụ kiểm tra văn hóa tại Saigon năm 1975, ông đã đốt sạch nhiều tài liệu sưu tập từ bao năm, báo chí hình ảnh, sách vở với những giá trị lịch sử vô cùng quý báu. Nhưng ông vẫn giữ lại được một số, trong số đó, có một tấm hình bác Hồ đứng ngạo nghễ trên đống xương người ngổn ngang.»
«Màn đêm đã buông xuống trên xóm nghèo Ngã Năm Bình Hòa. Tất cả đã chìm trong yên lặng, một sự im lặng dày đặc và đen tối. Không gian ngột ngạt khó thở. Ông Ba đang thiu thiu bỗng giật mình, tim ông bỗng nhói đau. Một tiếng xe thắng rít lên, rồi tiếng người lao xao trước ngõ. Ông Ba biết chuyện gì phải đến đang đến, trong tận cùng sâu thẳm của tâm tư ông, ông vẫn chờ đợi ngày hôm nay trong sự chối từ ý thức.
Một nhà ái quốc chân chính? Không ai có thể phủ nhận điều đó. Cả tuổi trẻ, cả cuộc đời của cậu, cậu đã cống hiến cho tình yêu thương tổ quốc, dân tộc, không màng danh lợi cho chính bản thân mình. Cả tới hạnh phúc riêng tư, cậu tôi cũng gạt bỏ qua một bên để sống trọn vẹn cho lý tưởng của cậu.
Một nhà cách mạng lão thành? Nếu thế thì những tư tưởng mới mẻ cải tiến về chính trị xã hội có tính cách đi trước tương lai cuả cậu có đủ sức thuyết phục được những đầu óc bảo thủ chỉ lo thủ lợi cho cá nhân? Ở phương diện này, quả cậu tôi đã vấp phải nhiều trở lực khó khăn. Cuộc đời tù tội liên miên của cậu là bằng chứng hùng hồn của sự thất bại này trong đời cậu. Nhưng trong sự thất bại có thành công, thành công ở chỗ thông điệp của cậu có thể được truyền bá cho thế hệ mai sau, cũng như mỗi người chúng ta có trách nhiệm chuyển giao thông điệp của cậu, một khi thấm nhuần được tư tưởng sâu sắc ấy!
Một chính trị gia lỗi lạc? Nhưng mà cậu chính là người nói với tôi: «Cậu không làm chính trị, cậu không thích danh từ đó cũng như những biện luận để bảo vệ cho danh từ đó. Cậu, cũng như ba em(lối xưng hô của cậu đối với tôi vì cậu dạy tôi học từ nhỏ) chỉ có một chí hướng là làm việc hết sức mình để đem lại hạnh phúc cho đồng bào, góp phần dù nhỏ bé thế mấy cho công cuộc xây dựng đất nước».
Đúng thế, thần tượng của cậu về mọi phương diện của cuộc đời cậu là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Có những lúc tôi nhìn thấy đôi mắt của cậu chiếu lên những tia sáng rực rỡ như ánh lửa trong đêm mới hiểu được ảnh hưởng sâu đậm của ba tôi với cậu và những người cùng thế hệ cậu...
Một nhà văn, một nhà báo có tài, có nhiệt tình với nghề cầm bút? Những bút tích do cậu tôi để lại là chứng minh hùng hậu cho lập luận đó!
Tác giả (lên 6) với cậu Tiến tại Hồ Gươm trước khi di cư vào Nam năm 1954
Một người bạn tốt, chân thành, đáng tin cậy? Có thể gọi là tuyệt đối như thế! Những người bạn thân thiết, đồng nghiệp như ông Đinh Trịnh Chính, Nguyễn Ngọc Linh, Nghiêm Xuân Hàm, P.G.Honey hoặc cộng sự nhỏ tuổi hơn cậu như ông Trần Như Tráng, Tạ văn Tài, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Mạnh Hùng, Phan Lâm Hương... đều ngưỡng mộ cậu, ở một khía cạnh hay nhiều khía cạnh khác nhau. Đêm nào, ở căn nhà chúng tôi trên đường Phan Thanh Giản, cũng có ít nhất năm hay mười nhân sĩ, nhỏ tuổi có, lớn tuổi có, ngồi quây quần quanh cậu để bàn luận chuyện quốc sự, quốc tế cho đến ít nhất là 12 giờ đêm, rồi mới luyến tiếc ra về.
Về cá tính con người cậu? Cậu là một người thẳng thắn, cương trực, đầy nhiệt huyết, nóng tính đôi lúc đi đến cực đoan nếu phải bảo vệ lập trường. Có lúc cậu thích diễu cợt khôi hài, lối châm biếm của cậu nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, tưởng thế mà không phải thế. Nhiều khi người bị đùa giỡn phải về đến nhà mới hiểu được ý nghiã thâm thúy của câu nói đùa và mới cảm thấy đau. Mặc dù cậu tự cho mình là Khổng Minh Gia Cát Lượng mềm dẻo khôn khéo, thật ra, tính cương trực của cậu đôi khi dẫn đến tính cách cực đoan, do đó lời tiên tri của cậu dễ đụng chạm và bị phản kháng bởi xã hội.
MỐI LIÊN HỆ của CẬU NHƯ PHONG với GIA ĐÌNH NGUYỄN TƯỜNG
Có phải cậu là một người cậu thương cháu, biết lo lắng cho gia đình, giúp đỡ bà chị tần tảo nuôi các cháu lớn khôn? Không ai bằng cậu tôi. «Cậu giáo bê bê», đó là danh từ chính tôi đặt cho cậu lúc tôi 7 tuổi, vì cậu đã dạy tôi học phụ thêm tại nhà từ những ngày tôi mới cắp sách đến trường, với những vần mẫu tự a,b,c...
Lọt lòng mẹ không có may mắn được có cha bên cạnh vì ba tôi đã đi sang Trung Hoa hoạt động cách mạng cùng các bác, các chú, tôi được bù đắp bằng tình thương của mẹ, của bà ngoại, của cậu tôi và các anh các chị. Cậu là bàn tay đầu tiên đã bế ẵm tôi khi tôi mới chào đời, là người đầu tiên được tôi «tưới hoa rửa tội». Cậu cũng đã thay thế ba tôi để hướng dẫn tôi từ những bước đi chập chững thời thơ ấu cho đến lúc lớn khôn. Dù tên cúng cơm Từ Dung do ba tôi viết thơ gửi về cho tôi, nhưng công nuôi dưỡng cho đến thành nhân một phần lớn là nhờ công sức của cậu. Ba tôi mất vì bệnh tim trên chiếc xe lửa về Quảng Châu sau khi gặp gỡ mẹ tôi vào năm 1948, lúc đó tôi được 19 tháng và chưa một lần được nhìn mặt bố.
Tôi không được biết sự kiện nào đã đưa đẩy cậu Tiến đến với gia đình Nguyễn Tường, chỉ qua lời thuật lại của cậu, là cậu bất mãn với hoàn cảnh gia đình và người vợ hai của bố nên đã bỏ nhà ra đi, mang theo cơn bệnh phổi ngặt nghèo. Lúc đó vào khoảng 1945, cậu cũng có một người em tên là cậu Nguyễn Ngọc Ấn, thỉnh thoảng có đến thăm cậu và cũng là người ở gần cậu lúc cậu hấp hối.
Từ lúc ba tôi mang cậu về, ba mẹ tôi đã cưu mang cậu dưới mái ấm gia đình của chúng tôi. Cũng nhờ lòng thương người của bà ngoại tôi, vì ba tôi và sự săn sóc chu đáo của ba mẹ tôi, bệnh tình cậu đã hồi phục. Kể từ đó, cậu trở thành một thành phần trong gia đình tôi, sự có mặt của cậu không thể thiếu vắng được nữa!
Cùng với bà cô tôi, bà Cả, và mẹ tôi, cậu tôi đã thay mặt ba phụng dưỡng bà ngoại tôi trong thời gian ba đi họat động cách mạng bên Trung Hoa. Cậu gọi bà ngoại tôi là mẹ nuôi của cậu. Ông ngoại tôi làm tham tá thời Pháp thuộc nên người ta gọi bà ngoại là cụ Tham Bình.
Song song với sự gia nhập vào gia đình tôi, cậu cũng được ba tôi hướng dẫn về tinh thần, hun đúc ngọn lửa nhiệt tình với dân tộc đã cháy sẵn trong tâm hồn cậu. Cậu tôi bước vào sự nghiệp báo chí cũng do sự hướng đạo của ba tôi. Lý tưởng của cậu là dùng những phương tiện truyền thông để phổ biến trong dân chúng những tin tức quốc nội, quốc ngoại cũng như thẳng thắn phê bình và sửa đổi những trật tự xã hội sai lầm mang lại sự đau khổ cho dân chúng. Khi tôi bước vào ngành nghệ thuật ca hát song song với nghề dạy học, cậu tôi bảo rằng: «Con đã chọn lầm nghề rồi, nghề của con phải phục vụ cho quần chúng bằng media mới đúng».
THỜI KỲ DI CƯ VÀO NAM
Ba tôi, Hoàng Đạo, mất vào năm 1948 lúc tôi được 18 tháng. Thời gian này, để an ủi gia đình tôi, cậu Tiến đã có mặt thường xuyên bên cạnh mẹ nuôi (bà ngoại tôi, tức cụ Tham Bình), chị và các cháu để nâng đỡ tinh thần. Không biết chúng tôi sẽ ra sao nếu không có cậu lúc ấy.
Không ai trong gia đình vào thời điểm ấy không nghĩ về cậu như cậu ruột. Trước năm 1954, cậu đã nhìn trước sự việc và thuyết phục mẹ và bà tôi chuẩn bị di cư vào Nam. Bà tôi sợ sự thay đổi và còn luyến tiếc mấy căn nhà ở Hà Nội khó thanh toán, nhưng sau cùng cũng xiêu lòng.Thế là, mùa Xuân năm 1954, chúng tôi vội vã ra đi, nước mắt rưng rưng nhìn ngoái lại căn nhà quét vôi trắng số 18 bis Lý Thái Tổ, nhìn lại cây bàng lá xum xuê đỏ trong khuôn sân nhỏ, nhìn lại lão bộc trung thành tên Lui, nhìn lại căn phố quen thuộc đầy kỷ niệm thuở ấu thời. Lúc đó tôi mới được 7 tuổi, vẫn còn là em bé bêbê của cậu giáo.
Vào đến Nam, mẹ tôi phải trở lại Hà Nội để thu xếp vội vã mấy căn nhà. Cậu tôi lãnh nhiệm vụ trông nom bà ngoại và chúng tôi. Lúc đó gia đình tôi rất lo lắng mẹ tôi sẽ kẹt lại miền Bắc vì cửa ngõ phân chia hai miền sắp bắt đầu đóng. Nhưng mẹ tôi trở về kịp lúc. Bà mua một căn nhà rất rộng ở mặt tiền đường Phan Thanh Giản (bây giờ là Điện Biên Phủ) số nhà 20. Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá Thăng Long, rất được khách hàng ưa chuộng thời bấy giờ. Thời gian sau, bà cho thuê mở bar restaurant tên Kontiki.
VAI TRÒ của CẬU TIẾN trong GIA ĐÌNH TÔI
Tôi có hai người anh và một người chị. Chị lớn tên là Nguyễn Minh Thu, người anh thứ hai là Nguyễn Tường Ánh, anh thứ ba là Nguyễn Lân. Tôi là con út, nên ai cũng thương yêu chiều chuộng, nhất là mẹ tôi và cậu tôi. Nhưng cậu cũng rất nghiêm khắc khi phải uốn nắn dạy dỗ tôi về mọi mặt. Cậu luôn luôn nhắc nhở tôi về chí khí, lý tưởng của ba tôi và dòng họ Nguyễn Tường.
Tôi vốn thích thơ văn từ thuở 7, 8 tuổi. Tôi thuộc lòng nhiều đoạn trong thơ Kiều, còn cố gắng làm trường thi ca bắt chước các bậc tiền bối. Tôi trót thương thầm một chàng hàng xóm cùng tuổi hay chơi đánh bi nhà bên cạnh và làm một bài thơ như sau cho chàng:
Nhưng cũng không ai biết mối tình
Lặng thầm giữa đôi lứa thư sinh
Vì họ cũng không hề hé miệng
Tỏ cho nhau biết nỗi lòng mình
Bài thơ này làm tôi ăn đòn của cậu Tiến và vì cậu đã mất nên sau này không ai tin tôi đã làm thơ tình từ 7 tuổi!
Đi chơi với bạn về trễ 15 phút, đôi khi cũng ăn bạt tai!
Khi tôi lớn lên và tiếp tục làm thơ tình, cậu chỉ lắc đầu và nói:«Hỏng, hỏng thật»!
Trong gia đình tôi, cậu Tiến giữ địa vị của một người con, người em, người cậu thay mặt cho người cha quá cố để giúp đỡ chị nuôi dưỡng các cháu còn thơ dại. Cho đến nay, chị em chúng tôi đều khôn lớn, cũng là nhờ công của cậu rất nhiều và tôi nghĩ chúng tôi không thể nào phủ nhận công ơn ấy. Chị Minh Thu tôi là người lớn nhất trong bốn chị em, cũng góp phần giúp mẹ dạy dỗ các em mồ côi bố từ lúc còn bé bỏng.
Trong thời gian đó, cậu được nhiều nhóm khác nhau mời tham dự các tổ chức như Hội Đồng Nhân Sĩ, một ghế bộ trưởng trong chính phủ Phan Huy Quát, nhưng cậu chỉ thích đứng ngoài đóng góp ý kiến, làm quân sư quạt mo, như một thời gian cậu cũng giúp tướng Kỳ. Niềm đam mê của cậu là tờ báo Tự Do cũng như hoàn thành trường thiên tiểu thuyết «Khói sóng» mà cậu còn viết dang dở cùng thời gian với tiểu thuyết« Tị Bái» của nhà văn Nguyễn Hoạt. Cậu cũng giữ mục điểm tin ngoài Bắc với bút hiệu Cô Thần, nên một số người gọi cậu là chuyên viên về Cộng Sản Bắc Việt nhưng cậu phủ nhận danh hiệu này. Cậu thường nói cùng tôi: «Nhược điểm của cậu là chuyện tình cảm nam nữ, cậu viết chuyện đó dở vì không có nhiều kinh nghiệm thực tế, truyện cậu thiên về biện luận hay phê bình thì có chất lượng hơn».
Quả thực là đời sống tình cảm cậu nghèo nàn ít ỏi. Theo tôi biết có một cô Thu nào đó rất thương cậu nhưng không thành. Cậu chỉ miệt mài làm việc với đống sách vở cao tận trần nhà, hoặc họp mặt cùng bè bạn bàn chuyện quốc sự, hoặc đi nước ngoài dự hội nghị.
Về phần gia đình tôi, lúc đó mẹ tôi «gà mái nuôi con» cùng bà mẹ già nên rất khó khăn. Tuy có một số vốn do bán đổ bán tháo mấy ngôi nhà ngoài Hà Nội, nhưng vì tính tình bà rộng rãi và hay thương người giúp đỡ, chia sẻ những gì bà có nên mẹ tôi không giàu được. Cậu tôi cũng cố gắng giúp gia đình trong khả năng của cậu.
Có những dư luận đồn đại không hay về sự liên hệ giữa mẹ tôi và cậu Tiến, bắt nguồn từ sự ganh ghét của người ngoài họ hoặc trong họ. Những dư luận này bóp méo và bôi nhọ tình cảm trong sạch và đẹp đẽ mà người tầm thường không hiểu nổi. Gia đình tôi rất phẫn nộ vì những dư luận xấu xa đê tiện đó!
Tác giả và cậu Tiến.
SỰ CHUYỂN MÌNH của THỜI ĐẠI
Thời gian ở Saigon dưới chế độ của ông Ngô Đình Diệm êm đềm trôi. Nếp sống của người dân trong lúc đó tương đối đầy đủ và no ấm. Năm 1960, nhờ cậu Tiến nói giúp, tôi được mẹ cho tháp tùng sang Nhật Bản, Hồng Kông và Thái Lan chơi. Ở Thái Lan, chúng tôi cư ngụ tại nhà ông Đại Sứ Việt Nam tại Thái Lan là ông Đinh Trịnh Chính. Bà Chính rủ chúng tôi trở lại Hồng Kông cùng bà nhưng chúng tôi từ chối để trở về Việt Nam. Tin như sét đánh ngang tai, trong chuyến bay đi Hồng Kông, chiếc máy bay đã rớt xuống biển và bà Chính đã bỏ mình cùng với tất cả hành khách trong chuyến bay định mệnh ấy.
Năm 1963 cậu Tiến bị bắt giam vì tờ báo Tự Do có những lời lẽ chống chế độ. Mẹ tôi và tôi đi từ nơi này sang nơi khác, từ An Ninh Quân Đội sang Tổng Nha Cảnh Sát để thăm nuôi cậu. Thời gian này, ông P.G.Honey, một ký giả nổi tiếng từ Anh quốc thường xuyên lui tới hỏi thăm sức khoẻ cậu. Nhà văn Chu Tử cũng bị bắn thủng họng trong thời gian này, chúng tôi cũng lui tới thăm ông vì con gái ông là Chu Vỵ Thủy là bạn thân tôi.
Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát, cậu tôi được thả về và tiếp tục hoạt động. Mẹ tôi bán căn nhà ở đường Phan Thanh Giản, mua một căn nhà nhỏ ở Chu Văn An, Ngã Năm Bình Hòa.
Năm 1963 đến 1968 là thời gian cậu tôi lại miệt mài làm việc, gặp gỡ rất nhiều nhân vật quan trọng trong chính trường. Cậu tôi thường xuyên nhắc đến Nguyễn Chánh Thi và sau là Nguyễn Cao Kỳ. Dù thời gian đầu, cậu tìm được đôi chút phấn khởi khi làm việc với ông Kỳ nhưng về sau, tôi thấy rõ ràng là cậu đã bị thất vọng có lẽ những lời khuyên của cậu không đủ sức thuyết phục đường lối làm việc của tướng Kỳ và những người cộng sự của ông.
Năm 1968: Saigon vùi dập dưới «Khói sóng» của tết Mậu Thân. Cả gia đình chúng tôi phải di tản tạm thời sang một căn nhà ba tầng ở đường Nguyễn Thiện Thuật vì căn nhà ở Ngã Năm Bình Hòa đã bị bắn nát cả mái ngói và lửa cháy đen sạm.
Năm 1969: tôi lập gia đình và sanh con gái đầu lòng tên Từ Công Ý Uyên. Cậu Tiến tôi rất yêu qúy cô bé này. Những năm trong tù Cộng Sản, tấm hình của bé Uyên luôn luôn được ông nhìn ngắm mỗi ngày, tấm hình giúp ông sức mạnh tinh thần từ mái ấm gia đình để duy trì tinh thần bất khuất dưới áp lực của gông cùm Cộng sản.
Thời gian này, tôi tức là Nguyễn Từ Dung, tên thật do ba tôi đặt cho từ lúc ông ở Trung Hoa, tham gia những chương trình hát cho sinh viên từ các trường đại học, những buổi đại nhạc hội, những hộp đêm như Ritz, Lê Lai, Quán Tre, Khánh Ly... những chương trình truyền hình như Văn Phụng, Phạm Mạnh Cương...
Cậu tôi lắc đầu: «Con đi lạc đường rồi, nghiệp của con là viết văn, viết báo, là phục vụ cho media».
Tôi có nhà riêng nên chỉ lui về nhà mẹ mỗi ngày để thăm hỏi nên ít có dịp gần gũi chuyện trò với cậu như trước. Mãi cho đến 1975, tôi bán căn nhà riêng về ở với mẹ để trông nom bà vì bà đã bị ung thư nặng và cưa đi một cánh tay, tôi mới lại được chia xẻ cùng một mái nhà với cậu tôi. Sau đây là một đoạn chuyện trích từ tập truyện «Hồi Tưởng» của Từ Dung viết cùng với giáo sư Trần Hoài Bắc:
ĐÊM KINH HOÀNG vào THÁNG TƯ NĂM 1976 (trích trong tập truyện Hồi Tưởng)
«Tại ngôi nhà nhỏ với một vườn lan đơn sơ phía trước trong ngõ hẻm Chu Văn An của xóm Ngã Năm Bình Hòa, người ta thấy một ông trung niên tóc ngả bạc, vận một bộ đồ bà ba vải đen, đi đi lại lại chăm sóc những chậu lan Tiên Hài, Catlaya rực rỡ.
Dân trong xóm cũng mang máng biết rằng trước năm 1975, ông Ba Tốc là một nhân vật quan trọng. Mặc dù không ai biết chính xác ông làm chức vụ gì trong chính quyền, ngoài nghề viết văn làm báo. Bây giờ chỉ thấy ông sống một cách lặng lẽ, mộc mạc, với vườn lan của ông. Nụ cười thân thiện, phúc hậu luôn nở trên khuôn mặt quắc thước. Có ai nhìn kỹ thì mới thấy sau cặp kính trắng, đôi mắt hiền hậu đôi khi sáng quắc lên như ngọn đuốc bùng lên trong đêm.
Trước đó, ông Ba Tốc đã giục giã con cháu ra đi bằng bất cứ cách nào, tìm đường trốn chạy khỏi ách Cộng Sản. Ông đã gửi con trai trưởng của Nguyễn Tường Ánh tên là Nguyễn Tường Kiên đi cùng với em ruột ông là cậu Nguyễn Ngọc Ấn. Nhưng bản thân ông, ông phải ở lại vì những lý do đặc biệt sau đây:
Thứ nhất: Ông chọn lựa đối mặt thực sự với «Cộng sản», đối tượng mà ông đã dày công sưu tầm tài liệu, nghiên cứu các dữ kiện để đưa lên mặt báo. Người ta gọi ông là «chuyên viên về Cộng sản Bắc Việt» với bút hiệu Cô Thần, thì hiện tại, giờ phút này, chính là một dịp may để ông sống thực sự trong thể chế Cộng sản, làm một nhân chứng cụ thể cho những biến cố của xã hội chủ nghĩa. Đó là một thử thách mà một nhân vật tầm cỡ như ông Ba không thể bỏ qua. Đó cũng là nỗi ám ảnh về ý thức hệ, về nhân sinh quan của những người cầm bút. Văn hào Soljenitsin của Liên Xô sau khi thoát khỏi ách Cộng sản Nga đã tuyên bố rằng đời sống hiện tại của ông ở xã hội tự do quá đầy đủ, ông không còn thấy hứng thú để viết, để sáng tác những tuyệt tác như hồi còn ở bên Nga Xô!
Lý do thứ hai là chị nuôi của ông, bà Nguyễn Tường Long đã trở bệnh ung thư ngặt nghèo, cánh tay trái của bà đã bị cưa đi hai lần để tránh sự lan rộng của tế bào ung thư. Bà được chữa chạy trong 9 năm trời với sự điều trị tận tâm của bác sĩ Trần Ngọc Ninh, nhưng căn bệnh quái ác cứ lan dần như cục u nơi cánh tay bà cứ mọc rễ lan dần ra. Trong những cơn đau đớn quằn quại của cơn bệnh, phải có mặt người thân để săn sóc bà.
Trở lại chuyện ông Ba, dĩ nhiên, ông không thể ngây thơ đến độ không biết rằng, Cộng sản đã và đang theo dõi, rình rập những nhân sĩ, những nhà văn nhà báo, những nhân vật có liên hệ đến chế độ trước mà chưa nằm trong trại cải tạo của họ. Sau vụ kiểm tra văn hóa tại Saigon năm 1975, ông đã đốt sạch nhiều tài liệu sưu tập từ bao năm, báo chí hình ảnh, sách vở với những giá trị lịch sử vô cùng quý báu. Nhưng ông vẫn giữ lại được một số, trong số đó, có một tấm hình bác Hồ đứng ngạo nghễ trên đống xương người ngổn ngang.»
«Màn đêm đã buông xuống trên xóm nghèo Ngã Năm Bình Hòa. Tất cả đã chìm trong yên lặng, một sự im lặng dày đặc và đen tối. Không gian ngột ngạt khó thở. Ông Ba đang thiu thiu bỗng giật mình, tim ông bỗng nhói đau. Một tiếng xe thắng rít lên, rồi tiếng người lao xao trước ngõ. Ông Ba biết chuyện gì phải đến đang đến, trong tận cùng sâu thẳm của tâm tư ông, ông vẫn chờ đợi ngày hôm nay trong sự chối từ ý thức.
Hơn ba mươi người vũ trang súng ống đầy đủ ập vào khi cửa mở ra. Với bộ
mặt nghiêm trọng, họ đọc án lệnh rất dài, buộc ông tội phản động, phản
cách mạng. Khi xưa, khi đọc cuốn Quần Đảo Gulag của Soljenitsin, ông đã
mường tượng cảnh đọc án lệnh y như cảnh đang diễn ra cho ông bây giờ.
Lịch sử lại tái diễn ở đây, dù ở thời gian nào, không gian nào, cũng
không khác biệt là mấy!
Trong giây phút đó, lòng cảm xúc của ông lên đến tột độ. Ông đã sống như một nhân vật lịch sử kể từ giờ phút này. Ông không nghĩ tới những gì xảy ra cho ông những ngày giờ kế tiếp. Trái tim ông phập phồng, mắt ông dướm lệ. Sợ ư? Không phải sợ hãi đâu!
Cháu rể ông lúc bấy giờ mặt tái xanh vì vừa hoàn thành một lá thơ có tính cách phê phán chế độ nhưng chưa kịp gửi đi nước ngoài để ở trên bàn. Nếu bọn người này lùng xét nhà, ông mong rằng ông là người duy nhất bị buộc tội. Tội ông đã nặng ngàn cân, thêm một tội nữa cũng thế thôi. Ông kịp thấy, khi họ lui cui còng tay ông, đứa cháu gái của ông vừa mếu máo hỏi han người cầm đầu trong bọn,vừa hất lá thơ phản động xuống đất rồi lấy chân đá tận vào trong gầm bàn để cứu chồng!
Những ngày sau khi ông Ba bị bắt, cháu gái của ông tên Dung cũng bị mời lên nhiều lần tại trại giam Phan Đăng Lưu, Bà Chiểu, nơi họ giam giữ ông. Khi tới nơi, họ cho Dung vào trong một căn phòng trơ trụi, chỉ có một cái bàn và hai cái ghế gỗ đơn sơ. Chị phải đối diện với một cán bộ miền Bắc có nhiệm vụ thẩm tra chị. Anh chàng này cỡ ngoài bốn mươi, mặt lạnh như tiền nhưng thỉnh thoảng mỉm một nụ cười giả tạo để thay đổi không khí vốn căng thẳng và gượng ép.
Đây là một cuộc đấu trí ba mặt, vì những lời khai của chị về ông Ba phải phù hợp với lời khai của chính ông để cho «họ» thỏa mãn. Chị phải có một trí nhớ trên mức bình thường, vì không phải chỉ khai báo một lần mà cả chục lần, tất cả mọi lần khai phải đồng nhất. Nếu có một điểm khác biệt là anh cán bộ sẽ lôi ra hỏi đi, hỏi lại. Điều đáng kể là anh cán bộ kia, rõ ràng là rất có trình độ, và tuy anh là một người lạ mặt lần đầu tiên chị gặp, anh ta dường như ăn ở trong gia đình nhà chị, anh biết rõ từng chi tiết, từng biến cố xảy ra cho nhà chị vào năm nào, tháng nào, ngày nào, từng nhân vật trong nước và ngoài nước đã đến nhà chị tìm gặp ông cậu của chị. Chị cũng biết, lời khai của chị dù nói hay viết, họ muốn dùng để đưa đến kết luận để buộc tội ông Ba đã và đang làm việc cho CIA!
Đầu óc chị Dung lúc đó làm việc ráo riết, chị không muốn lọt ra một sơ hở nào để họ có bằng chứng buộc tội ông Ba, nhưng cũng không muốn họ cho là mình khai báo không thành thực, sẽ có hại cho ông Ba nhiều hơn nữa. Nước mắt chị đã ráo hoảnh sau ba thảm kịch xảy ra liên tiếp: Cái chết đau đớn của mẹ chị vì bịnh ung thư tháng Mười năm 1975, cái chết thảm thương của bà ngoại lúc 98 tuổi ngay một tháng sau đó vì mất đi người con duy nhất, và sau cùng, vụ bắt giam người cậu thân yêu....».
NHỮNG NGÀY THÁNG THĂM NUÔI CẬU 1976-1988
Từ Phan Đăng Lưu, rồi chuyển sang Chí Hoà, những năm tháng thăm nuôi cậu Tiến cứ kéo dài đăng đẳng như bất tận. Tôi mòn mỏi chờ ngóng, tự lừa mình bằng những nguồn tin vu vơ không căn cứ để trông mong ngày cậu trở về. Gần như lần nào xách giỏ đi thăm cũng gặp gỡ chị Đoàn Viết Hoạt. Chị lại có dịp tặc lưỡi nhìn tôi: «Cứ thế này mãi, biết bao giờ mới có lần xum họp hở cô?»!
Chúng tôi, những người đi thăm nuôi, xúc động nghẹn ngào, tim phập phồng trong lồng ngực căng thẳng. Phút mong đợi đã đến. Kìa, những người tù cấm cố đã lần lượt xếp hàng đi ra trong bộ áo tù màu xanh xám. Những hình bóng gày gò xiêu vẹo, những khuôn mặt u buồn tuyệt vọng, những cặp mắt ngơ ngác, ảm đạm như chất chứa những thảm kịch không thể diễn tả bằng lời nói. Ngày nào mũ mão cân đai, anh hùng một cõi! Những mái đầu bạc, muối tiêu, đen cúi gầm lầm lũi bước, đôi lúc ngẩng lên ngu ngơ tìm kiếm bóng người nhà đến thăm nuôi.
Bỗng tôi giật mình, tim nhói đau! Giữa những hình hài vật vờ tang thương ấy, có một mái đầu hoa râm ngửng cao bất khuất, một dáng đi thẳng đứng hiên ngang, một cặp mắt sáng long lanh sau đôi kính trắng cũ kỹ đã gãy gọng chắp nối trong một khuôn mặt gày gò hốc hác nhưng vẫn có tính thuyết phục và đầy tin tưởng. Cậu Như Phong của chúng tôi, đúng cậu rồi!
Khi được tiếp chuyện, cậu dịu dàng dặn dò tôi những điều cần thiết, hỏi thăm các anh chị, con gái tôi, họ hàng, bảo tôi không được khóc dù dưới tình huống nào chăng nữa, cũng không được quyền cho phép mình yếu đuối, gục ngã:«Em phải luôn luôn nhớ rằng em là con nhà Nguyễn Tường».
«Em không lo, họ rất nể cậu, cậu vào thất 37 ngày, họ tưởng cậu nhịn ăn nên bẻ răng cậu đổ sữa vào miệng đây này». Cậu chỉ cho tôi xem những chiếc răng cửa khấp khểnh, rồi bắt tôi nói về bé Ý Uyên yêu quý của cậu.
Trong khi đó, gia đình tôi đã trải qua nhiều trận phong ba bão tố, vào sinh ra tử vì đi vượt biên hụt nhiều lần. Cháu Ý Uyên thành thạo đến nỗi nếu tôi bảo cháu đi ngủ sớm, nó hỏi «Mai vượt biên hở mẹ?» cứ như «Mai đi chợ hở mẹ?».
Mỗi lần chúng tôi thất bại ôm đầu máu trở về, cháu Uyên phải chạy vào nhà trước để xem có bóng dáng công an canh giữ nhà chưa.
Dù cho có đói khổ, thiếu hụt đến đâu, tôi vẫn đều đều thăm nuôi cậu. Cậu có để lại một số bột làm thuốc, tôi cố gắng bán đi để có tiền thăm nuôi cậu và dùng một phần kinh doanh trong quán Từ Dung để có tiền ăn cho gia đình. Dù không còn tiền chúng tôi vẫn kiếm cách vượt biên, nhưng đều thất bại. Lần thất bại cuối cùng, tôi đã mất nhà, mất cả gia đình, không có nơi ăn chốn ở, đi lang thang bụi đời nhưng vẫn chạy vạy chút đỉnh nhờ anh Tư tài xế cho me tôi trước kia đi thăm nuôi cậu. Anh Tư này là tài xế của me tôi trước, nay lại là đầu bếp chính pha cà phê cho quán nhạc Từ Dung ở đường Trần Quang Khải, Tân Định.
NĂM 1988: RA KHỎI TRẠI GIAM
Sau khi ra khỏi trại giam, tổng cộng là hơn 12 năm tù, cậu về ở nhà tôi, lúc ấy đã mất nhà, ở thuê trong một căn nhà bằng cây trên đường Bùi Hữu Nghĩa gần Cầu Sắt với cháu gái thứ hai của tôi tên Nguyễn Hải Âu. Cháu đầu lòng của tôi tên Ý Uyên đã cùng bố vượt biên sang định cư ở Oregon, Hoa Kỳ.
Hai cậu cháu và bé Hải Âu sống với sự thăm viếng thường xuyên của công an khu vực, công an phường của Ngã Năm Bình Hòa, vì hộ khẩu của hai cậu cháu vẫn ở Ngã Năm Bình Hòa, dù căn nhà đã về tay người khác.
Anh chàng công an khu vực lúc đó gốc người Nghệ An, rất thích đến uống bia với ông Ba Tốc và thường ngồi lì đến tối, mặc dù cậu tôi không uống được hơn hai hớp bia. Cậu rất kỵ uống rượu, nhưng hy sinh cho tôi, cậu bảo tôi chạy sang nhà bạn tránh mặt, để mình cậu đối phó với anh ta.
Cậu cũng phải thường xuyên đến công an phường để làm tờ khai báo những hoạt động hàng ngày. Cũng may lúc đó có sự có mặt của anh họ bên ngoại tôi là anh Lê Văn Vị, trước kia làm công an Hà Nội, sau này về hưu dạy tại trường Đại Học Công An, và anh rất qúy mến cậu Tiến.
Mặc dù ý thức hệ khác biệt, anh Vị rất thương gia đình họ hàng. Anh mời cậu Tiến đến ở nhà anh tại đường Đinh Công Tráng để bảo lãnh cho cậu về mặt pháp lý. Con dâu anh, cô Loan cũng hết lòng phụng dưỡng cậu. Tôi cũng yên lòng vì ở đây, cậu Tiến được «dù» che chở, gọi là tạm yên ổn một thời gian. Ai học được chữ ngờ, chính tại đây, cậu lại bị bắt lần thứ hai!
Thời gian này, cháu Hải Âu hay đến ở với ông để ông Tiến babysit, cả cháu Thơ Thơ, cháu Khôi con của chị Minh Thu cũng năng lui tới. Ở cùng đường có cô chú Cả Trác và con trai là Hiếu cùng con dâu tên Oanh cũng hàng ngày sang thăm viếng cậu.
TÔI LÊN ĐƯỜNG ĐI MỸ- CẬU TIẾN BỊ BẮT LẦN THỨ HAI
Tháng Tư năm 1990 tôi lên đường đi Hoa Kỳ. Cậu Tiến, chị Minh Thu và anh chị Vị đưa tôi ra sân bay. Còn đồng bạc cuối cùng nào trong túi, cả tiền Mỹ lẫn tiền Việt, tôi nhét hết vào tay cậu, dặn dò gần như cầu khẩn: «Em lạy cậu, cậu ơi, cậu đừng vào tù nữa nhé»!
Cậu cả cười: «Em cứ yên chí mà đi đi, cậu không sao đâu!»
Một đêm tháng Chạp năm 1990, tôi đang say giấc tại Hawaii thì tiếng điện thoại khô khốc reo lên kéo tôi ra khỏi giấc ngủ. Có tiếng anh Lân ở đầu giây bên kia: «Em biết chưa? Cậu Tiến bị bắt rồi!» Mấy ngày sau đó, chúng tôi cố chạy vạy cho đủ $1000 gửi về cho cô Tố Vân, bạn thân tôi, cùng với em Trần Đình Hiếu, con cô Cả để đi thăm nuôi cậu ở Phan Đăng Lưu.
ĐỜI SỐNG Ở HOA KỲ của CẬU NHƯ PHONG
Mơ ước của cậu khi sang tới bên Hoa Kỳ là trở lại quê hương để chiến đấu trong lòng quê hương, chiến đấu cho lý tưởng của ông là mang lại sự sống đầy đủ và ấm no cho dân chúng, dù ở thể chế nào. Nhưng cậu đã bị từ chối không được visa nhập cảnh, nên cậu nói:« Có lẽ cậu sẽ đi đường bộ về, lững thững rồi cũng tới». Tôi có nói lại với anh Vị về mơ ước của cậu, anh hứa sẽ kiếm cách giúp cậu toại nguyện, nhưng giấc mơ của cậu không thành vì thời gian không chiều người, tuổi tác cậu đã chất chồng với ngày tháng!
Tôi và bé Hải Âu, cả cháu gái lớn Ý Uyên lúc đó được hai mươi tuổi, sang Orange County thăm cậu ngay khi cậu đặt chân lên Hoa Kỳ. Có lúc cậu ở với cậu Ấn em cậu, rồi sang ở với anh Chiêu bạn cậu, sau cùng cậu ở một mình. Tôi đã nhiều lần cố thuyết phục cậu sang ở Hawaii để được phụng dưỡng cậu, nhưng cậu trả lời rằng ở Hawaii không có đủ đối tượng để cậu hoạt động nên chán lắm! Tôi buồn, nhưng thông cảm cậu. Ở tuổi 70 mà cậu còn hăng say làm việc như thế. Cậu đi diễn thuyết các nơi, cậu sang Anh, sang Pháp để sưu tầm tài liệu viết về lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, qua tập truyện «Như gió vào tù» mà cậu đang viết dở dang, tôi nhận thấy cậu bắt đầu có dấu hiệu lẫn lộn các nhân vật, như cũng nhân vật đó mà đầu truyện tên khác, cuối tập lại tên khác. Có lẽ cậu đã bắt bộ não làm việc quá tải ở tuổi xế chiều nên không còn sáng suốt như xưa? Tôi cũng thường xuyên điện thoại cằn nhằn cậu bớt hút thuốc đi vì cậu hút thuốc như đầu khói xe lửa! Thời gian sau đó cậu cho biết đã cai thuốc rồi.
Lúc bệnh cậu trở nặng, cậu vẫn cố tình dấu tôi, dặn các anh bạn đừng cho tôi hay, khi tôi biết được thì cặu đã yếu lắm. Tôi đã mua vé máy bay để sang Virginia nơi cậu cư ngụ lúc bấy giờ ngày 18 tháng Chạp, thì 19 cậu mất. Trong những ngày đó, tôi túc trực bên điện thoại và từng giờ từng phút, anh Chiêu và cậu Ấn em cậu cho tôi biết mọi diễn tiến về bệnh trạng của cậu. Anh Chiêu là người báo cho tôi biết lúc cậu từ trần.
Vào tháng 7 năm 1999, trước lúc cậu lìa đời, tôi và Hải Thụy (con ký giả Nguyễn Xuân Tòng) viết chung bản nhạc tên «Gió ngàn» để riêng tặng cậu Tiến. Tựa đề đó cũng là tên của ban nhạc Gió ngàn của chúng tôi ở Hawaii.
Qua điện thoại tôi đã hát tặng cậu bài đó để gửi gấm ý nghĩa của những lời tôi muốn nói với cậu:
"Gió đi về đâu, khi hồn cứ mãi lang thang trên xứ người».
Trong cuộc đời tôi, khi gặp những phút khó khăn nhất, chẳng hạn như một bài báo trên internet, rồi một lần phát ngôn bừa bãi bởi một ca sĩ hạng B tại miền Nam California, những lần đó tôi đã bị chúng bôi bác xuyên tạc bằng những lời lẽ hạ cấp vô căn cứ. Chắc chắn rằng có một bàn tay ném đá dấu tay vì thù hằn cá nhân hoặc ghen tị. Ở đời dù mình không làm gì hại ai vẫn có những lòng dạ ghen tị và thù oán thâm độc chuyên ngậm máu phun người. Những lúc như thế tôi vẫn thầm nhủ lời cậu khuyên bảo dặn dò: «Đường ta ta cứ đi, chó sủa mặc chó em ạ»!
Gió, cho dù mạnh mẽ như thế, nhưng gió đi về đâu, khi những dự tính cao quý chưa thành, khi những hoài bão không tìm được nơi để thực hiện? Gió, tuy ào ạt như thế, nhưng gió đi về đâu, khi một đời trôi nổi, chơi vơi trong niềm cô quạnh, trong số phận hẩm hiu lưu lạc gia đình.
Thực thế, mặc dù được sự ngưỡng mộ của người quen kẻ lạ, người trong và ngoài nước, cậu tôi vẫn một đời cô đơn, một đời đi tìm bến bờ không tưởng. Trên đây chỉ là những lời sơ lược về những quãng đường đời tôi được hân hạnh đi bên cậu Như Phong. Xin hẹn trong tương lai sẽ cung cấp qúy độc giả nhiều tình tiết thú vị hơn nữa.
Trong giây phút đó, lòng cảm xúc của ông lên đến tột độ. Ông đã sống như một nhân vật lịch sử kể từ giờ phút này. Ông không nghĩ tới những gì xảy ra cho ông những ngày giờ kế tiếp. Trái tim ông phập phồng, mắt ông dướm lệ. Sợ ư? Không phải sợ hãi đâu!
Cháu rể ông lúc bấy giờ mặt tái xanh vì vừa hoàn thành một lá thơ có tính cách phê phán chế độ nhưng chưa kịp gửi đi nước ngoài để ở trên bàn. Nếu bọn người này lùng xét nhà, ông mong rằng ông là người duy nhất bị buộc tội. Tội ông đã nặng ngàn cân, thêm một tội nữa cũng thế thôi. Ông kịp thấy, khi họ lui cui còng tay ông, đứa cháu gái của ông vừa mếu máo hỏi han người cầm đầu trong bọn,vừa hất lá thơ phản động xuống đất rồi lấy chân đá tận vào trong gầm bàn để cứu chồng!
Những ngày sau khi ông Ba bị bắt, cháu gái của ông tên Dung cũng bị mời lên nhiều lần tại trại giam Phan Đăng Lưu, Bà Chiểu, nơi họ giam giữ ông. Khi tới nơi, họ cho Dung vào trong một căn phòng trơ trụi, chỉ có một cái bàn và hai cái ghế gỗ đơn sơ. Chị phải đối diện với một cán bộ miền Bắc có nhiệm vụ thẩm tra chị. Anh chàng này cỡ ngoài bốn mươi, mặt lạnh như tiền nhưng thỉnh thoảng mỉm một nụ cười giả tạo để thay đổi không khí vốn căng thẳng và gượng ép.
Đây là một cuộc đấu trí ba mặt, vì những lời khai của chị về ông Ba phải phù hợp với lời khai của chính ông để cho «họ» thỏa mãn. Chị phải có một trí nhớ trên mức bình thường, vì không phải chỉ khai báo một lần mà cả chục lần, tất cả mọi lần khai phải đồng nhất. Nếu có một điểm khác biệt là anh cán bộ sẽ lôi ra hỏi đi, hỏi lại. Điều đáng kể là anh cán bộ kia, rõ ràng là rất có trình độ, và tuy anh là một người lạ mặt lần đầu tiên chị gặp, anh ta dường như ăn ở trong gia đình nhà chị, anh biết rõ từng chi tiết, từng biến cố xảy ra cho nhà chị vào năm nào, tháng nào, ngày nào, từng nhân vật trong nước và ngoài nước đã đến nhà chị tìm gặp ông cậu của chị. Chị cũng biết, lời khai của chị dù nói hay viết, họ muốn dùng để đưa đến kết luận để buộc tội ông Ba đã và đang làm việc cho CIA!
Đầu óc chị Dung lúc đó làm việc ráo riết, chị không muốn lọt ra một sơ hở nào để họ có bằng chứng buộc tội ông Ba, nhưng cũng không muốn họ cho là mình khai báo không thành thực, sẽ có hại cho ông Ba nhiều hơn nữa. Nước mắt chị đã ráo hoảnh sau ba thảm kịch xảy ra liên tiếp: Cái chết đau đớn của mẹ chị vì bịnh ung thư tháng Mười năm 1975, cái chết thảm thương của bà ngoại lúc 98 tuổi ngay một tháng sau đó vì mất đi người con duy nhất, và sau cùng, vụ bắt giam người cậu thân yêu....».
NHỮNG NGÀY THÁNG THĂM NUÔI CẬU 1976-1988
Từ Phan Đăng Lưu, rồi chuyển sang Chí Hoà, những năm tháng thăm nuôi cậu Tiến cứ kéo dài đăng đẳng như bất tận. Tôi mòn mỏi chờ ngóng, tự lừa mình bằng những nguồn tin vu vơ không căn cứ để trông mong ngày cậu trở về. Gần như lần nào xách giỏ đi thăm cũng gặp gỡ chị Đoàn Viết Hoạt. Chị lại có dịp tặc lưỡi nhìn tôi: «Cứ thế này mãi, biết bao giờ mới có lần xum họp hở cô?»!
Chúng tôi, những người đi thăm nuôi, xúc động nghẹn ngào, tim phập phồng trong lồng ngực căng thẳng. Phút mong đợi đã đến. Kìa, những người tù cấm cố đã lần lượt xếp hàng đi ra trong bộ áo tù màu xanh xám. Những hình bóng gày gò xiêu vẹo, những khuôn mặt u buồn tuyệt vọng, những cặp mắt ngơ ngác, ảm đạm như chất chứa những thảm kịch không thể diễn tả bằng lời nói. Ngày nào mũ mão cân đai, anh hùng một cõi! Những mái đầu bạc, muối tiêu, đen cúi gầm lầm lũi bước, đôi lúc ngẩng lên ngu ngơ tìm kiếm bóng người nhà đến thăm nuôi.
Bỗng tôi giật mình, tim nhói đau! Giữa những hình hài vật vờ tang thương ấy, có một mái đầu hoa râm ngửng cao bất khuất, một dáng đi thẳng đứng hiên ngang, một cặp mắt sáng long lanh sau đôi kính trắng cũ kỹ đã gãy gọng chắp nối trong một khuôn mặt gày gò hốc hác nhưng vẫn có tính thuyết phục và đầy tin tưởng. Cậu Như Phong của chúng tôi, đúng cậu rồi!
Khi được tiếp chuyện, cậu dịu dàng dặn dò tôi những điều cần thiết, hỏi thăm các anh chị, con gái tôi, họ hàng, bảo tôi không được khóc dù dưới tình huống nào chăng nữa, cũng không được quyền cho phép mình yếu đuối, gục ngã:«Em phải luôn luôn nhớ rằng em là con nhà Nguyễn Tường».
«Em không lo, họ rất nể cậu, cậu vào thất 37 ngày, họ tưởng cậu nhịn ăn nên bẻ răng cậu đổ sữa vào miệng đây này». Cậu chỉ cho tôi xem những chiếc răng cửa khấp khểnh, rồi bắt tôi nói về bé Ý Uyên yêu quý của cậu.
Trong khi đó, gia đình tôi đã trải qua nhiều trận phong ba bão tố, vào sinh ra tử vì đi vượt biên hụt nhiều lần. Cháu Ý Uyên thành thạo đến nỗi nếu tôi bảo cháu đi ngủ sớm, nó hỏi «Mai vượt biên hở mẹ?» cứ như «Mai đi chợ hở mẹ?».
Mỗi lần chúng tôi thất bại ôm đầu máu trở về, cháu Uyên phải chạy vào nhà trước để xem có bóng dáng công an canh giữ nhà chưa.
Dù cho có đói khổ, thiếu hụt đến đâu, tôi vẫn đều đều thăm nuôi cậu. Cậu có để lại một số bột làm thuốc, tôi cố gắng bán đi để có tiền thăm nuôi cậu và dùng một phần kinh doanh trong quán Từ Dung để có tiền ăn cho gia đình. Dù không còn tiền chúng tôi vẫn kiếm cách vượt biên, nhưng đều thất bại. Lần thất bại cuối cùng, tôi đã mất nhà, mất cả gia đình, không có nơi ăn chốn ở, đi lang thang bụi đời nhưng vẫn chạy vạy chút đỉnh nhờ anh Tư tài xế cho me tôi trước kia đi thăm nuôi cậu. Anh Tư này là tài xế của me tôi trước, nay lại là đầu bếp chính pha cà phê cho quán nhạc Từ Dung ở đường Trần Quang Khải, Tân Định.
NĂM 1988: RA KHỎI TRẠI GIAM
Sau khi ra khỏi trại giam, tổng cộng là hơn 12 năm tù, cậu về ở nhà tôi, lúc ấy đã mất nhà, ở thuê trong một căn nhà bằng cây trên đường Bùi Hữu Nghĩa gần Cầu Sắt với cháu gái thứ hai của tôi tên Nguyễn Hải Âu. Cháu đầu lòng của tôi tên Ý Uyên đã cùng bố vượt biên sang định cư ở Oregon, Hoa Kỳ.
Hai cậu cháu và bé Hải Âu sống với sự thăm viếng thường xuyên của công an khu vực, công an phường của Ngã Năm Bình Hòa, vì hộ khẩu của hai cậu cháu vẫn ở Ngã Năm Bình Hòa, dù căn nhà đã về tay người khác.
Anh chàng công an khu vực lúc đó gốc người Nghệ An, rất thích đến uống bia với ông Ba Tốc và thường ngồi lì đến tối, mặc dù cậu tôi không uống được hơn hai hớp bia. Cậu rất kỵ uống rượu, nhưng hy sinh cho tôi, cậu bảo tôi chạy sang nhà bạn tránh mặt, để mình cậu đối phó với anh ta.
Cậu cũng phải thường xuyên đến công an phường để làm tờ khai báo những hoạt động hàng ngày. Cũng may lúc đó có sự có mặt của anh họ bên ngoại tôi là anh Lê Văn Vị, trước kia làm công an Hà Nội, sau này về hưu dạy tại trường Đại Học Công An, và anh rất qúy mến cậu Tiến.
Mặc dù ý thức hệ khác biệt, anh Vị rất thương gia đình họ hàng. Anh mời cậu Tiến đến ở nhà anh tại đường Đinh Công Tráng để bảo lãnh cho cậu về mặt pháp lý. Con dâu anh, cô Loan cũng hết lòng phụng dưỡng cậu. Tôi cũng yên lòng vì ở đây, cậu Tiến được «dù» che chở, gọi là tạm yên ổn một thời gian. Ai học được chữ ngờ, chính tại đây, cậu lại bị bắt lần thứ hai!
Thời gian này, cháu Hải Âu hay đến ở với ông để ông Tiến babysit, cả cháu Thơ Thơ, cháu Khôi con của chị Minh Thu cũng năng lui tới. Ở cùng đường có cô chú Cả Trác và con trai là Hiếu cùng con dâu tên Oanh cũng hàng ngày sang thăm viếng cậu.
TÔI LÊN ĐƯỜNG ĐI MỸ- CẬU TIẾN BỊ BẮT LẦN THỨ HAI
Tháng Tư năm 1990 tôi lên đường đi Hoa Kỳ. Cậu Tiến, chị Minh Thu và anh chị Vị đưa tôi ra sân bay. Còn đồng bạc cuối cùng nào trong túi, cả tiền Mỹ lẫn tiền Việt, tôi nhét hết vào tay cậu, dặn dò gần như cầu khẩn: «Em lạy cậu, cậu ơi, cậu đừng vào tù nữa nhé»!
Cậu cả cười: «Em cứ yên chí mà đi đi, cậu không sao đâu!»
Một đêm tháng Chạp năm 1990, tôi đang say giấc tại Hawaii thì tiếng điện thoại khô khốc reo lên kéo tôi ra khỏi giấc ngủ. Có tiếng anh Lân ở đầu giây bên kia: «Em biết chưa? Cậu Tiến bị bắt rồi!» Mấy ngày sau đó, chúng tôi cố chạy vạy cho đủ $1000 gửi về cho cô Tố Vân, bạn thân tôi, cùng với em Trần Đình Hiếu, con cô Cả để đi thăm nuôi cậu ở Phan Đăng Lưu.
ĐỜI SỐNG Ở HOA KỲ của CẬU NHƯ PHONG
Mơ ước của cậu khi sang tới bên Hoa Kỳ là trở lại quê hương để chiến đấu trong lòng quê hương, chiến đấu cho lý tưởng của ông là mang lại sự sống đầy đủ và ấm no cho dân chúng, dù ở thể chế nào. Nhưng cậu đã bị từ chối không được visa nhập cảnh, nên cậu nói:« Có lẽ cậu sẽ đi đường bộ về, lững thững rồi cũng tới». Tôi có nói lại với anh Vị về mơ ước của cậu, anh hứa sẽ kiếm cách giúp cậu toại nguyện, nhưng giấc mơ của cậu không thành vì thời gian không chiều người, tuổi tác cậu đã chất chồng với ngày tháng!
Tôi và bé Hải Âu, cả cháu gái lớn Ý Uyên lúc đó được hai mươi tuổi, sang Orange County thăm cậu ngay khi cậu đặt chân lên Hoa Kỳ. Có lúc cậu ở với cậu Ấn em cậu, rồi sang ở với anh Chiêu bạn cậu, sau cùng cậu ở một mình. Tôi đã nhiều lần cố thuyết phục cậu sang ở Hawaii để được phụng dưỡng cậu, nhưng cậu trả lời rằng ở Hawaii không có đủ đối tượng để cậu hoạt động nên chán lắm! Tôi buồn, nhưng thông cảm cậu. Ở tuổi 70 mà cậu còn hăng say làm việc như thế. Cậu đi diễn thuyết các nơi, cậu sang Anh, sang Pháp để sưu tầm tài liệu viết về lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, qua tập truyện «Như gió vào tù» mà cậu đang viết dở dang, tôi nhận thấy cậu bắt đầu có dấu hiệu lẫn lộn các nhân vật, như cũng nhân vật đó mà đầu truyện tên khác, cuối tập lại tên khác. Có lẽ cậu đã bắt bộ não làm việc quá tải ở tuổi xế chiều nên không còn sáng suốt như xưa? Tôi cũng thường xuyên điện thoại cằn nhằn cậu bớt hút thuốc đi vì cậu hút thuốc như đầu khói xe lửa! Thời gian sau đó cậu cho biết đã cai thuốc rồi.
Lúc bệnh cậu trở nặng, cậu vẫn cố tình dấu tôi, dặn các anh bạn đừng cho tôi hay, khi tôi biết được thì cặu đã yếu lắm. Tôi đã mua vé máy bay để sang Virginia nơi cậu cư ngụ lúc bấy giờ ngày 18 tháng Chạp, thì 19 cậu mất. Trong những ngày đó, tôi túc trực bên điện thoại và từng giờ từng phút, anh Chiêu và cậu Ấn em cậu cho tôi biết mọi diễn tiến về bệnh trạng của cậu. Anh Chiêu là người báo cho tôi biết lúc cậu từ trần.
Vào tháng 7 năm 1999, trước lúc cậu lìa đời, tôi và Hải Thụy (con ký giả Nguyễn Xuân Tòng) viết chung bản nhạc tên «Gió ngàn» để riêng tặng cậu Tiến. Tựa đề đó cũng là tên của ban nhạc Gió ngàn của chúng tôi ở Hawaii.
Qua điện thoại tôi đã hát tặng cậu bài đó để gửi gấm ý nghĩa của những lời tôi muốn nói với cậu:
"Gió đi về đâu, khi hồn cứ mãi lang thang trên xứ người».
Trong cuộc đời tôi, khi gặp những phút khó khăn nhất, chẳng hạn như một bài báo trên internet, rồi một lần phát ngôn bừa bãi bởi một ca sĩ hạng B tại miền Nam California, những lần đó tôi đã bị chúng bôi bác xuyên tạc bằng những lời lẽ hạ cấp vô căn cứ. Chắc chắn rằng có một bàn tay ném đá dấu tay vì thù hằn cá nhân hoặc ghen tị. Ở đời dù mình không làm gì hại ai vẫn có những lòng dạ ghen tị và thù oán thâm độc chuyên ngậm máu phun người. Những lúc như thế tôi vẫn thầm nhủ lời cậu khuyên bảo dặn dò: «Đường ta ta cứ đi, chó sủa mặc chó em ạ»!
Gió, cho dù mạnh mẽ như thế, nhưng gió đi về đâu, khi những dự tính cao quý chưa thành, khi những hoài bão không tìm được nơi để thực hiện? Gió, tuy ào ạt như thế, nhưng gió đi về đâu, khi một đời trôi nổi, chơi vơi trong niềm cô quạnh, trong số phận hẩm hiu lưu lạc gia đình.
Thực thế, mặc dù được sự ngưỡng mộ của người quen kẻ lạ, người trong và ngoài nước, cậu tôi vẫn một đời cô đơn, một đời đi tìm bến bờ không tưởng. Trên đây chỉ là những lời sơ lược về những quãng đường đời tôi được hân hạnh đi bên cậu Như Phong. Xin hẹn trong tương lai sẽ cung cấp qúy độc giả nhiều tình tiết thú vị hơn nữa.
Chấm hết.
Từ Dung
Tác giả Từ Dung là con út nhà văn Hoàng Đạo
(từ DĐTK)
Du Tử Lê
Tôi không có nhiều kỷ niệm với nhà văn Như Phong. Nhưng, đó là người tôi hâm mộ từ thời còn học trung học ở Saigon.
Những tháng, năm cuối thập niên 1950, hầu như không buổi sáng nào, tôi không nôn nả tìm đọc cho bằng được nhật báo Tự Do. Những ngày không tìm được tờ Tự Do, tôi bấm bụng mua tờ báo này, trích từ số tiền ít ỏi kiếm được bởi công việc kèm trẻ tư gia.
Thời gian đó, tin tức, hình ảnh có trên tờ Tự Do, không phải là lý do để tôi say mê tờ báo ấy. Mà, bởi vì nơi trang hai và, trang ba, cố định ở phần dưới cùng trang báo, là hai trường thiên tiểu thuyết. Trang hai, là trường thiên “Tỵ Bái” của nhà văn Nguyễn Hoạt tức Hiếu Chân. Trang ba là “Khói Sóng” ký tên Lý Thắng. (Lý Thắng chứ không phải Như Phong/Lê Văn Tiến).
Hôm nay, nếu tôi nhớ không lầm thì tác giả “Khói Sóng” cho in chữ nghiêng, ngay dưới tựa đề tiểu thuyết, hai câu thơ:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.”
Sau, tôi mới biết đó là hai câu thơ cuối cùng trong bản dịch bài “Hoàng Hạc Lâu” của Tản Ðà.
Người đầu tiên cho tôi biết Lý Thắng, một bút hiệu khác của Như Phong/Lê Văn Tiến, là chủ nhiệm báo Tự Do, Phạm Việt Tuyền. Khi tôi nói với ông, tôi là “độc giả trung thành” của Lý Thắng. (Tuy đã biết rõ tên tác giả, nhưng tôi vẫn thích gọi là ông “Khói Sóng.” Cách gọi này, cho tôi cảm tưởng, tôi gần ông hơn).
Nhà văn Mai Thảo, người thứ hai giới thiệu tôi với… ông “Khói Sóng,” vài năm sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963.
Nhớ đó là một buổi trưa, tôi ghé lại tòa soạn tạp chí Văn, lấy báo và nhận tiền nhuận bút. Tình cờ gặp Mai Thảo. Ông bảo tôi, nếu rảnh thì ra Givral uống café với ông. Tôi đề nghị chở ông bằng chiếc vespa cũ của mình… Ông từ chối và, bước lên chiếc cyclo dường đã chờ ông từ trước. Tôi đậu xe ở đường Lê Thánh Tôn, bên hông café La Pagode, thả bộ tới Givral. Khi bước vào, nơi chiếc bàn sát cửa kính bên tay phải, trông vào đường Tự Do, nhìn xéo qua tòa nhà Quốc Hội, tôi thấy một số nhà báo ngồi sẵn. Mai Thảo dừng lại chiếc bàn này, giới thiệu tôi với những người hiện diện. Trong số những tên tuổi tôi được giới thiệu hôm đó, ngoài ông Cao Dao/Huỳnh Văn Phẩm (nổi tiếng ở lãnh vực phê bình hội họa?), còn có ông “Khói Sóng.” Mai Thảo nói:
“Ðây là anh Như Phong/Lê Văn Tiến…”
Ðó là lần đầu tiên, tôi được gặp và bắt tay ông. Ngay trong gặp gỡ đầu tiên ấy, tôi những muốn nói, tôi hâm mộ trường thiên “Khói Sóng” của ông, từ nhiều năm trước. Vì bên cạnh ông, có nhiều người, tôi thấy, nên kiềm chế niềm vui của mình!
Lúc đã ngồi trên chiếc ghế cao nơi quay rượu, Mai Thảo cho tôi biết thêm, đại ý: Như Phong là em kết nghĩa với cố nhà văn Hoàng Ðạo, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Ðồng thời, ông cũng là nhà báo, làm chính trị, giao du rất rộng và, có uy tín với số ký giả ngoại quốc…
Tôi nói, tôi thấy ông ta rất thư sinh, giống một nhà văn hơn là một người làm chính trị.
Mai Thảo, nheo mắt, cười cười:
“Thấy vậy thôi. Ðó là một tay chọc trời khuất nước đấy!”
Qua khung kính lớn, chạy suốt hai mặt đường của Givral, khi thoáng thấy nữ danh ca T.T. “người bạn đặc biệt” của Mai Thảo, tôi rời quầy rượu, bước tới bàn của ông “Khói Sóng” – – Lúc đó, chỉ còn mình ông và, dường như ông đang đọc tờ L’ Express. Rất lịch sự, ông gấp lại tờ báo, chỉ ghế, mời tôi ngồi.
Lần này, tôi nói ngay với ông rằng, tôi là một trong những người trẻ, hâm mộ trường thiên “Khói Sóng.” Và, ngập ngừng hỏi ông, tại sao ông ký tên Lý Thắng, mà không phải Như Phong/Lê Văn Tiến?
Ông nhìn tôi, như thăm dò, trước khi đáp, đại ý, với cái tên lạ hoắc, Lý Thắng, ông nghĩ sẽ tránh được cho tờ báo những khó khăn, dòm ngó từ phía chính quyền, cũng như các khuynh hướng chính trị khác, vì tính nhậy cảm của nội dung truyện. Trước khi xin phép ông trở lại sở làm, tôi nói, tôi cũng khâm phục ông trong bao nhiêu năm theo dõi “Khói Sóng” cũng như “Tỵ Bái,” chưa một lần nào tôi thấy tòa soạn phải “cáo lỗi” vì lý do tác giả ngã bệnh thình lình hay, công tác xa không kịp gửi bài về.
Ông cười bằng cả đôi mắt tinh anh, thoáng chút giễu cợt:
“Vì tôi không thuộc loại đó!”
Và, thật bất ngờ, khi ông hỏi, tại sao tôi lại thích “Khói Sóng”?
Tôi nói “bất ngờ” vì tôi không chờ đợi một câu hỏi như thế. Tôi lúng túng trả lời:
“Tôi cũng không biết tại sao nữa!!!”
Có dễ cảm được sự lúng túng, rất đỗi thành thật của tôi, nên chính ông, sau đó, đã gỡ rối cho tôi. Ông nói, ông hiểu. Vì:
“Khi ta yêu một tác phẩm văn chương, đôi khi cũng giống như yêu một người phụ nữ. Rất khó để có thể giải thích một cách minh bạch được…”
Sau chia tay, tôi tiếc, tại sao tôi không cho ông “Khói Sóng” biết, tôi yêu trường thiên đó, vì những nhân vật trong truyện có được một cuộc sống lý tưởng, đầy bất trắc, gian lao, tận hiến cuộc đời cho tổ quốc… Ðiều tôi không làm được!
Tính đến khi biến cố 30 tháng 4, 1975, tôi không có thêm dịp nào được trò chuyện với ông “Khói Sóng.” Mặc dù nhiều lần đi ngang qua Givral, nhìn vào chiếc bàn sát khung kính trông vào đường Tự Do, thỉnh thoảng tôi lại thấy ông ngồi với bằng hữu của ông. Ðôi khi bên cạnh ông là một vài nhà báo ngoại quốc (?).
…
Ở quê người, giữa thập niên 1990, qua hối thúc của bạn tôi, Trương Trọng Trác, tôi di chuyển về thành phố Houston, Texas, để nhận sự giúp đỡ, điều trị bệnh Thyroid của Bác Sĩ Hồ Tấn Phước, đồng môn CVA, lớp trước. Nửa chừng, vì lý do tình cảm, tôi phải “đào thoát” khỏi Houston, bay về Virginia, “tỵ nạn” ở nhà cựu trung tá TQLC, Nguyễn Văn Phán…
Thoạt đầu, tôi gần như không ra khỏi nhà dù ngày hay đêm. Sau một thời gian, thấy “mặt trận miền Tây” coi bộ “vẫn yên tĩnh”; để bớt cuồng chân, thỉnh thoảng, buổi chiều, tôi lại mượn xe của bạn, lái ra Phở Xe Lửa, trong khu Falls Church, của Toàn “Bò”, một bạn học thời niên thiếu.
Một buổi tối, ra về trước khi tiệm phở đóng cửa, trong khu parking mênh mông, vắng ngắt, tôi thấy một người đàn ông cao, gầy, lưng đeo chiếc ba lô nhỏ, thả bộ dưới những ngọn đèn và, hàng cây cypress thấp, ở những quãng cách không đều. Bóng ông, cũng không đều, thấp, cao hắt xuống mặt đường, những im lặng, thẫm. Như khắc, vạch từng vệt nhẫn nhục trên nền xi măng lạnh… Lái xe lại gần, tôi ngạc nhiên, hạnh phúc nhận ra ông “Khói Sóng.” Tôi dừng xe, bước xuống, nói, tôi muốn được đưa ông về.
Cũng phải nhiều giây sau, ông mới nhận ra tôi.
Trên đường đi, tôi hỏi thăm ông về những tháng, năm tù đày triền miên của ông. Ông kể, thản nhiên, như chuyện của một người nào khác, không phải ông.
Gần tới nhà ông, tôi nhắc lại buổi gặp gỡ lần đầu, giữa Saigon. Tôi nói, hôm nay, tôi mới có dịp cảm ơn ông, đã gỡ rối cho tôi, trước câu hỏi của ông, về lý do tôi say mê “Khói Sóng?” Tôi cũng kể, ngày đó, tôi ân hận là đã không nói ra cảm nhận của mình suốt bao nhiêu năm đọc “Khói Sóng”…
Vẫn với nụ cười bằng cả đôi mắt tinh anh và, thoáng chút giễu cợt, ông bảo:
“Khi người ta hiểu được tại sao mình yêu người nào đó, thì tình yêu sẽ bị giảm đi ít nhiều…”
Tôi đáp:
“Hoặc trái lại?”
“Có thể!” Ông nói.
Tôi thêm:
“Tôi ước ao trong đời mình, một lần được đọc lại ‘Khói Sóng’, nơi đất khách.”
Giọng ông trùng xuống. Ông bảo:
“Khó lắm!”
Nhưng rồi ông tiếp ngay, đầy tin tưởng:
“Tuy nhiên…”
Hai chữ “tuy nhiên” của ông, làm tôi liên tưởng tới những bài viết về ông, tôi được đọc. Hầu hết cho thấy, “lạc quan” tựa ngọn hải đăng chưa bao giờ ngưng rọi suốt hành trình nồng nàn tình yêu đất nước của ông.
…
Rồi, khi ông khuất sau cánh cửa gỗ lớn, tôi thấy, dường ông không chỉ đem theo hai chữ “tuy nhiên” mạnh mẽ mà, trong mắt, trong chiếc ba lô nhỏ của ông, còn có biết bao đời…“Khói Sóng.” Những đời sống bất tử (trong đó có ông), cả khi họ và ông, không còn nữa!!
(Calif. Tháng Bảy 2016)
Từ Dung
Tác giả Từ Dung là con út nhà văn Hoàng Đạo
(từ DĐTK)
Ông ‘Khói Sóng’
DU TỬ LÊ
Du Tử Lê
Tôi không có nhiều kỷ niệm với nhà văn Như Phong. Nhưng, đó là người tôi hâm mộ từ thời còn học trung học ở Saigon.
Những tháng, năm cuối thập niên 1950, hầu như không buổi sáng nào, tôi không nôn nả tìm đọc cho bằng được nhật báo Tự Do. Những ngày không tìm được tờ Tự Do, tôi bấm bụng mua tờ báo này, trích từ số tiền ít ỏi kiếm được bởi công việc kèm trẻ tư gia.
Thời gian đó, tin tức, hình ảnh có trên tờ Tự Do, không phải là lý do để tôi say mê tờ báo ấy. Mà, bởi vì nơi trang hai và, trang ba, cố định ở phần dưới cùng trang báo, là hai trường thiên tiểu thuyết. Trang hai, là trường thiên “Tỵ Bái” của nhà văn Nguyễn Hoạt tức Hiếu Chân. Trang ba là “Khói Sóng” ký tên Lý Thắng. (Lý Thắng chứ không phải Như Phong/Lê Văn Tiến).
Hôm nay, nếu tôi nhớ không lầm thì tác giả “Khói Sóng” cho in chữ nghiêng, ngay dưới tựa đề tiểu thuyết, hai câu thơ:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.”
Sau, tôi mới biết đó là hai câu thơ cuối cùng trong bản dịch bài “Hoàng Hạc Lâu” của Tản Ðà.
Người đầu tiên cho tôi biết Lý Thắng, một bút hiệu khác của Như Phong/Lê Văn Tiến, là chủ nhiệm báo Tự Do, Phạm Việt Tuyền. Khi tôi nói với ông, tôi là “độc giả trung thành” của Lý Thắng. (Tuy đã biết rõ tên tác giả, nhưng tôi vẫn thích gọi là ông “Khói Sóng.” Cách gọi này, cho tôi cảm tưởng, tôi gần ông hơn).
Nhà văn Mai Thảo, người thứ hai giới thiệu tôi với… ông “Khói Sóng,” vài năm sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963.
Nhớ đó là một buổi trưa, tôi ghé lại tòa soạn tạp chí Văn, lấy báo và nhận tiền nhuận bút. Tình cờ gặp Mai Thảo. Ông bảo tôi, nếu rảnh thì ra Givral uống café với ông. Tôi đề nghị chở ông bằng chiếc vespa cũ của mình… Ông từ chối và, bước lên chiếc cyclo dường đã chờ ông từ trước. Tôi đậu xe ở đường Lê Thánh Tôn, bên hông café La Pagode, thả bộ tới Givral. Khi bước vào, nơi chiếc bàn sát cửa kính bên tay phải, trông vào đường Tự Do, nhìn xéo qua tòa nhà Quốc Hội, tôi thấy một số nhà báo ngồi sẵn. Mai Thảo dừng lại chiếc bàn này, giới thiệu tôi với những người hiện diện. Trong số những tên tuổi tôi được giới thiệu hôm đó, ngoài ông Cao Dao/Huỳnh Văn Phẩm (nổi tiếng ở lãnh vực phê bình hội họa?), còn có ông “Khói Sóng.” Mai Thảo nói:
“Ðây là anh Như Phong/Lê Văn Tiến…”
Ðó là lần đầu tiên, tôi được gặp và bắt tay ông. Ngay trong gặp gỡ đầu tiên ấy, tôi những muốn nói, tôi hâm mộ trường thiên “Khói Sóng” của ông, từ nhiều năm trước. Vì bên cạnh ông, có nhiều người, tôi thấy, nên kiềm chế niềm vui của mình!
Lúc đã ngồi trên chiếc ghế cao nơi quay rượu, Mai Thảo cho tôi biết thêm, đại ý: Như Phong là em kết nghĩa với cố nhà văn Hoàng Ðạo, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Ðồng thời, ông cũng là nhà báo, làm chính trị, giao du rất rộng và, có uy tín với số ký giả ngoại quốc…
Tôi nói, tôi thấy ông ta rất thư sinh, giống một nhà văn hơn là một người làm chính trị.
Mai Thảo, nheo mắt, cười cười:
“Thấy vậy thôi. Ðó là một tay chọc trời khuất nước đấy!”
Qua khung kính lớn, chạy suốt hai mặt đường của Givral, khi thoáng thấy nữ danh ca T.T. “người bạn đặc biệt” của Mai Thảo, tôi rời quầy rượu, bước tới bàn của ông “Khói Sóng” – – Lúc đó, chỉ còn mình ông và, dường như ông đang đọc tờ L’ Express. Rất lịch sự, ông gấp lại tờ báo, chỉ ghế, mời tôi ngồi.
Lần này, tôi nói ngay với ông rằng, tôi là một trong những người trẻ, hâm mộ trường thiên “Khói Sóng.” Và, ngập ngừng hỏi ông, tại sao ông ký tên Lý Thắng, mà không phải Như Phong/Lê Văn Tiến?
Ông nhìn tôi, như thăm dò, trước khi đáp, đại ý, với cái tên lạ hoắc, Lý Thắng, ông nghĩ sẽ tránh được cho tờ báo những khó khăn, dòm ngó từ phía chính quyền, cũng như các khuynh hướng chính trị khác, vì tính nhậy cảm của nội dung truyện. Trước khi xin phép ông trở lại sở làm, tôi nói, tôi cũng khâm phục ông trong bao nhiêu năm theo dõi “Khói Sóng” cũng như “Tỵ Bái,” chưa một lần nào tôi thấy tòa soạn phải “cáo lỗi” vì lý do tác giả ngã bệnh thình lình hay, công tác xa không kịp gửi bài về.
Ông cười bằng cả đôi mắt tinh anh, thoáng chút giễu cợt:
“Vì tôi không thuộc loại đó!”
Và, thật bất ngờ, khi ông hỏi, tại sao tôi lại thích “Khói Sóng”?
Tôi nói “bất ngờ” vì tôi không chờ đợi một câu hỏi như thế. Tôi lúng túng trả lời:
“Tôi cũng không biết tại sao nữa!!!”
Có dễ cảm được sự lúng túng, rất đỗi thành thật của tôi, nên chính ông, sau đó, đã gỡ rối cho tôi. Ông nói, ông hiểu. Vì:
“Khi ta yêu một tác phẩm văn chương, đôi khi cũng giống như yêu một người phụ nữ. Rất khó để có thể giải thích một cách minh bạch được…”
Sau chia tay, tôi tiếc, tại sao tôi không cho ông “Khói Sóng” biết, tôi yêu trường thiên đó, vì những nhân vật trong truyện có được một cuộc sống lý tưởng, đầy bất trắc, gian lao, tận hiến cuộc đời cho tổ quốc… Ðiều tôi không làm được!
Tính đến khi biến cố 30 tháng 4, 1975, tôi không có thêm dịp nào được trò chuyện với ông “Khói Sóng.” Mặc dù nhiều lần đi ngang qua Givral, nhìn vào chiếc bàn sát khung kính trông vào đường Tự Do, thỉnh thoảng tôi lại thấy ông ngồi với bằng hữu của ông. Ðôi khi bên cạnh ông là một vài nhà báo ngoại quốc (?).
…
Ở quê người, giữa thập niên 1990, qua hối thúc của bạn tôi, Trương Trọng Trác, tôi di chuyển về thành phố Houston, Texas, để nhận sự giúp đỡ, điều trị bệnh Thyroid của Bác Sĩ Hồ Tấn Phước, đồng môn CVA, lớp trước. Nửa chừng, vì lý do tình cảm, tôi phải “đào thoát” khỏi Houston, bay về Virginia, “tỵ nạn” ở nhà cựu trung tá TQLC, Nguyễn Văn Phán…
Thoạt đầu, tôi gần như không ra khỏi nhà dù ngày hay đêm. Sau một thời gian, thấy “mặt trận miền Tây” coi bộ “vẫn yên tĩnh”; để bớt cuồng chân, thỉnh thoảng, buổi chiều, tôi lại mượn xe của bạn, lái ra Phở Xe Lửa, trong khu Falls Church, của Toàn “Bò”, một bạn học thời niên thiếu.
Một buổi tối, ra về trước khi tiệm phở đóng cửa, trong khu parking mênh mông, vắng ngắt, tôi thấy một người đàn ông cao, gầy, lưng đeo chiếc ba lô nhỏ, thả bộ dưới những ngọn đèn và, hàng cây cypress thấp, ở những quãng cách không đều. Bóng ông, cũng không đều, thấp, cao hắt xuống mặt đường, những im lặng, thẫm. Như khắc, vạch từng vệt nhẫn nhục trên nền xi măng lạnh… Lái xe lại gần, tôi ngạc nhiên, hạnh phúc nhận ra ông “Khói Sóng.” Tôi dừng xe, bước xuống, nói, tôi muốn được đưa ông về.
Cũng phải nhiều giây sau, ông mới nhận ra tôi.
Trên đường đi, tôi hỏi thăm ông về những tháng, năm tù đày triền miên của ông. Ông kể, thản nhiên, như chuyện của một người nào khác, không phải ông.
Gần tới nhà ông, tôi nhắc lại buổi gặp gỡ lần đầu, giữa Saigon. Tôi nói, hôm nay, tôi mới có dịp cảm ơn ông, đã gỡ rối cho tôi, trước câu hỏi của ông, về lý do tôi say mê “Khói Sóng?” Tôi cũng kể, ngày đó, tôi ân hận là đã không nói ra cảm nhận của mình suốt bao nhiêu năm đọc “Khói Sóng”…
Vẫn với nụ cười bằng cả đôi mắt tinh anh và, thoáng chút giễu cợt, ông bảo:
“Khi người ta hiểu được tại sao mình yêu người nào đó, thì tình yêu sẽ bị giảm đi ít nhiều…”
Tôi đáp:
“Hoặc trái lại?”
“Có thể!” Ông nói.
Tôi thêm:
“Tôi ước ao trong đời mình, một lần được đọc lại ‘Khói Sóng’, nơi đất khách.”
Giọng ông trùng xuống. Ông bảo:
“Khó lắm!”
Nhưng rồi ông tiếp ngay, đầy tin tưởng:
“Tuy nhiên…”
Hai chữ “tuy nhiên” của ông, làm tôi liên tưởng tới những bài viết về ông, tôi được đọc. Hầu hết cho thấy, “lạc quan” tựa ngọn hải đăng chưa bao giờ ngưng rọi suốt hành trình nồng nàn tình yêu đất nước của ông.
…
Rồi, khi ông khuất sau cánh cửa gỗ lớn, tôi thấy, dường ông không chỉ đem theo hai chữ “tuy nhiên” mạnh mẽ mà, trong mắt, trong chiếc ba lô nhỏ của ông, còn có biết bao đời…“Khói Sóng.” Những đời sống bất tử (trong đó có ông), cả khi họ và ông, không còn nữa!!
(Calif. Tháng Bảy 2016)
No comments:
Post a Comment