LÊ QUANG VINH * THÀNH NHÀ HỒ
THÀNH NHÀ HỒ - CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ CỦA TƯ DUY ÍCH KỶ, THIỂN CẬN – DẪN TỚI THẢM HỌA NƯỚC MẤT, NHÀ TAN - ĐANG RẤT "THỜI SỰ"!?
Lê Quang Vinh
"THÀNH NHÀ HỒ - CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ CỦA TƯ DUY ÍCH KỶ, NGU NGỐC VÀ THIỂN CẬN – DẪN TỚI THẢM HỌA MẤT NƯỚC"; hẳn còn giá trị thời sự cho mỗi người dân và chính quyền Việt Nam trong giai đoạn lịch sử hiện nay. Chúng ta đừng gồng mình, dồn sức xây dựng những công trình ngàn tỷ, nhiều ngàn tỷ cốt chỉ thỏa mãn lòng khát khao lập những "kỷ lục" do sĩ diện hão huyền, kém hiểu biết. Những công trình như vậy chỉ béo bọn tham nhũng; nhưng thật vô ích đối với nhân dân. Bởi công trình càng to, càng nhiều tiền thì cơ hội tham nhũng càng lớn. Không ít chính quyền nhiều nơi, đã tinh ranh lừa mị, lôi kéo "nhân dân" vào cuộc để làm "bình phong" bằng các chiêu thức (mòn sáo) như: "Theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân", theo đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền công đáp nghĩa"; để "phát triển văn hóa du lịch, cải thiện và mở mang đời sống xã hội tại địa phương hiện đang rất nghèo nàn", vân vân và vv...CỐT ĐỂ TRỤC LỢI!
Cổng Nam thành nhà Hồ, đây là cổng chính, lớn nhất dẫn vào Hoàng thành.
Đôi rồng đá bị mất đầu hiện được đặt ở trung tâm tòa thành. Hai con rồng nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Ảnh: Lê Hoàng.
Lê Quang Vinh
Trong lịch sử dân tộc, những nhân vật tài ba lỗi lạc, kiệt xuất như Vua Hồ Quý Ly - 黎季犛 (1336 – 1407) không nhiều. Ông còn được coi là “Nhà cải cách” phi thường của mấy chục năm cuối thế kỷ XIV cùng những năm đầu tiên của thế kỷ XV; cũng là Nhà văn hóa - Nhà thơ lớn để lại cho hậu thế nhiều tuyệt tác văn - thi ca giá trị đến ngày nay và chắc chắn mai sau nữa. Thế nhưng những gì còn lại của ngôi thành khá kỳ vĩ bằng đá nguyên khối - Thành Nhà Hồ, lại là "dấu tích" của nguyên cớ dẫn tới thảm họa mất nước.
Chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” của Nhà Minh là "thực tiễn" (bi kịch) do Hồ Quý Ly tiếm quyền Nhà Trần gây ra; bởi ông đã dồn sức dân sức nước, mọi nguồn lực kinh tế mấy trăm năm Nhà Trần tích cóp được để xây dựng kinh đô mới (Thành Nhà Hồ) khiến cơ sở vật chất, tiền của quốc gia cùng bộ máy (chính quyền) Nhà nước phong kiến rệu rã, kiệt quệ, lòng dân oán thán, không còn sức lực đâu nữa để chống chọi lại họa xâm lăng đang tới gần và thực tế đã diễn ra ngay sau đó.
*****
Cách đây mấy năm, nhân UNESCO công nhận thành Nhà Hồ là "Di sản văn hóa
thế giới”, một văn bản mang tên “DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI” của Trung tâm
Thông tin Du lịch (Tổng cục Du lịch Việt Nam), có viết: “Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới”.
Sự ghi nhận này của Ủy ban Di sản thế giới - UNESCO, thực chất là sự tôn vinh hàng vạn, thậm chí hàng triệu sinh linh người Việt – những người lính, nông phu, những thợ thủ công của nghề đá (chủ yếu tại địa phương) và nhiều nghề khác nữa của cả nước; những trí thức và quan lại trực tiếp xây dựng lên công trình này. Đó là “Nhân dân - Bách tính”!
Nhưng với lịc sử dân tộc, thì thật trớ trêu; công trình có quy mô cùng sự tốn kém thuộc loại lớn bậc nhất của các triều đại phong kiến, nhưng có tuổi khai thác (sử dụng) lại ngắn nhất, sớm tiêu vong theo chế độ (triều đại) Nhà Hồ. Thực chất công năng cùng tác dụng của ngôi thành và kinh đô mới này, chỉ tồn tại có mấy năm (từ 1398 đến 1407); để rồi suốt 6 thế kỷ nay là bỏ không, hoang phế theo thời gian...
*****
Thứ nhất: đó là sự ích kỷ, hẹp hòi – bây giờ chúng ta gọi là “địa phương chủ nghĩa”, "bản vị" của những toan tính do âm mưu tiếm quyền từ lâu ở Hồ Quý Ly. Sử cũ chép: “Lúc bấy giờ Hồ qúy Ly giữ chức "Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự", tước "Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương", cương vị "Tể tướng", nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Ông đã sai và cắt cử người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo thành là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn).
Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long - Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên "Tây Đô", nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới”.
Nếu Hồ Quý Ly không phải “chính quê” ở huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa thì ông đã không bao giờ làm cái chuyện tày đình, ngược với “thiên thời, địa lợi và nhân hòa” như vậy. Chính “ngược” nên bản thân ông, cùng chính quyền và mọi thứ (kể cả những thành quả rất “cách mạng” của Đại thần Hồ Quý Ly suốt mấy chục năm, ông đã đưa hết tài năng phù giúp Nhà Trần) đều bị kẻ thù xâm lược là Nhà Minh dễ dàng đè bẹp, sau đó bão táp lịch sử cũng cuốn phăng một cách không thương tiếc. Bằng chứng là Lê Lợi, sau khi khôi phục lại được giang sơn rồi dựng xây nền độc lập cho nước nhà – cũng cùng quê hương Thanh Hóa, nhưng ông không làm những chuyện như Hồ Quý Ly; cũng không hề “tận dụng” thành quách (mọi cơ sở vật chất của “kinh thành” đang rất mới và kiên cố này) mà nhà Hồ đã tạo dựng ngay trên chính quê hương mình. Đời sau của Hoàng đế Lê Lợi chỉ xây dựng “Sơn lăng” ở Lam Sơn cho các vua Lê quy tiên thôi (theo phong tục “lá rụng về cội”).
Thứ hai: Hồ Quý Ly đã tư duy “ngu ngốc" và "thiển cận” trước họa xâm lăng. Nhà Minh là nhà nước phong kiến hùng mạnh, luôn có mưu đồ xâm lược nước ta chính trong giai đoạn Hồ Quý Ly – thực tế đang “chấp chính” cho Nhà Trần; mọi quyền bính và nguồn lực đất nước nằm gọn trong tay ông. Thế nhưng các “giác quan" của viên “Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự", tước "Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương", cương vị "Tể tướng” này lại tập trung vào chuyện tìm trăm phương ngàn kế vô cùng xảo quyệt để tiếm quyền vua Trần; điều này đã dẫn dắt mọi hành động sai lầm có tính liên hoàn của Hồ Quý Ly – điển hình là dồn mọi nguần lực của đất nước xây lên ngôi thành và “kinh đô” mới – Thành Nhà Hồ. Thành công của cá nhân Hồ Quý Ly chính là mầm móng ngay sau đó đẩy cả dân tộc chuốc lấy họa mất nước, bản thân cha con ông bị quân Minh bắt sống, tiêu diệt.
Sử chép: “Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: Đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho Hoàng Hối Khanh chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói: "Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi."
Năm 1406, lấy cớ "Phù Trần diệt Hồ", nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 20 vạn quân sang đánh Đại Ngu.
Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (ngày 20 tháng 1 năm 1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22 tháng 1 năm 1407, quân nhà Minh tràn xuống chiếm cố đô Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo các thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.
Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu:
"Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn."
Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi(1407). Có thuyết nói ông bị nhà Minh sát hại khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh), có thuyết lại nói ông bị đày làm lính ở Quảng Tây và mất sau đó vài năm.
Nhà Hồ trị vì đất nước từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Đinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ”.
*****
Những công trình như vậy chỉ béo bọn tham nhũng; nhưng thật vô ích đối với nhân dân. Bởi công trình càng to, càng nhiều tiền thì cơ hội tham nhũng càng lớn. Không ít chính quyền nhiều nơi, đã tinh ranh lừa mị, lôi kéo "nhân dân" vào cuộc để làm "bình phong" bằng các chiêu thức (mòn sáo) như: "Theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân", theo đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền công đáp nghĩa"; để "phát triển văn hóa du lịch, cải thiện và mở mang đời sống xã hội tại địa phương hiện đang rất nghèo nàn", vân vân và vv...
Có thể liệt kê được nhiều công trình...mất lòng dân; mất cả trăm tỷ, ngàn tỷ công quỷ rồi...
16 giờ 28’ – ngày 10/6/2016
(Tròn một tháng BS Xuân Hương sang Anh cùng các con cháu).
LQV
*****
Nhà thơ HỒ QUÝ LY
Hồ Quý Ly là một vua có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong các tác phẩm của ông, có những bài thơ sáng tác dùng vào việc cai trị và đối ngoại.
Khi còn là một đại quan nhà Trần, trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, Hồ Quý Ly đã cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:
烏臺久矣噤無聲
頓使朝庭風憲輕
借問子澄懦中尉
書生何事負平生
Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh
Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!
Ông còn có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân - Trần Thuận Tông[24]) như sau:
前有庸暗君
昏德及靈德
何不早安排
徒使勞人力
Tiền hữu dung ám quân
Hôn Đức cập Linh Đức
Hà bất tảo an bài
Đồ sử lao nhân lực
Được Tuấn Nghi dịch là:
Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!
Ông là vị Hoàng đế Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa của người Việt, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "Vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.
Khi đã bị nhà Minh bắt giữ, ông đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam bằng một bài thơ:
欲問安南事
安南風俗淳
衣冠唐制度
禮樂漢君臣
玉瓮開新酒
金刀斫細鱗
年年二三月
桃李一般春
Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan Đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ngọc ủng khai tân tửu
Kim đao chước tế lân
Niên niên nhị tam nguyệt
Đào lí nhất ban xuân
An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Y quan chẳng kém Đường
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Bình ngọc rượu lừng hương
Dao vàng cá nhỏ vẩy
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vườn
Giai thoại[sửa | sửa mã nguồn]
Trong Kiên biều tập của Chử Nhân Hoạch soạn đời nhà Thanh có chép một giai thoại lạ lùng về Hồ Quý Ly, được Lê Quý Đôn dẫn lại trong Kiến văn tiểu lục.
Con cháu họ Trần làm vua nước Giao Chỉ, lúc ấy có người ở Giang Tây là Lê Quý Ly, khi còn bé sang nước ấy buôn bán, ở thuyền lên bờ, thấy trên bãi cát có câu rằng:
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai.
(Một cành mai trong cung Quảng Hàn)
Sau Quý Ly mon men được làm quan. Một hôm vua Trần nghỉ mát ở điện Thanh Thử, sân điện có hàng ngàn cây quế, nhà vua ra câu đối rằng:
Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
(Ngàn gốc quế trước điện Thanh Thử)
Bầy tôi chưa ai kịp đối. Quý Ly nhớ lại câu đã trông thấy trên bãi cát khi trước, liền đem câu ấy đối lại. Nhà vua giật mình, nói "Sao nhà ngươi biết được việc trong cung của ta ?". Quý Ly cứ tình thực tâu bày. Nhà vua nói "Đấy là số trời". Bởi vì nhà vua có một cô con gái tên là Nhất Chi Mai, dựng cung Quảng Hàn để cho ở. Nhân câu đối ấy, nhà vua liền đem cô gái này gả cho Quý Ly.
Hồ Quý Ly đã viết các tác phẩm sau:
Quốc ngữ thi nghĩa (viết về chủ đề giáo dục, nay đã thất truyền)
Minh đạo lục (sách lý thuyết, 14 thiên, nay đã thất truyền)
GS. NGUYỄN ĐĂNG TRÚC * NS. LÊ MỘNG NGUYÊN
LÊ MỘNG NGUYÊN
Vọng về lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa
Tùy Bút của Gs NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
Attachment: Hi`nh Nha.c Si~ Le^ Mo^.ng Nguye^n (ba`i go^'c)
Hình Nhạc Sĩ/GS Lê Mộng Nguyên
Vọng về lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa
Tùy Bút của Gs NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
Attachment: Hi`nh Nha.c Si~ Le^ Mo^.ng Nguye^n (ba`i go^'c)
Hình Nhạc Sĩ/GS Lê Mộng Nguyên
Giáo sư Trần-Văn-Cảnh và nhà văn Đỗ Bình ở Paris đề nghị tôi viết vài
hàng giới thiệu về nhà văn Lê Mộng Nguyên để đưa vào Tuyển tập Những
Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris.
Thực ra viết về Lê Mộng Nguyên, có quá nhiều để viết. Những dòng chữ
dưới đây chỉ là những chấm phá về những ngày có duyên được quen biết nhà
văn tiền bối nầy.
Chưa đến tuổi vào đại học, người thanh niên xứ Huế đầy tài năng Lê Mộng Nguyên đã được dân chúng biết đến qua những ca khúc Xuân Tươi (1945) Vó Ngựa Giang Hồ, Mừng Khánh Đản - Rằm Tháng Tư, Một Chiều Thương Nhớ, Chiều Thu (1948), Vó Ngựa Giang Hồ (1948), Hoàng Hoa Thôn, Nhớ Huế, Bài Thơ Huế, Cô Gái Huế, Đôi Mắt Nhung, Về Chơi Thôn Vỹ, Mỵ Châu Trọng Thủy, Mơ Đà Lạt, Ly Hương (1950)… Xuân
Tha Hương,Thu Trên Sông Seine, Thu Sầu, Tôi Sợ Chiều Thu, Chiều Vàng
Năm Xưa, Em Có Về Làng Xưa, Giao Mùa, Việt Nam Thắm Tươi, Người Thơ Năm
Cũ, Xa Rời Quê Hương… Nhưng hơn hết tình ca Trăng Mờ Bên Suối (13 -11-1949) là bản nhạc đã đi vào Đại Ký Ức thi ca của người dân việt.
Rời Việt-Nam đi du học ở Pháp năm 1950, chàng thanh niên nghệ sĩ nầy
từng dự định ghi danh học ngành âm nhạc tại Conservatoire national
supérieur de musique ở Paris, phản ảnh ước mơ của không ít người thanh
niên Huế lúc bấy giờ (1), nhưng số phận đã đưa du học sinh nầy đến ghế
trường Luật. Xa quê từ dạo ấy cho đến nay trên 65 năm, sáng tác âm nhạc
của Lê Mộng Nguyên là tiếng vọng nhớ nước, nhớ non, nhớ nhà như lời của
thi sĩ tiền bối đồng hương Sảng Đình Nguyễn Văn Thích có lần đã nhắn nhủ
giới trẻ Việt Nam : Lá Thư Cho Mẹ, Sông Seine - Bao giờ Ta Về Nước Nam ? (1951), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương (1981), Quê Tôi (1991), Kiếp Giang Hồ (1992), và tiếp đó : Tìm Lại Ngày Xưa, Thề Non Nước, Lời Cuối Của Anh, Quốc Hận 30 Năm…
Qua vô số tác phẩm âm nhạc mà danh mục trên chỉ là tượng trưng, có thể
nhận ra rằng cảm hứng âm nhạc của Lê Mộng Nguyên trào vọt lên từ nguồn
thi ca đến từ bờ bên kia theo lối nói của nhà Phật. Thật ra, nguồn thi
ca đó đã được gợi lên một cách cô động nơi lời thơ nầy của chính tác giả
trong tuyệt phẩm "Trăng Mờ Bên Suối" : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Nhưng, Lê Mộng Nguyên được giới thức giả, người trên thế giới cũng như
đồng bào, biết đến nhiều, không phải vì các học vị bằng cấp hay chức vụ
xã hội :
(Lê Mộng Nguyên đã tốt nghiệp tiến sĩ quốc gia luật khoa về ban công
pháp với luận án "Giai cấp xã hội và phong trào chính trị tại Việt-nam
từ 1919 đến 1939" ( luận án được Giải Thưởng Luận Án Đại Học Paris
1963), đã từng là giám đốc nghiên cứu và giáo sư công pháp quốc tế tại
đại học Paris, luật sư Tòa Thượng Thẩm Paris , chuyên gia về các định
chế Pháp và quốc tế, những vấn đề Đông Nam Á và đặc biệt là Việt-nam…,
và là thành viên Hàn Lâm Viện Khoa học Pháp Quốc Hải Ngoại…)
mà là vì giá trị của những biên khảo hàn lâm, những kiến thức uyên bác,
những nhận định, phê binh về chính trị, về các định chế điều hành sinh
hoạt cộng đồng và xã hội, về văn hóa… trong nhiều tác phẩm nghiên cứu
được tái bản nhiều lần, tiêu biểu như :
La Constitution de la Ve République, de Charles De Gaules à François Mitterrand, STH, 4ème édition, 515 pages, Paris 1989 ; Les systèmes politiques démocratiques contemporains, 4ème édition actualisée, 228 pages, STH Paris 1994; La constitution de 1958, L'Hermès, Paris 1996; Initiation au droit, L'Hermès, Paris 1996; Finances publiques, L'Hermès, Paris 1997; Les systèmes politiques démocratiques, Éditions Ledrappier, Paris 1987…; Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde, Institut de Sociologie, Bruxelles, 1971. (100) Contes philosophiques d'Asie, L'Harmattan, Paris 2005….
Ngoài những tác phẩm viết bằng pháp ngữ về luật pháp, xã hội, thi ca,
văn hóa; Lê Mộng Nguyên đã viết bằng việt ngữ nhiều bình luận văn chương
(đặc biệt là thơ và tiểu thuyết), âm nhạc, về các sáng tác của các tác
giả người Việt trong và ngoài nước. Chưa kể đến những biên khảo về chính
trị, những nhận định về tình hình Việt Nam được phổ biến trong các tạp
chí, tuyển tập phát hành trong cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại. Đây không
chỉ là những kiến thức uyên bác khách quan, nhưng còn phản ảnh những nỗi
thao thúc, những tình tự của người con xa xứ, khao khát muốn sớm thấy
tổ quốc Việt Nam sớm được dân chủ và tự do.
Nhưng bên trên, bên ngoài một Lê Mộng Nguyên tài ba và thành đạt đó,
điều đáng cho những người tiếp cận ghi nhớ chính là con người và cung
cách « kẻ sĩ » của anh.
Người xa khi nghe đến tên tuổi và sự nghiệp của Lê Mộng Nguyên hẳn sẽ
ngạc nhiên khi trực tiếp tiếp cận qua liên lạc thư từ, trò chuyện, tâm
sự hay sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật với anh. Có duyên gặp anh rất trễ
từ sau năm 2000, nhưng qua cách nói, nơi thái độ niềm nở ân cần, và nhất
là với nụ cười và cái nhìn thiết thân của anh, ngay trong lần đầu tiếp
xúc tôi giật mình đối diện với một « kẻ sĩ » (2) mà tôi tưởng chỉ có thể
hình dung trong ước lệ văn chương.
Thái độ khoan thai, cách ăn mặc nghiêm túc nhưng dung dị, lời nói cẩn
trọng nhưng hết sức chân thành ấm áp, vẽ ra trước mắt tôi chân dung một
nhà nho trong văn hóa truyền thống. Nụ cười dễ dàng và cái nhìn rất hồn
nhiên của anh như sao chép hình ảnh một chân nhân của đạo học hoàn đồng.
Phải, nơi anh, có vết tích nét thanh cao, bình dị của văn hóa Á Châu,
có tác phong lắng nghe, lối tiếp cận tự nhiên, thẩng thắn, tinh thần
bình đẳng và sẳn sàng phục vụ của tinh hoa văn hóa Tây Phương. Nói theo
kiểu nói của người Pháp, anh là « sinh loại họa hiếm » trong một xã hội
thích tôn vinh những con người phô trương, cao ngạo và hời hợt nhất
thời.
Có một điểm làm cho người tiếp cận ngạc nhiên nữa đó là sự tha thiết gần
như quá mức của anh về những sáng tác thơ văn và âm nhạc, những tiểu
thuyết, truyện, tùy bút, hồi ký, luận văn … của người Việt sống kiếp lưu
vong. Trong lời nói đầu cuốn sách của anh tựa đề Nhà Văn Hải Ngoại do nxb Nắng Mới, Đức Quốc, xuất bản năm 2006, anh từng thổ lộ :
« Tôi đã viết với quả tim, hơn là theo lý trí, và với nhiều cảm xúc,
rung động của tâm hồn, tôi muốn quí độc giả chia xẻ nhũng giây phút hạnh
phúc hay nhớ nhung mà thơ văn, nhạc viễn xứ đã đem lại cho tôi. »
(trang 7)
Mối thâm tình thân thuộc đối với đồng hương xa quê, nỗi nhớ nhung kỳ lạ
đã chi phối chính con người anh, văn phong trong các sáng tác, tất cả
như cũng chỉ là những biểu hiện phát xuất từ nguồn suối thi ca mà chúng
ta đã ghi nhận qua nhạc của Lê Mộng Nguyên : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Văn hóa Hy-lạp gọi Suối Xưa (ẩn kín) nơi bản nhạc Trăng Mờ Bên Suối là
Đại Ký Ức , là Nguồn hứng của thi ca đến từ bên kia bờ, là nơi mà Lão Tử
trong Đạo Đức Kinh gọi là Huyền Môn (3) . Suối Xưa đó chính là tên gọi của Lời sâu kín cư ngụ nơi tâm hồn của mỗi người.
Theo như lối định nghĩa thi ca của Socrate (4) , từ Nguồn Suối Xưa, Lời
Người hẹn từ muôn thủa làm tan biến những hiểu biết của trí khôn tính
toán so đo, và đồng thời thổi vào « người thi sĩ » một hồn thơ, một linh
khí giúp « kẻ ngộ duyên » ấy có thể nói lên chiều kích thần thiêng của
nhân tính. Lời Người hẹn đó cũng là « Thi » hay Lời Thơ giúp « kẻ sĩ »
nói lên được lời nhân nghĩa như trăn trối của Khổng Tử cho con của Ngài
là Bá Ngư (5). Và cũng do tác động của Nguồn Suối Xưa, Nguồn suối bên
bóng trăng mờ, mà trong đại tác phẩm Prométhée bị trói,
thi hào Eschyle hứng khởi loan tin về nét cao cả của nhân tính nơi mối
tương giao kỳ bí (relation nocturne, mystérieuse) với Đấng Tối Cao hay
Thần giấu mặt :
Iô : Những giấc mơ đêm đêm ghé giường trinh nữ của tôi, và thì thầm bên
tai : « Hởi nhi nữ đầy ơn phúc, tại sao phải ở không như thế, khi nàng
có thể có được phu quân là Đấng Tối Cao ? Nàng có biết Thần Zeus, vì
nguồn tình yêu nồng cháy của Ngài, đã say đắm nàng : xin nàng chớ từ
chối thần duyên nầy ! (Eschyle, Prométhée bị trói, cc. 645-651).
Chính vì cảm hứng từ Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa mà ca khúc Trăng Mờ Bên
Suối đã làm làm sống lại Đại Ký Ức hay Nguồn Suối thần thiêng nơi tâm
hồn của người Việt chúng ta. Cảm hứng kỳ lạ, hẳn không phải do tài gì
của chàng thanh niên Lê Mộng Nguyên mà phát sinh, nhưng là Duyên thi ca
đến với anh. Cảm hứng đó là hồn thơ người Việt lên tiếng nói, một hồn
thơ đã đến với Vũ-Quỳnh (trong Lĩnh Nam chích quái, 1492), Nguyễn-Du (trong Kiều,
đầu thế kỷ XIX), Tản Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu (trong Thề Non Nước ,1922) …
trước đây. Hồn thơ đó làm rung động người dân Việt, làm nên nét tinh hoa
văn hóa Việt, và đủ sức đưa văn hóa đó vào gia sản chung của văn hóa
nhân loại.
Thực thế, trong truyện huyền thoại dựng nước Họ Hồng Bàng của cuốn Lĩnh Nam chích quái
do Vũ Quỳnh hiệu chính, Âu Cơ là Mẹ muôn người, là Nguồn của người «
linh ư vạn vật », khi người nữ nầy là hiện thân của Nổi Nhớ Lạc Long
Quân và là người gặp « Người hẹn cùng ta » ấy ở Tương Dạ (Tương Dạ đúng
là « Đêm gặp gỡ » hay Tâm sâu kín nối kết Trời Người và mọi người với
nhau) :
Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân (…) Bố ở phương nào,làm cho mẹ
con ta thương nhớ. Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương
Dạ (6)ï.
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa cũng là lời Đạm Tiên - Người mà thủa xưa ai
cũng khao khát mến chuộng, nhưng nay vì « má đào, tài sắc » của thân
phận con người « vốn lãng quên mệnh thanh cao của mình », nên đã bị vất
bỏ bên lề cuộc sống -. Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời đến từ bên kia
bờ đến với Kiều trong « giấc mộng ban đêm » tiên đoán cơn đau của cuộc
chiến Tài-Mệnh, cuộc chiến làm người hướng đến Duyên cứu độ (Giác Duyên)
trên sông Tiền Đường.
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời Thề Non-Nước lời thề của nhân tính
linh thiêng phát sinh từ cội nguồn cao cả đến với con người bị cuốn trôi
bởi lo toan thế sự. Non ấy của thi sĩ Tản Đà không phải là Người hẹn
cùng ta của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên hay sao ?
Nước Non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng Non
Nhớ nhời nguyện nước thề Non
Nước đi chưa lại Non còn đứng không (trích Tản Đà, "Thề Non Nước")
Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi đây xa cách
Rồi đây hai ngả biết tới phương nào?
(…)
Một ngày xa nhau xoá bao hình bóng
Nước đi đi mãi không về cùng Non
Nhớ nhời nguyện nước thề Non
Nước đi chưa lại Non còn đứng không (trích Tản Đà, "Thề Non Nước")
Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi đây xa cách
Rồi đây hai ngả biết tới phương nào?
(…)
Một ngày xa nhau xoá bao hình bóng
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, "Trăng Mờ Bên Suối")
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, "Trăng Mờ Bên Suối")
Không thể không thấy rằng các sáng tác của Lê Mộng Nguyên thể hiện lối
văn chương và thi ca tiếp liền các trào lưu thời tiền chiến, nhưng nguồn
thi hứng và văn phong của tác giả không chìm vào những giấc mộng « ru
với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây » của các tác phẩm tác chịu
ảnh hưởng phái lãng mạng Pháp. Con người và văn phong của Lê Mộng
Nguyên, đặc biệt trong kiệt phẩm Trăng mờ bên suối có một nét độc đáo
vượt lên trên các trào lưu.
Một Âm hưởng, một Lời thơ nào đó lạc bước đi vào văn chương và con người
của anh. Phải chăng Âm hưởng và Lời thơ đó tiếp cận được điều mà triết
gia Karl Jaspers nói là dư âm tiếng gọi con người thời đại vượt cảnh vực
thế sự để suy tư về cõi linh thiêng muôn thủa của tâm hồn mình (7)
Cước chú:
(1) Điều đáng lưu ý là đa số các đạo diễn điện ảnh Việt-Nam vào các thập
niên 50, 60,70 là gốc người Huế, trong đó có đạo diễn Lê Mộng Hoàng là
anh ruột của Lê Mộng Nguyên.
(2) Nhận xét nầy của người viết chỉ là phản ảnh những cảm tưởng của các
giáo sư, các nhân sĩ, các sinh viên…, tóm lại là các tham dự viên các
khóa Đại Học Hè VNHN (khóa 6 - tháng 07/ 2002 tại Oslo, Na-Uy, khóa 7,
tháng 08/2003 tại Violau, Đức), Ngày gặp gỡ các tôn giáo Viễn Đông,
tháng 03/2004, tại Centre St. Thomas, Strasbourg, Pháp), Ngày gặp gỡ văn
hóa thường niên VNHN (tháng 08/2008, tháng 08/2009 ở Bruxelles) do
Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức.
(3) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ch 1. : Huyền chi hựu Huyền, Chúng diệu chi Môn.
(4) PLATON, Ion. 534 c-d; 534 e :.Socrate.- Không phải do tài năng nào
của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng
của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta
thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ
là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý
trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những
tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta
hiểu được rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá
trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng
chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian
các thi sĩ !
(5) Luận Ngữ, XVI-13 : Bất học Thi, vô dĩ ngôn - Không học Thơ, không có lời để nói.
(6) Vũ Quỳnh, Lĩnh Nam Chích Quái, bản dịch Lê Hữu Mục, Huế, 1960, tr. 43-44.
(7) Khi mô tả sứ điệp văn hóa của các thánh nhân, Karl Jaspers viết : Vĩ
nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình, mà còn
giúp con người nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận. Vì thế tự căn nét siêu
việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương
soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại. (Les grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et autres, Plon, Paris, 1989, tr. 36)
NGƯỜI ĐẸP XỨ HUẾ
Gặp lại nữ sinh áo dài nổi tiếng nhất xứ Huế tại Hoa hậu Việt Nam 2016
Xinh đẹp, dịu dàng và thần thái đúng chất thiếu nữ Huế, nữ sinh này đang trở thành tâm điểm của cuộc thi.
2 năm 1 lần, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam lại bắt đầu, và là
dịp tuyệt vời nhất để chúng ta có thể chiêm ngưỡng các nhan sắc thuần
Việt. Đây được xem là cuộc thi sắc đẹp danh giá nhất Việt Nam, khi người
đăng quang sẽ đại diện cho nhan sắc và trí tuệ Việt, để quảng bá và đại
diện cho phái đẹp Việt Nam tham dự các cuộc thi Hoa hậu của Thế giới.
Bởi vậy, cuộc thi luôn thu hút rất lớn sự chú ý của mọi người qua từng
giai đoạn.
Mới đây, Hoa hậu Việt Nam 2016 đã chính thức
lộ diện Top 30 nhan sắc sẽ tranh tài ở vòng Chung khảo phía Nam. Và
trong số đó, cô nàng được mệnh danh là "Nàng thơ xứ Huế" Lê Trần Ngọc
Trân là một trong những gương mặt đang nhận được nhiều sự chú ý.
Nữ sinh nổi bật trong cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2016 - Lê Trần Ngọc Trân
Nếu là người yêu mến nhan sắc Việt, chắc bạn cũng từng 1 lần nghe đến tên của cô gái này. Ngọc Trân, sinh năm 1995, từng đạt danh hiệu Người đẹp du lịch Huế 2015, là nữ sinh nổi bật nhất của xứ Huế. Cô nàng từng xuất hiện và ghi điểm mạnh mẽ trong video quảng bá du lịch Việt Nam "Welcome to Vietnam" của Bộ Ngoại giao năm vừa rồi. Trân hiện đang là nữ sinh khoa Báo chí - Truyền thông của trường Đại học Khoa học Huế.
Ngọc Trân tự tin giao lưu sau khi đăng quang Người đẹp du lịch Huế 2015.
Ngọc Trân xuất hiện ở 1:53 trong clip Welcome to Vietnam.
Cực xinh đẹp trong video Vàng son một thuở - Nostalgic grace
Đúng
chất thiếu nữ Huế, vẻ đẹp của Ngọc Trân thật biết cách khiến người ta
phải xao xuyến. Cô sở hữu gương mặt tròn phúc hậu, với đôi mắt to và nụ
cười tươi tắn. Đặc biệt, vẻ dịu dàng trong khí chất cũng như sự thanh
thoát mà cô tỏa ra khiến nhiều người phải trầm trồ. Nhiều người còn nhận
xét rằng, cô có nét đẹp rất giống Hoa hậu Việt Nam 2004 Nguyễn Thị
Huyền.
Nền nã trong tà áo dài Việt.
Ống kính hậu trường cuộc thi luôn hướng về cô nàng.
Bên cạnh đó, Ngọc Trân còn gây ấn tượng bởi thành tích nổi trội của mình cả trong học tập lẫn các hoạt động nghệ thuật. Cô từng đạt học sinh giỏi 10 năm liền, Giải Nhì Hội thi Bí thư Chi đoàn cấp Thành phố, Gương mặt tiêu biểu thực hiện cuộc vận động tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Giải Nhất cuộc thi Học sinh thanh lịch THPT Quốc Học Huế. Ngoài ra, cô còn là gương mặt MC quen thuộc của TP Huế những năm gần đây.
Cách đây vài năm, Ngọc Trân cũng đã từng xuất hiện trong bộ ảnh áo dài nữ sinh xứ Huế với vẻ đẹp dịu dàng, tinh khôi.
Vì lẽ đó, mà trong cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm nay, Ngọc Trân chính là 1 trong những cái tên sáng giá nhất cho danh hiệu cao nhất. Cùng xem thêm 1 số hình ảnh khác của "Nàng thơ xứ Huế" này nhé.
HOÀNG HẢI THỦY * MƯA GIÓ
Mưa Cầm, Gió Bắt, Thép Đợi, Gang Chờ -
Nữ nghệ sĩ Hồ Điệp
Một người trong số những nghệ sĩ của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa từ trần sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 ít được người đời nhắc đến nhất là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp, giọng ngâm Thơ tuyệt vời của Ban Thi Văn Tao Ðàn, Ðài Phát Thanh Quốc Gia VNCH.
Không phải vì vô tình mà người ta không nhớ, không thương những người đã khuất như Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp. Trong những năm u ám sau 1975 người Sài Gòn chết thảm quá nhiều, người chết trong tù ngục công sản, người chết trên biển, người chết trong rừng, nhìn đâu cũng thấy tang tóc, đau thương, những người chưa chết thần hồn và trái tim tan nát, họ thấy cuộc sống của họ không biết còn mất lúc nào, người ta không còn tinh thần để nhớ, để thương những người mất tích.
Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp đi vượt biên đêm nào, tháng nào, năm nào? Chắc chỉ có thân nhân của bà được biết. Nữ nghệ sĩ đi và mất tích. Thân xác Hồ Ðiệp từ lâu rồi nằm dươi đáy biển Ðông. Sáng nay, một sáng Tháng Bẩy ở Xứ Người, tôi trái tim sầu muộn, tưởng nhớ những văn nghệ sĩ Sài Gòn đã giã từ dương thế kể từ sau Ngày Oan Nghiệt 30 Tháng Tư 75. Người Thứ Nhất tôi tưởng nhớ hôm nay là Nữ Nghệ Sĩ Hồ Ðiệp.
Năm 1960 yên bình trong một cuộc họp mặt của một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, có Vũ Hoàng Chương, Hồ Ðiệp, Mặc Thu. Trước năm 1954, ở Hà Nội, Nhà Văn Mặc Thu viết hai tác phẩm “Gang Thép Ðợi Chờ” và “Bát Cơm, Bát Máu.” Thi bá Vũ Hoàng Chương làm hai câu Thơ tặng Hồ Ðiệp, Mặc Thu;
Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Hôm nay 50 năm sau buổi chiều xưa Thi bá làm hai câu “Mưa cầm, gió bắt, thép đợi, gang chờ..,” tôi, kẻ mất nước sống buồn những ngày thừa ở xứ người, tôi, cánh bướm già sống sót qua cuộc mưa cầm, gió bắt dài đến 20 mùa lá đổ ở Sài Gòn, tôi không có thép, có gang gì cả mà nếu có thì cũng không thép đợi, gang chờ mà thép mòn, gang rỉ, nhớ những ngày xưa và những người nay không còn nữa, cảm khái tôi tiếp hai câu của Thi bá, làm thành:
Mưa cầm, gió bắt thương Hồ Ðiệp.
Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu.
Ðiệp bay ra biển sương mù,
Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn năm!
Lê Xuyên Chú Tư Cầu
Giữa Sài Gòn dâu biển tang thương
Vỉa hè Bà Hạt thuốc lá lẻ.
Nguyệt Ðồng Xoài cùng Vợ Thầy Hương
Bỏ Rặng Trâm Bầu, sang Mỹ, lấy Mỹ.
Cu ky trong Vùng Bão Lửa
Chú Tư Cầu đi đâu, về đâu?
Từ 1960 với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Chú Tư Cầu thành công, nổi tiếng ngay, Lê Xuyên viết thật đều, thật nhiều, tiểu thuyết được in thành sách cũng thật nhiều. Trong bài thơ có tên nhũng tiểu thuyết cỉa Lê Xuyên được tái bản ở Hoa Kỳ: Nguyệt Ðồng Xoài, Vợ Thầy Hương, Rặng Trâm Bầu, Vùng Bão Lửa.
Sau năm 1975, qua 20 mùa Sài Gòn mưa nắng, ngồi bán thuốc lá lẻ trên vỉa hè đường Bà Hạt-Ngô Quyền, từ 5 giờ sáng đến 11 giờ đêm, Chú Tư Cầu Lê Xuyên giã từ dương thế năm 2002. Ảnh chụp khoảng một năm trứơc ngày Lê Xuyên ra đi.
—–
Giữa Sài Gòn dâu biển tang thương
Vỉa hè Bà Hạt thuốc lá lẻ.
Nguyệt Ðồng Xoài cùng Vợ Thầy Hương
Bỏ Rặng Trâm Bầu, sang Mỹ, lấy Mỹ.
Cu ky trong Vùng Bão Lửa
Chú Tư Cầu đi đâu, về đâu?
Từ 1960 với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Chú Tư Cầu thành công, nổi tiếng ngay, Lê Xuyên viết thật đều, thật nhiều, tiểu thuyết được in thành sách cũng thật nhiều. Trong bài thơ có tên nhũng tiểu thuyết cỉa Lê Xuyên được tái bản ở Hoa Kỳ: Nguyệt Ðồng Xoài, Vợ Thầy Hương, Rặng Trâm Bầu, Vùng Bão Lửa.
Sau năm 1975, qua 20 mùa Sài Gòn mưa nắng, ngồi bán thuốc lá lẻ trên vỉa hè đường Bà Hạt-Ngô Quyền, từ 5 giờ sáng đến 11 giờ đêm, Chú Tư Cầu Lê Xuyên giã từ dương thế năm 2002. Ảnh chụp khoảng một năm trứơc ngày Lê Xuyên ra đi.
—–
Vô đề, Vô danh, Vô lọai
Vạc bay rã cánh cuối trời
Diễm Xưa chẳng trọn một đời thủy chung.
Ðá buồn, biển nhớ mịt mùng
Âm cung tiếng phản, tiếng thùng. Thế thôi!
.
.—–
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay
Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
Anh vẫn Hoàng Chương vàng với ngọc,
Trần ai nào lấm được trời mây.
Người về ngôi cũ, Thơ trầm Nhạc
Tàn lửa hồng hoang, khói Mái Tây.
Cười vang một tiếng, tan tinh đẩu
Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.
Bị bắt tù Tháng Ba năm 1976, đến Tháng 10, 1976 Thi Bá Vũ Hoàng Chương được trở về nhà ở Khánh Hội, Thi Bá qua đời chừng sáu, bẩy ngày sau khi về nhà.
—–
Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay
Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.
Anh vẫn Hoàng Chương vàng với ngọc,
Trần ai nào lấm được trời mây.
Người về ngôi cũ, Thơ trầm Nhạc
Tàn lửa hồng hoang, khói Mái Tây.
Cười vang một tiếng, tan tinh đẩu
Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.
Bị bắt tù Tháng Ba năm 1976, đến Tháng 10, 1976 Thi Bá Vũ Hoàng Chương được trở về nhà ở Khánh Hội, Thi Bá qua đời chừng sáu, bẩy ngày sau khi về nhà.
—–
Bùi Giáng
Lá cồn hay lá hoa cồn?
Tồn liên tồn vẫn liên tồn bấy lâu.
Hỏi Quê, rằng biển xanh dâu.
Hỏi Thơ, rằng mộng ban đầu vấn vương.
Em về rũ yếm mù sương
Ngàn năm châu chấu vẫn thương cào cào.
Mân-rô ơi, có đêm nào
Mồ anh em hé Ðộng Ðào suối tuôn.
Lá cồn hoa cũng lên cồn
Mười hai con mắt liên tồn mười hai.
Nghe nói Tập Thơ LÁ HOA CỒN của Bùi Giáng xuất bản năm 1968 được Thi Sĩ tác giả đặt tên là LÁ CỒN. Quí vị biên tập trong nhà Xuất Bản – tôi không nhớ là Nhà An Tiêm hay Nhà Lá Bối – thấy cái tên LÁ CỒN.. kỳ kỳ sao đó nên đổi là LÁ HOA CỒN. Từ 1970 đến nay không thấy LÁ HOA CỒN được tái bản. Hơn 40 mùa thu xưa tôi đọc LÁ HOA CỒN, thấy câu Thi sĩ kể trong một đêm mà:
Cồn lê lên miệng đến hai, ba lần…
Tôi nghĩ: Một đêm cồn lê lên miệng hai lần may ra còn sống được, một đêm mà cồn lê lên miệng đến ba lần..! Chắc chết quá!
Một trong số hai, ba Giai Nhân đương thời được Thi sĩ ca tụng nhan sắc và tỏ tình yêu là Cô Ðào Marilyn Monroe. Thi sĩ từng ước mơ sau khi ông chết, ông sẽ cảm động lắm nếu ông được Người Ðẹp Marilyn Monroe đến đái trên mồ ông.
Năm 1970 Chủ nhiệm nhật báo SỐNG Chu Tử mời Thi sĩ Bùi Giáng viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông đăng mỗi ngày trên Nhật Báo Sống. Tôi không nhớ tên truyện, chỉ nhớ Tiểu Thuyết Gia Bùi Giáng viết lọai truyện võ hiệp Trung Hoa, các đại hiệp, nữ hiệp thi triển võ công, đánh kiếm..vv.. Trong truyện ông cho nam nữ nhân vật nói đi, nói lại rất nhiều lần những tiếng“liên tồn, tồn liên.” Truyện của ông gần như ngày nào, trang nào cũng có hai tiếng ấy. Như:
Làn môi hồng của nàng nở nụ cười tồn liên.
Nàng thu kiếm lại, chắp tay, dịu dàng nói:
– Cám ơn Ðại hiệp đã có nhã ý liên tồn.
Sau cuộc biển dâu, Thơ Bùi Giáng vẫn có những tiếng “liên tồn, tồn liên” không khác gì Thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn trước 1975. Ðây là vài câu trích trong thi phẩm Mười Hai Con Mắt, xuất bản năm 2000:
Chuyện Chiêm bao, Mười Hai Con Mắt.
Mộng ảo liên tồn vô mịch xứ
Phù du liêu lạc khởi năng kiêu.
Ðêm nằm thao thức tới bình minh
Nửa khóc, nửa cười quỉ hóa tinh.
Ú ớ liên tồn vi diệu ngữ
Ậm ừ tục tiếp quái quỉ thanh.
Gặp Em
Gặp Em ngồi tựa gốc cây
Hỏi Em có biết chiều nay mấy giờ
Mưa nguồn đổ xuống trang thơ
Lá hoa cồn lũng bất ngờ chịu chơi…
—–
Lá cồn hay lá hoa cồn?
Tồn liên tồn vẫn liên tồn bấy lâu.
Hỏi Quê, rằng biển xanh dâu.
Hỏi Thơ, rằng mộng ban đầu vấn vương.
Em về rũ yếm mù sương
Ngàn năm châu chấu vẫn thương cào cào.
Mân-rô ơi, có đêm nào
Mồ anh em hé Ðộng Ðào suối tuôn.
Lá cồn hoa cũng lên cồn
Mười hai con mắt liên tồn mười hai.
Nghe nói Tập Thơ LÁ HOA CỒN của Bùi Giáng xuất bản năm 1968 được Thi Sĩ tác giả đặt tên là LÁ CỒN. Quí vị biên tập trong nhà Xuất Bản – tôi không nhớ là Nhà An Tiêm hay Nhà Lá Bối – thấy cái tên LÁ CỒN.. kỳ kỳ sao đó nên đổi là LÁ HOA CỒN. Từ 1970 đến nay không thấy LÁ HOA CỒN được tái bản. Hơn 40 mùa thu xưa tôi đọc LÁ HOA CỒN, thấy câu Thi sĩ kể trong một đêm mà:
Cồn lê lên miệng đến hai, ba lần…
Tôi nghĩ: Một đêm cồn lê lên miệng hai lần may ra còn sống được, một đêm mà cồn lê lên miệng đến ba lần..! Chắc chết quá!
Một trong số hai, ba Giai Nhân đương thời được Thi sĩ ca tụng nhan sắc và tỏ tình yêu là Cô Ðào Marilyn Monroe. Thi sĩ từng ước mơ sau khi ông chết, ông sẽ cảm động lắm nếu ông được Người Ðẹp Marilyn Monroe đến đái trên mồ ông.
Năm 1970 Chủ nhiệm nhật báo SỐNG Chu Tử mời Thi sĩ Bùi Giáng viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông đăng mỗi ngày trên Nhật Báo Sống. Tôi không nhớ tên truyện, chỉ nhớ Tiểu Thuyết Gia Bùi Giáng viết lọai truyện võ hiệp Trung Hoa, các đại hiệp, nữ hiệp thi triển võ công, đánh kiếm..vv.. Trong truyện ông cho nam nữ nhân vật nói đi, nói lại rất nhiều lần những tiếng“liên tồn, tồn liên.” Truyện của ông gần như ngày nào, trang nào cũng có hai tiếng ấy. Như:
Làn môi hồng của nàng nở nụ cười tồn liên.
Nàng thu kiếm lại, chắp tay, dịu dàng nói:
– Cám ơn Ðại hiệp đã có nhã ý liên tồn.
Sau cuộc biển dâu, Thơ Bùi Giáng vẫn có những tiếng “liên tồn, tồn liên” không khác gì Thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn trước 1975. Ðây là vài câu trích trong thi phẩm Mười Hai Con Mắt, xuất bản năm 2000:
Chuyện Chiêm bao, Mười Hai Con Mắt.
Mộng ảo liên tồn vô mịch xứ
Phù du liêu lạc khởi năng kiêu.
Ðêm nằm thao thức tới bình minh
Nửa khóc, nửa cười quỉ hóa tinh.
Ú ớ liên tồn vi diệu ngữ
Ậm ừ tục tiếp quái quỉ thanh.
Gặp Em
Gặp Em ngồi tựa gốc cây
Hỏi Em có biết chiều nay mấy giờ
Mưa nguồn đổ xuống trang thơ
Lá hoa cồn lũng bất ngờ chịu chơi…
—–
NGUYỄN MẠNH CÔN
Lính Nhẩy Dù lâm nạn ba người,
Nhà Văn lâm nạn một mình thôi.
Sông Rây nước chẩy, mây trôi.
Nhớ về Xuyên Mộc, bồi hồi thương Anh.
Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn viết những tác phẩm Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Kỳ Hoa Tử, Tình Cao Thượng, Mối Tình Mầu Hoa Ðào, Hòa Bình.. Nghĩ gì, Làm gì? Tháng Ba năm 1976 ông bị bọn Công An Cộng Sản Thành Hồ bắt giam. Năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn tuyệt thực phản đối việc ông bị cầm tù quá lâu. Bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước, Nhà Văn chết thảm trong trại tù Xuyên Mộc.
Sông Rây chẩy qua vùng rừng bao quanh Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Bà Rịa. Người Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 có câu:
Bao giờ Rừng Thác hết cây
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
Cùng sống và chịu cực khổ với Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn ở Trại Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 là Duyên Anh, Ðằng Giao, Hồ Hữu Tường. Năm 1983 gặp lại nhau sau những ngày tù tội, Duyên Anh đọc cho tôi nghe câu “..Sông Rây hết nước..” Tôi không nhớ đúng tên Rừng trong câu thơ. Có thể không phải là Rừng Thác.
Bao giờ Rừng Thác hết cây,
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
—–
Lính Nhẩy Dù lâm nạn ba người,
Nhà Văn lâm nạn một mình thôi.
Sông Rây nước chẩy, mây trôi.
Nhớ về Xuyên Mộc, bồi hồi thương Anh.
Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn viết những tác phẩm Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Kỳ Hoa Tử, Tình Cao Thượng, Mối Tình Mầu Hoa Ðào, Hòa Bình.. Nghĩ gì, Làm gì? Tháng Ba năm 1976 ông bị bọn Công An Cộng Sản Thành Hồ bắt giam. Năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn tuyệt thực phản đối việc ông bị cầm tù quá lâu. Bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước, Nhà Văn chết thảm trong trại tù Xuyên Mộc.
Sông Rây chẩy qua vùng rừng bao quanh Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Bà Rịa. Người Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 có câu:
Bao giờ Rừng Thác hết cây
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
Cùng sống và chịu cực khổ với Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn ở Trại Tù Xuyên Mộc những năm 1978, 1979 là Duyên Anh, Ðằng Giao, Hồ Hữu Tường. Năm 1983 gặp lại nhau sau những ngày tù tội, Duyên Anh đọc cho tôi nghe câu “..Sông Rây hết nước..” Tôi không nhớ đúng tên Rừng trong câu thơ. Có thể không phải là Rừng Thác.
Bao giờ Rừng Thác hết cây,
Sông Rây hết nước thì đây mới về.
—–
Dương Hùng Cường
Chém cha bọn Cộng trâu bò
Cà Kê Dê Ngỗng nó cũng cho đi tù.
Phi trường đèn tắt, điện lu
Lái Thiêu Dê Húc, Ðạo Cù Paris.
Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, một thời giữ mục Cà Kê Dê Ngỗng trên Tuần báo CON ONG. Là sĩ quan, Dương Hùng Cường đi tù khổ sai đến năm 1979. Năm 1980 DH Cường liên lạc được với Trung Tá Không Quân Trần Tam Tiệp ở Paris. Trước năm 1975 TTTiệp thường có Thơ Khôi Hài đăng trên Tuần báo CON ONG với bút hiệu Ðạo Cù. Khi ấy ông họat động trong Hội Văn Bút Quốc Tế, ông làm được nhiều việc giúp đỡ một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cả về tinh thần và vật chất.
Năm 1984 Dương Hùng Cường bị bắt vì tội “viết bài gửi ra nước ngoài”. Năm 1986 Cường chết trong một sà-lim ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Sài Gòn. Bị nhốt một mình trong sà-lim, Cường chết trong đêm. Bọn Công An Thành Hồ đưa xác Cường về Nhà Xác Nhà Tù Chí Hòa cho bọn gọi là bọn Pháp Y Sĩ mổ xẻ tanh banh, rồi gọi vợ con Cường đến Nhà Xác Chí Hòa nhìn mặt Cường lần cuối, chúng không cho đem xac Cường về nhà mà cho ngay vào quan tài, cho xe của Nhà Tù đưa lên chôn ở một nghĩa trang trên Lái Thiêu.
Một trong những tác phẩm Dương Hùng Cường để lại đời là BUỒN VUI PHI TRƯỜNG viết về cuộc sống của những người lính Không Quân ở những phi trường quân sự.
Ðạo Cù Trần Tam Tiệp, bị bại liệt, đã từ trần ở Paris.
—–
Đạo diễn HOÀNG VĨNH LỘC
Người Tình mất hết chân tay
Trái tim Hoàng gửi nơi này quê hương.
Sài Gòn Bến Cũ mù sương
Nhớ ơi Vĩnh Lộc trên đường Bô Na.
Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt Tháng Ba năm 1976 trong đợt bọn Công An Cộng Sản bắt tù những văn nghệ sĩ Sài Gòn. HV Lộc bị tù ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu. Trong số những bộ phim Hoàng Vĩnh Lộc làm đạo diễn có hai phim nổi tiếng là NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG, XIN NHẬN NƠI NÀY LÀ QUÊ HƯƠNG. Trở về nhà ở Phú Nhuận, HV Lộc từ trần trong sầu muộn năm 1981.
Vào lúc gần tối một ngày mùa mưa tôi đến nhà Hoàng Vĩnh Lộc chào anh lần cuối. Hôm nay khi viết những dòng chữ này, tôi thấy ẩn hiện những hình, những ảnh buổi chiều gần tối năm xưa, tôi ngồi dưới tấm bạt căng trên bãi cỏ trứơc nhà làm chỗ tiếp khách đến viếng tang, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, nhìn vào căn nhà nhỏ thấy quan tài của anh với mấy ngọn nến nhỏ leo lét.
Tôi nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc lần đầu vào một buổi chiều năm 1952. Lúc ba, bốn giờ chiều, nắng vừa dìu dịu, tôi đứng trên vỉa hè đường Bô-na, trước Hàng Ăn Kim Hoa, cạnh rạp Xi-nê Casino de Saigon, thấy Hoàng Vĩnh Lộc đến trên chiếc xe Peugeot Mui Trần, thường được gọi là xe Peugeot 203 Decapotable. Chiều ấy HV Lộc bận toàn đồ trắng, chiếc xe anh đi cũng mầu trắng. Năm 1952 HV Lộc đóng vai chính trong phim BẾN CŨ, phim mầu, của AnPha Thái Thúc Nha. Phim chưa chiếu, anh đã được coi là một jeune premier của Ðiện Ảnh Sài Gòn.
Tôi nhớ mãi hình ảnh ấy của Hoàng Vĩnh Lộc buổi chiều nắng vàng năm 1952 trên đường Bô-na; đã 60 mùa thu lá bay, tôi vẫn nhớ. Năm xưa ấy trên đường Bô-na, Sài Gòn, Hoàng Vĩnh Lộc 30 tuổi, tôi 20.
—–
Chém cha bọn Cộng trâu bò
Cà Kê Dê Ngỗng nó cũng cho đi tù.
Phi trường đèn tắt, điện lu
Lái Thiêu Dê Húc, Ðạo Cù Paris.
Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Húc Càn, một thời giữ mục Cà Kê Dê Ngỗng trên Tuần báo CON ONG. Là sĩ quan, Dương Hùng Cường đi tù khổ sai đến năm 1979. Năm 1980 DH Cường liên lạc được với Trung Tá Không Quân Trần Tam Tiệp ở Paris. Trước năm 1975 TTTiệp thường có Thơ Khôi Hài đăng trên Tuần báo CON ONG với bút hiệu Ðạo Cù. Khi ấy ông họat động trong Hội Văn Bút Quốc Tế, ông làm được nhiều việc giúp đỡ một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cả về tinh thần và vật chất.
Năm 1984 Dương Hùng Cường bị bắt vì tội “viết bài gửi ra nước ngoài”. Năm 1986 Cường chết trong một sà-lim ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Sài Gòn. Bị nhốt một mình trong sà-lim, Cường chết trong đêm. Bọn Công An Thành Hồ đưa xác Cường về Nhà Xác Nhà Tù Chí Hòa cho bọn gọi là bọn Pháp Y Sĩ mổ xẻ tanh banh, rồi gọi vợ con Cường đến Nhà Xác Chí Hòa nhìn mặt Cường lần cuối, chúng không cho đem xac Cường về nhà mà cho ngay vào quan tài, cho xe của Nhà Tù đưa lên chôn ở một nghĩa trang trên Lái Thiêu.
Một trong những tác phẩm Dương Hùng Cường để lại đời là BUỒN VUI PHI TRƯỜNG viết về cuộc sống của những người lính Không Quân ở những phi trường quân sự.
Ðạo Cù Trần Tam Tiệp, bị bại liệt, đã từ trần ở Paris.
—–
Đạo diễn HOÀNG VĨNH LỘC
Người Tình mất hết chân tay
Trái tim Hoàng gửi nơi này quê hương.
Sài Gòn Bến Cũ mù sương
Nhớ ơi Vĩnh Lộc trên đường Bô Na.
Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt Tháng Ba năm 1976 trong đợt bọn Công An Cộng Sản bắt tù những văn nghệ sĩ Sài Gòn. HV Lộc bị tù ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu. Trong số những bộ phim Hoàng Vĩnh Lộc làm đạo diễn có hai phim nổi tiếng là NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG, XIN NHẬN NƠI NÀY LÀ QUÊ HƯƠNG. Trở về nhà ở Phú Nhuận, HV Lộc từ trần trong sầu muộn năm 1981.
Vào lúc gần tối một ngày mùa mưa tôi đến nhà Hoàng Vĩnh Lộc chào anh lần cuối. Hôm nay khi viết những dòng chữ này, tôi thấy ẩn hiện những hình, những ảnh buổi chiều gần tối năm xưa, tôi ngồi dưới tấm bạt căng trên bãi cỏ trứơc nhà làm chỗ tiếp khách đến viếng tang, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, nhìn vào căn nhà nhỏ thấy quan tài của anh với mấy ngọn nến nhỏ leo lét.
Tôi nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc lần đầu vào một buổi chiều năm 1952. Lúc ba, bốn giờ chiều, nắng vừa dìu dịu, tôi đứng trên vỉa hè đường Bô-na, trước Hàng Ăn Kim Hoa, cạnh rạp Xi-nê Casino de Saigon, thấy Hoàng Vĩnh Lộc đến trên chiếc xe Peugeot Mui Trần, thường được gọi là xe Peugeot 203 Decapotable. Chiều ấy HV Lộc bận toàn đồ trắng, chiếc xe anh đi cũng mầu trắng. Năm 1952 HV Lộc đóng vai chính trong phim BẾN CŨ, phim mầu, của AnPha Thái Thúc Nha. Phim chưa chiếu, anh đã được coi là một jeune premier của Ðiện Ảnh Sài Gòn.
Tôi nhớ mãi hình ảnh ấy của Hoàng Vĩnh Lộc buổi chiều nắng vàng năm 1952 trên đường Bô-na; đã 60 mùa thu lá bay, tôi vẫn nhớ. Năm xưa ấy trên đường Bô-na, Sài Gòn, Hoàng Vĩnh Lộc 30 tuổi, tôi 20.
—–
Nhà văn HIẾU CHÂN NGUYỄN HOẠT
Trăng Nước Ðồng Nai vui Tỵ Bái
Chí Hòa lao ngục thở hơi tàn.
La Khê Công Tử Hiếu Chân
Nói hay Ðừng vẳng cung đàn Liêu Trai.
Những năm 1956, 1957, Nhà Văn Nguyễn Họat viết truyện dàiTRĂNG NƯỚC ÐỒNG NAI trên Nhật báo TỰ DO. Sau đó anh viết truyệnTỵ Bái, dịch truyện LIÊU TRAI, giữ mục Nói hay Ðừng trên Nhật báo TỰ DO. Anh bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Duy Trác và bị khép vào cùng một nhóm gọi là nhóm Biệt Kích Cầm Bút. Anh từ trần trong đêm ở Nhà Tù Chí Hòa năm 1988.
Quê ngọai của anh Nguyễn Họat ở làng La Khê ngay bên thị xã Hà Ðông. Có năm anh dậy học ở Trường Tư Thục Tự Ðức trong thị xã, tôi là học trò của anh.
—–
Trăng Nước Ðồng Nai vui Tỵ Bái
Chí Hòa lao ngục thở hơi tàn.
La Khê Công Tử Hiếu Chân
Nói hay Ðừng vẳng cung đàn Liêu Trai.
Những năm 1956, 1957, Nhà Văn Nguyễn Họat viết truyện dàiTRĂNG NƯỚC ÐỒNG NAI trên Nhật báo TỰ DO. Sau đó anh viết truyệnTỵ Bái, dịch truyện LIÊU TRAI, giữ mục Nói hay Ðừng trên Nhật báo TỰ DO. Anh bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Duy Trác và bị khép vào cùng một nhóm gọi là nhóm Biệt Kích Cầm Bút. Anh từ trần trong đêm ở Nhà Tù Chí Hòa năm 1988.
Quê ngọai của anh Nguyễn Họat ở làng La Khê ngay bên thị xã Hà Ðông. Có năm anh dậy học ở Trường Tư Thục Tự Ðức trong thị xã, tôi là học trò của anh.
—–
Phạm Thiên Thư
Ai về hỏi Phạm Thiên Thư
Ngày xưa Hoàng Thị bây chừ ở đâu?
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau
Sao nhau tình nghĩa qua cầu gió bay?
Hẹn nhau tròn cuộc nhau này
Sao nhau cánh dzế chồn lây đổi mầu?
Ðã buồn Từ Thức lấm đầu,
Lại thương Hoàng Thị về đâu bây giờ?
Những năm 1980, Phạm Thiên Thư làm thơ Chào Mừng Sinh Nhật Hồ Chủ Tịch. Ông làm nhiều Thơ ca tụng cuộc sống trong sáng của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa và gọi loai Thơ này là Thơ Hồng.
hoanghaithuy
Ai về hỏi Phạm Thiên Thư
Ngày xưa Hoàng Thị bây chừ ở đâu?
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau
Sao nhau tình nghĩa qua cầu gió bay?
Hẹn nhau tròn cuộc nhau này
Sao nhau cánh dzế chồn lây đổi mầu?
Ðã buồn Từ Thức lấm đầu,
Lại thương Hoàng Thị về đâu bây giờ?
Những năm 1980, Phạm Thiên Thư làm thơ Chào Mừng Sinh Nhật Hồ Chủ Tịch. Ông làm nhiều Thơ ca tụng cuộc sống trong sáng của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa và gọi loai Thơ này là Thơ Hồng.
hoanghaithuy
No comments:
Post a Comment