Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 20 October 2016

TRUYỆN KÝ

 CHUYỆN THẾ GIAN


Một câu chuyện thật xảy ra ở Trung Quốc
Một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi.
Giữa đường, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô lái xe xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô.
Tất nhiên là cô lái xe kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay; nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô lái xe tơi tả trở về xe và cô sẵn sàng cầm lái tiếp tục lên đường…
“Này ông kia, ông xuống xe đi!” cô lái xe la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
“Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?”
“Cứu tôi ư? Ông đã làm gì để cứu tôi chứ?”
Cô lái xe vặn lại, và vài hành khách bình thản cười.
Người đàn ông thật sự tức giận. Dù ông đã không có khả năng cứu cô, nhưng ông không nên bị đối xử như thế chứ. Ông từ chối xuống xe, và nói: “Tôi đã trả tiền đi xe nên tôi có quyền ở lại xe.”
Cô lái xe nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.”
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe, họ nói:
“Ông ra khỏi xe đi, chúng tôi có nhiều công chuyện đang chờ và không thể trì hoãn thêm chút nào nữa!”
Một vài hành khách khỏe hơn tìm cách lôi người đàn ông xuống xe.
Ba tên du côn mỉm cười với nhau một cách ranh mãnh và bình luận: “Chắc tụi mình đã phục vụ cô nàng ra trò đấy nhỉ!”
Sau nhiều lời qua tiếng lại, hành lý của người đàn ông bị ném qua cửa sổ và ông bị đẩy ra khỏi xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ.
Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô lái xe:
“Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?”
Cô gái không nói gì và tiếp tục nhấn ga.
Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”.
Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Người đàn ông đã  bị đuổi xuống xe đọc tờ báo và khóc. Không ai biết ông khóc cái gì và vì sao mà khóc!
Bạn có biết vì sao ông ta khóc?
Nếu bạn có trên xe bus, bạn có đứng lên như người đàn ông kia?
Chúng ta cần những người như ông để tạo nên và duy trì một xã  hội bình thường!
Khi ta đối xử với người khác bằng cả tấm lòng, ta sẽ nhận được hơi ấm và tình yêu từ mọi người!
Đây là một câu chuyện rất bi thảm. Bạn sẽ làm gì nếu như bạn là người lái xe?
Hoàng Hưng dịch từ https://profiles.google.com/111148909356582460306/buzz/1waQHD5e3XE
Bản tiếng Việt (Bauxite
 Chuyện khó xảy ra ở Trung Quốc và Việt Nam: Đại sứ Mỹ mua cà phê bị từ chối

Bức hình phía bên trái là cựu Thống Đốc tiểu bang Washington và tân Đại Sứ Hoa Kỳ Gary Locke, người đang trên đường đi nhận chức Đại Sứ Hoa Kỳ tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Theo điện báo Seattlepi, cựu thống đốc Locke, người Mỹ gốc Hoa đầu tiên được cử vào chức vụ đại sứ, lưng đeo hành lý ghé lại một quán cà phê ở Phi trường Quốc Tế Tacoma, Washington, để mua một ly cà phê.
Ông ZhaoHui Tang, một thương gia, nhận diện ra Đại Sứ Locke và chụp tấm hình để kỷ niệm. Cô bé đứng bên cạnh là con gái út của đại sứ. Đại sứ Locke mua cà phê băng coupon và bị từ chối vì coupon đã hết hạn.
Đại sứ không hề giận dữ hay nói ra chức vụ cựu thống đốc của tiểu bang Washington mà tự nhiên rút thẻ tín dụng để trả cho ly cà phê.
Bức hình được đưa lên Internet, và tác giả bức hình ngạc nhiên khi đã thu hút hàng ngàn bình luận từ Trung Quốc. Đa số đã so sánh đại sứ Locke, lưng đeo túi hành lý, đơn giản rút coupon mua cà phê, với các quan chức tại Trung Quốc.
Một độc giả Trung Hoa viết ý kiến: “Ở Trung Quốc, đừng nói chi là cấp đại sứ, chỉ một viên chức cấp thấp thôi, cảnh sát cũng phải dọn đường cho đi.” Một độc giả khác viết “Chúng tôi quá quen với lối hành xử đặc quyền của quan chức Trung Hoa nên thấy rất lạ với cung cách của đại sứ Locke”.
Chuyện bình thường ở Mỹ như thế nhưng là chuyện lạ và khó xảy ra ở các nước Cộng Sản như Trung Quốc hay Việt Nam.
Nguồn: NguoiVietBoston
 http://www.saigonecho.info/main/tintuc/thoisu/28623-chuyn-kho-xy-ra-trung-quc-va-vit-nam-i-s-m-mua-ca-phe-b-t-chi.html
Những câu chuyện bên bàn nhậu:
Cứ cuối mỗi thứ 7 hàng tuần, chúng tôi lại tụ tập uống rượu, ăn tươi, rồi thông báo cho nhau tình hình thời sự , đàm đạo về nhân tình thế thái…Những cuộc tụ tập được tổ chức luân phiên ở từng nhà các thành viên của ’’tiểu’’ Câu lạc bộ: Rượu cuốc lủi (1) loại hảo hạng, món nhắm ngon do ’’chủ nhân bà’’, làm – cho là ngon -  để ’’chủ nhân ông’’ thù tiếp các bạn…
Tôi đã tham dự thường xuyên , ghi lại những’’Câu chuyện trên bàn nhậu’’ và lần lượt gửi đến các bạn.
xxx

Mâm rựơu hôm nay có đủ thành phần xã hội từ chánh phó giám đốc đến thợ lành nghề. Món nhắm chủ đạo là chả chó, nhựa mận. Được cái thời tiết đã vào xuân , Rượu – thịt Chó không làm các thành viên… nóng người!
Nhấm nháp được vài tuần, một ông khơi mào:
Sắp họp Quốc hội, các ông quan tâm nhất vấn đề gì?
Tất cả hầu như thống nhất: Bầu đại biểu quốc hội (Nghị sĩ)!
Một ông trầm ngâm: Kì họp nào vấn đề bầu bán cũng sôi nổi, nhưng rốt cuộc đâu vẫn hoàn đấy’’vũ như cẩn’’, cuối cùng thì…
Người nói bỏ lửng không tiếp. Ai cũng hiểu, cũng có câu trả lời lấp vào 3 dấu chấm lửng – kia.
Bàn nhậu lặng đi giây lát…
Ông gíam đốc xí nghiệp  xây dựng nhà ở, lên tiếng: Báo chí dạo này nói nhiều đến cụm từ:’’Chọn người tài cho đất nước’’…’’Người hiền tài là nguyên khí quốc gia’’. Nói nghe sướng lỗ nhĩ lắm, còn thực hiện lại chẳng được bao nhiêu.
- Đúng! vấn đề là ở chỗ bồi dưỡng lớp kế cận. Đã trở thành lối mòn – ai lên cầm quyền cũng chỉ chắm chắm lo cho bản thân trong nhiệm kì của mình, ít chú ý chuẩn bị lớp người thay thế, cho nên các tài năng trẻ chẳng thấy’’phát tiết’’, xuất hiện. Ngược lại – cứ mai một đi….
Ông trưởng phòng kĩ thuật công nghệ thông tin – lắc đầu, vẻ ngán ngẩm: Chưa biết đến bao giờ chúng ta mới được tự do lựa chọn những người thực sự có đức, có tài , đặt vào chức vụ quan trọng để lãnh đạo đất nước. Lời vừa dứt, ông giám đốc xí nghiệp xe Taxi – gặt phắt: Chọn người kế cận dĩ nhiên quan trọng, nhưng điều cấp thiết sắp diễn ra mới thật đáng quan tâm. Tôi đã đọc mấy bài viết của Tiến sĩ Trần Đình Bá, qua đó biết được vì sao ngành giao thông Đường sắt của ta ì ạch, không đáp ứng được năng lực chuyển tải phục vụ hữu hiệu nền kinh tế quốc dân, trong khi ở các nước tiên tiến, giao Đường sắt được coi trọng hàng đầu. Dư luận đang ồn lên: Người có tiền cho vay hình như đang ’’nhử mồi’’… các quan chức Giao thông của ta đang ’’lên cơn sốt’’ –’’không thể không làm làm đường sắt cao tốc’’ (2).

- Dường như lại làm đường sắt khổ nhỏ 1,05 mét, ra đời từ trăm năm trước. Điều đáng chú ý: Loại đường này hiện không một nước tiên tiến nào trên thế giới dùng nữa…
- Người ta lại đang lăm le lần nữa đưa trình Quốc Hội khoá tới tiếp tục biểu quyết cho chính phủ tiếp tục dự án ĐSCT…
- Ông X… nói thế nào ấy chứ? TS TĐB có phóng đại không? Thế còn hàng trăm Gíao sư, Tiến sĩ của bộ Giao thông vận tải đang làm gì, đi đâu – hử?
Ông kia chưa kịp trả lời, một vị khác tiếp ngay: Như vậy hoá ra gần trăm tỉ USD (được mấy’’phù thủy’’ phù phép trình duyệt có 56 tỉ) chi cho dự án ĐSCT sẽ là món tiền quẳng ra để các vị dẫn dắt đất nước, dân ta đi tắt ’’vào… qúa khứ’’ – chứ không phải’’đón đầu… tương lai’’? Điều không thể hiểu nổi: Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cùng 2 ông bộ trưởng Hồ Nghĩa  Dũng (GTVT) và Trần văn Ninh (Tài Chính) – hết lòng ủng hộ, quyết tâm thực hiện’’bằng đưọc’’dự án. Sao vậy?…
Câu chuyện lại xoay sang vụ tai nạn đường sắt ở Cầu Gềnh và câu nói bào chữa của ông Bộ trưởng GTVT khi phóng viên hỏi về vụ tai nạn kia, ông Hồ Nghĩa Dũng đổ lỗi cho nguyên nhân gây ra là… người dân Việt ’’không có văn hóa giao thông’’. (theo Radio RFA hôm14.3.2011 – trích từ báo Dân Trí).
Đến lúc này bàn nhậu đã trở nên ồn ào…
Ông cựu trưởng phòng gíao dục quận – đặt li rượu xuống bàn nhìn  mọi người, chậm rãi: Xét cho cùng vẫn là việc chọn những người có đủ khả năng, trình độ, tư cách vào chức vị. Người tài thì không được chọn, còn người bất tài lại được’’ấn’’ vào vị trí mà ông ta không có khả năng đảm nhiệm. Nghịch cảnh này làm tôi nhớ đến chuyện chọn hiền tài thời nhà Lý của quan Phụ chính đại thầnTô Hiến Thành (THT)…
Như để lấy thêm tinh thần, ông tợp thêm ngụm… gắp miếng chả nhai ngon lành – mấy người im lặng làm theo – lát sau diễn gỉa mới, tiếp : Khi ngài THT (3) ốm nặng, những người đứng đầu hai phe đều muốn THT lên tiếng ủng hộ cho Hoàng tử – (mà họ thờ) – nối ngôi vua . Hoàng hậu – mẹ một một hoàng tử  – sai tùy tùng mang mâm vàng đích thân đến’’hối lộ’’ THT, hi vọng quan phụ chính đại thần nhận vàng, sửa di chiếu cho con mình lên nối ngôi. Ngài THT không nhận vàng, kiên quyết thực hiện lời tiên đế (chọn hoàng tử khác chứ không phải con bà hoàng hậu)…
Trước khi mất, THT đề cử đại thần Trần Trung Tá – ngày thường hay phát ngôn chống đối ông để thay ông, chứ không đề cử Vũ Tá Đường – một tì tướng thân cận, thường nghe mình răm rắp…
Vua nhà Lý mới 6 tuổi bị sức ép – đã không theo lời di chúc của ông… dẫn đến nhiều hệ lụy, góp phần đưa vương triều Lý sớm xụp đổ. Diễn gỉa lứơt nhìn từng cử tọa bật ra lời chất vấn – tuồng như họ là những người có quyền quyết định bổ nhiệm cán bộ -  Liệu thời nay có còn ai như ngài Tô Hiến Thành – không?

Câu hỏi khiến mọi người lặng đi. Ai cũng hiểu và đều có câu trả lời giống nhau nhưng chưa kịp lên tiếng.
Bỗng, ông chủ nhà  – người rất say mê phim truyền hình – giọng sang sảng: Trong khi chờ các vị trả lời, tôi xin kể câu chuyện chọn người kế cận, thời Đông chu liệt quốc của nước trung Hoa cổ cách đây khoảng hơn 2684 năm: Tề Hoàn Công (2) là ông vua thông minh, tài giỏi sau thời gian lưu vong, về, lên ngôi, trở thành bá chủ được Thiên tử nhà Chu phong tước – có thể thay Thiên triều hiệu lệnh thiên hạ. Công của Tề vương phần lớn nhờ bề tôi đại tài – Quản Trọng – giúp sức. Tề Vương gọi Quản Di Ngô bằng danh xưng thân qúy: Trọng Phụ (rút ngắn từ tên Quản Trọng – Sư phụ ?), giao cho ông toàn quyền xử lí mọi công việc triều chính.

Khi Quản Trọng sắp ’’lên đưòng theo tổ tiên’’, Tề Hoàn Công đến bên giường bệnh, hỏi: Trọng Phụ hãy cho Quả nhân lời khuyên: Nên chọn ai thay thế để giúp QN giữ vững ngôi bắu, giữ yên trăm họ?
Trọng Phụ tuy mệt mỏi vẫn cố trả lời. Ninh Thích là người thích hợp nhất nhưng ông ấy đã đi trước hạ thần rồi. Thấp Bằng là người xứng đáng, nhưng ông ấy cũng chỉ sống được vài tháng là cùng…
- Vậy chọn Bão Thúc Nha đi!
- BTN là người quân tử bởi thẳng thắn trung thực. Để người đời kính trọng làm gương thì được, nhưng cầm quyền thì không thể…
Tề Vương đề xuất ngay: Thế, Dịch Nha (3) được không?
- Không được!
- Tại sao – DN trung thành với trẫm. Một lần chỉ nói đùa: Chưa biết mùi ’’thịt người’’, y đã về giết con mình làm món ăn dâng cho trẫm… Lòng trung quân đó liệu có ai bằng không?
- Chẳng ai yêu con bằng cha mẹ. Con nó mà nó không thương, yêu thì còn thương, yêu – ai?
- Thụ Điêu thì sao?  Nó muốn gần gũi Qủa nhân – đã tự thiến – để có điều kiện thường xuyên phục vụ, làm cho Qủa nhân vui. Người này được chứ?

- Không được!
- Vì sao?
- Thân thể là do cha mẹ ban cho. Chỉ có cha mẹ mới có quyền lấy đi. Một kẻ bất hiếu với cha mẹ, không thương thân mình thì hiếu – trung  -  thương , ai?
- Vậy Khai Phương chắc được. Nó vốn là công tử của một nước Vệ chư hầu sẽ nối ngôi vua cha . Vì kính trọng Qủa nhân, nó bỏ ngôi vị, tình nguyện sang làm con tin của nước mình, cha mẹ chết cũng không về chịu tang,  cốt không muốn xa Trẫm.  Người này thông minh, có tri thức chứ không tầm thường như Dịch Nha và Thụ Điêu. Trẫm nghĩ: Giao cho Khai Phương chức Tể tường của TP là đúng nhất.
Trọng Phụ đã mệt lắm rồi, nhưng vẫn cố gắng nói: Người này càng không được.
- Vì sao?
- Nó là người nước ngoài… Chỉ vì háo danh, chỉ vì ảo tưởng, muốn lấy long đại vương mà bố mẹ chết cũng không chịu về chịu tang… nói đến đây Trọng Phụ mệt qúa thiếp đi. Tề Hoàn Công lẳng lặng lui ra. Mấy ngày sau Quản Di Ngô – Trọng Phụ qua đời…
Tề Hoàn Công vì vẫn muốn ăn ngon, muốn được vuốt ve, tâng bốc… quên lời trăn trối của Trọng Phụ , không nghe lời can gián của Bão Thúc Nha  (thay Trọng Phụ làm tướng quốc) – thu hồi lệnh đã đuổi 3 người này ra khỏi cung – giờ triệu hồi bọn họ về, cho phục chức cũ, được hưởng mọi quyền lợi hơn khi xưa. Dân nước Tề gọi Dịch Nha, Thụ Điêu, Khai Phương là bọn ‘’Tam qúy’’.

Và chính bọn’’Tam qúy’’ đã đầy ải ông vua hồ đồ khiến muốn sống không được, chết ngay cho đỡ khổ – không xong: Đưa Tề Hoàn Công giam, trong khu vực do chúng xây tường cao, quây lại ở một góc cung điện (chỉ đục một lỗ’’chó chui’’ để người hàng ngày chui vào xem ông ta chết chưa) cách li với 3 người vợ, 6 thíêp yêu cùng mười mấy đứa con – rồi bỏ đói , bỏ khát, không cho người phục dịch… Cuối cùng  Tề Hoàn công chết . Chết được 67 ngày vẫn không được Tam Qúy cho đem chon, thân xác bị chuột bọ ăn… Tề Hoàn Công đã bị qủa báo vì những việc làm ’’Trời không dung, Đất không tha’’ – trong qúa khứ đã gây nên…
Đông chu liệt quốc chép trong hồi 32 thì đơn giản hơn so với bộ phim ĐCLQ do Truyền hình TQ dựng, truyền hình Hà Nội phát sóng mấy năm trước:’’Khi bệnh nặng nằm liệt giường, ông  (tề Hoàn Công) bị Dịch Nha và Thụ Điêu cắt đứt quan hệ với gia quyến; chỉ gặp được một cung nhân là Án Nga Nhi – liều mạng lẻn vào thăm, trước lúc qua đời. Sau khi ông mất, Án Nga Nhi đã tự sát chết theo (Wikipedia).
Bài học cay đắng cho các triều đại Cổ – Kim khi chọn người kế vị không thận trọng, tùy tiện, vì quyền lợi cá nhân của người có quyền quyết định – đã gây tai họa, bi thảm – như thế đó!
15.03.2011
© TCN
© Đàn Chim Việt
—————————
Ghi chú:
(1) – Rượu gạo nếp được xem là hảo hạng – chưng cất thủ công, dân ta gọi là rượu Cuốc lủi (…) Nếu muốn có rượu ngon, người nấu phải có bí quyết chọn men, ủ xôi đúng kĩ thuật, đúng ngày giờ, nhiệt độ… 10 kg gạo chỉ lấx 3 lít đầu … Rượu chưng cất ra có thể đạt được độ cồn tới 60 – 70 độ. Cuốc lủi loại này uống vào dịu, êm, say xỉn hàng mấy tiếng, tỉnh lại không nhức đầu, mêt mỏi , lại sảng khoái… (tất nhiên uống vừa đủ đô, không uống nhiều qúa mức).
(2) – Tề Hoàn Công  (chữ Hán: 齊桓公; trị vì: 685 TCN – 643 TCN[1][2]), tên thật là Khương Tiểu Bạch (姜小白), là vị vua thứ 16 của nước Tề – một chư hầu của nhà Chu. Tề Hoàn công là vị vua xưng bá đầu tiên thời Xuân Thu. (Wikipedia)
(3) – TÔ HIẾN THÀNH:

Hoàng hậu – mẹ Long Xưởng – đem mâm vàng đến hối lộ ông, mong ông đổi di chiếu đưa con mình lên ngôi, nhưng ông kiên quyết từ chối và làm theo sự ủy thác của Tiên đế. Nhưng do tuổi già sức yếu mà thời gian phò trợ ấu chúa của ông không được là bao. Năm 1179 khi vua mới 6 tuổi, THT ốm nặng và mất. Trước khi mất ông tiến cử Trần Trung Tá, người có thực tài, thay mình phụ chính nhà vua, mà nhất quyết không tiến cử Vũ Tán Đường người hầu cận bên mình. Triều đình đã không nghe theo lời di chúc của THT, lại chọn
Trần Trung Tá làm Thái phó phụ chính cho ấu chúa, dẫn đến sau này vua Cao Tông không được dạy bảo đến nơi đến chốn. Khi được điều hành chính sự, chỉ lo ăn chơi… nhà Lý đi vào suy vong rồi bị Trần Thủ Độ bày mưu thoán đoạt ngôi vua , lập lên nhà Trần…
DỊCH NHA:
(biết nhiều nghề, nấu ăn giỏi…)

Tề hoàn công nói đùa : Các giống điểu thú, trùng ngư – ta đã dùng đủ, bây giờ chỉ có thịt người ta chưa biết vị mà thôi.
Dịch nha nghe chăm chú rồi lui ra.
Đến bữa trưa DN đem vào, dâng một mâm thịt chín, mềm như thịt dê non, mùi thơm ngào ngạt .
Tề hoàn công ăn xong, hỏi Dịch-nha : Thịt gì mà ngon thế ?
Dịch-nha tâu : Đó là thịt người.
Tề hoàn-công giật mình, kinh ngạc, hỏi : Nhà ngươi lấy ở đâu ?
Dịch nha tâu : Đứa con trai đầu lòng của thần mới lên ba. Thần thiết tưởng đã trung với vua thì còn kể gì đạo nhà, nên làm thịt con đem dâng cho Chúa-công ăn…
THỤ ĐIÊU :

Bấy giờ có Thụ điêu là đầy tớ yêu của Tề hoàn công. Từ khi Tề vương giao việc quốc chính cho Quản trọng , thường ở trong cung, ít ra ngoài, nên Thụ điêu không làm sao tiếp cận vua, vì (người thường)ra vào nội đình là chuyện cấm.
Thụ điêu bèn tự thiến mình rồi xin cho vào cung hầu hạ Tề vương.
Tề hoàn-công thấy vậy thương tình, cho hầu cận một bên…
(3 trích đoạn trên đây đều lấytrong Wikipedia và Đông chu liệt quốc)
Quả thật chúng ta lắm chuyện theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Khác với người Mỹ những nơi hội họp hay làm việc của họ thật yên lặng. Họ chăm chú làm việc hay lắng nghe người khác nói, không muốn nghe họ cũng giữ yên lặng để người khác nghe.
Nếu vào thư viện hay vào phòng mạch của các Bác sĩ Mỹ chúng ta thấy họ giữ yên lặng gần như tuyệt đối. Cần nói với nhau điều gì, người ta nói rất nhỏ đủ nghe để không làm phiền người khác. Còn người Việt chúng ta chỗ nào tụ tập độ năm, bảy người trở lên là ồn ào rồi.
Điều đáng ngạc nhiên là đến sở làm, đến những nơi người Mỹ làm việc phần lớn chúng ta biết giữ im lặng nhưng ở những cơ sở hay nơi làm việc của người Việt thì chúng ta lại theo thói quen cũ cười cười, nói nói rất huyên náo.
Tết Nguyên Đán năm 2006 cộng đồng người Việt ở chỗ tôi tổ chức Hội Chợ được ông Thị Trưỏng thành phố tới thăm. Ông đọc diễn văn chào mừng nhưng trên khán đài ông nói một thì ở dưới đồng bào nói mười, rất ồn ào chẳng ai thèm nghe, thèm biết ông ấy nói gì. Chúng ta quá ư vô ý và không một chút lịch sự với khách. Đến phần văn nghệ, nữ danh ca Mai Lệ Huyền có giọng hát mạnh và truyền cảm như vậy mà cũng không át được số khách dự đang huyên náo ở phía dưới.
Cái lắm chuyện thứ hai mới thực là lắm chuyện. Nó luôn luôn gây phiền toái cho người khác, đó là đi soi mói chuyện của người rồi đem loan truyền khắp nơi. Ở bên nhà công việc này dành cho những người rảnh rỗi chuyên đi “ngồi lê đôi mách”. Ra ngoại quốc dù làm ăn vất vả người ta vẫn không quên được cái tính ấy: thích nói và thích nghe chuyện xấu của người khác. Nhà này có đứa con hư hỏng sì ke ma túy, nhà kia vợ chồng xích mích… chỉ một thời gian ngắn mọi người trong sở đều biết, rồi mọi người trong thành phố đều biết.
Ai không có ưu điểm, khuyết điểm; nhà nào không có chuyện tốt chuyện xấu. Nếu chúng ta đem chuyện tốt đẹp, may mắn của người khác nói để nghe, để mừng cho nhau, để tìm cách học hỏi, bắt chước không nói làm gì nhưng lại lôi những điều bất hạnh, những điều xấu của người khác rồi thêm bớt loan truyền để dè bửu, đàm tiếu. Hình như chúng ta hẹp hòi, kém thông cảm nên thay vì chia xẻ, xót thương chúng ta lại vô tình nghiệt ngã đem ra phơi bày làm người ta thêm đau buồn, tủi hổ.
Ông cha chúng ta nói “đầu cầu nào không có con chó chết “, ngụ ý chẳng ai tốt đẹp hoàn toàn:
Chân mình dính đất bèm bèm,
Lại đi đốt đuốc tìm xem chân người.
(Ca dao)
Ngày nay đời sống khác đi nhưng không có nhà nào không có thùng rác mùi rất khó chịu phải đem đổ đi mỗi ngày!
Vì tính lắm chuyện của người mình, một số người Việt sợ ở gần hay giao tiếp với người Việt. Những người này một phần có lý nhưng một phần mắc cái tính thông thường sẵn có của chúng ta, đó là tính tự cao tự đại coi mình thuộc thành phần ưu tú, cao quý nên xa lánh nhóm người mà họ cho là ô hợp, thấp kém. Thế nhưng đôi khi giao tiếp với người quen họ lại đem nhà, đem xe, đem con cái, bằng cấp… ra khoe và không quên chê bai, đàm tiếu người khác hết lời. Tưởng sao, như vậy mèo vẫn hoàn mèo.

Cái “lắm chuyện” thứ ba mới thực đáng nói. Nó làm cho chúng ta tủi hổ khi cùng nhau sống ở xứ người và làm cho các sắc dân khác khinh bỉ, đánh giá thấp tất cả người Việt chúng ta. Hầu hết chúng ta đi lánh nạn với 2 bàn tay trắng: của cải, tiến bạc, học hành, kiến thức, địa vị… đều đã vứt bỏ khi đến xứ người. Người ít học cũng như người có học, dân cũng như quan, lính cũng như xếp của lính hầu hết đều kiếm những công việc lao động trong các nhà máy để làm lấy tiền sinh sống và nuôi gia đình. Nhưng ở nơi nào có đông công nhân người Việt là nơi ấy có những việc đáng buồn, đáng xấu hổ xẩy ra (chúng tôi không vơ đũa cả nắm vì có rất nhiều người có tư cách, có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau). Chúng tôi chỉ đề cập đến một số nhỏ tất cả độ trên mười phần trăm. Cái thành phần đáng buồn này “xuất thân” thuộc đủ tầng lớp: không có học, có học; lính, quan; dân, quan… vẫn giữ nguyên tác phong cũ quen có ở bên nhà.

Nếu làm việc cho chủ Việt, những người này tìm mọi cách luồn lọt, xu nịnh và khi đã được chủ tin cậy thì tỏ ra hách dịch, phách lối. Ai chống đối hoặc không ưa ai họ tìm cách đặt diều, bịa chuyện để làm hại.  Nếu làm cho chủ Mỹ họ tìm cách xum xoe biếu xén để mong sớm được vô permanent (vào ngạch, vào biên chế) hay được lên lương. Cách thức này hình như ít có hiệu qủa đối với cấp chi huy người Mỹ nên nhiều người tỏ ra cay cú khi không được thoả mãn. Nên một cách thức khác những người này hay dùng là đi tâu, đi báo, bịa chuyện  hoặc nhận làm ăng ten chỉ điểm.
Nhưng qua ý kiến chung thì chúng ta, nhất là các bà các cô, không nên sợ loại người này vì người Mỹ, và người Âu châu nói chung người ta không nhẹ dạ, cả tin như các ông chủ người Việt. Họ phải thu thập có đủ bằng chứng khách quan trước khi có quyết định.
Cái nạn gây gổ chửi bới, kéo bè kéo cánh trong sở làm cũng rất thường xẩy ra, nhất là cái nạn xô đẩy,giành giựt công việc của nhau (trong các ngàng làm màn cửa, may khoán, bóng đèn…) làm người ngoại quốc chê cười.
Như chúng tôi đã nói ở trên, loại người này không nhiều nhưng lại làm người ngoại quốc chú ý và làm mang tiếng người Việt chúng ta. Chúng tôi thử estimate (ước lượng) những con số sau đây:
- Hay nghe và đem chuyện của người khác ra nói (ngồi lê đôi mách): 8% (dân số)
- Hay cãi cọ: 4%
- Xu nịnh, luồn cúi: 2%
- Kéo bè kéo cánh: 3%
- Đâm bị thóc chọc bị gạo: 1%
Không biết đến bao giờ những người bà con của chúng ta mới trút bỏ được những cái cố tật đáng buồn này.
 -chuy%e1%bb%87n-c%e1%bb%a7a-ng%c6%b0%e1%bb%9di-vi%e1%bb%87t/2009/07

Tính ưa khoe khoang và khoác lác của người Việt chúng ta
Từ đứa nhỏ khoe cái áo mới đến người lớn khoe có cái nhà đẹp, cái xe đắt tiền bản chất không khác nhau (thích được khen). Người Việt chúng ta có rất nhiều thứ để khoe (quần áo, xe cộ, nhà cửa, tiền của, gia thế, địa vị, con cái…)
Về khoe quần áo, một bữa tiệc cưới gây ấn tượng mạnh cho tôi mãi đến bây giờ. Bàn tôi có 10 người gồm 5 bà, 2 đứa bé một Việt, một Mỹ với mẹ em và tôi. Ăn chưa hết món thứ nhất thì bà mặc áo dài xanh đứng lên bỏ đi, lúc sau bà ta mặc váy đỏ, sơ – mi đỏ rực rỡ, cổ đeo giây chuyền vàng to bản vàng khè nhí nhảnh đi vào. Bốn bà kia thấy thế lần lượt từng bà đứng lên, bàn ăn lại có 4 bộ quần áo mới xanh xanh, đỏ đỏ. Nhưng chưa hết, ăn xong chừng 3 món hai bà ngồi giữa đứng lên, ba bà nữa đứng lên, làm bàn ăn bỏ trống một nửa. Lúc sau bàn chúng tôi có 5 bộ quần áo mới nữa vàng vàng, xanh xanh, đỏ đỏ; vàng đeo đầy cổ, đeo cả ở 2 tay, 2 chân.

Em bé Mỹ ngồi bên tôi trố mắt ra nhìn, bé hỏi tôi:
- Sao các bà thay đồ hoài vậy?
May lúc ấy ông thợ ảnh đến, tôi nói tránh đi:
Các bà ấy thay đồ để chụp ảnh.  Người Việt Nam thích chụp ảnh!
Tôi còn được nghe nói có những bữa tiệc chẳng những các bà mà cả các ông cũng đi thay bộ mã tới 2, 3 lần.
Có lẽ trên thế giới không có người nước nào có lối sống kỳ lạ như vậy. Tại chúng ta mang nhiều mặc cảm đói rách chăng? Có thể thế, cộng thêm tính khoe khoang sẵn có.
Người có tiền thì mua, người không có tiền đi thuê ở mấy tiệm đồ cưới, nhưng cũng có những người dám tới mấy tiệm bán quần áo, nữ trang sang trọng của người Mỹ mua về mặc đi ăn đám cưới sau đó đem trả lại lấy tiền về. Lối mua bán kém lương thiện như thế ở đâu cũng thấy nói tới.

Chúng ta có nhiều cái khoe, trong các cuộc gặp gỡ, họp mặt, người ta hay tự giới thiệu tôi là Kỹ sư A. và đây, vợ tôi Tiến sĩ M. Ngoài giới thiệu bản thân người ta còn tìm cách để có dịp nào đó trong câu chuyện khoe về gia thế, dòng dõi qúi phái của mình, khoe cái xe Cadillac, Mercedes mới mua hay khoe cái nhà ở trên đồi, trên núi.
Khoe trong chỗ bạn bè quen biết chưa đủ, đôi khi người ta còn viết báo, làm thơ khoe vợ (hay chồng ) trước đây nắm chức vụ gì ở Việt Nam, con cái mấy người có bằng bác sĩ, kỹ sư… để bà con xa gần đều biết.

Trong một cuộc hội nghị văn chương có tính cách quốc tế nọ, vị đại biểu Việt Nam thay vì trình bày những vấn đề liên hệ lại tự “giới thiệu” trước đây mình làm gì, sau năm 1975 sang Mỹ học đậu Bachelor rồi đậu tới cả Master. Ông ta quên rằng trong giới văn, thi sĩ người ta không để ý đến bằng cấp mà chú trọng vào tài năng thực sự. Thi hào Nguyễn Du chỉ có bằng Tú Tài, văn hào Anatole France nước Pháp rớt Tú Tài, thi sĩ Tản Đà Việt Nam hình như không có cái bằng nào cả.
Tính khoe khoang của chúng ta thật quá đáng.
Việc khoe khoang cái mình có đã xấu, đã kỳ nhiều người đi xa hơn khoe khoang những cái mình không có để người khác khen hoặc phục nể. Đó là nói khoác, nói không đúng sự thật.
Thời nào và ở đâu chẳng có người nói khoác nhưng ngày xưa người ta nói khoác (nói phét) không hẳn để khoe hão về mình mà nói làm cho người khác ngạc nhiên, nói cho vui nên nói khoác mà có khi vẫn để cho người ta biết mình nói khoác. Mời độc giả đọc bài thơ do Cụ Ôn Như Nguyễn văn Ngọc sưu tập đăng trong Nam Thi Hợp Tuyển (Nhà xuất bản Bốn Phương tái bản, trang 85) để hiểu người xưa nói khoác:
Anh Nói Khoác
Ta con ông Cống, cháu ông Nghè,
Nói có trên trời dưới đất nghe.
Sức khoẻ Hạng Vương cho một búng,
Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe.
Nhảy ùm xuống biển lôi tàu lại,
Chạy tốc lên non bắt cọp về.
Độ nọ vào chơi trong nội phủ,
Ba ngàn công chúa phải lòng mê.
Vô Danh
Đọc bài thơ trên chúng ta thấy tức cười, biết là nói khoác nhưng đọc cho vui, đọc để giải trí. Tuy nhiên chẳng ai ưa người chuyên môn nói khoác. Câu chuyện xưa kể đại khái một ông nói khoác khoe mới trông thấy trái bí to bằng cái nong phơi lúa (đường kính độ 2 mét hay 6 feet ). Ông ngồi bên thấy thế nói:
Bác nói trái bí to bằng cái nong đâu có lớn lắm, hôm trước tôi thấy một cái chảo to bằng cái đình làng mới khiếp chứ!
Ông nói khoác hỏi:
Bác nói phét rồi, người ta đúc cái chảo quá to như thế để làm gì chứ?
- Ấy, để nấu trái bí của bác!
Ngày nay bản chất của nói khoác thay đổi, danh xưng cũng thay đổi, số người nói khoác tăng lên gấp bội có lẽ do cuộc chiến tàn khốc và kéo dài vừa qua làm xã hội xáo trộn, luân lý đạo đức suy đồi, lòng người đảo điên theo. Người ta nói khoác không phải để vui chơi, đùa giởn như xưa mà nói khoác để lòe người khác, để đề cao mình và nói khoác quá nên kêu là “nổ”. Nổ như đại bác, nổ như kho đạn nổ.
Những năm trước Việt kiều về thăm quê ăn mặc se sua, tay cầm chai nước, vàng đeo đầy người hỏi ra nếu không là bác sĩ thì cũng kỹ sư, luật sư, chức vụ dở lắm cũng giám đốc (manager), tổng giám đốc.  Đàn ông nếu trước kia đi lính thì nói khoác là sĩ quan, quan cấp úy thì nói là quan cấp tá. Các bà bà nào cũng bà úy, bà tá hoặc giám đốc nhà xuất cảng nọ, nhà nhập cảng kia.
Nơi nào càng nhiều người Việt thì bệnh nổ càng nhiều, nhiều nhất ở Mỹ. Ở Mỹ nhiều nhất ở California thứ đến Houston, Dallas… . Nhiều người thích khoe khoang, khoác lác đến nỗi năm nào cũng về nước một lần để làm Việt kiều, để có dịp nói khoác, dù thân nhân sống hết ở Mỹ.
Căn bệnh này không phải chỉ người Việt ở nước ngoài mắc phải, trong nước từ Nam chí Bắc đều mắc cả. Đối với chính quyền thì sự khoác lác được nâng lên thành chính sách, đó là tuyên truyền dối trá để lừa gạt nhân dân.
Ít lâu nay cánh Việt kiều về nước bớt nổ vì đồng bào trong nước qua thân nhân, bạn bè (ở nước ngoài) dần dần biết rõ đời sống Việt kiều lam lũ vất vả, tằn tiện dè sẻn từng xu (cent), thức dậy từ 2 giờ sáng xếp hàng tranh mua đồ bán seo (sale) hay lượn vòng cuối tuần mua hàng garare sale! Tất nhiên không phải ai cũng đi mua như thế, vả lại mua như thế không phải là xấu. Xấu ở chỗ hay khoác lác để biểu lộ sự giàu có, sang trọng hơn người nhưng thực chất không khá giả gì.
Chúng ta sống không thiết thực, chúng ta sống nông nổi.
 http://www.danchimviet.info/archives/3817/tinh-%c6%b0a-khoe-khoang-va-khoac-lac-c%e1%bb%a7a-ng%c6%b0%e1%bb%9di-vi%e1%bb%87t-chung-ta/2009/05

Tính ưa cãi cọ, chửi bới của người Việt

Nếu chúng ta vô ý đi bộ đụng phải người Mỹ, người ta không cần chúng ta xin lỗi, họ xin lỗi trước: “I am sorry”, sự việc coi như được giải quyết một cách lịch sự, nhẹ nhàng. Nhưng nếu chẳng may đụng phải người Việt, sẽ có một cuộc cãi cọ kéo dài không biết bao lâu. Đôi khi hai người đi xe đạp đụng vào nhau, xe không hư, người không hề hấn gì nhưng lại kẻ bể đầu người sứt tai sau một hồi gây lộn. Đứa con khóc thay vì dỗ cho nó nín, chồng trách vợ, vợ trách chồng thành ra cãi nhau. Từ chuyện nhỏ nhặt ấy hai người lôi những chuyện từ ngày xửa ngày xưa ra kể, ra trách, phân trần hàng tiếng đồng hồ mới chấm dứt.
Đó là chuyện nhỏ, những việc lớn hơn người ta bỏ ra cả ngày cả buổi, có khi cả tháng để chửi bới mắng nhiếc đi đến thù hận nhau suốt đời. Chúng ta sống bằng tình cảm quá nhiều, quá nặng chủ quan nên sự phân biệt phải trái không rõ ràng, hễ người nào nói nhiều, chửi, mắng nhiều, nói được nhiều lời cay độc được coi là người giỏi, người thắng. Thắng không căn cứ trên sự đúng, sai làm người ta không cần lý lẽ, cứ nói bừa, nói ngang, nói thế nào cũng được. Do đó tục ngữ có câu: “Một người nói ngang cả làng không lại.” Xa hơn nữa, có khi đem nhau ra trước cửa quan vì một chuyện không đâu.
Sống ở ngoại quốc, chúng ta thấy người ta đối xử với nhau lịch sự, rộng lượng và khôn ngoan hơn chúng ta. Lỡ va chạm nhau, cả hai bên cùng nói “sorry” (xin lỗi), việc không đáng gì vả lại đó là sự sơ suất; trong cơ quan nếu chúng ta vô ý làm hư hỏng đồ vật hay làm sai, người ta nói “don’t worry” (đừng bận tâm) rồi người ta phụ với mình sửa chữa hay chỉ bảo điều sai sót vì việc đã xảy ra rồi có mắng mỏ hay cằn nhằn cũng không lại được, chỉ thêm mất thì giờ và làm buồn người khác.
Hàng xóm có điều không vừa lòng, người ta bán nhà đi ở chỗ khác, cãi nhau mất thì giờ và thêm bực mình. Tôi biết một gia đình người Việt sang đây (Mỹ) nhưng quen lối sống ở Việt Nam, không biết tôn trọng hàng xóm, mở băng Video và DVD cho phát ra hai cái loa cả ngàn oát (watt) bất kể ngày đêm làm cho cái nhà sát bên cạnh 1 năm đổi chủ ba, bốn lần. Trường hợp này ở bên nhà chắc chắn sẽ chửi bới nhau, có khi thưa kiện hay đánh đấm nhau nữa không chừng.
Vấn đề chửi bới của người Việt, đã có nhiều người nói tới như nhà văn Nguyễn công Hoan hay học giả Lê văn Siêu.   Mới đây đồng tác giả Nguyễn thị Tuyết Ngân và Trần ngọc Thêm trong bài “Người Việt Chửi” đăng trên tờ báo Pháp Luật ở Sài Gòn số Xuân Canh Thìn 2000 và đăng lại trong cuốn “Tìm Về Bản Sắc Văn Hoá VN” cho rằng lối chửi của Việt Nam đã bước vào hàng “nghệ thuật” và góp phần làm kho tàng văn hóa VN cổ truyền thêm phong phú (Trần ngọc Thêm TVBSVHVN trang 293, Nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM in lần thứ 4).

Dù đứng ở phía nào hay qua góc độ nào thì chửi bới không thể xếp vào hàng nghệ thuật vì nghệ thuật luôn luôn hướng về cái Thật, cái Tốt, cái Đẹp (Chân – Thiện – Mỹ). Chửi bới là dùng những lời nói cay độc để nguyền rủa, trù ẻo, mạt sát người khác sao gọi là tốt, đẹp được? Chửi bới là qua lời nói muốn đào mồ cuốc mả nhà người ta, bắt ông bà tổ tiên nhà người ta ăn những thứ dơ dáy, ô uế. Muốn băm vằm, xé nát người ta mà nói rằng góp phần làm phong phú nền văn hóa cổ truyền trong khi Văn Hóa mang tính Nhân Bản: thân ái, độ lưọng, khoan dung, hòa hợp.
Tóm lại chửi bới là hành động xấu, vô văn hóa đã có từ lâu (nay đã giảm rất nhiều) nên qua thời gian được gọt rũa thành bài bản, có vần điệu, nhịp nhàng đối xứng. Các dân tộc khác không có lối chửi tàn tệ, thâm độc, dằn vặt  (người ta chửi nặng nhất là “đồ con vật (heo, bò, ngựa) hay đồ què, mù, thối tha…”) và cũng không chửi hết ngày này sang ngày khác như chúng ta.
Quê tôi bên bờ sông Hồng, phía trong đê là đồng cấy lúa, ngoài đê gần bờ sông là trang trại hàng năm vào khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch nước lụt dâng lên, mỗi nhà ở trên nền đất đắp cao trông như một hòn đảo. Tôi nhớ hồi còn bé có hai bà hàng xóm mới làm thông gia với nhau được ít lâu đã xảy ra xích mích vì bà bênh con bà, tôi bênh con tôi (vợ chồng trẻ nào mà không có trách móc, cãi cọ vặt). Lúc đầu chỉ trao đổi qua những tiếng bóng gió của bà mẹ vợ  sau biến thành chửi nhau công khai. Hai nhà ở cách nhau qua một khu vườn độ 50 mét (150 feet) đang bị nước lụt dâng cao làm giới tuyến ngăn cách, mỗi bà ở một bên chửi chõ sang nhà nhau mấy ngày mới dứt. Giờ ăn, giờ ngủ  là những cuộc tạm đình chiến:
- Bà chửi mày bẩn cả miệng, để bà xúc miệng xong bà sẽ đào mồ, đào mả nhà mày lên.
- Quân chết tiệt, đói thì về nốc đi, lấy sức mà nghe tao lôi ông bà, ông vải nhà mày ra tao dạy.
Những lời chửi bới thô lỗ, cay độc nhưng lại có vần, có điệu. Đại khái:
Mả cha mày dưới đất
Tao hất lên trời
Tao phơi ngoài lộ
Cho quạ nó mổ
Cho chó nó tha
Cho ông đi qua
Cho bà đi lại
Vén đá…ị…lên đầu
Nhục ơi…là nhục.
Bà kia không kém:
Thứ quân chua ngoa
Thằng cha mày dại
Tứ đại mày ngu
Tao kẹp vào khu
Tao kẹp vào háng
Tao đánh, tao mắng
Mặt cứ trơ trơ…
Chúng ta vốn kính trọng tổ tiên không hiểu sao người ta cứ thích đem ông bà nhau ra chửi. Mình không trọng Ông bà, cha mẹ người thì người không trọng ông bà, cha mẹ mình.
Sau đây là “bài chửi” mất trộm gà do học giả Lê văn Siêu ghi lại kèm theo lời bình luận:
“- A…con gà của tao nó ở nhà tao thì nó là con gà, nó vào nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, thành thần nanh đỏ mỏ nó mổ vào đầu nhà mày. Mày trả con gà của tao thì thôi, mày ăn con gà của tao thì mày xưng cổ nổ hầu, mày chết trẻ đẻ ngược. Mày đi sông đắm đò, mày đi đường chết chợ. Tao chửi cho đến ông tam đại nhà mày trở xuống, cho đến mục mả nhà mày ra mới thôi…” (Lê văn Siêu, Văn Minh VN trang 224).
Sau đây là lời bình của nhà học giả: “Chửi cho đến đầu rau phải múa, chúa đất phải cười. Chửi cứ như là hát hay. Chửi sôi lên sùng sục, đục lên lờ lờ. Chửi mà thành vần, thành điệu lên bổng xuống trầm.” (Lê văn Siêu, VMVN trang 225 ).
Việc chửi bới trên gần như mai một nhưng việc hay cãi cọ vẫn tồn tại ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chúng ta hay chấp nhất những chuyện nhỏ nhặt và không có tinh thần bao dung.
© 2009 Đàn Chim Việt
 http://www.danchimviet.info/archives/3528/tinh-%c6%b0a-cai-c%e1%bb%8d-ch%e1%bb%adi-b%e1%bb%9bi-c%e1%bb%a7a-ng%c6%b0%e1%bb%9di-vi%e1%bb%87t/2009/02

Posted by sontrung at 11:26 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 423
MÔNG CỔ MỘT THỜI
Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ
GL - Theo Trí Thức Trẻ | 30/10/2013 - 12:00
Chia sẻ facebook
4
(GenK.vn) - Một thời huy hoàng.
Đất nước Mông Cổ là một đất nước có rất nhiều điều thú vị. Đất nước này tiếp giáp với Nga và Trung Quốc . Diện tích của đất nước này rộng nhưng dân số lại rất thưa thớt và thuộc nhiều bộ lạc. Trong quá khứ vùng đất này đã được cai trị bởi nhiều đế chế du mục khác nhau, thế kỉ 13 đế quốc này đã được cả thế giới biết đến qua những cuộc chiến tranh chinh phục khắp châu Á và châu Âu. Trong quá khứ vùng đất này được coi là của Trung Quốc tuy nhiên dưới sự bảo trợ của Liên Xô, nó đã chính thức trở thành một quốc gia độc lập từ năm 1945. Nhiều người chỉ biết đến Mông Cổ như là nơi có những chiến binh thiện chiến nhưng nơi đây cũng rất tiên tiến và có nhiều đặc điểm văn hóa thú vị. Trong bài viết này Genk sẽ cung cấp thêm một số thông tin thú vị về vùng đất được coi là khá hoang dã, bí ẩn nhưng ẩn chứa rất nhiều điều đáng nói này.
Phụ nữ Mông Cổ
Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ

Các nhà sử học thường có xu hướng miêu tả kỹ lưỡng về những đội quân Mông Cổ ngoài trận mạc - những người đàn ông mạnh mẽ và hung tợn. Người phụ nữ Mông Cổ thường bị bỏ qua và hầu như hiếm thấy được miêu tả. Điều này có vẻ là khá bất công vì người phụ nữ Mông Cổ cũng rất cá tính và có vị trí.
Trong xã hội Mông Cổ, người phụ nữ được cho là có nhiệm vụ tổ chức kinh tế chủ chốt khi những người đàn ông tập luyện đao kiếm hay đánh trận. Các pháp sư có vị trí tôn giáo lớn trong bộ lạc cũng thường là phụ nữ. So với vai trò của người phụ nữ Châu Âu trung đại thì cùng thời kì đó vai trò của phụ nữ Mông Cổ được đề cao hơn nhiều.
Không chỉ vậy, các bộ lạc của Mông Cổ cũng đã từng có nhiều thủ lĩnh nữ. Sau khi Thành Cát Tư Hãn mất, con dâu và con gái ông đã bắt tay với nhau để đấu tranh quyền lực cho phụ nữ, tạo cho mình phe phái thế lực mạnh trong một thời gian. Một trong những người phụ nữ Mông Cổ nổi tiếng nhất là ManduKhai Khatun, vợ của một hậu duệ Thành Cát Tư Hãn. Bà là một chiến binh có năng lực. Bà đã cùng chồng mình chiến đấu tái thống nhất Mông Cổ sau loạn lạc khoảng thế kỉ 15.
Hệ thống bưu chính

Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ

Những người Mông Cổ có lối sống du mục. Họ gần gũi với thiên nhiên và thường không ở cố định khu vực nào. Do có những khác biệt đặc trưng nên hệ thống thư tín để liên lạc giữa các bộ lạc hay giữa mọi người với nhau cũng rất khác thông thường. Hệ thống bưu chính của đế quốc Mông Cổ cũ được gọi là Yam – có nghĩa là “trạm kiểm soát”. Một người đưa thư thường phải di chuyển 40 km giữa 2 trạm kế tiếp nhai. Sau đó người này có thể nhận được một con ngựa mới đã được nghỉ ngơi hoặc là đưa thư đó cho người tiếp theo để đảm bảo tốc độ chuyển thư nhanh nhất có thể. Thông thường người này có thể di chuyển 200 km mỗi ngày Tại một thời điểm, trên toàn địa bàn có thể có đến tận 1400 trạm như thế với hơn 50000 con ngựa được sử dụng để trung chuyển.
Chiến thuật

Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ

Người Mông Cổ nổi tiếng với những chiến thuật chiến đấu hiệu quả. Để có được kết quả như vậy, họ đã được rèn luyện qua rất nhiều các trận chiến từ quy mô nhỏ đến lớn. Những thành tích chiến đấu của đội quân Mông Cổ trong thời kì đỉnh cao Thành Cát Tư Hãn thậm chí còn được đánh giá cao hơn thành tích của những chỉ huy nổi tiếng như Alexander Đại Đế hay Hannibal Barca. Lối đánh của người Mông Cổ có hai điểm nổi bật đó là lối đánh bất ngờ đánh nhanh thắng nhanh và giả vờ thua chạy xog quay lại phản công. Cả hai chiến thuật này đều làm cho hàng ngũ địch bị mất tinh thần, rối loạn. Nhiều tướng lĩnh Đông Âu đã bị thất trận trước chiến thuật thứ hai. Họ cũng là bậc tiền bối trong lĩnh vực bao vây và bắt giữ con tin. Sự kết hợp giữa đội quân tinh nhuệ và chiến thuật thông minh đã làm nên nhiều chiến thắng huy hoàng.
Con đường tơ lụa

Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ

Sau khi nhà Đường ở Trung Quốc bị lật đổ, con đường tơ lụa dường như đã rời xa khỏi thời hoàng kim. Tuy nhiên với sự hùng mạnh của Đế Quốc Nguyên Mông – nó đã trở nên thịnh vượng trở lại. Người Mông Cổ đã có được nguồn thu nhập rất lớn từ con đường huyền thoại này, phần lớn lộ phí đều rơi thẳng vào túi tiền của họ. Thành Cát Tư Hãn không chỉ sử dụng con đường này để giao thương đến Châu Âu mà còn sử dụng nó để chinh phục thế giới. Ông ta bắt đầu với Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ, hầu như mọi thành phố trên con đường đều bị chiếm đóng và chinh phục. Trong thời gian cai trị tuyến đường quan trọng này, Mông Cổ đã có những chính sách phù hợp để duy trì và kích thích phát triển thương mại giữa hai Châu Lục Á Âu.
Vũ khí

Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ

Người Mông Cổ có máu du mục ở trong tim. Họ mạnh mẽ khi chiến đấu trên lưng ngựa. Ngựa cũng được coi là một chiến binh, một loại vũ khí không thể thiếu được. Giống ngựa Mông Cổ bắt nguồn từ những đồng cỏ phương Bắc với vóc dáng có phần nhỏ hơn, chân ngắn hơn, bờm và đuôi rậm hơn, song chúng ít đòi hỏi chăm sóc, sức chịu đựng tốt, có thể sống quanh năm bằng cỏ mọc trên thảo nguyên, đặc biệt thích nghi tốt với khí hậu cận nhiệt đới. Trong suốt thế kỷ XIII, vó ngựa của quân xâm lược Mông Cổ đã tung hoành khắp nơi, ngựa Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ được coi là đi đến đâu thì cỏ không mọc được, đến đâu thì bình địa đến đó.

Người Mông Cổ cũng sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau. Kiếm của họ mang lưỡi kiếm cong – giúp dễ xử lý cả trên lưng ngựa và trên bộ. Chùy, búa, dao găm cũng là những vũ khí phổ biến. Vũ khí tấn công từ xa phố biến nhất chính là cung tên. Trong sử sách khả năng dùng tên của người Mông Cổ cũng đã được công nhân. Họ có sử dụng nhiều loại tên nổi tiếng nhất là tên còi (một loại mũi tên rỗng tạo ra âm thanh như tiếng huýt). Loại tên này chủ yếu được người thủ lĩnh sử dụng để ra hiệu trong trận mạc. Tuy mạnh về phương diện vũ khí nhưng người Mông Cổ không chú ý nhiều đến áo giáp, Mãi đến giai đoạn sau của kỷ nguyên Mông Cổ áo giáp mới được sử dụng nhiều. Vì người Mông Cổ ưa gọn nhẹ nên vật liệu làm ra chúng thường bằng da ngựa đã ngâm trong nước tiểu, cũng đôi khi được bọc thép bên ngoài.
Sự khoan dung

Những bất ngờ thú vị về đế chế Mông Cổ

Trong lịch sử đã ghi nhận quân Mông là một trong những đội quân man rợ và thiện chiến nhất. Điều này là đúng. Họ rất tàn bạo ở chiến trường, đối với kẻ thù không nhượng bộ và thường cướp bóc giết người trong những chuyến hành quân. Tuy nhiên sau khi chinh phục được, đối với những thành phố/ quốc gia thuộc quyền họ lại có những chính sách khá hợp lý. Người Mông Cổ cho rằng họ phải chấp nhận những thói quen và tôn trọng sự khác biệt nên thường không có sự bức ép thay đổi về tôn giáo hay thói quen văn hóa quan trọng. Những chính sách cai trị tích cực như giảm thuế cũng được áp dụng
Tatar
Người Mông Cổ đôi khi còn được gọi là người Tatar. Cái tên này bắt nguồn từ cách người Mông Cổ tự gọi chính mình – Tata. Tuy nhiên kẻ thù của họ nhận ra rằng cái tên này nghe na ná tartarus – thần địa ngục trong La Mã cổ đại nên họ bắt đầu gọi người Mông Cổ là tatar – có nghĩa là quỷ từ địa ngục của tartarus. Ngày ngay, tatar sử dụng để đề cập tới những người thuộc các bộ tộc gốc Thổ sống ở các miền trung và nam nước Nga, Ukraina, Trung Quốc, Belarus …
 http://genk.vn/kham-pha/nhung-bat-ngo-thu-vi-ve-de-che-mong-co-20131029154312537.chn
Posted by sontrung at 10:53 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 423
Sunday, July 3, 2016
LÊ DUẨN NÓI VỀ TRUNG QUỐC
  Ông Lê Duẩn đã nhận định về Trung Quốc như thế nào? (Kỳ I)
    In bài này
    Gửi Email bài này
    Ngày đăng 01-07-2016
    ...
Tài liệu dưới đây được dịch từ cuốn Đằng sau tấm màn che – Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á (Behind the Bamboo Curtain – China, Vietnam, and the World beyond Asia), do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản, 2006. Phần III chương 14 của cuốn sách có tiêu đề “Lê Duẩn và sự đoạn tuyệt với Trung Quốc”.

Phần này gồm bài giới thiệu khá dài (14 trang, từ trang 453 đến 467) của Tiến sĩ Stein Tønnesson và bản dịch tài liệu này ra tiếng Anh của Christopher E. Goscha (20 trang, 467-486). Tiến sĩ Stein Tønnesson là học giả nghiên cứu về thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam với các cường quốc Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc trong giai đoạn này. Ông hiện đang là Giám đốc Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế, Oslo, Na uy. Christopher E. Goscha hiện đang giảng dạy môn Lịch sử tại American University và Trường Quốc tế ở Paris.
Ông là đồng Giám đốc Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Gần đây ông có tác phẩm đã in “Mậu dịch vùng biên giới Việt Nam với Hoa Nam thời đầu chiến tranh” (Asian Survey, 2000) và đã trình luận án về đề tài Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne. Bài giới thiệu của Stein Tønnesson có khá nhiều nhận định sắc sảo và chính xác. Rất tiếc là không đủ thời gian để dịch ra giới thiệu với các bạn, nhưng các bạn có thể tham khảo bản tiếng Anh tại địa chỉ sau:http://www.wilsoncenter.org/topics/pubs/New_Ev_CWAsia.pdf(trang 273-288).
Lẽ ra tài liệu từ tiếng Việt, đã được dịch sang tiếng Anh, thế thì còn dịch lại ra tiếng Việt làm gì. Vấn đề là ở chỗ, như Stein Tønnesson đã nhận xét: “Cho đến giờ, rất ít tài liệu thuộc loại này được phía Việt Nam cho phép các học giả tiếp cận.” Vậy thì trong khi chờ đợi tài liệu được bạch hóa, ta dịch ra để cùng đọc, tuy không thể chính xác bằng bản gốc, nhưng cũng có thể cung cấp cho ta một số thông tin nhất định. (...) Stein Tønnesson cũng đã chỉ ra: “Chúng ta được biết, Lê Duẩn rất ít khi tự mình chấp bút và tài liệu mang phong cách khẩu ngữ (khiến cho việc dịch cực kỳ khó khăn). Rất có thể đây là bản thảo Lê Duẩn đọc cho thư ký ghi, hoặc những đoạn chi tiết do một cán bộ cấp cao dự buổi nói chuyện này ghi lại.”
(Xin lưu ý: Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha).
KỲ I- KHÔNG NHƯỢNG BỘ DÙ BẤT KỲ SỨC ÉP NÀO
Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.
Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).
Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …
Mặc dù Trung Quốc đã giúp Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.
Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.
Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.
Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động [Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.
Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích”.
Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: “Các đồng chí, nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?”
Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”
Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: “Việt Nam không thể phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ, đúng không?
Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].
Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống”.
Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường sá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.
Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.
Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.
- Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.
Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ”. Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].

Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.

Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.
- Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí”.

Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:
- Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.
Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm 1954), đồng chí có biết không“?
Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.

Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng chí”.
Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.

– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.
Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.
Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]”.
(Còn tiếp)

  Ông Lê Duẩn đã nhận định về Trung Quốc như thế nào?(Kỳ II)
    In bài này
    Gửi Email bài này
    Ngày đăng 02-07-2016
    ...
"Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa?"

Cố Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Trường Chinh
KỲ II- ÂM MƯU THÔN TÍNH VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á
Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời Đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí“.
Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi”. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.
Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?“
Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.
Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.
Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.
Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi họp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.
Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.
Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn”. Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).
Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]“. Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.
Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.
Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.
Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.
Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.
Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.
(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.
Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm”. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…
Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …
Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.
Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].
Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…
Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?
Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.
- Chú đã thấy gì?
Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.
Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu.
Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.
Ông Lê Duẩn đã nhận định về Trung Quốc như thế nào?(Kỳ III)
    In bài này
    Gửi Email bài này
    Ngày đăng 03-07-2016
    ...
Khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.
Cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông

KỲ III-VIỆT NAM KHÔNG ĐỂ TRUNG QUỐC THỰC HIỆN
… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.
Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm”.
… Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh”.
Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.
… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …
Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.
Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.
Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.
Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giáng một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.
- Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.
- Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.
Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.
- Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.
Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?
Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh…”
Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn”. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.
- Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.
- Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …
- Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.
… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta
Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.
Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.
Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979]./.
 http://www.biendong.net/dam-luan/7477-ong-le-duan-da-nhan-dinh-ve-trung-quoc-nhu-the-nao-ky-iii.html

Posted by sontrung at 11:20 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 423

No comments:

Post a Comment