Chuyên gia kêu gọi Mỹ-Trung dự phòng Bắc Triều Tiên sụp đổ
Lãnh đạo Kim Jong Un đến thăm một công trường của quân đội Bắc Triều Tiên (ảnh do KCNA công bố 27/05/2013)
REUTERS
Cũng như Đông Đức, chế độ Bắc Triều Tiên có thể sụp đổ bất
ngờ, không có dấu hiệu báo trước. Tuy nhiên, khác với Đông Đức, tình
trạng « rắn mất đầu » tại Bình Nhưỡng sẽ đưa đến thảm họa kinh hoàng, vì
không có chuẩn bị. Viện nghiên cứu chiến lược RAND Corp kêu gọi Hoa Kỳ
và Trung Quốc hội ý.
Hôm qua 19/09/2013,Viện nghiên cứu chiến lược Mỹ RAND Corp,
một tổ chức bất vụ lợi, công bố bản phúc trình về tình hình Bắc Triều
Tiên với nhận định : Chính quyền Kim Jong Un có dấu hiệu mất ổn định
trong một giai đoạn. Hầu hết các nhà phân tích đều đồng ý rằng chế độ
này có khả năng bị sụp đổ. Tác giả bản báo cáo, Bruce Bennett, một
chuyên gia về quốc phòng cho rằng đây không còn là vấn đề « khi nào »
hay là « nếu ».
\
Bản báo cáo liệt kê một loạt hệ quả nếu chính quyền Kim Jong Un sụp
đổ : Từ khủng hoảng lương thực cho đến nội chiến tại quốc gia khép
kín, nhưng có vũ khí sát hại hàng loạt . Rand Corp không loại trừ kịch
bản chiến tranh với Trung Quốc.
Theo dự báo, tình hình Bắc Triều Tiên có thể suy thoái nhanh chóng.
Trong điều kiện lương thực và thuốc men đang thiếu nghiêm trọng, một khi
chế độ lung lay sẽ đưa đến phản xạ tích trữ nhu yếu phẩm, làm cho tình
hình nguy ngập hơn. Nạn đói sẽ làm cho dân chúng bỏ nhà đi kiếm sống tạo
ra một làn sóng tỵ nạn làm cho các giải pháp viện trợ nhân đạo, cứu
đói khó có thể thực hiện. Rồi số phận của 200.000 tù nhân cải tạo sẽ ra
sao ?
Trong tình thế này, quân đội và lực lượng an ninh có thể xung đột với
nhau để bảo vệ trước nạn giành giựt lương thực. Nếu cộng đồng quốc tế
không phản ứng kịp thì có nguy cơ xẩy ra nội chiến với những cuộc nổi
dậy mang tinh chất cướp bóc, gây ra tình trạng bất ổn kéo dài, cản trở
tiến trình thống nhất đất nước.
Do vậy, bản báo cáo đề nghị các biện pháp làm giảm bớt các hệ quả
này: Hoa Kỳ và đồng minh Hàn Quốc cần phải có sẵn kế hoạch và phương
tiện nhanh chóng vận chuyển lương thực thuốc men cho miền bắc. Nhưng
điều quan trọng hơn hết là phải thuyết phục được cán bộ và binh sĩ Bắc
Triều Tiên biết rằng họ sẽ được Hàn Quốc đối xử tốt, và có đời sống tươi
sáng hơn trong một đất nước thống nhất. Có lẽ ý thức và lo ngại quân
đội bội phản, bộ máy tuyên truyền của chính quyền Bình Nhưỡng khẳng định
người dân miền nam đói khổ gấp mười lần người dân miền bắc.
Về quân sự, quân đội Bắc Triều Tiên, với kho vũ khí hóa học, vi trùng
và có thể có cả hạt nhân là một mối đe dọa lớn. Mỹ và Hàn Quốc cần
phải can thiệp nhanh chóng để « kiểm soát » kho vũ khí này được cất giấu
đó đây trên lãnh thổ.
Vấn đề là Trung Quốc cũng dự phóng khả năng này và sẽ đưa quân ra
tay trước để « bảo vệ » các kho vũ khí chiến lược này và nhân đó « lấn
chiếm một phần lớn lãnh thổ Bắc Triều Tiên » .
Nguy cơ quân đội Mỹ và Trung Quốc đụng nhau sẽ rất lớn, nhưng theo
viện RAND Corp, thái độ của Bắc Kinh đang thay đổi trong thời gian gần
đây và có thể mở đường cho đối thoại.
Cho đến nay, Trung Quốc ngần ngại thảo luận về khả năng chế độ Bình
Nhưỡng sụp đổ, vì không muốn mang tiếng « phản bội » đồng minh và vô
tình làm tình hình Bắc Triều Tiên suy thoái thêm.
Bản báo cáo đề nghị Bắc Kinh và Washington cần phải thỏa thuận lập
một đường ranh để quân đội hai bên không chạm mặt nhau. Đường ranh đó
không lấn sâu quá 50 km kể từ dòng sông Áp lục, biên giới thiên nhiên
Trung-Triều.
Một điểm đáng lo khác được nêu lên là quân số của Bắc Triều Tiên có
thể đươc cắt giảm từ 22 sư đoàn xuống còn 12 sư đoàn vào năm 2022 vì
sinh suất thấp. Bình Nhưỡng sẽ cân bằng quân số bằng cách nào ? Vũ khí
hạt nhân ? Hay gia tăng lực lượng trừ bị ?
Trước câu hỏi chất vấn của báo chí về « xác suất » Bình Nhưỡng sụp đổ
trong năm tới, chuyên gia Bruce Bennett trả lời là 2%. Tuy nhiên, ông
lý giải, xác xuất này tuy thấp, nhưng vẫn còn cao hơn xác xuất « bị cháy
nhà ». Biết vậy nhưng ai cũng mua bảo hiểm.
Cũng theo Bruce Bennett, tất cả các quốc gia trong khu vực đều lo
âu chế độ Bình Nhưỡng tự tan rã. Một trong những kịch bản có xác suất
cao nhất là Kim Jong Un bị ám sát.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130920-chuyen-gia-keu-goi-my-trung-du-phong-bac-trieu-tien-sup-doBắc Hàn sụp đổ và kịch bản ứng phó
Cập nhật: 12:13 GMT - thứ sáu, 20 tháng 9, 2013
Hoa Kỳ nên cân nhắc đàm
phán trước với Trung Quốc về một giới tuyến phân chia quân sự trong
trường hợp Bắc Hàn sụp đổ, theo một nghiên cứu công bố hôm thứ Năm.
Nghiên cứu của Viện nghiên cứu chiến lược RAND
tại Hoa Kỳ cảnh báo về các hậu quả thảm khốc nếu chế độ Kim Jong-un đột
nhiên sụp đổ, theo AFP.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Hoa Kỳ và đồng minh Hàn Quốc sẽ gần như chắc chắn can thiệp, điều gây báo động với Trung Quốc, quốc gia đồng minh chính của Bắc Hàn, nghiên cứu cho hay .
Trung Quốc lâu nay lo ngại việc ngăn chặn dòng người tị nạn và tránh việc các lực lượng Hoa Kỳ tiếp cận gần biên giới. Vì thế Bắc Kinh sẽ có thể gửi quân tới Bắc Hàn và tạo ra nguy cơ leo thang nhanh chóng cho một cuộc đối đầu với các lực lượng quân sự của Mỹ hay Hàn Quốc.
"Cách tốt nhất để giảm thiểu tai nạn như vậy là xác định giới tuyến phân chia cho các lực lượng của Trung Quốc đối với (Hàn Quốc) và quân đội Mỹ," nghiên cứu nói.
Bruce Bennett, tác giả của nghiên cứu, thừa nhận rằng ý tưởng này có thể không được hoan nghênh ở Hàn Quốc và gợi lên sự phân chia nước Đức sau Thế chiến II.
Bán đảo Triều Tiên vẫn trong tình trạng chia cắt kể từ cuộc chiến 1950-1953 với cuộc đọ sức giữa Hoa Kỳ, các đồng minh phương Tây chống lại Trung Quốc khi đó.
"Thiết lập một giới tuyến như thế thực sự không phải là một ý tưởng tốt, về mặt chính trị, nhưng mặt khác, xảy ra chiến tranh với Trung Quốc còn tồi tệ hơn," tác giả Bennett nói.
"Rốt cuộc chúng ta có thể phải tạo lập một giới tuyến chỉ ra rằng Trung Quốc không tiến xuống phía nam, và chúng ta sẽ không tiến lên phía bắc," ông nói.
'Cần bàn bạc trước'
"Cách tốt nhất để giảm thiểu tai nạn như vậy là xác định giới tuyến phân chia cho các lực lượng của Trung Quốc đối với (Hàn Quốc) và quân đội Mỹ."
Báo cáo của Viện Rand
Hoa Kỳ và Hàn Quốc cần phối hợp với Trung Quốc
về các ưu tiên chính như đưa thực phẩm vào Bắc
Hàn và bảo đảm kiểm soát
hạt nhân cùng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác của nước này,
nghiên cứu nói.
Trung Quốc, nước có thể tìm cách hậu thuẫn một
nhóm thuộc chế độ cũ của Bắc Hàn, cuối cùng nên đồng ý rút quân và cho
phép thống nhất đất nước, trong phương án khả dĩ nhất dưới sự bảo trợ
của một nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ), báo cáo của
Viện Rand nói.
Thế nhưng các nghị quyết của LHQ có thể mất thời
gian và do đó sẽ là "thích hợp hơn" khi có một thỏa thuận về chủ trương
với Trung Quốc trước khi Bắc Hàn sụp, theo báo cáo.
Bennett nói ông đã tiến hành báo cáo nghiên cứu
do có lo ngại rằng các quốc gia chủ chốt đã không thảo luận đủ với nhau
về những việc cần làm nếu quốc gia cộng sản nghèo nàn này đổ vỡ.
"Có lẽ xác suất của việc Bắc Hàn sụp đổ vào năm tới là hai phần trăm. Đó là mối nguy hiểm ở tỷ lệ hai phần trăm," ông nói .
"Xác suất mà căn nhà của bạn bị cháy là bao
nhiêu? Có lẽ không phải là hai phần trăm, nguy cơ ấy ít hơn rất nhiều,
nhưng bạn có bảo hiểm hỏa hoạn không? Tôi thì có," ông nói .
Nghiên cứu không dự đoán về một thời gian cụ thể cho sự sụp đổ của Bắc Hàn, nhưng dự kiến chế độ cuối cùng sẽ sụp đổ.
Một trong những kịch bản có nhiều khả năng nhất
cho sự sụp đổ, theo nghiên cứu, có thể là một vụ ám sát nhắm vào lãnh
đạo Kim Jong-un .
Kim, người thay thế cho cha đẻ quá cố Kim Jong-il từ tháng 12/2011, được cho là chưa đến 30 và chưa chỉ định người kế nhiệm.
Sự mất mát đột ngột của một nhà lãnh đạo trung
ương có thể dẫn đến các phe phái tranh phần điều hành Bắc Hàn, mang lại
tình trạng hỗn loạn và cản trở nghiêm trọng cho phân phối thực phẩm,
nghiên cứu nói.
Hàng trăm ngàn người Bắc Hàn bị chết đói vào
giữa thập niên 1990, sau khi sự tan rã của Liên Xô chấm dứt nguồn viện
trợ quan trọng.
Obama đã quên Việt Nam?
Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBCVietnamese.com từ San Jose
Cập nhật: 09:56 GMT - thứ sáu, 20 tháng 9, 2013
Tháng 11 năm ngoái, Tổng thống Barack Obama công du ba quốc gia Đông Nam Á. Ngạc nhiên trong chuyến đi là ông đã đến Myanmar.
Giới quan sát chính trị đặt câu hỏi là lãnh đạo
Mỹ có nên đến Myanmar không, vì chính quyền quân phiệt Yangon chỉ mới
công bố tiến trình cải cách chính trị vài tháng trước đó, trong khi tại
đất nước này vẫn còn những xung đột giữa người theo Phật giáo và Hồi
giáo làm nhiều người chết và cả trăm nghìn dân phải dời cư để tránh bạo
động.Sự kiện ông Obama đến thăm, như thế có phải là ủng hộ lãnh đạo Myanmar, mà năm trước còn là những người cầm quyền độc tài và để những xung đột tôn giáo xảy ra.
Nhưng Tổng thống Obama vẫn đến, không phải là dấu chỉ ông tán đồng chính sách độc tài, đàn áp của lãnh đạo quân phiệt, nhưng là để nói lên sự ủng hộ những bước cải cách dân chủ do Yangon khởi xướng.
Myanmar đã bắt đầu thay đổi, và đang thay đổi nhanh, từ cuối năm 2010 khi bà Aung San Suu Kyi, lãnh đạo phe đối lập, được trả tự do sau hơn hai thập niên tù và quản chế tại gia. Trong kỳ bầu cử năm 1990, đảng đối lập do bà lãnh đạo đạt 59% số phiếu và chiếm đa số ghế trong quốc hội, nhưng phe cầm quyền đã không công nhận kết quả và còn tiếp tục giam bà trong nhiều năm.
Năm ngoái, ngay sau khi lãnh đạo Myanmar tuyên bố cải cách chính trị, Tổng thống Obama đã nhanh chóng quyết định bỏ cấm vận và Hoa Kỳ đẩy mạnh đầu tư kinh tế vào đất nước với 56 triệu dân này.
Ông Obama quyết định đến Myanmar vì là người sớm lên tiếng ủng hộ những cải cách chính trị đã mở ra. Sự có mặt của lãnh đạo Mỹ ở đó tuy trong thời gian rất ngắn, chỉ 6 giờ đồng hồ, là vì ông muốn đưa ra “bàn tay thân hữu” với Myanmar để tự do, dân chủ sẽ nở hoa ở đây.
Tổng thống Obama là lãnh đạo Mỹ đầu tiên thăm Myanmar từ nửa thế kỷ qua, kể từ khi phe quân đội nắm quyền năm 1962 và đã cai trị bằng chính sách độc tài với nhiều vụ đàn áp đẫm máu sinh viên, các nhà sư. Nhiều người đối lập đã bị giam tù.
Cổ súy dân chủ
Khi quyết định cải cách dân chủ, chính quyền Rangon đã thả nhiều đợt với hàng trăm tù chính trị, đã cho phép tự do báo chí, cho cựu tù chính trị tham gia sinh hoạt đảng phái.Đảng Liên hiệp Quốc gia vì Dân chủ (National League for Democracy, NLD) của bà Suu Kyi đã tham gia chính trường trong hai năm qua, sau nhiều lần bà kêu gọi tẩy chay những cuộc bầu cử thiếu dân chủ từ khi chiến thắng của NLD bị chính quyền quân phiệt hủy bỏ năm 1990.
Đến Myanmar, sau khi được Tổng thống Thein Sein tiếp, ông Obama cũng đã gặp gỡ lãnh đạo đối lập Suu Kyi.
Chuyến đi của ông Obama chính là để cổ xúy cho những cải cách dân chủ ở Myanmar.
Trong chuyến công du năm ngoái, Tổng thống Obama cũng đến Thái Lan và Campuchia. Thái Lan trong nhiều thập niên qua đã là đồng minh của Mỹ nên sự kiện ông ghé đó chỉ thắt chặt thêm quan hệ bền bỉ giữa hai nước.
Tại Campuchia, như Myanmar, là quốc gia đón lãnh đạo Mỹ đến thăm lần đầu trong nửa thế kỷ qua. Tuy không được đón tiếp nồng ấm như khi ông Obama đến Myanmar, nhưng trong thảo luận riêng tư lãnh đạo Mỹ cũng nhắc nhở Thủ tướng Hun Sen về những đàn áp phe đối lập và kêu gọi cải cách chính trị tại đây.
Sắp tới lãnh đạo Mỹ lại công du Đông nam Á. Bạch Ốc đã ra thông báo về chuyến đi vào đầu tháng Mười của Tổng thống Barack Obama, nhân hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương APEC khai diễn tại Indonesia. Dịp này, ông Obama cũng sẽ chính thức thăm Brunei, Malaysia và Philippines.
Việt Nam không có trong lịch trình, tuy Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã chính thức mời Tổng thống Obama trong chuyến thăm Hoa Kỳ cuối tháng Bảy vừa qua. Ông Obama hứa sẽ cố gắng thực hiện chuyến đi trước khi hết nhiệm kỳ, nhưng chưa xác định thời điểm nào.
Khác biệt chính trị
Nếu coi những chuyến viếng thăm của lãnh đạo để định mức quan trọng trong mối bang giao hai nước thì quan hệ Mỹ-Việt không mặn mà cho lắm.Vì sao? Có phải vì từng là cựu thù, vì địa chính trị, vì quyền lợi hay khác biệt trong hệ thống kinh tế, chính trị?
Chuyện chiến tranh năm xưa coi như hai bên đã bỏ qua, chẳng bên nào còn muốn nhắc lại.
"Phải năm năm sau từ khi Tổng thống Bill Clinton đến Hà Nội, năm 2005 Tổng thống George W. Bush mới đón Thủ tướng Phan Văn Khải tại Bạch Ốc."
Khác biệt trong hệ thống kinh tế, chính trị có lẽ là điều khiến hai bên khó xích lại gần hơn. Việt Nam vẫn là một nước cộng sản, độc tài toàn trị và cho đến nay Mỹ vẫn chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Vì những khác biệt này mà quan hệ hai nước chưa tiến nhanh được.
Sau khi nối lại quan hệ ngoại giao năm 1995, phải năm năm sau Tổng thống Bill Clinton mới đến thăm Việt Nam, trước khi ông rời Bạch Ốc.
Hà Nội nhiệt tình đón ông Clinton vì là người đã bãi bỏ cấm vận, thiết lập bang giao giữa hai nước. Nói chuyện với sinh viên Đại học Ngoại thương Hà Nội, Tổng thống Clinton nhắc đến tự do báo chí, nền tư pháp độc lập và những quyền căn bản của con người.
Tuy nhiên, ngoại trưởng Mỹ thời Tổng thống Clinton là Madeleine Albright trong một lần gặp Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu có đề cập đến tiến trình dân chủ thì được đáp lại một cách lạnh nhạt. Sau đó bà đã phát biểu: “Quan hệ hai nước sẽ không bao giờ hoàn toàn bình thường cho đến khi vấn đề nhân quyền được bàn thảo.”
Phải năm năm sau từ khi Tổng thống Bill Clinton đến Hà Nội, năm 2005 Tổng thống George W. Bush mới đón Thủ tướng Phan Văn Khải tại Bạch Ốc.
Năm 2006 Tổng thống Bush đã đến thăm Việt Nam nhân dịp Hội nghị APEC tổ chức tại đây.
Từ đó đến nay, Bạch Ốc đã đón Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gần đây nhất Tổng thống Obama đón Chủ tịch Trương Tấn Sang.
Thiếu 'chiến lược'?
Với chủ trương chuyển trọng tâm chiến lược sang Đông Á của Tổng thống Barack Obama nên Hoa Kỳ đang quan tâm nhiều hơn đến vùng này, thể hiện qua sự hợp tác và thường xuyên thăm viếng các quốc gia trong vùng của bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng quốc phòng Mỹ, cùng với những cuộc tập trận chung. Tàu chiến của Mỹ cũng hay ghé các cảng dọc biển Đông Á.Trong viễn cảnh đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đang có những cố gắng xích lại gần nhau hơn, nhất là từ khi Trung Quốc gây hấn với các quốc gia trong vùng, đặc biệt là với Việt Nam và Philippines.
Sau hơn hai mươi năm rời bỏ căn cứ hải quân Subic Bay ở Philippines, nay có dấu chỉ là Mỹ sẽ trở lại đây. Còn vịnh Cam Ranh của Việt Nam, liệu Mỹ có muốn trở lại không?
Trở lại Subic Bay đối với người Mỹ là điều dễ. Nhưng trở lại Cam Ranh ở đất nước một thời đã là thù nghịch là điều khó cho cả hai bên vì Việt Nam nay bị Trung Quốc ảnh hưởng nhiều về kinh tế và chính trị. Liệu Hoa Kỳ có muốn tạo căng thẳng, gây sứt mẻ quan hệ với Trung Quốc không?
Vì thế quan hệ Mỹ-Việt cũng ở mức chừng mực, dù gọi đó là “toàn diện” nhưng vẫn thiếu tính “chiến lược”. Chỉ cho đến khi nào lãnh đạo Hà Nội tự mình quyết tâm ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, như Myanmar đang làm, khi đó Tổng thống Obama cũng sẽ muốn đến thăm Việt Nam ngay.
Thực tế cho thấy, trong số các quốc gia khối ASEAN thì Tổng thống Obama đã thăm hết, trừ Việt Nam và Lào. Vùng Đông bắc Á ông cũng đã thăm Nhật và Nam Hàn trong chuyến công du năm 2009.
Tháng Mười Một 2012 tại Myanmar Tổng thống Obama phát biểu với sinh viên Đại học Yangon: “Các bạn đang đi theo hành trình với đầy triển vọng cho nhiều người khác bước theo.”
Ông Obama muốn nhắn với lãnh đạo Hà Nội đấy. Ông không quên lời mời và 85 triệu dân Việt đâu.
Tác giả dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California. Bài viết phản ánh cách nhìn của riêng ông.
VĂN HÓA VIỆT NAM
Tại sao trống đồng không được sử Việt cổ đề cập nhiều?
Trống đồng thường được xem là một vật biểu tượng của dân tộc Việt nam. Mới đây Tiến sĩ Lê Minh Khải từ Đại học Hawaii nêu lên vấn đề là tại sao trong sách sử cổ của người Việt rất ít đề cập đến trống đồng. Tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu ở TP HCM trao đổi vấn đề này với Kính Hòa..
Kính Hòa: Thưa bà lâu nay trống đồng được xem như một vật
tượng trưng cho dân tộc Việt Nam. Nhưng gần đây có một học giả từ Đại
học Hawaii là Tiến sĩ Lê Minh Khải có nêu một vấn đề là các sách sử biên
niên của người Việt hầu như không có ghi chép về trống đồng, tức là
người Việt xa lạ với trống đồng. Với tư cách một nhà khảo cổ, bà có nhận
xét gì về chuyện này?
TS Nguyễn Thị Hậu: Về mặt văn bản học thì nhận xét của anh Lê
Minh Khải là rất chính xác. Trong các bộ sử của chúng ta không thấy nhắc
tới trống đồng như một biểu tượng của quyền lực hay của quốc gia. Tôi
thấy đây là một góc nhìn rất hay, nó không chỉ liên quan đến một cổ vật
đẹp nhất của chúng ta là trống đồng, mà nó còn liên quan đến các vấn đề
khác như lịch sử, dân tộc, quốc gia.
Về mặt niên đại thì trống đồng có tuổi từ 2000 đến 2500 năm cách này
nay. Đây là thời kỳ có nhiều truyền thuyết liên quan đến nước Văn Lang
của vua Hùng vương.
Trong các bộ sử của chúng ta không thấy nhắc tới trống đồng như một biểu tượng của quyền lực hay của quốc gia.
- TS Nguyễn Thị Hậu
Theo các nhà ngôn ngữ học thì từ thế kỷ thứ 10 có sự tách ra hai tộc
người. Người Mường sống ở vùng cao và họ còn duy trì rất nhiều tập tục
liên quan đến trống đồng. Còn tộc người Việt, sau này là người Kinh sống
ở vùng đồng bằng và tạo nên các triều đại phong kiến của Việt Nam, thì
hầu như không có lễ hội tập tục gì liên quan đến trống đồng, thậm chí nó
không phải là 1 loại của cải có giá trị như đối với người Mường và 1 số
tộc miền núi khác.
Rồi sang thế kỷ 20 chúng ta tiếp nhận nhiều khái niệm mới như dân
tộc, quốc gia, đồng thời nhiều trống đồng được phát hiện ở vùng đồng
bằng song Hồng, cho nên có thể là phát sinh 1 nhu cầu có sự biểu trưng
cho dân tộc.
Đó là vài suy nghĩ của tôi nhân đọc bài của anh Lê Minh Khải.
Kính Hòa: Có phải là vấn đề được ông Lê Minh Khải nêu lên
sẽ đưa đến 1 câu hỏi là liệu chúng ta có phải là con cháu của những
người Đông sơn chủ nhân trống đồng hay chúng ta là một bộ tộc từ nơi
khác đến?
TS Nguyễn Thị Hậu: Theo những chứng liệu khảo cổ học thì không
thấy rằng người Việt chúng ta đến từ một nơi xa lạ nào đó, vấn đề tôi
đặt ra là giữa chúng ta và người Đông sơn, hay còn gọi là người Việt cổ
khác nhau như thế nào! Vì thời gian biến chuyển 2000 năm chắc chắn là có
nhiều sự biến đổi về tộc người, về văn hóa. Và nhất là phải nghiên cứu
việc tách ra hai tộc người Mường và Việt. Người Mường còn duy trì rất
nhiều nét của văn hóa Đông sơn, về tập tục, trang trí nhà cửa.
Kính Hòa: Trở lại vấn đề văn bản học, có phải là chúng ta
nói nhiều về trống đồng từ khi người Pháp khai quật được nhiều trống
đồng trên lãnh thổ Việt Nam?
Đúng là từ khi người Pháp phát hiện rất nhiều trống đồng ở nước ta và nhất là chiếc đẹp nhất tên là Ngọc Lũ, thì sách sử của chúng ta mới bắt đầu đề cập nhiều đến trống đồng và thời đại các vua Hùng.
- TS Nguyễn Thị Hậu
TS Nguyễn Thị Hậu: Những bộ sử trước đây như Việt Nam sử lược
của Trần Trọng Kim cũng đặt dấu hỏi về thời đại Hùng Vương như là những
huyền thoại. Việc đó là đương nhiên vì lúc ấy chúng ta chưa có chứng cứ.
Và chúng ta hiểu rằng huyền thoại không phải là lịch sử, nhưng nó có
thể chứa dựng một điều gì về lịch sử trong đó mà cần phải làm rõ.
Đúng là từ khi người Pháp phát hiện rất nhiều trống đồng ở nước ta và
nhất là chiếc đẹp nhất tên là Ngọc Lũ, thì sách sử của chúng ta mới bắt
đầu đề cập nhiều đến trống đồng và thời đại các vua Hùng. Người ta cho
trống đồng như là hiện vật tiêu biểu cho thời kỳ Đông sơn đó.
Kính Hòa: Xin hỏi câu cuối cùng là về số lượng thì có rất nhiều trống đồng được tìm thấy ở Việt Nam so với các quốc gia khác?
TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi không có số liệu thống kê mới nhất,
nhưng theo quyển Khảo cổ học Việt nam thời đại kim khí tập 2 của Viện
khảo cổ học thì chúng ta có khoảng 200 trống loại 1 chưa kể các loại gọi
là minh khí, tức là loại được làm nhỏ đi để chôn trong các ngôi mộ,
cũng không kể đến các loại trống muộn hơn như của người Mường. Về số
lượng thì như vậy chỉ đứng hàng thứ hai sau khu vực Quảng Tây của người
Choang bên Trung quốc thôi.
Kính Hòa: Xin cảm ơn TS Nguyễn thị Hậu.
Tin, bài liên quan
- Văn hóa chơi đồng hồ cổ
- Võ cổ truyền Việt Nam, ước mơ và rào cản
- Bộ tiểu thuyết Đại Gia bị thu hồi
- UNESCO: núi Phú Sĩ của Nhật là di sản văn hóa thế giới
- Văn hóa tranh luận
- Văn hóa tranh luận
- Linh Lê và Người Tình Sài Gòn
- Linh Lê và "Người tình Sài Gòn"
- Tết ba miền
- http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bronze-drums-in-history-kh-09202013141745.html
Vẽ truyền thần và ký họa, nghệ thuật và cơm áo
Mất tính phổ biến
Vẽ truyền thần hay ký họa, xét trên chừng mực và ý nghĩa nào đó, đây
là một nghệ thuật, một nhánh nhỏ trong mỹ thuật. Những năm trước 1975,
vẽ truyền thần và ký họa rất phổ biến và luôn giữ ngôi quán quân trong
nghệ thuật đường phố cũng như nghệ thuật sa-lon. Nhưng những năm năm gần
đây, hai mảng nghệ thuật này gần như bị bỏ quên, tính phổ biến bị mất
hẳn và tinh hoa của nó cũng bị mai mọt rất nhiều.
Một họa sĩ trẻ tên Hiệp, hiện đang làm chuyên viên thiết kế thời
trang và tư vấn trang trí nội thất tại Sài Gòn, đã chia sẻ với chúng
tôi: Nếu trở thành một nghề mưu sinh thì cũng tốt, nhưng nó rất chọn nơi
mình làm việc, nghĩa là những nơi đó có những người không phải bản xứ,
họ đi du lịch, họ muốn mang hình ảnh trong thời khắc họ ở địa phương đó
về họ mới quý thôi, những nơi du lịch sẽ phát triển tốt hơn. Vấn đề vẽ
truyền thần mang tính chất có khiếu hơn vì khi người vẽ có khiếu và một
người vẽ như máy, tức là thợ vẽ. Khi một người có khiếu vẽ thì mười cái
giống nhau mười cái, một thợ vẽ cũng vậy nhưng khác nhau ở chỗ người vẽ
truyền thần sẽ tạo nên cái hồn hơn. Người vẽ truyền thần sẽ nắm bắt đặc
điểm riêng, thể hiện cái hồn riêng, cái chân dung con người trong khoảnh
khắc đó tốt hơn.
Hiệp cho biết thêm là trước đây, trong thời gian còn học ở đại học mỹ
thuật Sài Gòn, anh học rất khá môn ký họa, kĩ thuật bắt nét và truyền
thần của anh thuộc vào diện xuất sắc. Nhưng không bao lâu sau đó, anh
không còn đất để dụng võ, thi thoảng vẽ chơi vài người bạn, thậm chí có
nhiều người bạn lấy làm khó chịu khi anh nhờ họ ngồi giữ tư thế tĩnh
trong vòng mươi phút. Cuối cùng, sau khi làm việc ở công ty vài tháng,
anh quyết định tranh thủ những giờ rảnh hoặc những kỳ nghỉ để đi thực tế
sáng tác, trong đó có phần ngồi ký họa chân dung và vẽ truyền thần cho
khách qua đường.
Một nữ sinh viên đang học năm cuối đại học mỹ thuật Sài Gòn chia sẻ
với chúng tôi rằng cô luôn tìm thấy sự thích thú trong nghệ thuật vẽ
truyền thần cũng như ký họa chân dung. Bởi đây là loại hình nghệ thuật
thuộc về khoảnh khắc và chớp bắt khoảnh khắc. Hay nói cách khác là người
họa sĩ phải bằng một cách nào đó chuyển hóa khoảnh khắc thoáng qua trở
thành dấu ấn có tính vĩnh cửu.
Ví dụ như trong cuộc đời, con người có thể đi qua nhiều nơi, chụp
nhiều bức ảnh làm kỉ niệm nơi mình đi qua. Nhưng, tất cả những bức ảnh
này chỉ có thể ghi lại những hình ảnh khách quan của con người qua lăng
kính, nó không cho thấy cảm xúc từ một cái nhìn thứ ba, nhưng ký họa và
vẽ truyền thần thì đạt được điểm này.
Và hơn hết, ký họa và vẽ truyền thần luôn cần độ tĩnh không của tâm
hồn để qua đó, họa sĩ nắm bắt những đường nét cơ bản, nổi trội mà phác
họa, ký họa. Rất tiếc, những thao tác này gặp trở ngại rất lớn trong
thời gian gần đây, mà theo cô nhận định là do tình hình kinh tế trì trệ,
tình hình chính trị đất nước rối ren đã dẫn đến thân tâm con người bất
an, từ người ngồi vẽ cho đến người vẽ.
Dễ mà khó, khó mà dễ
Một sinh viên mỹ thuật Sài Gòn, gốc Huế, tên Hùng, chia sẻ thêm với
chúng tôi rằng không có môn gì dễ mà khó, khó mà dễ giống như ký họa và
vẽ truyền thần. Thường thì các lớp sinh viên mỹ thuật càng về sau càng
được đào tạo kỹ lưỡng hơn về nghệ thuật mô phỏng nhân thể, còn gọi là
môn phẫu thuật hình thể. Nhưng nghiệt nỗi, càng về sau, các họa sĩ trẻ
càng thất bại hơn các đàn anh về ký họa và vẽ truyền thần.
Anh cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là các thế hệ
đàn anh dù sao cũng có độ tĩnh lặng trong tâm hồn cao hơn các thế hệ về
sau. Hầu như tính dấn thân vì nghệ thuật của họ cũng cao hơn, họ không
bị chi phối bởi sức ép học phí, cơm áo gạo tiền hoặc sự thôi thúc làm
giàu, đi làm thêm, chay sô ở các phòng chép tranh… Chính vì thế, họ chín
chắn và tử tế với nghề nghiệp, với nghệ thuật hơn.
Phần lớn các sinh viên mỹ thuật khi ra trường, nếu có khả năng và đam
mê về ký họa, vẽ truyền thần thường chọn các hội chợ, triển lãm, tổ
chức thành nhóm năm người, mười người và trưng bảng quảng cáo để tìm
khách đến vẽ, mỗi bức có giá từ vài chục ngàn đồng đến 150 ngàn đồng,
tùy vào khổ giấy lớn hay nhỏ.
Uyên, sinh viên vừa tốt nghiệp ngành tranh lụa ở đại học mỹ thuật Sài
Gòn than thở với chúng tôi rằng cô thật sự thấy lo lắng cho tương lai,
vì nhiều bạn sinh viên cùng lứa với cô cũng học rất giỏi, năng khiếu vẽ
truyền thần và ký họa chẳng thua kém ai. Thế nhưng khi ra trường, thất
nghiệp dài dài, cuối cùng phải xin vào các phòng văn hóa cấp huyện để
làm việc, để vẽ tranh cổ động, cắt chữ và thỉnh thoảng vẽ tranh Hồ Chí
Minh theo kiểu ký họa trên các pano, aphich… Quá trình học tập trong
trường mỹ thuật được đánh đổi bằng một khoản tiền đút lót để xin việc và
cuối cùng là được vẽ chân dung Hồ Chí Minh. Có lẽ chính vì cách làm
việc ngược đời, giết chết sáng tạo này đã dẫn đến tình trạng bế tắc của
phần đông sinh viên mỹ thuật Việt Nam.
Họ chỉ còn một lựa chọn duy nhất là ra đường vẽ dạo, vào hội chợ,
triển lãm để thi triển tài năng. Khoảng thời gian còn lại thì tập trung
làm thuê ở đâu đó và chép tranh thuê… Những gì được học trên đường trả
lại cho thầy cô.
Uyên nói thêm, rằng dẫu sao, vài năm trở lại đây, nhận thấy các bạn
rủ nhau đi thành từng nhóm lang thang rày đây mai đó để vừa sáng tác,
vừa vẽ chân dung thuê kiếm tiền, chấp nhận dấn thân cho công việc mặc dù
cuộc sống xã hội quá sức chộn rộn đã làm cho chất lượng nghệ thuật của
họ sút kém quá xa so với các đàn anh. Có còn hơn không!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam. Tin, bài liên quan
- Họa sĩ TQ vẽ tranh những người Tây Tạng tự thiêu
- Cảnh sát Pháp bắt người đòi lấy đầu BTV tạp chí Charlie Hebdo
- Họa sĩ Đào Anh Khánh
- Curator – Họa sĩ Trần Lương
- Steve Jobs đem thẩm mỹ vào sản phẩm
- Trung Quốc: nhà tranh đấu Ngãi Vị Vị được tại ngoại
- Trung Quốc: ông Ngải Vị Vị đã được phép gặp vợ lần đầu tiên
NGUYỄN THIÊN THỤ * CÁC CHÙA Ở HUẾ
CÁC CHÙA Ở HUẾ
1. CHÙA TỪ ĐÀM
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế; hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung[1] khai sơn vào khoảng năm 1690 [2], và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn (hay Tông), với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ"[3].
Năm 1702, nhà sư Liễu Quán (về sau cũng là một cao tăng) đến chùa, xin tham học với Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung[4]
Năm 1703, Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung cho trùng tu chùa. Cũng trong năm này, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc Tứ Ấn Tôn Tự. Sau khi Sư viên tịch, theo lời phó chúc, học trò của Sư là Thiền sư Thiệt Vinh - Bửu Hạnh làm Trụ trì chùa[5].
Năm 1802, nhà Tây Sơn bị đánh đổ. Khi ấy, vì thời gian và vì chiến tranh, chùa Ấn Tôn bị hư hại nặng như nhiều ngôi chùa khác trong vùng [6]. Tuy nhiên, mãi đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thiền sư Đạo Trung - Trọng Nghĩa mới có thể tổ chức trùng tu chùa[7].
Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm (do kỵ húy tên vua là Miên Tông) [7], với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp" [8].Từ những năm 1920 trở về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền. Trong quãng thời gian ấy, chùa Từ Đàm là trung tâm của phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Kỳ[10].
Ban đầu, chùa Từ Đàm chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng cây lá, sau nhiều lần trùng tu mới có diện mạo như ngày nay.
Cổng tam quan được xây dựng năm 1965 (ảnh 2). Bên phải sân (từ cổng nhìn vào) là cội bồ đề có nguồn từ cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ (tức nơi Phật Thích Ca thành đạo)[15].
Ngôi chính điện chùa cũ gồm ba gian, lợp ngói, rộng 7,4 m, dài 18 m, và mặt tiền ngó về hướng Đông Nam [16]. Đến ngày 4 tháng 7 năm 2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện, và khánh thành vào sáng ngày 30 tháng 3 năm 2010. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, gồm hai phần (dưới là tầng hầm làm hội trường, trên là ngôi chánh điện), được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bện có lầu chuông, lầu trống. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế (ảnh 1)[17]. Sau đó, Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi (24 tháng 12 năm 2007).
Chính điện chùa Từ Đàm vừa được trùng tu xong
Toàn cảnh các gian thờ Phật bên trong Chính điện
Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (tượng cũ)
Tháp 7 tầng ở sân chùa
Ngày 6 tháng Giêng năm Mậu Tý (12 tháng 2 năm 2008), tháp Ấn Tôn 7 tầng (mỗi tầng thờ một tượng Phật bằng đồng) cao 27 m (ảnh 3) cũng được khởi công xây dựng ở sân chùa (từ cổng nhìn vào ở phía trái), và khánh thành ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (30 tháng 3 năm 2010) [18].
Ngoài ra, phía bên phải sân chùa (từ cổng nhìn vào) là Hội quán rộng
lớn, gồm 10 gian phòng, cao 2 tầng. Tầng dưới của Hội quán hiện được
dùng làm Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế.
2. CHÙA BÁO QUỐC
Chùa Báo Quốc tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố
Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự, do Thiền sư
Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm
1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự"
có ghi dòng chữ: "Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề".
Chùa được xây dựng theo kiểu chữ "Khẩu-口” trên đồi Ham Long rộng
khoảng 2 hecta. Qua khỏi cổng tam quan cổ kính là một khoản sân đất có
hai hàng cổ nhãn uy nghi tiếp đến là khoảng sân trên trồng nhiều cây
tùng có lan can bao bọc.
Vào thời Tây Sơn, chùa đã bị chiếm đóng và trưng dụng làm kho chứa
diêm tiêu. Sau đó vào năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi
chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh và đổi tên là chùa
Hàm Long Thiên Thọ tự và mời thiền sư Phổ Tịnh làm trụ trì.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc tứ tên "Báo Quốc Tự".
Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ Vạn thọ tứ tuần đại
khánh vào năm 1830. Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, vua Tự Đức
và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công
trình khác.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa đã có
nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, trường
Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa. Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật
giáo cũng lại được mở tại đây. Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và
Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích
Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có
những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi
tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính nói riêng.
Từ năm 1959 đến trước 1975 trường trung tiểu học tư thục Bồ Đề Hàm
Long ra đời, đây là một ngôi trường đã lưu dấu nhiều kỷ niệm đẹp của bao
thế hệ học trò là Tăng, Ni và Phật tử Huế. Ngày nay, tên trường Hàm
Long chỉ còn là một tấm bản rêu phong ngay ngã ba Điện Biên Phủ-Báo
Quốc, là dấu tích một thời cũng là kỷ niệm ngọt ngào như nước giếng Hàm
Long.
Giếng Hàm Long (tên chữ là Hàm Long Tĩnh), theo bia “Hàm Long Tỉnh”
thì Giếng Hàm Long nằm ngay dưới chân đồi Hàm Long xuất hiện cùng thời
với Hoà thượng Giác Phong khai sơn (khoảng năm 1674). Giếng có một mạch
nước theo lỗ đá phun ra như vòi rồng, có nước trong, thơm và ngọt. Nước
giếng này sau đó được tiến dâng lên các Chúa, còn người dân thì tuyệt
đối không được phép dùng, từ đó nó trở thành một giếng thiêng, giếng
cấm: cho nên mới có câu ca dao:
Nước Hàm Long đã trong lại ngọt
Em thương anh rày có bụt chứng tri.
3. CHÙA DIỆU ĐẾ
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế
gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch
Đằng, gần cầu Gia Hội.
Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Tam quan chùa Diệu Đế
Diệu Ðế là ngôi quốc tự thứ ba, được vua Thiệu Trị coi là một trong hai mươi thắng cảnh của đất kinh đô Huế.Chùa
được vua Thiệu Trị truyền lệnh xây dựng với qui mô lớn vào các năm
1842, 1844 khi mới lên ngôi vài năm, trên vùng đất nhà vua đã ra đời.
Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng
chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần
chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải
là đường chùa Ông. Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô. Tuy không đẹp
bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu
(hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia).
Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện
dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu
chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân
trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng
chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn. Hệ
thống La Thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có
Phượng Môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền
khoảng mười bậc lên xuống.
Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ...về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.
4. CHÙA QUỐC ẤN
Chùa Quốc Ân (寺恩國) là một trong những ngôi tổ đình danh tiếng và lâu đời bậc nhất tại cố đô Huế. Hiện tại chùa Quốc Ân vẫn còn bảo lưu nhiều dấu ấn văn hóa Phật giáo trong các thời kỳ từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và Huế ngày nay.Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông, do tổ sư Tạ Nguyên Thiều khai sơn vào khoảng những năm 1682-1684 với tên ban đầu là thảo am Vĩnh Ân.
Tổ sư Nguyên Thiều, pháp tự là Hoán Bích, người ở Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc sang hoằng hóa ở Việt Nam vào năm 1677 ở tại phủ Quy Ninh (nay là Bình Định) lập chùa Thập Tháp-Di Đà.Vào khoảng năm 1682-1684, dưới thời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) sư Nguyên Thiều ra Phú Xuân ở xứ Thuận Hóa, sư chọn chân đồi Hòn Thiên (chân núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân và tháp Phổ Đồng. Chúa Nguyễn Phúc Tần đóng góp ngân khoản xây chùa.
Quốc Ân Tự
Sư Nguyên Thiều là người được chúa Nguyễn Phúc Thái trọng vọng, năm 1689, chúa cho miễn thuế đất và đổi hiệu chùa là Quốc Ân và ban tấm biển "Sắc tứ Quốc Ân Tự".[2]
Toàn cảnh chùa
Khuôn viên chùa rộng khoảng 5.000m2, trong đó diện tích xây dựng khoảng 550m2.
Chùa kiến trúc theo kiểu chữ khẩu truyền thống, tam quan quay hướng Tây
Nam gồm 4 trụ. Vào cổng, qua khoảng sân rộng là chính điện. Bên phải
sân có tấm bia kích thước (1.6 x 0.725 x 0.07)m do chúa Nguyễn Phúc Chu
ghi bài minh tựa đề "Sắc tứ Hà Trung Tự Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh"
dựng vào tháng 4 năm Bảo Thái thứ 10 (năm 1730). Cạnh bia là 2 am thờ Thiên Y A Na và am thờ Ngũ Hành
Tiền đường chánh điện dài 12m, sâu 22m.[4]
Một góc khuôn viên chùa
Gian bên trái thờ Bồ Tát Quan Thế Âm, hai bên là Hộ pháp, phía trước thờ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Vân Trường, các tượng khí này đều do Tổ Nguyên Thiều mang đến từ Trung Hoa. Hậu liêu thờ chân dung Tổ Nguyên Thiều và nhiều long vị của chư tổ và chư vị trú trì kế thế..
Chùa Thiên Mụ (��天姥) hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.
Người dân địa phương cho Nguyễn Hoàng biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.
Chính điện
Tháp Phước Duyên
Trong chùa Thiên Mụ có tháp Phước Duyên, cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng.
Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe
Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện
quay khi gió thổi).
Trận bão năm 1904
đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình
Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái
cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai
bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên
trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc
đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
6. CHÙA THUYỀN TÔN
Chùa Thuyền Tôn là một tổ đình lớn ở Huế, lúc đầu chỉ là một am tu của ngài Liễu Quán được dựng vào khoảng năm 1708 ở núi Thiên Thai, ngày nay thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thuỷ An. Tổ Liễu Quán quê ở Phú Yên, ra Thuận Hoá tầm sư học đạo. Ngài đã tham học với ngài Giác Phong, chùa Báo Quốc, ngài Thạch Liêm chùa Thiên Mụ, và ngài Tử Dung, chùa Ấn Tôn (các vị này đều từ Trung Quốc sang), và sau khi đắc pháp với ngài Tử Dung đã khai sinh thiền phái Lâm Tế - Liễu Quán, một dòng thiền có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Huế, cả miền Trung và nhiều vùng trong Nam, với nhiều danh tăng thuộc nhiều thế hệ đắc pháp và một sự nghiệp hoằng pháp độ sanh rất lớn.
Trong thế kỷ 20, ngài Giác Nhiên thuộc đời thứ 8
dòng thiền Liễu Quán, là người có công chấn hưng Phật Giáo, đồng sáng
lập An Nam Phật Học Hội, Viên Âm Nguyệt San, lập trường đại học Phật
Giáo ở chùa Tây Thiên, góp phần đào tạo các vị cao tăng như Thích Trí
Thủ, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Nguyệt, Thích Mật Hiển, và hai vị từ trong
nam về sau trở thành danh tăng là Thích Thiện Hoa và Thích Thiện Hoà.
Ngài Giác Nhiên được cung thỉnh làm Tăng Tống thứ hai của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngài viên tịch năm 1979 lúc 102 tuổi. Chùa
cũng được trùng tu nhiều lần để thành một ngôi chùa rất lớn với trụ
biểu, chánh điện uy nghi. Đợt trùng tu gần đây nhất là do Hoà Thượng
Thích Thiện Siêu, trụ trì chùa Thuyền Tôn (kiêm trú trì chùa Từ Đàm)
thực hiện.
Chùa Thuyền Tôn
7. CHÙA TỪ HIẾU
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Năm 1843, sau khi từ chức "Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự" và trao quyền điều hành chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, Hoà thượng Nhất Ðịnh đã đến đây khai sơn, dựng "Thảo Am An Dưỡng" để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già [1].
Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, thiền sư vẫn chống gậy băng rừng lội bộ xuống chợ cách đó hơn 5 km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ già ăn.
Câu chuyện vang đến tai Tự Đức vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá trình xây dựng chùa giải thích:
- Từ: là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại.
- Hiếu: là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời.
- Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi của
phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe
nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896
dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa
được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường
lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá
cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ
Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa
được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước
thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức
thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị
Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là
Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Hồ bán nguyệt
Lăng mộ Hoạn quan Nhà Nguyễn"trong khuôn viên chùaXung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây trở thành thắng cảnh ở nơi ngoại ô điền dã của dân thành phố Huế.
Xin đọc
NGUYỄN THIÊN-THỤ * NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 280
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM =KIM VÂN KIỀU = BÙI GIÁNG =THƠ SƠN TRUNG
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
Giá trị thật của “Nhạc sến”
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-09-21
Mới đây hai nhạc sĩ có tiếng của Việt Nam là Huy Tuấn và Quốc Trung khi được báo chí phỏng vấn về đề tài “nhạc sến” đã có những phát biểu làm dư luận ồn ào nếu không muốn nói là nổi giận.
Đắm đuối nhạc sến là bất thường?
Trong khi Huy Tuấn cho rằng ca sĩ đua nhau hát nhạc sến là a dua,
thiếu nhận thức thì theo trang VTC Online nhạc sỹ Quốc Trung lại khẳng
định: “thanh niên mà đắm đuối với nhạc sến là điều bất thường” và xa hơn
nữa nhạc sĩ này cho rằng nhạc sến là thị trường cấp thấp và ca sĩ không
nên theo.
Những bình luận, ý kiến này làm người yêu mến dòng nhạc bình dân nổi
giận, họ cảm thấy bị xúc phạm. Phải chăng dòng nhạc bị gán cái tên tương
đối khiếm nhã này có đáng bị gọi như vậy hay không và khi nó đã đi vào
quảng đại quần chúng thì giá trị thật nó nằm ở chỗ nào?
Trước nhất thử tìm hiểu chữ “sến” và ý nghĩa thật của nó.
Sự thật hai chữ nhạc sến phát suất từ Nhạc sĩ Phạm Duy, ông chỉ nói đùa thôi vì hồi trước 75 những bản nhạc mà người ta gọi là nhạc sến ngày nay hồi đó người ta gọi là nhạc phổ thông.
-Ca sĩ Chế Linh
Hầu hết tự điển tiếng Việt đều viết chữ sến là một dạng thảo mộc, một
họ cây thông dụng mà gỗ của nó dùng đóng thuyền rất tốt. Ý nghĩa này
không áp dụng vào chữ sến với nghĩa ngầm, ẩn dụ của nó.
Tìm kiếm xa hơn người ta có thể tạm tin vào sự giải thích cho rằng
chữ sến có nguồn gốc từ chữ Mari Sến, xuất phát từ chữ con sen, người ở
vào thời kỳ Pháp thuộc. Con sen với thân phận thấp hèn nhưng vì sống
trong gia đình của một anh thực dân nên nhiễm thói sang cả nhố nhăng nên
thêm hai tiếng Mari phía trước.
Cách giải thích này được phổ biến trong ngữ cảnh miêu tả sinh hoạt từ
tinh thần lẫn vật chất của những kẻ thấp hèn, dưới đáy xã hội. Sinh
hoạt tinh thần như âm nhạc, chẳng hạn, của họ do đó không thể so sánh
với các thưởng lãm thẩm mỹ của giới cao hơn như sinh viên, trí thức hay
kẻ giàu có….thành kiến này khởi đầu từ đâu và vì sao thì cho đến nay
chưa có một cuộc nghiên cứu điều tra xã hội học sâu rộng nào chứng minh
điều đó.
Một khẳng định khác về hai chữ “nhạc sến” được cho là từ nhạc sĩ Phạm
Duy mà ra. Ca sĩ Chế Linh, cũng là nhạc sĩ hàng đầu trong giòng nhạc
sến với bút danh Tú Nhi kể lại câu chuyện ít người biết này:
Nhạc sĩ Phạm Duy tại một ruộng lúa ở vùng Lạng Sơn năm 2007. Photo courtesy of phamduy2010.com
“Sự thật hai chữ nhạc sến phát suất từ ông Phạm Duy. Nhạc sĩ Phạm
Duy chỉ nói đùa thôi vì hồi trước 75 những bản nhạc mà người ta gọi là
nhạc sến ngày nay hồi đó người ta gọi là nhạc phổ thông. Nhạc sĩ Phạm
Duy thấy loại nhạc này rất thịnh hành nên thử làm một bài có tên “Sức mấy
mà buồn” và một thời sinh viên học sinh họ phản đối dữ dội lắm. Ông
Phạm Duy có nói một câu vào lúc 12 giờ 20 phút tại nhà hàng Thanh Thế
lúc đó có Châu Kỳ có Trúc Phương, có anh Mạnh Phát, anh Minh Phát và anh
Hoài Linh cùng anh Đặng Tấn. Lúc ấy nhạc dĩ Phạm Duy đọc báo ông ấy
thấy nhạc phổ thông thịnh hành quá sức ông ấy nói đùa “Ối giời ôi, cái
nhạc sến thế mà nó ăn thế!” Từ đó anh Đặng Tấn là nhà văn mới viết lên
và hai chữ “nhạc sến” ra đời.”
Dù sao thì cái thành kiến về nhạc sến chưa bao giờ phai trong lòng
những người không thích nghe loại nhạc này. Con số không thích tuy không
lớn nhưng vẫn hiện hữu và lâu lâu từ đấy nổi lên cuộc tranh cãi không
có hồi kết thúc.
Tùy sự cảm nhận của mỗi người
Có lẽ nhạc sến nổi lên mạnh mẽ nhất từ giữa thập niên 60 khi chiến
tranh Việt Nam ngày một nóng hơn và âm nhạc cũng biến chuyển theo giòng
thời sự. Nhạc sến ra đời qua những ca khúc nói về người lính, về em gái
hậu phương hay sự chia tay đầy nước mắt của những cặp tình nhân trong
thời buổi loạn ly. Những ca khúc quê hương cũng song hành với giòng nhạc
lính. Âm hưởng đồng bằng sông Cửu long và những sinh hoạt đồng áng của
người dân được viết với giai điệu cho lớp bình dân, khỏe khoắn, nhanh
nhẹn, hồn nhiên và đầy sức sống khiến cho nhạc sến đa dạng hơn và từ đó
nhanh chóng lôi kéo một số đông thính giả nhiều giới, tuy nhiên bình dân
vẫn chiếm đa số.
Người ta cứ lấy tôi ra làm chuyện chê bai nhạc sến nhạc xưa họ cố tình hiểu sai để dư luận như thế chứ tôi đâu có nhận xét gì hay phán xét gì về nhạc sến nhạc xưa….
-Nhạc sĩ Quốc Trung
Không phải là giới bình dân nhưng nhà báo Đinh Quang Anh Thái lại là
người yêu nhạc sến một cách cuồng nhiệt, ông cho biết kinh nghiệm thưởng
thức của mình về loại nhạc này:
“Những bản nhạc Bolero mà chúng ta hay nói rằng giới bình dân, tức
là giới đông đảo người Việt Nam nghe thì cá nhân tôi rất thích giòng
nhạc Bolero đó và thậm chí có thể hát thuộc lòng cả trăm bài Bolero bởi
vì nó là loại nhạc ảnh hưởng một cách lạ lùng đối với cá nhân tôi về mặt
giai điệu đó là chưa kể rất nhiều những ca từ của giòng nhạc Bolero
trước năm 1975 rất hay cho nên phải nói rằng sự gắn bó tới giờ phút này
vẫn còn.”
Trước luận cứ cho rằng nhạc sến sẽ làm hư hỏng thế hệ thanh niên vì
nó ủy mị sướt mướt và làm cho cảm nhận thẩm mỹ của họ xuống dốc, nhạc sĩ
Tuấn Khanh, người nhiều lần ngồi ghế giám khảo trong các kỳ thi âm nhạc
cho biết quan điểm của anh:
“Gần đây có một nhận định cho rằng nhạc sến có thề làm hư hỏng tâm
lý của một bộ phận thanh niên Việt Nam. Thực sự đó là cái giòng suy
nghĩ nó mang đầy cảm tính hơn là nghiên cứu khoa học. Hơn nữa việc mang
đầy cảm tính này nó lại nghiêng về phía của những người không đủ sự hiều
biết nhạc sến là gì và sức sống của nó ở miền Nam như thế nào. Ngay lập
tức người ta có thể hiểu rằng những người này không sinh sống ở miền
Nam và cũng chưa bao giờ được thụ hưởng nền văn hóa miền Nam.
Sau năm 1975 nhạc sến thật sự được nhiều vùng tại miền Bắc từ vĩ
tuyến 17 trở đi mới được thưởng thức nhiều hơn chứ trước đó thì họ được
nghe rất ít. Vời sự cảm nhận gần như chịu thau thiệt với người miền Nam
gần 50 năm kể từ năm 54 thì việc không hiều biết và cảm nhận được nó là
lẽ đương nhiên. Câu nói đó và nhận định đó không phản ảnh hết tâm trạng
và nguyện vọng của rất nhiều triệu người miền Nam, kể cả những người
miền Bắc lúc này cũng đã bắt dầu thưởng thức và cảm thấy hứng thú với
nó.”
Nhạc sĩ Quốc Trung. Photo courtesy of Quốc Trung FC.
Quay trở lại với nhạc sĩ Quốc Trung người được báo chí phỏng vấn và trả lời rằng “nhạc sến có chỗ đứng trong lịch sử và sự phát triển của âm nhạc Việt Nam nhưng nếu nó vẫn chiếm đa phần và lấn át trong đời sống âm nhạc thì đó là điều nguy hiểm không chỉ cho âm nhạc mà còn cho xã hội”.
Khi chúng tôi muốn biết sự thật về những câu trả lời này nhạc sĩ Quốc Trung cho biết:
“Những bài báo mà người ta nói rằng lời của Quốc Trung nói là suy
diễn và họ đăng sai chứ không phải tôi nói trong bài phỏng vấn. Người ta
cứ lấy tôi ra làm chuyện chê bai nhạc sến nhạc xưa họ cố tình hiểu sai
để dư luận như thế chứ tôi đâu có nhận xét gì hay phán xét gì về nhạc
sến nhạc xưa….
Trung chỉ nói, thứ nhất những việc làm dụng những bài hát nhạc xưa
thì nó không tốt cho sự phát triển nhạc mới thì họ lại nói Quốc Trung
bảo rằng nhạc xưa kìm hãm sự phát triển của nhạc Việt là không đúng. Tôi
nói là sự “lạm dụng” thế thì nó khác. Cái từ thứ hai trong bài báo thì
phóng viên người ta nói nhạc sến là thị trường cấp thấp. Thứ nhất tôi
không nói nhạc sến là nhạc thấp cấp hay chê bai gì cả. Thứ hai tôi nói
là thị trường đúng nghĩa thì nó có những dòng nhạc riêng phát triển đồng
đều chứ không phải như Việt Nam. Không phải là như họ suy diễn. Ngay cả
những tựa đề hay câu trích dẫn đều sai hết.”
Trong thời gian gần đây khi quay trở lại Việt Nam trình diễn người
nhạc sĩ lẫn ca sĩ dẫn đầu nhạc sến của Việt Nam cho biết khán giả vẫn ái
mộ giòng nhạc được gọi là sến này từ Nam chí Bắc. Ca sĩ Chế Linh kể
lại:
“Khi đi về Việt Nam Chế Linh cũng chỉ dùng lại những bài như Thành
phố buồn, Mười năm tình cũ, Tình như mây khói, Thói đời cũng như một số
những bài hát tiêu biểu và ăn khách nhất hồi xưa. Một lần hát như vậy
khoảng 30 bài. Đa số ở Việt Nam hiện nay họ vẫn tiếp tục hát giòng nhạc
này.”
Âm nhạc ra đời và lớn lên cùng với sự phát triển của xã hội. Âm nhạc
phản ảnh bức tranh đời sống của từng thời kỳ lịch sử của bất cứ dân tộc
nào. Rồi đây một thời gian về sau khi nghe dòng nhạc hiện đang lưu hành
trong nước người ta e rằng không có một dấu ấn nào đáng ghi nhận kể cả
những gì bị xem là thấp kém, thiếu trình độ thẩm mỹ mặc dù chúng được
quảng đại quần chúng yêu thích.
Điều này cho phép người yêu nhạc sến yên tâm thưởng thức những gì mà
họ yêu thích bất kể do kỷ niệm mà ra hay do cảm nhận của từng cá nhân
thích hợp với từng bản nhạc mà ca từ và giai điệu của nó mở được cánh
cửa sâu nhất trong tâm hồn mỗi người.
Tin, bài liên quan
- Giá trị thật của “Nhạc sến”
- Những dòng nham thạch trong thơ Chiêu Anh
- Những dòng nham thạch trong thơ Chiêu Anh
- Nhạc sĩ Nguyễn Hồng Thuận
- Nhạc sĩ Nguyễn Hồng Thuận
- Nhóm “Mở Miệng”: lịch sử văn học đẫm máu sắp lập lại?
- Nhóm “Mở Miệng”: lịch sử văn học đẫm máu sắp lập lại?
- Những bài thơ yêu nước được sáng tác trong tù
- Những bài thơ yêu nước được sáng tác trong tù
Danh phẩm Kim Vân Kiều lên sân khấu Trung Hoa
Thành công trên sân khấu
Tác phẩm Kim Vân Kiều của đại thi hào Nguyễn Du từng được đưa lên sân
khấu thời thập niên 1930, được cả giới bình dân lẫn trí thức thời đó đi
coi, và có người nói rằng đây là vở hát mà cốt truyện vượt mọi không
gian và thời gian. Cũng trong thời kỳ này hãng phim Pháp Indochine Films
et Cinemas đưa Kim Vân Kiều lên màn bạc, với các tài tử là đào kép cải
lương ở rạp Quảng Lạc, Hà Nội. Phần diễn xuất chẳng khác hơn ở sân khấu,
đào kép ăn mặc rườm rà như hát bội, cử chỉ như hát tuồng, cũng như có
những sai lằm về nội dung nên phim bị thất bại.
Tuy thất bại bên điện ảnh, nhưng phía sân khấu thì thành công vượt
bực, những cô đào nổi tiếng hầu như đều có đóng vai Thúy Kiều. Lớp nghệ
sĩ tiền phong thì có các cô Năm Phỉ, Phùng Há, Sáu Nết, Thanh Loan và
lớp thế hệ sau có Bạch Tuyết, Mộng Tuyền...
Đoàn Kim Chung được thành lập ngoài Bắc, và đào Kim Chung trong vai
Thúy Kiều được hoan nghinh nhiệt liệt. Thời đó từ Bắc chí Nam hễ nói đến
cải lương trình diễn vở hát Kim Vân Kiều, là khách mộ điệu không thể
nào quên được đào Kim Chung trong vai trò hồng nhan đa truân ấy. Người
ta nói hát Kiều mà không có Kim Chung kể như không có gì lý thú nữa để
mà xem. Trong hơn 20 năm trời Kim Chung lẫy lừng danh tiếng với điển
hình ký thác của cụ Nguyễn Du.
Không phải chỉ nghệ thuật Việt Nam khai thác danh tác của cụ Nguyễn
Du, mà nghệ thuật màn bạc Trung Hoa cũng khai thác. Đầu thập niên 1950,
hãng phim Tàu ở Hồng Kông đưa truyện Kiều lên màn ảnh rộng lần thứ hai,
do cô đào Hồng Tuyến Nữ đóng vai Thúy Kiều, và kép Mã Sư Tăng vai Kim
Trọng, và lần này thì thành công to. Sau thời gian chiếu ở Hồng Kông với
số thu kỷ lục, khoảng năm 1954 phim được mang sang Việt Nam chiếu để
hốt bạc tiếp. Phim cũng được các Chú Ba ở Chợ Lớn nhiệt liệt hoan nghinh
Thúy Kiều Hồng Tuyến Nữ, chiếu suốt một tuần khán giả vẫn đông nghẹt
rạp.
Thừa thắng xông lên, chủ rạp cử người đi Hồng Kông mời gánh hát Đại
Kim Long, tức gánh có đôi nam nữ nghệ sĩ nói trên sang hát ở Chợ Lớn để
ăn thêm. Bởi chủ rạp biết chắc rằng cặp Mã Sư Tăng – Hồng Tuyến Nữ xuất
hiện bằng xương bằng thịt thì sẽ thu hút khán giả nhiều hơn chiếu phim
gấp bội.
Khán giả người Hoa ở Chợ Lớn rất quen thuộc và ái mộ Hồng Tuyến Nữ –
Mã Sư Tăng, do bởi trước đó khoảng 1949 – 1950 cặp tài danh sân khấu ở
Hông Kông này được giới tài phiệt người Hoa ở Chợ Lớn mời sang trình
diễn. Và nhân cơ hội này, cặp nam nữ nghệ sĩ ở Hồng Kông đã đến hội quán
Hội Nghệ Sĩ để tìm hiểu sinh hoạt của nghệ sĩ sân khấu ở đây. Ban Chấp
Hành đương nhiệm lúc bấy giờ do ông huyện Trần Khiêm Cung (hội trưởng),
nghệ sĩ Năm Châu (phó hội trưởng) và ông Nguyễn Văn Chỉ (tổng thư ký) đã
vội vã báo tin cho hầu hết các gánh hát đang hoạt động ở Sài Gòn, Chợ
Lớn, Gia Định và phụ cận biết để chuẩn bị cho buổi đón tiếp.
Rồi thì tiệc liên quan được tổ chức, cuộc trao đổi kinh nghiệm sân
khấu được diễn ra, và nhân cơ hội ngàn năm một thuở này, Mã Sư Tăng đã
lưu lại cho Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu một bức tranh lụa và một cặp liển do
chính tay mình đề họa chỉ bằng đầu ngón tay mà thôi. Đây là một kỷ vật
coi như vô giá giữa mối tình văn nghệ Việt – Hoa còn lưu lại, mà các
nghệ sĩ sau này ít ai để ý đến tác phẩm nghệ thuật nói trên, thậm chí có
người không hề biết do đâu mà nhà Hội lại có cặp liển này.
Sự hiếu khách của Hội lúc đó đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, mà
đường lối chủ trương đã có từ buổi ban đầu, qua việc ngày khánh thành
trụ sở của Hội, Ban Chấp Hành nhiệm kỳ đầu tiên đã đánh điện mời các
nghệ sĩ, bầu gánh, soạn giả miền Bắc vào tham dự. Và lần này khi được
tin Mã Sư Tăng và Hồng Tuyến Nữ đến thăm, tức thì những người trong Ban
Chấp Hành đã không bỏ lỡ cơ hội tạo sự đoàn kết, nên kịp thời thông báo
sự việc cho hầu hết anh chị em nghệ sĩ, thành ra hôm bữa đón tiếp có rất
đông nghệ sĩ cải lương.
Gánh Đại Kim Long
Trở lại sự việc rạp hát ở Chợ Lớn mời đoàn Đại Kim Long sang Việt Nam, họ lên đường và đến Chợ Lớn khoảng tháng 10 năm 1954, và khán giả náo nức chờ ngày đi coi (khán giả nói ở đây là khán giả người Hoa). Thế nhưng, đào kép đến nơi suốt hai tuần mà không lên sân khấu được, khiến cho chủ rạp ở Chợ Lớn muốn điên đầu (lúc đầu tưởng vậy). Vì dù có hát hay không, theo hợp đồng mỗi ngày cũng vẫn phải trả cho Hồng Tuyến Nữ 13 ngàn đồng, Mã Sư Tăng 9 ngàn (vào thời điểm này vàng y một lượng khoảng 3 ngàn đồng). Đó là không kể tiền trả cho các đào kép phụ khác. Lại còn tiền ăn, tiền ở, bao nhiêu nữa!Do đâu lại có chuyện như thế chớ! Ấy chỉ vị cái xui xẻo chủ rạp hát (hay là hên chăng?) chỉ vì bao nhiêu rương quần áo hát của đào kép từ Hồng Kông gởi qua bằng đường biển. Người ta đã tính thì tàu phải đến Sài Gòn một ngày trước khi đào kép tới bằng đường hàng không. Dè đâu, chuyến tàu ấy lại đổi hành trình qua Philippines trước rồi ghé Sài Gòn. Ngày ghé Sài Gòn lại nhằm ngày ngày nghỉ, không có ai ở nhà đoan (quan thuế) mà lãnh các rương đồ. Ngày hôm sau tàu lại chạy sang Singapore với những rương mà đào kép cùng chủ rạp mong đợi mòn con mắt. Phải chờ tàu ở Singapore trở về Sài Gòn chuyến sau mới lãnh được.
Sự thể như vậy người ta tưởng đâu chủ rạp, tức nhà tổ chức mua giàn sẽ lỗ nặng, vì trả tiền khơi khơi nhiều
quá mà không thu vô. Nhưng không đâu! Bởi các Chú Ba từng kinh nghiệm
trên thương trường, từng làm giàu rồi nên khôn lắm đã chuyển bại thành
thắng. Cái chuyện trục trặc mấy rương đồ hát ấy là một dịp bằng vàng cho
chủ rạp, cho nhà tổ chức để họ làm giàu thêm.
Số là trong lúc mọi người chờ đợi đi coi hát, thì mấy rương quần áo
đồ hát cứ lênh đênh ngoài biển. Có chuyện như vậy nên báo Hoa Văn ở Chợ
Lớn theo dõi sự việc loan tin từng ngày trên trang nhứt, và báo Hồng
Kông gởi qua cũng nói đến sự việc ấy không kém. Đồng thời lại có thêm
nhiều bài viết nói về cái gánh hát và thành tích của cặp đào kép nổi
tiếng ở Hồng Kông, đã vô tình làm quảng cáo không công cho nhà tổ chức
mua giàn.
Lúc ấy thiên hạ trong giới người Tàu bàn tán xôn xao, ở các chợ, nhà
hàng, bến xe, tiệm nước đâu đâu cũng nói đến vấn đề. Nhà tổ chức nắm
vững 3 yếu tố trong binh thơ Tôn Tử: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” nên
chắc ăn như bắp.
Khi đem đồ hát từ chiếc tàu lên, thì trước rạp hát Hảo Huê ở Chợ Lớn
vẽ bảng thật to hình ảnh Hồng Tuyến Nữ – Mã Sư Tăng, nhưng quầy vé thì
treo bảng “hết vé!” Thiên hạ đến mua vé hỏi lẫn nhau, rằng vé bán hồi
nào mà hết chứ?
Biết chắc rằng giới thương gia người Tàu giàu có ở Chợ Lớn quá ái mộ
cặp nghệ sĩ đóng vai Thúy Kiều, Kim Trọng trong phim, nên cho dù giá vé
cao hơn nhiều lần họ vẫn chấp nhận. Cũng như nhiều giới làm ăn khác
trong xã hội người Hoa, họ cũng sẵn sàng bỏ tiền ra để thấy tận mắt cặp
tài danh sân khấu của đất nước họ.
Cầm chắc trong tay vấn đề, nên một mặt ở rạp thì “hết vé”, mặt khác
thì có những người mang vé đến tận nhà các thương gia tài phiệt với giá
cao hơn gấp 5, 7 lần số tiền ghi trên vé. Có vé “chỗ tốt” lên đến hơn 10
lần, vậy mà vé cũng không đủ bán. Thế mới thấy sức thu hút mạnh mẽ của
cặp đào kép Hồng Tuyến Nữ – Mã Sư Tăng đối với khán giả người Hoa lúc
bấy giờ.
Lâu lâu mới có một lần, được gánh hát lớn từ bên Tàu sang phục vụ là
mừng rồi, mua vé có đắt hơn bao nhiêu cũng không tiếc. Tâm lý người Hoa
là vậy. Lúc ấy gánh Đại Kim Long hát ở Chợ Lớn suốt một tháng mới đáp
ứng nhu cầu khán giả, rồi họ mới lên máy bay về Hồng Kông.
Nguyễn Thế Vinh, nghệ sĩ khuyết tật đầy tài năng
Nghe bài này
Tiếng đàn ngọt ngào với nhạc phẩm Lặng Lẽ Nơi Này của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, được tấu lên dưới những ngón tay tuyệt vời một của nghệ sĩ đàn tây ban cầm.
Vinh mê mải kiên trì tập luyện, trầy trật và khó khăn có lúc nhỏ máu cả năm đầu ngón tay cho đến lúc có thể sử dụng cả năm ngón:
Thiệt sự mà nói đánh đàn như vậy thì người hai tay không biết cách nào để chỉ cho em hết, hoàn toàn là em phải suy nghĩ làm sao cho nó phù hợp để mình có thể đàn được thôi, nhạc lý thì em cũng tự học sách luôn. Đến ba năm Cấp Ba em đã đàn được những giai điệu đơn lẻ. Bắt đầu chuyển sang hợp âm thì cũng là một bước rất dài. Cả năm sau thì em mới có khả năng vừa gảy một ngón vừa chuyển các ngón kia tới cái vị trí của hợp âm mới một cách tức thì luôn. Hai lý do để em đàn được vì cây đàn guitar là người bạn gần gũi với mình. Cái thứ hai là em rất thích làm những chuyện khó và chinh phục được chuyện đó thi em cảm thấy hạnh phúc.
Lúc đó thì em học theo bằng cái sự cảm âm của mình thôi, trên cây ghi ta thì em biết được nguyên tắc của 6 dây và tính nốt, em mới lấy từ cây guitar so sánh cái đồng âm của cây kèn harmonica rồi ghi nốt lại trên cây kèn.
Khi vô đại học thì em lại muốn làm sao cùng một lúc có thể hòa được hai âm thanh đó với nhau. Em đi làm một cái giá để cây kèn và gắn nó lên cây đàn luôn rồi bắt đầu tập vừa thổi kèn vừa đánh đàn. Cái khó là khi tập trung vô cái kèn thì cái tay nó quên, còn khi tập trung cái trí vô cái tay để đàn thì nó quên cái miệng. Do đó em phải tập từng nốt một, miệng thổi một nốt thì tay đánh một nốt, từng nốt một đó bắt đầu ráp lại nhiều nốt xong mới ráp lại thành một bài. Cả một năm nữa em mới có kỷ năng hòa tấu hai nhạc cụ đó với nhau.
Sau này có duyên may em gặp được nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 , ca sĩ như chị Ánh Tuyết, chú Nguyễn Ngọc Thạch là chủ bút báo Tia Sáng trước 75, dẫn dắt em đến với mọi người qua con đường âm nhạc. Đến năm 2004 là em bắt đầu lên sân khấu. May hơn nữa là em được các tổ chức ngoại quốc mời đi trình diễn nơi này nơi kia, để thấy mình được có một giá trị hữu ích nào đó trong cuộc đời này.
Lòng từ thiện
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Thế Vinh bắt đầu hướng đến mục tiêu khác mà anh hằng ấp ủ, Trường Mồ Côi Hướng Dương:
Sau khi tốt nghiệp đại học,đi làm, đi dạy, mỗi khi đi thăm những trại mồ côi thì em thấy lại hình ảnh của em ngày trước và em có một cái trăn trở là mình phải làm một cái gì đó cho các em nhỏ giống mình ngày trước với khả năng và với kinh nghiệm sống của mình.
Em đem chuyện nói với bạn bè là em muốn lập một trường nuôi dạy các em mồ côi cho nó học giỏi để vô đại học với một tương lai tốt hơn. May mắn là mọi người đồng tình với em và giúp em xây được Trường Mồ Côi Hướng Dương ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Ngày 25 tháng Chín năm 2010 là em làm buổi lễ khánh thành và đến 25 tháng Chín năm nay là đúng ba năm.
Ba năm qua, Trường Mồ Côi Hướng Dương đã giúp đỡ cho 83 học sinh, đa số mồ côi, trong đó có 8 em khuyết tật như câm hay khiếm thị. Cũng trong ba năm qua, số học sinh của Trường Mồ Côi Hướng Dương đậu vào đại học là 43 em:
Đến với Trường Mồ Côi Hướng Dương do Nguyễn Thế Vinh sáng lập, học sinh được ăn ở tại trường. Ban ngày các em đi học trường ngoài, tức trường nhà nước như các trẻ bình thường cùng trang lứa. Thời gian còn lại trong ngày, học sinh của Hướng Dương được dạy kèm trong mục đích luyện thi đại học. Sinh hoạt tại Trường Mồ Côi Hướng Dương không khác mấy với một trường nội trú, điểu kiện duy nhất ở đây là phải chịu học và gắng học cho giỏi, Nguyễn Thế Vinh nhấn mạnh.
Hai năm đầu tiên, Vinh kể tiếp, anh là người đảm trách mọi việc, từ giám thị, quản lý, kế toán cho đến dạy học:
Liên lạc với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
Tiếng đàn ngọt ngào với nhạc phẩm Lặng Lẽ Nơi Này của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, được tấu lên dưới những ngón tay tuyệt vời một của nghệ sĩ đàn tây ban cầm.
Và nếu chẳng khi nào thấy một người trên sân khấu với cánh tay phải
cụt gần sát vai, dùng năm ngón tay của bàn tay trái để vừa đàn guitar
vừa thổi harmonica một cách say sưa và điêu luyện, hẳn quí vị hiểu sự
khổ công luyện tập như thế nào. Người nghệ sĩ ấy khiến mọi người xúc
động khi ngồi đàn trên sân khấu của Ngọc Trong Tim, một nhóm từ thiện
dành cho nghệ sĩ khuyết tật ở Hoa Kỳ, đã mời anh qua lưu diễn tại Nam và
Bắc California cũng như tại Florida tháng Tám vừa qua.
Chưa hết, Thanh Trúc tin quí vị sẽ cảm kích nhiều lắm khi biết người
nghệ sĩ tàn tật này đã sáng lập một trường đào tạo và luyện thi cho học
sinh mồ côi và khuyết tật vào đại học với khả năng thi đỗ 100% .
Một bài học về lòng kiên trì
Đó là Nguyễn Thế Vinh, mà cha chết trong chiến tranh khi em được 4 tuổi, mẹ mất ba năm sau đó, bỏ Vinh lại với bà ngoại:
Trước 75 gia đình em sống ở Phan Thiết, sau 75 gia đình thuộc diện
kinh tế mới, lúc đó nhà em xin được về lại quê nội ở Bắc Bình, Bình
Thuận, bắt đầu sống cuộc đời làm nông làm rẫy.
Năm lên tám, Vinh bị té gãy cánh tay phải trong trong một lần đi chăn bò mướn. Vì nhà nghèo, không có tiền đi bệnh viện nên phải băng thuốc Nam. Hậu quả là cánh tay gãy bị hoại tử và đành phải cắt bỏ, chỉ còn một khúc khoảng một tấc dính vào vai
Năm lên tám, Vinh bị té gãy cánh tay phải trong trong một lần đi chăn
bò mướn. Vì nhà nghèo, không có tiền đi bệnh viện nên phải băng thuốc
Nam. Hậu quả là cánh tay gãy bị hoại tử và đành phải cắt bỏ, chỉ còn một
khúc khoảng một tấc dính vào vai.
Tám tuổi là năm 78, lúc đó đã về quê nội rồi.Học hết Lớp 12 em thi
vô đại học và em đã đậu Đại Học Kinh Tế ở Sài Gòn. Nhưng trong quá
trình học thì thằng em ở ngoài quê lúc đó học xong Lớp Chín, năm thứ hai
em đem nó vô Sài Gòn để em có điều kiện dạy nó được tốt hơn. Em đi làm
kiếm tiền để hai anh em sống, em đi vá xe đạp ở lề đường rồi có khi đi
giữ xe đêm ở chung cư, rồi có khi em đi dạy kèm.
Vì cần toàn thời gian đi làm để kiếm tiền nuôi em cũng như cho mình
có thể tiếp tục học, Nguyễn Thế Vinh xin được nghĩ năm thứ hai. Đó là lý
do anh tốt nghiệp sau thời gian năm năm thay vì bốn năm như bình
thường:
Năm 94 em mới tốt nghiệp Đại Học Kinh Tế và người em cũng vô được Đại Học Kinh Tế luôn.
Quá trình học tập của Vinh là vừa đi học vừa đi làm, còn quá trình tự
rèn luyện để chơi được guitar và harmonica, một khả năng giúp ích rất
nhiều cho công việc của anh sau này, cũng là một giai đoạn gian nan vất
vả không kém. Hồi tưởng lại những ngày ở Bình Thuận, khi mà tâm hồn cậu
bé mồ côi luôn cảm thấy buồn bã, cô đơn, Vinh kể tiếp:
Năm Lớp Sáu, 12 tuổi, em có người cậu đi học tập cải tạo về, mang
theo một cây đàn về. Những đêm trăng sáng cậu hay đem đàn ra ngoài sân
trước nhà để đàn và hát. Lúc đó em thấy rất là mê mà không biết làm sao
đàn được.
Đầu tiên em thử cột cái que hương, là chân nhang đã đốt rồi, cột
vô phần cùi còn lại để gảy, còn tay trái thì bấm. Nhưng mà cái tay cùi
ngắn quá nên gảy bị sai dây và không đàn được. Sau đó em mới kẹp cái
phiếm vô chân phải và em gảy bằng chân. Chân đưa lên đưa xuống nặng nề
quá rồi cũng không thể nào đánh đàn được.
Phải đến ba năm sau, lúc học lớp Chín, em chợt nghĩa ra là tại sao
mình còn năm ngoán tay mà mình không thử bấm một hai ngón gì đó rồi
mình gảy một ngón.
Thiệt sự mà nói đánh đàn như vậy thì người hai tay không biết cách nào để chỉ cho em hết, hoàn toàn là em phải suy nghĩ làm sao cho nó phù hợp để mình có thể đàn được thôi, nhạc lý thì em cũng tự học sách luôn. Đến ba năm Cấp Ba em đã đàn được những giai điệu đơn lẻ. Bắt đầu chuyển sang hợp âm thì cũng là một bước rất dài. Cả năm sau thì em mới có khả năng vừa gảy một ngón vừa chuyển các ngón kia tới cái vị trí của hợp âm mới một cách tức thì luôn. Hai lý do để em đàn được vì cây đàn guitar là người bạn gần gũi với mình. Cái thứ hai là em rất thích làm những chuyện khó và chinh phục được chuyện đó thi em cảm thấy hạnh phúc.
Cả năm sau thì em mới có khả năng vừa gảy một ngón vừa chuyển các ngón kia tới cái vị trí của hợp âm mới một cách tức thì luôn...em rất thích làm những chuyện khó và chinh phục được chuyện đó thi em cảm thấy hạnh phúcKhông chỉ luyện tây ban cầm, Vinh còn tự học harmonica từ người bạn cùng trường cho tới khi có thể kết hợp hai nhạc cụ cùng một lúc:
Nguyễn thế Vinh
Lúc đó thì em học theo bằng cái sự cảm âm của mình thôi, trên cây ghi ta thì em biết được nguyên tắc của 6 dây và tính nốt, em mới lấy từ cây guitar so sánh cái đồng âm của cây kèn harmonica rồi ghi nốt lại trên cây kèn.
Khi vô đại học thì em lại muốn làm sao cùng một lúc có thể hòa được hai âm thanh đó với nhau. Em đi làm một cái giá để cây kèn và gắn nó lên cây đàn luôn rồi bắt đầu tập vừa thổi kèn vừa đánh đàn. Cái khó là khi tập trung vô cái kèn thì cái tay nó quên, còn khi tập trung cái trí vô cái tay để đàn thì nó quên cái miệng. Do đó em phải tập từng nốt một, miệng thổi một nốt thì tay đánh một nốt, từng nốt một đó bắt đầu ráp lại nhiều nốt xong mới ráp lại thành một bài. Cả một năm nữa em mới có kỷ năng hòa tấu hai nhạc cụ đó với nhau.
Sau này có duyên may em gặp được nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 , ca sĩ như chị Ánh Tuyết, chú Nguyễn Ngọc Thạch là chủ bút báo Tia Sáng trước 75, dẫn dắt em đến với mọi người qua con đường âm nhạc. Đến năm 2004 là em bắt đầu lên sân khấu. May hơn nữa là em được các tổ chức ngoại quốc mời đi trình diễn nơi này nơi kia, để thấy mình được có một giá trị hữu ích nào đó trong cuộc đời này.
Lòng từ thiện
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Thế Vinh bắt đầu hướng đến mục tiêu khác mà anh hằng ấp ủ, Trường Mồ Côi Hướng Dương:
Sau khi tốt nghiệp đại học,đi làm, đi dạy, mỗi khi đi thăm những trại mồ côi thì em thấy lại hình ảnh của em ngày trước và em có một cái trăn trở là mình phải làm một cái gì đó cho các em nhỏ giống mình ngày trước với khả năng và với kinh nghiệm sống của mình.
Em đem chuyện nói với bạn bè là em muốn lập một trường nuôi dạy các em mồ côi cho nó học giỏi để vô đại học với một tương lai tốt hơn. May mắn là mọi người đồng tình với em và giúp em xây được Trường Mồ Côi Hướng Dương ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Ngày 25 tháng Chín năm 2010 là em làm buổi lễ khánh thành và đến 25 tháng Chín năm nay là đúng ba năm.
Ba năm qua, Trường Mồ Côi Hướng Dương đã giúp đỡ cho 83 học sinh, đa số mồ côi, trong đó có 8 em khuyết tật như câm hay khiếm thị. Cũng trong ba năm qua, số học sinh của Trường Mồ Côi Hướng Dương đậu vào đại học là 43 em:
Trong xã hội của Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mà hỗ trợ cho những người bị tật, thì các em phải cố gắng học giỏi hơn, phải cố gắng có nhiều khả năng hơn người bình thường thì các em mới tìm được một cuộc sống tốt. Các em sống bằng năng lực của mình, đứng vững bằng khả năng của mìnhBốn mươi ba thì trong đó 7 em Cao Đẳng, 36 em là Đại Học. Điều kiện là các em phải học được thì em mới dám nhận vô đây tại vì chương trình của em là giúp các em mồ côi và bị tật phải học hết đại học. Năm đầu tiên 16 em đi thi thì có 13 em vô Đại Học và 3 em vô Cao Đẳng . Năm thứ hai có 9 em đi thi, 7 em đậu Đại Học, 2 em đậu Cao Đẳng. Đầu tháng Bảy năm nay, 18 em đi thi thì có 16 em vào Đại Học và 2 em vào Cao Đẳng.
Nguyễn thế Vinh
Đến với Trường Mồ Côi Hướng Dương do Nguyễn Thế Vinh sáng lập, học sinh được ăn ở tại trường. Ban ngày các em đi học trường ngoài, tức trường nhà nước như các trẻ bình thường cùng trang lứa. Thời gian còn lại trong ngày, học sinh của Hướng Dương được dạy kèm trong mục đích luyện thi đại học. Sinh hoạt tại Trường Mồ Côi Hướng Dương không khác mấy với một trường nội trú, điểu kiện duy nhất ở đây là phải chịu học và gắng học cho giỏi, Nguyễn Thế Vinh nhấn mạnh.
Hai năm đầu tiên, Vinh kể tiếp, anh là người đảm trách mọi việc, từ giám thị, quản lý, kế toán cho đến dạy học:
Đến năm thứ ba, những người tài trợ thấy em cực quá mới đề nghị
kiếm thêm giáo viên và nhân viên, để chia việc bớt cho em để còn phát
triển lâu dài hơn. Năm thứ ba tức năm vừa rồi em đã nhờ được năm thầy cô
giáo, trong đó ba thầy cô có nhận lương, hai thầy cô dạy tình nguyện.
Thực tế, bên cạnh sự giúp đỡ và tiếp sức của những người giàu lòng
hảo tâm trong nước, nguồn tài chính quan trọng của Trường Mồ Côi Hướng
Dương đến từ Deutsche Bank, một ngân hàng của Đức ở Sài Gòn mà Nguyễn
Thế Vinh được người quen biết giới thiệu:
Từ năm 2009 thì lúc đó em đang chuẩn bị làm cái trường này, và thế
là em mạnh dạn gởi hết những thông tin qua và bên Ngân Hàng đã giúp cho
em một số tiền để chuẩn bị xin được giấy phép là em có tiền xây trường
lên. Đó là cái duyên tại sao Ngân Hàng giúp cho em.
Được cái nữa là những tổ chức ngoại quốc khi người ta đã tin rồi
thì người ta giúp một cách rất là tận tình. Đầu năm là em làm một bản dự
toán dự trù kinh phí, cho năm nay bao nhiêu rồi tiền này tiền kia bao
nhiêu, bên Ngân Hàng duyệt cái là chuyển thẳng tiền về cho tài khoản của
trường luôn.
Nhưng nếu đòi hỏi một học sinh vào trường mồ côi Hướng Dương là phải
chịu học và học cho giỏi thì yêu cầu đó liệu có cao quá hay không? Suy
đi từ bản thân mình, anh Nguyễn Thế Vinh cả quyết:
Không phải đối với những em mồ côi lành lặn mà ngay cả
những em mồ côi khuyết tật, em luôn luôn nói với các em rằng nếu muồn
tìm một cuộc sống tốt đẹp, nhất là trong xã hội của Việt Nam hiện nay
chưa đủ điều kiện để mà hỗ trợ cho những người bị tật, thì các em phải
cố gắng học giỏi hơn, phải cố gắng có nhiều khả năng hơn người bình
thường thì các em mới tìm được một cuộc sống tốt. Các em sống bằng năng
lực của mình, đứng vững bằng khả năng của mình, và khi đứng vững rồi
mình mới có điều kiện để giúp lại cho đàn em phía sau.
Phải tận dụng ngày hôm nay để xây dựng cho ngày mai, Nguyễn Thế Vinh
tâm sự, nhất là ngày mai của những người khuyết tật, tương lai không chỉ
quan trọng cho riêng bản thân mình mà còn cho anh em hay con cháu đồng
cảnh ngộ:
Em lập cái trường này cái mục đích để tạo thành một chương trình
chạy dài, để cho lớp trước giúp lớp sau và cứ thế các em sau này sẽ kế
thừa em làm chuyện này.
Với thổ lộ của Nguyễn Thế Vinh, mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi xin được khép lại ở phút này.Liên lạc với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
SƠN TRUNG * HISTORY OF A BLACK TIME
TRANG LỊCH SỬ ĐEN
Có một thời
Hành tinh của chúng ta chơi vơi
Non sông ta ngã nghiêng
Đất nước ta ly loạn
Một số người sầu khổ
Một số người phát cuồng, phát điên
Cùng lúc đó
Những dàn bò,
đàn khỉ
Đàn cáo
Ào ào về thành phố
Chúng chiếm nhà cửa của chúng ta
Chúng giam ta trong rừng sâu
Chúng bắt ta quỳ xuống
Và chỉ vào mặt chúng ta:
"Chúng mày là đồ phản động
Là lũ ngu si"
Và chúng vỗ ngực khoe khoang
" Chúng ta đây
Là bậc anh hùng
Là kẻ chiến thắng quang vinh
Là bậc trí tuệ đệ nhất hành tinh.
Chúng dạy ta lý thuyết giai cấp đấu tranh
Chúng bắt chúng ta chém giết dân lành,
Chém giết những dân nghèo vô tội
Chúng bảo: "bọn đó là địa chủ
Là tư bản
Là phản động
Là kẻ thù của nhân dân
Phải giết hết
Giết hết
Đừng để bàn tay phút giây ngưng nghỉ.."
Chúng cướp đất
Cướp nhà
Cướp ngân hàng
Cướp các công ty hãng xưởng của ta
Chúng bảo:
"Chúng ta hủy bỏ tư hữu
Vì tư hữu là ăn cắp
Là đại tội"
Chúng ta tiêu diệt giai cấp thống trị
Để lập công bằng xã hội.
Chúng ta thiết lập chế độ "cưỡng bách lao động cho mọi người"
Để mọi người lao động vinh quang,
Để đất nước giàu sang
Gấp năm, gấp mười thời quân chủ và đế quốc, thực dân.
Chúng ta lập các Hợp các xã
Các nông trường
Công trường
Ở đây chúng mày có rất nhiều tự do
Tự do gấp triệu lần tư bản.
Hãy đến đó lao động vinh quang
Và sống cuộc đời giàu sang
Của tại thế thiên đường"
Chúng bắt ta lao động ngày đêm không nghỉ
Hàng chục triệu người chết
Vì khổ sở, đói rét
Nhưng một ngày kia
Dân nô lệ trong Đại thành trì chế độ
Lật đổ bạo quyền
Dành lại tự do, dân chủ...
Chúng ta hy vọng
Nhân dân ta sẽ có ngày vùng lên
Đánh đuổi bầy ác thú
Dành lấy tự do, dân chủ
Để sống đời hạnh phúc
Đất nước ta sẽ rạng rỡ dưới ánh bình minh
Việt Nam Độc lập, Tự Do , Hạnh Phúc và Quang Vinh.
HISTORY OF A BLACK TIME
There was a time
our planet went upside down
A lot of people were very sad
The others became mad
At the same time
many groups of cows
monkeys
and foxes
came to our towns
they occupied our houses
and imprisoned us in the forests
they said:
"We are the most intelligent beings in the world"
They taught us their " class struggle theory"
they forced us to kill our compatriots-our poor people,
they said :" the landlords
the capitalists,
and the reactionaries
Are the people's enemies"
Kill them all
Kill them all
Kill, kill again, no minute hand break..."
They occupied our land
our bank
and our companies
they seized our private property
They said :" we abolish property
Because private property is theft
We also abolish the ruling class
To build the equal society.
We establish the equal obligation of all to work
And organize the collective farms
And collective industry
Go there
And work there
You will have a lot of liberty"
Remember that
"Labor is Glory"
Day and night, they forced us to work
Ten million people died...
because of misery
and hunger
One day
The slaves in the Great Realm of Animal
Revolted against the beasts
They liberated themselves
And reformed their countries
into democracy
We are now
In the tyranny
of the Cows
We hope one day
Our people will make a revolution
to expel the domination
of the Beast
We will live in Real Liberty
And Real Democracy
SƠN TRUNG
GIAO HƯỞNG * BÙI GIÁNG
Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 1: Người viết sách với tốc độ kinh hồn
Tags: Bùi Giáng, một con người, quan tâm đến, gây kinh ngạc, Viết sách, người viết, thi sĩ, kỳ dị, kinh hồn, độ kinh, nói, thơ, ảnh, làm, năm
Bùi Giáng là một con người gây kinh ngạc
cho bất kỳ ai quan tâm đến ông. Làm thơ, dịch tiểu thuyết của các tác
gia danh tiếng trên thế giới, viết sách nghiên cứu triết học đông tây
kim cổ với những kiến thức vô cùng uyên bác… nhưng Bùi Giáng đồng thời
lại còn chạy nhảy la hét ngoài đường trong bộ dạng của những con người
mà ta quen gọi là điên.
Cuộc đời Bùi Giáng vì vậy luôn được bao phủ bởi vô số những giai
thoại ly kỳ, những thông tin hư hư thực thực. Trước nay, có khá nhiều
bài viết về ông nhưng đều rất tản mạn, hầu hết chỉ là những bài lẻ tẻ
đăng báo hoặc bài của nhiều người viết trong các tuyển tập hoặc đặc san
kỷ niệm Bùi Giáng. Dựa trên những tài liệu có được và những tác phẩm của
ông, chúng tôi cố gắng cung cấp cho bạn đọc những thông tin tương đối
có hệ thống về diện mạo của con người tài năng thuộc hạng siêu phàm
nhưng rất kỳ dị này.
Từ năm 1962 trở đi, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi
năm đều đều vài ba cuốn. Càng về sau càng nhiều hơn. Nói về số lượng,
thì ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam
trước giải phóng. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ
thì phải kể bằng đơn vị ngàn bài. Tuy nhiên, ông hoàn toàn không phải
một học giả cần mẫn, suốt ngày giam mình trong thư viện, miệt mài bên
trang sách mà thậm chí còn ngược lại. Nhiều người từng gần gũi ông ngạc
nhiên nói rằng họ chỉ thấy Bùi Giáng suốt ngày lang thang rong chơi nhàn
nhã, bia rượu uống tràn, thế nhưng khi nhà xuất bản cần, chưa đến một
ngày ông đã mang đến cả năm bảy trăm trang sách. Vậy ông viết sách vào
lúc nào?
Một nhà văn gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975 kể lại chuyện viết
sách của ông như sau: "Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có
thể nói, thầy Thanh Tuệ (Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm lúc đó) vì một
tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, đã dành trọn
phương tiện cho ưu tiên xuất bản tác phẩm của Bùi Giáng trước mọi tác
giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An
Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là
những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của
Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát
trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả
ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm".
Nhà văn này kể tiếp: "Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao
giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi.
Bước chân vào nhà thầy Thanh Tuệ, chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi đó
trước, tươi cười, ung dung trong cái phong thái của một con người nhàn
nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nhỏ nào của một người viết đang
gió táp mưa rơi với ngàn ngàn trang sách". Ai cũng lấy làm ngạc nhiên và
cố gắng tìm hiểu nhưng không thể nào hiểu nổi. Chưa bao giờ những người
gần gũi Bùi Giáng bắt gặp ông đang ngồi viết sách. Vắn tắt là Bùi Giáng
chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết.
Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười: "Tôi cũng lấy làm kỳ. Ảnh lang
thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến
nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ
cả bữa ăn. Đêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm.
Nhưng ảnh viết tôi in
không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Còn nói ảnh đem bản thảo tới
thì nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm
trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Điều kỳ lạ là thể
loại trước tác nào ảnh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh vô tả. Từ thơ
đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về
Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết tới phê bình triết học. Tất cả như
đùa như chơi vậy".
Có người ngạc nhiên quá, tìm cách rủ Bùi Giáng tới quán uống rượu để
tìm hiểu. Nhưng chỉ tốn rượu đãi Bùi Giáng chứ chẳng khai thác được chút
thông tin nào. Vặn hỏi mãi ông cũng không giải thích điều gì. Bùi Giáng
chỉ cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu và nói "vui thôi mà"
trước sự ngơ ngẩn của người hỏi chuyện. Trước sau ông không hề giải
thích bất cứ thắc mắc nào. Nhà văn kể trên nói tiếp: "Chừng như ông
không có gì giải thích, sự thành hình một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối
cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao
thao, cái chớp mắt đã là của nó. Ừ, vui, ba chữ "vui thôi mà" là câu trả
lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi sự tìm hiểu".
(còn tiếp)
Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
Chuyện đời Bùi Giáng -
Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa
19/09/2013 00:20Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng đã khép lại hôm 14.9 nhưng âm vang trên diễn đàn ấy 'vẫn còn tiếp tục truyền thông và mở rộng' như lời ông Bùi Dương Thạch - đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại tọa đàm, đã nói với chúng tôi trong cuộc gặp chiều hôm qua 18.9.
>> Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ?Bùi Giáng tại nhà đường Lê Quang Định - Ảnh: Tư liệu |
Tôi muốn nói đến tiểu sử Bùi Giáng mà trước đây thường do các tác giả ngoài tộc Bùi viết với một số chi tiết khác nhau làm công chúng băn khoăn. Nay qua tọa đàm, Bùi tộc Vĩnh Trinh chúng tôi thu thập thêm tài liệu để chính thức thông báo về các nét chính trong đời ông sau đây. Bùi Giáng sinh ngày 17.12 năm Bính Dần 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, H.Duy Xuyên, Quảng Nam, là con thứ nam của ông Bùi Thuyên (thuộc đời thứ 16 họ Bùi ở Quảng Nam) và bà Huỳnh Thị Kiền. Ông lấy vợ năm 1944, lúc 18 tuổi. Vợ ông là hoa khôi trong vùng: bà Phạm Thị Ninh; khi mang thai bà bị bệnh, phải sinh non và cả hai mẹ con đều qua đời. Từ đó ông in sâu vào lòng một quá khứ không vui: “Xin ngó lại bàn chân em bước/Vì em đi vào lúc gió đương bay”. Rồi ông nói với người đã khuất trên núi rừng Trung Việt: “Khung cảnh ấy nằm sâu trong đáy mắt/Có lệ buồn, khóc với lệ hòa vui/Để tràn ngập hương mùa lên ngan ngát/Rồi tan đi trong hố thẳm chôn vùi”...
Về các chi tiết khác, nghe nói đã có một số tài liệu mới về Bùi Giáng vừa lưu hành trong nội bộ của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM?
|
Còn những điểm sáng tương đồng tương cảm?
Có lẽ cần nhắc đến kết luận của Thái Tú Hạp rằng: “Dù với bao nhiêu
lời nhận định nào đi nữa ta vẫn thấy một điểm chung của mọi người là đã
dành sự yêu mến cho con người siêu lãng tử lẫn thiên tài độc đáo này”.
Một điểm chung tiếp theo là nhắc đến “một Bùi Giáng lang thang trên vỉa
hè Sài Gòn đau đáu nhớ nhung về mảnh đất hẹp Quảng Nam mà vẫn đem triết
học Đông Tây về với ca dao lục bát, vẫn có thể quàng vào thân thể của
Brigitte Bardot hay Monroe những xiêm y của Xuân Hương” như Nguyễn Hoàng
Vân đã viết từ Melbourne (Úc). Các bài viết trước năm 1975 của Trần
Tuấn Kiệt, Cao Thế Dung, Tạ Tỵ, Du Tử Lê, hoặc sau này của Huy Cận, Trụ
Vũ, Phạm Thiên Thư, Vũ Đức Sao Biển, cùng nhiều tác giả khác đều tựu
trung nhắc đến Bùi Giáng là thi sĩ đã đưa thơ “vượt qua những rào cản
của ngôn ngữ”. Nỗi nhớ quê hương của ông cũng thật lạ như: “Người hỏi
tôi: Từ đâu ông đến đây?/Thưa cô thôn nữ từ đây tôi về/Ủa phải anh
Sáu Giáng đó không?/Và cô có phải là cô Bông năm nào?/Anh còn nhớ rõ ôi
chao!/Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh/Anh điên mà dzui-dzẻ thập
thành/Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu”.
Những năm cuối đời, có lần Bùi Giáng về thăm những “cô gái quê” thuở xưa: “Bảy mươi tuổi quá nặng nề/Còn em đã sáu tám rồi em ơi”. Ông cũng viết một bài thơ trước khi mất do Bùi Kiến Quốc chép lại: “Chiêm
bao tôi thấy tôi về Quảng Nam/Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn/Duy Xuyên,
Tiên Phước, Hòa Vang, Thăng Bình/Tìm người bạn cũ không ra/Còn phong
cảnh cũ khác xa những ngày/Xóm làng, đồng ruộng lạ thay!/Chỉ còn dáng
núi chạy dài xa xa/Giữ nguyên hình ảnh đậm đà/Còn trong kỷ niệm bao la
tuổi nào/Ngắm nhìn, tim máu xôn xao/Tôi rời đất Quảng trở vào miền
Nam/Tâm hồn bao xiết hoang mang/Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng...”.
Riêng ông nhớ nhất những câu gì của Bùi Giáng?
Câu: “Ta đi còn gửi đôi giòng/Lá rơi có dội ở trong sương mù”,
thơ của ông gửi lời hẹn không chỉ đến người ở cõi này, mà còn đến những
ngày “hội” ở kiếp sau. Đồng thời cũng làm chúng ta liên tưởng đến người
vợ xinh đẹp của ông cùng qua đời với đứa con đầu lòng khi tuổi mới
thanh xuân - và chắc chắn biến cố ấy đã làm ông đau xót hẹn hò: “Mai sau còn dự hội nào/Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông...”. (Còn nữa)
Giao Hưởng
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường'
Lúc 9 giờ sáng nay 20.9, lễ tưởng niệm 15 năm ngày mất Bùi Giáng (1998 - 2013) sẽ cử hành tại ngôi mộ của ông ở nghĩa trang Gò Dưa, Q.Thủ Đức, TP.HCM.
Thủ bút của Bùi Giáng trong sổ nợ đoạn trường - Ảnh: tư liệu
|
Ngày
Bùi Giáng mất theo âm lịch là 17.8 Mậu Dần, nên hằng năm lễ giỗ thường
được tổ chức ngày 16.8 âm lịch (năm nay rơi vào 20.9.2013 dương lịch).
Vì thế, trưa nay gia đình sẽ cúng ngọ với mâm chay đặt trước mộ và mâm
mặn dành cho các văn nghệ sĩ khắp nơi yêu thơ ông đến viếng để uống chén
rượu nhớ ngày ông ra đi giữa “ngàn thu rớt hột”. Nhà thơ Trần Đới -
người gắn bó với Bùi Giáng suốt 15 năm trên “chiếc đu bay” sẽ có mặt. Và
dự kiến Đắc Phúc sẽ hát tại chỗ một số bài nhạc do anh phổ thơ Bùi
Giáng, bên cạnh tay đàn tây ban cầm cổ điển Lê Quốc Phong và nghệ sĩ
nhạc rock Linh Xù (Phan Ngọc Linh), Lư Châu (Phan Văn Châu). Dịp này,
chúng tôi đến ngôi nhà cũ Bùi Giáng ở nhiều năm trước lúc qua đời và
được gia đình cho xem các cuốn sổ nợ do chính ông ghi từ 1993 đến 1998.
Trong
đó, ông thường ghi nợ ở một quán mở gần nhà (nằm trong con hẻm đường Lê
Quang Định), chủ quán là ông Tốt rất “từ bi”, hễ Bùi Giáng uống rượu
chịu bao nhiêu vẫn cứ để ghi sổ dài dài, nên cuối năm 1997, giáp Tết Mậu
Dần 1998 (năm Bùi Giáng mất), đã viết mấy câu vào sổ nợ: “Bài thơ thân tặng Đại ca/Kính thưa ông Tốt là cha thằng Bùi khùng”.
Nghe
nói ông Tốt đã xin Bùi Giáng đừng gọi ông ta bằng “cha” mà ông ta sẽ bị
tổn thọ. Song Bùi Giáng bác bỏ, nói biết đâu kiếp trước, kiếp xưa, kiếp
xa “ngài” đã mấy triệu lần làm cha “Bùi” này rồi. Chiều 30 tết, gia
đình ra trả nợ để lấy cuốn sổ ấy về, thay vào cuốn sổ mới, Bùi Giáng lập
tức ghi mở hàng: “Trả xong món nợ láng giềng/Lòng vui phơi phới tháng giêng Mậu Dần”.
Nhưng chỉ vài giờ sau giao thừa, Bùi Giáng lại xuất hiện trước cửa ông Tốt “đạp đất” để khai bút đầu năm vào sổ, thiếu “một ngàn rưỡi ngày nguyên đán”. Mồng hai, mồng ba cũng vậy, đến: “hôm nay mồng bốn tháng giêng/hai ngàn nợ này - say rượu suốt hoài trăm năm” và kéo dài gần hết tháng giêng: “sau tết 20 ngày nợ hai ngàn rưỡi” và “sau tết 22 ngày/nợ nơi này hai ngàn rưỡi”… Điều khác người, là tiền nợ ông ghi bằng chữ chứ không ghi bằng số.
Cũng có chỗ nợ chỉ năm ngàn nhưng ông ghi: “nợ nần năm triệu” với chú thích rõ bên dưới: “tức là năm ngàn Việt Nam”.
Có lần ông Tốt méc với gia đình là bác Giáng ngồi uống rượu ngoài quán
la hét rằng làm vua, làm tổng thống, làm chủ tịch nước không sướng bằng
ông Tốt sinh ra để suốt đời bán rượu cho thằng khùng, đúng như ông đã
viết trong sổ nợ: “Muôn thu thiên thượng lâu đài/không bằng bán rượu lai rai cho thằng khùng - năm ngàn hôm nay - giờ này số dzách - 1998 January”. Có những câu khá buồn: “Tháng năm sắp đổi sắp dời/Một mình ngồi uống biết mời mọc ai/Chỉ còn cô độc đeo đai...”
. Những câu ấy nhắc chúng tôi nhớ lại tham luận của GS-TS Huỳnh Như
Phương mới đây tại Tọa đàm khoa học về Bùi Giáng có đoạn đại ý nói rằng
tọa đàm mở ra ngoài các mục đích nghiên cứu khoa học, còn được xem là
lời xin lỗi với vong linh Bùi Giáng về nhiều năm đã “bỏ quên” ông…
Trong “sổ đoạn trường” ấy Bùi Giáng cũng nói trước về ngày ra đi của mình: “Nợ nần ông trả từ nay/Về sau ắt sẽ còn đâu nợ nần”.
Thật ra, chính chúng ta nợ ông rất nhiều. Món nợ lớn nhất (chưa nói đến
giá trị văn chương và tư tưởng độc đáo của ông), là nguồn vui lạ lùng
mà cuộc sống lang thang của ông đã lan tỏa ra ngoài, không hề tính toán
và đòi hỏi gì, như Huy Tưởng đã viết và đọc cách đây đúng 15 năm trong
giờ vĩnh biệt: “anh Bùi Giáng đã dấn mình một cách hiên ngang và
khốc liệt vào cõi Thơ ca, TẬN HIẾN hết cả đời mình cho duy-nhất-thơ-ca
(…) tận hiến mà không hề nhận lại một sự bù đắp đối đãi nào của nhân
thế, trút gởi hết thảy xương máu và hồn phách, lưu lại ở đời như vay tạm
một hình cốt mong manh bi thiết và mộng mị. Hình ảnh đắm chìm của tận
hiến hung hiểm đó chính là một tượng đài vĩ đại đến khủng khiếp của
thiên tài thơ Bùi Giáng (…) Xin vĩnh biệt anh Bùi Giáng yêu kính. Cầu
cho hồn anh được siêu sinh tịnh độ, nương theo mây trắng mà về lại với
quê nhà, tiếp tục rong ruổi vui chơi trên cõi trời Đâu suất…”.
Thật vậy, ông đã mang “những hạt nắng bảy màu” đến với nhân sinh cùng tiếng cười vui bất ngờ đâu đó: “Cái vui ấy ông đã ban tặng cho đời mãi đến ngàn sau, không những bằng ngôn từ mà cả bằng thân xác” (Thích Nhuận Châu) - và nay ông đã về “cố quận” (như chữ ông thường dùng) để lại mấy câu da diết: “Đất hoa khóc vĩnh biệt người/Ngàn cây cố quận đôi lời sương thu”.
Lời
cố quận là tên một tập khảo luận nổi tiếng của Bùi Giáng - cùng với tập
Lễ hội tháng ba trở thành hai cuốn sách mà bạn đọc có thể tìm hiểu về
tư tưởng được xem là “ẩn mật” của ông - như Bùi Văn Nam Sơn nhận định.
Sáng nay, ông có thể sẽ trở về trong hương khói, với “niềm vui ẩn mật”
mà Nguyễn Quang Thanh từng khẳng định là luôn luôn được “phơi bày ở trong chính mình và ở quanh mỗi chúng ta”. Phơi bày trong im lặng và im lặng như thơ Bùi Giáng viết: “Một lời chẳng nghĩa là bao/Dẫu lời không tiếng lẽ nào không nghe?”. (Còn nữa)
Bùi
Giáng đã tạo ra được một cuộc hôn phối kỳ lạ giữa Trời và Đất, Đông và
Tây, giữa Heidegger đìu hiu gió tuyết và Nguyễn Du tịch mịch sương
chiều. Bùi Giáng không bao giờ là một nhà “giải minh” tư tưởng triết học
hiểu theo nghĩa hàn lâm của thuật ngữ này (...) ông không bao giờ sử
dụng các “phương pháp phân tích” và diễn giảng của nhà trường để đi sâu
vào một tác phẩm hay một tác giả. Với ông, chỉ có sự đồng cảm hay thấu
cảm với một tâm hồn đồng điệu nào đó hoặc với suối nguồn uyên nguyên của
tư tưởng mới là điều đáng kể, còn ngoài ra tất cả đều là phù phiếm, dù
cho sự phù phiếm này có được nâng lên thành một hệ thống quan niệm có
tính chất phương pháp luận. Trần Trung Phượng |
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 4: Đạt đạo cõi thơ
Chiều qua (20.9), dự lễ tưởng niệm Bùi Giáng ở Nghĩa trang Gò Dưa (TP.HCM) xong, lão thi sĩ Trần Đới, 82 tuổi - tác giả thi phẩm Tảo mộ lênh đênh, đã nói chuyện với chúng tôi một cách say mê về Bùi Giáng, mở đầu vỏn vẹn với bốn chữ Bùi Giáng đạt đạo.
Bùi Giáng làm thơ trên xe xích lô - Ảnh: Tư liệu
|
Đạt đạo như thế nào? Nghe hỏi, Trần Đới nói với giọng khá to:
-
Đạt đạo ở chữ “mỹ”. Có người vào đạo qua chữ “chân”, hoặc chữ “thiện”,
còn Bùi Giáng đạt đạo ở cõi thơ tức vào đạo qua chữ “mỹ”. Giống như muốn
vào một thành phố có nhiều cửa, người ta chỉ cần vào một cửa là được -
Bùi Giáng đã theo cửa “mỹ” ấy để vào, thì cả “chân” và “thiện” cũng
thành tựu một lần theo bước chân ông.
Trần Đới nói: “Mình bắt
đầu quen Bùi Giáng tại Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn năm 1972”, lúc ấy đại
học này quy tụ một số tài danh thi văn như Phạm Công Thiện, Phạm Thiên
Thư, Tuệ Sỹ, Trần Xuân Kiêm… Những ngày sống với Bùi Giáng tại một căn
phòng vừa rộng vừa trống trải tại Tổng vụ thanh niên Phật tử, mỗi sáng
hễ rủng rỉnh vài ba đồng trong túi là họ kéo qua quán phở Vũ Hùng gần đó
ăn, xong về nằm “mỗi người làm việc của mình” trên những cái giường sắt
trải nệm vừa cũ vừa mòn, nhưng có thể nhún nhảy tha hồ nhờ đám lò xo
bên dưới.
Chính ở đó Trần Đới đã làm thơ rồi đưa Bùi Giáng đọc, có lần
Bùi Giáng đọc xong đã nhắc ông hãy tránh lối nói đao to búa lớn: “Chuyện
như kia mà nói lời như thế, đó là lời tục tĩu của bọn phàm phu muốn bắt
chước các ông thánh. Siêu thực không phải chỉ là chuyện ở trên mây.
Càng không nên bắt chước lối nói của Phật, Chúa, Khổng, Lão. Phật, Chúa,
Khổng, Lão đang nằm nhún nhảy, giỡn cười và hút thuốc trên giường đây
nè! Chú mày hãy nghe tiếng cút kít của chiếc giường và nhận ra pháp âm
của đạo. Ngôn ngữ của thi ca là cảm tính đi trước, tư tưởng đi sau…”.
Và
muốn làm thơ lục bát nên đọc và ngẫm các câu: “Đồn xa quằn quại bóng cờ/Phất phơ buồn tự thời xưa trở về… Người lên ngựa kẻ chia bào/Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san…
Cặp trên của ai vậy anh? - Huy Cận. - Dưới thì Kiều… - Ừ. - Rứa còn của
anh? câu nào mà anh cho là đạt nhất? - Ông lộn xộn hoài… Muốn gì đấy?
Mưa nguồn và Lá. Nhưng đọc xong thì quên tuốt mẹ nó đi. Hãy quên, tất cả
những gì mà từ trước đến nay đã biết. Hãy quên đi rồi hãy viết. Hãy
viết như viết trong chiêm bao: nơi đó mọi thứ đã trộn lẫn. Một thứ trộn
lẫn đầy cảm động và mãnh liệt. Đừng có chằm hăm vào một cái gì, một chỗ
nào. Hãy nên chằm hăm vào rạt rào, như vậy, như vậy… - Vậy vậy!”.
|
Vừa
nói, Trần Đới vừa đưa chúng tôi xem tập san kỷ niệm Bùi Giáng in đã lâu
nhưng chỉ phổ biến rất hạn chế trong vòng thân hữu chứ chưa rộng rãi và
bảo chúng tôi nếu thấy được hãy trích giới thiệu với bạn đọc trẻ ngày
nay, trong đó có đoạn Trần Đới hỏi: “- Lô hỏa thuần thanh là chi rứa
anh Bùi?” - “Ngọn lửa đã xanh… Lửa đã xanh thì tươi mát như ngọn lá đa
mới nở. Nhưng sức nóng mãnh liệt của nó xuyên thủng bất cứ thứ cứng rắn
nào”. Trần Đới cũng nhắc đến một người: Phạm Mạnh Hiên - tác giả của một bài viết khác trong tập san trên, trích dưới đây:
“Tôi
nhớ năm 1973, nhà văn Mai Thảo (đã chết ở Mỹ) và Nguyễn Xuân Hoàng lúc
đó đang trông coi tập san Văn có ý muốn làm số đặc biệt về Bùi Giáng.
Tôi vốn mê thơ Bùi Giáng từ lâu, dù chưa được gặp anh, tôi xăng xái viết
cho Văn một lúc hai bài (ký bút danh Nam Chữ và Thục Khưu). Báo ra, một
bữa tôi đến tòa soạn lãnh nhuận bút, bất ngờ gặp Bùi Giáng ở đấy. Sau
lời giới thiệu của N.X.H rồi cùng kéo nhau ra quán cóc bên hông tòa soạn
uống lave.
Thế là tôi đã được gặp Bùi Giáng, một Bùi Giáng bằng xương
bằng thịt hẳn hoi! Tôi cảm thấy vô cùng mãn nguyện đồng thời cảm thấy
nhỏ bé trước anh vô cùng. Từ đó giữa anh Bùi Giáng và tôi trở nên thân
thiết. Anh Bùi Giáng ở một góc nhỏ trong căn phòng rộng với vài vị sư
khác trong Viện đại học Vạn Hạnh. Tôi thường lên anh chơi. “Tài sản” của
anh chỉ có chiếc giường sắt cá nhân, manh chiếu mỏng, dưới gầm giường
lủ khủ đủ thứ loại sách. Tôi rất ngạc nhiên, sau bao nhiêu năm thân
thiết với anh, chẳng bao giờ tôi thấy anh ngồi bàn viết (mà bên chỗ anh
nghỉ ngơi cũng không có chiếc bàn chiếc ghế nào).
Lúc nào anh cũng nằm
ngửa viết, nằm ngửa đọc trên chiếc giường cá nhân của mình. Anh viết
nhanh, viết nhiều bằng những cuốn vở tập học sinh, những cuốn sổ dày kẻ
ca-rô. Tôi thường cùng anh ngao du khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, bất kể đêm
ngày. Những lúc đó tôi thấy anh làm thơ sao mà dễ dàng, ngồi đứng gì chữ
cũng cứ theo ngòi bút trên tay anh trào ra ào ạt. Anh làm thơ bất cứ
đâu, bất cứ chỗ nào, miễn là trên tay anh có bút giấy hay những trang
sách nào đó cũng được, đặc biệt sách nào anh đọc qua đều thấy chằng chịt
những ghi chú lẫn cả thơ anh viết. Được đi ngao du với anh như thế cũng
là đã lắm rồi. Có lần say ngất ngưởng, sáng tỉnh dậy, thấy mình đang
nằm ở vỉa hè. Thú vị xen lẫn với ngỡ ngàng, ngơ ngác!”. (Còn nữa).
Giao Hưởng
Điểm Tin & Tư Liệu(Người Lót Gạch)
NGHỆ THUẬT QUỐC TẾ
VĂN HOÁ -
Bài đăng : Thứ năm 19 Tháng Chín 2013 -
Sửa đổi lần cuối Thứ năm 19 Tháng Chín 2013
New York vinh danh nữ nghệ sĩ Edith Piaf
Hai đêm nhạc được tổ chức tại thành phố New York để tưởng nhớ
nữ danh ca Pháp Edith Piaf. Tác giả của những « La Vie En Rose » hay «
Milord », «L’Hymne à l’Amour » vẫn chiếm một vị trí riêng biệt trong
lòng người dân New York.
Đêm nay 19/09/2013, tại Beacon Theatre ngay trung tâm thành phố
New York, gần 20 danh ca Pháp với những tên tuổi như Patricia Kaas,
Zaz, Christophe Willem, Harry Connick Jr., Duffy, Madeleine Peyroux,
Angelique Kidjo, Alex Hepburn, Beth Ditto, Olivia Ruiz, cùng tham gia
một đêm trình diễn đặc biệt để tưởng niệm cố nghệ sĩ Edith Piaf. Ca sĩ
gạo cội Charles Aznavour, người năm 1946 đã bước chân vào thế giới ca
nhạc dưới sự dẫn dắt của chính Edith Piaf nhẽ ra là khách mời danh dự
của buổi nhạc hội đêm nay. Nhưng vào giờ chót ông phải cáo lỗi cùng khán
giả New York vì lịch trình diễn dày đặc. Ban tổ chức chờ đợi 2 900 chỗ
ngồi trong nhà hát sẽ đông kín khán giả.
Buổi tưởng niệm Edith Piaf thứ nhì sẽ diễn ra vào đêm mai 20/09/2013
tại Town Hall. Nữ danh ca Patricia Kaas sẽ chỉ hát những ca khúc bất tử
của Edith Piaf xưa kia. New York có một chỗ đứng riêng biệt trong cuộc
đời và sự nghiệp của nữ danh ca người Pháp đã qua đời cách nay đúng 50
năm. New York là nơi mà vào năm 1947 Piaf đã chọn làm bệ phóng để khởi
đầu sự nghiệp của bà trên đất Mỹ. Bà đã học tiếng Anh tại đây và đã
thành lập ban nhạc Les Compagnons de la Chanson để chinh phục khán giả
Mỹ.
Sự nghiệp của bà trên đất Hoa Kỳ suýt trở thành một cơn ác mộng, nếu như không có một nhà phê bình đề cao giá trị nghệ thuật « độc nhất vô nhị
» của người nghệ sĩ này. Thế rồi, một phòng trà nổi tiếng ở khu
Manhattan đã ký hợp đồng 4 tháng với Edithi Piaf. Nhưng duyên nợ còn
dài, Piaf lui tới quán « cabaret » này trong rất nhiều năm ròng rã.
Cũng tại New York Edith Piaf đã kết bạn với ngôi sao điện ảnh Marlène
Dietrich. Đây cũng là nơi bà gặp được mối tình lớn nhấn suốt cuộc đời :
Võ sĩ quyền anh, Marcel Cerdan. Thế nhưng cũng trên sân khấu New York,
năm 1949 Edith Piaf, hay tin người tình Marcel Cerdan tử nạn trong một
chuyến bay khi ông sang New York gặp bà.
Ba năm sau đó, cũng tại New York, người nghệ sĩ chỉ xuất hiện trên
sân khấu trong các bộ trang phục màu đen, Piaf đã kết hôn với ca sĩ
Jacques Pills, một đồng hương của bà. Đấy chỉ là một cuộc hôn nhân ngắn
ngủi.
Ở vào cuối thập niên 50, Edith Piaf là một ngôi sao trong làng giải
trí ở Hoa Kỳ. Bà là một trong những nghệ sĩ Pháp hiếm hoi được vinh dự
trình diễn nhiều lần tại nhà hát nổi tiếng nhất New York là Carnegie
Hall.
Sức khỏe suy yếu dần, năm 1959 Edith Piaf ngã gục ngay trên sân khấu
New York. Ngày 10/10/1963, Piaf qua đời ở Grasse, một thành phố đầy nắng
ấm. Thọ 47 tuổi. Edith Piaf để lại một di sản nghệ thuật đồ sộ hơn 100
bài ca bất hủ, gần một chục bộ phim. Edith Piaf còn là người đã dẫn dắt
những thế hệ nghệ sĩ trẻ như Yves Montand, Georges Moustaki, hay Charles
Aznavour trong những bước đầu trên con đường dài nghệ thuật.
Sao bạc ngân hà : Nguồn gốc cha cha
Trong số các nhịp điệu La Tinh, cha cha cha có lẽ là một trong những dòng nhạc khiêu vũ phổ biến nhất. Phần lớn cũng vì thể điệu này đơn giản và dễ nhảy hơn nhiều so với các vũ điệu mambo và salsa. Một cách chính thức, điệu cha cha cha sinh ra vào năm 1954, nhưng thật ra đã manh nha từ vài năm trước đó.
Điệu cha
cha ra đời tại thành phố La Havana gần hai thập niên sau thể điệu mambo,
và cả hai dòng nhạc này, đều là biến thể từ nhịp điệu danzón. Người
sáng chế ra thể điệu cha cha là nhạc sĩ kiêm tác giả người Cuba Enrique
Jorrín (1926-1987).
Sinh tại Pinar del Rio, Enrique học đàn vĩ cầm từ năm 12 tuổi. Nhờ có
năng khiếu, nên ông được tuyển vào nhạc viện thành phố La Havana. Sau
khi tốt nghiệp, ông bắt đầu đi diễn với dàn nhạc của Học viện Quốc gia
Âm nhạc (Cuba's National Institute of Music) dưới sự điều khiển của nhạc
trưởng González Mántici.
Từ cuối những năm 1940, Enrique Jorrín bắt đầu sáng tác khi ông tham
gia vào nhiều ban nhạc nhẹ (thường được gọi là charanga), trong đó có
nhóm Hermanos Contreras và nhất là dàn nhạc Orquesta América, dưới sự
điều khiển của nhạc sư Ninón Mondéjar. Dàn nhạc này chuyên biểu diễn
tại vũ trường Silver Star (có nghĩa là Sao Bạc), một trong những câu lạc
bộ khiêu vũ nổi tiếng nhất La Havana thời bấy giờ.
Theo
lời kể của chính tác giả Enrique Jorrín được nhà nghiên cứu Helio
Oravio (1934-2008) ghi chép lại trong quyển tự điển âm nhạc Cuba,
Diccionario de la Música Cubana, xuất bản vào năm 1981, thì bản nhạc cha
cha đầu tiên là bài La Engañadora do Enrique Jorrín sáng tác vào năm
1951. Bài này ban đầu được chơi theo thể điệu mambo, nhưng Enrique nhận
thấy rằng mambo hơi khó nhảy do có quá nhiều nhịp lẻ.
Bước nhảy của mambo dựa theo nhịp lẻ (syncope), chứ không trên nhịp
mạnh (beat). Tác giả này khi sáng tác mới đơn giản hóa giai điệu, chỉ
giữ lại những nhịp lẻ cần thiết nhất. Ông đem thể điệu này vào thử
nghiệm trong bản nhạc La Engañadora, mở đầu với nhịp điệu đơn giản, đến
phần cuối bài hát mới biến tấu phức tạp hơn một chút, thành điệu mambo.
Về từ ngữ, chữ cha cha cha xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1954, đánh
dấu ngày ra đời chính thức của thể điệu này, cho dù cha cha đã được thử
nghiệm từ vài năm trước đó. Theo nhà báo Israel Sanchez Coll, người đã
viết quyển tiểu sử về Enrique Jorrín, thì tác giả này lần đầu tiên dùng
chữ cha cha cha là trong nhạc phẩm Silver Star, y hệt như cái tên gọi
của vũ trường nổi tiếng thủ đô La Havana.
Chữ
cha cha cha chính là cái tiếng động của nhịp chân trên sàn gỗ, ở cuối
câu thường có ba bước nhảy liền nhịp. Tuy không phải là bài cha cha quen
thuộc nhất, nhưng ít ra, Silver Star đã định hình nền tảng cho các bước
nhảy cơ bản sau này.
Khi nhắc tới các bài cha cha lừng danh trên khắp thế giới, rất quen
thuộc với công chúng ở mọi nơi, thì nhiều người thường hay nghĩ tới
những bài như Muñequita Linda (Búp bê xinh xắn) còn có tiểu tựa là Te
Quiero Dijiste, bản Quien Sera, tức là Sway trong tiếng Anh hay là Đêm
Vui theo cách đặt lời của tác giả Anh Bằng, bài Quizas Quizas (Nào biết
Nào hay).
Bài Pepito Mi Corazón từng được dịch sang tiếng Việt thành bản Người
tình Nam Mỹ hay là nhạc phẩm Cherry Pink and Apple Blossom White từng
được tác giả Từ Vũ dịch thành nhạc phẩm Cánh bướm vườn xuân trong tiếng
Việt (ông cũng là người viết lời Việt Cánh buồm xa xưa cho bài La
Paloma), cho dù nhiều ca khúc được chuyển thể theo điệu cha cha, chứ
không phải được viết ban đầu cho thể điệu này.
Bút sa gà chết. Ở đây phải nhắc tới trường hợp của bản Cherry Pink,
tiêu biểu cho cách dùng hình tượng sai lầm mà không chi tháo gỡ nổi, một
khi đã ghi âm. Trong nguyên tác, đây là một ca khúc tiếng Pháp mang tựa
đề Cerisier rose et pommier blanc (Hoa anh đào màu hồng và hoa táo màu
trắng), của nhạc sĩ Louiguy, nghệ danh viết tắt từ tên thật của ông là
Louis Guglielmi (1916-1994).
Người đặt lời cho bài hát là Jacques Larue. Trong bản nhạc này, ông dùng hình tượng của hai loài cây ăn trái đang trổ hoa. Khổ nổi, cây anh đào (cerisier) của châu Âu trước khi sinh trái thường trổ hoa màu trắng còn cây táo (pommier) thì lại trổ hoa màu hồng. Chỉ có hoa anh đào Nhật Bản thuộc vào dạng cây kiểng, mới trổ hoa sắc hồng nhưng lại không sinh trái. Thành ra nếu viết cho thật chính xác thì phải viết là Hoa anh đào trắng, hoa táo màu hồng, chứ không thể nào mà viết ngược lại.
Có người nói đùa rằng, do tác giả Jacques Larue sống ở thành thị,
chưa bao giờ thấy cây ăn trái trổ hoa, nên ông mới nhầm lẫn đến nỗi dùng
hai sắc hoa trái ngược hẳn nhau. Sai lầm này sau đó được lặp đi lặp lại
vì các phiên bản phóng tác bám sát nguyên tác tiếng Pháp, bài từng được
dịch sang tiếng Anh là Cherry Pink, còn trong tiếng Tây Ban Nha là
Cereza Rosa. Thế nhưng, điều đó dường như không phải là một trở ngại
lớn, vì bài hát này rất ăn khách với cả ngàn phiên bản trong nhiều thứ
tiếng.
Từ
khi ra đời cho tới nay, điệu cha cha tiếp tục ăn khách qua nhiều thời
kỳ khác nhau, giai đoạn cực thịnh của thể điệu này vẫn là vào những năm
1960. Các nước châu Á như Việt Nam, Thái Lan, Philippines, các quốc gia
Trung Đông như Ai Cập và Liban, các nước Trung Mỹ như Mêhicô hay
Guetemala đều duy trì truyền thống sáng tác nhạc cha cha. Còn tại Tây
Âu, công chúng cỏ vẻ yêu thích salsa và bossa nova nhiều hơn.
Điệu cha cha gắn liền với những hình ảnh cổ xưa hoài niệm. Các tác
giả thời nay khi viết nhạc theo điệu cha cha thật ra muốn tạo thế đối
trọng, muốn đi ngược lại các trào lưu thời thượng. Một ví dụ điển hình
là bài Joe Le Taxi (1987) qua phần thể hiện của Vanessa Paradis ra đời
vào lúc mà nhạc pop đang trở nên cực thịnh tại Pháp. Một cách tương tự,
bài Smooth Operator của Sade phá kỷ lục số bán vì mang sắc thái âm thanh
hoàn toàn khác biệt so với phong trào new wave thịnh hành tại Anh Mỹ
thời bấy giờ.
Thời nay, ít có người nào còn để ý tác giả Enrique Jorrín là ai. Cho
dù lối sáng tác của ông đã đặt ra khuôn mẫu cho nhiều bản nhạc sau đó,
các bài cha cha thường hay chuyển nhịp thành mambo trong các đoạn nhạc
chuyển tiếp hay ở phần điệp khúc cuối. Hầu như ai ai cũng không còn để ý
đến cái thuở khai sinh của thể điệu cha cha, thời mà dàn nhạc Orquesta
America tung hoành tại vũ trường Silverstar, thời mà những gót chân ngọc
ngà bước ra sàn nhảy thướt tha, thời của những tà áo dạ hội lấp lánh
kiêu sa muôn ánh sao bạc ngân hà.
http://www.viet.rfi.fr/van-hoa/20131005-sao-bac-ngan-ha-nguon-goc-cha-cha
http://www.viet.rfi.fr/van-hoa/20131005-sao-bac-ngan-ha-nguon-goc-cha-cha
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 280
ÂM NHẠC DÂN TỘC = THƠ Ý NGA = TRUYỆN NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG= SAIGON
VŨ HOÀNG * ÂM NHẠC DÂN TỘC
Âm nhạc dân tộc mất dần chỗ đứng
Nghệ thuật dân tộc đang trở nên bơ vơ, lạc lõng trước cơ chế thị
trường, xu hướng sính nhạc ngoại, quay lưng với âm nhạc dân tộc của phần
lớn giới trẻ ngày càng đáng báo động…hay nhạc dân tộc thưa vắng người nghe, mất dần bản sắc, biến dạng và mất chất… đang là những điều trăn trở suy nghĩ của nhiều nhà nghiên cứu và thẩm định âm nhạc tại Việt Nam.
Trách nhiệm về ai
Những điều tâm huyết này đã được chia sẻ trong hội thảo khoa học “Âm nhạc dân tộc với cuộc sống hôm nay” do Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc tổ chức hồi tháng 8 vừa qua tại TPHCM.
Nếu nhìn vào thực trạng của âm nhạc Việt Nam, người ta thực sự lo
lắng khi thấy đa số thanh thiếu niên hiện giờ rất sành điệu với các trào
lưu pop, rock, nhạc Hàn, nhạc Hoa, anh Ngữ mà đang quay lưng lại với
chính âm nhạc dân tộc, âm nhạc dân tộc đang mất dần vị trí trong thị
hiếu nghe nhìn trong giới trẻ Việt. Liệu đó là lỗi của họ, của những
người nghệ sĩ làm nhạc dân tộc hay xét rộng ra là lỗi của một chính sách
bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam? Câu hỏi hẳn không
dễ trả lời phải không thưa quí vị?
Tính cho đến thời điểm này, Việt Nam đã có 5 di sản văn hóa phi vật
thể liên quan đến âm nhạc được UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên Hiệp Quốc) công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
và truyền khẩu nhân loại, đó là: nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn
hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Quan họ và Hát Xoan Phú Thọ. Nhưng
vì sao giới trẻ ngày càng thờ ơ lãnh đạm với âm nhạc dân tộc, vì sao
nhiều năm trời, dòng nhạc dân tộc không có tác phẩm nào thực sự xứng
tầm… Chia sẻ với chúng tôi những băn khoăn, trăn trở của dòng nhạc dân
tộc, G.S, T.S Trần Quang Hải, người bỏ tâm huyết nghiên cứu nhạc dân tộc
nhiều chục năm qua, tỏ rõ lo âu:
Vấn đề bảo tồn dân ca người ta đã nói rất nhiều, nhưng đến khi thực hiện lại không có gì hết. Thí dụ về ca trù...ca trù được tôn vinh là di sản văn hóa phi vật thể do UNESCO phong tặng năm 2009...bây giờ tại Việt Nam, tôi thấy những nghệ sĩ lớn tuổi không được giúp đỡ, bồi dưỡng, còn những người trẻ thì lại hướng về nhạc ngoại lai, nhạc Hàn, nhạc Tây phương
G.S, T.S Trần Quang Hải
Vấn đề bảo tồn (dân ca) người ta đã nói rất nhiều, nhưng đến
khi thực hiện lại không có gì hết. Tôi lấy một thí dụ về ca trù. Kể từ
khi ca trù được tôn vinh là di sản văn hóa phi vật thể do UNESCO phong
tặng năm 2009. Theo luật của UNESCO, khi được đưa vào danh sách của di
sản văn hóa phi vật thể cần được khẩn cấp cứu trợ, trong vòng 4 năm phải
làm kiến nghị báo cáo đưa ra tất cả những gì cho thấy rằng bảo tồn có
được chính phủ lưu ý tới cũng như vấn đề phát triển và phát triển như
thế nào. Sau 4 năm, bây giờ tại Việt Nam, tôi thấy những (nghệ sĩ) lớn
tuổi không được giúp đỡ, bồi dưỡng, còn những người trẻ thì lại hướng về
nhạc ngoại lai, nhạc Hàn, nhạc Tây phương, hip hop, techno, rap rồi
nhạc pop.
Thưa quí vị, theo giáo sư Trần Quang Hải, những người đi học về
đàn tranh hay các nhạc cụ cổ truyền khi ra trường rất khó kiếm được việc
làm mưu sinh, còn những người đi học ca trù thì tương lai cũng không
biết làm sao cả, trong khi những nghệ sĩ này phải bỏ ra 5 – 7 năm để học
tập, chưa kể điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn. G.S Trần Quang Hải
chia sẻ thêm:
Còn những loại khác như quan họ, hát xoan… chúng ta có rất
nhiều, nói rất nhiều, ai nấy cũng đều muốn truyền thống âm nhạc của
tỉnh, của làng mình phát triển và kêu gọi, để sao cho loại nhạc đó được
phát triển đúng theo đường lối của ông cha ta để lại. Thế nhưng, bây giờ
càng ngày càng đi xa, mang lên sân khấu, pha trộn với những điệu vũ vào
trong đó, thí dụ, hát quan họ giờ không còn hát chay, hát mộc nữa mà là
phải hát có nhạc đệm, thành ra tất cả những điều đó hoàn toàn đi sai
hết so với những gì mà UNESCO đưa ra để giúp cho những truyền thống đó
được bảo tồn một cách chính xác.
Tìm giải pháp
Dưới góc nhìn của một người đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về
âm nhạc dân tộc, cũng như đã từng góp ý nhiều cho nghệ thuật dân gian
nước nhà trong những đợt xét tặng của UNESCO cho các di sản văn hóa phi
vật thể Việt Nam, G.S Trần Quang Hải cho rằng, một mặt nhờ có phong tặng
của UNESCO mà các thể loại dân ca truyền thống của VN được bè bạn quốc
tế biết đến nhiều hơn, nhưng mặt tiêu cực lại là ý thức của những người
khai thác và sử dụng các giá trị văn hóa này, họ đã khiến cho các truyền
thống đó bị đi sai lệch:
Chúng ta cần phải nhận thức rằng những báu vật sống ngày càng ra đi và để lại một lỗ trống rất lớn, không có một chương trình giáo dục nào đưa nhạc cổ truyền vào trong trường học và phải khuyến khích làm sao để có được những chỗ cho những người đi học nhạc cổ truyền có nơi dạy, học và phát triển
G.S, T.S Trần Quang Hải
Tôi thấy UNESCO đã tôn vinh những loại nhạc đó không
phải là để đem lại một sự ích lợi, mà rốt cuộc lại làm cho những truyền
thống đó càng ngày càng đi sai lệch, vì thế đó là một điều rất hại và
Việt Nam đã tốn rất nhiều tiền để được một danh hiệu của UNESCO. Rồi từ
đó, họ lại khai thác, lợi dụng dùng vào trong du lịch, dùng vào trong
chiều hướng hoàn toàn đi phản lại đường lối của nhạc cổ truyền. Thành
ra, tôi thấy rằng điều đó càng ngày càng làm cho nhạc cổ truyền càng
ngày càng đi vào chỗ bế tắc và sẽ không bao giờ có thể thoát ra được.
Vậy không lẽ, dân ca Việt Nam sẽ đi vào chỗ bế tắc khi người làm nghệ
thuật dân ca thì không ý thức được hết cách bảo tồn, trong khi, giới
thưởng thức trẻ tuổi thì không mặn mà với truyền thống dân tộc. Câu hỏi
mang tính giải pháp nào cho nhạc dân tộc Việt Nam được chúng tôi đưa ra
và G.S Trần Quang Hải bộc bạch:
Chúng ta cần phải nhận thức rằng những báu vật sống ngày càng ra đi và để lại một lỗ trống rất lớn, không có một chương trình giáo dục nào đưa nhạc cổ truyền vào trong trường học và phải khuyến khích làm sao để có được những chỗ cho những người đi học nhạc cổ truyền có nơi dạy, học và phát triển. Đồng thời, làm sao phải bồi dưỡng cho những báu vật sống có đủ kinh tế để sống, từ đó, họ mới có thể truyền lại và những người học nhạc cổ truyền mới thấy được đó là phương pháp, điều kiện có thể sinh sống được, chứ không phải chỉ học chơi. Vì vậy, đó không phải chỉ là một vấn đề cho một vài người trong chúng ta kêu gọi được, mà đây là cả một đường lối chung của một chính phủ, cơ quan giáo dục, để từ đó, tạo nên một sự hợp tác chung của tất cả các nghệ nhân trên khắp Việt Nam.
G.S Trần Văn Khê, cha ruột G.S Trần Quang Hải từng nhận định “nếu để mất âm nhạc truyền thống thì ngàn vàng không thể mua lại được, mọi hành động quay lưng với văn hóa là có tội với tổ tiên.” Hi vọng rằng, với sự chung tay góp sức của các cơ quan phụ trách văn hóa, các nghệ sĩ âm nhạc dân ca tâm huyết, và hơn hết là ý thức bảo tồn các giá trị truyền thống của mỗi chúng ta, mà nghệ thuật âm nhạc dân tộc sẽ mãi trường tồn như một minh chứng cho sự phong phú và giàu có của nền âm nhạc Việt Nam cổ truyền.
Xin hẹn quý vị trong chương trình kỳ tới
Chúng ta cần phải nhận thức rằng những báu vật sống ngày càng ra đi và để lại một lỗ trống rất lớn, không có một chương trình giáo dục nào đưa nhạc cổ truyền vào trong trường học và phải khuyến khích làm sao để có được những chỗ cho những người đi học nhạc cổ truyền có nơi dạy, học và phát triển. Đồng thời, làm sao phải bồi dưỡng cho những báu vật sống có đủ kinh tế để sống, từ đó, họ mới có thể truyền lại và những người học nhạc cổ truyền mới thấy được đó là phương pháp, điều kiện có thể sinh sống được, chứ không phải chỉ học chơi. Vì vậy, đó không phải chỉ là một vấn đề cho một vài người trong chúng ta kêu gọi được, mà đây là cả một đường lối chung của một chính phủ, cơ quan giáo dục, để từ đó, tạo nên một sự hợp tác chung của tất cả các nghệ nhân trên khắp Việt Nam.
G.S Trần Văn Khê, cha ruột G.S Trần Quang Hải từng nhận định “nếu để mất âm nhạc truyền thống thì ngàn vàng không thể mua lại được, mọi hành động quay lưng với văn hóa là có tội với tổ tiên.” Hi vọng rằng, với sự chung tay góp sức của các cơ quan phụ trách văn hóa, các nghệ sĩ âm nhạc dân ca tâm huyết, và hơn hết là ý thức bảo tồn các giá trị truyền thống của mỗi chúng ta, mà nghệ thuật âm nhạc dân tộc sẽ mãi trường tồn như một minh chứng cho sự phong phú và giàu có của nền âm nhạc Việt Nam cổ truyền.
Xin hẹn quý vị trong chương trình kỳ tới
Tin, bài liên quan
- Âm nhạc dân tộc mất dần chỗ đứng
- Giáo sư Trần Quang Hải – Vua Muỗng Việt Nam
- Giáo sư Trần Quang Hải – Vua Muỗng Việt Nam
- Danh ca Bạch Yến
- Danh ca Bạch Yến
- Xu hướng "Hướng Ngoại" của nhạc Việt
- Xu hướng "Hướng Ngoại" của nhạc Việt
- Nghệ sĩ Đăng Khánh và nhạc phổ thơ
- Nghệ sĩ Đăng Khánh và nhạc phổ thơ
THƠ Ý NGA
TỨC NƯỚC VỠ BỜ.
Cần Thơ, Cần Giuộc, Cần Giờ…
Cần nào cần… cấp đổi cờ Việt Nam?
Trảng Bàng, Cần Đước, Trảng Bom
Trảng nào lập lại cảo thơm anh hùng?
Bình Tuy, Bình Định, Bình Dương
Bình nào bình… định? Can trường dân oan?
Bảo An, An Lộc, Nghệ An…
An nào an… táng vô thần bất công?
Bình Long, Long Khánh, Vĩnh Long
Long nào long huyệt: Tiên Rồng đừng…giun?
Thanh niên! Xin hãy trực ngôn,
Trổ tài thao lược càn khôn, dân nhờ.
Ý Nga và Thế Vinh 19-9-2013.
Saturday, September 21, 2013
NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG * VỢ CHỒNG KHẮC KHẨU
VỢ CHỒNG KHẮC KHẨU
NGUYỄN
THỊ THANH DƯƠNG
Bao
giờ đi chợ chị Bông cũng đến khu trái cây trước để hi vọng chọn lựa được những
thứ tươi ngon kẻo người khác chọn mất khi nhân viên trong chợ chưa kịp bày hàng
khác ra. Đi chợ “bon chen” là thế.
Ngay
cả khi chị Bông chuẩn bị đậu xe vào bãi parking lúc nãy cũng là chuyện được
thua, chị đang nhắm cái chỗ dễ vào nhất nhưng chậm chạp chưa kịp lái vào thì ai
đó đã xẹt một cái chiếm chỗ đậu ấy, chẳng lẽ chị xuống xe và nói “ông ơi, chỗ
này tôi đã chọn rồi” và cãi nhau với ông ta.
Chị
Bông đang lựa những trái chuối màu vàng tươi da mịn màng cho đúng ý thì gặp một
ông người Việt Nam lớn tuổi cũng vừa đến và đứng xớ rớ trước quầy chuối, chị
Bông nghĩ chắc bác gái đang bận mua rau mua cá nên chia việc cho ông chồng mua
chuối chăng?
Chị
đến gần ông và ân cần hỏi:
-
Bác ơi để tôi lựa chuối giúp. Bác cấn mua mấy pound?
-
Chị lấy cho tôi 3 qủa.
-
Sao mua ít thế? Bác gái dặn mua mấy pound?
Nghe
nhắc đến “bác gái” ông gìa khoảng hơn 70 tuổi được dịp khai ra làm như đã quen
chị Bông từ đời nào rồi:
-Tôi và bà ấy ở riêng, ăn
riêng. Bà về ở với vợ chồng đứa con gái chỉ thỉnh thoảng tạt về nhà, còn tôi ở
nhà một mình, ăn 3 qủa chuối đủ rồi chị ạ.
Chị
Bông tò mò khai thác:
-Chắc
bác gái về ở phụ giúp cho con cho cháu chứ nỡ lòng nào để bác trai lui cui một
mình?
-Bà
ấy đi thật đấy vì tôi với bà khắc khẩu, hễ tôi nói điều gì là bà ấy cãi, ngược
lại bà nói câu gì tôi cũng cảm thấy ngứa tai lắm nhịn không nổi. Thế là hai vợ
chồng cãi nhau cả ngày lẫn đêm.
-Sao
lại cãi nhau cả ban đêm hở bác?.
-Hai
vợ chồng ở nhà diện housing, thuê căn chung cư 1 phòng ngủ, cái giường ngủ của
con gái mua cho rộng mênh mông, bà ngủ hay đạp lung tung tôi đã nhịn, đêm lục đục
ngồi dậy đi tiểu mấy lần tôi cũng nhịn, nhưng bà ấy lại không chịu nhịn tôi, cứ
phàn nàn là tôi ngủ ngáy ầm ĩ như người ta cưa gỗ. Tôi lại nhịn lần nữa, phải
kê cái giường nhỏ ngoài phòng khách để ngủ thế mà vẫn không yên, bà vẫn kêu ca
tiếng ngáy của tôi…vang vọng vào bên trong làm bà mất ngủ kinh niên. Thành ra
đêm nào đi ngủ cũng cãi nhau và cả hai cùng mất ngủ.
-Nhưng
ngày xưa bác ngủ có ngáy to thế không? Ăn ở với nhau bao nhiêu năm bác gái
không quen thuộc với tiếng ngáy của chồng sao?
-Ngày
xưa cái hồi mới cưới nhau đấy, bà ấy thường nũng nịu rằng tiếng ngáy của anh ru
em vào giấc ngủ thần tiên. Nhưng bây giờ bà bảo tuổi gìa khó ngủ và không thể
chịu được tiếng ngáy của tôi. Tôi liền bảo vậy bà đi đâu thì đi cho bà ngủ ngon
và cho tôi khuất mắt, bà liền cuốn gói đến nhà con gái.
Chị
Bông an ủi:
-
Tuổi gìa ai cũng đổi tính đổi nết bác ạ, đừng nên trách bác gái.…
Ông
đưa tay lên vuốt mấy sợi tóc may mắn còn loe ngoe trên cái đầu hói mênh mông:
-Mỗi
lần tôi đi ra tiệm cắt mái tóc này phải cãi nhau xong một trận mới đi được vì
bà mắng tôi đầu có 3 cọng tóc cắt làm gì cho phí tiền, để bà ấy cắt cho. Mà bà
cắt thì tôi không vừa ý tí nào, bắt tôi nghiêng đầu bên này, ngoẹo đầu bên kia
rồi cúi lên cúi xuống mỏi cả cổ.
Chị
Bông giật mình nghĩ tới vợ chồng chị. Hai vợ chồng cũng khắc khẩu, đụng tới
chuyện gì cũng bất đồng, cũng tranh cãi. Không biết mai kia vợ chồng chị gìa
như bác này có đổi tính đổi nết và tình trạng khắc khẩu có trầm trọng thêm
không?
-Thế
bác tự đi chợ tự nấu cơm hả bác?
-Bà
ấy hay con gái mang đồ ăn sang cho tôi, thỉnh thoảng tôi cần thứ gì thì đi mua
thêm như ngày hôm nay cần 3 qủa chuối, nhà tôi cách chợ này chỉ một block đường
tôi đi bộ cho khỏe người
-Đằng
nào cũng công đi bộ, công vào chợ và công đợi tính tiền sao bác không mua hẳn mấy
pao chuối
-Ấy,
bà ấy ở nhà cũng nói y như chị nói và mắng tôi là lẩm cẩm.. Thôi, chào chị tôi
về trước nhé.
Nàng
xách cái bịch có 3 qủa chuối đi ra phía quầy tình tiền và chắc phải xếp hàng rồng
rắn khá lâu vì hôm nay cuối tuần chợ đông người..
***
Chị
Bông đi chợ về đến nhà, xách các túi hàng vào trong bếp nơi gần cái tủ lạnh.
Anh Bông đang nằm gác chân trên ghế sofa xem ti vi..Chị đi ra đi vào mấy lượt
mà anh chẳng nói gì, chị phải lên tiếng:
-Anh
có ra xách giùm mấy món hàng chợ không nào?
-Không
! Giọng anh Bông rõ ràng và dứt khoát.
Chị
Bông khó chịu:
-
Vợ đi chợ về bận túi bụi còn chồng ngồi khểnh ra đấy xem ti vi và uống bia, vợ
nhờ một tí không được.
Anh
Bông đang uống bia chắc có chút men nên gắt:
-Anh
cắt cỏ xong mới vừa tắm rửa và ngồi xem ti vi đây, cái lối nói “nhờ vả” như
“sai khiến” của em thì dù anh muốn giúp cũng không thèm giúp.
-Vậy
anh muốn em nói thế nào? Năn nỉ hả? Thì đây, anh ơi làm ơn làm phước ra xách
giùm em mấy túi hàng, em cám ơn anh suốt đời.
-OK,
dù giọng nói của em đành hanh và mỉa mai.
Anh
Bông ra xe xách nốt những túi hàng vào nhà và phụ vợ lôi hàng ra để chị Bông xếp
vào tủ lạnh cho nhanh. Anh cầm gói đồ biển thập cẩm đông lạnh lên ngắm nghía rồi
thảng thốt:
-Sao
em mua hàng China ? Trong khi chính miệng em thường nói tẩy chay hàng của họ vì
nhiều hàng rổm và độc hại…
Chị
Bông cầm gói hàng lên xem lại và bào chữa:
-Tại
hôm nay đi chợ em… quên mang theo mắt kính, mà hàng Trung Quốc nào cũng chuyên
môn in xuất xứ nhỏ xíu hay mập mờ không rõ nguồn gốc. Nhìn sơ sơ mẫu mã em cứ
tưởng hàng của Korea .
-Em
thì lúc nào cũng tưởng đến hoang tưởng, cũng có lý do chính đáng cho những sai
sót của mình. Hôm nọ cũng mua lộn hàng China rồi…
-À,
hôm ấy em... lộn kiểu khác, em xớn xác đọc thấy hàng chữ CA, USA em… tưởng sản
xuất tại California USA hóa ra là distributed là phân phối bởi công ty ở California,
USA. Mà họ láu cá lắm, “Product of China” thì in nhỏ xíu, công ty distribute tại
CA, USA thì in to tổ bố hỏi ai không lầm
-Họ
tự ti mặc cảm với chính món hàng mình sản xuất, nên không dám in to in đậm,
đúng là thứ làm ăn gian dối. Em phải ra chợ trả lại ngay gói hải sản thập cẩm
này. Anh thà nhịn chứ không ăn hàng rổm, là vô tình ủng hộ cách làm ăn gian dối
của họ.
-Vâng,
em sẽ trả lại Anh yên chí đi
Chị
lấy lòng chồng, vì biết anh Bông rất bất mãn Trung Quốc chiếm đất chiếm biển của
Việt Nam :
-Em
không ưa gì Trung Quốc ngoài cái tội làm hàng rổm, hàng gỉa dối cả thế giới đều
biết, còn tội bá quyền hà hiếp các nước láng giềng. Họ cướp đảo cướp biển, cướp
đất của Việt Nam chúng ta, em thích những phản ứng mạnh mẽ của Nhật Bản và
Philippine, cầu mong 2 nước này cho Trung Quốc bài học đích đáng..
Nhưng
anh Bông chẳng vừa lòng mà còn khiển trách:
-Em
nói như diễn kịch lúc này lúc nọ ai mà tin nổi, một mặt chê trách Trung Quốc một
mặt cứ lấy những hình ảnh đẹp đất nước Trung Quốc ở trên net ra khoe và khen nức
nở...
Chị
Bông bực mình:
-Cảnh
thiên nhiên đẹp đẽ ở Trung Quốc thì có tội tình gì? Nơi đâu đẹp thì em khen, em
thích. Mà em còn thích các nữ tài tử điện ảnh Trung Quốc nữa đấy, cô Chương Tử
Di, cô Củng Lợi đẹp tuyệt vời.…
Anh
Bông bỏ dở công việc phụ giúp vợ đứng phắt dậy đi ra ghế uống bia và xem ti vi
tiếp. Chị Bông càng bực mình nói với theo:
-Không
hiểu sao tôi với anh luôn khắc khẩu, nói chuyện chưa được 5 phút là xảy ra bất
đồng rồi. Anh nhạy cảm vụ Trung Quốc vừa phải thôi chứ.
-Tôi
yêu cầu bà chấm dứt để tôi ngồi yên xem ti vi
-Tôi
yêu cầu ông bỏ cái thái độ “chảnh chọe” và bất lịch sự ấy đi nhé, đang nói chuyện
với vợ mà đứng phắt dậy bỏ đi không nói một câu..
Xếp
đồ vào tủ lạnh xong chị Bông chưa hết bực mình, tuyên bố:
-Tôi
chẳng cần ra chợ trả lại cái bịch hải sản này, mai tôi cứ nấu, cứ ăn chắc gì đã
chết mà sợ. Ai cũng một lần chết trong đời!
Anh
Bông gầm gừ:
-Thế
thì bà ăn một mình bà đi.
-OK,
tôi không …hèn nhát đâu, khỏi cần thách đố.
Chị
Bông vào phòng nằm vì không muốn nhìn mặt đối phương..
Ngày
xưa lúc đang yêu nhau và mới cưới nhau hai vợ chồng chị luôn hòa hợp từng lời
ăn tiếng nói. Càng ngày thì càng thay đổi, chẳng ai chịu nghe ai.
Mỗi
lần cần đi xe cùng chồng cũng là dịp.. cãi nhau chỉ vì mỗi người một ý không ai
nhường ai, anh Bông thích quay cửa kính xe xuống tận cùng cho gío lùa vào xe lồng
lộng thì chị Bông muốn đóng cửa xe lại hay mở chút xíu bằng một đốt ngón tay
thôi vì chị sợ gió thổi bay tóc.
Anh
Bông gắt:
-Tóc
bay thì kệ tóc bay. Tôi muốn gío lùa vào xe cho không khí thiên nhiên thoải
mái.
Chị
Bông cũng gắt:
-Không
khí thế nào cũng không quan trọng bằng mái tóc tôi, tôi phải lo bảo vệ nó, tôi
không muốn chốc nữa bước xuống xe tóc tôi rối tung lên như một bà điên.
Cuối
cùng người chịu thua là chị Bông, hoặc chị xuống xe không đi chung, hoặc chị
đành ngồi trong xe nhưng mặt sưng xỉa lên, tay thì luôn giữ cho mái tóc khỏi
bay và thỉnh thoảng chị lại rên lên:
-Làm
ơn chạy xe chậm lại, cửa xe đã quay xuống tối đa lại chạy nhanh thì không chỉ
bay tóc mà…bay cả người luôn đó.
Chị
Bông chợt nhớ đến hình ảnh vừa xem trên ti vi tối qua trong chương trình Live
Well Network chuyên về đời sống và bếp núc mà chị ưa thích, có cặp vợ chồng gìa
người Hispanic tuổi đời độ 70, bà trổ tài nấu một món gì đó có ông đứng bên phụ
giúp rất tương đắc, nấu xong bà quay ra tô lại chút môi son và hai vợ chồng ôm
nhau tình tứ vài điệu nhảy ngay tại bếp, ngay bên cạnh món ăn vừa nấu rồi uống
một chút rượu, rồi thưởng thức món ăn.
Trên
màn hình chiếu lại những hình ảnh thời trẻ của họ cả hai đều đẹp đôi, nhưng hiện
tại bà mập tròn phục phịch chẳng tương xứng với ông vẫn dáng gầy thanh tao, thế
mà họ vẫn bày tỏ tình yêu và hai tâm hồn đồng điệu lãng mạn.
Vợ
chồng gìa người ta như thế đấy.
Họ
tuổi đời 70 còn tình, vợ chồng chị mới 60 lẽ nào chịu thua? Chị Bông thấy lòng
nguôi giận chồng, chị sẽ bắt chước họ
Chị
Bông đi ra ngoài thấy chồng vẫn nằm coi ti vi liền ghé mắt nhìn vào ti vi và
làm quen cho êm ấm nhà cửa:
-Anh
đang xem tin tức hả?
Chồng
cũng nguôi ngoai:
-Ừ,
anh đang xem tin tức thế giới…
-A,
tin tức về Syria đây mà, ngày nào cũng đạn nổ bom rơi tội nghiệp qúa..
-Bởi
thế anh cầu mong Mỹ bỏ bom tấn công tiêu diệt chế đô Bashar al Assad cho rồi,
nhất là họ đã xử dụng vũ khí hoá học làm chết người hàng loạt.
-Ôi,
anh ơi, em không muốn. thế….
Anh
Bông lại gay gắt:
-Tôi
biết ngay mà, hễ tôi nói trắng thì bà phải nói đen, bà luôn làm tôi cụt hứng. Tại
sao bà không muốn Mỹ dội bom Syria , nói nghe coi?
-Vì
em sợ cảnh chết chóc thêm ở Syria , tội nghiệp ! và em cũng sợ…tốn tiền nước Mỹ,
nước Mỹ đang nợ nần như chúa Chổm. Tội nghiệp.
Chị
Bông xót xa tiếp:
-Nước
Mỹ đi đánh giặc kiểu nhà giàu, ngoài máy bay, chiến xa xe tăng, các loại xe cộ,
vũ khí đạn dược tối tân họ còn mang tất cả tiện nghi theo người lính Mỹ ra chiến
trường. Sau hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan nước Mỹ đã tốn phí mấy trăm tỷ
USD, bao lính Mỹ đã chết và bị thương. Tội nghiệp.
-Trời,
chuyện chính trị mà bà làm như chuyện từ thiện, đàn bà chỉ nói chuyện shopping
thôi, đừng nói chuyện chính trị với tôi nhé !.
Chị
Bông chẳng vừa:
-Mỗi
người đều có ý kiến của mình, anh không có quyền mong muốn kẻ khác cùng quan điểm
với anh. Tôi là đàn bà cũng biết nghe tin tức chính trị trên ti vi hay đọc trên
báo chí, trên net vậy, thua kém gì đàn ông các anh?
-Nhưng
tôi với bà không hợp khẩu. Bà nói chuyện phone hàng giờ với bạn bè vui vẻ nhưng
bà nói chuyện với tôi chỉ câu trước câu sau là gây bất mãn rồi.
-Thế
sao ngày xưa lúc sắp cưới tôi anh khoe là má anh đi coi thày bà mấy nơi, nơi
nào cũng nói tuổi tôi và anh rất hợp và anh đòi cưới gấp gấp, càng sớm càng tốt.
-Tôi
cũng ngạc nhiên và muốn tìm lại mấy tay thày bà ấy để hỏi cho ra lẽ đây. Mẹ bà
cũng dẫn bà đi coi bói và nói tôi với bà không khắc khẩu khắc tinh gì đó mà.…
-Đúng
thế, và tôi cũng muốn tìm ông thày bói ấy từ lâu rồi. Thì ra hai chúng ta cùng
…hợp nhau ở điểm này.
Chị
Bông chợt nhớ ai đó đã nói không nên bàn luận chuyện chính trị và tôn giáo với
người khác dễ gây tranh cãi, chỉ nên nói về thời tiết nắng mưa là vô tư nhất.
Chị vẫn muốn làm lành nên cố dịu giọng và chuyển đề tài:
-Anh
ơi, thời tiết mùa hè nguy hiểm qúa, vụ cháy rừng ở California đốt hết bao nhiêu
mẫu đất rừng cây, cư dân ở gần phải di tản vì khói bụi của đám cháy có thể gây ảnh
hưởng đến sức khỏe. Bởi vậy em lên án những kẻ sơ ý vứt một mẩu thuốc lá vừa
hút hay cắm trại còn sót mẩu củi than chưa dập tắt để bùng lên những đám cháy rừng
kinh khủng này.
Chị
tưởng sẽ nhận được sự hưởng ứng của chồng, nhưng anh Bông. thô lỗ gạt phăng:
-Tôi
không phải bộ xã hội để bà trút cảnh thương xót. Sao bà nhiều chuyện qúa vậy, hết
chuyện chiến tranh đến chuyện cháy rừng, còn mấy nơi mưa lụt sao bà không liệt
kê ra luôn đi…
-Ừ,
anh nhắc em mới nhớ, mưa lụt cũng tội ghê, nhưng do trời làm thì chẳng dám
trách ai, còn cháy rừng chúng ta có thể tránh được thì nên cẩn thận anh nhé…
-Bà
dạy khôn tôi đấy hả? bà làm như mấy vụ cháy rừng kia có…liên quan đến tôi hả?.
Chị
Bông không nhịn nữa:
-Này
nhé, tôi chỉ tự nhủ lòng nói chung chung thế và mong ai cũng như mình để đừng
gây thiệt hại cho người khác thôi. Anh thật là vô cảm.
Anh
Bông chưa kịp cãi lại thì tiếng điện thoại bỗng reo lên, anh bốc phone lên:
-
A, anh Chí đó hả…vâng, vâng chúng tôi đang ở nhà anh chị cứ đến ngay bây giờ…
Buông
phone xuống anh Bông dịu giọng lại với vợ:
-Anh
Chí vừa gọi, khoảng 15 phút nữa vợ chồng anh Chí sẽ đến đây cho cá chiều qua họ
đi câu về.
Chị
Bông cũng dịu giọng:
-Để
em ra vườn hái mấy qủa bầu tươi, ít rau thơm và vài quả ớt hiểm biếu lại họ. Lần
nào đi câu cá anh chị Chí đều mang chia cho nhà mình.
-Phải
đấy, em hái thứ nào cũng nhiều vào, hậu hỉ vào.
Chị
Bông lẩm bẩm:
-
Vậy mà năm nào em trồng vườn anh cũng nói em bày đặt, vừa mất công chăm sóc vừa
tốn tiền nước tưới và tiền phân bón, thà mua ngoài chợ còn rẻ hơn.
Chị
Bông nói xong giật mình vì vô tình chị khơi lại chuyện bất đồng, chẳng khác nào
chị vừa quăng một mẩu thuốc lá cháy dở vào giữa khu rừng trong mùa hè khô nắng,
nhưng may qúa anh Bông không để ý, nên chị sẵn đà tới luôn:
-Trồng
vườn vừa có thú vui, vừa có rau trái tươi tốt ăn ngon gấp mấy lần hàng chợ và
nhất là thỉnh thoảng làm qùa tặng cho bạn bè. Lần sau anh đừng có cửa quyền mà
cấm cản …
Anh
Bông gằn giọng:
-Vì
có bạn sắp đến tôi nhường bà hai câu rồi, bà mà nói câu thứ ba là tôi tung hê
lên đấy. Bà mau ra vườn hái đi kẻo anh chị Chí đến bây giờ, họ lái xe nhanh lắm
không lù đù như bà đâu.
Chị
Bông biết điều cắp rổ đi ra vườn sau nhà, mặc dù bị chồng chê lái xe lù đù chị
đã tự ái chỉ muốn đứng lại cãi vài câu cho hả.
Vợ
chồng anh Chí là bạn thân thiết với vợ chồng chị Bông, khi chị Bông vào nhà thì
vợ chồng anh Chí cũng đến, anh xách theo cái thùng đá to vào nhà và vui vẻ rao
hàng:
-Cá
tươi đây, cá tươi đây..
Chị
Chí phụ họa với chồng:
-Cá
tươi đã làm sạch sẽ rồi, chị Bông chỉ việc cất tủ lạnh ăn dần.
Chị
Bông cảm động cất mớ cá vào tủ lạnh, những con cá chẳng biết ở Mỹ gọi là cá gì
mà giống như cá He của Việt Nam, cá này tuy nhiều xương nhưng chiên lên thì
thơm ngon vô cùng, hai vợ chồng chị Bông đều thích và ghiền luôn nên lần nào đi
câu anh Chí cũng để dành một mớ tặng bạn.
Đến
lượt anh Bông vui vẻ nói với bạn:
-Rau
tươi, bầu tươi, ớt tươi đây, xin tặng lại anh chị.
-Cá
tươi chiên vàng và bầu tươi luộc chấm nước mắm tỏi ớt cũng đủ là một mâm cơm thịnh
soạn rồi. Cám ơn anh chị
Chị
Bông tưởng tượng cảnh hai vợ chồng chị Chí đi câu chắc là lãng mạn lắm, họ ngồi
cạnh nhau bên bờ hồ vừa đợi cá cắn câu vừa ngắm cảnh hồ nước mênh mông đang gợn
sóng lăn tăn theo gió… Chị Bông khen:.
-Anh
chị hay đi câu với nhau thật là thú vị, tâm đắc và lãng mạn
Chị
Chí thở dài:
-Lãng
mạn gì ! tôi đi cùng để phụ ông ấy thôi, mệt muốn chết, ông sai tôi làm đủ thứ
và lấy bia cho ông uống trong lúc chờ cá cắn câu, tôi lỡ quên mang áo lạnh thì
ông cằn nhằn tôi suốt buổi. Rồi chuyện câu cá cũng cằn nhằn điếc cả tai.…
Anh
Chí thở than:
-Vậy
chứ con cá lớn chưa đủ cỡ bà cũng bắt tôi bỏ vô thùng, thay vì phải thả lại xuống
hồ, không cằn nhằn sao được?
-Tôi
nghĩ đằng nào cũng là cá cắn câu, đã tốn mồi thì phải giữ lấy cá chứ. Đi câu là
cái thú vị của ông nhưng là cái thực tế của tôi.
Chị
Bông phải xen vào hỏi chuyện khác nếu không chuyện cãi nhau của họ còn dài.
Khách
về rồi chị Bông nói với chồng:
-Thì
ra vợ chồng nhà nào cũng có lúc khắc khẩu đâu chỉ nhà mình. Thôi thì cứ coi như
cái màn khắc khẩu là vui nhà vui cửa, chứ êm thắm qúa thì cuộc sống tẻ nhạt lắm
anh ơi…
Chị
Bông nghĩ đến hai vợ chồng gìa người Hispanic nấu ăn trên ti vi, sau cái màn
lãng mạn trữ tình yêu thương ấy để quay phim, ở ngoài đời chắc họ cũng từng cãi
nhau, giận nhau. Đó mới là cuộc sống đời thường và bình thường. Đó mới là gia vị
của cuộc sống như gia vị họ đã nêm nếm vào món ăn.
Thấy
anh Bông không phản đối gì câu triết lý an phận của mình chị Bông tiếp:
-Em
hiểu ra rồi, cuộc sống vợ chồng càng lâu càng cũ thì càng qúa quen thuộc nhàm
chán nên chẳng cần lịch sự giữ ý, chẳng cần nhường nhịn nhau, lấy lòng nhau làm
gì, bởi thế mới dễ xảy ra đụng chạm, mâu thuẫn. Nhưng miễn sao vẫn sống cùng
nhau lâu dài và cả đời là được rồi, đòi hỏi chi những điều lý tưởng đẹp như
thơ, đẹp như mơ, phải không anh ?.
Bây
giờ anh Bông mới mỉm cười:
-
Ừ…nãy giờ em nói 2 câu đều thực tế và nghe được, anh không thấy khắc khẩu tí
nào.
Nguyễn
Thị Thanh Dương
Sept.
2013
NGUYỄN THANH NAM * SAIGON HAY HỒ CHÍ MINH ?
Ngày nào Saigon còn mang tên Hồ Chí Minh,ngày đó dân gian sẽ mãi còn đàm tiếu.
Đã có rất nhiều bài đàm tiếu về chuyện này... TNT
Sài Gòn hay Hồ Chí Minh
Nguyễn Thanh Nam
1. Thưa cô đi đâu?
- Saigon.
2. Bà ngoại đi đâu?
- Lên Saigon.
3. Mầy từ đâu về?
-Từ Saigon.
Chỉ cần một chữ Saigon là đầy đủ rồi.
Cỏ cây còn biết hờn sông núi
Giang sơn gấm vóc phải ngậm ngùi.
Nguyễn Thanh Nam
Mỗi mùa xuân về trên quê hương Việt Nam, chúng ta lại nhớ đến địa danh Sài Gòn.
Sài Gòn, tự nó đã đầy đủ ý nghĩa. Không cần phải thêm thủ đô hay thành phố gì cả. Hai chữ Sài Gòn đã in sâu vào từng tâm hồn của ngưòi dân Việt Nam mà còn quen thuộc với người ngoại quốc với tên gọi không có dấu: “Saigon”. ...
... Để rồi từ đó mọi người đều có thể viết chữ Sài Gòn dính liền lại với nhau mà không bỏ dấu “SAIGON”.
Không biết bao nhiêu bài luận văn của các em học sinh từ tiểu học đến trung học tả về Saigon. Không biết bao nhiêu thi sĩ, nhạc sĩ viết về Saigon. Saigon nằm soi mình bên dòng sông cùng tên Saigon, thật lãng mạng và kêu ngạo cùng tuế nguyệt.
Chúng ta hãy lắng động tâm hồn để tìm về sự mộc mạc của người Việt Nam đối với Saigon thân yêu.
Sài Gòn, tự nó đã đầy đủ ý nghĩa. Không cần phải thêm thủ đô hay thành phố gì cả. Hai chữ Sài Gòn đã in sâu vào từng tâm hồn của ngưòi dân Việt Nam mà còn quen thuộc với người ngoại quốc với tên gọi không có dấu: “Saigon”. ...
... Để rồi từ đó mọi người đều có thể viết chữ Sài Gòn dính liền lại với nhau mà không bỏ dấu “SAIGON”.
Không biết bao nhiêu bài luận văn của các em học sinh từ tiểu học đến trung học tả về Saigon. Không biết bao nhiêu thi sĩ, nhạc sĩ viết về Saigon. Saigon nằm soi mình bên dòng sông cùng tên Saigon, thật lãng mạng và kêu ngạo cùng tuế nguyệt.
Chúng ta hãy lắng động tâm hồn để tìm về sự mộc mạc của người Việt Nam đối với Saigon thân yêu.
1. Thưa cô đi đâu?
- Saigon.
2. Bà ngoại đi đâu?
- Lên Saigon.
3. Mầy từ đâu về?
-Từ Saigon.
Chỉ cần một chữ Saigon là đầy đủ rồi.
Nhưng
trong 30 năm qua, Saigon bị mất tên, bị thay thế bằng tên của nhân vật
Hồ Chí Minh. Sàigon ngậm ngùi tức tưởi, thổn thức với lời ca trong bài
Vĩnh Biệt Saigon: “...ta mất người như người đã mất tên…”.
Người Cộng Sản Việt Nam rất lấy làm hãnh diện với cái gọi thành phố Hồ Chí Minh. Cái tên nghe vừa dài vừa chói tai, lúc nào cũng phải thêm chữ “thành phố”. Nếu thiếu chữ “thành phố” thì nguy to. Bởi vì kêu Hà Nội thì ai cũng hiểu là điạ danh Hà Nội, nhưng kêu Hồ Chí Minh khơi khơi thì có khi người ta không biết kêu cái quái gì?
Bây giờ xin mời những người Cộng Sản Việt Nam cùng chia xẽ có nên để tên Hồ Chí Minh hay nên trả tên lại cho Saigon. Nếu quí vị nhất định khư khư giữ nguyên tên Hồ Chí Minh, thì nên cùng thưởng thức những mẫu chuyện và truyền khẩu từ ngưòi này sang người khác, từ nơi này sang nơi khác mà tạm gọi là truyền khẩu dân gian, hãy xem như một cuộc trưng cầu dân ý có được không?
1. Bây giờ nói về tệ nạn xã hội:
- Người ta thường kêu là “Du Đãng Saigon” nay xin sửa lại: “Du Đãng Hồ Chí Minh”
- Saigon ngày xưa ít thấy bây giờ Saigon nhiều quá. “Đĩ Saigon” xin đổi lại là “Đĩ Hồ Chí Minh”
- Saigon ngày xưa ít thấy mấy thằng điếm bây giờ phải coi chừng mấy thằng điếm. ‘Điếm Sàigon” xin đổi lại là “Điếm Hồ Chí Minh”.
2. Bây giờ nói về dân gian:
Khi nói đến dân gian thì không phải như viết văn chương, chỉ nói tắt hiểu là được. Không cần chính tả hay văn phạm.
- Mầy lấy vợ ở đâu? dạ em lấy vợ Saigon. ”Lấy vợ Saigon" xin đổi lại là “Lấy vợ Hồ Chí Minh”.
- Chị mua gà ở đâu? mua gà Saigon. Gà Saigon xin đổi lại là “Gà Hồ Chí Minh”.
- Đi Saigon nhớ coi chừng chó, chó Saigon dữ lắm. “Chó Saigon” xin đổi lại là “chó Hồ Chí Minh”
- Má ơi lên coi truyền hình kìa xe đụng ghê lắm. Xe đụng chỗ nào? Xe đụng Saigon. Xe đụng Saigon xin đổi lại là “xe đụng Hồ Chí Minh.”
- Thịt chó Saigon ăn ngon quá. Thịt chó Saigon xin đổi lại là “thịt chó Hồ Chí Minh”
- Đừng làm giả đồ của Pháp bị bắt đó nghe. Vỏ Paris, ruột Saigon là phạm pháp. Xin đổi là: “Vỏ Paris, ruột Hồ chí Minh”.
- Saigon nóng đổ mồ hôi, xin đổi lại là “Hồ Chí Minh nóng đổ mồ hôi”.
- Saigon nóng muốn lột quần lột áo. Xin đổi là “Hồ Chí Minh nóng muốn lột quần lột áo”.
- Đi Saigon thì phải mua giầy da Saigon. Xin đổi lại “Giầy da Hồ Chí Minh”
- Gió thổi mạnh quá nên nhà Saigon bị sập. Xin đổi lại ‘nhà Hồ Chí Minh bị sập’.
Và còn nhiều nhiều lắm lắm……….
Hãy cùng nhau qua truyền khẩu dân gian để thay thế cái gọi là Hồ Chí Minh vào “Saigon” để cả 82 triệu người dân Việt Nam có dịp thi thố tài văn chương dân gian của mình để có những trận cười hả hê mà người ta gọi là chuyện cười dân gian.
Trăm năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẩn còn trơ trơ
Để người cộng sản Việt Nam hiểu được sức mạnh của quần chúng. Ai đã đổi tên Saigon? Bây giờ họ phải gánh chịu “gậy ông đập lưng ông”.
Các địa danh như, Hà Nội, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Cần Thơ, Cà Mau… Mà hình như tất cả các điạ danh ở Việt Nam chỉ cần nói tên là người ta hiểu được liền đâu cần phải thêm chữ: thành phố hay tỉnh…. Vây nói khơi khơi Hồ Chí Minh thì là cái con khỉ khô gì? Thật là cười ra nước mắt.
Chú lơ xe đò gọi hành khách: Saigon không? Saigon đây? Hành khách đứng dưới đường vẫy tay trả lời : Saigon, Saigon….. Bây giờ sửa lại : Chú lơ xe đò gọi hành khách: Hồ Chí Minh, không? Hồ Chí Minh đây? Hành khách đứng dưới đường vẫy tay trả lời: Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh… Có thể trong đám hành khách đó có cả đảng viên đảng CSVN.
Việc đổi tên Saigon và áp đặt cái gọi là Hồ Chí Minh là do chính những người công sản Việt Nam tạo ra. Nay chỉ xin được dùng cái gọi là Hồ Chí Minh để thay thế những lời nói dân gian. Nghĩa là cứ chỗ nào có chữ Saigon thì thay vào đó là chữ Hồ Chí Minh. Quí vị CSVN nghĩ sao? Quí độc giả nghĩ sao?
Người Cộng Sản Việt Nam rất lấy làm hãnh diện với cái gọi thành phố Hồ Chí Minh. Cái tên nghe vừa dài vừa chói tai, lúc nào cũng phải thêm chữ “thành phố”. Nếu thiếu chữ “thành phố” thì nguy to. Bởi vì kêu Hà Nội thì ai cũng hiểu là điạ danh Hà Nội, nhưng kêu Hồ Chí Minh khơi khơi thì có khi người ta không biết kêu cái quái gì?
Bây giờ xin mời những người Cộng Sản Việt Nam cùng chia xẽ có nên để tên Hồ Chí Minh hay nên trả tên lại cho Saigon. Nếu quí vị nhất định khư khư giữ nguyên tên Hồ Chí Minh, thì nên cùng thưởng thức những mẫu chuyện và truyền khẩu từ ngưòi này sang người khác, từ nơi này sang nơi khác mà tạm gọi là truyền khẩu dân gian, hãy xem như một cuộc trưng cầu dân ý có được không?
1. Bây giờ nói về tệ nạn xã hội:
- Người ta thường kêu là “Du Đãng Saigon” nay xin sửa lại: “Du Đãng Hồ Chí Minh”
- Saigon ngày xưa ít thấy bây giờ Saigon nhiều quá. “Đĩ Saigon” xin đổi lại là “Đĩ Hồ Chí Minh”
- Saigon ngày xưa ít thấy mấy thằng điếm bây giờ phải coi chừng mấy thằng điếm. ‘Điếm Sàigon” xin đổi lại là “Điếm Hồ Chí Minh”.
2. Bây giờ nói về dân gian:
Khi nói đến dân gian thì không phải như viết văn chương, chỉ nói tắt hiểu là được. Không cần chính tả hay văn phạm.
- Mầy lấy vợ ở đâu? dạ em lấy vợ Saigon. ”Lấy vợ Saigon" xin đổi lại là “Lấy vợ Hồ Chí Minh”.
- Chị mua gà ở đâu? mua gà Saigon. Gà Saigon xin đổi lại là “Gà Hồ Chí Minh”.
- Đi Saigon nhớ coi chừng chó, chó Saigon dữ lắm. “Chó Saigon” xin đổi lại là “chó Hồ Chí Minh”
- Má ơi lên coi truyền hình kìa xe đụng ghê lắm. Xe đụng chỗ nào? Xe đụng Saigon. Xe đụng Saigon xin đổi lại là “xe đụng Hồ Chí Minh.”
- Thịt chó Saigon ăn ngon quá. Thịt chó Saigon xin đổi lại là “thịt chó Hồ Chí Minh”
- Đừng làm giả đồ của Pháp bị bắt đó nghe. Vỏ Paris, ruột Saigon là phạm pháp. Xin đổi là: “Vỏ Paris, ruột Hồ chí Minh”.
- Saigon nóng đổ mồ hôi, xin đổi lại là “Hồ Chí Minh nóng đổ mồ hôi”.
- Saigon nóng muốn lột quần lột áo. Xin đổi là “Hồ Chí Minh nóng muốn lột quần lột áo”.
- Đi Saigon thì phải mua giầy da Saigon. Xin đổi lại “Giầy da Hồ Chí Minh”
- Gió thổi mạnh quá nên nhà Saigon bị sập. Xin đổi lại ‘nhà Hồ Chí Minh bị sập’.
Và còn nhiều nhiều lắm lắm……….
Hãy cùng nhau qua truyền khẩu dân gian để thay thế cái gọi là Hồ Chí Minh vào “Saigon” để cả 82 triệu người dân Việt Nam có dịp thi thố tài văn chương dân gian của mình để có những trận cười hả hê mà người ta gọi là chuyện cười dân gian.
Trăm năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẩn còn trơ trơ
Để người cộng sản Việt Nam hiểu được sức mạnh của quần chúng. Ai đã đổi tên Saigon? Bây giờ họ phải gánh chịu “gậy ông đập lưng ông”.
Các địa danh như, Hà Nội, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Cần Thơ, Cà Mau… Mà hình như tất cả các điạ danh ở Việt Nam chỉ cần nói tên là người ta hiểu được liền đâu cần phải thêm chữ: thành phố hay tỉnh…. Vây nói khơi khơi Hồ Chí Minh thì là cái con khỉ khô gì? Thật là cười ra nước mắt.
Chú lơ xe đò gọi hành khách: Saigon không? Saigon đây? Hành khách đứng dưới đường vẫy tay trả lời : Saigon, Saigon….. Bây giờ sửa lại : Chú lơ xe đò gọi hành khách: Hồ Chí Minh, không? Hồ Chí Minh đây? Hành khách đứng dưới đường vẫy tay trả lời: Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh… Có thể trong đám hành khách đó có cả đảng viên đảng CSVN.
Việc đổi tên Saigon và áp đặt cái gọi là Hồ Chí Minh là do chính những người công sản Việt Nam tạo ra. Nay chỉ xin được dùng cái gọi là Hồ Chí Minh để thay thế những lời nói dân gian. Nghĩa là cứ chỗ nào có chữ Saigon thì thay vào đó là chữ Hồ Chí Minh. Quí vị CSVN nghĩ sao? Quí độc giả nghĩ sao?
Người
cộng sản Việt Nam đã sai lầm giữa địa danh và tên nhân vật, mà cái ác
nhất lại là tên của nhân vật được những người cộng sản Viêt Nam sùng
bái. Cái thây ma nằm giữa Ba Đình, mỗi năm phải tiêu phí biết bao nhiêu
tiền của nhân dân Việt Nam? Người cộng sản sống thì tham nhũng, tham lạm
tài sản quốc gia. Người cộng sản chết cũng ăn bám nhân dân Việt Nam, đó
chính là cái thây ma Hồ Chí Minh.
Người chết phải trở về cát bụi. Thây ma thì phải đem chôn hay thiêu. Có một người vào xem xác chết của Hồ Chí Minh, khi về nhà không dám ngủ, mà nhắm mắt lại là thấy ác mộng hay nói đúng hơn là thấy thây ma Hồ Chí Minh. Cuối cùng phải đi xem bác sĩ tâm lý. Bác sĩ tâm lý khuyên: bạn đừng nghĩ tới cái xác đó nữa, cứ xem như nhìn thấy xác của một con vật nào đó, thí dụ như xác con gà, con cá bán ở chợ là được rồi.”
Đất nước Việt Nam đã bị người cộng sản tàn phá. Không biết bao nhiêu bút mực của các nhà văn, nhà phê bình, nhà bình luận… của rất nhiều thế hệ lên án. Người cộng sản cần phải thức tỉnh một cách thật sự mà hãy trả lại những gì của Việt Nam cho dân tộc Việt Nam.
Người chết phải trở về cát bụi. Thây ma thì phải đem chôn hay thiêu. Có một người vào xem xác chết của Hồ Chí Minh, khi về nhà không dám ngủ, mà nhắm mắt lại là thấy ác mộng hay nói đúng hơn là thấy thây ma Hồ Chí Minh. Cuối cùng phải đi xem bác sĩ tâm lý. Bác sĩ tâm lý khuyên: bạn đừng nghĩ tới cái xác đó nữa, cứ xem như nhìn thấy xác của một con vật nào đó, thí dụ như xác con gà, con cá bán ở chợ là được rồi.”
Đất nước Việt Nam đã bị người cộng sản tàn phá. Không biết bao nhiêu bút mực của các nhà văn, nhà phê bình, nhà bình luận… của rất nhiều thế hệ lên án. Người cộng sản cần phải thức tỉnh một cách thật sự mà hãy trả lại những gì của Việt Nam cho dân tộc Việt Nam.
Cỏ cây còn biết hờn sông núi
Giang sơn gấm vóc phải ngậm ngùi.
BÙI THU HOÀN * THÙNG NƯỚC GẠO
Con gái ở thành phố gọi điện về: “Ngày mai, con dẫn bạn con về ra mắt bố
mẹ. Mẹ dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị cơm nước giúp con. Anh ấy là trai
thành phố,con không muốn anh ấy có ấn tượng không tốt”.
Cúp máy mẹ vừa mừng vừa lo. Mừng vì nghe con nói có người yêu đã lâu, cứ
thấp thỏm chờ đợi giờ mới được gặp mặt, nhưng lại lo nghĩ cách làm sao
để đón tiếp con rể tương lai một cách chu đáo.
Cả đêm mẹ trằn trọc, hết xoay mình lại trở người. Bố thấy mẹ cọ quậy cũng thức giấc theo: “Sao không ngủ đi mà còn vắt tay lên trán thế?”. “Đang nghĩ xem ngày mai nấu món gì đây. Bạn nó sống trên đó chắc đã quen với món ngon, mấy món ở quê không biết nó có dùng được không?”. “Gì chứ thịt gà quê luộc và canh cua đồng thì còn gì bằng. Trên thành phố có tiền chắc gì đã mua được những thứ đó” – bố “hiến kế”. Mẹ thấy cũng có lý, đầu nhẹ bẫng đi nhưng vừa chợp mắt được một lúc thì đã nghetiếng gà gáy.
Cả đêm mẹ trằn trọc, hết xoay mình lại trở người. Bố thấy mẹ cọ quậy cũng thức giấc theo: “Sao không ngủ đi mà còn vắt tay lên trán thế?”. “Đang nghĩ xem ngày mai nấu món gì đây. Bạn nó sống trên đó chắc đã quen với món ngon, mấy món ở quê không biết nó có dùng được không?”. “Gì chứ thịt gà quê luộc và canh cua đồng thì còn gì bằng. Trên thành phố có tiền chắc gì đã mua được những thứ đó” – bố “hiến kế”. Mẹ thấy cũng có lý, đầu nhẹ bẫng đi nhưng vừa chợp mắt được một lúc thì đã nghetiếng gà gáy.
Mẹ thức dậy, dắt chiếc xe đạp ra sân. Xe non hơi lại phải gọi bố dậy
bơm. Trước khi đạp xe ra chợ, mẹ không quên quay lại dặn bố: “Bố nó nhớ
quét cửa ngõ cho sạch sẽ rồi hẵng đưa trâu ra đồng thả nhé”. Bố ừ à rồi
đùa “đón con rể mà cứ như đón tổng thống” ấy.
Trời nắng nóng 38, 39o, mẹ đi chợ về giữa đường thì xe bị xẹp lốp. Đứng
chờ bác thợ sửa xe mà mẹ nôn nóng không yên. Về nhà cũng chẳng kịp thay
quần áo, mẹ xắn tay vào bếp. Vừa đặt nồi cơm lên thì mất điện nên phải
cho ra xoong gang nấu bếp củi, vừa canh lửa vừa tranh thủ giã cua. Nghĩ
cảnh trời nắng con đi đường xa về chắc sẽ khát nên mẹ lại tất tả đi hãm
ấm chè vối. Đang xoay vần trong bếp thì nghe tiếngxe máy vào ngõ, mẹ
mừng quýnh vuốt mồ hôi chạy ra. “Con rể tương lai” nhìn thấy mẹ tươi
cười chào hỏi còn con gái có vẻ không vui.
Suốt bữa ăn con gái vẫn giữ nguyên vẻ mặt đó khiến mẹ thấy lo. Rồi mẹ cũng biết được lý do khi nghe con gái càu nhàu: “Con đã dặn mẹ dọn dẹp nhà cửa rồi mà cái thùng nướcgạo mẹ vẫn để chềnh ềnh ở trước cổng,đi vào đập ngay vào mắt”. Mẹ lặng người nghe con gái trách móc. Tối qua mẹ đi lấy nước gạo về muộn, cơm nướcxong lại phải dọn dẹp nhà cửa để đón bạn con về, sáng lại đi chợ sớm nên chưa kịp cất đó thôi.
Suốt bữa ăn con gái vẫn giữ nguyên vẻ mặt đó khiến mẹ thấy lo. Rồi mẹ cũng biết được lý do khi nghe con gái càu nhàu: “Con đã dặn mẹ dọn dẹp nhà cửa rồi mà cái thùng nướcgạo mẹ vẫn để chềnh ềnh ở trước cổng,đi vào đập ngay vào mắt”. Mẹ lặng người nghe con gái trách móc. Tối qua mẹ đi lấy nước gạo về muộn, cơm nướcxong lại phải dọn dẹp nhà cửa để đón bạn con về, sáng lại đi chợ sớm nên chưa kịp cất đó thôi.
Tưởng ngày nghỉ cuối tuần con sẽ ở nhà vài ba hôm, ai dè con bảo chiều
sẽ lên thành phố luôn vì mai có việc. Trời chiều nắng vẫn còn chói gắt
nhưng mẹ đã phải đội nón ra vườn hái túi chanh tươi để con mang lên dùng
trong những ngày nóng, rồi lại hì hụi gói ghém cho con chục trứng gà.
Con gái đi rồi, bố lắc đầu nhìn mẹ: “Không biết là nó bận việc thật hay
sợ ở nhà mất điện chịu không được? Có mỗi cái thùng nước gạo thôi mà nó
cũng cằn nhằn mẹ, chẳng lẽ nó đã quên nhờ có cái thùng nước gạo mẹ nó
nuôi lợn mới có tiền cho nó ăn học hay sao?”. Mẹ lẳng lặng đi vào nhà,
lòng gợn buồn.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 280
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0280
Thursday, October 27, 2016
TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = NGUYỄN BÍNH= LƯU QUANG VŨ
TRỊNH HUY CHƯƠNG * VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ
"trời đã sập tối, lúc này chúng tôi có thể nghe tiếng súng nhỏ nổ rất gần!. Đây là dấu hiệu của những trận chạm súng giữa CSVN và lực lượng Khmer Tự do.... tiếng súng càng gần... hoang mang và sợ hãi càng tăng...Khoảng thêm 1 tiếng sau, trại VNLR được lệnh bỏ trại"
Thay Lời Tựa: Nhớ về Cha Piere Ceyrac SJ (1914-2012)
”Chúng
con Kính Lạy Cha, Nay Cha trở Về Cội Nguồn Vĩnh Cửu Trên Đó, Nhưng chúng con
vẫn tin tưởng rằng Cha đang nhìn về chúng con một cách Bao dung và tiếp tục
không ngừng Quan phòng cho chúng con,
gia đình chúng con, bạn bè và những người thân chúng con...Hôm nay khắp Năm
Châu Bốn Bể....Cha vẫn luôn luôn là Người Cha già kính mến trong Tâm khảm của
chúng con, xin Cha Nhân Từ thương xót và cứu giúp chúng con như những ngày tháng
khốn cùng dọc theo biên địa Thái-Miên. Những đứa con của Cha ngày hôm nay với cuộc sống vật chất tuy có thể tươm tất
hơn hôm qua nhưng chúng con vẫn còn nhiều yếu đuối, sa ngã và bệnh tật....Lòng
Cha thương xót bao dung, xin Cha không ngừng dìu dắt chúng con, và mọi ngượi...
như hôm nay ,như hôm qua và mãi mãi.
Amen.”
Hôm 30 tháng 5 , 2012....Người Cha Giá Kính Yêu của Những Bộ Nhân Việt Nam tại Trại tị nạn biên giới Thái-Miên nói riêng, và cả Nhân loại nói chung, đã giã từ chúng ta để trở về với Chúa, nơi mà Người từng cho là "Cội Nguồn Tôi nơi đó". Cha Pierre Ceyrac, một Tu sĩ thuộc dòng tên (SJ-Society Of Jesus), sinh ra trong một gia đình trung lưu có tiếng ở Pháp . Nhưng ngay từ lúc còn trẻ Ngài đã từ bỏ cuộc sống sung sướng và quê hương mình để theo đuổi một lý tưởng Cao thương, Bác ái. Ngài mang một tấm lòng Nhân Ái, rộng lượng, hy sinh vi Nhân Ái, xa thân vì Nhân loại.... Với Ngài , tôn giáo là con người, rất đơn giản như vậy.
Tôi còn nhớ khi Ngài đến thăm Bệnh Viện trại tị nạn đường bộ Site 2 South vào năm 1986 (VNLR COERR Hospital), khi một Bệnh Nhân người Chàm có lẽ cố tình chất vất Ngài rằng Ngài có tin vào Đức Allah hay không ?(Allah là Đấng Thần Thánh của Người Hồi Giáo-lúc đó là dịp lễ ăn chay của người Chàm theo Đạo Hồi hy Ramadan), thú thật lúc đó tôi rất ngập ngừng và cố tình không dịch lại câu hỏi đó cho Ngài, và định chuyển sang một chủ đề khác.
Nhưng vì không có cách nào khác và không biết làm sao để xoay xở tình huống, buộc lòng tôi phải hỏi Ngài. Sau khi nghe xong, Ngài mĩm cười , nụ cười của Ngài thật là Bao dung và cởi mở, Ngài nói " Allah is God as well as Jesuit and Budda , May God Bless you and be with you! Everything will be all right! " Ngài cầm lấy tay người bệnh và xoa trán người đó, một khoảng khắc trôi qua... Tôi nghĩ rằng Ngài đã chúc phúc cho người bệnh đó.
Tôi còn nhớ những ngày lạnh giá của miền
Đông Bắc nước Thái , khi những cơn gió trái mùa bắt đầu thổi về dọc theo thung
lũng của dãy núi Đongrek, mùa khô bắt đầu, luồng không khí khô và hanh của ban
ngày,và rất lạnh về đêm... Cây bắt đầu rụng lá và khô cằn đi vì cái khí hậu
khắc nghiệt đó, đối với những người tị nạn Việt Nam và người lánh nạn
Campuchia, có nghĩa là sẽ có những trận tấn công càn quét của Cộng Sản Việt nam
tronh những ngày sắp tới....
Chúng tôi, những người tị nạn , ăn không no, uống không sạch, tấm chăn của ICRC (Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế) phát cho không đủ ấm , bởi chiều dài không đủ che thậm chí cho một người có vóc nhỏ con như tôi! Hy vọng là thức ăn duy nhất đã nuôi sống chúng tôi ngày này qua tháng khác không những về mặt Tinh thần như người ta thường nghĩ mà ngay cả thể xác gầy còm còn lại kể từ sau Biến Cố Mất Nước 30 tháng tư ngày đó!!!
Có các Bác, Các chú, các Anh các Chị, những người đã từng bị đày đọa trong những trại Cải tạo, và giờ đây lại bị đọa đày trong những xà-lim , trại giam của Miên đỏ , của Para , rồi đây tưởng chừng chính thiên nhiên cũng thử thách từng số phận của mỗi người trong chúng tôi....
Chúng tôi, những người tị nạn , ăn không no, uống không sạch, tấm chăn của ICRC (Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế) phát cho không đủ ấm , bởi chiều dài không đủ che thậm chí cho một người có vóc nhỏ con như tôi! Hy vọng là thức ăn duy nhất đã nuôi sống chúng tôi ngày này qua tháng khác không những về mặt Tinh thần như người ta thường nghĩ mà ngay cả thể xác gầy còm còn lại kể từ sau Biến Cố Mất Nước 30 tháng tư ngày đó!!!
Có các Bác, Các chú, các Anh các Chị, những người đã từng bị đày đọa trong những trại Cải tạo, và giờ đây lại bị đọa đày trong những xà-lim , trại giam của Miên đỏ , của Para , rồi đây tưởng chừng chính thiên nhiên cũng thử thách từng số phận của mỗi người trong chúng tôi....
Mọi người hầu như ai cũng có cái cảm giác
rằng lại thêm một lần chạy trốn Cộng sản nữa!! tương lại và định mệnh mà chúng
tôi không thể quyết định cho chính mình,nay đành phó thác cho đấng quan phòng
mà mọi người chúng ta ai ai cũng có, tiếng kinh lòng của mỗi người đều mang
chung một lời nguyện đơn sơ mong sao ngày mai sẽ có tên đi gặp phái đoàn....tưởng
đơn sơ nhưng phải cần một phép nhiệm mầu mới đem lại được!!!
Tổng Chiến Dịch tấn công mùa khô 1984 của
CSVN nhắm vào các căn cứ của quân kháng chiến Khmer tự do và các trại lánh nạn
thường dân Khmer dọc theo Biên giới Campuchea-Thailand:
Những tiếng pháo đêm về càng gần, lũ trẻ
thậm chí cũng hiểu ra rằng có một điều gì ghê gớm sắp sửa sẽ xảy ra, chúng âm
thầm ngoan ngoãn đi ngũ sớm hơn mọi khi, còn người lớn, thì dù muốn dù không
cũng phải ráng đè nén cái sợ hãi đó, rồi thâu đêm không ngũ được, tụ tập bên
cái radio của ai đó để lắng nghe bản tin từ đài tiếng nói Hoa kỳ, anh quốc, Úc
đại lợi.. với hy vọng thế giới ngoài đó đề cập về mình không , và trong lòng
luôn khấn nguyện đấng bề trên che chở độ hộ vào lúc này!
Những chiếc xe bồn xì-tẹt chạy hối hả từ phía đồn thái vào trại lánh nạn của người Khmer trước rồi thì một hai chiếc đỗ lại cho trại tị nạn người Việt (Vietnamese Land Refugee Platform-lúc này thật ra chúng tôi chưa được công nhận là một trại tị nạn mà chỉ là một platform mà thôi!), những người tài xế thái đốc thúc những người tình nguyện phân phối nứoc bằng tiếng thái hãy rút nước càng nhay càng tốt, rồi họ nhanh chóng lao nhanh trở về bên kia biên giới, không ai nở một nụ cười, những khuôn mặt đầy lo âu nhưng dễ hiểu....chiến sự đang tới gần...Các nhân viên thiện nguyện nước ngoài (NGO: Non-govermental Oganization) cũng gấp rút công việc của mình và ra về sớm hơn mọi khi, những cuộc đàm thoại cũng nhanh chóng kết thúc với những lời chúc bình an cho nhau... với hy vọng sẽ gặp lại ngày mai!.
Những tín hiệu phát đi phát lại từ những chiếc máy Motorola portable của một y tá MSF (Medicins sans Frontieres) "Attention all stations, the situation in Dangrek Camps is now number 2, I repeat, the situation in Dangrek now is number 2,this is Alpha security.over" (giọng quen thuộc của thầy Bob Matt - người giữ liên lạc giữa các NGO và Task Force 80 cua Thái) cô y tá lanh tay vặn volume xuống để cố tình không làm cho mọi người thêm âu lo vì những tín hiệu đó, nhưng nét mặt cô ấy cũng đủ diễn tả sự lo âu!!
Khoảng giữa trưa, những đám bụi đỏ cuối
cùng tan dần ở phía đồn Thái sau khi những chiếc xe chở các NGO's vulunteers
trở về Aranyaprathet, hoặc rút về Khao I dang, sớm hơn mọi ngày!. Sinh hoạt trong trại vẫn cứ trôi qua như
thường lệ, lũ trẻ túm nhau lại đùa giỡn trên sân banh giữa trại, người lớn thì
lo chuẩn bị nhóm lửa chẻ cũi, gánh nước chuẩn bị cho bữa cơm chiều đạm bạc như
thường lệ.... những cụm khói nhỏ đâu đó nhanh bay lên và tan vào thung lũng
Phnom Dongrek.
Thế nhưng giữa lúc đó một chiếc xe hơi nhỏ
màu trắng phủ đầy bụi đỏ đang lao nhanh và chạy thẳng vào trại VN....Lũ trẻ tản
mát ra, và trố mắt nhìn về đằng đó, nơi chiếc xe vừa ngừng lại. Cửa xe mở ra,
lũ trẻ reo hò và ùa lại như mừng đón Cha mẹ đi chợ về, không ai xa lạ bởi vì đó
chính là Cha Pierre Ceyrac chỉ có Cha, duy nhất một mình Cha, không tài
xế,không một người nào đi với Cha cả!! với nụ cười từ bi như mọi ngày,
Ngài dịu dàng xoa đầu vài đứa, nói một vài điều gì đó, lấy một bao kẹo đã xé sẵng và trao cho chúng với hy vọng chúng sẽ buông thả Cha, quả thật vậy, được những cục kẹo ngon, lũ trẻ bắt đầu chia năm xẻ bảy,sung sướng, tung tăng... còn Cha nhanh nhanh khoác cái túi vải đi nhanh vào Nhà Ban đại diện trại nơi Bác Lâm Nê , và nhóm ban đại diện của trại đang đứng chờ Ngài. Tin Cha đến lan nhanh, bà con kẻ đứng xa người đứng gần, quây quần xung quanh hàng rào ban đại diện.
Khác với mọi lần, chúng tôi không mong Cha
mang thư từ của thân nhân mình gởi,hay những tin sốt dẻo về Phái đoàn nào sắp
vào phỏng vấn và sẽ nhận bao nhiêu người, hay khi nào sẽ có danh sách của những
người được phái đoàn chấp nhận v.v và
v.v , ( vì trước đó không lâu đã có một số bà con được phỏng vấn và hy vọng sẽ
được chuyển đi PanatNikhom nay mai) nhưng lần này chúng tôi chỉ muốn thêm tin
tức về tình hình chiến sự đang xảy ra , liệu chính quyền Thái và ICRC, UNHCR có
cho chúng tôi di tản trước không?\
Sau này, chính Ngài kể lại, hôm đó vì quá lo lắng cho chúng tôi Ngài đã bất chấp lệnh giới nghiêm do TF80 (vì tình hình leo thang tới cấp 3)nhưng Ngài vẫn muốn vào trại rất sớm trước là để dâng lễ và tiếp đến đem một số thư từ cho bà con VNLR, nhưng lính Thái Task Force 80 đã chận Ngài lại và làm khó dễ Ngài!. Lúc đó Ngài đã không ngừng cầu nguyện làm sao vào được trại để chia sẽ, an ủi, động viên và cầu nguyện với chúng tôi. Everything will be all right! ça va ça va!
Sau này, chính Ngài kể lại, hôm đó vì quá lo lắng cho chúng tôi Ngài đã bất chấp lệnh giới nghiêm do TF80 (vì tình hình leo thang tới cấp 3)nhưng Ngài vẫn muốn vào trại rất sớm trước là để dâng lễ và tiếp đến đem một số thư từ cho bà con VNLR, nhưng lính Thái Task Force 80 đã chận Ngài lại và làm khó dễ Ngài!. Lúc đó Ngài đã không ngừng cầu nguyện làm sao vào được trại để chia sẽ, an ủi, động viên và cầu nguyện với chúng tôi. Everything will be all right! ça va ça va!
Thật ra lần đó Ngài đã dấu một số thư từ
cho đồng bào VNLR, một số tiền Ngài đã đổi sang tiềng Baht , một vài gói thuốc
samit cho Bác Lâm Nê, và Ngài không quên mấy gói kẹo cho lũ trẻ..Ngài biết có
nhiều người đang mong chờ thân nhân mình gởi những giấy tờ , hình ảnh để làm
chứng từ khi gặp phái đoàn phỏng vấn.
Ngài đã làm một điều ngoại lệ, Ngài đã đút lót cho lính Thái mấy gói thuốc (có thể còn có một số tiền mặt nhưng Ngài không tiện nhắc đến) để họ dễ dàng cho xe Ngài qua biên giới....Với Ngài thuốc lá là người bạn đồng hành của mình, Ngài hút nhiều lắm!. Trong comportment xe của Ngài lúc nào cũng có ít nhất 5,6 gói Samit, 2,3 cái hộp quẹt gaz. Nhưng Ngài để lại tất cả cho những ai Ngài gặp trước khi trở về Aranyaprathet!
Ngài đã làm một điều ngoại lệ, Ngài đã đút lót cho lính Thái mấy gói thuốc (có thể còn có một số tiền mặt nhưng Ngài không tiện nhắc đến) để họ dễ dàng cho xe Ngài qua biên giới....Với Ngài thuốc lá là người bạn đồng hành của mình, Ngài hút nhiều lắm!. Trong comportment xe của Ngài lúc nào cũng có ít nhất 5,6 gói Samit, 2,3 cái hộp quẹt gaz. Nhưng Ngài để lại tất cả cho những ai Ngài gặp trước khi trở về Aranyaprathet!
Cuối cùng thì DongRek cũng bị càng
quét...khác với mọi khi, thường thì CSVN dùng chiến lược "tiền pháo hậu
sung" nhanh chóng ồ ạt tấn công vào buổi sáng, lần này, vào lúc mọi người
đang chuẩn bị cơm chiều, đâu đó có một số người may mắn có tên lên đừong định
cư, theo dự định số đồng bào này sẽ chuyển đi PanatNikhom vào sáng ngày hôm
sau.
Bóng tối xuống thật nhanh, bởi rặng núi che
khuất những tia nắng cuối cùng, cái bóng của dãy núi như một bày tay khổng lồ
đưa lên không trung như ngăn chặn những tia nắng cuối chiều...
Khoảng 5 hay 6 giờ chiều ,sau một loạt pháo
kích hạng nặng vào khu vực trại Ampil gần Dongek, rồi CSVN chuyển nòng súng về
phía trại Phnom Dangrek... tiếng rít xé bầu không khí của những trái pháo trong
cự ly rất ngắn, tưởng chừng đã nổ ngay trên đầu chúng tôi nhưng chúng đã đi
ngang trại rồi nổ đâu đó trên sường núi , những cột khoái đen tung lên, vài
trái đã rơi vào sơn-cách (Khmer section), không rõ có bao nhiêu người đã thiệt
mạng! riêng Trại tị nạn Việt nam thêm
một lần nữa được may mắn, không một trái pháo nào rớt vào! Phải chăng đồng bào
mình được bề trên che chở??!!
Mọi người, trẻ lớn đều nín thở tự tìm kiếm
một chỗ thấp ẩn núp,sau đó kẻ la người ó, kêu gọi nhau,
đùm gánh, sát bên nhau, hoang mang, sợ hãi nhìn về phía ban đại diện để chờ
lệnh..
Cũng như mọi lần, Task force 80 của Thái
không mở cửa biên giới ngay! Thậm chí họ còn bắn chỉ thiên ngăm dọa về phía
những người lánh nạn Khmer, ngăn cản không cho bất cứ ai đến gần biên giới...
Trại tị nạn Việt nam mình thì tương đối có trật tự và có tổ chức, mọi người đều
tuân theo Ban đại diện. Không một cử
động khi chưa có lệnh từ trên, tuy có nhiều người vì quá sợ hãi, muốn theo
giòng người lánh nạn Khmer để hy vọng được vào đất Thái sớm!.
Khoảng đến 7 giờ , trời đã sập tối, lúc này chúng tôi có thể nghe tiếng súng nhỏ nổ rất gần!. Đây là dấu hiệu của những trận chạm súng giữa CSVN và lực lượng Khmer Tự do.... tiếng súng càng gần... hoang mang và sợ hãi càng tăng...Khoảng thêm 1 tiếng sau, trại VNLR được lệnh bỏ trại, kẻ bồng người bế, giúp nhau lần lượt nhanh ra phía đường cái đỏ trước mặt trại rồi đổ dọc theo chân núi, tiếng sâu vào bên kia đất Thái, phải thừa nhận rằng trại mình rất là đoàn kết vào lúc này, không ai nói ai, mọi người im lặng, người sau nhìn người trước cứ thế mà đi (cũng cần nói thêm vì không muốn bị back-flash và trách những hiểu lầm vốn đã có sẵng từ những người lánh nạn Khmer trong lúc loạn lạc này, nên chúng tôi ai ai đều phải giữ im lặng tuyệt đối vào lúc này, không dám nói tiếng việt),thỉnh thoảng có tiếng chửi thề đầy căm giận của một vài người Khmer nào đó, chúng tôi âm thầm, cùng giòng người xuyên qua biên giới lúc nào không hay...
Gần nữa đêm, lực lượng đặc biệt Task Force 80 của Thái ra lệnh tất cả phải ngừng lại, lúc này mọi người bắt đàu lao xao , kẻ này gọi người kia, thỉnh thoảng có ai đó bật đèn pin (flash) lên để tìm kiếm gì đó, thì lập tức bị phản đối la ó! (vì cho rằng CSVN có thể thấy được và dội pháo vào? Rất có thể?). Mọi người ai ai cũng thấm mệt và lo âu, đặt lưng vào sường núi, mắt nhìn lên trời cao, với những suy nghĩ mông lung.... Còn số bà con đã có tên đi ngày mai lúc này nghĩ gì!!??....chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa, giữa cái sống và chết rất gần ....Hy vọng ai đó trong số này sẽ chia sẻ cảm nghĩ và nỗi lòng vào lúc đó, xin ghi lại những giây phút đáng để đời này, cho con em mình nhìn vào đó mà cảm thông được con đường về đất hứa đầy gian truân của mình...
Còn lại những người như tôi vào lúc đó, chưa hết nổi bàng hoàng, còn đang tự nghi vấn không biết mình đã thật sự thoát qua cái chết chưa! Lòng bàng hoàng, hoang mang, bơ vơ, trống trãi,lạc loài và tuyệt vọng...
Khoảng đến 7 giờ , trời đã sập tối, lúc này chúng tôi có thể nghe tiếng súng nhỏ nổ rất gần!. Đây là dấu hiệu của những trận chạm súng giữa CSVN và lực lượng Khmer Tự do.... tiếng súng càng gần... hoang mang và sợ hãi càng tăng...Khoảng thêm 1 tiếng sau, trại VNLR được lệnh bỏ trại, kẻ bồng người bế, giúp nhau lần lượt nhanh ra phía đường cái đỏ trước mặt trại rồi đổ dọc theo chân núi, tiếng sâu vào bên kia đất Thái, phải thừa nhận rằng trại mình rất là đoàn kết vào lúc này, không ai nói ai, mọi người im lặng, người sau nhìn người trước cứ thế mà đi (cũng cần nói thêm vì không muốn bị back-flash và trách những hiểu lầm vốn đã có sẵng từ những người lánh nạn Khmer trong lúc loạn lạc này, nên chúng tôi ai ai đều phải giữ im lặng tuyệt đối vào lúc này, không dám nói tiếng việt),thỉnh thoảng có tiếng chửi thề đầy căm giận của một vài người Khmer nào đó, chúng tôi âm thầm, cùng giòng người xuyên qua biên giới lúc nào không hay...
Gần nữa đêm, lực lượng đặc biệt Task Force 80 của Thái ra lệnh tất cả phải ngừng lại, lúc này mọi người bắt đàu lao xao , kẻ này gọi người kia, thỉnh thoảng có ai đó bật đèn pin (flash) lên để tìm kiếm gì đó, thì lập tức bị phản đối la ó! (vì cho rằng CSVN có thể thấy được và dội pháo vào? Rất có thể?). Mọi người ai ai cũng thấm mệt và lo âu, đặt lưng vào sường núi, mắt nhìn lên trời cao, với những suy nghĩ mông lung.... Còn số bà con đã có tên đi ngày mai lúc này nghĩ gì!!??....chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa, giữa cái sống và chết rất gần ....Hy vọng ai đó trong số này sẽ chia sẻ cảm nghĩ và nỗi lòng vào lúc đó, xin ghi lại những giây phút đáng để đời này, cho con em mình nhìn vào đó mà cảm thông được con đường về đất hứa đầy gian truân của mình...
Còn lại những người như tôi vào lúc đó, chưa hết nổi bàng hoàng, còn đang tự nghi vấn không biết mình đã thật sự thoát qua cái chết chưa! Lòng bàng hoàng, hoang mang, bơ vơ, trống trãi,lạc loài và tuyệt vọng...
Ban Đại diện trại vẫn tiếp tục làm việc vào
lúc này, tập trung và cũng cố lại , điểm danh xem có ai bị mất tích hay không?
Lính TF 80 được lệnh bảo vệ nhóm người Việt tị nạn một cách đặc biệt hơn lúc
trước, VNLR được dời sâu và gần với đơn vị TF80 ngay đêm hôm đó.
Sao mai vẫn còn, trời chưa sáng hẳn, nhưng
người ta đã nghe từ xa tiếng xe hướng về phía tập trung của trại, rồi ngừng hẳn
đâu đó! thọat đầu cứ tưởng xe tanks của CSVN, nhưng không phải... Đây là những
chiếc xe bus đúng theo đúng dự định vào nhận đón số đồng bào may mắn có tên lên
đường đi Panatnikhom, giữa lúc này quả thật , không mường tượng được ,ban đại
diện lập tức truyền tin xuống để tập trung bà con có tên lên đường, cuộc đưa
tiễng nhanh chóng, đoàn người được lính Thái hộ tống xa dần sau những tàn cây ở
khúc quanh đó... nước mắt giàn giụa của người đi kẻ ở lại, ngậm ngùi hẹn ngày
tài ngộ nhưng không biết đến khi nào!!!
Đó là ngày 24 tháng giêng 1985- Site A được
tạm thời hình thành.
Ngay ngày hôm sau,chúng tôi đang còn tuyệt
vọng,hoang mang, bơ vơ ,lạc loài tưởng chừng như bị bỏ rơi...Thì Ngài đã xuất
hiện, Cha Pierre Ceyrac thêm một lần nữa đem lại nụ cười đầy hy vọng cho
trại. Già, trẻ bé, lớn...tất cả ai cũng
cảm thấy được an ủi nhờ sự có mặt của Ngài.
Một buổi lễ đơn sơ ngay giữa cánh rừng , nhắc lại mọi người đừng đánh
mất hy vọng, phải giữ vững niềm tin, với Ngài "Everything will be
allright!", hôm đó Ngài ở lại với chúng tôi thật lâu , gần chiều Ngài mới
chịu ra về.
Ngày 5 tháng ba 1985
CSVN tiếp tục càn quét các trại dọc theo
biên giới còn lại của những người Khmer Tự Do, trại Tatum, Green Hill lần lượt
bị tấn công....trước đó các trại khác cũng bị tiêu diệt như trại San Ro, Ban
Sangae (những trại này không có người Việt).
Trước tình hình đó, liên hội các tổ chức thiện nguyện phi chính phủ
(inter-NGOs) , Chính quyền Thái, ICRC, UNBRO đã quyết định dời các trại lánh
nạn của dân Khmer vào sâu hơn trong đất Thái.
Trại Site 2 được thành lập,là một trại lánh nạn của người Campuchia lớn
nhất trong lịch sử. Site 2 được chia làm 2 trại lớn, site 2 North và Site 2
South, ngăn bởi một trục lộ chính và hàng rào kẽm gai.
Ở giữa hai sites , có một đơn vị đặc nhiệm TF80 của Thái, thọat đầu trại VNLR ở site 2 North và cách section của người Khmer chỉ một bức rào bằng tre, nhưng sau 1 biến cố đẫm máu (1 trái lựu đạn đa quăng vào trong trại tị nạn VNLR, khiến 2 người chết và một số người bị thương- sự kiện này không được nhắc tới vì theo các tổ chức cứu trợ cho rằng đây chỉ là một "isolated incident" mà thôi!! cũng cần nói thêm rằng dân số trại VNLR chỉ 1/1000 so với trại lánh nạn người Khmer, vã lại các tổ chức NGO cố tình sớm đưa vào dĩ vãng để tránh những xung đột có thể xảy ra giữa trại VNLR và người lánh nạn Campuchia), tôi còn nhớ lúc đó có một phóng viên của CBS (David) đã âm thầm nhờ tôi chụp lại những gí xảy ra trong trại (Anh Nhân làm ở OPD với tôi vào lúc đó, chắc còn nhớ!!)Không biết có ảnh hưởng gì không?? Nhưng chính qua biến cố này, ICRC đã quyết định dời trại VNLR qua Site 2 South ( Site 2 south thực ra là hiện thân của trại Nong Sa Met và trại NW82 vào ngững năm 1980-1982 .
Tưởng cũng nên nói thêm những sự thật ở đây về những người lánh nạn Campuchea, họ đều mang tư tưởng giống nhau, chiến đấu giành lại đất nước Campuchea đã bị gần như diệt chủng bởi Khmer Rouge , rồi tới sự chiếm đóng của CSVN,song họ vẫn chia rẽ và hiềm khích lẫn nhau trong nội bộ, họ chia ra nhiều nhóm kháng chiến khác nhau : nhóm đầu tiên là Khmer Rouge (không được sự ủng hộ của quốc tế), nhóm thứ hai là nhóm thân cận của Vua Sihanouk, và nhóm thứ ba được dẫn đầu bởi Son San, tôi không có mục đích phân tách hay phê phán vào cục bộ của nguời Campuchea, nhưng chỉ muốn nêu ra một trong những nguyên nhân tại sao đồng bào VNLR trở thành mục tiêu thù ghét của một số người Khmer!
Đồng bào VNLR chúng ta đến từ các trại khác nhau từ 3 nhóm nêu trên bởi tuỳ thuộc vào từng con đường lúc vượt biên qua chặn cuối cùng trước khi đến biên giới Thái-Miên, trừ những người may mắn, hay tùỳ vào người dẫn đường, một số được đến thẳng trại tiếp nhận tạm thời của ICRC, còn lại đa số bị các nhóm nói trên bắt và giam vào các xà-lim của họ.
VNLR tất cả đều bị ngược đãi, mức độ tuỳ theo nhóm nào bắt mình, song tất cả VNLR đều là nạn nhân của sự tham lam (bởi lẽ khi VNLR vượt biên hầu hết có đem theo tiền bạc, nữ trang, nên trở thành những đối tượng béo bở cho họ), nạn nhân của sự hiểu lầm (bởi vì chúng ta là người Việt Nam, nhưng thiểu số của họ không hiểu rằng cũng như họ chúng ta phải đi tìm Tự do, và trốn tránh chế độ CS tham tàn ở VN, đáng tiếc là CSVN cũng đang chiếm đóng đất nước của họ, lòng oán thù đã che mất lý trí để phân biệt sai trái!! vị trí của VNLR thật là tiếng thoái lưỡng nang!!Hễ những lúc nào họ bị mát mát hay thương về người cũng như về vật là những lúc đó chúng tôi bị lãnh hứng do sự oán hờn nhất thời!)
Ở giữa hai sites , có một đơn vị đặc nhiệm TF80 của Thái, thọat đầu trại VNLR ở site 2 North và cách section của người Khmer chỉ một bức rào bằng tre, nhưng sau 1 biến cố đẫm máu (1 trái lựu đạn đa quăng vào trong trại tị nạn VNLR, khiến 2 người chết và một số người bị thương- sự kiện này không được nhắc tới vì theo các tổ chức cứu trợ cho rằng đây chỉ là một "isolated incident" mà thôi!! cũng cần nói thêm rằng dân số trại VNLR chỉ 1/1000 so với trại lánh nạn người Khmer, vã lại các tổ chức NGO cố tình sớm đưa vào dĩ vãng để tránh những xung đột có thể xảy ra giữa trại VNLR và người lánh nạn Campuchia), tôi còn nhớ lúc đó có một phóng viên của CBS (David) đã âm thầm nhờ tôi chụp lại những gí xảy ra trong trại (Anh Nhân làm ở OPD với tôi vào lúc đó, chắc còn nhớ!!)Không biết có ảnh hưởng gì không?? Nhưng chính qua biến cố này, ICRC đã quyết định dời trại VNLR qua Site 2 South ( Site 2 south thực ra là hiện thân của trại Nong Sa Met và trại NW82 vào ngững năm 1980-1982 .
Tưởng cũng nên nói thêm những sự thật ở đây về những người lánh nạn Campuchea, họ đều mang tư tưởng giống nhau, chiến đấu giành lại đất nước Campuchea đã bị gần như diệt chủng bởi Khmer Rouge , rồi tới sự chiếm đóng của CSVN,song họ vẫn chia rẽ và hiềm khích lẫn nhau trong nội bộ, họ chia ra nhiều nhóm kháng chiến khác nhau : nhóm đầu tiên là Khmer Rouge (không được sự ủng hộ của quốc tế), nhóm thứ hai là nhóm thân cận của Vua Sihanouk, và nhóm thứ ba được dẫn đầu bởi Son San, tôi không có mục đích phân tách hay phê phán vào cục bộ của nguời Campuchea, nhưng chỉ muốn nêu ra một trong những nguyên nhân tại sao đồng bào VNLR trở thành mục tiêu thù ghét của một số người Khmer!
Đồng bào VNLR chúng ta đến từ các trại khác nhau từ 3 nhóm nêu trên bởi tuỳ thuộc vào từng con đường lúc vượt biên qua chặn cuối cùng trước khi đến biên giới Thái-Miên, trừ những người may mắn, hay tùỳ vào người dẫn đường, một số được đến thẳng trại tiếp nhận tạm thời của ICRC, còn lại đa số bị các nhóm nói trên bắt và giam vào các xà-lim của họ.
VNLR tất cả đều bị ngược đãi, mức độ tuỳ theo nhóm nào bắt mình, song tất cả VNLR đều là nạn nhân của sự tham lam (bởi lẽ khi VNLR vượt biên hầu hết có đem theo tiền bạc, nữ trang, nên trở thành những đối tượng béo bở cho họ), nạn nhân của sự hiểu lầm (bởi vì chúng ta là người Việt Nam, nhưng thiểu số của họ không hiểu rằng cũng như họ chúng ta phải đi tìm Tự do, và trốn tránh chế độ CS tham tàn ở VN, đáng tiếc là CSVN cũng đang chiếm đóng đất nước của họ, lòng oán thù đã che mất lý trí để phân biệt sai trái!! vị trí của VNLR thật là tiếng thoái lưỡng nang!!Hễ những lúc nào họ bị mát mát hay thương về người cũng như về vật là những lúc đó chúng tôi bị lãnh hứng do sự oán hờn nhất thời!)
Tại sao lại dời qua Site 2 south? ICRC và
UNBRO, chính phủ Thái đều nhận ra nhóm nào tương đối dễ chịu với VNLR, có thể
nói Nong Sa Met là một trại được gọi là friendly với VNLR, bởi trong quá khứ
các trại NW 82, NW9 , rồi Nong Sa met Platform cũng từ đó mà ra, Nong Sa met đã tạo điều kiện cho JRS (Jesuit
Refugees Services)nói riêng và các tổ chức thiện nguyện khác nói chung vào hoạt
động và giúp đỡ những người lánh nạn (Displaced persons) sớm nhất, do đó nhóm
này được cho là thân thiện và cởi mở so với các trại khác (cho dù các trại khác
đều dưới trướng của Son San, nhưng những
vị lãnh đạo của từng trại
(War Lord) lại mang những ý tưởng và hoạt động khác nhau (different fractions, different land Lord), dựa vào những yếu tố này UNBRO, ICRC ,Joint inter-NGOs đã dời trại VNLR và xác nhập vào Site 2 South , nhưng lần này trại chúng ta đưọc ngăn cách rõ ràng qua các hàng rào kẽm gai và được áp sát vào đồn TF 80 (Task Force 8) và được bảo vệ trực tiếp bởi TF80 ,một bệnh viện VNLR được dựng lên ngay cổng vào của trại và sát bên đồn TF80 ngoài ra chúng ta còn được phép access trực tiềp va sử dụng hệ thống liên lạc của TF80 (Tele-communication giữa bệnh viện trại và Khao I Dang Hospital) trong trường hợp phải chuyển bệnh nhân vào đất Thái để chữa trị nhất là về đêm (trước đó chúng tôi phải buộc lòng di chuyển bệnh nhân qua bệnh viện của người Khmer, có những phức tạp đã xảy ra!!).
Đến đây chúng ta lại nhớ đến công sức và ý của Cha Piere Ceyrac ,các Cha,các nhân viên NGO những người đề nghị với Đức Giám Mục Bangkok, và qua Cardinal Conference 1986, COERR (Catholic Office for Emergency Relief and Refugees is a private non-profit organization, established by the Catholic Bishops Conference of Thailand (CBCT)), đồng ý thiết lập một Bệnh Viện cho người Việt tị nạn, do Người Việt tự chăm sóc qua sự hỗ trợ của các Bác sĩ, Y tá của COERR , ARC (American Refugee Committee) lo về phòng xét nghiệm, di chuyển bệnh nhân vẫn còn dưới sự giúp đỡ của ICRC (Ambulance), những dịch vụ y tế nhẹ như là Day Surgery, cateract removal,selective minor surgery thì được chuyển lên Khao I Dang qua sự sắp xếp của COERR.
Cha Pierre Ceyrac, theo tôi , là người có công lớn nhất lập ra Bệnh Viện này, và cũng là Vị Ân Nhân lớn nhất của nhữnh bệnh nhân được điều trị tại đây về vật chất lẫn tinh thần, Vì Bệnh Viện được nằm ngay truớc cổng vào của Trại ,cho nên trước khi ghé vào Cộng Đòan Công Giáo Emmanuel hay Ban Đại Diện Trại, Ngài luôn luôn ghé thăm Bệnh Nhân và Anh em thiện nguyện ở đây trước, với chúng tôi, đây là những giây phút quý giá đáng nhớ, được trò chuyện với Ngài, được thấy Ngài, hút một điếu thuốc với Ngài...chúng tôi cảm thấy như được ban hồng ân đặc biệt, một món quà tinh thần động viên chúng tôi, chúng tôi làm việc có lúc 24/24 mà cảm thấy không mệt mỏi... Nghĩa cử cao cả và lòng vị tha của Ngài đã giúp cho chúng tôi vượt qua những khó khăn nhất trong những lúc này.
(War Lord) lại mang những ý tưởng và hoạt động khác nhau (different fractions, different land Lord), dựa vào những yếu tố này UNBRO, ICRC ,Joint inter-NGOs đã dời trại VNLR và xác nhập vào Site 2 South , nhưng lần này trại chúng ta đưọc ngăn cách rõ ràng qua các hàng rào kẽm gai và được áp sát vào đồn TF 80 (Task Force 8) và được bảo vệ trực tiếp bởi TF80 ,một bệnh viện VNLR được dựng lên ngay cổng vào của trại và sát bên đồn TF80 ngoài ra chúng ta còn được phép access trực tiềp va sử dụng hệ thống liên lạc của TF80 (Tele-communication giữa bệnh viện trại và Khao I Dang Hospital) trong trường hợp phải chuyển bệnh nhân vào đất Thái để chữa trị nhất là về đêm (trước đó chúng tôi phải buộc lòng di chuyển bệnh nhân qua bệnh viện của người Khmer, có những phức tạp đã xảy ra!!).
Đến đây chúng ta lại nhớ đến công sức và ý của Cha Piere Ceyrac ,các Cha,các nhân viên NGO những người đề nghị với Đức Giám Mục Bangkok, và qua Cardinal Conference 1986, COERR (Catholic Office for Emergency Relief and Refugees is a private non-profit organization, established by the Catholic Bishops Conference of Thailand (CBCT)), đồng ý thiết lập một Bệnh Viện cho người Việt tị nạn, do Người Việt tự chăm sóc qua sự hỗ trợ của các Bác sĩ, Y tá của COERR , ARC (American Refugee Committee) lo về phòng xét nghiệm, di chuyển bệnh nhân vẫn còn dưới sự giúp đỡ của ICRC (Ambulance), những dịch vụ y tế nhẹ như là Day Surgery, cateract removal,selective minor surgery thì được chuyển lên Khao I Dang qua sự sắp xếp của COERR.
Cha Pierre Ceyrac, theo tôi , là người có công lớn nhất lập ra Bệnh Viện này, và cũng là Vị Ân Nhân lớn nhất của nhữnh bệnh nhân được điều trị tại đây về vật chất lẫn tinh thần, Vì Bệnh Viện được nằm ngay truớc cổng vào của Trại ,cho nên trước khi ghé vào Cộng Đòan Công Giáo Emmanuel hay Ban Đại Diện Trại, Ngài luôn luôn ghé thăm Bệnh Nhân và Anh em thiện nguyện ở đây trước, với chúng tôi, đây là những giây phút quý giá đáng nhớ, được trò chuyện với Ngài, được thấy Ngài, hút một điếu thuốc với Ngài...chúng tôi cảm thấy như được ban hồng ân đặc biệt, một món quà tinh thần động viên chúng tôi, chúng tôi làm việc có lúc 24/24 mà cảm thấy không mệt mỏi... Nghĩa cử cao cả và lòng vị tha của Ngài đã giúp cho chúng tôi vượt qua những khó khăn nhất trong những lúc này.
Có một đêm nọ, trại bị một nhóm người vũ
trang (không rõ là ai ?? Thái, Campuchia...?) vượt rào vào trại để cướp của hay
hiếp dâm...Đêm đó chúng tôi đã nhanh chóng chạy thẳng vào đồn Thái TF80 để cầu
cứu lính Thái phản ứng rất chậm chạp khi nghe báo như vậy thậm chí họ còn hoang
mang hơn mình khi nghe nói nhóm người này có súng, cuối cùng một cuộc đấu súng
xảy ra kịch liệt giữa lính Thái và nhóm cướp, trong đó có một người Việt Nam tử
nạn!! (anh ta là bộ đội vượt biên, mà nguời ta còn gọi là Chú Cùi!)
Anh đã bị trúng đạn mà sau này sau khi nhận xét dựa vào vết đạn trúng vào người ai ai cũng kết luận rằng anh ấy trúng đạn từ phía sau nghĩa là lúc dẫn nhóm lính thái truy đuổi nhóm cướp, anh ta là người dẫn đầu, nên bị lính thái bắn trúng từ đàng sau!! chúng tôi đã liên lạc khẩn cấp Khao I Dang xin xe ambulance , 45 phút sau , Khao I Dang gởi ambulance vào, vì máu ra quá nhiều, mặc dù được chuyền nước biển vào 2 cánh tay, anh ta đã tắt thớ giữa đường (sau khi ambulance qua khỏi làng Pra Taya một đoạn), tôi đã không cầm được nướt mắt mình!!! Tôi cảm thấy bất lực vô cùng!!
Anh đã bị trúng đạn mà sau này sau khi nhận xét dựa vào vết đạn trúng vào người ai ai cũng kết luận rằng anh ấy trúng đạn từ phía sau nghĩa là lúc dẫn nhóm lính thái truy đuổi nhóm cướp, anh ta là người dẫn đầu, nên bị lính thái bắn trúng từ đàng sau!! chúng tôi đã liên lạc khẩn cấp Khao I Dang xin xe ambulance , 45 phút sau , Khao I Dang gởi ambulance vào, vì máu ra quá nhiều, mặc dù được chuyền nước biển vào 2 cánh tay, anh ta đã tắt thớ giữa đường (sau khi ambulance qua khỏi làng Pra Taya một đoạn), tôi đã không cầm được nướt mắt mình!!! Tôi cảm thấy bất lực vô cùng!!
Theo luật thi thể nạn nhân phải tiếp tục
đưa đến bệnh viện Khao I Dang . Sáng hôm
sau, sau khi làm báo cáo cho ICRC tại đây, vừa chuẩn bị ra xe để về lại trại,
Cha Pierre đã đậu xe trước ICRC của Bệnh Viện, Ngài lại là người đầu tiên và
duy nhất được thấy thi thể của nạn nhân.
Ngài đã Ban phép lành cho anh ấy!
Tôi xin Cha một điếu thuốc,đốt xong và cắm xuống miếng đất trước cổng bệnh viện
như 1 nét hương cho người quá cố,Ngài không hỏi tôi làm gì, mà Ngài cũng tương
tự làm theo... Ngài vỗ vai tôi chào tạm biệt.
Có lần tôi đã tâm sự với Cha Pierre nếu
Ngài có trách móc tôi không, nếu tôi không tham dự những thánh lễ của Cha ở nhà
thờ trại? Bởi vì từ hồi có bệnh viện trong trại, tôi đã xin ban đại diện cất
một vài căn phòng nhỏ sau bệnh viện, để anh em chúng tôi có thể túc trực ở đó
24/24. Từ dạo đó tôi ít ghé lại nhà thờ hơn! tôi cũng bị một vài người trong
công đoàn chỉ trích vì vắng mặt thường xuyên!! để cho lòng mình được thanh
thảng,tôi đã hỏi Ngài như vậy.
Ngài hỏi lại tôi " Did you note that on the sign board in front of your hospital, there are two crosses on it, meaning that is the place where our Jesus be there, for everyone, don't worry keep up your good work, god bless you! you know" Chính Ngài đã bồi bổ tinh thần cho tôi và cho tôi lòng nhiệt huyết kiên cường làm được những gì mà tôi có thể làm cho tôi cũng như cho người khác vào lúc cần nhất , mà giờ đây dù có muốn tôi vẫn không thể làm được!!! (Father! you inspired me!)
Ngài hỏi lại tôi " Did you note that on the sign board in front of your hospital, there are two crosses on it, meaning that is the place where our Jesus be there, for everyone, don't worry keep up your good work, god bless you! you know" Chính Ngài đã bồi bổ tinh thần cho tôi và cho tôi lòng nhiệt huyết kiên cường làm được những gì mà tôi có thể làm cho tôi cũng như cho người khác vào lúc cần nhất , mà giờ đây dù có muốn tôi vẫn không thể làm được!!! (Father! you inspired me!)
Lần đó, không hẹn mà gặp, lúc đó tôi được
gởi ra ngoài bệnh viên ARC (American Refugee Commitee) của người Khmer để học
khoá Tropical disease laboratory của MSF (Medicins Sans Frontieres) tổ chức và
huấn luyện, ngày hôm đó trong dịp Graduation Ceremony .
Tôi gặp được Ngài, Ngài
là một trong những quan khách của buổi lễ, ngạc nhiên vì gặp được Cha ở giữa
đám đông người Khmer, lòng tôi mừng không tả, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình
hạnh phúc như lúc đó, bởi với tôi, tôi đã học được một cái ngành mà mình yêu
thích, thứ hai vào lúc đó đang bơ vơ giữa chốn người,như một đứa trẻ mồ côi,
thế mà Ngài lại có mặt ở đây để chứng kiến sự trưởng thành của mình, Cha là
người thân của tôi duy nhất lúc này!! Phải chăng đây cũng là cái nghiệp của
mình, mà sang Canada tôi đã theo đuổi học ngành Medical Laboratory, và cũng làm
tại một bệnh viện cho đến hôm nay. Phải
chăng có một sự ngẫu nhiên hay một sắp đặt ở đây!!
Tin hay Ngài đã mất, tôi đã khóc... như hôm
nào tôi cũng đã khóc khi Cha mình qua đời.
Tôi ước mong được gặp lại Ngài..nhưng không được nữa rồi!!!...có lẽ
không phải ở thế gian này nữa ...mà hy vọng nơi, mà Ngài cho là cội nguồn của
Ngài!!! Tạm biệt Cha!!!
Những chi tiết, tên tuổi trong đoạn hồi ký
này là có thật, có thể mốc thời gian bị chênh lệch chút đỉnh, ai nhớ xin vui
lòng đính chính.
Thân
ái! Chương OPD-Bệnh viện COERRchuongVNLR@gmail.com]
DUY NHÂN * NGƯỜI TÙ KHÔNG NHẬN TỘI
|
Wednesday, September 25, 2013
NGUYỄN ƯỚC * NGUYỄN BÍNH “TỈNH GIẤC CHIÊM BAO”
NGUYỄN BÍNH VÀ
“TỈNH GIẤC CHIÊM BAO”
“TỈNH GIẤC CHIÊM BAO”
NGUYỄN ƯỚC
1. CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN BÍNH
Nguyễn
Bính là bút danh của Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 (khoảng cuối
mùa xuân đầu mùa hạ năm Mậu Ngọ) tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đông
Đội (nay là xã Cộng H òa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Gia đình ông thuộc loại nhà nho thanh bần, sinh sống tại vùng đất nổi tiếng đồng chua nước mặn. Thân phụ là cụ Nguyễn Đạo Bình (thường gọi Ông Cả Biền) làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm, hiền lành, trọng chữ nghĩa hơn c ủa cải vật chất.
Thân mẫu là cụ bà Bùi Thị Miện, đức hạnh và xinh đẹp, thuộc một gia đình khá giả và có lòng yêu nước, ở thôn Vân, xã Đông Đội (nay là xã Minh Tân), cùng huyện. Bà sinh cho chồng được ba người con trai là Trúc Đường Nguyễn Mạnh Phát, Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Trọng Bính. Sau khi sinh Nguyễn Bính được đôi ba tháng, bà ra cầu ao rửa chân thì bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi. Mấy năm sau, vì cảnh nhà cô quạnh, thân phụ của Nguyễn Bính tái giá với bà Phạm Thị Duyên, rồi sinh thêm được hai con trai và hai con gái.
Tuổi thơ cơ khổ
Sau khi mẹ mất, bà cả Giần, chị ruột của mẹ và là người giàu có, đem ba cháu về cưu mang và cho tiếp tục việc học. Lần này, thầy dạy học chính là anh ruột của mẹ (mà anh em Nguyễn Bính thường gọi là bác), tên là Bùi Trình Khiêm. Cụ Khiêm nổi tiếng hay chữ khắp vùng nhưng thi cử không đỗ.
Cụ tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục rồi vào Nam Kỳ định làm báo nhưng bị thực dân Pháp bắt giải về quản thúc ở quê nhà cho tới năm 1945; cụ cũng là thầy học của Trần Huy Liệu.
Thời kỳ này Nguyễn Bính bắt đầu tấp tểnh làm thơ và dịch thơ, có bài được bác Khiêm khen hay, nên được nuông chiều. Cùng với việc học chữ nho, Nguyễn Bính vào lớp sơ học trường huyện. Từ năm 1931, ở làng Thiện Vịnh, Nguyễn Bính nổi tiếng thần đồng; được giải nhất trong một cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng. Cậu là người gà thơ cho bên nam đối đáp với bên nữ, cuối cùng, bên nam thắng, dù kẻ gà thơ cho bên nữ là một cụ già 70 tuổi.
Từ quê ra tỉnh
Khoảng năm 1932, Trúc Đường thi đổ thành chung, vào Hà Đông dạy ở tư thục. Ông mang Nguyễn Bính đi theo, đưa em vào học tiểu học và dạy thêm tiếng Pháp cho em. Ông cũng thường đem em đi khắp các vùng quê để giữ cho mạch thơ của em đưọc chân chất. Đời sống anh em đạm bạc vì lương tháng giáo viên không được bao nhiêu, cá tính của Nguyễn Bính lại vô lo, lham làm thơ hơn chăm học.
Không chịu nổi cánh sống túng thiếu của hai anh em, Nguyễn Bính nghe lời một người bạn học ở thôn Vân rủ lên mạn ngược, vùng Thái Nguyên, dạy học kiếm sống. Nhưng rồi cũng chẳng đủ ăn mà tính nết lại bất định, thích sống rày đây mai đó, Nguyễn Bính lại về Hà Nội, có khi đi bán báo ở phố Hàng Bồ.
Tên Nguyễn Bính bắt đầu xuất hiện và được ngưòi đọc chú ý với bài thơ Cô hái mơ, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm ở Hà Nội vào năm 1936, nhưng tới khi bài thơ Lỡ bước sang ngang đăng cũng trên tờ báo ấy ông mới thật sự nổi tiếng. Năm 1937, ông được Tự Lực Văn Đoàn trao giải khuyến khích với tập thơ Tâm hồn tôi.
Giữa thời buổi thơ mới đang thịnh hành với những lời cổ vũ “theo mới, hoàn toàn theo mới” và những bài thơ chịu ảnh hưởng đậm đà về thể thơ, lối diễn tả lẫn cách đặt câu theo văn phạm Pháp của một số nhà thơ mới, tiếng thơ Nguyễn Bính nổi bật với lời thơ mộc mạc, cảm xúc đơn sơ và thấm thía, thể thơ phần nhiều là lục bát, lấy cảm hứng và hình ảnh từ những sinh hoạt ở nông thôn, những câu hò điệu hát ca dao dân dã, đồng thời chuyên chở được cái ý nhị của dân tộc và tâm tình của cả một thế hệ thanh niên nam nữ buổi giao thời.
Các yếu tố ấy tạo cho Nguyễn Bính một chỗ đứng độc đáo trong lòng độc giả và trên thi đàn. Chỉ trong ba năm (1940-1942), ông in liên tiếp 7 tập thơ, trong đó nhan đề của tập Lỡ bước sang ngang (1940) đã gắn trọn đời với tên tuổi của ông.
Nhưng theo Nguyễn Bính, tập thơ đầu tay của ông là Bướm, viết về những cảm xúc và những hoạt cảnh săn bắt bướm lúc ông sống lang thang ở Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên Bái, Cao Bằng. Tập thơ trong đó ông tự nhận tiền kiếp của mình là một loài bướm ấy không bao giờ xuất bản; những bài thơ của nó được ông đưa xen kẽ vào các thi phẩm khác.
Trong giai đoạn này, hầu như mỗi tập thơ của Nguyễn Bính đều bắt nguồn từ cảm hứng tình yêu của ông dành cho một người nữ. Tập Tâm hồn tôi gồm những bài trộm nhớ thầm yêu cô Oanh sông Nhuệ. Hương cố nhân là tình yêu của ông dành cho Anh Thơ, tác giả tập thơ Bức tranh quê. Với Nguyễn thị Tuyên, em gái của Nguyễn Đình Lạp thì ông hoàn thành Người con gái ở lầu hoa. Và còn nhiều hình bóng khác như cô Phùng, đặc biệt với một đào nương tên Dung, sanh cho ông một đứa con mà ông ghi lại trong bài Oan nghiệt viết ở Huế năm 1941.
Nguyễn Bính theo như nhà văn Tô Hoài kể: “Con người anh trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như ‘ông từ vào đền’, như người thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như người lướt mướt từ đồng sâu mặn lên, dẫu cho anh đương mũ áo chửng chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công việc làm ăn vất vả sương nắng.”
Nhưng con người thơ ấy vốn giàu đam mê hơn nghị lực, nhiều mơ mộng hơn thực tế lại sống giữa chốn Hà thành phồn hoa với những cuộc vui hát ả đào thâu đêm và bên bàn đèn thuốc phiện suốt sáng.
Tô Hoài kể đi đâu Nguyễn Bính cũng cầm trên tay một hộp sắt tây để lâu lâu lại “ngồi lên, vuốt ve, sắp xếp lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo những bài thơ của anh và những bức thư tình, một hộp thư tình.
Tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối tình, của những mối tình của anh, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những cái thư cũ, những người ta ở những đâu đâu ấy đã ‘cho rơi’ anh rồi. Chỉ còn lại những lá thư trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại lôi những của oan trái giời ơi ấy trong cái hộp gối ra.”
Loanh quanh ở Hà thành và là người thơ thèm sống tới tận cùng nhưng không bao giờ nắm bắt được những giá trị trần thế thực dụng, Nguyễn Bính tiêu pha ngày tháng và những khoản nhuận bút thất thường trong những cuộc vui phóng túng, những chuyến giang hồ vặt với các thi hữu, khi Bắc Ninh, khi Hải Phòng. Túi khi rỗng khi vơi mà tay tiêu pha thì vung lên quá trán.
Khi làm thơ, ông trân trọng từng câu kỹ lưỡng từng chữ bao nhiêu thì trong cuộc đời, ông sống buông thả bấy nhiêu. Lối sống đó hình như không chỉ của riêng ông mà còn chung cho hầu hết một thế hệ văn thi sĩ tiền chiến ở Hà Nội. Những con người trẻ tuổi tài hoa, bồng bềnh với một tâm thức lãng mạn trong hoàn cảnh bế tắc về sinh kế, mịt mù về chính trị với sự bắt đầu có mặt của người Nhật trên một đất nước đã mất từ lâu vào tay người Pháp.
Lưu lạc phương nam
Phải tìm một lối thoát cho đời mình và cho thơ mình. Sau những ngày lang thang ở mạn ngược và những chuyến giang hồ vặt, Nguyễn Bính tìm đường xuôi nam. Có lẽ chuyến đi Sàigòn đầu tiên của ông diễn ra năm “chàng trai còn trẻ mới hai mươi” mà ông đã ghi lại trong bài thơ “Lá thư về bắc”, gửi người anh họ là nhà văn Bùi Hạnh Cẩn – con trai cụ Bùi Trình Khiêm — được in lại trong tập Lỡ bước sang ngang (1940).
Tới năm 1941, ông lại đi Huế với nhà văn Vũ Trọng Can. Gặp nhà thơ Tế Hanh ở Huế, cả ba trình diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân ở Hội trường Acceuil, Dòng Chúa Cứu Thế. Ðã không có mặt hoàng đế Bảo Ðại, hoàng hậu Nam Phương và Khâm sứ Pháp như dự kiến, buổi diễn còn bị thất thu về tài chính, và Nguyễn Bính nằm lại cố đô, thấm thía với mưa dầm xứ Huế. Cơn phấn chấn ngày ra đi nay lụi dần và giọng điệu thơ Nguyễn Bính đã bắt đầu chua cay, khinh bạc.
Sau khi về lại Hà Nội, ông cùng Vũ Trọng Can lại làm một chuyến “hành phương nam” khác, lần này có thêm Tô Hoài. Chuyến thứ ba, có lẽ là chuyến sau cùng. Diễn thuyết, viết báo, rồi lang thang ở Sàigòn một thời gian, ba người bạn chia tay người mỗi ngả. Nguyễn Bính về miền tây.
Khoảng năm 1943, ông ở trọ tại khách sạn nghèo Tân Hưng, Mỹ Tho. Tại đó ông gặp một thanh ni ên về sau là nhà-thơ-ca-dao-cung-đình Bảo Ðịnh Giang, người mà thuở đó ông gọi là có “mắt xanh”, đã tiếp đãi ông tận tình. Qua Bảo Ðịnh Giang, ông làm quen và được sự giúp đỡ bởi những người yêu mến thi tài Nguyễn Bính như Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, đặc biệt Bác sĩ Dương tấn Tươi, từng giúp ông 700 đồng, trong khi tiền ăn cơm tháng thuở đó chỉ tốn 3-4 đồng. Năm 1944, Nguyễn Bính được giải nhất truyện ngắn của tạp chí Thanh Niên Ðông Pháp, với tựa đề “Không đất cắm dùi.”
Từ Mỹ Tho, ông xuống Cần Thơ, ở lại nhà của Ðoàn Trọng Khang. Từ Cần Thơ ông qua Rạch Giá, bụi đời ngủ nóp ở đình thờ Nguyễn Trung Trực. Tại đó, ông quen với nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, về sau là tác giả tập thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” và là soạn giả cải lương nổi tiếng. Kiên Giang nhờ gia đình giúp đỡ, thuê một cái lều của ông chủ sân banh Rạch Giá, rộng đủ chứa một cái nóp nằm ngủ mà ông mô tả là “Ở nhà hẹp mà hồn trùm vũ trụ!” Có lẽ vào thời gian này, bị mật thám để ý vì những bài thơ dán đầy vách lều, Nguyễn Bính bèn đổi tên thành Nguyễn Bính Thuyết.
Ðầu mùa hạ năm 1944, Nguyễn Bính chia tay với Kiên Giang. Ông vào tiệm Công Yên ở Rạch giá hút suốt một đêm rồi đi Hà Tiên, sống những ngày rất đằm thắm với hai văn thi hữu mà ông xem như anh chị của mình, là Ðông Hồ và Mộng Tuyết.
Ðất Hà Tiên giúp Nguyễn Bính làm được nhiều thơ, say sưa bộ truyện Tam Quốc Chí, mộng mơ lãng đãng với thiếu nữ tên Ngọc, cháu của Ðông Hồ, và nhất là khiến ông xa được nàng tiên nâu một thời gian. nhưng rồi những tiếp đãi ân cần đó cũng chẳng giữ chân ông được lâu. May mắn là trong khoảng thời gian này ông kịp sáng tác được truyện thơ Tỳ Bà Truyện, theo thể lục bát, dài 1550 câu, mô phỏng vở tuồng nam hí Tỳ Bà Ký của Cao Minh thời cuối Nguyên đầu Minh của Trung Hoa (thế kỷ 14).
Từ bỏ những ngày tháng mà Mộng Tuyết kể lại là “rất yêu đời, lành mạnh, vui vẻ, sống cuộc đời mẩu mực” ở Hà Tiên, Nguyễn Bính lại về Sàigòn, dù chủ nhân “năn nỉ mãi Bính cũng không ở lại”. Thế là lại lao vào cuộc sống phiêu bạt “bất thường vô định của nhà thơ trác táng đến [có thể] vong khước hình hài” (Mộng Tuyết), Nguyễn Bính khi trọ vùng Chợï Cũ, khi ở Xóm Dừa hay khu Nancy, làm thơ đăng báo và lui tới với các văn nhân thi sĩ thành đô. Thơ ông lại càng thấm đẫm chua cay và chất ngất khinh bạc. Có lúc, ông viết tùy bút dưới bút hiệu Kiều Mộc.Tham gia kháng chiến
Từ những ngày chưa kết thúc Thế Chiến Hai, Nguyễn Bính đã được móc nối bởi một cán bộ Việt Minh trí thức vận, đồng hương với ông. Tiếng hát Tổng Khởi nghĩa Mùa thu vang lên khắp đất nước rồi tiếp đó là tiếng súng của cuộc kháng chiến trường kỳ, từ chợ Rạch Giá, Nguyễn Bính vào bưng biền tham gia đánh giặc. Thơ ông lúc này chuyển hướng, gần như vè, và được ông sử dụng như một thứ vũ khí động viên nhân dân vùng lên đuổi Pháp.
Tại Rạch Giá, ông lập hội Văn hóa Cứu quốc, và làm Phó chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh. Nhà văn Sơn Nam có nhiều dịp gặp ông, kể lại là các công văn ông phê thường kèm theo một bài thơ dưới ký tên Nguyễn Bính. Sau một nhiệm kỳ Phó chủ tịch, Nguyễn Bính chuyển lên công tác ở Ban văn nghệ Khu 8 tại Ðồng Tháp Mười, làm việc chung với Bảo Ðịnh Giang và nhà văn Ðoàn Giỏi...
Sau vài năm, Nguyễn Bính không sống đời bưng biền nữa nhưng vẫn làm thơ kháng chiến và ở lại vùng giải phóng, dù chính quyền Nguyễn Văn Thinh treo giải thưởng ai đem Nguyễn Bính về thành hoặc tự ý nhà thơ về thành sẽ được thưởng 1.000 đồng bạc Ðông Dương, một số tiền rất lớn vào thời đó.
Trong giai đoạn này, ông có một người vợ miền nam, mỹ danh là Hồng Châu, ở bên bờ con kinh xáng Chắc Băng-Thái Bình, cách thị xã Vĩnh Long khoảng ba bốn cây số, trên đường đi Cần Thơ. Bà sanh cho ông một con gái tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Ông còn có một đứa con gái khác tên là Hương Mai. Sau năm 1975, Hồng Cầu có thời làm Tổng biên tập Nhà Xuất Bản Vĩnh Long, nay hình như đã nghỉ hưu.Lại về đất bắc
Năm 1954, theo qui định của Hiệp định Genève tạm thời chia đôi đất nước trong chỉ hai năm, trong đoàn quân tập kết ra Bắc có Nguyễn Bính. Ông để lại người vợ và hai con ở trong nam.
Nhà thơ tái ngộ đất bắc sau mười ba năm xa cách, với bối rối ngỡ ngàng. Người thân mừng rỡ gặp lại nhà thơ vì từng nghe đồn ông đã chết mấy năm trước. Ðời sống xã hội thay đổi không như mình mộng tưởng, ông ghi lại các cảm xúc đó trong bài thơ “Tỉnh giấc chiêm bao”, mà cho đến nay vẫn chưa được phép xuất hiện trong các tuyển tập thơ Nguyễn Bính.
Năm 1956, ông chủ trương báo Trăm Hoa. Báo ra được mấy số thì đình bản vì không có đủ tiền tư túc mua giấy để in báo, trong khi các báo văn nghệ chính thức của nhà nước thì được mua giấy bao cấp. Và theo quan điểm của chính quyền thời đó thì Nguyễn Bính “đã cho đăng trên tờ báo này một số bài viết (trong đó có vài bài của anh) còn mang tính mơ hồ trong lập trường tư tưởng.”
Từ sau Trăm Hoa và thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm cho tới năm 1964, tác phẩm của Nguyễn Bính hầu hết được viết ra theo đúng đường lối chính trị và định hướng văn học dành cho văn nghệ sĩ sống dưới chế độù. Tuy thế, bên cạnh những bài thơ, những truyện thơ và mấy vở chèo phải đạo ấy, ông còn có một chuỗi thơ đặc sắc, bày tỏ lòng tha thiết thương nhớ người vợ trong nam và mấy bài thơ nói về những oan khuất, tàn tệ trong cuộc cải cách ruộng đất.
Lụy tình vẫn đeo đuổi người thơ không dứt. Nguyễn Bính ăn ở với nữ thư ký tờ Trăm Hoa, cóù một đứa con trai đặt tên là Hiền. Mẹ nó đi lấy chồng giao con lại; đi đâu cha con cũng quấn quít nhau. Bỗng dưng trong một cơn say, ông lỡ đem con cho một người qua đường, tại ngả sáu Bà Triệu, Hà Nội. Về nhà, quá nửa đêm, tỉnh rượu, mới nhớ ra chuyện, ông hốt hoảng đi tìm khắp nơi nhưng không bao giờ gặp lại người chẳng quen biết ấy.
Tới năm 1958, Nguyễn Bính túng thế ph ải quay về cư trú ở Nam Ðịnh, làm việc tại Ty Văn hóa Thông tin Nam Ðịnh, d ưới sự kềm cặp của “nhà văn” Chu Tấn và quan chức địa phương. Nhà văn Ngọc Giao kể là “(.)Nguyễn Bính cảm thấy mệt mỏi, yếu đau(.) Anh sống với gia đình, coi như an phận. Chị Bính là người hiền hậu, nết na. Chị hằng ngày ra chợ Rồng, thu nhặt từng xu từng hào với mẹt bày quả chanh quả ớt. Chị tháo mồ hôi, phai tàn tuổi trẻ, làm sao cho hằng ngày có đủ rượu, đồ nhắm, bồi dưỡng cho ông chồng thơ.” Ðể lại mùa xuân
Vào những ngày cuối năm Ất Tỵ, cảnh nhà Nguyễn Bính trống trơn trong khi xuân về rộn rịp đất trời; nhà thơ lửng thửng rời đất Vị Hoàng, đi tới một thôn xóm ven đô. Theo lời nhà văn Chu Tấn kể thì: “Nguyễn Bính có một chương trình khác. Cái máu giang hồ vặt lại nổi lên. Anh muốn tạo ra một mùa xuân tha hương nữa. Tha hương đây không phải là nơi cách trở ngàn dặm, mà là một làng ở ngay huyện Lý Nhân, ở đây có một anh bạn yêu thơ, nhà làm thuốc đông y.
Hai vợ chồng ngõ ý mời từ lâu. Nguyễn Bính chọn ngày giáp Tết. Anh xắn cao quần, xông pha đường bùn đất, lặn lội tới chơi. Chủ nhà cảm động đến rơi nước mắt. Cái tết “tha hương” này hẳn là ấm cúng. Ngờ đâu...”
Gia đình ông thuộc loại nhà nho thanh bần, sinh sống tại vùng đất nổi tiếng đồng chua nước mặn. Thân phụ là cụ Nguyễn Đạo Bình (thường gọi Ông Cả Biền) làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm, hiền lành, trọng chữ nghĩa hơn c ủa cải vật chất.
Thân mẫu là cụ bà Bùi Thị Miện, đức hạnh và xinh đẹp, thuộc một gia đình khá giả và có lòng yêu nước, ở thôn Vân, xã Đông Đội (nay là xã Minh Tân), cùng huyện. Bà sinh cho chồng được ba người con trai là Trúc Đường Nguyễn Mạnh Phát, Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Trọng Bính. Sau khi sinh Nguyễn Bính được đôi ba tháng, bà ra cầu ao rửa chân thì bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi. Mấy năm sau, vì cảnh nhà cô quạnh, thân phụ của Nguyễn Bính tái giá với bà Phạm Thị Duyên, rồi sinh thêm được hai con trai và hai con gái.
Tuổi thơ cơ khổ
Sau khi mẹ mất, bà cả Giần, chị ruột của mẹ và là người giàu có, đem ba cháu về cưu mang và cho tiếp tục việc học. Lần này, thầy dạy học chính là anh ruột của mẹ (mà anh em Nguyễn Bính thường gọi là bác), tên là Bùi Trình Khiêm. Cụ Khiêm nổi tiếng hay chữ khắp vùng nhưng thi cử không đỗ.
Cụ tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục rồi vào Nam Kỳ định làm báo nhưng bị thực dân Pháp bắt giải về quản thúc ở quê nhà cho tới năm 1945; cụ cũng là thầy học của Trần Huy Liệu.
Thời kỳ này Nguyễn Bính bắt đầu tấp tểnh làm thơ và dịch thơ, có bài được bác Khiêm khen hay, nên được nuông chiều. Cùng với việc học chữ nho, Nguyễn Bính vào lớp sơ học trường huyện. Từ năm 1931, ở làng Thiện Vịnh, Nguyễn Bính nổi tiếng thần đồng; được giải nhất trong một cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng. Cậu là người gà thơ cho bên nam đối đáp với bên nữ, cuối cùng, bên nam thắng, dù kẻ gà thơ cho bên nữ là một cụ già 70 tuổi.
Từ quê ra tỉnh
Khoảng năm 1932, Trúc Đường thi đổ thành chung, vào Hà Đông dạy ở tư thục. Ông mang Nguyễn Bính đi theo, đưa em vào học tiểu học và dạy thêm tiếng Pháp cho em. Ông cũng thường đem em đi khắp các vùng quê để giữ cho mạch thơ của em đưọc chân chất. Đời sống anh em đạm bạc vì lương tháng giáo viên không được bao nhiêu, cá tính của Nguyễn Bính lại vô lo, lham làm thơ hơn chăm học.
Không chịu nổi cánh sống túng thiếu của hai anh em, Nguyễn Bính nghe lời một người bạn học ở thôn Vân rủ lên mạn ngược, vùng Thái Nguyên, dạy học kiếm sống. Nhưng rồi cũng chẳng đủ ăn mà tính nết lại bất định, thích sống rày đây mai đó, Nguyễn Bính lại về Hà Nội, có khi đi bán báo ở phố Hàng Bồ.
Tên Nguyễn Bính bắt đầu xuất hiện và được ngưòi đọc chú ý với bài thơ Cô hái mơ, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm ở Hà Nội vào năm 1936, nhưng tới khi bài thơ Lỡ bước sang ngang đăng cũng trên tờ báo ấy ông mới thật sự nổi tiếng. Năm 1937, ông được Tự Lực Văn Đoàn trao giải khuyến khích với tập thơ Tâm hồn tôi.
Giữa thời buổi thơ mới đang thịnh hành với những lời cổ vũ “theo mới, hoàn toàn theo mới” và những bài thơ chịu ảnh hưởng đậm đà về thể thơ, lối diễn tả lẫn cách đặt câu theo văn phạm Pháp của một số nhà thơ mới, tiếng thơ Nguyễn Bính nổi bật với lời thơ mộc mạc, cảm xúc đơn sơ và thấm thía, thể thơ phần nhiều là lục bát, lấy cảm hứng và hình ảnh từ những sinh hoạt ở nông thôn, những câu hò điệu hát ca dao dân dã, đồng thời chuyên chở được cái ý nhị của dân tộc và tâm tình của cả một thế hệ thanh niên nam nữ buổi giao thời.
Các yếu tố ấy tạo cho Nguyễn Bính một chỗ đứng độc đáo trong lòng độc giả và trên thi đàn. Chỉ trong ba năm (1940-1942), ông in liên tiếp 7 tập thơ, trong đó nhan đề của tập Lỡ bước sang ngang (1940) đã gắn trọn đời với tên tuổi của ông.
Nhưng theo Nguyễn Bính, tập thơ đầu tay của ông là Bướm, viết về những cảm xúc và những hoạt cảnh săn bắt bướm lúc ông sống lang thang ở Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên Bái, Cao Bằng. Tập thơ trong đó ông tự nhận tiền kiếp của mình là một loài bướm ấy không bao giờ xuất bản; những bài thơ của nó được ông đưa xen kẽ vào các thi phẩm khác.
Trong giai đoạn này, hầu như mỗi tập thơ của Nguyễn Bính đều bắt nguồn từ cảm hứng tình yêu của ông dành cho một người nữ. Tập Tâm hồn tôi gồm những bài trộm nhớ thầm yêu cô Oanh sông Nhuệ. Hương cố nhân là tình yêu của ông dành cho Anh Thơ, tác giả tập thơ Bức tranh quê. Với Nguyễn thị Tuyên, em gái của Nguyễn Đình Lạp thì ông hoàn thành Người con gái ở lầu hoa. Và còn nhiều hình bóng khác như cô Phùng, đặc biệt với một đào nương tên Dung, sanh cho ông một đứa con mà ông ghi lại trong bài Oan nghiệt viết ở Huế năm 1941.
Nguyễn Bính theo như nhà văn Tô Hoài kể: “Con người anh trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như ‘ông từ vào đền’, như người thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như người lướt mướt từ đồng sâu mặn lên, dẫu cho anh đương mũ áo chửng chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công việc làm ăn vất vả sương nắng.”
Nhưng con người thơ ấy vốn giàu đam mê hơn nghị lực, nhiều mơ mộng hơn thực tế lại sống giữa chốn Hà thành phồn hoa với những cuộc vui hát ả đào thâu đêm và bên bàn đèn thuốc phiện suốt sáng.
Tô Hoài kể đi đâu Nguyễn Bính cũng cầm trên tay một hộp sắt tây để lâu lâu lại “ngồi lên, vuốt ve, sắp xếp lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo những bài thơ của anh và những bức thư tình, một hộp thư tình.
Tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối tình, của những mối tình của anh, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những cái thư cũ, những người ta ở những đâu đâu ấy đã ‘cho rơi’ anh rồi. Chỉ còn lại những lá thư trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại lôi những của oan trái giời ơi ấy trong cái hộp gối ra.”
Loanh quanh ở Hà thành và là người thơ thèm sống tới tận cùng nhưng không bao giờ nắm bắt được những giá trị trần thế thực dụng, Nguyễn Bính tiêu pha ngày tháng và những khoản nhuận bút thất thường trong những cuộc vui phóng túng, những chuyến giang hồ vặt với các thi hữu, khi Bắc Ninh, khi Hải Phòng. Túi khi rỗng khi vơi mà tay tiêu pha thì vung lên quá trán.
Khi làm thơ, ông trân trọng từng câu kỹ lưỡng từng chữ bao nhiêu thì trong cuộc đời, ông sống buông thả bấy nhiêu. Lối sống đó hình như không chỉ của riêng ông mà còn chung cho hầu hết một thế hệ văn thi sĩ tiền chiến ở Hà Nội. Những con người trẻ tuổi tài hoa, bồng bềnh với một tâm thức lãng mạn trong hoàn cảnh bế tắc về sinh kế, mịt mù về chính trị với sự bắt đầu có mặt của người Nhật trên một đất nước đã mất từ lâu vào tay người Pháp.
Lưu lạc phương nam
Phải tìm một lối thoát cho đời mình và cho thơ mình. Sau những ngày lang thang ở mạn ngược và những chuyến giang hồ vặt, Nguyễn Bính tìm đường xuôi nam. Có lẽ chuyến đi Sàigòn đầu tiên của ông diễn ra năm “chàng trai còn trẻ mới hai mươi” mà ông đã ghi lại trong bài thơ “Lá thư về bắc”, gửi người anh họ là nhà văn Bùi Hạnh Cẩn – con trai cụ Bùi Trình Khiêm — được in lại trong tập Lỡ bước sang ngang (1940).
Tới năm 1941, ông lại đi Huế với nhà văn Vũ Trọng Can. Gặp nhà thơ Tế Hanh ở Huế, cả ba trình diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân ở Hội trường Acceuil, Dòng Chúa Cứu Thế. Ðã không có mặt hoàng đế Bảo Ðại, hoàng hậu Nam Phương và Khâm sứ Pháp như dự kiến, buổi diễn còn bị thất thu về tài chính, và Nguyễn Bính nằm lại cố đô, thấm thía với mưa dầm xứ Huế. Cơn phấn chấn ngày ra đi nay lụi dần và giọng điệu thơ Nguyễn Bính đã bắt đầu chua cay, khinh bạc.
Sau khi về lại Hà Nội, ông cùng Vũ Trọng Can lại làm một chuyến “hành phương nam” khác, lần này có thêm Tô Hoài. Chuyến thứ ba, có lẽ là chuyến sau cùng. Diễn thuyết, viết báo, rồi lang thang ở Sàigòn một thời gian, ba người bạn chia tay người mỗi ngả. Nguyễn Bính về miền tây.
Khoảng năm 1943, ông ở trọ tại khách sạn nghèo Tân Hưng, Mỹ Tho. Tại đó ông gặp một thanh ni ên về sau là nhà-thơ-ca-dao-cung-đình Bảo Ðịnh Giang, người mà thuở đó ông gọi là có “mắt xanh”, đã tiếp đãi ông tận tình. Qua Bảo Ðịnh Giang, ông làm quen và được sự giúp đỡ bởi những người yêu mến thi tài Nguyễn Bính như Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, đặc biệt Bác sĩ Dương tấn Tươi, từng giúp ông 700 đồng, trong khi tiền ăn cơm tháng thuở đó chỉ tốn 3-4 đồng. Năm 1944, Nguyễn Bính được giải nhất truyện ngắn của tạp chí Thanh Niên Ðông Pháp, với tựa đề “Không đất cắm dùi.”
Từ Mỹ Tho, ông xuống Cần Thơ, ở lại nhà của Ðoàn Trọng Khang. Từ Cần Thơ ông qua Rạch Giá, bụi đời ngủ nóp ở đình thờ Nguyễn Trung Trực. Tại đó, ông quen với nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, về sau là tác giả tập thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” và là soạn giả cải lương nổi tiếng. Kiên Giang nhờ gia đình giúp đỡ, thuê một cái lều của ông chủ sân banh Rạch Giá, rộng đủ chứa một cái nóp nằm ngủ mà ông mô tả là “Ở nhà hẹp mà hồn trùm vũ trụ!” Có lẽ vào thời gian này, bị mật thám để ý vì những bài thơ dán đầy vách lều, Nguyễn Bính bèn đổi tên thành Nguyễn Bính Thuyết.
Ðầu mùa hạ năm 1944, Nguyễn Bính chia tay với Kiên Giang. Ông vào tiệm Công Yên ở Rạch giá hút suốt một đêm rồi đi Hà Tiên, sống những ngày rất đằm thắm với hai văn thi hữu mà ông xem như anh chị của mình, là Ðông Hồ và Mộng Tuyết.
Ðất Hà Tiên giúp Nguyễn Bính làm được nhiều thơ, say sưa bộ truyện Tam Quốc Chí, mộng mơ lãng đãng với thiếu nữ tên Ngọc, cháu của Ðông Hồ, và nhất là khiến ông xa được nàng tiên nâu một thời gian. nhưng rồi những tiếp đãi ân cần đó cũng chẳng giữ chân ông được lâu. May mắn là trong khoảng thời gian này ông kịp sáng tác được truyện thơ Tỳ Bà Truyện, theo thể lục bát, dài 1550 câu, mô phỏng vở tuồng nam hí Tỳ Bà Ký của Cao Minh thời cuối Nguyên đầu Minh của Trung Hoa (thế kỷ 14).
Từ bỏ những ngày tháng mà Mộng Tuyết kể lại là “rất yêu đời, lành mạnh, vui vẻ, sống cuộc đời mẩu mực” ở Hà Tiên, Nguyễn Bính lại về Sàigòn, dù chủ nhân “năn nỉ mãi Bính cũng không ở lại”. Thế là lại lao vào cuộc sống phiêu bạt “bất thường vô định của nhà thơ trác táng đến [có thể] vong khước hình hài” (Mộng Tuyết), Nguyễn Bính khi trọ vùng Chợï Cũ, khi ở Xóm Dừa hay khu Nancy, làm thơ đăng báo và lui tới với các văn nhân thi sĩ thành đô. Thơ ông lại càng thấm đẫm chua cay và chất ngất khinh bạc. Có lúc, ông viết tùy bút dưới bút hiệu Kiều Mộc.Tham gia kháng chiến
Từ những ngày chưa kết thúc Thế Chiến Hai, Nguyễn Bính đã được móc nối bởi một cán bộ Việt Minh trí thức vận, đồng hương với ông. Tiếng hát Tổng Khởi nghĩa Mùa thu vang lên khắp đất nước rồi tiếp đó là tiếng súng của cuộc kháng chiến trường kỳ, từ chợ Rạch Giá, Nguyễn Bính vào bưng biền tham gia đánh giặc. Thơ ông lúc này chuyển hướng, gần như vè, và được ông sử dụng như một thứ vũ khí động viên nhân dân vùng lên đuổi Pháp.
Tại Rạch Giá, ông lập hội Văn hóa Cứu quốc, và làm Phó chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh. Nhà văn Sơn Nam có nhiều dịp gặp ông, kể lại là các công văn ông phê thường kèm theo một bài thơ dưới ký tên Nguyễn Bính. Sau một nhiệm kỳ Phó chủ tịch, Nguyễn Bính chuyển lên công tác ở Ban văn nghệ Khu 8 tại Ðồng Tháp Mười, làm việc chung với Bảo Ðịnh Giang và nhà văn Ðoàn Giỏi...
Sau vài năm, Nguyễn Bính không sống đời bưng biền nữa nhưng vẫn làm thơ kháng chiến và ở lại vùng giải phóng, dù chính quyền Nguyễn Văn Thinh treo giải thưởng ai đem Nguyễn Bính về thành hoặc tự ý nhà thơ về thành sẽ được thưởng 1.000 đồng bạc Ðông Dương, một số tiền rất lớn vào thời đó.
Trong giai đoạn này, ông có một người vợ miền nam, mỹ danh là Hồng Châu, ở bên bờ con kinh xáng Chắc Băng-Thái Bình, cách thị xã Vĩnh Long khoảng ba bốn cây số, trên đường đi Cần Thơ. Bà sanh cho ông một con gái tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Ông còn có một đứa con gái khác tên là Hương Mai. Sau năm 1975, Hồng Cầu có thời làm Tổng biên tập Nhà Xuất Bản Vĩnh Long, nay hình như đã nghỉ hưu.Lại về đất bắc
Năm 1954, theo qui định của Hiệp định Genève tạm thời chia đôi đất nước trong chỉ hai năm, trong đoàn quân tập kết ra Bắc có Nguyễn Bính. Ông để lại người vợ và hai con ở trong nam.
Nhà thơ tái ngộ đất bắc sau mười ba năm xa cách, với bối rối ngỡ ngàng. Người thân mừng rỡ gặp lại nhà thơ vì từng nghe đồn ông đã chết mấy năm trước. Ðời sống xã hội thay đổi không như mình mộng tưởng, ông ghi lại các cảm xúc đó trong bài thơ “Tỉnh giấc chiêm bao”, mà cho đến nay vẫn chưa được phép xuất hiện trong các tuyển tập thơ Nguyễn Bính.
Năm 1956, ông chủ trương báo Trăm Hoa. Báo ra được mấy số thì đình bản vì không có đủ tiền tư túc mua giấy để in báo, trong khi các báo văn nghệ chính thức của nhà nước thì được mua giấy bao cấp. Và theo quan điểm của chính quyền thời đó thì Nguyễn Bính “đã cho đăng trên tờ báo này một số bài viết (trong đó có vài bài của anh) còn mang tính mơ hồ trong lập trường tư tưởng.”
Từ sau Trăm Hoa và thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm cho tới năm 1964, tác phẩm của Nguyễn Bính hầu hết được viết ra theo đúng đường lối chính trị và định hướng văn học dành cho văn nghệ sĩ sống dưới chế độù. Tuy thế, bên cạnh những bài thơ, những truyện thơ và mấy vở chèo phải đạo ấy, ông còn có một chuỗi thơ đặc sắc, bày tỏ lòng tha thiết thương nhớ người vợ trong nam và mấy bài thơ nói về những oan khuất, tàn tệ trong cuộc cải cách ruộng đất.
Lụy tình vẫn đeo đuổi người thơ không dứt. Nguyễn Bính ăn ở với nữ thư ký tờ Trăm Hoa, cóù một đứa con trai đặt tên là Hiền. Mẹ nó đi lấy chồng giao con lại; đi đâu cha con cũng quấn quít nhau. Bỗng dưng trong một cơn say, ông lỡ đem con cho một người qua đường, tại ngả sáu Bà Triệu, Hà Nội. Về nhà, quá nửa đêm, tỉnh rượu, mới nhớ ra chuyện, ông hốt hoảng đi tìm khắp nơi nhưng không bao giờ gặp lại người chẳng quen biết ấy.
Tới năm 1958, Nguyễn Bính túng thế ph ải quay về cư trú ở Nam Ðịnh, làm việc tại Ty Văn hóa Thông tin Nam Ðịnh, d ưới sự kềm cặp của “nhà văn” Chu Tấn và quan chức địa phương. Nhà văn Ngọc Giao kể là “(.)Nguyễn Bính cảm thấy mệt mỏi, yếu đau(.) Anh sống với gia đình, coi như an phận. Chị Bính là người hiền hậu, nết na. Chị hằng ngày ra chợ Rồng, thu nhặt từng xu từng hào với mẹt bày quả chanh quả ớt. Chị tháo mồ hôi, phai tàn tuổi trẻ, làm sao cho hằng ngày có đủ rượu, đồ nhắm, bồi dưỡng cho ông chồng thơ.” Ðể lại mùa xuân
Vào những ngày cuối năm Ất Tỵ, cảnh nhà Nguyễn Bính trống trơn trong khi xuân về rộn rịp đất trời; nhà thơ lửng thửng rời đất Vị Hoàng, đi tới một thôn xóm ven đô. Theo lời nhà văn Chu Tấn kể thì: “Nguyễn Bính có một chương trình khác. Cái máu giang hồ vặt lại nổi lên. Anh muốn tạo ra một mùa xuân tha hương nữa. Tha hương đây không phải là nơi cách trở ngàn dặm, mà là một làng ở ngay huyện Lý Nhân, ở đây có một anh bạn yêu thơ, nhà làm thuốc đông y.
Hai vợ chồng ngõ ý mời từ lâu. Nguyễn Bính chọn ngày giáp Tết. Anh xắn cao quần, xông pha đường bùn đất, lặn lội tới chơi. Chủ nhà cảm động đến rơi nước mắt. Cái tết “tha hương” này hẳn là ấm cúng. Ngờ đâu...”
Nguyễn Bính cùng chủ khách lãng đãng nhắm rượi dưới gốc mai, đào. Cứ thế, sáng hôm sau (20.1.1966), đúng sáng ba mươi Tết Bính Ngọ — ông thức dậy ra cầu ao rửa mình. Một cơn gió bấc thổi đến. “Nguyễn Bính, thấy trời đất xoay tròn, anh chỉ kịp kêu một tiếng rồi cả thân mình đổ xấp xuống, mặt úp vào bùn nước, máu mủi rỉ ra. Anh vừa mổ dạ dày tháng trước. Có lẽ anh chết vì bục dạ dày” (Ngọc Giao). Năm ấy Nguyễn Bính 48 tuổi.Ngôi mộ và nhà tưởng niệm
Thời điểm Nguyễn Bính từ giã cuộc đời, theo nhà văn Trần Lê Văn trong một bài tưởng niệm bạn hiền, thì ứng với bốn câu thơ ông để lại cho đời trong bài Nhạc Xuân, được viết vào 27 năm trước, trong tập Hương Cố Nhân:
Năm mới tháng giêng mồng một tết,Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.
và:
Giờ đây chín vạn bông trời nở,Riêng có tình ta khép lại thôi.
Ngay sau khi Nguyễn Bính qua đời, người ta an táng ông ở nghĩa trang Nam Ðịnh như những người dân bình thường. Ba năm sau, ông được cải táng vào nghĩa địa Tam Ðiệp, cũng như những người dân bình thường khác.
Nhưng rồi thời thế thay đổi. Năm 1986, mở đầu “vận hội đổi mới”. Thơ Nguyễn Bính nhờ thế được tái bản khá đầy đủ, xào đi nấu lại trong nhiều tuyển tập, bán sạch gần cả trăm ngàn cuốn và các nhà phê bình đua nhau ca ngợi ông không tiếc lời. Chợt nhớ ra Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn của dân tộc, người ta đưa hài cốt ông về chôn ở cồn đất rìa làng Thiện Vịnh, nằm cạnh ngôi mộ của ông nội ông, vì ngôi nhà cũ của cha mẹ ông bao lâu nay đã thuộc về người khác.
Cuối cùng, chính quyền phải đổi cho người chủ mới ấy một mảnh đất khác để ở, và thêm lần nữa, vào năm 1990, hài cốt Nguyễn Bính được dời, nay an nghỉ ở chính nơi ông cất tiếng khóc chào đời. Theo nhà báo Vũ Hậu Luật kể thì: “Kể từ khi hắt hơi thở cuối cùng đến nay [1990] đã đằng đẵng hai mươi nhăm năm trời, trải qua bốn chặng giang hồ, thi sĩ mới có một nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Mộ xây giữa khu đất rộng bốn sào, nằm chính giữa làng Thiện Vịnh.
Xung quanh rợp bóng tre, xoan, ruối và lô nhô vài ba đống rơm. Ngôi mộ đơn sơ hình chữ nhật, có đắp nổi hình ngọn bút với dòng chữ: ‘PHẦN MỘ NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH 1948-1966’. Hoa mười giờ nở đỏ dưới chân mộ chí. Người ta dự định xây dựng tại khu đất này, bên cạnh mộ, nhà lưu niệm trưng bày các di vật và tác phẩm của Nguyễn Bính.”
2. TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN BÍNH
Không kể hàng chục tập thơ tuyển, lớn có nhỏ có, in gần đây từ nam chí bắc, do bởi nhu cầu thưởng ngoạn hoặc thương mại, về mặït chính thức, các tác phẩm của Nguyễn Bính gồm có:
Trước Tháng Tám 1945:- Lỡ bước sang ngang (1940)- Tâm hồn tôi (1940)- Hương cố nhân (1941)- Một nghìn cửa sổ (1941)- Người con gái ở lầu hoa (1942)- Mười hai bến nước (1942)- Mây Tần (1942)- Bóng giai nhân (kịch thơ – 1942)- Tìø bà Truyện (truyện thơ – 1944)
Sau Tháng Tám 1945:- Ông lão mài gươm (1947)- Ðồng Tháp Mười (1955)- Trả ta về (1955)- Gửi người vợ miền Nam (1955)- Trông bóng cờ bay (truyện thơ – 1957)- Nước giếng thơi (tập thơ chọn – 1957)- Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958)- Tình nghĩa đôi ta (1960)- Ðêm sao sáng (1962)- Cô Son (chèo – 1961)- Người lái đò sông Vỵ (chèo – 1964)
3. BÀI THƠ VẪN BỊ CẤM: “TỈNH GIẤC CHIÊM BAO”
Chín năm đốt đuốc soi rừng,Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân.Cửa xưa mành trúc còn ngăn,Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào.Làng xa bản nhỏ đèo cao,Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng.Anh về luyến núi, thương rừng,Nhớ em đêm sáng một vùng Thủ đô.Bồi hồi chuyện cũ năm xưa,Gặp nhau lần cuối... trang thư lệ nhòa.
Thư rằng: “Thôi nhé đôi ta,Tình sao không phụ mà ra phụ tình.Duyên nhau đã dựng Trường đình,Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”Trăng khuya súng núi gươm đèoAnh đi, thư vẫn nằm đeo bên mình.Lửa sàn nét chữ chênh chênh,Nếp thư đến rách chưa lành vết thương.Ðằm đằm hoa sữa lên hương,Chân anh đương bước giữa đường cái đây.Nẻo hồ, song cửa, lá bay,Sáng chưng bóng dáng bao ngày yêu xưa.Trăm năm đã lỡ hẹn hò,Cây đa bến cũ con đò còn không?
Tình cờ gặp giữa phố đông,Em đi ríu rít tay chồng tay con.Nét cười âu yếm môi son,Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai...Chín năm bão tối mưa ngày,Nước non để có hôm nay sáng trời.Em đi hạnh phúc hồng tươi,Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao!Sắc hương muôn nẻo tuôn trào,Tiếc mà chi giấc chiêm bao một mình.Anh về viết lại thơ anh,Ðể cho bến mát cây xanh đôi bờ.Cho sông cho núi tự giờ,Chẳng còn lỡ chuyện con đò sang ngang.Lứa đôi những bức thư vàng,Chẳng còn chữ chữ hàng hàng lệ rơi.Chim hồng chim nhạn em ơi,Trên nền gối cưới đời đời yêu nhau.(Báo Trăm Hoa, Hà Nội, số 9.12. 1956)
Nguyen Uoc
KHUYẾT DANH * HÃY VUI CƯỜI LÊN
Tặng cho nhau nụ cười
với Hoa Quỳnh
với Hoa Quỳnh
Mỉm cười để đón nhận tất cả
Khi tất cả mọi chuyện đau buồn đổ lên đầu bạn, hãy mỉm cười để đón nhận
nó, vì chỉ có như thế, bạn mới có thêm dũng khí để bước tiếp con đường
đời mà mình đã chọn… Khi có một chuyện thật vui đến với bạn, hãy mỉm
cười để đón nhận nó, để niềm vui, niềm hạnh phúc được nhân đôi, để mọi
người có thể vui cùng niềm vui của bạn…
Khi có một ai đó rời xa cuộc đời của bạn, hãy mỉm cười để chia tay họ, vì dù cho đó là một cái kết thúc vui hay buồn, thì nó cũng là một cái kết thúc, và ngay sau nó là một khởi đầu mới cho cả hai người, mỉm cười để chúc cho cái khởi đầu ấy sẽ thật tươi sáng và vui vẻ…
Khi có một ai đó đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để chào đón họ, để chúc cho tình cảm giữa hai người sẽ thật tốt đẹp, để họ sẽ không bao giờ phải nói lời chia tay với bạn như bao người trước đo'...
Khi bạn đánh mất niềm tin vào một người nào đó, hãy mỉm cười để chấp nhận điều ấy. Ai cũng là con người, cũng có lúc sai lầm, có lúc vấp ngã, và hãy mỉm cười để biết rằng mình đã hiểu họ thêm một phần
Khi bạn cảm thấy quá mệt mỏi vì cuộc sống, hãy mỉm cười để cảm nhận tình yêu mới sẽ lại đến với mình. Bạn sẽ không thể đón nhận tình yêu cuộc sống khi trong lòng bạn ngập tràn trong thù hận hay đớn đau. Và một nụ cười sẽ xoá đi tất cả…
Khi bạn chợt nghĩ về tương lai mù mịt phía trước, và bạn không biết cuộc đời bạn sẽ đi về đâu, hãy mỉm cười để cho mình một phút hy vọng. Mỉm cười để nhận ra rằng chúng ta có cả một ngày hôm nay để chuẩn bị thật tốt cho ngày mai, hãy sống thật tốt, thật hạnh phúc, vì chẳng ai dám chắc mình còn có ngày mai…
Khi việc bài vở làm bạn chán ngán, hãy mỉm cười để giúp mình thư giãn một chút. Vì chẳng phải ai cũng là thiên tài cả. Và một nụ cười sẽ không phải là quá xa xỉ để thư giãn…
Khi tình yêu không đến với bạn, hãy mỉm cười để chào tạm biệt nó. Vì đơn giản là tình yêu đó chưa chọn bạn để ở lại mà thôi. Và dù cho người bạn yêu không đáp lại tình cảm của bạn, thì bạn cũng hãy mỉm cười vì biết rằng trong trái tim bạn đã có nó rồi…
Khi trái tim bạn tràn đầy nước mắt, khi mỗi bước chân của bạn rỉ máu vì những mũi gai, hãy mỉm cười để cho mình thêm một chút dũng khí, để vững tin bước đi trên con đường đời phía trước. Và ít nhất thì mỉm cười để làm chỗ dựa cho người khác khi họ lâm vào hoàn cảnh như bạn, mỉm cười để không ai phải buồn khổ như ta nữa…
Khi mỗi ngày mới đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để cảm ơn cuộc đời đã cho bạn thêm một ngày để được yêu thương, để có thêm thời gian nói với những người bạn yêu quý rằng bạn dành cho họ nhiều tình cảm đến mức nào…
Khi bạn gặp một vấn đề thật khó khăn để giải quyết, hãy mỉm cười để giữ cho tinh thần mình được bình tĩnh. Và như thế vấn đề sẽ dễ hơn trước nhiều…
Khi một người nào đó đang buồn và muốn tâm sự với bạn, hãy mỉm cười với họ để cho họ thêm một chút niềm tin vào cuộc sống. Những người không thể cười là những người cần nụ cười hơn bao giờ hết.
Sưu tầm
Khi có một ai đó rời xa cuộc đời của bạn, hãy mỉm cười để chia tay họ, vì dù cho đó là một cái kết thúc vui hay buồn, thì nó cũng là một cái kết thúc, và ngay sau nó là một khởi đầu mới cho cả hai người, mỉm cười để chúc cho cái khởi đầu ấy sẽ thật tươi sáng và vui vẻ…
Khi có một ai đó đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để chào đón họ, để chúc cho tình cảm giữa hai người sẽ thật tốt đẹp, để họ sẽ không bao giờ phải nói lời chia tay với bạn như bao người trước đo'...
Khi bạn đánh mất niềm tin vào một người nào đó, hãy mỉm cười để chấp nhận điều ấy. Ai cũng là con người, cũng có lúc sai lầm, có lúc vấp ngã, và hãy mỉm cười để biết rằng mình đã hiểu họ thêm một phần
Khi bạn cảm thấy quá mệt mỏi vì cuộc sống, hãy mỉm cười để cảm nhận tình yêu mới sẽ lại đến với mình. Bạn sẽ không thể đón nhận tình yêu cuộc sống khi trong lòng bạn ngập tràn trong thù hận hay đớn đau. Và một nụ cười sẽ xoá đi tất cả…
Khi bạn chợt nghĩ về tương lai mù mịt phía trước, và bạn không biết cuộc đời bạn sẽ đi về đâu, hãy mỉm cười để cho mình một phút hy vọng. Mỉm cười để nhận ra rằng chúng ta có cả một ngày hôm nay để chuẩn bị thật tốt cho ngày mai, hãy sống thật tốt, thật hạnh phúc, vì chẳng ai dám chắc mình còn có ngày mai…
Khi việc bài vở làm bạn chán ngán, hãy mỉm cười để giúp mình thư giãn một chút. Vì chẳng phải ai cũng là thiên tài cả. Và một nụ cười sẽ không phải là quá xa xỉ để thư giãn…
Khi tình yêu không đến với bạn, hãy mỉm cười để chào tạm biệt nó. Vì đơn giản là tình yêu đó chưa chọn bạn để ở lại mà thôi. Và dù cho người bạn yêu không đáp lại tình cảm của bạn, thì bạn cũng hãy mỉm cười vì biết rằng trong trái tim bạn đã có nó rồi…
Khi trái tim bạn tràn đầy nước mắt, khi mỗi bước chân của bạn rỉ máu vì những mũi gai, hãy mỉm cười để cho mình thêm một chút dũng khí, để vững tin bước đi trên con đường đời phía trước. Và ít nhất thì mỉm cười để làm chỗ dựa cho người khác khi họ lâm vào hoàn cảnh như bạn, mỉm cười để không ai phải buồn khổ như ta nữa…
Khi mỗi ngày mới đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để cảm ơn cuộc đời đã cho bạn thêm một ngày để được yêu thương, để có thêm thời gian nói với những người bạn yêu quý rằng bạn dành cho họ nhiều tình cảm đến mức nào…
Khi bạn gặp một vấn đề thật khó khăn để giải quyết, hãy mỉm cười để giữ cho tinh thần mình được bình tĩnh. Và như thế vấn đề sẽ dễ hơn trước nhiều…
Khi một người nào đó đang buồn và muốn tâm sự với bạn, hãy mỉm cười với họ để cho họ thêm một chút niềm tin vào cuộc sống. Những người không thể cười là những người cần nụ cười hơn bao giờ hết.
Sưu tầm
Tuesday, September 24, 2013
BBC * LƯU QUANG VŨ
'Chưa ai bằng được Lưu Quang Vũ'
Cập nhật: 09:07 GMT - thứ ba, 24 tháng 9, 2013
Media Player
Tuần diễn các vở chính kịch của
ông Lưu Quang Vũ nhân đợt kỷ niệm 25 ngày mất của ông, từ hôm 09/09 đến
15/09 đã thu hút khán giả một cách bất ngờ, đạo diễn Phạm Thị Thành nói.
Nghệ sỹ nhân dân từng dựng rất nhiều vở của Lưu
Quang Vũ kể lại, "không một buổi nào không đông," và người ta sẵn sàng
ngồi dưới đất, hay cả đứng xem, hoặc xem qua truyền hình từ bên ngoài.
Bà Phạm Thị Thành cho rằng, thành công của kịch
Lưu Quang Vũ là do đề cập đến được bức xúc trong cuộc sống của người
dân, và các vở đều kết thúc có hậu, nhưng đều là do nhân dân đứng lên vì
nhận ra mình không thể bị đối xử tệ.
Và sau 25 năm, "vẫn chưa có ai thay thế được ông
Lưu Quang Vũ," vì không phải ai cũng vừa có tài hoa lại có khả năng làm
việc chăm chỉ như tác giả.
"Trong vòng 10 năm ông ấy viết được hơn 50 vở
kịch, tuy không phải vở nào cũng hay, nhưng hai phần ba trong số đó là
thành công," tiến sỹ nghệ thuật học Phạm Thị Thành nhận xét
LÂM VĂN BÉ * BA THÀNH BA TÀU...
Từ cậu Ba Thành đến chú Ba Tàu
Lâm Văn Bé (Danlambao) - Từ khi Hồ Chí Minh sinh bình khảo được
tung ra bằng Hán Văn năm 2008 và bản dịch Việt ngữ hồi đầu năm 2013,
đảng CS hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Về việc HCM giả hay thật, chắc chắn
có một số đảng viên cùng thời với HCM nhận biết được qua nhân dạng,
nhất là chỉ cần căn cứ vào một yếu tố đơn giản là giọng nói Nghệ An của
HCM, một chú ba Tàu không thế nào giả giọng được. Số đồng chí nầy đa số
đã chết và nếu có ai đó may mắn còn sống sót và nhận biết được sự giả
mạo nầy, có can đảm ghi lại sự giả mạo nầy thì lịch sử sẽ phải được viết
lại khi những tài liệu nầy được tiết lộ và kiểm chứng. Đám hậu duệ của
HCM đang ngự trị trong Bộ Chính trị hiện nay đa số không biết HCM và nếu
có biết những chuyện bí ẩn lạ kỳ, thì vì quyền lợi và run sợ trước đàn
anh Trung Quốc chắc chắn không ai dám hé môi. Việc im lặng của đảng Cộng
Sản trong trạng huống như vậy có thể hiểu được. Nhưng sự im lặng trở
nên có vấn đề khi bản dịch tiếng Việt của Thái Văn đã được phổ biến rộng
rãi trên Internet từ nhiều tháng qua khiến dư luận có nhiều cách giải
thích khác nhau...
*
Cậu Ba Nguyễn Tất Thành
Ngày 4 tháng 6 năm 1911 khi xuống tàu Amiral Latouche-Tréville tại bến
Nhà Rồng Saigon để làm nghề phụ bếp, cậu thanh niên 21 tuổi tên Nguyễn Tất Thành, lấy tên trên tàu là Nguyễn Văn Ba
muốn sang Pháp để tìm kế sinh nhai chớ chẳng phải đi tìm đường cứu nước
như bọn công Sản Đệ Tam quốc tế và Cộng sản VN bịa đặt dựng lên hình
tượng để tôn thờ. Không phải chỉ có Nguyễn Tất Thành mới đi tha phương
cầu thực, mà trước đó, người cha của ông là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc,
sau khi bị cách chức tri huyện Bình Khê (Qui Nhơn) vì tội giết người
khi say rượu cũng đã lưu lạc vào Nam hành nghề bốc thuốc, được ông cử
Hoành (cha của Lê Quang Uyển, thống đốc Ngân hàng thời VNCH) cưu mang
cho đến khi mất năm 1929 ở vùng Cao Lãnh (mộ của Nguyễn Sinh Sắc sau này
được CS trùng tu vĩ đại ở tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 15 tháng 9 năm 1911, sau khi vừa đến nước Pháp, cậu Nguyễn Tất
Thành đã gởi thơ cho Tổng Thống Pháp và Tổng Trưởng Bộ thuộc địa để xin
vào học Trường Thuộc địa (École Coloniale) nhưng Pháp từ chối vì Thành
chưa học hết bậc Tiểu học và muốn vào học trường nầy phải được Toàn
quyền tuyển chọn tại Đông Dương. Ngoài bức thư xin nhập học với lời lẽ
như: "Tôi muốn trở thành người có ích cho nước Pháp...", Nguyễn Tất Thành còn gởi sau đó một bức thư cho Khâm sứ Pháp tại Huế nhờ chuyển 15 đồng bạc Đông Dương cho cha với "giọng điệu hạ mình đối với người Pháp" (Sophie Quinn-Judge, dịch giả Diên Vỹ & Hoài An, tr. 39) và nhờ người anh tên là Nguyễn Sinh Khâm đang làm việc vặt ở Tòa khâm sứ nhờ xin một lần nữa với Khâm sứ.
Từ 1912 đến 1914, Nguyễn Văn Ba phiêu lưu trên những chuyến tàu viễn
duyên với nghề phụ bếp và khuân vác trên tàu, khi thì dừng chân ở New
York (1912) đi ở mướn, khi đến Boston làm bánh ngọt cho khách sạn Parker
House. Từ 1914 đến 1919, trở lại tên Nguyễn Tất Thành, ông sống ở Luân
Đôn, ban ngày làm phu hốt tuyết, ban đêm làm phụ bếp ở khách sạn
Carlton. Khi trở lại Paris tháng 6 năm năm 1919, Nguyễn Tất Thành làm
quen với các nhà tranh đấu nhân quyền là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền trong nhóm Người Annam yêu nước (Association des Patriotes annamites). Thành được nhóm Yêu nước giao nhiệm vụ đến Versailles để trao Bản thình nguyện của dân tộc Annam (Revendications du peuple annamite). Lợi dụng dịp nầy, Nguyễn Tất Thành lấy tên của nhóm đổi tên của mình là Nguyễn Ái Quốc và từ đó cái tên nầy đã được sử dụng suốt 30 năm. Sau khi có Nguyễn An Ninh
và Nguyễn Tất Thành gia nhập, nhóm người Annam yêu nước đổi tên là nhóm
Ngũ Long thì Phan Chu Trinh là người lãnh đạo tinh thần, Phan Văn
Trường là người lãnh đạo đích thực, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh
viết bài, Nguyễn Tất Thành cổ động bán báo, in truyền đơn.
LS Nguyễn Văn Chức kể lại lời nói của ông Nguyễn Thế Truyền: Năm
1960, cụ Nguyễn Thế Truyền ra tranh cử tổng thống tại miền Nam Việt
Nam. Tôi có đi theo anh em báo chí đến nghe Cụ nói chuyện.
Khi được hỏi về những tài liệu viết bằng tiếng Pháp tại Paris ký tên
Nguyễn Ái Quốc, nhất là bản Mémorandum gửi Hội Nghị Hòa Bình Versailles
1919, cụ Truyền nói: Nguyễn Tất Thành chưa học hết tiểu học Pháp. Lúc đó
ở Paris, nhóm chúng tôi mướn anh ta đi phân phát những tài liệu đấu
tranh bằng tiếng Pháp do chúng tôi viết. Anh ta đã nhận xằng mình là
Nguyễn Le Patriot và nhận xằng mình là tác giả những tài liệu đó. (HCM, CXXXII).
Năm 1948, lợi dụng khi Nguyễn Thế Truyền bị đày ra Côn Đảo và các thành
viên khác của nhóm đã chết, Nguyễn Ái Quốc đã gom tất cả các bài viết
của nhóm để in thành "Hồ Chí Minh toàn tập" xem như tất cả
bài viết của nhóm là bài viết của mình và 12 "toàn tập" nầy tái bản
nhiều lần được xem như những tác phẩm vĩ đại mà sinh viên học sinh VN
bao thế hệ phải đọc và học.
Chính với cái bản chất gian dối nầy mà Hồ Chí Minh là nhân vật duy nhất
trên thế giới có đến 5 năm sinh khác nhau và 180 tên và biệt hiệu. Trang
mạng Báo Điện Tử Đại Biểu Nhân Dân, trong bài "Tên gọi HCM có tự bao giờ" đã tự hào viết: "HCM
đã dùng trên 180 bút danh, bí danh và mật danh khác nhau. Bí danh HCM
xuất hiện từ năm 1940 dần trở thành chính danh luôn đi liền với tên nước
VNDCCH". Trong số các bí danh trên, HCM đã sử dụng tên Trần Dân Tiên để viết tự truyện đánh bóng mình - Những chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, và dùng tên T. Lan (là Thái Lan, bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai) để viết Vừa đi vừa kể chuyện. Hai quyển sách nầy được xem như hai quyển thánh kinh, mà các nhà viết sử trong nước và ngoài nước thường dùng để viết về HCM.
Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge trong Ho Chi Minh - The Missing Years 1919- 1949 đã nhận định là những tự truyện nầy gian trá, bịa đặt "tập
hợp những khắc họa mờ ảo với những ngày tháng lộn xộn, thiếu hụt thông
tin, xây dựng những huyền thoại về HCM chứ không phải là cuốn sách có
giá trị lịch sử" (bản dịch, tr.20). Từ nhận định của học giả Sophie
Quinn-Judge, chúng tôi nghĩ rằng người đọc các quyển tài liệu về HCM và
đảng Cộng Sản VN viết bởi đa số các nhà nghiên cứu Tây Phương phải thật
dè dặt vì những người nầy thường dựa vào tài liệu cấp hai cung cấp bởi
tài liệu CS hay thiếu trung thực vì thiên Cộng hay ngây thơ trước những
huyễn hoặc tài tình của CS. Chúng tôi cần nêu tên vài tác giả thuộc loại
nầy: Jean Lacouture, Bernard Fall, Pierre Brocheux, Daniel Hémery,
William J.Duiker...
Từ khi gia nhập đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 cho đến tháng 3 năm 1946 trở
thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cuộc đời Hồ Chí Minh chỉ
là những năm tháng học tập, cải tạo tư tưởng dưới sự chỉ đạo của Đệ Tam
Quốc Tế Cộng Sản Liên Sô và Trung Quốc. Với sự nhuộm đỏ chủ nghĩa
Mác-Lê, Hồ Chí Minh đã đem về VN áp dụng những bài học sắt máu bạo tàn
đã được nhồi nhét qua 25 năm trong các trung tâm huấn luyện. Bởi lẽ
Staline là thần tượng của HCM mà Staline là người vô cùng tàn ác, đặc
biệt rất thù ghét cha mẹ, do đó không lạ gì khi cầm quyền, HCM và đồng
bọn đã tàn sát hơn 200.000 người trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất (theo
Nguyễn Văn Canh. Nông dân Bắc Việt những năm 1945-1970 ; tr.202), tàn
phá hệ thống đạo lý gia đình, triệt tiêu trí thức và gây ra cuộc chiến
Nam - Bắc giết hại hàng triệu người.
Giải thích vì sao cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Văn
Ba khi xuống tàu sang Pháp để tìm kế sinh nhai rồi lại theo Cộng Sản và
khi cầm quyền thích được xưng tụng là "Bác Hồ", bà Thụy Khuê đã viết: "Phần
lớn những người tham gia chống Pháp, từ Nho học đến Tây học, đều học
giỏi, nổi tiếng, nhưng đã gạt bỏ văn bằng sang một bên để dấn thân. HCM
là một trường hợp đặc biệt, dù con quan nhưng sớm bỏ học, trình độ quốc
ngữ kém, tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống cực khổ, làm bồi bếp suốt quãng
đời thanh niên từ 1911 đến 1919 trước khi tới Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có
2 năm ở nhà Phan Văn Trường là khá, sau này khi ra Compoint, một khu
nghèo thợ thuyền sống rất cơ cực, có mặc cảm sâu xa đối với bạn đồng
hành, trí thức. Đó là lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo CS, mặc dù ông
chưa biết lý thuyết CS như thế nào. Sau nầy, khi lên cầm quyền, việc đầu
tiên ông bắt mọi người phải kính nể gọi ông bằng bác. Đối với trí thức,
ông dành cho họ mọi sự nhục nhằn mà ông đã gánh chịu trong suốt cuộc
đời thanh niên" (Thụy Khuê. Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tr.501).
Mặc dù được CS lừa bịp tôn vinh là cha già dân tộc, không vợ không con
để làm cách mạng, nhưng thực tế Hồ Chí Minh là người vô đạo đức. Hồ Chí
Minh sống chung ít nhất với 7 người đàn bà, không kể những thiếu nữ hộ
lý. Khi ở Paris, lúc Nguyễn Tất Thành làm nghề rửa ảnh, ông sống với một
đảng viên đảng CS Pháp tên là Marie Brière (1921); lúc ở Quảng Châu với tên Lý Thụy, ông kết hôn với Tăng Tuyết Minh (1926); lúc ở Hongkong và Moscou (1930-33), ông sống với Nguyễn Thị Minh Khai (sau đó, năm 1935, Minh Khai kết hôn chính thức với Lê Hồng Phong). Ngoài ra lúc ở Moscou, ông cũng có liên hệ tình cảm với Vera Vasilieva,
cán bộ Nga đặc trách tổ chức Cộng Sản Quốc Tế. Cuối năm 1940, Nguyễn
Tất Thành đổi tên là Hồ Chí Minh về nước lần đầu tiên (1941) đóng ở Pắc
Pó (Cao Bằng), ông sống với 2 nữ cán bộ trẻ là Đỗ Thị Lạc, có một đứa con gái, và Nùng Thị Ngác
(sau ông cho đổi tên là Nùng Thị Trưng, cử làm chánh án Tòa án Nhân dân
tỉnh Cao Bằng). Theo nhiều nguồn tin, Nông Đức Mạnh là con của HCM với
bà Ngác. Năm 1955 khi về Hà Nội, ông sống chung với Nông Thị Xuân
có một con trai là Nguyễn Tất Trung, rồi âm mưu với Bộ Trưởng Công An
Trần Quốc Hoàn giết Nông thị Xuân vì bà Xuân đòi có đám cưới.
Blogger Huỳnh Tâm đã viết về đời sống tình dục của ông như sau: "...Ông
là người say mê mỹ nữ. Mỗi lần si tình một mỹ nữ, ông sáng tạo một bút
hiệu và danh sách bút hiệu cứ thế tăng dần. Danh sách nầy là để giúp ông
tưởng nhớ lại mỗi hương vị ân ái động đào" (Bên trong xác ướp HCM.
Anle20’s blog). Thì ra, số tên và bút hiệu của ông lên đến con số 180
không phải chỉ liên quan đến hoạt động chính trị mà còn liên quan đến
đời sống tình dục của ông.
Chính vì đời sống tình dục và những cuộc tình của ông có nhiều "vấn đề"
khiến ông trở nên yếu hèn trước các đồng chí, nhất là với Lê Duẩn, làm
ngơ cho các đồng chí lộng hành.
Theo Bill Hayton, phóng viên BBC ở VN, tác giả quyển Viet Nam: Rising Dragon
thì: quyền lực thực sự nằm trong tay Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng Cộng
sản, một người theo chủ nghĩa Staline thật tàn bạo Lê Duẩn đã dùng lực
lượng an ninh để kiểm soát hoạt động của các nhà lãnh đạo khác và thi
hành chiến lược chiến tranh toàn diện chống lại Việt Nam Cộng hòa ở miền
Nam Việt Nam. Thắng lợi vào năm 1975 đã đưa ông Lê Duẩn nắm quyền nhưng
với những hậu quả khủng khiếp. Trả thù và quản lý kinh tế yếu kém đã
khiến đất nước bị cô lập và nghèo khó. Cái chết của ông vào năm 1986 đã
mở đường cho một nước Việt Nam mở cửa. (BBC ngày 29/8/2013).
Chú Ba Tàu Hồ Tập Chương
Những tưởng "bác" được yên thân trong cái quan tài pha lê chờ ngày tan rữa, nào ngờ năm 2008, Hồ Tuấn Hùng, Giáo sư Đại học Đài Loan, trong quyển sách của ông tựa là Hồ Chí Minh sinh bình khảo
đã công bố những tin tức "động trời". Theo ông Hùng, Nguyễn Ái Quốc đã
chết năm 1932 ở Liên Sô vì bịnh lao phổi và cái xác nằm trong lăng Ba
Đình là của một người Trung Quốc tên Hồ Tập Chương. Ông giải thích là sau khi Nguyễn Ái Quốc chết, bà Vera Vasilieva người
phụ trách bộ phận Việt Nam Quốc tế Cộng Sản đã đặt kế hoạch 5 năm cho
Hồ Tập Chương, một người Tàu đến từ Đài Loan học tập cải tạo để biến
thành Nguyễn Ái Quốc thay thế Quốc tiếp tục công cuộc xây dựng đảng Cộng
Sản Việt Nam và cầm quyền cho đến khi chết. Trong 342 trang sách, Hồ
Tuấn Hùng đã chứng minh bằng nhiều dữ kiện để phân biệt hai giai đoạn
của cuộc đời Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh thời kỳ 1890-1932 là Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam
Hồ Chí Minh thời kỳ 1933-1969 là Hồ Tập Chương người Đài Loan.
Nói cách khác, Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh gồm 2 người nhân thân
khác nhau: nửa đời trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam tên Nguyễn Ái
Quốc, nửa đời sau là nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài
Loan.
Ngoài tập tài liệu của Hồ tuấn Hùng, một bài viết khá dài ký tên Huỳnh
Tâm phổ biến trên Internet (Anle20’s blog) trình bày một cách chi tiết
những ngày cuối cùng của Hồ Chí Minh để hỗ trợ cho luận cứ HCM là một
người Trung Quốc..
Theo Huỳnh Tâm, khi HCM trở bịnh nặng, trong tuần lễ cuối tháng 8/1969, Thủ Tướng Chu Ân Lai đã lần lượt gởi đến Hà Nội 4 phái đoàn y tế trong đó có nhiều danh y như Ngô Gia Bình
(Wu Jiaping), Giám đốc Trung Quốc Học Viện Y khoa, để cứu chữa HCM.
Ngoài ra, còn có một phái đoàn nhân viên tình báo để cướp xác HCM nếu
cần hầu bảo vệ tông tích của HCM và một phái đoàn chuyên viên ướp xác.
Đến khi HCM chết ngày 2 /9/1969, Trung Quốc gởi qua Hà Nội một phái đoàn
hùng hậu chưa từng thấy để dự tang lễ gồm Thủ Tướng Chu Ân Lai, Phó TT Lý Tiên Niệm và nhiều ủy viên cao cấp trong Quân Ủy Trung Ương.
Bởi lẽ khi Hồ Chí Minh chết thì phi cơ Mỹ đang dội bom ác liệt Bắc Việt,
xác Hồ Chí Minh phải được di chuyển nhiều lần và chôn sâu trong các
hang động để tránh bom đạn, do đó khi lăng Ba Đình được xây xong năm
1975, cái xác nằm trong cái quan tài pha lê được đặt trong lăng không
phải là cái xác của HCM đã bị chôn đi chôn lại.
Huỳnh Tâm đã viết: "Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà lãnh đạo đảng
CSVN biết rõ cái xác ướp nầy là ai, tuy nhiên họ phải tạo ra một biểu
tượng nên họ phải trả giá cao. Họ sẵn sàng chi một ngân khoản lớn để bảo
vệ uy tín của đảng cho dù người trong quan tài pha lê là một tên vô
danh tình cờ được nằm vào đó để cho dân tộc VN tung hô muôn năm. Muốn
bảo quản tốt, họ phải trả một chi phí vô cùng đắt giá, để rồi sau đó họ
phải chống đỡ những khó khăn cùng lúc phải khéo lường gạt".
Nhận định về tập tài liệu của Hồ Tuấn Hùng
Bài viết nầy không có mục đích trình bày những luận cứ của tác giả Hồ
Tuấn Hùng khẳng định Nguyễn Ái Quốc đã chết và Hồ Tập Chương đã đóng vai
Hồ Chí Minh từ năm 1933 đến 1969, cũng như không lập lại những phản
biện của một vài tác giả (thí dụ như của ông Phạm Đình Lân rất thuyết
phục) về sự phi lý của xác quyết nầy. Bài viết muốn đặt vài giả thuyết
về sự xuất hiện của tập tài liệu và sự im lặng đáng ngạc nhiên của đảng
Cộng Sản Việt Nam từ lúc xuất hiện tập tài liệu cho đến nay.
Thâm ý của tập tài liệu
Hồ Tuấn Hùng và bác của ông là Hồ Tập Chương là những công dân của nước
Đài Loan, hiểu theo nghĩa chính trị, nhưng là người Hán tộc (người
Hakkan, tiếng Việt thường gọi là người Hẹ) hiểu theo nghĩa chủng tộc.
Người Trung Quốc ở bất cứ nơi đâu, nói bất cứ ngôn ngữ nào, họ vẫn là
người Trung Quốc, trung thành với Trung Quốc. Vào thời điểm người Việt
trong nước và ngoài nước chống đối kịch liệt Trung Quốc xâm chiếm lãnh
thổ lãnh hải và khai thác tài nguyên VN, quyển sách được tung ra là để
nói lên một cách ngạo mạn cho dân VN biết rằng tứ 1933 đến 1969, người
thành lập đảng CSVN, người lãnh tụ cai trị VN là một người Trung Quốc.
Sự im lặng của đảng CSVN
Từ khi quyển sách được tung ra bằng Hán Văn năm 2008 và bản dịch Việt
ngữ hồi đầu năm 2013, đảng CS hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Về việc HCM
giả hay thật, chắc chắn có một số đảng viên cùng thời với HCM nhận biết
được qua nhân dạng, nhất là chỉ cần căn cứ vào một yếu tố đơn giản là
giọng nói Nghệ An của HCM, một chú ba Tàu không thế nào giả giọng được.
Số đồng chí nầy đa số đã chết và nếu có ai đó may mắn còn sống sót và
nhận biết được sự giả mạo nầy, có can đảm ghi lại sự giả mạo nầy thì
lịch sử sẽ phải được viết lại khi những tài liệu nầy được tiết lộ và
kiểm chứng. Đám hậu duệ của HCM đang ngự trị trong bộ Chính trị hiện nay
đa số không biết HCM và nếu có biết những chuyện bí ẩn lạ kỳ, thì vì
quyền lợi và run sợ trước đàn anh Trung Quốc chắc chắn không ai dám hé
môi. Việc im lặng của đảng Cộng Sản trong trạng huống như vậy có thể
hiểu được. Nhưng sự im lặng trở nên có vấn đề khi bản dịch tiếng Việt
của Thái Văn đã được phổ biến rộng rãi trên Internet từ nhiều tháng qua
khiến dư luận có nhiều cách giải thích khác nhau.
Trước tiên là bức thơ ngày 25 tháng 8 năm 2013 của ông Phạm Quế Dương - Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan, phổ biến trên blog Danlambao
ở trong nước, trang mạng có nhiều blogger bị CS xem là phản động. Sau
khi tóm lược ý chính của tập tài liệu của Hồ Tuấn Hùng, ông Dương viết:
"...Thời đại Internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất
rộng rãi. Nhiều người (đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng
trực tiếp tham gia kháng chiến, là bộ (đội, là cán bộ tuyên huấn... Một
số người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, đổi trắng, thay đen. Một
số người thì bảo chuyện này cũng đã được nghe từ lâu và tin lời ông tác
giả. Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu là cụ
Hoàng Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là
Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám gặp, chỉ cử 2
cán bộ cao cấp tiếp.
Bản thân tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đã 45 năm là
Lính Bác Hồ, Bộ đội Bác Hồ. Khi làm Tổng biên tập báo Phòng Không-Không
Quân, ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm Quân chủng và
trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm quê Chủ Tịch
và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài Gòn đến Cảng Nhà Rồng
thăm nơi "Bác Hồ đi tìm đường cứu nước", nhiều lần vào lăng viếng Bác.
Kính mong nhà cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học
lịch sử làm rõ sự thật vụ việc này. Nếu tác giả bịa đặt thì đưa ra tòa
án quốc tế xét xử, làm rõ sự thật."
Ông Phạm Quế Dương năm nay 90 tuổi, đã tham gia chiến dịch Điện Biên
Phủ, được phong chức đại tá. Ông còn là nhà sử học, nguyên Tổng biện tập
tạp chí Lịch sử Quân đội. Ông bị cầm tù, bị khai trừ ra khỏi đảng vì
chống đường lối của đảng và đã được cơ quan Human Rights Watch trao giải
thưởng Hellman-Hammett dành cho các nhà tranh đấu nhân quyền. Sự lên
tiếng của ông Phạm Quế Dương khiến dư luận đặt nhiều câu hỏi.
Như bức thơ ông viết, ông đã có tiếp xúc với ông Hồ 3 lần, như vậy ông
có thể nghe ông Hồ nói giọng Nghệ An, nhận biết nhân dạng vì ông đã sống
trong chế độ "bác" đến 45 năm, cớ sao ông còn nói trong thơ một cách ỡm
ờ như có nghi vấn. Phải chăng Hồ Chí Minh thực sự là chú ba Tàu như tài
liệu của Hồ Tấn Hùng, nhưng vì sợ nên ông không dám nói, hay Hồ Chí
Minh thực sự là bác Hồ dân Nghệ An, mà vì ông muốn "quấy rầy" nhà nước
nên chẳng những ông không xác nhận mà còn nói bóng gió tạo hoài nghi
trong dân chúng bởi lẽ hôm nay ông là kẻ thù của chế độ. Ông Phạm Quế
Dương là một trong những người đương thời với Hồ Chí Minh còn sống và đủ
tư cách để xác nhận hay phủ nhận luận cứ của Hồ Tấn Hùng. Chờ xem màn
kịch nầy.
Về phía người dân, người giàu thì bận lo chuyện bốc hốt, người nghèo thì
bận lo bửa đói bửa no, họ không cần biết "Hồ Tàu Khựa" hay "Hồ xứ Nghệ"
bởi Hồ nào thì cũng là hồ ly tinh. Đối với người dân, Trung Quốc là kẻ
thù và chính phủ cũng giống như kẽ thù, do đó người dân đặt câu hỏi phải
chăng chính phủ đã tung ra bản dịch tiếng Việt mà không cần phải lên
tiếng là để ngầm thông báo cho dân chúng biết sự ngạo mạn hung hăng của
Trung Quốc và phải chăng, trước phản ứng chống đối của người dân với
chánh phủ càng lúc càng nhiều, chính phủ muốn cho người dân chửi rủa
"bác» Hồ, không cần biết là Hồ Tàu hay Hồ Việt để cho đảng và chính phủ
yên tâm tiếp tục công trình tham nhũng. Đếm bạc sướng hơn chửi bác, đó
là sách lược mới của đảng.
Kết luận
Kể chuyện cậu Ba Nguyễn Tất Thành và chú Ba Hồ Tập Chương, chúng tôi
muốn nêu lên một thảm kịch của nước Việt Nam đã không may có một Hồ Chí
Minh ít học, thiếu tài, kém đức đã làm cho đất nước VN trở nên điêu linh
lại còn dắt đến VN một chú Ba Tàu thô bạo. Cậu Ba Nguyễn Tất Thành đã
chết nhưng Việt Nam hôm nay lại nổi lên thêm nhiều cậu Ba khác trong bộ
Chính trị mà cậu Ba nguy hiểm nhất, tham nhũng nhất đã và đang hợp tác
với chú Ba Tàu để đưa đất nước đến chỗ diệt vong là cậu Ba Dũng.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 280
No comments:
Post a Comment