SƠN TRUNG * CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN
CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN
Đinh Sơn quê ở ngoại thành Qui Nhơn. Thân phụ
ông làm lý trưởng, có một cái nhà ngói và vài mẫu ruộng. Khi Nguyễn
Nhạc khởi binh, bọn Lý Tài, Tập Đình cướp phá xóm làng, thân phụ của
Đinh Sơn không chịu cung ứng vàng bạc, lúa gạo cho bọn họ nên bị Lý Tài
kết tội là địa chủ, phong kiến, cường hào, ác bá rồi bắt giết. Đinh Sơn
sợ hãi, bỏ vợ con trốn vào Gia Định sinh sống qua ngày. Đinh Sơn không
được học hành nhiều cho nên vốn liếng chữ nghĩa cũng không là bao. Ông
theo một ông thầy bói ở Gia Định học nghề bói toán. Ít lâu sau, ông thầy
bói chết, Đinh Sơn nối nghiệp thầy mở một cửa hàng tướng số tại hương
lộ 18, sau trở thành tỉnh lộ, là con đường nối liền Gia Định và Tây
Ninh, và sau này thành khu Bà Quẹo, gần khu Bình Hưng Hòa.
Đinh Sơn làm ăn cũng khấm khá, mua được một căn nhà ngói ở mặt tiền,
và cũng đã lập một gia đình mới, gồm một vợ và ba con. Khu nhà Đinh Sơn
vốn xưa là một khu rừng. Sau khi chúa Nguyễn mở mang miền Nam, lập Gia
Định trấn, khu này trở thành khu tân lập, gồm những người Bắc, người
Thanh Nghệ theo Nguyễn Hoàng vào từ trước, và một số bà con người Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phan Rang vào sau. Những người này sinh sống
bằng nghề canh nông, một số đốn cây rừng từ Tây Ninh về cưa xẻ làm bàn
ghế đem về Gia Định , Đồng Nai bán. Một số chuyên buôn hàng từ biên giới
Miên Lào về Gia Định và chuyển hàng từ Gia Định đi Miên, Lào.
Khi quân Tây Sơn đánh thành Gia Định quân chúa Nguyễn thua đậm. Chúa Nguyễn phải bỏ chạy ra ngoài. Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu tài sản của những quan lại theo chúa Nguyễn, và những thương gia giàu có tại miền Nam. Những tướng tá và binh lính chúa Nguyễn đều bị bắt giam trong rừng sâu. Những thầy tu, thầy bói cũng bị giam giữ. Thậm chí có người bị giết. Đinh Sơn cũng bị bắt giam một thời gian.
Bỉ
nhân cư ngụ tại Gia Định . Hôm hôm cưỡi ngựa đi thăm một người bạn ở
vùng này, nhân đi qua nhà nọ, thấy bảng hiệu “Đinh Sơn, chiêm tinh gia”
bèn xuống ngựa vào chơi. Vốn từ lâu, nghe danh Đinh Sơn nhưng chưa có
dịp gặp mặt. Nay qua đây, tôi muốn vào thăm. Đinh Sơn có nhà, ông vui vẻ
tiếp tôi. Trong khi ông xin phép vào nhà thay y phục, tôi nhìn xung
quanh thì thấy căn nhà cũng khá đầy đủ tiện nghi như bao gia đình bực
trung tại Gia Định lúc này, mặc dầu nền nhà có những vết cạy phá, chưa
kịp sửa sang.
Đinh Sơn chuyên coi tử vi. Tại phòng khách , ông vẽ lên
tường một bản tử vi to bằng cái chiếu. Khi ông ra tiếp tôi, ông bưng ra
một khay trà mời khách. Chúng tôi cùng uống trà đàm đạo như hai người
bạn quen thân. Ông bảo tôi viết tên tôi vào tay rồi nắm lại. Tôi che kín
tay và viết tên tôi, thế mà ông nói rõ tên tôi. Tôi hỏi ông lá số của
ai trên tường. Ông bảo đó là lá số của ông, rất giống lá số Nguyễn Nhạc,
là lá số làm giặc, làm vua. Nhưng ông không làm vua được, mà làm giặc,
làm kẻ chống đối bạo quyền, vì cung mệnh của ông có Sát, Phá tọa thủ.
Ông cho biết, ông làm nhiều nghề. Khách muốn trừ tà, xin bùa ngãi, ông
đều có. Ông bảo nhà ông có phủ thờ thần linh.
Ông dẫn tôi lên xem. Trên
gác, ông có cả một phủ thờ gồm khoảng một trăm bát nhang. Ngày rằm ,
mồng một và mỗi đêm , ông đều cúng kiếng thờ phụng nghiêm chỉnh. Ông là
một thầy bói và cũng là một thầy pháp. Ông kể chuyện khi quân Tây Sơn
vào, ông bị giam một năm. Nằm trong tù rất khổ sở, thân hình gầy ốm như
quỷ đói. Khi ông ra tù về nhà thì nhà cửa bị cướp phá. Bọn quan quân Tây
Sơn và bọn lưu manh lấy các cửa ngõ, dở gạch ngói nhà ông để xây nhà
chúng, hoặc bán chợ trời. Ông nói:
-Thưa ông, vài tháng nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.
-Thưa ông, vài tháng nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.
Ông bưng chén trà uống một hơi rồi nói tiếp:
-Chúng nói chống mê tín, dị đoan, nhưng sự thực là chúng muốn độc quyền buôn thần bán thánh. chúng sợ các thầy bói cạnh tranh với chúng, cướp nghề của chúng. Nguyễn Nhạc vốn làm nghề buôn lậu, ăn cướp. Nguyễn Nhạc cho bộ hạ đốt lửa trên núi, giả làm thần linh, kêu Nguyễn Nhạc lên nhận kiếm thần. Nguyễn Nhạc ghét thầy bói vì sợ dân nghe lời thầy bói mà chống lại chúng. Ngày nay, có hai loại thầy bói. Một loại không theo chúng thì bị chúng khủng bố và bắt giam. Một số theo chúng thì trong nhà đã có người của Tây Sơn phục sẵn. Ai có ý chống triều đình, hớ hênh đến xem việc thành bại, hay chọn ngày hưng binh, hoặc tỏ ý bất mãn, phê phán triều đình thì chết với chúng. Nếu thường dân đến xem xuất hành cát hung thì thầy bói hỏi đi xa hay đi gần. Nếu đi xa thì bất lợi, mà đi sông biển tất chết.
Ông kể chuyện nhà của ông. Ông có hai đứa con trai với bà vợ trước ở ngoài Quy Nhơn. Chúng hăng hái theo Nguyễn Nhạc. Sau khi quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, chúng tìm vào thăm ông. Chúng ở lại khoảng hai tháng thì về. Ngày chúng về quê, ông mua vải vóc, sâm nhung , và cho chúng mỗi đứa vài lượng vàng. Mấy ngày trước, chúng rất mềm mỏng, hiếu thảo, nhưng sau khi nhận vàng, chúng trở mặt. Chúng chỉ mặt ông chửi mắng.
Thằng cả nói::
-Ông không phải là bố tôi. Ông là một thằng giặc. Ông bỏ quê
hương Quy Nhơn và Đại đế Nguyễn Nhạc, mà chạy vào Nam theo ngụy quyền
Nguyễn Ánh. Ông bỏ chính nghĩa theo giặc bán nước. Ông là đồ phản bội
dân tộc, phản bội tổ quốc.
Thằng hai tiếp theo:Vi ông mả chúng tôi khổ. Chúng tôi không ngửng đầu lên nổi. Chúng tôi bị lý lịch xấu, bị triều đình nghi kị, hành hạ vì có thân phụ bỏ vào Nam. Chúng tôi xấu hổ vì ông. Ông vào Nam theo giặc, ông còn làm nghề bói toán là nghề mê tín dị đoan, lừa dối và bóc lột nhân dân. Người như ông phải ngồi tù suốt đời mới cải tạo được tư tưởng đồi trụy và lạc hậu!
Cuộc gặp gỡ đó cho tôi một cảm giác buồn. It lâu sau, tôi có việc phải qua vùng này. Khi đi qua nhà Đinh Sơn thì thấy quanh cảnh quạnh hiu. Ngôi nhà có vết đạn và vết cháy xém. Tôi ghé một nhà cách nhà Đinh Sơn vài căn , vào xin bát nước lã. Tôi hỏi bà cụ chủ nhà:
-Thưa bà , tại sao ngôi nhà bên cạnh trông tiêu điều lại có vết đạn và vết cháy như thế? Chủ nhân ngôi nhà là ai?
Bà chủ nhà cho biết câu chuyện như sau:
-Đó là nhà của ông thầy bói Đinh Sơn. Ông có lệnh tập trung cải tạo nhưng ông không chịu đi.. Ông cho vợ con đi ở chỗ khác. Huyện phái hai tên lính Tây Sơn đến nhà bắt ông lên huyện trình diện. Ông cầm dao đâm chết một tên. Tên thứ hai sợ hãi chạy ra ngoài. Giờ sau, lính Tây Sơn kéo đến nhà ông vây chặt. Ông đóng cửa, đứng trên gác bắn súng và cung tên sát hại vài tên. Hết tên, ông ném tạc đạn, và phóng lao. Quân Tây Sơn bắn súng, bắn tên và phóng gươm giáo vào nhà ông. Hai bên giao chiến một ngày. Thiên hạ kéo đến xem đông như ngày hội. Cuối cùng ông mở tạc đạn tự sát.
Nghe tin ông mất trong một hoàn cảnh bi hùng như vậy, tôi rất buồn. Trong khi bao nhà khoa bảng và bao nhà tu hành bỏ nhân nghĩa, cúi đầu, khom lưng trước bạo quyền, Đinh Sơn là một kẻ thất phu, dám đem tính mạng tranh đấu cho tự do và chống lại kẻ ác. Riêng đối với tôi, tôi cũng vô cùng cảm kích vì tấm thịnh tình của ông. Thời buổi loạn ly, cha con không dám tin nhau, vợ chồng tố cáo nhau, bè bạn phản trắc, xóm giềng rình rập vu khống để tâng công, thế mà gặp tôi lần đầu, ông đã thật dạ tin tôi, coi như tri kỷ, kể hết chuyện lòng. Nghe đâu sau vụ Đinh Sơn tuẫn tiết, triều đình bỏ lệnh tập trung và cải tạo các thầy bói.
TRẦN YÊN HẠ * VÌ TÔI LÀ ĐÀN BÀ
VÌ TÔI LÀ ĐÀN BÀ
Trần Yên Hạ
Gửi người đàn ông đang ở bên cạnh tôi. Người mà từ bây giờ và cho đến ngày đi về bên kia thế giới sẽ không thể rời xa tôi.
- Tôi mới cắt một kiểu tóc đắc ý nhất, đi qua đi lại nhiều lần trước mặt
ông. Không biết mắt ông có bị “quáng gà” và cổ họng ông có bị “tắt
nghẽn lưu thông” không mà sao chẳng thấy ông có ý kiến gì cả. Tôi muốn
ông nhìn và nói một câu gì đó (dĩ nhiên là khen ngợi) về mái tóc mới của
tôi. Ông không nói, chiều nay tôi có kiếm chuyện gây sự với ông, đừng
có thắc mắc. Vì tôi là đàn bà!
- Tuần trước, khi đi dự tiệc cưới con của người bạn, tôi mặc một chiếc
áo dạ hội lộng lẫy và mang đôi giày mới toanh rất hợp thời trang, thế mà
ông thản nhiên lái xe đến nhà hàng, không hề có biểu hiệu nào biết là
tôi đang mặc áo mới và mang giày mới. Tức quá tôi phải lên tiếng hỏi
ông, chiếc áo tôi mặc hôm nay có đẹp không, ông chỉ nhìn lướt qua và nói
“thì trông cũng giống như những chiếc áo khác”. Vậy thì, ông đừng có
ngạc nhiên tại sao hôm đó tôi lại cau có tại bàn tiệc. Vì tôi là đàn bà!
- Khi đi nhà thờ hoặc dự tiệc tùng, tôi rất khó chịu khi thấy những
“món” trên người ông chẳng “match” với nhau. Thí dụ: áo sơ mi xanh, cà
vạt màu đỏ đậm, suite màu nâu. Tôi mà không nhắc nhở ông từng ngày, chắc
có lúc thiên hạ sẽ lăn bò ra cười vì cái kiểu y phục đủ màu sắc, giống
mấy chú hề trong gánh xiệc của ông. Vậy mà ông cứ than phiền rằng tôi
khó tính hay chú ý những điều nhỏ nhặt. Ông có biết tại sao tôi lại tỉ
mỉ như thế không? Vì tôi là đàn bà!
- Ngày sinh nhật của tôi, ông hỏi muốn đãi tiệc hay thích món quà gì.
Tôi trả lời “không cần thiết”, nhưng thật ra trong lòng rất vui và hồi
hộp chờ đợi những bất ngờ mà ông sẽ dành cho tôi trong giờ phút chót.
Vậy mà ông im re luôn. Tại sao ông lại thật thà đến thế? Nếu ngày đó
chén đũa có xao động, con chó của ông có bị đá đít, la oang oảng, thì
ông cũng đừng lấy làm lạ. Vì tôi là đàn bà!
- Khi ngồi xe với ông, thật sự tôi không bao giờ an tâm, lúc nào cũng
phải nhắc nhở ông về tốc độ, vì không muốn ông bị lãnh giấy phạt (chắc
ông chưa quên, năm vừa rồi ông đã phải đóng tiền phạt đến hai lần). Khi
tìm không ra nhà của một người nào đó, tôi đề nghị ông dừng lại gọi điện
thoại để hỏi đường thì ông nạt ngang “có lạc đâu mà phải hỏi”.
Nhưng
cuối cùng thì sao?… ông cũng phải gọi chủ nhà để nhờ chỉ đường. Lúc đó,
ông lại đổ thừa, tại tôi nói lung tung làm ông bực mình, bị chia trí nên
mới lạc. Thật ra, nếu ông chịu nghe tôi thì đã không bị trễ hẹn. Tôi
nghĩ, nếu nhờ người ta chỉ đường thì cũng đâu có gì gọi là mất mặt, sao
ông lại cứ thích làm “anh hùng rơm”. Tôi không muốn bị phạt và mất thì
giờ vì đi lạc, nên mới góp ý với ông. Thật ra, tôi cũng có lỗi, vì không
chịu “điều chỉnh âm thanh” vừa đủ nghe, nên có phần gây tổn thương cho
cái lỗ nhĩ của ông. Xin ông thông cảm…Vì tôi là đàn bà!
- À, cái nầy mới lạ, ông cũng biết đọc, biết viết chứ có mù chữ đâu mà
lúc nào đi mua hàng cũng trật lất. Bất cứ tiệm nào, hàng hóa cũng được
để đúng nơi, đúng chỗ. Vậy mà mười lần hết tám, khi tôi nhờ ông mua món
gì, nếu không sai thì cũng đắt hơn. Không đắt thì cũng gần quá hạn. Như
thế… nếu tôi không cằn nhằn mới là chuyện lạ. Vì sao? Vì tôi là đàn bà!
- Tôi không bao giờ hiểu được tại sao ông cứ lặp đi lặp lại, mình là vợ
chồng chứ đâu phải thời bồ bịch mà tôi cứ đòi được chiều chuộng, được
khen ngợi. Tôi thật sự tức tối khi ông chê tô phở ở nhà không ngon bằng
Phở Hòa, Bún bò thua nhà hàng Ngự Bình… Lúc chưa lấy nhau, tôi chỉ đãi
ông một dĩa xà lách mà ông ca tụng hết lời và ly nước chanh tôi pha chua
lè vì quên bỏ đường, ông cũng uống không còn một giọt lại còn gật gù
bảo rằng sao nó ngọt lạ kỳ! Tôi nhắc lại để ông nhìn ra sự thật phũ
phàng, thì ông gạt ngang, hỏi tôi sao cứ kiếm chuyện. Vì tôi là đàn bà!
- Mỗi lần ông la ơi ới “cái kềm đâu rồi?” hay “có thấy cái đồ khui ở đâu
không?” là áp huyết tôi lại bắt đầu tăng. Tôi đã nói hàng trăm lần, lấy
cái gì ở đâu thì để lại chỗ đó, lúc nào cần khỏi phải tốn công tìm
kiếm. Vậy mà ông có để ý đâu. Bực bội nên tôi phải gắt gỏng “ông có thể
bỏ cái tính thiếu ngăn nắp, mất trật tự của ông được không?” thì ông lại
bảo tôi lắm mồm, khó tính vậy. Ông có biết vì sao không? Vì tôi là đàn
bà!
- Cuối cùng ông nên nhớ điều nầy, tôi muốn trong mắt ông chỉ có tôi là
đẹp nhất, dịu dàng nhất, thương yêu ông nhất cho dù ông có biết bao tính
xấu. Bởi vậy, khi ra đường tôi không muốn ông nhìn và khen ngợi người
phụ nữ khác. Bây giờ tôi có mập một chút hay tôi có gầy gò, hốc hác so
với thời con gái, cũng vì tôi phải tận tụy chăm lo cho con, cho
chồng–tức là ông đó. Nếu tôi có bực bội, giận dỗi vì cái tật liếc ngang,
liếc dọc của ông, thì đừng hỏi tại sao. Không lẽ, cái lý do đơn giản
như thế mà ông cũng không biết. Và cũng chính vì vậy mà bao năm qua tôi
và ông đã phải “nội chiến từng ngày”. Ông đừng có giơ hai tay lên trời
rồi nhăn mặt bứt tóc, bứt tai than thở “sao lúc nào bà cũng sẵn sàng gây
hấn với tôi”. Vì tôi là đàn bà!
* * *
Bạn thân mến,
Trên đây là những gì mà cô bạn của người viết muốn nhắn với ông chồng
của cô. Không những thế, cô còn “xin phép đại diện cho phe phụ nữ để nói
lên những điều cần phải nói với hy vọng các ông chồng sẽ nhìn ra những
sai sót của mình mà tự điều chỉnh lại để các bà vợ khỏi phải cong cớn
biện minh “Vì tôi là đàn bà!…”
Người viết nghĩ rằng, trong đời sống vợ chồng, không ít các ông không
hiểu hoặc không muốn hiểu những điều mà theo họ rất nhỏ nhặt, chẳng đáng
quan tâm, miễn là mình làm trọn nhiệm vụ người chồng, đi làm kiếm tiền
nuôi gia đình, không ngoại tình… là đủ. Có những điều đối với ông rất
quan trọngnhư tình hình chính trị, kinh tế của Hoa Kỳ ra sao?
Thế giới
có diệt hết các phong trào khủng bố không? Những điều nầy đối với các bà
nhiều khi chỉ là chuyện bao đồng. Bởi thế, hằng ngày có biết bao mâm
cơm gia đình phải chịu cảnh tẻ nhạt. Chỉ cần một chút quan tâm, và vì
tình yêu mà chúng ta cố gắng chấp nhận những điều không hợp ý mình một
cách vô điều kiện, thì bảo đảm gia đình lúc nào cũng sẽ đầy ắp tiếng
cười. Điều này có khó lắm không bạn?
Trần Yên Hạ
- See more at: http://thoibao.com/2013/11/06/vi-toi-la-dan-ba/#sthash.rf2CcU4O.dpuf
TÔN KÀN * HÀ NỘI NĂM XƯA
À la recherche du temps passé…
HÀ NỘI NĂM XƯA
Hồi ký của Tôn Kàn
Nhìn qua cửa sổ thấy thành phố Toronto nằm co ro dưới tia nắng
sớm của một ngày đầu Thu thì lại chợt nhớ đến Hà Nội nơi tôi
sinh trưởng cách đây mấy chục năm.
Tôi nhớ Hà Nội thời tôi còn bé cũng có những ngày chớm Thu
nắng cũng êm dịu thời tiết cũng hanh hanh như thế này.Mùa Thu
thì khô ráo , còn mùa Xuân sau Tết có những ngày mưa phùn gió
bấc buồn lê thê, chỉ ở Hà Nội mới có những ngày buồn rã
rượi dài người ra như vậy ! Những ngày này được húp tô cháo
ám hay cháo gà nóng hổi thì thật là thần tiên ! Tối tối tản
bộ bờ Hồ, sưởi ấm trong tay gói phá xa nóng thơm mùi ngũ vị
hương hay xà vào lề đường húp chén lục tào xá thơm mùi vỏ
quít khô (trần bì ),đây là những petits plaisirs của dân Hà
thành.
Nhà tôi hồi đó ở hàng Đẫy nổi dài ,nay là đường Nguyễn thái
Học ,trước bến xe Kim Mã. Ngày ngày đi học tôi băng qua chợ
Ngọc Hà , qua chùa Một Cột rồi theo Avenue Brière de l’Isle
—đường Hùng Vương— là tới trường Albert Sarraut.Trước cửa
trường là một bãi cỏ rộng mênh mông , nay là quảng trường Ba
Đình. Bãi này chiều chiều chúng tôi thường rủ nhau ra đánh
lộn, phần nhiều là ẩu đả với Tây lai và Ả rập vì cho là
tụi này phách lối.
\
Những ngày nghỉ có thể đi tầu điện lên bờ Hồ ,thả bộ theo
Tràng Thi Tràng Tiền ,qua vườn hoa Con Cóc. Có khi qua đền Ngọc
Sơn , rồi lên tận hàng Đào thăm bà cụ người quen có cửa hàng
bán thuốc Bắc và tơ lụa.Lần nào bà cụ cũng gọi cho hai anh em
chúng tôi mỗi đứa một mẹt bún chả chợ Đồng Xuân.
Thưc tình mà nói chỉ có ít sợi bún rối, một kẹp chả gồm
vài miếng thịt ba chỉ thái mỏng nướng với vài cọng rau muống
chẻ và rau thơm cùng chén nước chấm ,thế mà ối giời ơi sao nó
ngon thế, ăn cứ thòm thèm tới nay nghĩ đến còn rỏ rãi !
Tuy theo học trường Phảp nhưng tôi chỉ thích ăn đồ Việt Nam ,
nhất là những món qùa vặt. Bún riêu bún ốc tôi đều mê.Nhớ
đến tô bún riêu cua đồng nóng hổi, gạch cua trưng vàng ngậy đổ
lên sợi bún trắng ngần,tôi thấy ngon bằng năm bằng mười mấy
loại soupe vô duyên của Tây phương !
Trường trung học Albert Sarraut thành lập năm 1919 và giải thể
năm 1965.Tôi theo học tại trường này từ năm 1952 cho tới năm 1954
thì di cư vô Nha Trang.Tôi phải thi concours mới vào được trường
này ,năm đó chỉ nhận có hai chỗ, tôi dành được một.Kết qủa
này là do ý chí của Mẹ tôi , một người đàn bà mảnh khảnh
nhưng có một nghị lực phi thường. Khi bố tôi bỏ bà đi lấy
người khác , bà ở vậy nuôi hai đứa con trai. Bà thường nói với
hai anh em chúng tôi:” Mẹ không có của cải để lại cho các con
,chỉ có học vấn là đường tiến thân của các con, mẹ sẽ làm
hết sức để giúp các con ăn học ,vậy các con phải chăm lo học
hành , đừng phụ công lao của mẹ.”
Tôi là con trưởng, nên bao nhiêu chiều chuộng , bao nhiêu ưu đãi,
bao nhiêu của ngon vật lạ đều đổ dồn vào tôi . Chú Cường em tôi
cũng chấp nhận vai thứ của mình một cách thản nhiên , tôi
thấy chú không hề tranh dành với tôi bất cứ điều gì vật gì.
Hồi nhỏ hai anh em luôn luôn quấn quít lấy nhau,tôi bảo chú làm
gì là chú làm theo không lầu bầu cãi cọ. Hai đứa đều thù
ghét bà dì ghẻ thậm tệ ,nhưng ngược lại vẫn thương hai đứa em một trai một gái cùng cha khác mẹ.
Tuy không sung túc , mẹ tôi không bao giờ để chúng tôi thiếu thốn
chút gì. Nhất là tôi , bà cụ chiều như một công tử con nhà
đại phú !Lúc nào trong nhà cụ cũng nuôi một chú nhỏ có nhiệm
vụ vác cuốn Larousse nặng chình chịch đưa tôi đên trường.Hồi
đó,chưa có cuốn Petit Larousse bỏ túi. Tôi còn nhớ tên các chú:
đầu tiên là chú Nhâm,bàn tay có sáu ngón; sau đến chú
Tuế,chú này bị hen nặng ,cứ tối tối là chú chui vào một xó
ngồi thở rù rì như con mèo.Chót đến là chú Đơ, người to lớn
lực lưỡng , mẹ tôi mua chiếc xe cyclo để chú chở tôi đi học. Mẹ
tôi gây dựng gia đình cho cả ba chú , họ coi mẹ tôi như má nuôi !
Bà cụ lại còn nuôi thêm một ông thầy dậy tư—một précepteur–để
kèm chúng tôi học thêm ở nhà cũng như chỉ bảo làm bài vở của
nhà trường. Đây là những học sinh lớp đệ nhị đệ nhất đang
sửa soạn thi Tú Tài. Mẹ tôi cho họ ở trọ nuôi ăn nuôi uống ,
ngược lại họ phải kèm học hai anh em chúng tôi. Tôi nhớ có anh
Lý và anh Minh , mấy người này về sau đều thành công trong
đời.Chú Cường và tôi mỗi người một thầy , vì chú Cường theo
học chương trình Việt , còn tôi thi đỗ vào Albert Sarraut tất
nhiên theo chương tình Pháp.Mẹ tôi thường cười khi kể lại:
—Mẹ dẫn hai đứa mày đi thi vào Albert Sarraut .Tao đứng chờ
trước cổng trường.Chỉ năm phút sau là đã thấy thằng Cường tung
tăng đi ra.Thằng Khánh thì cả giờ sau mới ló mặt. Về nhà là
tao tống thằng Cường vào trường Việt liền !
Nói như vậy không phài là chê chú Cường học dốt.Chú rất giỏi
Pháp văn và cả chữ Nho nữa.Chỉ cái là chú không thích Tây
Tầu,chú có lối sống rất Việt Nam ,nhà tranh vách đất ăn mặc
xuề xòa.Chú là Giáo sư Toán , con trai chú là thần đồng Toán,
có Ph.D Toán của Đại học Harvard do học bổng của Gouverneur
Général Jean Sauvé.
Chẳng may chú bị bạo bệnh mất sớm, tôi thương tiếc khôn
nguôi.Chú mất khoảng 2 năm sau khi bà cụ đi ,tôi thường nghĩ có
khi mẹ tôi nhớ chú gọi chú theo.
Chú Cường liên lạc mật thiết với họ hàng ,chú luôn luôn ở bên
mẹ tôi , hầu hạ cụ cho đến khi cụ mất.Tôi thường nghĩ
thầm:”về chữ hiếu và chữ tình ,tôi thua chú xa, không bén gót
!”.
Tôi đấu hót với bạn bè thì như pháo rang, nhưng ngồi tiếp
chuyện họ hàng thì lại ú ớ, vì không có tài small talk !
Hà Nội có những ngày hè oi bức ác liệt, nhiều đêm phải vác
ghế bố ra vỉa đường mới ngủ nổi !Hồi đó chưa ai có máy
lạnh.Thế nhưng mùa đông thì rét cóng, nằm ngủ trong chăn bông
không muốn giậy , cứ tự hỏi tại sao không nghỉ vacance vào mùa
đông? Mùa này thích nhất là dịp Tết,đươc diện quần áo mới ,
được đi thăm viếng bà con họ hàng để nhận mừng tuổi(trong Nam
gọi là lì xì) và được ăn kẹo mứt thả dàn !Tôi nhớ có lần
lên chúc Tết ông chú, ông vừa rót mấy ly rượu Cointreau đãi
khách,khách chưa uống đã ra về, tôi nếm thử thấy ngọt lừ
thơm mùi cam , bèn nốc vội hai ba ly , thế là lăn kềnh ra ói mửa tùm lum !May vào dịp Tết nên không phải đòn.
Mùa đông và mùa thu ở Hà Nội có cái thú ăn qùa vặt vì trời lạnh. Hà Nội nổi tiếng có nhiều món qùa ngon.
Buổi sáng có đủ loại xôi ,bánh giò bánh dầy ép chả quế hoặc
bánh cuốn Thanh Trì hay nhân thịt.Buổi trưa có cơm tấm giò chả
và đủ loại bún, bún chả bún riêu bún ốc bún thang v…v…Tôi
khoái nhất là món bún ốc lạnh chấm dấm bỗng làng Vân.
Buổi tối có phở,ngon nhất là phở gánh đầu đường.Buồn tình
thì gọi tô mì hay tô cháo gà “xực tắc”—xực tắc mì gõ bằng
hai mẩu gỗ, xực tắc cháo gà gõ bằng hai mẩu tre. Lại thêm món
miến gà miến lươn hay cháo lòng với những miếng dồi tiết béo
ngậy và những miếng gan luộc thái mỏng thơm bùi .
Còn món chả cá Lã Vọng, trước nổi tiếng thế giới ,nay thì lăng ba vi bộ lắm !
Ngoài ra còn một món rất Hà Nội , đó là món rươi.Đây là một
loại giun thuộc họ Nereidae. Chúng sinh nở ở những vùng nước
lợ nửa mặn nửa ngọt. Đến mùa lúa chiêm—gạo đỏ ,một loại
wild rice—khi nước biển theo thủy triều tràn vào đồng ruộng
thì chúng xuất hiện đầy đồng , người ta lấy thúng vớt gánh
về Hà Nội bán.Tôi nhìn chúng đủ mầu xanh đỏ trắng vàng bò
lổm nhổm, không hiểu tại sao người ta lại ăn được thứ gớm
ghiếc như vậy! Rươi có hai món chính: mắm rươi và chả rươi ,ăn
với vỏ quít.
Ca dao ta có câu:”Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn nhộng.”
Tất nhiên còn phải viết về hai đặc sản dữ dằn của Hà thành:
trước tiên là tiết canh , sau đến thịt chó (thịt cầy).
Tiết canh thì có tiết canh vịt , tiết canh heo hay tiết canh chó.
Tôi chỉ dám ăn tiết canh vịt làm ở nhà.Tiết canh làm không cẩn
thận ăn bị trúng độc thượng thổ hạ tả , ngỏm củ tỉ như chơi
!
Còn món thịt chó thì tôi xin kiếu. Bố tôi mê món này lắm,
nhưng mẹ tôi chê nên cả hai anh em tôi đều không hẩu món này ,
chỉ biết ăn món giả cầy là món chân giò heo nấu theo kiểu rựa
mận là một trong bẩy kiểu nấu thịt chó.Đi qua mấy nhà hàng
bán thịt chó thấy con chó thui nguyên con treo lủng lẳng răng nhe
răng trắng nhởn, thấy vừa thương vừa gớm, chẳng còn bụng dạ
nào mà ăn với uống !
Tôi nghe nói dân Đại Hàn xực thịt chó còn khiếp đảm hơn dân
Việt, đến nỗi chính phủ phải ra lệnh cho dân chúng ngưng ăn
thịt chó trong kỳ Thế Vận Hội để khỏi làm mích lòng du
khách.
Thời đó Hà Nội còn có xe điện ,có mỗi một toa sơn hai mầu
vàng trên đỏ dưới , chạy lịch cà lịch kịch ,đến gần trạm lại
kéo chuông kêu leng keng , vui đáo để ! Tầu này trông cũng giống
chiếc cable car ở San Francisco.
Tầu chạy qua nhà tôi trên đường từ bờ Hồ đến Ô Cầy Giấy và
ngược lại .Mẹ tôi là thân chủ trung thành , cụ thường hả hê
nói:
—Đi tầu điện vừa rẻ vừa tiện vừa thoải mái, tao đi chơi bằng
tầu điện cả ngày được ! Tao chả cần ô tô
tầu bò gì hết
Uổng thay nay không còn tầu điện nữa, mất một sắc thái ngộ nghĩnh đặc biệt của thành phố.
Đi tầu điện lên chơi bờ Hồ—hồ Hoàn Kiếm—mùa Hè tất nhiên phải
ăn kem (ice cream), kem ly hay kem cây. Còn nhỏ mà được mút cây
kem mát rượi trong những ngày nóng nực là một hạnh phúc thần
tiên, về nhà có bị đau bụng đi tháo tỏng thì cũng mặc kệ !
Đôi khi bố mẹ nổi hứng thì dẫn lên đường Cổ Ngư hay qua vườn
Bách Thảo cho các con ăn bánh tôm, ôi những chiếc bánh vàng
ngậy có con tôm đỏ nho nhỏ nằm trên ,cuốn vào lá xà-lách tươi
xanh rờn, chấm nước mắm pha sao mà nó ngon thế , mỗi đứa chỉ
được một cái , nhẩm bụng lớn lên có tiền sẽ ăn bánh tôm cả
ngày thay cơm !
Thế nhưng oái oăm thay, lớn lên nhìn bánh tôm lại chán ngắt, con
tôm bây giờ qúa to ,răng lợi đến tuổi lung lay ,miếng bánh lổm
nhổm trong mồm khó nhai, thế là tan giấc mơ vàng !
Thưở nhỏ được theo mẹ vào chợ Đồng Xuân ăn qùa thì sướng mê
tơi.Hà Nội có 12 chợ cỡ lớn: chợ cửa Đông (Đồng Xuân), cửa
Nam, chợ Huyện, Đình Ngang, Bà Đá, Văn Cử, Ong Nước, chợ Mới,
Đông Thành, Yên Thọ và Yên Thái(Bưởi). Chợ Đồng Xuân lớn nhất ,
ở ngay khu phố cổ ,được lập vào năm 1804 và được chính quuền
Pháp xây cất năm 1890. Lúc đầu có 5 vòm cửa và 5 nhà cầu dài
52 m cao 19 m ,nay chỉ còn 3.Món bún chả kẹp que tre ăn với rau
muống sống chẻ sợi nhỏ là món tôi ưa thích nhất.
Từ chợ Đồng Xuân lang thang qua khu phố cổ thì không bao xa. Khu
này ngày nào cũng lúc nhúc những người là người, các phố xá
đã được cụ Nguyễn Trãi diễn tả trong Dư Địa Chí.
Phạm vi khu Phố Cổ được ấn định bởi hàng Đậu ở phía Bắc ,
hàng Bông hàng Gai Cầu Gỗ ở phía Nam , đường Trần quang Khải
và Trần nhật Duật ở phía Đông và đường Phùng Hưng ở phía Tây.
Thật ra hồi đó chỉ đi loanh quanh mấy phố hàng Đào, hàng Bạc hàng Buồm hàng Bồ là đã bở hơi tai rồi ¡
Đi bộ mỏi chân thì tạt vào nhà Thủy Tạ phía Tây Bắc bờ Hồ,
uống ly nước chanh đường .Hoặc ngồi xả hơi trên ghế công viên
dưới hàng cây sấu hay cây si.
Các bạn còn nhớ bài hát:
Mình ơi có đi bờ Hồ
Cùng nhau ăn kem kẹo dừa
Phía đông bắc bờ hồ có rạp Philharmonic chiếu phim rẻ tiền ,
đặc biệt ghế ngồi là loại ghế fauteuil bằng tre đan , có nệm
bông. Khổ nỗi nệm có rệp đốt sưng đít !
Thưở đó thường đi rạp Olympia ở hàng Da, coi các phim Tarzan, Zorro hay phim kiếm hiệp như Les Trois Mousquetaires.
Không ông nhóc nào là không đeo mặt nạ và cầm que tre làm kiếm đánh nhau túi bụi.
Rạp hát lớn nhất là rạp Đại Nam ở phố Huế. Rạp này là nơi
đầu tiên chiếu phim nói tiếng Việt , một phim tình cảm Trung Hoa
do nữ tài tử Lý lệ Hoa thủ vai chính. Người ta dubbing tiếng
Việt, mấy ông bà đọc đối thoại như đọc bài , nghe thật buồn
cười! Sau đó chiếu phim do người Việt đạo diễn, nữ tài tử là
bà chị ruột của Nguyễn tiến Tài ,bạn học của tôi. Phim tên là
Bến Cũ , quay bên Pháp và là phim câm, thế mà cũng làm náo
loạn Hà thành !
Nhà hát lớn Hà Nội le grand Théatre xây cất trong khoảng thời
gian từ 1901 đến 1911. Tọa lạc ở phố Tràng Tiền , nhà hát xây
cất theo mẫu le grand Opéra de Paris.Tôi được lãnh vé đi xem kịch
le Cid do phái bộ Pháp sang trình diễn và được nhận giải
thưởng đồng hạng nhất trong lớp tại đây.Tuy hãnh diện được
giải thưởng đi xem le Cid nhưng nghe Tây đầm xì xồ trên sân khấu ,
thật tình chẳng hiểu mô tê gì cả !
Anh Tài vượt biên và chết đắm ngoài biển với cả gia đình.
Hai người anh trai của Tài là Nguyễn tiến Lộc và Nguyễn tiến Đạt.
Anh Lộc cũng mê đóng xi nê lắm , không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu?
Còn anh Đạt tự Đạt cồ thì nghe đâu ở Texas. Anh làm luật sư và
cũng là cựu học sinh Albert Sarraut. Anh đô con vì tập tạ, mấy
thằng nhóc chúng tôi thường đem anh ra hù mấy thằng Tây lai để
chúng khỏi bắt nạt Dạo quanh bờ Hồ tất nhiên phải tạt vào
đền Ngọc Sơn.Những công trình kiến trúc đặc thù của đền này
gồm cầu Thê Húc , bút Tháp và đà Nghiên.Đề có tên là Ngọc
Tường thời nhà Lý,để đời nhà Trần thì đổi thành đền Ngọc
Sơn.
Đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương Đế Quân và đức Trần hưng Đạo cùng Quan Công.
Đối diện với đền Ngọc Sơn và chếch lên phía Bằc bên kia đường
là đền Bà Kiệu. Cửa Tam quan của đền này ở bên bờ Hồ, ngăn
cách với đền bởi đường Đinh tiên Hoàng ! Đền xây từ đời Lê
trung Hưng để thờ ba vị nữ thần ,đó là công chúa Liễu
Hạnh(còn gọi là Mẫu Phủ Giầy) và hai tì nữ Quỳnh Hoa và Quế
Hoa.
Đền Ngọc Sơn và đền Bà Kiệu nằm về phía Đông Bắc của Hồ
Hoàn Kiếm hay hồ Gươm. Chu vi hồ khoảng 1750m , tôi đã từng thuê
xe cyclo dạo quanh hồ , đi tà tà ngắm phong cảnh thì mất khoảng
3 tiếng đồng hồ.
Giữa hồ lùi về phía Nam là Gò Rùa và Tháp Rùa.Gò Rùa là
một gò đất diện tích khoảng 350 thước vuông, trên gò xây Tháp
Rùa.Hồi còn nhỏ tôi cứ tưởng Tháp này là do Vua Chúa thời xưa
xây lên.Sau này mới biết đây là công trình của ông Nguyễn ngọc
Kim tự Bá hộ Kim bỏ công của ra tạo dựng năm 1886, với ý đồ
cải táng phần mộ của thân sinh trên gò Rùa. Việc đặt mộ không
thành, nhưng Bá hộ Kim vẫn hoàn tất công trình xây Tháp Rùa .
Tháp hình vuông có 3 tầng , cao 8.8m , kết hợp phong cách kiến
trúc Tây phương với quy thức kiến trúc Việt Nam. Nay Tháp đã
trở thành một biểu tượng (icon) của Hà Nội.
Sinh vật nổi tiếng sống trong hồ là những con Rùa khổng lồ Rafetus leloii thuộc họ Ba Ba Trionychidae.
Hà Nội nổi tiếng là thủ đô có nhiều ao hồ. Ao đẹp nổi tiếng
là ao Cầu nằm trong làng An Phú. Các hồ danh tiếng phải kể
đến hồ Tây , hồ Trúc Bạch,hồ Thiền Quang hay hồ Ha Le (Halais) ,
hồ Ba Mẫu ,hồ Bẩy Mẫu ,hồ Linh Đàm, hồ Nghĩa đô, hồ Giảng
Võ, hồ Thủ Lệ…
Cũng như Hồ Gươm, Hồ Tây là một thắng cảnh danh tiếng được
nhiều du khách ưa chuộng.Hồ Tây hay Tây hồ còn nhiều tên gọi
khác như Đầm Xác Cáo, hồ Kim Ngưu, hồ Lãng Bạc, hồ Dâm Đàm,
Đoài Hồ. Mỗi tên gọi đều dính liền với một sự tích lịch sử
ngộ nghĩnh. Một cái thú ở Hà Nội là chiều chiều ngồi ngắm
cảnh hoàng hôn trên Hồ Tây.Bên hồ Trúc Bạch không biết bao nhiêu
kiến trúc đặc thù, nào chùa Kim Liên ,đền Quan Thánh, chùa
Trấn Quốc,chùa Châu Long,đền Cầu Nhi ,làng đúc đồng Ngũ Xá…
Một số đền lập thành Thăng Long Tứ Trấn :đền Quán Thánh ở
phía Bắc (thế kỷ thứ 10); đền Kim Liên ở phía Nam (thế kỷ
thứ17);đền Bạch Mã ở phía Đông (thế kỷ thứ 9) và đền Voi
Phục ở phía Tây (thế kỷ thứ 11) .
Còn Thăng Long Tứ Quán là nơi tu hành của những người theo Đạo
Giáo. Đó là Trấn Vũ quán(chùa Quán Thánh); Huyền Thiên quán
(chùa Huyền Thiên,phố hàng Khoai);Đồng Thiên quán (chùa Kim
Cổ,phố Đường Thành) và Đế Thích quán (chùa Vua, phố Thịnh
Yên)
Khuê văn các là biểu tượng văn học của Thăng Long, được xây cất
năm 1805 dưới thời nhà Nguyễn. Đây là một lầu vuông tám mái
nằm trong khu Văn Miếu, khu này được xây dựng từ năm 1070 dưới
đời Vua Lý thánh Tông.Năm 1076 ,vua Lý nhân Tông cho xây trường
Quốc tử Giám bên cạnh Văn Miếu.Quần thể kiến trúc này nằm
tại phía Nam thành Thăng Long.
Vườn Bách Thảo Hà Nội nằm ở phía Tây Bắc thành phố. Vườn
được khai trương vào năm 1890 và là một công viên có nhiều loại
cây cỏ qúy hiếm và những cây cổ thụ khổng lồ.
Những danh lam thắng cảnh của Hà Nội đã được trình
bày trong rất nhiều tài liệu gíá trị , tôi không cần viết thêm
làm chi cho nhàm. Chỉ nhắc lại một số cảnh vật mà tôi đã có
dịp thăm viếng khi còn nhỏ.
Đến đây viết về một số bạn bè đã học chung với tôi từ cours
Moyen—lớp Nhì. Những người mà tôi còn giữ liên lạc được cho
tới bây giờ chỉ còn có Phạm gia Thuần, Lưu nguyễn Đạt và
Nguyễn thượng Vũ.
Còn mấy người như Quế con nhà Hồng Khê bán thuốc Bắc (không
nhớ họ) , Hoàng bá ước Doanh thì mất liên lạc từ lâu. Quế là
họ sinh độc nhất đi học bằng xe ô tô có tài xế lái , thỉnh
thoảng hắn cũng đưa tôi về nhà bằng xe hơi , cả xóm lác mắt!
Không biết bây giờ hắn lưu lạc nơi nao?
Phạm gia Thuần làm phù rể cho tôi năm 1973.Hồi ở Saigon, Thuần
và tôi cùng Nguyễn vĩnh Đức thường kéo nhau đi ăn cơm Tây uống
rượu chát, bởi vậy tháng nào qua kỳ lĩnh lương cả ba thằng
đều cháy túi ! Tôi thường đến nhà Thuần xoa mạt chược rồi kéo
nhau đi du hí. Gặp nhau ở Paris , chúng tôi mò lên Tour d’Argent
bù khú nhậu nhẹt như Tây con !Cậu Thuần nay vui thú điền viên
với chị Oanh tại Laguna (Cali),cậu trẻ trung ra , lái xe Porsche
Sport chạy ào ào ,thấy mà hãi !
Lưu nguyễn Đạt chơi thân với tôi như anh em. Cậu Đạt đẹp trai,
lúc nào cũng ăn diện bảnh chọe.Hồi còn ở chung với nhau tại
garconnière ở cư xá Đô Thành, tôi thường lấy cravate soie de luxe
của cậu làm dây buộc mùng khiến cậu phát khùng lên !Đạt không
những là một luật sư tài giỏi , cậu còn là một nghệ sĩ—vừa
là họa sĩ lẫn thi sĩ kiêm văn sĩ danh tiếng , cậu đã chủ
trương tập san Cỏ Thơm.Ngoài ra,cậu cũng đã viết một số bài
bình luận chính trị được rất nhiều người huởng ứng. Đạt hiện
sống hạnh phúc với vợ là chị Phùng thị Hạnh(cháu gái cụ
Phạm Quỳnh) tại Washington D.C.
Nguyễn thượng Vũ cư trú tại một biệt thự chảng lồ trên một
ngọn đồi nhìn xuống San Francisco Bay. Vũ học cours Moyen chung
với tôi , sau đó thi đậu lên 6ème nên vượt tôi một lớp.Tôi nhớ
thỉnh thoảng lên chơi nhà Vũ ở phố Huế. Hình như nhà bán vật
liệu xây cất và bán sơn.Phu nhân của Vũ là con gái của Bác Sĩ
Dương cẩm Chương. Bác Sĩ Chương là bạn rất thân của bố vợ tôi ,
kiến trúc sư Đào trọng Cương . Cả hai Cụ năm nay đã trên 103
tuổi mà vẫn còn khỏe mạnh minh mẫn. Bác Sĩ Chương là một danh
họa tài ba , Cụ đã có nhiều cuộc triển lãm rất thành công
trên toàn thế giới.Tôi có đến thăm Bảc Sĩ Chương năm 2008, được
Cụ tặng cho một cuốn sách in những bức tranh mà Cụ ưng ý
nhất. Tôi đóng khung một vài tác phẩm treo trong phòng làm
việc.
Bà giáo đầm đầu tiên trong đời tôi là Mme Delbos.Bà không đánh
học trò nhưng có một hình phạt hắc ám:anh nào có lỗi thì bà
xé đôi tập cahier de classe, về nhà phải chép lại tất cả bài
vở trong một tập vở mới , có khi thức trắng đêm để kịp ngày
sau đem nộp, nếu không sẽ bị consigne thứ bẩy chủ nhật ,còn
khổ hơn nữa !
Ông thầy dậy cours Supẻrieur—lớp nhất—là ông Thomas. Ông người
vạm vỡ nhưng rất hiền lành. Ông viết chữ rất đẹp. Trong lớp
ông sắp xếp học sinh ngồi theo thứ hạng.Bàn số một kê gần bàn
thầy , học sinh giỏi nhất lớp ngồi ghế đầu bàn này ,đó là
anh Lê văn Chương. Tôi ngồi cạnh anh vì đứng thứ nhì , và nực
cười là suốt năm như thế không thay đổi vì hai đứa chúng tôi
luôn luôn chiếm hạng nhất nhì !
Tuy ngồi cạnh anh Chương suốt năm mà tôi lại không thân với anh.
Chương dáng người ỏn ẻn như con gái, tôi không hợp vì tôi nghịch
như qủy sứ !
Sau khi di cư , mãi đến khi đi thi Tú Tài 2 thì tôi mới gặp lại
Chương. Tôi mò đến nhà anh, gặp mẹ anh khóc sướt mướt nói
rằng:
—Cháu ơi, thằng Chương nó khùng rồi !
Bà cụ cho biết Chương học gạo, thi đậu Brevet từ 4ème ,rồi lại
thi đậu Bac Un từ Seconde, tối ngày chỉ uống Maxiton để tỉnh
mà học nên đầu óc lung tung , bây giờ hàng ngày mặc xà lỏng
cởi trần đi lang thang nói lảm nhảm ngoài đường !Tôi ra về
thương tiếc cho một thanh niên xấu số. Nhìn gương của anh , sau
này tôi không bao giờ khuyến khích các con tôi thành mọt sách.
Tôi không hiểu vì sao ông Thomas lại đặc biệt qúy mến tôi. Ông
dậy tư Phảp văn và Toán , giá 80 piastres một giờ. Số tiền này
thời đó khá to lớn. Tuy không khá giả nhưng mẹ tôi cũng bắt
tôi học tư.Ông Thomas dậy tư tôi miễn phí ! Mấy đứa thối mồm xì
xào rằng ông Thomas muốn bắt tôi làm rể ! Tuy chẳng hiểu mô tê
gì nhưng trong bụng tôi cũng khấp khởi mừng thầm !
Sau năm 1954 , các bạn bè của tôi di cư vô Sài Gòn tiếp tục ở
Chasseloup hay Yersin trên Đà Lạt. Riêng gia đình tôi thì định cư
tại Nha Trang , tôi theo học trường Bénilde của các Frères
Chrétiens .Tại đây tôi gặp một lô các bạn mới như Nguyễn dũng
Chí , Nguyễn tiến Tài , Hoàng đức Nhã , Hà xuân Thao ,Hà xuân
Trừng. Anh em Thao Trừng rất dễ thương , thỉnh thoảng mời tôi về
nhà nấu chè cho ăn.
Còn ông anh lớn là Hà xuân Du thì tôi không ưa.Tôi có đụng độ
với anh này một lần , hình như trong dịp đám cưới con gái
Nguyễn thượng Vũ .Gặp tôi anh hỏi:
—Bộ Canada hết người sao mà nó xài mi?
Tôi quạt lại liền:
—Sao anh thở ra câu ngu vậy? Ở Việt Nam tôi là Cố Vấn Tổng
Trưởng, trưởng khu Quang tuyển ba Bệnh viện lớn ở Sài Gòn. Sang
đây tôi là Giáo sư Đại học ,Giám đốc chương trình Hậu Đại học
Quang Tuyến, tác gỉa nhiều sách giáo khoa. Còn anh chỉ là một
tên FP hạng quèn, anh lấy tư cách gì mà lên lớp tôi?
Hắn câm mồm lỉnh ra chỗ khác. Hắn biết rằng nếu hắn tiếp tục
ăn nói cà chớn thì sẽ bị tôi phang cho một trận. Khánh cao
bồi mà, đâu có ngán thằng nào?
Ngồi nhớ lại cảnh cũ người xưa,trong lòng không khỏi bùi ngùi xúc động.
Thời gian qua mau , mới ngày nào mà nay đã cổ lai hi , đời
người qủa thật như giấc chiêm bao.Càng về già tôi càng tin vào
số mệnh. Mỗi người một số , Trời cho ai người nấy hưởng ,
hưởng nhiều thì nghiệp chướng nhiều , có vay thì có trả, cái
triết lý nhà Phật thâm thúy thiệt !
Khơi lại kỷ niệm cũ để thổi sinh khí mới vào dĩ vãng. Gửi
đến các người anh em bài hồi ký này , mong các bạn tiếp nhận
nó trong
tinh thần hoài cổ cũng như với niềm tin vào một tình bạn bất diệt.
Tôn Kàn
Mùa Thu 2013 - See more at: http://thoibao.com/2013/11/06/ha-no%cc%a3i-nam-xua/#sthash.DttWZUG3.dpuf
Mùa Thu 2013 - See more at: http://thoibao.com/2013/11/06/ha-no%cc%a3i-nam-xua/#sthash.DttWZUG3.dpuf
PHAN * ÔNG ÂY NHÀ TÔI
GÓC CỦA PHAN * ÔNG ÂY NHÀ TÔI
1.
Tại sao là “2”? Xin thứ lỗi cho tôi, tôi không lưu giữ được bài viết cũ
vì cứ vài năm thì cái laptop tắc tử do xài (ẩu) quá nhiều, làm cho bao
nhiêu bài báo trong đó cũng đi theo. (Có người mách bảo cho tôi: Hãy đem
cái hard drive ra tiệm sửa computer của Mỹ thì họ back-up lại được các
files trong đó. Nhưng tôi không thể vì họ tính tiền công quá cao. Và lời
tự hứa vào lúc ấy, là mình phải để dành tiền để làm cái việc cần thiết
này, thì thường bớt cần thiết về sau…)
Dù sao, tôi cũng nhớ được mình đã có viết một bài với tựa đề là:
“Ông nhà tôi ấy à!…” Câu chuyện xoay quanh mấy người bạn làm việc chung
hãng ngày xưa. Có đôi vợ chồng mà chú Quang rất mờ nhạt để nổi bật lên
cô Nhâm (vợ chú Quang). Đó là người phụ nữ di cư từ Bắc vào Nam năm
1954. Nhưng cô khác cả triệu người di cư năm đó là với cô, hễ ai nói ra
bất cứ điều gì… cũng không sai thì dở. Chỉ có cô Nhâm nói là đúng; là
chân lý! Và bao giờ cô cũng đem chồng cô là chú Quang ra làm… bia đỡ
đạn.
Giả sử một người đàn ông ta thán là sáng sớm ra xe đi làm, trời thì
lạnh mà cái xe đề hoài cũng không chịu nổ máy; hay người khác nói sáng
sớm ra xe mới biết một bánh xe đã bị xì hết hơi, thiệt là… khổ.
Cô Nhâm sẽ nhanh nhẩu nói ngay, “…Ông nhà tôi ấy à! Trong garage bao
giờ cũng sẵn một cái bình điện để phòng khi xe hết bình – đề không nổ!” ;
“… Ông nhà tôi ấy à! Chả bao giờ để cho bánh xe xì đến hết hơi. Vì
trước khi đi ngủ, ông ấy đã ra garage kiểm tra xe cộ tử tế: đã khoá cửa
xe chưa? (Vì đã có người mất xe ngay trong garage nhà mình, bởi lơ đễnh
đến mức để cả chìa khoá xe trong xe…)
Ông nhà tôi ấy à! Cho dù xe đậu trong garage cũng phải khoá cửa xe cẩn
thận, xem bánh xe có xì xẹp gì không, đâu vào đấy, rồi ông ấy mới lên
giường nằm…”
Thằng quỷ con trong hãng lúc ấy, nó như khắc tinh của cô Nhâm, vì cô
nói gì thì cũng mỗi nó dám lên tiếng với cô thôi – chứ chả ai tranh luận
lại với cô bao giờ. Nó đáp lời cô,
“Nhưng chú Quang lái xe dở lắm phải không cô Nhâm?”
“…Ông nhà tôi ấy à! Ông ấy lái xe jeep của quân đội từ khi cậu chưa
sinh ra đời cơ đấy! Có đã mấy mươi năm rồi nhỉ!” Cô Nhâm đầy tự hào
trong ánh mắt xa xăm dõi về quá khứ…
“Vậy sao chú cứ than với tụi cháu là từng tuổi này rồi, mà đêm nào phải
trả bài, “tao de xe vào garage cũng vẫn cứ kẹt hai cái bánh xe ở ngoài,
có cách nào không – chúng mày ạ!” Làm cháu tưởng chú Quang lái xe dở
ẹt… phải không cô Nhâm?”
“…”
Thế là những cái đầu ma quái được một trận cười, còn thằng nhỏ thì bị
cô mắng xối xả với hàng loạt từ ngữ người di cư đã ra đi mang theo…
Nhưng dù sao cũng thấy được cô Nhâm kỵ thằng quỷ con này vì “miệng nó
bụm còn không kịp thì ai bụm kịp cho nó!” (Cái cụm từ đặc sệt nam bộ là
do bà Sáu-cô đơn nói về nó, và được nhiều người cho là đúng nhất!)
Bất cứ chuyện gì của thiên hạ cũng đều thua… “Ông nhà tôi” của cô Nhâm.
Đặc biệt là chuyện ăn uống. “…Ông nhà tôi không bia rượu, không thuốc
lá, không bài bạc, không trai gái… mỗi ngày, ông ấy ăn đúng một bát cơm
gạo lứt với muối mè vào buổi sáng, uống cốc nước lã, rồi đi làm. Cà phê
từ Việt nam gởi qua – có gì tốt? Trà thì cũng chỉ toàn màu với hương
liệu hoá chất pha chế… chỉ có nước lã đun sôi là tốt cho sức khoẻ.”
Tội nghiệp chú Quang mỗi trưa, cũng duy nhất bát cơm gạo lứt với muối
mè, không được dòm ngó đến thức ăn của người khác. Thuở ấy, hãng đông
người Việt nên anh chị em, cô dì chú… cứ bày phần ăn trưa của mình ra
bàn, rồi ăn chung vì ai cũng hiểu như ai là thức ăn giỡ theo đi làm là
món ăn chiều hôm qua ở gia đình, – nghĩa là đương sự đã ăn món ấy vào
chiều hôm qua nên trưa nay không mặn mòi nữa. Vậy sao không để người
khác ăn món của mình rồi mình đi ăn món của người khác – theo nguyên
tắc: cũ người mới ta. Cụ thể như chiều hôm qua tôi đã ăn món thịt bò xào
đậu cua-ve ở nhà; còn bao nhiêu thì vợ giỡ cơm cho đi làm hôm nay. Tôi
sẽ để mọi người thưởng thức món đậu xào danh bất hư truyền của hiền thê
mình – và tự nhiên xỏ đũa vào các món thịt kho trứng, sường muối sả… của
người khác.
Riêng cô Nhâm, một mặt không cho chú Quang được động đến tất cả các món
ăn trên bàn vì chú bị cao mỡ máu. Còn cô bị áp huyết cao nên không ăn
mặn được! Cô chỉ gắp của mỗi người một tí… cho đỡ nhớ quê hương!
Nói tóm lại là cô chỉ ăn rau cỏ trồng được sau nhà cô, quanh năm rau
luộc. Nhưng cũng là rau luộc đặc biệt, vì… “Ông nhà tôi ấy à! Ông ấy
nhặt rau thật kỹ, rửa rau thì không ai kỹ bằng. Rồi ông ấy luộc rau cũng
tinh xảo lắm, nên ngọn rau chín mềm nhưng vẫn giữ được màu xanh. Chứ
rau luộc xỉn màu thì ngán mắt – làm sao ăn!”
Cái điệp khúc “ông nhà tôi ấy à!” được cô Nhâm nhai đi nhai lại cho bò
trắng răng nên thằng Bò mà chúng tôi gọi là thằng quỷ con rửng mỡ, một
hôm mọi người đã quá chán nghe cái điệp khúc ấy trên bàn ăn, nên nó hỏi
cô Nhâm, “…Vậy, năm nay chú Quang bao nhiêu tuổi rồi hả cô Nhâm?”
Cô đáp, “…Ông nhà tôi ấy à! Ông ấy sáu nhăm (65) rồi đấy! Nhưng mọi
người có thấy là ông ấy trông khoẻ mạnh, trẻ hơn tuổi thật đến chừng
nào? Ấy! Cứ nhìn ông Tùng, ông Bách… xấp xỉ nhà tôi mà trông ra lão cả
rồi đấy!…”
(Ông Tùng thì hiền chứ ông Bách thì chả! Dĩ nhiên là ông cũng chỉ nói
sau lưng cô Nhâm, “… cái con mẹ Bắc kỳ này! Không nể anh Quang là bạn
già thì tao đã rút… thằng nhỏ tao ra, quất vào mặt mẹ ấy một phát đinh
tai nhức óc cho khép mỏ Bắc kỳ.”
Ai nghe thì nấy ôm bụng mà cười với sự táo tợn của ông Bách, nổi tiếng là “già lựu đạn”).
Nhưng cũng chẳng ai dại đến ra mặt đối đáp với cô Nhâm, trừ khắc tinh
của cô, nó nói, “… Cháu nghĩ chú Quang chết bây giờ, hay mười năm, hai
mươi năm nữa, cũng không có gì khác vì ngày nào chú cũng chỉ có 3 chén
cơm gạo lứt với 3 cốc nước lã đun sôi – để nguội. Có phải chú là người
đã chết mà còn thở… để bấm thẻ mua hột xoàn cho cô Nhâm.”
Cái thằng hắt cốc nước ối vào mặt cô Nhâm thì làm sao còn đất sống. Cô
nguyền rủa nó đến nỗi thằng nhỏ phải bỏ việc mà đi học lại. Cuối cùng
lại hoá ra nhờ cô mà nó lấy được mảnh bằng kỹ sư, một thời nó hái ra bạc
khi các hãng điện tử ở Richardson và Plano ăn nên làm ra…
Bọn trẻ chúng tôi thương chú Quang vì khi làm việc thì cánh đàn ông làm
riêng – việc nặng; đàn bà làm riêng – việc nhẹ hơn. Những lúc ấy, con
người chú Quang không còn là “cục đất” trong phòng ăn – trước mặt cô
Nhâm nữa! Chú như con sáo xổ lồng. Có hôm, đang làm việc cực nhọc, chú
bảo chúng tôi, “… ngưng tay đi tụi bay ơi! Đi ăn pizza.”
Chúng tôi nhìn quanh, nhiều ánh mắt đều dừng lại chung một điểm là cái
mông của bà Mỹ đen đang chỏng khu đếm đồ phụ tùng trong cái thùng
các-tông. Bà ấy mặc áo đầm màu vàng nghệ, có những hoa văn tròn màu đỏ –
y như những lát xúc-xích trên mặt bánh pizza. Cái mông bà Mỹ đen lại
tròn vành vạch như cái pizza bốn người ăn… Thật là con cháu ối não no nê
một hôm với trí tưởng và óc khôi hài của chú Quang.
Nhiều lúc, chúng tôi không ngờ chú đã hơn sáu mươi tuổi, cũng vì tánh
khôi hài của chú. Lại càng khó hiểu vì sao chú như một người khác, khác
hẳn trước mặt cô Nhâm. Đến hôm hãng bị cúp điện, cả đám kéo nhau ra cửa
lớn của khu vực Shipping & Receiving ngồi đấu láo. Chú cũng tham gia
bốc phét với đám trẻ cho vui. Nhưng bị cô Nhâm gọi vào phòng ăn ngồi
thiền chứ già không được mất nết… như lão Bách!
Thế là ngoài này thằng quỷ con dựng chuyện! Nó trả lời thắc mắc cho chị
em con Sếu, là: “Sao chú Quang đẹp trai, vui vẻ và hiền lành vậy. Mà
lại lấy cô Nhâm…” Nói tới cô Nhâm thì Sếu chị bịt miệng Sếu em để tránh
phiền phức.
Thằng quỷ nhỏ hăm hở nói, “… tui biết rõ vì chú Quang thường làm chung
với tui mà. Ổng kể, hồi đó ổng đi lính, đóng quân gần khu người Bắc di
cư. Lân la vào xóm dân tán gái, không ngờ gặp cô Nhâm – làm nghề nuôi
heo mà trắng da dài tóc quá nên ổng mê, theo đuổi thì chú Quang nghèo
hơn nhiều người khác, nên ổng chỉ đi chặt chuối hoang ngoài đồi giùm cô
Nhâm để đem về nhà xắt trộn cám cho heo ăn. Hồi hai người ngồi nghỉ mệt
trên đồi chuối, gặp hôm, gió đưa bụi chuối sang hè/ giỡn chơi một chút
ai dè sanh đôi. Chuyện đổ bể, ổng không cưới thì bả tự tử. Ổng nghĩ chết
tới ba mạng người nên ổng hy sinh…”
Nó nói như thiệt, còn hỏi lại hai chị em Sếu khờ, “Nên Sếu chị, Sếu em
có thấy hai người con lớn của cô chú là anh em sanh đôi không?”
Chúng tôi được cười, còn các cô gái thì tin như sấm. Cô nào chả thích
được giỡn chơi một chút với anh lính chiến đẹp trai, vui vẻ, hiền lành
như cô Nhâm nên các cô đi hỏi cô Nhâm!
Thằng quỷ con chuyến ấy biệt xứ… đi Đại học.
2.
Cả một đoạn phim dài thuộc về quá khứ, nhưng tuần tự kể lể trong tôi về thời mới qua Mỹ – đi làm hãng.
Cô Nhâm có lẽ đã về đến nhà. Chỉ mình tôi đứng chơ lơ trong chợ Target –
nơi hàng bán thuốc cảm cúm các loại; nơi tôi gặp cô Nhâm là thật, nhưng
hãy còn như mơ…
“… người đàn bà đẹp lão, tóc trắng phau như tuyết sương ngoài kia. Làn
da và mái tóc nói lên sức khoẻ của bà còn tốt lắm. Nhưng chính cái dáng
đi đã làm nên phong thái quyền quý, mệnh phụ của bà.
Tôi mỏi mắt với những hàng chữ nhỏ li ti trên những chai thuốc nên thả
tầm nhìn đi chơi cho đỡ mỏi mắt. Không ngờ hình ảnh bà lão đã thu hút
tôi từ xa – đang đi lại phía tôi. Tôi hình dung lại nhiều bà cụ (là mẹ
của các bạn bè ở địa phương); các cụ tuy có con cái thành đạt nên được
chăm sóc tử tế hơn nhiều cụ bà ngủ gục, ngủ gật trong viện dưỡng lão một
mình, đến cô đơn, đến động lòng, rồi mủi lòng người thấy những hình ảnh
tương lai của mình khi tuổi già đến trên xứ sở này. Những bà cụ được
chăm sóc tử tế, được ở nhà với con cháu, thường có sinh khí hơn, nhưng
hầu hết cũng chỉ toát lên hình ảnh một “bà mẹ quê”. Sự sang cả của bà cụ
đang đi đến gần tôi như đòi hỏi một gia phả quyền quý lâu đời mới có
được, dù cụ rất đơn giản trong trang phục và một tí son môi phớt hờ cho
đỡ tê tái mùa đông.
Nhưng khi cụ mở lời nói với cô con gái đi sau cụ, tôi liền nghĩ đến cô
Nhâm – dù đã lâu không gặp. Tôi liền nghĩ đến chuyện của chính cô ngày
xưa. Theo cô, người Hà nội có giọng nói như cô mới là người Hà nội. Còn
người Hà nội sau này đã lai tạp nhiều từ các tỉnh thành khác, nhưng cứ
nói mình là người Hà nội… không biết xấu hổ.
Có lẽ tôi đang bệnh cúm miên man nên làm chuyện hoang đường. Tôi đến
chào hỏi cụ, “Xin lỗi cụ… Có phải cụ là cô Nhâm ngày xưa ở hãng Air
Blower không?”
Cụ nhìn tôi như quái vật một hồi mới đáp, “Anh là ai… mà biết tôi?”
“Tôi mừng quá, “Thế thì đúng là cô Nhâm rồi! Cô còn nợ cháu một bữa ốc
bươu nấu với chuối xanh và rau tía tô hay lá lốt đấy! Nhưng cô chú về
Cali nên cháu chưa được ăn. Cô nhớ ra cháu chưa?”
Bà cụ cười thật tươi, “À!… Tôi nhớ ra anh rồi, anh P. Thật là thời gian
làm cho người quen kẻ biết cũng chẳng nhận ra nhau. Có đến hai mươi năm
rồi anh nhỉ…”
“Dạ vâng. Cháu thật mừng – được gặp lại cô. Chú Quang của bọn cháu có khoẻ không, thưa cô?”
Cô con gái tiến lên đỡ tay mẹ vì cô Nhâm xúc động khi nghe tôi hỏi đến
chú Quang. Ngần ấy đã đủ cho tôi hiểu chú tôi đã ra người thiên cổ. Có
lẽ không cần nói gì thêm hơn là lời xin lỗi của tôi đã hỏi một câu không
nên hỏi, tôi nói: “Cháu xin lỗi… vì đã quá lâu không được gặp cô chú,
và cũng chẳng có tin tức gì. Cháu chỉ được biết, sau khi cháu nghỉ hãng
thì cô chú cũng nghỉ và dọn về Cali vì anh lớn của cô chú định cư bên
ấy…”
“Đúng đấy anh ạ! Chúng tôi dọn về Cali, được mười năm thì ông nhà tôi
mất vì cholesterol đã làm đứng tim mà chết. Tôi ân hận mãi là trước đó
đã ép ông nhà tôi kiêng ăn. Rồi cũng chỉ được mười năm. Biết thế!…”
“Nhưng nếu cô không kiêng ăn cho chú thì biết đâu ngay khi cô chú còn ở Dallas, chú đã…
“Số phần mỗi người thôi cô ạ! Cô cũng đừng đau buồn mãi…”
Bà cụ như già đi thấy rõ trong khoảnh khắc hoài niệm. Hình như cụ có
nói lý do xuất hiện ở Dallas là sang thăm cô con gái đã lấy chồng và
định cư ở Dallas nhiều năm.
Người đàn bà trẻ không mang dáng dấp quý phái của mẹ mà có vẻ người
nghịch ngầm và ngang ngạnh của chú Quang. Cô nói với tôi, “có dịp, mời
anh tới chơi với gia đình…” gì gì nữa đó. Rồi họ từ từ xa dần ánh mắt
nhìn theo của tôi, sau lời từ giã giữa chợ đời thì đúng hơn chợ thực
phẩm và thuốc tây…
Những chén cơm gạo lứt – rắc tí muối mè của chú Quang ngày xưa hiện về
trong trí não miên man tôi; cả cái bánh pizza tròn vành vạch của bà Mỹ
đen ngày nọ… Không biết chú có chết vì phở tái, (cho xin chén hành trần,
nước béo); nào là bê thui, lẩu dê, tiết canh vịt… mà chúng tôi đã “bù
lỗ” cho chú trong những dịp cô Nhâm bay về Cali thăm con cháu.
Tôi chỉ thấy đã tan biến những ác cảm không tiện nói ra với cô Nhâm
ngày nào khi giọt nước mắt lăn trên má bà cụ Nhâm hôm nay. Câu hỏi để
lòng là sao chú Quang lại thế – ngày xưa, như đã giải bày mà không cần
hỏi nữa; khi người vợ còn lăn giọt vắn giọt dài sau mười năm chồng mất –
ở tuổi đã ngoài tám mươi. Yêu người đàn bà ấy thì ăn đất cũng cam lòng…
Nhưng cái hay của chú Quang là vẫn đi “ăn chui” với đám trẻ để thấy cái
chết không phải là lớn lao gì đối với chú. Sự sống sao cho hài hoà từ
trong nhà ra ngõ mới lớn.
Phan- See more at: http://thoibao.com/2013/11/16/goc-cua-phan-ong-nha-toi-ay-a-2/#sthash.llKzn25v.dpuf
DU SINH VIỆT NAM
Số du học sinh Việt Nam tại Mỹ đứng đầu các nước Đông Nam Á
Việc tầng lớp trung lưu đang nở rộ cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới là một trong các yếu tố thúc đẩy nhiều người Việt lựa chọn du học Mỹ.
Một phúc trình công bố hồi đầu tuần này cho biết số sinh viên Việt Nam
hiện theo học ở Mỹ là 16.098 người trong niên khóa 2012-2013, trong khi
chỉ có gần 900 sinh viên Hoa Kỳ học tập tại Việt Nam.
Con số đó cao hơn 3,4% so với một năm trước và đã đưa Việt Nam trở thành nước đứng hàng thứ 8 trong số các quốc gia có đông sinh viên hiện du học ở Hoa Kỳ.
Phần lớn các du học sinh Việt Nam du học cấp đại học ở Mỹ, chiếm hơn 70% tổng số sinh viên Việt tại Hoa Kỳ. Hơn 17% học ở cấp sau đại học.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear cho biết ông vui mừng nhận thấy Việt Nam tiếp tục đưa một số lượng lớn sinh viên đến Hoa Kỳ để học đại học.
Ông Shear cũng cho rằng ‘các kỹ năng phân tích và tư duy phản biện mà họ phát triển được sẽ giúp Việt Nam hội nhập đầy đủ hơn vào các hoạt động thế giới như là một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng và độc lập’.
Trong một cuộc gặp cộng đồng người Mỹ gốc Việt hồi tháng Tám, người đứng
đầu cơ quan ngoại giao Mỹ ở Hà Nội nói rằng các sinh viên Việt Nam tại
Mỹ ‘sẽ là một tiếng nói quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển
Việt Nam trong tương lai’.
Ông Shear nói: “Sớm hay muộn các sinh viên Việt Nam này sẽ trở về nước. Họ mang theo mình không những các kiến thức đã học được tại Mỹ mà còn mang về các trải nghiệm, các giá trị và họ cũng sẽ mang về những gì đã nghe được từ các bạn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Cùng với thời gian, họ sẽ giúp hình thành nên tương lai của Việt Nam”.
Trong năm 2012-2013, có 819.644 du học sinh nước ngoài học tập ở Mỹ, tức là có thêm 55.000 sinh viên quốc tế so với năm 2011-2012.
Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ và Hàn Quốc.
Số sinh viên Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Mỹ đứng đầu con số sinh viên nước ngoài từ khu vực Đông Nam Á.
Cũng giống như Trung Quốc, việc tầng lớp trung lưu đang nở rộ cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là một trong các yếu tố thúc đẩy nhiều người Việt lựa chọn du học Mỹ.
Theo Bộ Thương mại Mỹ, giáo dục và đào tạo được coi là một trong 10 dịch vụ xuất khẩu hàng đầu của Hoa Kỳ.
Tổng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đóng góp gần 24 tỷ đôla vào nền kinh tế của nước này mỗi năm.
Con số đó cao hơn 3,4% so với một năm trước và đã đưa Việt Nam trở thành nước đứng hàng thứ 8 trong số các quốc gia có đông sinh viên hiện du học ở Hoa Kỳ.
Phần lớn các du học sinh Việt Nam du học cấp đại học ở Mỹ, chiếm hơn 70% tổng số sinh viên Việt tại Hoa Kỳ. Hơn 17% học ở cấp sau đại học.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear cho biết ông vui mừng nhận thấy Việt Nam tiếp tục đưa một số lượng lớn sinh viên đến Hoa Kỳ để học đại học.
Ông Shear cũng cho rằng ‘các kỹ năng phân tích và tư duy phản biện mà họ phát triển được sẽ giúp Việt Nam hội nhập đầy đủ hơn vào các hoạt động thế giới như là một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng và độc lập’.
Sớm hay muộn các sinh viên Việt Nam này sẽ trở về nước. Họ mang theo
mình không những các kiến thức đã học được tại Mỹ mà còn mang về các
trải nghiệm, các giá trị và họ cũng sẽ mang về những gì đã nghe được từ
các bạn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Cùng với thời gian, họ sẽ
giúp hình thành nên tương lai của Việt Nam.
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear nói.
Ông Shear nói: “Sớm hay muộn các sinh viên Việt Nam này sẽ trở về nước. Họ mang theo mình không những các kiến thức đã học được tại Mỹ mà còn mang về các trải nghiệm, các giá trị và họ cũng sẽ mang về những gì đã nghe được từ các bạn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Cùng với thời gian, họ sẽ giúp hình thành nên tương lai của Việt Nam”.
Trong năm 2012-2013, có 819.644 du học sinh nước ngoài học tập ở Mỹ, tức là có thêm 55.000 sinh viên quốc tế so với năm 2011-2012.
Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ và Hàn Quốc.
Số sinh viên Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Mỹ đứng đầu con số sinh viên nước ngoài từ khu vực Đông Nam Á.
Cũng giống như Trung Quốc, việc tầng lớp trung lưu đang nở rộ cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là một trong các yếu tố thúc đẩy nhiều người Việt lựa chọn du học Mỹ.
Theo Bộ Thương mại Mỹ, giáo dục và đào tạo được coi là một trong 10 dịch vụ xuất khẩu hàng đầu của Hoa Kỳ.
Tổng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đóng góp gần 24 tỷ đôla vào nền kinh tế của nước này mỗi năm.
Theo phúc trình của Viện Giáo dục Quốc tế của Mỹ (IIE), giáo dục quốc tế
tạo ra tác động kinh tế và xã hội tích cực cho các cộng đồng ở Hoa Kỳ
và trên khắp thế giới.
Khi mà so sánh dân chủ và tự do, những quyền hạn của con người ở Việt
Nam và nước Mỹ thì mình cần phải nhìn trong cái hoàn cảnh và các điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Tôi thấy rằng những năm vừa qua, Việt Nam cũng
có nhiều sự dân chủ hơn, tất nhiên vẫn còn có nhiều cái làm cho tôi cảm
thấy rất là bức xúc và thất vọng, nhất là các vấn đề mà những nước đang
phát triển gặp phải như tình trạng tham nhũng và sự thờ ơ của chính
phủ, đặc biệt là về giáo dục.
Du học sinh Ngọc Diệp nói.
Chị Ngọc Diệp, một nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Mỹ, cho rằng khi trở về
nước, việc so sánh giữa hai quốc gia là không thể tránh khỏi, nhưng cũng
phải cân nhắc các điều kiện của Việt Nam.
Chị Diệp nói: “Khi mà so sánh dân chủ và tự do, những quyền hạn của con
người ở Việt Nam và nước Mỹ thì mình cần phải nhìn trong cái hoàn cảnh
và các điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tôi thấy rằng những năm vừa qua,
Việt Nam cũng có nhiều sự dân chủ hơn, tất nhiên vẫn còn có nhiều cái
làm cho tôi cảm thấy rất là bức xúc và thất vọng, nhất là các vấn đề mà
những nước đang phát triển gặp phải như tình trạng tham nhũng và sự thờ ơ
của chính phủ, đặc biệt là về giáo dục”.
Tiến sĩ Lê Sĩ Long, Giám đốc Sáng kiến Quốc tế về Chương trình nghiên
cứu Toàn cầu của Đại học Houston, từng nói với VOA Việt Ngữ rằng Việt
Nam dường như đang tìm cách ‘cải tạo’ các cá nhân từng đi du học và có
tư tưởng ủng hộ thay đổi hệ thống chính trị.
Ông Long cho rằng, điều đó dẫn tới các hệ quả như “chảy máu chất xám và cản trở tiến trình dân chủ hóa” Việt Nam.
Theo IIE, hồi cuối những năm 90, mới chỉ có hơn 1.500 sinh viên Việt đi du học tại Mỹ và tăng trưởng đều đặn kể từ đó.
Việt Nam lọt vào top 20 quốc gia có nhiều du học sinh nhất ở Mỹ trong niên khóa 2006-2007 và lọt vào top 10 kể từ năm 2010-2011.
Du học sinh quốc tế ở Mỹ tăng cao kỷ lục
CỠ CHỮ
11.11.2013
Viện Giáo dục Quốc tế, IIE, hôm 11/11 vừa công bố báo cáo hàng năm về
số lượng du học sinh quốc tế tại các trường đại học của Mỹ, cho thấy con
số này đã tăng lên mức cao nhất từ trước đến giờ.
Báo cáo Open Doors về Trao đổi Giáo dục Quốc tế năm 2013 cho biết có 819.644 du học sinh ở Mỹ trong năm học 2012-2013. Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hàn Quốc, Ả-Rập Xê-út và Canada.
Trung Quốc dẫn đầu với khoảng 235,000 du học sinh, tăng 21% so với năm ngoái. Tầng lớp trung lưu đang nở rộ, cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là những nhân tố thúc đẩy nhiều người Trung Quốc lựa chọn du học Mỹ.
Việt Nam xếp thứ 8 với tổng số 16.098 sinh viên du học ở Mỹ, tăng 3,4% so với năm trước, với 70% theo học bậc cử nhân.
Kể từ năm học 1998-1999, số lượng du học sinh Việt Nam tới Mỹ đã tăng trưởng đáng kể, nhiều năm ở mức 2 chữ số. Việt Nam có mặt trong nhóm 20 nước có nhiều du học sinh ở Mỹ nhất từ năm 2006/07 và lọt vào nhóm 10 nước kể từ năm 2010/11.
Báo cáo cho biết du học sinh ở Mỹ tập trung nhiều ở những ngành như kinh doanh và khoa học. Gần phân nửa số du học sinh Trung Quốc theo học ngành kinh doanh hoặc kỹ thuật. Du học sinh Ấn Ðộ thì nghiêng mạnh về những ngành kỹ thuật, toán học, và khoa học máy tính.
Những điểm đến hàng đầu của sinh viên nước ngoài bao gồm Ðại học Nam California, Ðại học Illinois Urbana-Champaign, Ðại học Purdue, Ðại học New York, và Ðại học Columbia.
Du học sinh nước ngoài là đối tượng tuyển sinh ráo riết của các trường đại học Mỹ trong bối cảnh nguồn trợ cấp công bị thu hẹp, học phí chững lại, và số học sinh năm cuối trung học Mỹ sụt giảm. Theo IIE và Bộ Ngoại giao Mỹ, học sinh quốc tế hàng năm đóng góp 24 tỉ đôla vào nền kinh tế Mỹ và 2/3 số học sinh tự trang trải hay có gia đình giúp chi trả học phí.
Báo cáo của IIE cũng ghi nhận số học sinh Mỹ du học ở những nước khác tăng cao kỷ lục. Tuy nhiên con số này ít hơn nhiều so với số du học sinh ở Mỹ, và du học sinh Mỹ ở nước ngoài thường có thời gian học tập ít hơn so với du học sinh quốc tế ở Mỹ.
Nguồn: IIE, AP, Wall Street Journal
http://www.voatiengviet.com/content/du-hoc-sinh-quoc-te-o-my-tang-cao-ky-luc/1788166.htmlBáo cáo Open Doors về Trao đổi Giáo dục Quốc tế năm 2013 cho biết có 819.644 du học sinh ở Mỹ trong năm học 2012-2013. Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hàn Quốc, Ả-Rập Xê-út và Canada.
Trung Quốc dẫn đầu với khoảng 235,000 du học sinh, tăng 21% so với năm ngoái. Tầng lớp trung lưu đang nở rộ, cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là những nhân tố thúc đẩy nhiều người Trung Quốc lựa chọn du học Mỹ.
Việt Nam xếp thứ 8 với tổng số 16.098 sinh viên du học ở Mỹ, tăng 3,4% so với năm trước, với 70% theo học bậc cử nhân.
Kể từ năm học 1998-1999, số lượng du học sinh Việt Nam tới Mỹ đã tăng trưởng đáng kể, nhiều năm ở mức 2 chữ số. Việt Nam có mặt trong nhóm 20 nước có nhiều du học sinh ở Mỹ nhất từ năm 2006/07 và lọt vào nhóm 10 nước kể từ năm 2010/11.
Báo cáo cho biết du học sinh ở Mỹ tập trung nhiều ở những ngành như kinh doanh và khoa học. Gần phân nửa số du học sinh Trung Quốc theo học ngành kinh doanh hoặc kỹ thuật. Du học sinh Ấn Ðộ thì nghiêng mạnh về những ngành kỹ thuật, toán học, và khoa học máy tính.
Những điểm đến hàng đầu của sinh viên nước ngoài bao gồm Ðại học Nam California, Ðại học Illinois Urbana-Champaign, Ðại học Purdue, Ðại học New York, và Ðại học Columbia.
Du học sinh nước ngoài là đối tượng tuyển sinh ráo riết của các trường đại học Mỹ trong bối cảnh nguồn trợ cấp công bị thu hẹp, học phí chững lại, và số học sinh năm cuối trung học Mỹ sụt giảm. Theo IIE và Bộ Ngoại giao Mỹ, học sinh quốc tế hàng năm đóng góp 24 tỉ đôla vào nền kinh tế Mỹ và 2/3 số học sinh tự trang trải hay có gia đình giúp chi trả học phí.
Báo cáo của IIE cũng ghi nhận số học sinh Mỹ du học ở những nước khác tăng cao kỷ lục. Tuy nhiên con số này ít hơn nhiều so với số du học sinh ở Mỹ, và du học sinh Mỹ ở nước ngoài thường có thời gian học tập ít hơn so với du học sinh quốc tế ở Mỹ.
Nguồn: IIE, AP, Wall Street Journal
Địa Danh Sài Gòn được các em du sinh dùng lại trong 1 khúc phim ngắn.
http://youtu.be/mfW8UmP3qc
Bài đọc suy gẫm: Du Sinh, Lao Động, và Lấy Chồng Ngoại của tác giả Lâm Văn Bé. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Vẫn biết Việt Nam hôm nay có quá nhiều chuyện kỳ dị mà nói mãi không hết, nhưng hai mẫu tin tháng bảy nầy có tầm ảnh hưởng tác hại đến uy tín các cộng đồng người Việt hải ngoại, đó là hiện tượng du học sinh và người lao động xuất khẩu Việt Nam.
Trước tiên là đoạn vidéo dài 3 phút phổ biến trên YouTube quay lại hình ảnh và đối đáp của 5 sinh viên tự nhận là du sinh tại Nhật đã dùng Iphone4 và Nokia N95 để tranh nhau đập nước đá trong một bửa tiệc. Những tiếng cười phụ họa, tiếng khích động đã phơi bày một cảnh tượng lố bịch, vô ý thức của đám sinh viên con ông cháu cha và tư bản đỏ đang du hí trên đất người với nhãn hiệu du sinh. Cái vidéo đã gây phẫn nộ trong giới truyền thông và dân chúng nước Nhật, vốn là quốc gia nổi tiếng về điện tử và là một dân tộc có tinh thần tự trọng cao, trong khi đó, trên các mạng điện tử ở Việt Nam, có người thản nhiên bình luận là «họ muốn làm gì thì làm, là việc riêng của họ, miễn là không ảnh hưởng đến ai». Đó là cái triết lý sống của chế độ cộng sản hôm nay, làm xấu mà không biết xấu hổ.
Chuyện thứ hai là bài viết của tiến sĩ Daniel Silverstone, chuyên viên về ngành tội phạm ở đại học London Metropolitan gởi cho đài BBC ngày 26/7/2011 có tựa là: Nạn cần sa và người Việt ở Anh.
Sau đây là vài trích đoạn bài viết: «… Trong 10 năm qua, có khi hàng ngàn người Việt di dân lao động bất hợp pháp đến Anh từ Đông Âu (nhiều nhất từ Tiệp khắc, Đông Đức) và cả từ Việt Nam dưới dạng du khách rồi ở lại, chủ yếu là từ Hải Phòng, nhất là từ hai quận Thủy Nguyên và Kiến Thủy. Chi phí hành trình do những tổ chức đưa người lậu từ VN sang Anh thay đổi tùy theo thời điểm, thường từ 15,000 đến 17,000 bảng Anh. Chuyến đi có thể bằng giấy tờ giả mạo, xuất ngoại bằng phi cơ đến thẳng nước Anh, hoặc đến một quốc gia Đông Âu rồi sau đó dùng đường bộ nhập cảnh bất hợp pháp vào nước Anh. Những người mới đến được cộng đồng gọi là người rơm. Họ làm tất cả mọi việc bất hợp pháp, từ thợ điện câu trộm đường dây vào nhà đến việc sản xuất cần sa, kể cả việc sử dụng thiếu niên như nô lệ trẻ con có khi chỉ 13 tuổi. Những người làm vườn nầy được trả lương hàng tuần hay chia lợi nhuận sau khi thu hoạch. Mùa thu họạch đầu tiên xem như để trang trải các chi phí đầu tư, các mùa sau là tiền lời, mỗi mùa thường 8 tuần.
Các người chủ mưu dùng lợi nhuận thu được đầu tư vào các dịch vụ khác
nhau và nhiều nơi khác nhau như lập tiệm ăn, tiệm móng tay hay gởi tiền
về VN qua các ngỏ chính thức và phi pháp. Trong 10 năm qua, nhiều tội
phạm giàu có đã thay đổi từ kẻ làm vườn trở thành chủ xí nghiệp. Họ lại
bắt đầu một quá trình nhập cư mới bằng cách đưa gia đình, bạn bè vào làm
việc trong các cơ sở kinh doanh của họ… Căn cứ theo báo chí, tội phạm
người Việt hiện nay đã nở rộ và họ đã gia tăng không ngừng việc trồng
cần sa đến nổi Vương Quốc Anh hiện nay nổi tiếng là quốc gia sản xuất
cần sa ròng …»
Từ hai bản tin trên, chúng tôi thử nhận định vài nét đặc trưng về diện mạo của du học sinh và lao động xuất khẩu Việt Nam, hai đặc sản của chế độ cộng sản mà báo chí thế giới thường xuyên đề cập đến những điều tệ hại, làm xấu hổ người Việt trong nước, nhất là các cộng đồng người Việt tỵ nạn vốn được các quốc gia định cư nể trọng.
Từ hai bản tin trên, chúng tôi thử nhận định vài nét đặc trưng về diện mạo của du học sinh và lao động xuất khẩu Việt Nam, hai đặc sản của chế độ cộng sản mà báo chí thế giới thường xuyên đề cập đến những điều tệ hại, làm xấu hổ người Việt trong nước, nhất là các cộng đồng người Việt tỵ nạn vốn được các quốc gia định cư nể trọng.
Phần I: Du học
sinh
1.1. Những quốc gia được sinh viên Việt Nam ưa thích xuất ngoại du học
Tháng 3 năm 2009, Viện Giáo Dục Quốc Tế (IIE=Institute of International Education), một cơ quan giáo dục phi lợi nhuận, đã làm một cuộc khảo sát trực tuyến trên hơn 700 học sinh, sinh viên ở VN để tìm hiểu thái độ và nhận thức của họ về các quốc gia mà họ dự định xuất ngoại du học. Số người được hỏi gồm 55% ở vùng TP Hồ Chí Minh, 37% ở vùng Hà Nội và 8% ở vùng Đà Nẵng.
Những câu hỏi về những lý do đi du học như: nâng cao kiến thức và khả năng
ngôn ngữ (đặc biệt tiếng Anh), đạt được cấp bằng nước ngoài để hổ trợ cho việc
tìm kiếm việc làm, học tập được kinh nghiệm kỹ thuật và văn hóa nước ngoài. Về
những trở ngại dự phóng cho việc du học, những câu hỏi gồm có: chi phí, tìm kiếm
thông tin chính xác nơi du học, xin visa, ngôn ngữ và văn hóa khác biệt, khoảng
cách từ gia đình đến nơi du học.Từ những câu hỏi trên, kết quả tổng quát như sau
(theo thứ tự)
Nước xin đi
|
Lựa chọn 1
|
Lựa chọn 2
|
Hoa Kỳ | 81.8 % | 10.4% |
Úc | 7.7% | 30.7% |
Anh | 5% | 20.8% |
Canada | 1.1% | 7.4% |
Singapore | 0.9% | 13.5% |
Pháp | 0.7% | 2.4% |
Thụy Điển | 0.7% | 1.1% |
Hòa Lan | 0.7% | 0.9% |
Nhật Bản | 0.4% | 3.9% |
Thụy Sĩ | 0.4% | 0.6% |
Trong lựa chọn 1, Hoa Kỳ là niềm mơ ước của hơn
80% học sinh, sinh viên, kế đó là Úc và Anh, tất cả đều là quốc gia Anh thoại.
Nếu không đạt được ý muốn như trên, chọn lựa 2 của họ là Úc, kế đến là Anh và
Singapore. Điểm lưu ý là trong chọn lựa 2, đa số sinh viên miền Bắc chọn Anh
quốc và miền Nam chọn Canada.
Khi đề cập đến ấn tượng vể những quốc gia được ưa thích liên quan đến phẩm
chất giáo dục cao, trình độ khoa học kỹ thuật tân tiến, kết quả theo thứ tự là
Hoa Kỳ (68%), kế đến là Úc, Anh, Singapore và Pháp. Về những ấn tượng bất lợi,
Hoa Kỳ bị xem là quốc gia nguy hiểm về bạo lực xã hội, trong khi Anh, Pháp là
không thân thiện (ý nói kỳ thị) với nước ngoài.
Từ các yếu tố trên, bảng xếp hạng sau cùng về việc học sinh, sinh viên Việt
Nam chọn nơi để du học theo thứ tự như sau: Úc, Singapore, Hoa Kỳ, Pháp, Anh.
(Attitudes and perceptions of prospective international students from Vietnam ,
Feb. 2010).
1.2. Có bao nhiêu du học sinh Việt
Nam
Thật khó mà có một con số thống kê chính xác, bởi lẽ không cơ quan thẩm quyền nào của Việt Nam công bố một thống kê giống nhau. Các thống kê VN thường dựa vào các tin tức của các cơ quan giáo dục quốc tế, các tòa lãnh sự các nước rồi vẽ vời thêm. «Bộ Giáo Dục và Đào Tạo VN cho biết có độ 100,000 học sinh và sinh viên du học ở hải ngoại, trong đó 90% là du học tự túc và 10% du học với học bổng của nhà cầm quyền VN và các nước. Bộ Giáo Dục chỉ quản trị số sinh viên do Bộ cấp phát học bổng độ 5,000 người. Chúng tôi ước định thống kê như trên căn cứ vào số visas do các cơ quan ngoại giao các nước cấp phát và tin tức của các cơ quan ngoại giao VN ở các nước, các hiệp hội sinh viên quốc tế, nhưng phương pháp nầy thực sự không chính xác và chúng tôi đang nghiên cứu một cơ chế tập trung tất cả thông tin về người du học… »(Nam Phương. Les études à l’étranger sont en vogue, đăng trong «Le courrier du Vietnam» ngày 14/8/2011).
Thật khó mà có một con số thống kê chính xác, bởi lẽ không cơ quan thẩm quyền nào của Việt Nam công bố một thống kê giống nhau. Các thống kê VN thường dựa vào các tin tức của các cơ quan giáo dục quốc tế, các tòa lãnh sự các nước rồi vẽ vời thêm. «Bộ Giáo Dục và Đào Tạo VN cho biết có độ 100,000 học sinh và sinh viên du học ở hải ngoại, trong đó 90% là du học tự túc và 10% du học với học bổng của nhà cầm quyền VN và các nước. Bộ Giáo Dục chỉ quản trị số sinh viên do Bộ cấp phát học bổng độ 5,000 người. Chúng tôi ước định thống kê như trên căn cứ vào số visas do các cơ quan ngoại giao các nước cấp phát và tin tức của các cơ quan ngoại giao VN ở các nước, các hiệp hội sinh viên quốc tế, nhưng phương pháp nầy thực sự không chính xác và chúng tôi đang nghiên cứu một cơ chế tập trung tất cả thông tin về người du học… »(Nam Phương. Les études à l’étranger sont en vogue, đăng trong «Le courrier du Vietnam» ngày 14/8/2011).
- Úc. Úc là quốc gia được học sinh, sinh viên Việt Nam ưa thích hàng đầu để xuất ngoại. Giá học phí và sinh hoạt không cao so với Bắc Mỹ và Tây Âu, điều nầy thích hợp với các sinh viên tự túc, các trường học đủ loại thích hợp với các trình độ kiến thức và sinh ngữ, thường sinh viên bậc trung và kém vẫn có thể được chấp nhận sau các lớp dự bị. Úc lại là quốc gia tương đối gần Việt Nam, thích hợp cho các du sinh giàu đi về VN vào những ngày lễ, và nhất là tiện lợi cho các «đại gia», các tay tham nhũng thường xuyên chuyển tiền ăn cướp và lường gạt trong những chuyến đi thăm con em.
Là quốc gia trù phú nhưng thưa dân, chánh sách di dân rộng rãi của nhà cầm quyền Úc cho phép thân nhân những sinh viên hậu đại học có thể đi theo và làm việc trên đất Úc, đó là cửa ngỏ di cư hợp pháp cho những «tu nghiệp sinh» thuộc giai cấp lãnh đạo. Ngoài ra, trong số du học sinh đến Úc còn có rất nhiều học sinh trung học và học nghề, họ có thể xin định cư ở Úc sau khi tốt nghiệp nếu làm việc trong số 181 nghề mà nước Úc đang cần. Để thu hút sinh viên VN, nước Úc đã cấp nhiều học bổng cho du sinh VN (4,000 trong năm 2010). Đó là những lý do chính yếu khiến Úc là đất hứa cho du học sinh Việt Nam. Theo Tổ chức Giáo Dục Quốc Tế Úc (AEI =Australian Education International) trực thuộc nhà cầm quyền Úc, số du sinh Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2010, số du học sinh Việt Nam tại Úc là 25,788 người, tăng 8,8% so với năm 2009, đứng hạng 4 trong số du học sinh các nước tại Úc.
- Hoa Kỳ. Theo Viện Giáo Dục Quốc Tế IIE với sự hổ trợ của US Department of State’s Bureau of Educational Affairs, trong báo cáo Open Doors 2010 thì năm 2000, tổng số du sinh tại Hoa kỳ là 2,022 người, năm 2009/10 tăng lên đến 13,122 người. Như vậy, trong vòng 10 năm, số du sinh VN tại Hoa Kỳ đã tăng gấp 6 lần và trong số sinh viên năm 2009/10 có 18,7% là du sinh cấp cao học và tiến sĩ mà đa số được các học bổng của nhà cầm quyền Hoa Kỳ (Vietnam Education Foundation, Ford Foundation, Fulbright…) hay của nhà cầm quyền VN trong các chương trình đào tạo hậu đại học.
Việc gia tăng sinh viên VN tại Mỹ, không phải chỉ phát xuất từ sự mơ ước của
người Việt mà còn từ sự toan tính của chính người Mỹ, vừa để thu hút chất xám
của các phần tử ưu tú Việt Nam, vừa để thu góp tài sản tẩu tán của tập đoàn đảng
viên tham những. Michael Michalak, đại sứ Mỹ tại Hànội, trong điện thư gởi về Bộ
ngoại giao ngày 24/2/2010 đã viết: «… Sứ quán tích cực tìm cách áp dụng các
chuẩn mực giáo dục của Hoa Kỳ trong các đại học VN để gây ảnh hưởng đến thế hệ
lãnh đạo kế tiếp, gia tăng số người tốt nghiệp có kỹ năng để làm việc cho các
công ty Mỹ ở VN và để hiện đại hóa Bộ Giáo Dục-Đào Tạo bị nhiều người xem là hệ
thống giáo dục đổ vỡ, Quỹ Giáo Dục VN (Vietnam Education Foundation) đến năm
2010 đã đưa 306 người sang học ở 70 đại học Mỹ đa số là học tiến sĩ khoa học… »
(Wikileads. Giáo Dục Mỹ ở VN,bbc.co.uk ngày
28/8/2011)
Tuy số lượng sinh viên gia tăng, nhưng vì khả năng sinh ngữ cũng như kiến
thức tổng quát kém, đa số sinh viên chọn các trường đại học cộng đồng (2 năm),
dễ học, nhanh chóng về nước có cấp bằng Mỹ quốc, hành trang cho việc thăng tiến
dễ dàng trong một quốc gia chống Mỹ nhưng «háo» Mỹ. Hơn phân nửa số du sinh ở Mỹ
tập trung tại 3 tiểu bang Texas, Washington, California. (Vietnamese market for
educational and training / US Commercial Service. Vietnam , March 2010),
Điều cần ghi nhận là thống kê trên cho biết số người ghi danh nhập học chớ
không cho biết số người tốt nghiệp, bởi lẽ từ năm 1995 đến năm 2010, Hoa Kỳ đã
cấp gần 300,000 visas cho người Việt không định cư trong đó có khoảng 40,000
visas cấp cho thanh thiếu niên du học. Trong số visa không định cư có bao nhiêu
là công nhân xuất khẩu, du khách ở lại bất hợp pháp, và trong số visa du học có
bao nhiêu là du học trá hình để du hí sau khi đóng tiền ghi danh nhập học, không
kể số du sinh bỏ học vì học không nổi hay bị đuổi vì hạnh kiểm.
-
Pháp. Tuy số sinh viên du học tại Pháp ít hơn so với Hoa Kỳ và Úc, và
tuy sự quan trọng của tiếng Pháp trong nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay
chỉ còn ngang hàng với tiếng Đại Hàn, tiếng Nhật, và cấp bằng Pháp ít
còn được trọng vọng trong chế độ cộng sản, du học ở Pháp vẫn là ước vọng
của nhiều sinh viên có khả năng bởi lẽ học tập ở Pháp đòi hỏi nhiều thử
thách, không phải chỉ sinh ngữ mà còn về kiến thức. Đa số du sinh đến
Pháp thuộc bậc hậu đại học (Cao học, Tiến Sĩ) hay tu nghiệp ngắn hạn.
Năm 2009/10, Pháp đã tiếp nhận 6,295 du học sinh trong đó có 5,160 (82%)
ghi danh học đại học, đứng hạng 9 trong số các du học sinh các nước tại
Pháp. Tổng số sinh viên VN taị Pháp như sau:
Bằng cấp
|
2006-07
|
2007-08
|
2008-09
|
2009-10
|
Cử Nhân (L) | 2,355 | 2,239 | 2,267 | 2,295 |
Cao học (M) | 1,655 | 1,632 | 2,083 | 2,078 |
Tiến sĩ (D) | 553 | 627 | 681 | 787 |
Tổng số | 4,563 | 4,498 | 5,031 | 5,160 |
Trong niên học 2009-10, số sinh viên các ngành
học và các cấp như sau:
Bằng cấp
|
Luật, chính trị
học
|
Kinh tế, xã hội
học
|
Văn chương, nhân
văn
|
Khoa
học
|
Y, Nha,
Dược
|
Cử nhân | 43 | 1,436 | 304 | 466 | 46 |
Cao học | 121 | 928 | 208 | 616 | 205 |
Tiến sĩ | 40 | 73 | 98 | 556 | 20 |
Tổng số | 204 | 2,437 | 610 | 1,638 | 271 |
- Anh và Canada. Vương quốc Anh đã thu nhận sinh viên VN trước khi Cộng Sản VN và Mỹ thiết lập bang giao. Số sinh viên tăng nhiều sau chánh sách mở cửa trong 2 thập niên qua nhưng từ đầu năm 2010, Anh quốc đã siết chặt hơn luật du học và di dân nên số du học sinh đến Anh giảm bớt, số du học sinh và di dân bất hợp pháp dưới dạng du học bị trục xuất càng lúc càng nhiều. Có khoảng 5,000 du học sinh VN tại Anh tập trung phần lớn ở khu Hackney, Peckham, Southward, Brixton. Trong số các quốc gia Tây Phương,
Canada là quốc gia có ít nhất du học sinh VN. Chánh sách du học khe khắc, giá
sinh hoạt cao và tổ chức trường học của Canada không thuận lợi cho các du học
sinh có học lực trung bình, Canada không có những giáo trình riêng biệt dành cho
sinh viên ngoại quốc, du học sinh không thể đến các campus Canada để du hí hay
tìm chồng, đó là những yếu tố chính yếu khiến Canada không có hấp lực với sinh
viên VN. Năm 2008, Canada tiếp nhận chỉ có 586
du học sinh VN. Gần đây, nhà cầm quyền áp dụng vài biện pháp cởi mở hơn như cho
phụ huynh đến thăm con em, cho sinh viên tốt nghiệp có thể ở lại làm việc một só
ngành nghề để hy vọng số du học sinh đạt được 1000. Năm 2008, số du sinh
VN ở các tỉnh bang của Canada như sau: Ontario: 232, Colombie-Britannique: 132,
Alberta: 105, Québec: 79, Manitoba: 19, Saskatchewan: 9, Miền Đông Bắc: 10. (Le
marché de l’éducation internationale du VN – Octobre 2009/ Affaires étrangères
et commerce international Canada).
- Trung cộng và các quốc gia khác ở châu Á. Trung cộng là thị trường cho sinh viên muốn xuất ngoại nhưng có nguồn tài chánh giới hạn bởi lẽ học phí và chi phí chỉ rất thấp, chỉ bằng ¼ so với Anh Mỹ (khoảng 7,000$ một năm), nhưng thời gian học tập để có bằng cử nhân kéo dài 4-5 năm vì phải trải qua ít nhất một năm học tiếng Trung cộng. Đa số du học sinh đến Trung cộng học thương mại, canh nông, y học cổ truyền, và kỹ thuật chế biến. Có độ 12,500 sinh viên VN tại Trung cộng, đứng hạng 4 trong số các du sinh tại Trung cộng (sau Hàn quốc, Nhựt, Hoa Kỳ) và 500 du sinh ở Đài Loan, Singapore là nơi gần nhất VN nhưng có chương trình dạy tiếng Anh nên Singapore là thị trường tốt nhất cho du sinh nghèo vì chi phí ít, và cho du sinh giàu để đến ăn chơi, cuối tuần về VN mà vẫn có «bằng ngoại». Năm 2010, có độ 7,000 du sinh VN ở Singapore.
Chuyện du học ở VN hiện đang lên cơn sốt nên đi du học ở đâu cũng được miễn
là có nhãn hiệu du học sinh để nở mặt nở mày với hàng họ và dễ làm ăn. Hàn Quốc
đã có đến 1,900 sinh viên VN trong làn sóng phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc. Ấn độ,
Phi luật Tân, Mả Lai Á, Thái Lan, thậm chí Miên và Lào cũng mở cửa thị trường du
học VN bằng cách cấp học bổng để khai thác thị trường béo bở nầy. Duy chỉ có
Nhật Bản, mặc dù là quốc gia hậu kỹ nghệ nhưng ít sinh viên VN thích đến du học
vì đại học Nhật chỉ dạy bằng tiếng Nhật và kỹ luật trường học nghiêm minh. Theo
Asahi, cơ quan giáo dục quốc tế Nhật, năm 2010, Nhật đón nhận 3,597 sinh viên
Việt Nam.
- Các quốc gia khác ở Âu châu ngoài Anh và Pháp. Du học ở Liên Sô và các
quốc gia Đông Âu đã sụt giảm sau khi Liên Sô sụp đổ và sau khi VN đã
bình thường hóa ngoại giao với Hoa Kỳ. Tổng số sinh viên VN ở Nga, Tiệp
khắc, Slovaquie, Roumanie độ 6,000.Tại các quốc gia Bắc Âu (Na Uy, Thụy
Điển, Đan Mạch, Hòa Lan) Thụy Sĩ, Đức số sinh viên VN vài trăm tại mỗi
nước.Tính chung, tổng số du sinh VN tại hơn 40 quốc gia trên thế giới vào năm 2009 độ 90,000 người.
1.3. Diện mạo của du sinh Việt Nam
Du học sinh Việt Nam được huấn luyên tại
Đức.
Tùy theo gia cảnh, mục tiêu và cung cách, du học sinh Việt Nam có thể nhận diện qua 3 loại : du sinh du học, du sinh du hí và du sinh địch vận.
- Du sinh du học
Đó là những du học sinh có khả năng, có tư cách, muốn tìm học những kiến thức về khoa học kỹ thuật và văn hóa ở xứ người để cải thiện đời sống kinh tế cá nhân và vận mệnh đất nước. Đa số họ là sinh viên tự túc, xuất thân từ những gia đình khá giả hay trung lưu, nhưng không có quyền thế. Cha mẹ họ phải hy sinh cho họ để mong họ có một tương lai tươi sáng hơn và nếu có thể được, thoát khỏi cái xã hội mafia cộng sản.
Tại đất người, ngoài những giờ chuyên cần học tập, đôi khi họ phải đi làm lao động thêm để phụ vào số tiền cấp dưỡng của cha mẹ chắt chiu gởi nuôi họ. Sau khi tốt nghiệp, họ trở về mang theo kiến thức học tập ở xứ người để phục vụ đất nước, nhưng nếu cha mẹ họ không có liên hệ với quyền lực, số phần họ cũng chẳng mấy gì khả quan. Một số khác tìm cách ở lại trên đất nước mà họ đã du học để lập nghiệp mà theo ước đoán, số du học sinh không hồi hương nhiều hơn số du học sinh hồi hương.
- Du sinh du hí
Đó là những du sinh con ông cháu cha, mà trong nước gọi là đám 4C (con cháu các cụ) và con em các tư bản đỏ, làm giàu nhờ làm ăn với bạo quyền cộng sản. Đa số đám du sinh nầy là những học sinh dốt về kiến thức lẫn sinh ngữ, lêu lỏng, thiếu tư cách, xuất ngoại bằng văn bằng giả hay thế lực của ông cha, cốt ra nước ngoài để du hí và có chứng chỉ ghi danh nhập học tại đại học nước ngoài để ăn trên ngồi trước khi trở về nước. Tại nước ngoài, họ là những phần tử bất hảo, vung vít tiền bạc để ăn chơi, có tác phong bất xứng, tạo ác cảm cho người dân sở tại. Họ «xuất khẩu» những thói hư tật xấu của ông cha như ăn cắp trong siêu thị, lường gạt khi đi xe bus (dùng thẻ cũ), thô tục trong cung cách xã giao (không xếp hàng, không nhường chỗ ưu tiên cho người già, người phế tật, chửi thề, nới năng ồn ào trước đám đông… ), ăn mặc trang sức lố bịch, tiêu xài theo lối vung tiền qua cửa sổ để chứng tỏ giàu sang (đơn vị tiền tệ của họ là một «giấy» tức tờ giấy 100 dollars).
Thái độ xấc láo của họ nhiều khi tạo nên những cuộc xung đột đẫm máu với các băng đảng, ngay cả đối với những công dân bình thường cũng «xốn mắt» trước tác phong mất dạy của đám sinh viên nầy. Ngoài ra, đám du học sinh nầy còn là bình phong để cha mẹ họ thuộc giai cấp lãnh đạo cộng sản tẩu tán tài sản một cách hợp pháp ra nước ngoài mỗi lần đi thăm con em, mà những chuyến đi đi về về như đi chợ. Thông thường, sinh viên du học chỉ ở cấp đại học, nhưng với những tay tham nhũng và tư bản đỏ, họ đưa con ra nước ngoài ngay từ cấp trung học, có khi từ tiểu học (như ở Canada) dưới dạng du học sinh và họ mua nhà đất cho con em họ ở, chuẩn bị cho một cuộc định cư cư về sau. Bảng thống kê sau đây cho thấy tỷ lệ số du sinh học trung học, học trường dạy nghề và học Anh ngữ chiếm hơn phân nửa trong tổng số du sinh Việt Nam.
Quốc gia
|
Đại học
|
Trung học
|
Học Anh ngữ
|
Học nghề
|
Hoa Kỳ | 68% | 22% | 6% | 4% |
Anh | 43% | 34% | 20% | 3% |
Úc | 42% | 31% | 16% | 11% |
Canada* | 11% | 60% | 27% | 2% |
*Chú thích về Canada: trong 60% học sinh Trung học có 21% học CEGEP và 3% học cấp tiểu học. (nguồn: Le marché de l’éducation internationale du VN).
Ngoài việc «trồng» người dưới dạng gởi con em du học, những tư bản đỏ và bọn
tham nhũng còn tìm cách làm sui với các gia đình ở ngoại quốc để rửa tiền mà họ
đã cướp giựt ở VN (một trong những sui gia nổi tiếng là Thủ Tướng cộng sản
Nguyễn Tấn Dũng và «tên ngụy» Nguyễn Bang). Họ chỉ cần áp dụng phương pháp cổ
điển của mafia. Gia đình họ ở nước ngoài thành lập các công ty ở VN, tiền vốn
không từ nước ngoài đưa vào mà từ tiền của các tay tham nhũng trong nước bỏ ra
đầu tư. Họ khai gian thương vụ, thổi phồng lợi nhuận khổng lồ để chuyển ngân hợp
pháp ra các ngân hàng nước ngoài qua các thương vụ.
Khi cần ra ngoại quốc để trốn, để định cư, thì dâu rể, con cháu họ sẽ đứng ra bảo lảnh họ dưới dạng đoàn tụ gia đình hay họ di dân dưới dạng kinh doanh. Những cuộc hôn nhân nầy lại còn có tác dụng thêm bạn bớt thù trong cộng đồng người Việt di tản, tạo ấn tượng tốt đẹp cho dân chúng và nhà cầm quyền các quốc gia có người Việt di tản về chính sách đoàn kết, cởi mở của chế độ cộng sản đối với kẻ thù khi xưa. Tính lưu manh, qũy quyệt của cộng sản quả là siêu việt.
Khi cần ra ngoại quốc để trốn, để định cư, thì dâu rể, con cháu họ sẽ đứng ra bảo lảnh họ dưới dạng đoàn tụ gia đình hay họ di dân dưới dạng kinh doanh. Những cuộc hôn nhân nầy lại còn có tác dụng thêm bạn bớt thù trong cộng đồng người Việt di tản, tạo ấn tượng tốt đẹp cho dân chúng và nhà cầm quyền các quốc gia có người Việt di tản về chính sách đoàn kết, cởi mở của chế độ cộng sản đối với kẻ thù khi xưa. Tính lưu manh, qũy quyệt của cộng sản quả là siêu việt.
Nghĩ ra thì cộng đồng người Việt tỵ nạn đã phải trả giá bằng nửa triệu sinh
linh bỏ mạng trên biển khơi để tránh bạo quyền cộng sản thì hôm nay, chính bạo
quyền ấy, sau khi đã vơ vét tài sản trên một đất nước VN nghèo khổ, lại ngang
nhiên mang tài sản ăn cướp ấy để đến sống vương vả trên những vùng đất mà những
nạn nhân của họ trong 36 năm qua đã phải đổ mồ hôi nước mắt để tạo dựng lại lúc
giữa đời người.
- Du sinh địch vậnĐó là 5,000 du sinh con ông cháu cha và những công chức, công an giả dạng là «tu nghiệp sinh» đi học với học bổng của nhà nước. Họ đi học nhưng họ phải làm công tác địch vận theo nghị quyết 36 của đảng. Họ len lỏi trong các hội đoàn, các campus đại học, sử dụng các chiến thuật địch vận thời chiến tranh để tuyên truyền, khủng bố, khuynh đảo các cộng đồng người Việt.
Trong đại học, họ khôn khéo lập các hiệp hội sinh viên, tuân hành các chỉ thị của tòa đại sứ để lôi cuốn các sinh viên con em người Việt tỵ nạn, vốn có tinh thần cởi mở nhưng lại ngây thơ trước các mưu chước thâm độc tâm lý chiến cộng sản. Đám du sinh địch vận nầy lại được sự hổ trợ của đám sinh viên du hí, bởi lẽ chúng phải bảo vệ tập đoàn cầm quyền của cha ông chúng. Chúng cũng có tác phong côn đồ ngang ngược khi cần đối phó với cộng đồng di tản chống đối chúng.Đám đông thầm lặng người Việt tỵ nạn ngao ngán trước viễn cảnh đã trốn cộng sản mà vẫn chưa được yên thân
2.1- Có bao nhiêu người lao động xuất khẩu
Chính sách xuất khẩu lao động được áp dụng từ năm 1980 khi cộng sản VN muốn giải tỏa nạn thất nghiệp trầm trọng trong nước đồng thời dùng người lao động xuất khẩu để trả nợ cho các quốc gia anh em khối cộng sản đã giúp VN trong thời chiến tranh và các quốc gia thân hữu như Irak, Arabie Séoudite, Koweit, Qatar…
Trong thời gian từ 1980-1990, có khoảng nửa triệu người trong đó có khoảng 70,000 sinh viên, nghiên cứu sinh, và khoảng 300,000 người lao động được nhà cầm quyền gởi di Liên Sô, Đông Đức, Tiệp khắc, Bulgarie và khoảng 100,000 người đến các nước Trung cộng, Cuba, Mông Cổ, Bắc Hàn để học tập và làm việc. Tiền lương của nhân công được chia làm ba: một đóng cho nước chủ, một gởi về cho gia đình và một phát cho công nhân. Các công việc phần lớn là công việc người địa phương từ chối: đổ rác, thợ mỏ, phu khuân vác, làm cầu đường, ống dẩn dầu ở Sibérie. Các phụ nữ thường làm nghề may, giúp việc nhà (oshin). Nhưng không bao lâu sau đó, các chế độ cộng sản đã lần lượt sụp đổ, các quốc gia chủ hủy bỏ hợp đồng và cho hồi hương công nhân VN, nhưng đa số công nhân trốn ở lại. Thảm cảnh của công nhân bắt đầu từ đó với cảnh đối xử bất công của dân chúng và chánh quyền địa phương. Thất nghiệp đã đưa đến phạm pháp, tạo thêm ác cảm cho người bản xứ.
Khi bức tường Bá Linh sụp đổ tháng 11/1989,
tại Đông Đức có 59,000 lao động xuất khẩu và du sinh VN tập trung tại các
thành phố như Karl-Marx-Satadt, Đông Berlin và Leipzig. Sau khi nước
Kể từ năm 1990, khi tham nhũng trở thành phổ quát, chính sách xuất khẩu lao
động thay đổi theo lối ăn chia với các tổ chức tuyển dụng người xuất khẩu mà các
người đứng đầu không ai khác hơn là bè đảng các lãnh đạo thế lực. nhà cầm quyền
phụ trách tìm kiếm các hợp đồng với các quốc gia cần nhân công rồi giao cho các
công ty tư vấn tuyển dụng nhân công.
Đó là chính sách tham nhũng vừa hàng dọc vừa hàng ngang, các công ty tuyển dụng tung hoành bóc lột, lường gạt người dân nghèo phải bán nhà bán ruộng để đóng tiền lệ phí cắt cổ cho các công ty để đi lao động nước ngoài hy vọng thoát được cảnh nghèo đói, nhưng chính sách đem con bỏ chợ của các công ty tư vấn thực chất là các tổ chức buôn bán người, làm giàu trên xương máu của người nghèo trước sự bao che của nhà nước.
Đó là chính sách tham nhũng vừa hàng dọc vừa hàng ngang, các công ty tuyển dụng tung hoành bóc lột, lường gạt người dân nghèo phải bán nhà bán ruộng để đóng tiền lệ phí cắt cổ cho các công ty để đi lao động nước ngoài hy vọng thoát được cảnh nghèo đói, nhưng chính sách đem con bỏ chợ của các công ty tư vấn thực chất là các tổ chức buôn bán người, làm giàu trên xương máu của người nghèo trước sự bao che của nhà nước.
Theo số liệu của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao Động-Thương
Binh và Xã hội), từ năm 2001 đến 2011, VN đã gởi 739,710 lao động VN làm
việc tại hơn 40 quốc gia trên thế giới, tính trung bình mỗi năm có
khoảng 70,000 người. Thu nhập của người lao động xuất khẩu thường từ 6
đến 10 lần cao hơn so với những người cùng làm một công việc trong nước
và mỗi năm họ gởi về nước khoảng 1,7 đến 2 tỷ mỹ kim. (Nguyễn Cảnh Toàn.
Bước đầu nghiên cứu cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạp chí Khoa
Học Xã hội VN số 1(44) 2011).
2.2- Diện mạo của người lao động xuất khẩu
Người lao động xuất khẩu ra nước ngoài có hai dạng: ra đi hợp pháp dưới sự quản lý của các công ty tuyển dụng, ra đi bất hợp pháp hay ở lại bất hợp pháp sau khi khế ước làm việc chấm dứt. Ngoài ra, những phụ nữ ra đi lấy chồng Hàn Quốc, Trung cộng, Đài Loan, thực chất cũng là một hình thức xuất khẩu lao động.
Người lao động xuất khẩu ra nước ngoài có hai dạng: ra đi hợp pháp dưới sự quản lý của các công ty tuyển dụng, ra đi bất hợp pháp hay ở lại bất hợp pháp sau khi khế ước làm việc chấm dứt. Ngoài ra, những phụ nữ ra đi lấy chồng Hàn Quốc, Trung cộng, Đài Loan, thực chất cũng là một hình thức xuất khẩu lao động.
- Người lao động xuất khẩu theo hợp đồng
Từ năm 1990, chánh sách tham nhũng và vô trách nhiệm của nhà nước cộng sản đã làm nở rộ các loại công ty môi giới lao động nước ngoài, phát triển từ thành phố đến nông thôn. Đó là một sách lược tham nhũng toàn bộ, chia phần từ trung ương đến địa phương. Những người muốn đi lao động không phải là những người tứ cố vô thân mà phải có chút ít tài sản. Họ hay thân nhân họ phải bán nhà, bán đất hay thế chấp tài sản cho ngân hàng (danh từ sổ đỏ dùng để chỉ tiền nợ ngân hàng với tài sản thế chấp) để đóng tiền lệ phí cho cơ quan tuyển dụng.
Từ năm 1990, chánh sách tham nhũng và vô trách nhiệm của nhà nước cộng sản đã làm nở rộ các loại công ty môi giới lao động nước ngoài, phát triển từ thành phố đến nông thôn. Đó là một sách lược tham nhũng toàn bộ, chia phần từ trung ương đến địa phương. Những người muốn đi lao động không phải là những người tứ cố vô thân mà phải có chút ít tài sản. Họ hay thân nhân họ phải bán nhà, bán đất hay thế chấp tài sản cho ngân hàng (danh từ sổ đỏ dùng để chỉ tiền nợ ngân hàng với tài sản thế chấp) để đóng tiền lệ phí cho cơ quan tuyển dụng.
Theo những văn kiện của nhà cầm quyền, tiền lệ phí nầy không được hơn
một tháng tiền lương, nhưng thực tế, những công ty môi giới khuynh đảo
thị trường bởi người dân nghèo quá đông, mật ít ruồi nhiều, nên họ bày
ra đủ thứ lệ phí, thường từ 5,000 đến 15,000 mỹ kim tùy theo nơi đến làm
việc và thời gian của hợp đồng. Thử tưởng tượng tiền lương của một giáo
chức, sau khi khấu trừ mọi thứ đóng góp cho nhà nước chỉ còn lại độ 30
mỹ kim mỗi tháng thì số tiền lệ phí như trên quả là một tài sản khổng
lồ.
Với những hợp đồng bảo đảm tiền lương tại nước ngoài trên 1,000 mỹ kim hàng tháng, điều kiện làm việc thuận lợi, nhiều gia đình nghèo tranh nhau đi tìm số đỏ với sổ đỏ. Người lao động xuất khẩu đong đưa với vận may nếu hợp đồng được tôn trọng, hy vọng trả được hết nợ và có chút vốn khi trở về nước. Nhưng thế giới cộng sản là thế giới của lừa đão, những công ty tư vấn lường gạt dân nghèo với những viễn cảnh tốt đẹp để vơ vét lệ phí đủ loại, đưa người ra nước ngoài rồi phủi tay, hành xử theo lối đem con bỏ chợ.
Với những hợp đồng bảo đảm tiền lương tại nước ngoài trên 1,000 mỹ kim hàng tháng, điều kiện làm việc thuận lợi, nhiều gia đình nghèo tranh nhau đi tìm số đỏ với sổ đỏ. Người lao động xuất khẩu đong đưa với vận may nếu hợp đồng được tôn trọng, hy vọng trả được hết nợ và có chút vốn khi trở về nước. Nhưng thế giới cộng sản là thế giới của lừa đão, những công ty tư vấn lường gạt dân nghèo với những viễn cảnh tốt đẹp để vơ vét lệ phí đủ loại, đưa người ra nước ngoài rồi phủi tay, hành xử theo lối đem con bỏ chợ.
Những người đi lao động ở Nga, ở Trung Đông bị áp bức, làm việc trong
những điều kiện tồi tệ, không được trả lương theo như hợp đồng, hay bị
hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn, bơ vơ nơi xứ người không biết liên lạc
với ai. Một lời thán oán trong muôn một của một người lao động xuất khẩu
tại nước Nga: «Ba tháng không có lương, đấu tranh thì bị chủ dọa đuổi,
gọi điện thoại về hỏi công ty xuất khẩu thì được bảo: chờ hết suy thoái
chủ sẽ trả lương, muốn bỏ về thì tự túc mua vé mà về… »
Viện Nghiên Cứu Phát Triển Xã Hội Việt Nam hợp tác với trường đại học Western
Ontario (Canada) đã thực hiện một cuộc khảo sát về người lao động xuất khẩu VN
tại 4 quốc gia ở Châu Á (Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai) trong giai đoạn
2000-2009 đã công bố kết quả ngày 15 tháng 3 năm 2010 như sau: «… chỉ có 33%
người XKLĐ trả hết nợ trước khi về nước, trung bình muốn trả hết nợ vay mượn
phải làm việc 18 tháng, 36% người bị tổn thương sức khỏe và tâm lý vì môi trường
và điều kiện làm việc, 26% người không được trả lương như mong đợi và 8% bị hành
hạ về mặt thể chất.
Nhiều người bị hủy giao kèo hay không chịu nổi sự bốc lột phải trở về nước, gánh thêm nợ nần. Một tỷ lệ quan trọng không thấy có sự cải thiện về mặt kinh tế sau khi đi XKLĐ, thậm chí tình trạng còn tồi tệ hơn: 40,1% hài lòng vì số thu nhập tăng lên, 51,1% không thấy có sự thay đổi tích cực nào, 8,8% bị mắc nợ nhiều hơn….» (Đi xuất khẩu lao động để mưu sinh. baomoi.com, ngày 15/5/2010).
Chánh sách xuất khẩu lao
động của nhà cầm quyền cộng sản phơi bày bản chất vô nhân đạo và vô trách
nhiệm. Những công ty môi giới là những công ty quốc doanh hay phe nhóm
của cấp lãnh đạo đã lợi dụng sự nghèo đói của người dân, nhẩn tâm bốc lột người
nghèo rồi vô trách nhiệm đưa đám người nầy ra nước ngoài phải tự phấn đấu với
bao nhiêu cam go không chuẩn bị. Chánh sách tham nhũng bất lương nầy không giải
quyết trọn vẹn được nạn thất nghiệp và nghèo đói triền miên trong nước mà còn
lại tạo nên một hiểm họa ở ngoài nước bằng cách xuất cảng một khối người Việt
sống bất hợp pháp và phạm pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới.Nhiều người bị hủy giao kèo hay không chịu nổi sự bốc lột phải trở về nước, gánh thêm nợ nần. Một tỷ lệ quan trọng không thấy có sự cải thiện về mặt kinh tế sau khi đi XKLĐ, thậm chí tình trạng còn tồi tệ hơn: 40,1% hài lòng vì số thu nhập tăng lên, 51,1% không thấy có sự thay đổi tích cực nào, 8,8% bị mắc nợ nhiều hơn….» (Đi xuất khẩu lao động để mưu sinh. baomoi.com, ngày 15/5/2010).
- Người xuất khẩu lao động bất hợp pháp
Đa số người XKLĐ là nông dân, công nhân ít học, vì nghèo đói phải đi lao động nước ngoài hy vọng sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không am tường ngôn ngữ xứ người, không thích nghi với điều kiện sống và làm việc, không biết thông tin khi gặp bất công, bất trắc, người XKLĐ quả thực làm cuộc phiêu lưu lớn khi đặt niềm tin vào các công ty môi giới mà đa số chỉ là nhóm người bất lương được nhà nước bao che. Ngoài ra, nếu đa số người XKLĐ là nạn nhân của các công ty từ trong nước đến ngoài nước, nhưng trong nhiều trường hợp, chính họ cũng lại là tác nhân của những khốn khổ của họ. Chỉ đan kể một số trường hợp phổ quát: không tuân hành luật lệ xứ người, không tuân hành hợp đồng, tác phong bất xứng (gây gổ, trộm cắp). Tại Hàn Quốc, theo tin tức của chính Bộ Lao Động, 32% người XKLĐ Việt Nam đòi đổi nghề khi đến Đại Hàn, 8,750 người ở lại bất hợp pháp sau khi hết hợp đồng (trên 60,000 XKLĐ), có người bỏ trốn ngay khi vừa đến phi trường, đến nổi Hàn Quốc phải ngưng không nhận XKLĐ Việt Nam. (các bản tin tháng 8, 2011).
Tại Mã Lai, nhà cầm quyền phải ân xá cho
13,000 người Việt XKLĐ ở lậu, tại Arabie Séoudite, tài xế XKLĐ đình công
viện lẽ thời tiết quá nóng đến 45 độ mà xe vận tải không có máy điều hòa không
khí (trước khi đi, họ đã biết sẽ làm việc trong vùng khí hậu sa mạc và xe vận
tải ở VN có chiếc nào có máy điều hòa không khí?).
Tại Moscou, cảnh sát Nga dẹp các xưởng may «chui», bắt giữ 500 người Việt
XKLĐ ở lại bất hợp pháp thì họ quay lại tố cáo chủ nhân bắt họ làm việc như
người nô lệ. Thì ra, người XKLĐ Việt Nam cũng mưu chước không kém gì những công
ty môi giới và công ty mướn người lao động. Một thống kê của Bộ Lao Động,
Thương-Binh Xã hội ước lượng có khoảng 50,000 người XKLĐ bất hợp pháp trên thế giới, nhiều
nhất tại Á Châu và các quốc gia Đông
Âu.
Ngoài những người XKLĐ ở lại bất hợp pháp, nhiều quốc gia trên thế giới đang
phải đối diện với tình trạng người Việt định cư bất hợp pháp, do nhập cư lậu và
người đi với visa du lịch rồi ở lại sau khi hết hạn, tổ chức các hoạt động phạm
pháp như trồng cần sa, mãi dâm, tập hợp thành băng đảng chém giết nhau, gây rối
loạn trật tự công cộng.
Số người di cư nầy được các tổ chức mafia VN đưa bằng đường bộ đến Nga, phần
lớn qua ngả Trung cộng. Một số ở lại Nga sống bằng nghề buôn bán lẻ ở các chợ
trời, may quần áo hay các nghề lao động linh tinh.
Tháng 6/2009, chính phủ
Nga đóng cửa
chợ Vòm (Cherkizovsky), nơi có 6,000 thương buôn người Việt tập trung các hàng
lậu thuế từ Trung cộng.
Ngoài nước Nga, tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức (cũ), mỗi nơi hàng có chục
ngàn người Việt sống ngoài vòng pháp luật, gồm những người XKLĐ không về nước và
những người nhập cảnh lậu. Dariusz Loranty, cảnh sát trưởng ở Warsaw đã nói với
Ulricht Adrian, ký giả của đài truyền hình Đức ARD như sau:
«… Dân VN không bao giờ chết, chưa hề thấy đám tang người Việt. Một ngày kia, chúng tôi thấy một xác người Việt bị mafia thủ tiêu quăng trong ven rừng ở Warsaw. Một người Việt nào đó mới đến bất hợp pháp sẽ mang tên người chết mà không ai kiểm soát được. Với chúng tôi, người Việt Nam nào cũng giống nhau không phân biệt được. Bọn mafia còn giết người đồng hương thiếu nợ lấy các bộ phận đem bán… » (Ulricht Adrian. Wo Warschau vietnamesisch ist- DCV online dịch).
Món nợ mà ông cảnh sát trưởng Warsaw nói là món nợ từ 10,000 đến 15,000 mỹ kim mà người di cư lậu phải mượn của bọn mafia VN trước khi lên đường, một món nợ quá lớn phải trả suốt đời. Cách trả nợ nhanh nhứt là tham gia vào các tổ chức trồng cần sa, buôn ma túy. Ba Lan hiện nay là trung tâm sản xuất cần sa lớn nhất ở Đông Âu mà các người cầm đầu đường dây đa số là người Việt.
Người rừng
Téteghem
Để tránh sự cạnh tranh, một số di dân lậu được tổ chức đưa qua Đức, Pháp
và điểm đến sau cùng là Vương Quốc Anh, bởi tại đó luật pháp liên quan
đến ma túy có phần nhẹ hơn các nơi khác. Muốn đến Anh, những người nầy
tập trung ở miền Bắc nước Pháp, trốn trong rừng Téteghem, Grande Synthe,
từ đó họ chờ đến đêm để «nhảy bãi» qua cảng Pas de Calais để sang Anh.
Có khi họ phải chờ hàng tuần, hàng tháng trong những khu rừng lạnh lẽo
nầy. Họ vứt bỏ tất cả giấy tờ, hình ảnh để khi cảnh sát bắt họ không
biết lý lịch, xuất xứ của họ, do đó người Anh gọi họ là «người rơm».
Những người rơm nầy đang hoành hành Vương Quốc Anh. Nick Thorpe, phóng
viên đài BBC trong bài EU’s biggest crackdown on Vietnamese illegal
migrants ngày 26/6/2010 đã viết : «… người Việt định cư hợp pháp ở Anh
khoảng 30,000 nhưng số người bất hợp pháp lên đến 35,000».
Hình từ Sunday Times, em bé bị bọn buôn người
bắt trông coi cần sa, hình bên Lê Quang Nhật bị chính quyền Odessa – Ukraina bắt
về tội trồng cần sa quy mô.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 287
TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN =
KIM HÀ * HỒI KÝ TỴ NẠN
"Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm
thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang
tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như
tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng.
Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một
bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp
mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì...
Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết"
Lời Nói Đầu: Thưa quý độc giả, gia đình chúng tôi là những người tị nạn đường bộ. Chúng tôi khởi sự vượt biên từ Sàigòn, Việt Nam vào ngày 27 tháng 3 năm 1980, đến trại tị nạn Non Chan ngày 10 tháng 4 năm 1980. Sau hơn 7 tháng sống khổ cực trăm bề ở các trại Non Chan, NW9, Pananikhom Holding Center và Rangsit Transit Center, thì cuối cùng, vào ngày 16 tháng 10 năm 1980, gia đình chúng tôi đã đến được mảnh đất tự do, đó là thành phố Los Angeles, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Từ ngày 16 tháng 10 năm 1980 trở đi, tôi đã dùng rất nhiều thì giờ và công sức để viết báo, viết sách nhằm gióng lên tiếng chuông kêu cứu cho người tị nạn, đặc biệt là người tị nạn đường bộ còn kẹt lại ở các trại tị nạn vùng Đông Nam Á. Cũng từ đó, chúng tôi tích cực tham gia trong các phong trào cứu những người tỵ nạn đường bộ cũng như đường thủy.
Câu chuyện mà chúng tôi sẽ kể sau đây chỉ là một phần nhỏ trích trong tác phẩm Qua Cơn Bão Dữ mà chúng tôi đã xuất bản năm 1992. Nếu muốn tham khảo bằng tiếng Anh thì xin mời quý vị đọc tác phẩm Stormy Escape, xuất bản năm 1997 và Report On The Vietnamese Land Refugees, xuất bản năm 1983. Ba tác phẩm này đều do chúng tôi viết ra để làm tài liệu lịch sử cho đời sau.
Cuộc hành trình của chúng tôi phải nói là
gian khổ nhiều vì gia đình đông con, gồm hai vợ chồng và 4 con nhỏ, tuổi
từ 4 tuổi đến 9 tuổi, lại còn thêm cái bào thai 5 tháng. Cháu bé thai
nhi này được sinh ra tại trại tị nạn NW 9, trên lãnh thổ của Thái Lan,
vào ngày 17 tháng 7 năm 1980.
Cuộc sống thê thảm sau kỳ vượt biên đường thủy thất bại:
Chúng
tôi đã đi vượt biên bằng đường thủy vào tháng 6 năm 1978 nhưng bị thất
bại. Sau đó, cả hai vợ chồng tôi đều bị mất việc vì bị ghép tội là thành
phần “Phản động” và “Phản quốc”. Chồng tôi bị đi tù, còn 5 mẹ con tôi
chỉ bị tù ba ngày rồi được trả về.
Sau đó, tôi lặn lội đi buôn thúng, bán bưng
ở các vỉa hè, nơi ngã ba Hàng Xanh xa lộ, vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Sài
Gòn. Khi nào bán ế thì về nhà luộc bắp, nướng bắp mà ăn trừ cơm.
Một hôm, chị hàng xóm tốt bụng rủ tôi đi
mua mít Tố Nữ ở Lái Thiêu về Sàigòn bán lẻ. Khi hai chị em vừa xuống xe,
mỗi người gánh một gánh mít đi bán ở vùng xa lộ thì trời đổ mưa tầm tã.
Chúng tôi phải nép vào một cái quán để tránh mưa. Mưa ướt ngoài trời mà
mưa lệ cũng ướt đầm đià trên đôi mắt tôi.
Cả đời tôi chưa hề một lần buôn thúng bán
bưng mà giờ phút ấy, hai vai của tôi quằn lại vì gánh nặng của hai thúng
mít. Mưa ròng rã suốt buổi nên cuối cùng, tôi gánh về nhà để ăn. Hàng
xóm thấy tội nghiệp nên mua giúp cho tôi. Sau đó, tôi đổi nghề đi buôn
thuốc tây, nhưng vì không quen làm ăn nên làm gì cũng thua lỗ. Từ từ,
tôi đem đồ đạc đã gửi nơi nhà bà con để bán dần, lấy tiền mua gạo cho
con cái ăn uống để cầm cự qua ngày.
Mãi đến mấy tháng sau, chồng tôi được thả
về. Anh lặn lội đi buôn bán chợ trời nên gia đình tôi bớt vất vả. Trong
thời gian ở tù, anh có quen một người tù khác. Ông này vì là triệu phú
bị kiểm kê tài sản mà bị ở tù. Khi ra khỏi tù thì tính chuyện đi vượt
biên bán chính thức. Ông ta cho vợ chồng tôi mượn 8 cây vàng, và nói
rằng khi qua Mỹ, ông ta sẽ đòi tiền nơi mẹ của tôi. Sau đó, chúng tôi
khám phá ra rằng trong số 8 cây vàng mà ông ta cho mượn thì có 1 cây
vàng giả. Sự khám phá ra vàng giả cũng làm cho tôi đau đớn và suýt lên
cơn đau tim vì e rằng không đủ tiền trả cho những người dẫn đường.
Trong lúc ấy, chồng tôi là anh Vĩnh móc nối
đường dây đi vượt biên bằng đường bộ. Người ta hứa rằng chỉ lấy một nửa
số tiền, khi nào thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu về Việt Nam
cho em gái tôi trả thêm một nửa số tiền còn lại.
Cuộc hành trình tìm tự do đầy gian nan:
Đến
ngày đi, vợ chồng tôi chia gia đình ra làm hai nhóm, ngồi chung xe
nhưng làm mặt lạ với nhau để khỏi bị lộ. Khi đi xe lên đến vùng Gò Dầu
thì người dẫn đường đưa chúng tôi vào một căn nhà tranh lụp xụp. Họ đổi
cho chúng tôi quần áo của người Miên, và bắt chồng tôi đem hết vàng và
giấy tờ quan trọng để đi vượt biên qua biên giới Việt Miên vào buổi
trưa, khoảng 1, 2 giờ trưa. Tôi có nói với chồng tôi rằng khi anh đã
vượt biên thành công thì xin viết mật hiệu báo tin là anh qua lọt để tôi
ở bên này biên giới, tức là vùng Gò Dầu, Tây Ninh, sẽ cảm thấy yên tâm.
Anh đồng ý và ra đi.
Trong lúc ấy, bốn đứa con của tôi ở trong
căn nhà tranh bắt đầu kiếm chuyện vì bị tù túng. Chúng than van là trời
nóng, chúng khát nước và đòi uống nước đá. Chúng đòi đi cầu, đi tiểu.
Tôi không dám thò đầu ra ngoài vì sợ hàng xóm của gia chủ nghi ngờ và đi
báo cáo cho công an. Thế mà cũng có những ngừơi hàng xóm tò mò sang bắt
chuyện và hỏi thăm. Tôi phải làm bộ ngủ, quay mặt vào trong để tránh
các câu chuyện không cần thiết và bất lợi.
Buổi chiều, các người dẫn đường đòi đưa tôi
và hai con nhỏ đi trước qua biên giới, còn hai con lớn của tôi sẽ qua
biên giới sau. Tôi sợ mất con nên nhất định không đồng ý. Thế là đêm ấy
tôi lo sợ, không ngủ được, phần thì không có tin chồng báo về và sợ
chồng bị cướp của và bị giết chết, phần thì con quấy rầy, phần thì bị
cơn ho hành hạ.
Cuối cùng, vào ban đêm, có hai người lái xe
Honda đến chở năm mẹ con tôi lên xe để vượt biên giới bằng đường ruộng,
không bằng đường lộ. Đi lòng vòng một hồi lâu, hai xe dừng lại, và năm
mẹ con tôi phải đi theo một người dẫn đường người Miên giữa đêm khuya,
không trăng, không đèn.
Vì phải leo lên leo xuống các bờ đê trong
ruộng nên mẹ con tôi bị ngã hoài. Chúng tôi không biết tiếng Miên, mà
ông Miên dẫn đường lại không biết tiếng Việt. Phần thì ông ta đi quá mau
còn bà bầu như tôi và lũ con trẻ lại đi quá chậm. Vì phải chạy theo ông
ta nên chúng tôi cứ té ngã mãi. Tôi còn phải cõng đứa con bé nhất trên
lưng.
Trên vùng đất Campuchia:
Ði mải
miết ba bốn tiếng đồng hồ thì chúng tôi qua được biên giới. Ở bên đất
Miên, người ta đốt lửa và họp chợ. Tới biên giới, người ta cho năm mẹ
con chúng tôi ngồi trên ba cái xe đạp thồ và chở chúng tôi đi lên đường
rồi xuống ruộng. Sau đó, họ bắt tôi lên mặt đường ngồi chờ họ cả buổi.
Lòng tôi lúc ấy rất hoang mang và lo sợ. Phần thì sợ lạc con, phần sợ
chồng bị giết rồi, phần sợ không có đủ sức khỏe để tiếp tục cuộc hành
trình.
Cuối cùng, sau một hồi lâu, họ đến đón tôi
về xum họp với chồng con ở trong một ngôi nha bằng tranh. Họ dặn chúng
tôi không được nói tiếng Việt. Lúc gặp lại chồng, anh Vĩnh cho biết là
khi qua biên giới xong thì họ quay ngay xe đi, không đợi cho anh ấy viết
vài chữ về cho tôi. Anh còn kể là họ dùng mỹ nhân kế để quyến rũ anh.
Anh phải giả vờ ngủ và phải tranh đấu lắm để không rơi vào lưới tình của
người đàn bà trẻ kia.
Sau đó, họ hoá trang cho tôi bằng cách bôi
khuôn mặt tôi cho đen hơn. Họ cho tôi cái khăn quàng gọi là “cà ma’ để
đội. Tôi phải cải trang mặc áo sà rông, giống như một cái váy ra ngoài
cái quần đen của tôi. Rồi họ chia gia đình tôi ra làm hai nhóm và cho
ngồi hai xe vận tải khác nhau. Tôi và hai con gái ngồi ngay trên xe vận
tải, bên cạnh tài xế, còn chồng tôi và hai con trai ngồi dấu mình ở đàng
sau một xe vận tải khác.
Cứ mỗi khi sắp đến trạm kiểm soát thì chúng
tôi phải xuống đi bộ, đi vào ruộng và khi qua khỏi trạm kiểm soát thì
lại leo lên xe vận tải. Trên đoạn đường từ Gò Dầu Thượng đến Soài Riêng
có cả mấy chục trạm kiểm soát, mà cứ đến mỗi trạm thì chúng tôi đều phải
xuống đi bộ, bọc qua ruộng để tránh các trạm kiểm soát.
Có một lần vì thương hai đứa con gái nhỏ
phải đi bộ vất vả nên tôi đề nghị chúng ngồi lại trên xe vận tải cùng
với một giỏ quần áo để khi chúng tôi đi bộ, bọc qua ruộng xong thì sẽ
gặp lại chúng. Khi ấy, cháu Kim, 4 tuổi nhất định khóc và đòi đi với mẹ,
nên cháu Trang 8 tuổi cũng nhảy xuống theo. Tôi bèn để cái giỏ đồ,
trong đó có cái kiếng cận thị của tôi trên xe.
Sau đó, khi chúng tôi đi bọc xong, lên lại
đường lộ thì chiếc xe ấy chạy đi mất hút. Nếu tôi buộc hai con gái tôi
phải ngồi trên xe ấy thì tôi đã thất lạc hai con rồi. May mà chỉ mất một
trong hai cái giỏ của gia đình mà thôi, nhưng cũng khổ cho tôi là từ
khi mất kiếng cận thị, tôi đâm ra mù lòa, khốn khổ trong suốt bẩy tháng
trời ở trại tị nạn.
Khi chúng tôi đón một xe khác đi tiếp thì
nhóm dẫn đường gài cho chúng tôi bị công an bắt, giải ngược lại con
đường mà chúng tôi đã đi qua. Sở dĩ chúng tôi biết là họ gài cho công an
bắt là vì khi chúng tôi đang ngồi ăn cơm trưa trong quán, thình lình có
một xe công an đến quán và ra hiệu đòi chúng tôi đi với họ.
Vì biết rằng khi trở về thì sẽ bị tù, nên
vợ chồng tôi bàn với nhau định chôn dấu mớ giấy tờ bảo lãnh của mẹ tôi
làm từ Mỹ gửi về. Nhưng Chúa thương các con của tôi cách riêng, nên khi
bị bắt, lính Miên chỉ đuổi chúng tôi về lại Việt Nam chứ không bắt giữ.
Khi được thả ra thì chúng tôi không còn
thấy những ngừơi dẫn đường của gia đình tôi nữa. Lòng bối rối lo âu, gia
đình tôi đi lang thang giữa đường của thành phố Soài Riêng như một đám
ăn mày. Bản thân tôi lo sợ như kẻ mất hồn nên đi nghênh ngang giữa đường
và bị xe đạp đụng làm rách cả cái áo.
Lúc ấy, chồng tôi dặn tôi trong nom 4 đứa
con để anh ấy đi lùng tìm bọn dẫn đường. Anh đi tìm một cách vô vọng thế
mà lại gặp bọn chúng. Cuối cùng chúng phải dắt gia đình chúng tôi đi ăn
tối. Sau đó, chúng tôi xin ngủ tạm ở nhà một gia đình người Miên. Đêm
mùa hè mà nằm lăn lóc trên nền xi măng còn hực lửa nắng hè, tôi lo buồn
nên không dám ngủ vì sợ ngủ hết lỡ họ cướp tiền và giết mình thì sao.
Sáng hôm sau, bọn dẫn đường đành phải đưa
gia đình tôi đi tiếp. Lộ trình đi vào thủ đô Phnom Pênh (Nam Vang) cũng
gian nan không kém lộ trình từ Gò Dầu đến Soài Riêng.
Sống lo âu ở Phnom Penh:
Qua bao
nhiêu gian khổ, chúng tôi đến được Phnom Penh. Bọn đẫn đường cho gia
đình tôi vào ở trong một gia đình người Miên và rồi chúng lại trốn đi,
để mặc gia đình chúng tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người.
Giờ phút ấy, chúng tôi chỉ biết quỳ xuống
cầu nguyện để xin Chúa và Đức Mẹ Maria cứu nguy mà thôi. Chúa lại thương
nên chồng tôi tìm được hai tên dẫn đường đang ngồi xe xích lô để chuồn
về Việt Nam. Khi chồng tôi bắt chúng về lại nhà trọ thì chúng nói thẳng
là chúng không biết đường đi đến Thái Lan. Lúc đó, chúng tôi mới biết là
chúng đã gài cho lính Công an bắt chúng tôi khi còn ở phạm vi của tỉnh
Soài Riêng.
Chúng tôi làm dữ với bọn dẫn đường và dọa
sẽ ra công an tố cáo chúng lừa gạt chúng tôi. Cuối cùng, chúng phải trả
lại gần một nửa số tiền mà chúng đã lấy của chúng tôi.
Sau đó, chúng dẫn gia đình tôi gặp một
người dẫn đường khác. Họ dắt chúng tôi đến một nhà khác để đợi chờ.
Trong suốt thời gian chờ đợi, lòng vợ chồng tôi bồn chồn và lo lắng như
ngồi trên lửa.
Đi xe lửa đến Pursak và Battambang:
Rồi
khoảng một tuần sau, anh chàng dẫn đường tên Sán mới dắt chúng tôi đi
tiếp để đến biên giới Thái Lan. Lần này, anh ta đưa chúng tôi đến nhà ga
và bảo chúng tôi leo lên xe lửa. Xe lửa đầy những người. Người ta ngồi
trong các toa xe. Rất nhiều người khác thì ngồi lắt lẻo trên các mui xe
lửa. Còn gia đình chúng tôi thì phải cố gắng leo lên trên một cái toa ở
sát toa đầu xe lửa, nơi chất đầy củi để nhét vào lò, hầu làm cho xe lửa
chạy.
Đây là một cực hình cho gia đình tôi vì các
tàn lửa bay ra tấp vào quần áo chúng tôi và lửa châm vào da thịt chúng
tôi, để lại những vết cháy trên da thịt. Lại nữa, toa này không có mui
vì là toa chở củi, nên cơn nắng làm nóng khủng khiếp. Lại thêm cái đói
và khát hành hạ gia đình chúng tôi. Lúc ấy, tôi cứ cầu nguyện để xin
Chúa cho tôi được chết phứt cho xong kiếp đời đau khổ.
Vợ chồng tôi và các con ngồi chỉ cách nhau
có 2 thước nhưng chỉ biết im lặng mà nhìn nhau một cách đau đớn. Lòng
chúng tôi xót xa đến đứt ruột vì thương các con nhỏ dại mà phải chịu
khổ. Cả gia đình tôi chịu cảnh khát nước đến cháy cổ nhưng không biết
làm cách nào mà có nước uống vì xe lửa cứ chạy mãi.
Cuối cùng, tôi đánh bạo móc ra 5 đồng bạc
Việt Nam để đưa cho những người ngồi gần, rồi ra dấu chỉ vào những trái
bắp luộc và một ổ bánh mì đang nằm trong các chiếc giỏ hàng của họ. Họ
bèn đưa cho gia đình tôi 5 trái bắp luộc và 1 ổ bánh mì. Thế là giải
quyết được việc ăn. Rồi tôi lại ra dấu xin họ cho nước uống. Chị hàng
xóm mở bi-đông rót ra một chút nước đen ngòm. Tôi vội cầm chiếc nắp
bi-đông ấy để cho bé Kim, đứa con nhỏ nhất của tôi. Còn lại thì cả gia
đình đều chịu trận khát khô cổ.
Trong cái nắng gắt của mùa hè nhiệt đới,
chúng tôi ngồi im lặng như chết mà không trao đổi với nhau một câu nói
vì sợ người ta biết mình là người Việt Nam vượt biên.
Đến 9 giờ tối, xe lửa mới ngừng trước ga Pursak. Chúng tôi mất trọn một ngày mà mới đi được có nửa đường.
Tôi hôm ấy, chúng tôi được anh Sán dắt đi ăn. Sau đó, anh chàng dặn chúng tôi hãy ngủ ngay phía đường rầy để mai đi tiếp.
Vợ chồng tôi rất run sợ vì nghĩ rằng anh ta
có thể bỏ rơi gia đình mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, tôi phải lôi hết
áo quần trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm xuống. Chung quanh
tôi, mọi người đều nói chuyện vui vẻ, chỉ có gia đình tôi là im lặng, sợ
hãi và buồn bã.
Nền đất đá cứng và gồ ghề làm cho chúng tôi
đau lưng, lại thêm cái nóng của mặt đất bốc lên làm cho chúng tôi trằn
trọc suốt đêm không ngủ được .
Sáng hôm sau, anh Sán dắt chúng tôi lên xe
lửa đi tiếp. Lại thêm một ngày nóng và khát. Suốt bảy tiếng đồng hồ ngồi
phơi trên xe lửa không nóc, chúng tôi mệt muốn xỉu.
Khoảng 3 giờ chiếu thì xe lửa vào đến địa
phận tỉnh Battambang. Sau một hồi tìm kiếm, anh Sán cho chúng tôi vào
một căn nhà trống trơn. Nơi đây có một lu nước. Không ai bảo ai, cả gia
đình tôi nhào đến lu nước, rồi người dùng gáo, kẻ dùng tay để múc nước
và uống ừng ực.
Vừa uống xong, tôi bủn rủn tay chân và đầu
óc quay cuồng. Tôi cảm thấy chóng mặt và tim đập mạnh. Tôi nghĩ mình sẽ
chết ngay tại đó. Chồng con tôi cuống quít cạo gió cho tôi. Tôi cố dằn
cơn xúc động, nhưng nước mắt cứ chảy ra dào dạt. Tôi dặn anh Vĩnh, chồng
tôi rằng:
“Anh ơi, nếu rủi em có chết tại đây thì xin
anh cố gắng dắt các con đi tiếp cho đến đích, vì chỉ còn có 60 cây số
nữa thôi. Xin anh đừng lo gì cho em, đừng tính chuyện chôn cất gì cả.
Mình không thể bỏ cuộc một cách dễ dàng. Mình đã tốn quá nhiều công sức
rồi!”
Nghe lời trăn trối của tôi, cả gia đình tôi
khóc thổn thức. Vừa sợ cảnh chia ly, vừa sợ người thân chết, vừa sợ bị
người dẫn đường bỏ rơi, lòng chúng tôi đau đớn, xót xa.
Khoảng 4 giờ 30 chiều, anh Sán trở lại. Anh cho gia đình ăn cơm và đưa chúng tôi đi ra biên giới bằng 2 chiếc xe mô tô thồ.
Cứ trước mỗi trạm gác, những người tài xế
xe lại ra hiệu cho gia đình tôi xuống xe đi bộ qua trạm gác. Anh Vĩnh
luôn luôn phải đi trước để thoát thân, vì nếu vợ con bị chận lại thì anh
sẽ không bị bắt. Đàn bà, con trẻ thì có bị bắt cũng không lâu, còn đàn
ông thì ở tù không có ngày về.
Trong khu rừng vắng gần biên giới Thái-Campuchia với nỗi lo âu:
Qua
biết bao gian nan, chúng tôi thoát nạn qua các trạm gác. Đến tối, anh
Sán cho chúng tôi vào một khu rừng và bảo rằng anh ấy sẽ trở lại vào
sáng ngày hôm sau. Cơn mệt buổi trưa lại đến. Tôi lập lại lời dặn dò và
trăn trối. Chồng con tôi lại hốt hoảng vì sợ tôi chết tại đấy. Tôi cố
gắng trấn an và nhất quyết dặn chống tôi phải vượt bỏ tất cả những ủy
mị, đau buồn để đưa các con đến nơi, nếu như tôi có chết dọc đường, bỏ
cuộc trên con đường đi tìm tự do.
Lúc ấy tôi cảm thấy Thiên Chúa thật gần.
Gia đình chúng tôi cầu nguyện như là đang nói chuyện với Ngài. Chúng tôi
lại cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Chúng tôi khấn xin các thánh, các linh
hồn ông bà, cha mẹ chồng đã khuất để xin sự che chở và bảo vệ.
Chỉ có những lúc như thế, chúng tôi mới cảm
thấy thân phận con người thật nhỏ bé giữa trùng vây của nguy hiểm và lo
âu hãi hùng. Có trải qua những phút âu lo đó, tôi mới thấy cái hạnh
phúc là có một người bạn đường bên cạnh, tôi mới cảm thấy Thiên Chúa
thật linh thiêng, sự sống thật đáng quý, tình cảm gia đình thật cao đẹp
và ý nghĩa của hai chữ tự do thật cao cả.
Suốt đêm hôm ấy, gia đình tôi được ở trong
một cái lán giữa chốn rừng hoang. Cái lán này còn sơ sài hơn một túp
lều. Vợ chồng tôi lo lắng vì sợ bị bỏ rơi và sợ cướp giết mình hay bị
rắn cắn. Chúng tôi lại lôi quần áo trong giỏ ra để làm chiếu cho các con
nằm. Hai vợ chồng tôi lại nằm theo hình chữ V, hai đầu quay gần nhau,
bốn đứa con nằm giữa. Tôi nằm yên lặng, thần kinh căng thẳng nên không
chợp mắt vì quá sức sợ hãi.
Tôi nhìn lên bầu trời, mở mắt thật to để
tìm một chùm sao hình chữ T. là tên tắt của thánh nữ Têrêsa, thánh quan
thầy của tôi để xin thánh nữ cầu bầu cho gia đình tôi. Tôi xin Đức Mẹ
Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu bầu cho gia đình được ơn bình an, thoát
khỏi tai nạn, nhất là nạn cướp trong rừng biên giới.
Đem đen như mực, tiếng côn trùng kêu rả
rích. Vợ chồng con cái nằm im, chả ai buồn nói với ai một lời. Một sự
bất an bao trùm. Thần kinh căng thẳng. Chúng tôi lắng nghe để xem có
tiếng ai đi đâu đó không. Giữa rừng cây um tùm, ví thử bọn cướp có đến
giết gia đình để cướp của thì cũng chả ai mà biết, và nếu gia đình tôi
có hét lên thì cũng chả ai nghe được mà cứu.
Trời bắt đầu lạnh, sương xuống mỗi lúc một
nhiều. Nhìn bầy con nhỏ vô tội đang nằm lăn lóc giữa sương gió, tim tôi
nhói đau như bị ai bóp. Giữa lúc ấy, mạng sống con người còn nhỏ nhoi
hơn một con giun, con dế. Cứ mỗi lần có tiếng động là vợ chồng tôi ngồi
bật dậy để quan sát và nghe ngóng. Cứ thế, chúng tôi nằm chờ sáng trong
muôn ngàn nỗi âu lo, sợ hãi và trong niềm hối hận vì đã hành xác con cái
trong cơn đói khát, khổ cực.
Bị cướp và bị bỏ rơi trên đường đi:
Sáng
hôm sau, khi thức dậy, chúng tôi thấy có hai người đàn ông người
Campuchia đến gần. Không hỏi ý chúng tôi mà họ tự ý lục lọi đồ đạc trong
giỏ của chúng tôi. Sau khi chẳng kiếm được cái gì mà họ muốn lấy, họ đề
nghị chúng tôi đi tắm mát. Đó là để khi chúng tôi xuống hồ ao thi họ
lục lấy vàng hay tiền trong quần áo chúng tôi.
Vợ chồng chúng tôi biết là gặp bọn người
bất lương nên tôi bàn với chồng tôi là anh Vĩnh nên đi chậm với hai
người ấy để cản đường, còn tôi thì lùa các con chạy trước. Nhưng để có
thể biết hướng đi ra khỏi rừng, chúng tôi phải đi theo hướng bọn họ sẽ
đi. Khi thấy con đường đất đỏ trải dài trước mắt, lòng chúng tôi mừng
khấp khởi vì biết là đến nơi an toàn hơn.
Một lúc sau, tôi thấy bóng một đứa bé ngồi trên lưng trâu, tôi quay nhìn anh Vĩnh và nói to:
“Chuẩn bị chạy!”
Rồi tôi nói với các con:
“Chạy ra theo đường kia, các con ơi! Chạy lẹ kẻo bọn cướp kia bắt được mình đấy!”
Thế là như bầy ong vỡ tổ, các con tôi ùa ra chạy thật lẹ, tôi cũng ì ạch chạy theo các con.
Trong lúc ấy, anh Vĩnh bị hai tên người
Miên kèm sát để mong cướp của và vàng bạc. Tôi lại quay ngược đầu về
phía sau kêu chồng tôi:
“Chạy theo em, anh ơi!”
Lúc ấy, chồng tôi phải hết sức khéo léo để
giựt lại cái giỏ đồ và thùng đựng nước. Anh cũng cố tình trì hoãn lại để
mẹ con tôi có thêm thì giờ mà chạy thoát. Thế là cả gia đình cắm đầu
chạy như ma đuổi.
Trời đã về chiều mà chúng tôi không có nơi ăn, chốn ở. Lúc đó khoảng 2, 3 giờ chiều, tôi bèn bàn với chồng tôi:
“Anh ơi, có lẽ em và các con sẽ trở về lại
Việt Nam. Em ra trình diện với bộ đội Việt Nam để trở về nhà, tiền mình
còn ít qúa, chắc không đủ cho cả gia đình mình đi đến Thái Lan đâu. Còn
lại số tiền này, anh hãy giữ lấy mà tìm đường đi tiếp. Chứ mình đi như
vầy hoài, tiền gần cạn hết rồi, biết tìm ai mà đi tiếp?”
Khi nghĩ đến chuyện chia tay, kẻ ở người đi, lòng chúng tôi ngậm ngùi và tan nát. Thế là chúng tôi bị bỏ rơi lần thứ hai rồi.
Vừa đau khổ, tôi vừa cầu nguyện. Không một
lối thoát, ngôn ngữ không đủ để xin người bản xứ cứu giúp hay dẫn đường
cho gia đình mình đến biên giới. Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vấn đề
nan giải hiện ra. Tôi ước ao được chết ngay lúc đó, chết chung với chồng
và các con, để khỏi phải lo âu và khắc khoải nữa, để khỏi phải chịu
cảnh đói khát dưới cơn nắng khủng khiếp ấy nữa.
Trong tuyệt vọng thì tìm ra đường sống.
Khi
chúng tôi đi ra đường thì gặp một người phụ nữ Miên chừng 25 tuổi, chị
ấy hỏi chúng tôi rằng : “Việt Nam?” Tôi buồn bã gật đầu. Chị ấy chỉ ra
phía trước, ra dấu hai tay sẽ bị còng và nói liên tiếp. Tôi chỉ hiểu
rằng chị bảo chúng tôi coi chừng ra ngoài ấy sẽ bị bộ đội Việt Nam bắt
còng tay và cho vào tù.
Biết chị là người có lòng tốt, tôi kể lể
bằng tiếng Việt Nam về nỗi khổ của mình. Không biết chị có hiểu gì không
nhưng chị ấy dắt chúng tôi về căn lều của gia đình chị. Chúng tôi vui
mừng vì thấy một lu nước. Vừa xin phép chị, gia đình tôi vừa nhào đến
thi nhau uống nước. Dù nước rất đục nhưng có nước còn hơn không. Cơn
khát đã hành hạ chúng tôi từ lúc sáng đến giờ.
Câu chuyện thì dài lắm, nhưng kết quả là
gia đình chị ấy chịu hướng dẫn chúng tôi đi qua biên giới Thái với điều
kiện là chúng tôi phải trả hết số tiền bằng chiếc nhẫn kin cương mà tôi
đã dấu trong cạp quần và một số tiền mặt khác.
Đêm hôm ấy, gia đình tôi được tắm mát nơi
cái giếng cạn của gia đình chị Miên. Đêm ấy, vợ chồng tôi được bình an
vì biết rằng mình đang ở trong tay một gia đình tốt lành.
Ngày hôm sau đó, gia đình chị cho chúng tôi
lên ba chiếc xe bò trong một đoàn xe bò, rồi họ trả tiền cho ba người
chủ xe bò. Từ đó trở đi, họ và chúng tôi không còn gặp nhau nữa vì gia
đình tôi nay thuộc quyền của ba người chủ xe bò. Đến khi khám phá ra là
họ bỏ mình cho những người chủ xe bò, vợ chồng tôi hoảng hốt và lo âu
trên suốt cuộc hành trình ấy. Giữa đường đi, chúng tôi lại bị cướp thêm
một lần nữa. Anh Vĩnh ngồi chiếc xe bò thứ hai, tôi và hai con gái ngồi
trên xe bò thứ ba, còn hai con trai của chúng tôi ngồi trên xe bò thứ
bốn.
Cuộc hành trình qua biên giới đầy gian khổ
vì đói khát và sợ hãi. Ở vùng biên giới này, nhiều người tị nạn Việt Nam
bị bộ đội Việt Nam bắt giữ và gửi về Việt Nam để bị giam trong các nhà
tù. Cũng tại rừng biên giới này mà nhiều phụ nữ Việt Nam bị hãm hiếp bới
bọn lính Miên, tức là lực lượng Para, một thứ linh chống chính phủ
Phnom Penh. Tại nơi đó, nhiều người tị nạn bị giết chết vì lằn đạn pháo,
vì bị lính Miên nghi ngờ, hay vì bị rắn cắn.
Sau đây, tôi xin được kể lại ngày thứ 15 trong cuộc hành trình vươt biên của gia đình chúng tôi:
Điển hình là ngày cuối cùng của lộ trình:
Ngày 10 tháng Tư năm 1980, tức là ngày 25 tháng Hai năm Canh Thân), cũng là ngày thứ mười lăm của lộ trình.
Sáng tinh sương, khoảng bốn giờ sáng, bà
già Miên chủ xe bò đánh thức chúng tôi để đi tiếp. Đoàn xe bò lại lọc
cọc lăn bánh dưới ánh trăng mờ nhạt. Tôi không đủ ngôn ngữ để hỏi bà già
đó xem bao giờ thì tới Thái. Lòng phân vân, hoang mang, lo nghĩ, tôi
ngồi ngủ gật trên xe bò. Khoảng năm giờ sáng, bà già quay lại nói:
"Bộ đội Việt Nam"
Tôi giật mình ra dấu hỏi. Bà ta chỉ về phía
trước mặt. Thế là chúng tôi lại cho các con tôi nằm chôn dưới bao rơm,
đậy miếng nilông lên. Tôi lại được mượn cái nón đội che nửa khuôn mặt.
Cơn hãi sợ lại ập đến bủa vây tôi. Tôi cố giấu mặt trong chiếc nón gồi
và liếc nhìn qua vành nón tỏa rộng. Nếu không được bà ta cho mượn nón,
có lẽ tôi đã bị lộ rồi.
Đoàn xe vẫn lăn bánh lọc cọc trên đường mòn
gập ghềnh sỏi đá Mỗi bước đi đến gần trạm kiểm soát là mỗi chút hồi hộp
tăng dần. Tôi có cảm tưởng như máu trong cơ thể mình đông đặc lại.
"Càng gần biên giới, sự kiểm soát càng chặt chẽ, liệu mình có an toàn đến nơi không?"
Câu hỏi như gắn chặt trong tâm trí. Tôi run
rẩy chờ đợi. Khoảng năm giờ rưỡi sáng, chúng tôi đã đến đầu bìa rừng
biên giới - sau này tôi mới rõ. Đó cũng là trạm kiểm soát cuối cùng có
Cộng Sản Việt Nam. Từ xa, tôi thấy lố nhố một số lính bộ đội. Họ la lớn
bằng tiếng Việt:
"Đứng lại hết, chờ xét đã!"
Thế là đoàn xe bò dừng hẳn lại. Đám đàn ông
trên xe bò lật đật leo xuống xe, đứng rải rác gần đó. Anh Vĩnh, chồng
tôi, cũng vội vàng bước xuống xe và trà trộn ngay vào đám đàn ông Miên
ấy. Tim tôi hồi hộp và đập thình thịch. Tôi cảm thấy rét run như bị cơn
sốt rét. Hai tay run lẩy bẩy như bị động kinh phong. Giờ phút sống còn
đã điểm. Một là tới Thái, hai là vào tù lần nữa.
Có sáu người lính Việt Cộng. Họ vác súng
chạy rầm rập từ phía đầu của đoàn xe bò đến phía cuối. Họ lục xét để
kiếm gà. Tiếng họ nói oang oang:
"Gà đâu? Gà đâu? Có gà thì "tâu", ót gà ót tâu!" (Có gà thì đi, không gà không đi!)
Vừa lục xét họ vừa cười nói và chửi thề
luôn miệng. Giọng nói quê và nặng của dân quê miền Bắc Việt Nam. Tôi hơi
mừng thầm vì thấy họ chỉ nhắm đến việc xét bắt gà vịt của người Miên đi
xe bò hơn là nhằm mục đích xét người Việt Nam vượt biên. Có lẽ họ sống
đói khát và thèm thuồng ở vùng núi biên giới này đã lâu nên chỉ mong
cướp cạn để thỏa mãn sự thiếu thốn.
Hai tên lính xét xe bò thứ nhất, ba tên
lính chạy xuống xét xe bò đi sau chót. Còn một tên đứng cách xe bò của
tôi độ hai mét, tay hắn cầm cây súng chĩa lăm lăm về phía đoàn xe chúng
tôi.
Đến xe bò thứ nhất, họ lật các bao rơm để
kiếm gà. Tôi sợ đến ngộp thở. Chắc chết đến nơi rồi vì chỉ còn có một xe
nữa là đến xe các con trai của tôi đang núp trong lớp rơm. Tàn đời rồi.
Lại vô tù lần nữa thôi.
"Chúa ơi, cứu con với!"
Tôi hét thầm trong lòng. Rồi, họ xét đến xe
Vĩnh đã ngồi là xe thứ hai. Họ lục lọi và lật tìm gà nơi các bao rơm.
Họ bóp giỏ đồ của Vĩnh treo nơi xe mà không mở ra - nếu họ mở ra, chắc
họ sẽ biết ngay chúng tôi là người Việt vì quần áo người lớn, con nít
tùm lum. May mà anh Vĩnh đã trà trộn trong đám đàn ông kia rồi!
Khi họ bước qua xe bò thứ ba - nơi mà hai
con trai của tôi đang được dấu dưới lớp rơm che kín-thì trái tim tôi như
ngừng đập. Thôi rồi, lộ tẩy rồi! Thay vì tìm ra gà, họ sẽ tìm thấy ra
hai cậu bé Việt Nam. Tôi lẩm bẩm cầu xin Thượng Đế che chở.
Lại một phép lạ của Thượng Đế! Khi họ định
lục xe bò có hai con trai tôi thì bỗng ba tên lính Việt Cộng ở phía xe
bò đàng sau chạy lạch bạch tới, tay họ cầm hai con gà. Họ vui mừng hét
thật to:
"Có gà rồi! Có gà rồi chúng mày ơi! Đến hai con gà cơ!"
Hai tên lính này mừng quá, bỏ chuyện xét xe
bò thứ ba và xe thứ tư - nơi tôi ngồi - để xúm lại bàn tán về thành
tích cướp cạn vừa kể. Họ hý hửng cười, đập tay vào lưng, vào vai nhau
một cách khoái trá và quên đi chuyện xét xe bò tiếp.
Trong khi ấy - cháu Kim 4 tuổi, vì bị chôn dưới lớp rơm và bao ni lông trên xe bò quá lâu nên mệt. Cháu la lên:
"Nóng quá! Khát quá mẹ ơi!"
Tôi lại giựt mình vì những người lính Việt
Cộng chỉ đứng cách xe tôi ngồi có hai thước mà thôi. Tôi vừa sợ vừa giận
nhưng chỉ biết im lặng vỗ vỗ vào lớp rơm che cho cháu để dỗ nó mà thôi.
Con bé vẫn khóc y ỷ như chè thiu. Chắc là có ơn trên che chở, làm cho
các anh lính bộ đội Việt Cộng bận chú ý về mấy con gà nên họ không thể
nghe tiếng bé Kim khóc và nói bằng tiếng Việt Nam. Vả lại, lúc ấy trời
còn mờ mờ tối nên đám lính này không thấy cảnh chúng tôi ngụy trang.
"Con bé này cứng đầu quá chừng, chuyên mang nỗi khó khăn đến cho cha mẹ!"
Tôi nghiến hai hàm răng để cắn chặt cơn giận và tiếng la mắng:
"Chuyến này mà lộ thì ăn đòn chết, nghe con!"
Tôi giận tái người vì đứa con dại khờ, cái chết bên mình mà vẫn không biết.
Trong lúc ấy, bà già Miên, chủ xe bò của
chúng tôi cũng sợ hết hồn. Bà ta thò tay vào lục trong giỏ mãi mới kiếm
được một quả xoài xanh nhỏ bằng trái trứng gà. Rồi bà ta đưa trái xoài
cho tôi. Tôi bèn giả bộ cúi xuống, vén lớp rơm và để quả xoài vào bàn
tay con bé. Con bé nắm chặt quả xoài rồi nín ngay, không khóc nữa.
Nó bắt đầu tìm cách đưa quả xoài vào miệng,
vì thế tấm ni lông lại sột soạt di động. Tôi phải gõ gõ để nó hiểu mà
tạm nằm yên. Trong lúc ấy mấy anh lính Việt Cộng lấy súng gõ vào thành
gỗ của một vài chiếc xe bò và hét to lên:
"Tâu đi! Tâu đi!" (Đi đi, đi đi!)
Đoàn xe bò chậm rãi chuyển bánh. Anh Vĩnh
và đám đàn ông lẹ làng đi bộ qua mặt nhóm lính Việt Cộng. Tôi thở phào
nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi một gánh nặng.
Trời đã hơi sáng, đoàn người đi lặng lẽ vào
rừng thưa. Lúc này đã vào rừng rồi - rừng biên giới Cambodia và Thái
Lan. Qua khỏi trạm gác khá xa, các con tôi mới được trút bỏ lớp rơm che
đậy chúng để ngồi lên như cũ. Trời vẫn còn sớm nên người đi lại thưa
thớt. Dần dần, trời đã sáng bạch, chúng tôi đã tiến sâu vào rừng, qua
con đường mòn cỏ cây đan nhánh. Tôi ngồi trên xe bò mà nhủ thầm:
"Mình còn sướng hơn các người đi bộ kia, chắc là họ mệt lắm - mình còn hên nhiều!"
Tôi chợt nghĩ đến cảnh những người vượt
biên đi sau tôi - nếu họ đi vào tháng Năm, tháng Sáu mà gặp mưa thì chết
cóng vì lạnh và ướt thôi. Suốt cuộc hành trình là nằm ở ngoài bờ bụi,
làm sao họ chống trả nổi với cơn mưa suốt đêm? Rồi họ phải lội ruộng,
lội đồng. Nếu nước ngập làm sao họ có thể bước đi mau được khi mà đường
thì dài vô tận? Đã có bao nhiêu người bị chết vì cóng lạnh dưới cơn mưa,
trên đường đi vượt biên, trước gia đình tôi? Và sẽ còn bao nhiêu người
chết vì cơn nóng, cái đói khát sau gia đình tôi?
Tôi không trả lời được mà chỉ biết thương
xót cho họ. Người dân Việt Nam - có cả chúng tôi - đã trả giá quá đắt
cho sự kiếm tìm tự do. Họ trả giá bằng chính sinh mạng của họ và gia
đình họ. Tôi đã nếm mùi vượt biên. Nếu yên lành đến nơi, tôi sẽ viết thư
về để ngăn cản, không cho bà con, bạn bè đi bằng đường bộ nữa.
Ghê gớm quá, khủng khiếp quá. Tôi ngồi thừ
ra suy nghĩ mãi. Xe bò đi sâu vào rừng. Chung quanh là cây cao bóng mát.
Bóng mát ở đây nhiều nhưng riêng tôi, tôi vẫn chưa tìm thấy bóng mát
của cuộc đời. Một cuộc đời trôi nổi, đầy thiệt thòi và mất mát. Hai lần
bỏ xứ ra đi: Một lần từ Bắc di cư vào Nam, và lần này, từ Việt Nam bỏ
tất cả để dấn bước phiêu lưu đi tìm tự do.
Tôi lớn lên để bị chứng kiến những cảnh đổ
vỡ của gia đình và của đất nước. Tôi đã khóc rất nhiều trước những cơn
bão táp ấy. Tôi còn nhỏ lúc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào năm
1963, nhưng tôi đã khóc khi thấy hình Tổng Thống Diệm bị đốt. Tôi thấy
đau đớn khi ngọn lửa ăn dần hình ảnh hiền hậu của vị Tổng Thống ấy. Hình
như đôi mắt ông Diệm đã khóc khi lửa liếm dần và thiêu rụi. Tôi nhủ
thầm, nếu Tổng Thống Diệm không bị ám sát thì chắc đất nước mình vẫn còn
thanh bình và thịnh vượng như thời kỳ 1960, có đâu mà dân tộc mình phải
chịu đắng cay và đau khổ như bây giờ? Có đâu mà mình và gia đình phải
chịu đủ mọi khổ sở như vầy?
Cảnh rừng thưa vào ban mai thật đẹp và hùng
vĩ. Cây mọc chằng chịt, chỉa cành ra phía đường mòn, ánh nắng như được
lọc qua bóng cây, đổ xuống tràn đầy. Tiếng chim hót líu lo, tiếng bánh
xe bò kêu lọc cọc đưa tôi về thực tại. Các người đàn ông đi bộ nay đã
leo lại lên xe bò. Xe vẫn đi chậm như rùa bò.
Tôi đưa trả bà già Miên chiếc nón mà bà đã
tử tế cho tôi mượn để hóa trang. Tôi mở luôn chiếc khăn quàng để hít thở
thoải mái bầu không khí trong lành của buổi sáng sớm trong rừng đầy cây
xanh. Một cách cẩn thận, tôi chỉ tay về phía trước, ra dấu và hỏi xem
còn bộ đội Việt Nam ở trong rừng không thì bà già Miên lắc đầu. Tôi mừng
rỡ, thở phào nhẹ nhõm rồi ngửng mặt lên nhìn ngắm vòm cây xanh cao
trước mặt. Những trái xanh treo lửng lơ trên cây. Tôi không biết là loại
trái gì nhưng vẫn cầu mong cho một vài trái rớt xuống để mút đỡ khát.
Tôi thì thầm câu nói của một bà già trong truyện Tấm Cám:
"Thị ơi! Thị rụng bị bà
Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.”
Buồn thay, chả có trái nào rụng xuống. Tôi
nuốt nước bọt mà thèm. Một chút gì êm ả, một chút gì ngọt ngào thoáng
đến trong hồn tôi. Hình như hồn quê hương tôi còn quanh quẩn đâu đây với
cảnh đẹp thiên nhiên này. Tôi sung sớng hít thở mãi.
Lúc này, người ta đi lại tấp nập hơn. Người
đi bộ, người đi xe bò, kẻ đi xe đạp. Những người đi cùng chiều với tôi
thì đa số đi tay không hay xách giỏ nhỏ. Trái lại, những người đi ngược
chiều với tôi - từ biên giới Thái về - thì chở đầy hàng hóa, thuốc lá và
vải vóc mà họ đã mua từ biên giới về.
Họ dùng xe đạp để chở đồ đạc. Người thì dắt
xe, người thì tải hàng, cứ thế, họ đi bộ về chợ trời Soay - gần
Sisophon. Còn các xe bò ở biên giới về thì chở đầy các bao gạo, loại một
trăm kí lô gram. Xe bò đi về cũng khá nhiều. Tính ra, họ cũng rất giàu.
Khi đi thì chở người Việt Nam vượt biên, khi ở biên giới về thì chở gạo
về Miên bán, hay chở vải vóc, thuốc lá, đồng hồ về bán. Xem ra người
dân Miên buôn bán tự do hơn người dân Việt Nam ở quê hương tôi.
Thỉnh thoảng, tôi thấy một người ngồi bên
đường để bán nước đá sirô, dưa hấu và xoài chín. Những ly nước sirô có
đá màu đỏ, màu cam như trêu, như chọc cơn thèm khát. Những miếng dưa hấu
đỏ óng như mời, như gọi. Những trái xoài vàng đậm như đợi, như chờ
chúng tôi với tay đến. Những thỏi nước đá trắng trong vắt, trông đẹp như
pha lê.
"Trời ơi! làm sao mình có tiền để mua được đây?"
Tôi dán chặt mắt vào các món giải khát ấy
rồi nuốt nước bọt. Các con tôi cũng nhìn một cách thèm thuồng. Chúng tôi
cứ mơ và ước đến các món giải khát mãi.
Thình lình, từ trong lùm cây rậm rạp, có
hai tên lính Miên mặt non choẹt, trông chỉ độ mười bốn, mười lăm tuổi,
mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù, chúng xông ra chận xe bò của tôi
lại. Chúng lăm lăm chĩa súng vào người mẹ con tôi và hét lên:
"Việt Nam, Việt Nam, xuống, xuống ngay!".
Tôi sợ điếng hồn. Tưởng là đã thoát ách bộ
đội Việt Cộng thì hết sự nguy hiểm rồi. Thế mà nay lại bị bắt nữa rồi.
Tôi lúng túng đứng lên. Bọn chúng - sau này tôi mới biết chúng là lực
lượng Para, một loại lính biệt kích của kháng chiến quân Cambodia. Có
người thì nói là lính của Sihanouk, của Lon Nol, của Son Sann, của chính
phủ Thái thuê để đánh lại bộ đội Việt Cộng và lính Cộng Sản của Miên -
lại la lên:
"Xuống! Nếu không thì "ông lớn" bắn chết!"
Chúng nói tiếng Việt không rõ. Rồi chúng
hung hăng chụp cháu Kim vứt xuống đất. Con bé hoảng sợ, khóc thét lên.
Chúng túm lấy cháu Trang đuổi xuống. Tôi sợ quá, vội vàng nhào xuống xe.
Rồi tôi quay lại bà già Miên để nhờ lấy đồ đạc của tôi ở trên xe xuống
hết.
Đàng trước, chiếc xe bò chở hai con trai
tôi cũng đã ngừng lại, ông già Miên cũng lật đật bỏ hai con tôi xuống
đất. Thế là năm mẹ con tôi riu ríu đi theo hai người lính Para vào bụi
rậm để chúng lục xét. Trong khi ấy, xe bò chở Vĩnh đã đi thoát về phía
trước. Tôi vái trời cho Vĩnh đi thoát, bề nào thì anh ấy là đàn ông, nếu
bị bắt lại thì lại bị tù tội gk có ngày về. Bọn Para hỏi lớn:
“Chồng bòn đâu?” ("Bòn" là anh hay chị).
Tôi lắc đầu quầy quậy và làm bộ ngớ ngẩn để tránh câu trả lời. Bọn lính Para bực tức hỏi to hơn:
-Chồng bòn đâu? Nói! Nói đi! Không thì ông lớn Para bắn chết!”
Tôi hoảng hốt nên làm thinh và chỉ tay về
phía đoạn đường vừa đi qua. Bọn Para không tin, chúng quay lại hỏi vói
tới mấy người Miên trong đoàn xe bò. Lập tức, một trong số những người
ấy chỉ tay về phía trước và nói tía lia.
Ngay tức khắc, một tên lính Para đạp xe đạp
chạy đuổi theo xe bò chở anh Vĩnh. Thôi rồi! Anh Vĩnh cũng sẽ bị bắt
rồi! Thằng còn lại lấy báng súng đánh mạnh vào lưng tôi, rồi thuận chân,
hắn đá vào người tôi một cách giận dữ vì tôi đã đánh lừa nó. Đôi giầy
săng đá - bốt đờ sô - đánh vào mông tôi. Tôi đau đớn rú lên. Tuy vậy,
cái đau của thể xác không làm cho tôi đau bằng cái nhục nhã của một con
người bị một đứa con nít đáng tuổi con cháu mình xúc phạm mình.
Lúc ấy, cả năm mẹ con tôi ngồi thụp xuống
đất, co ro và run rẩy như bầy chiên ở trước nanh vuốt cọp dữ. Từ đâu
không biết mà bọn lính Para người Miên kéo tới khoảng mười tên. Tất cả
đều còn rất trẻ, chỉ độ hai mươi lăm tuổi trở xuống đến mười bốn, mười
lăm tuổi. Thằng nào cũng mặc đồ lính dù, rằn ri hoa lá. Thằng nào cũng
đeo súng, đeo bùa màu đỏ tòn ten trên cổ. Chúng đeo tượng Phật vàng trên
cổ. Sau này tôi mới hiểu tại sao mà chúng có vàng vòng nhiều vậy - đó
là do việc cướp bóc tài sản của dân ty nạn đường bộ người Việt Nam. Nơi
cổ, nơi ngực, nơi tay chúng đều xâm hình Phật và nhiều chữ Miên.
Khi đó, chúng cười hằng hặc vì đã túm được
con mồi là gia đình tôi. Tôi sợ quá rồi. Chỉ cần nhìn những khuôn mặt
đen đúa của chúng, chỉ cần nghe giọng cười khả ố là tôi sợ đến khiếp
đảm.
Tất cả những câu chuyện mà tôi được nghe
hồi ở Việt Nam chợt hiện đến trong đầu. Nào là dân tỵ nạn Việt Nam bị
chặt cổ, nào là họ bị bắn, bị mổ bụng ở rừng biên giới. Nào là chuyện
“cáp duồn”: Vào các năm 1970, 1971, người Việt Kiều ở Miên phải hồi
hương vì người Miên nổi lên chặt đầu, hãm hại và giết chóc người Việt.
Tôi chợt nhớ đến câu chuyện sử mà thầy giáo tôi đã kể hồi tôi học lớp
Nhất (lớp Năm bây giờ) rằng Chúa Nguyễn Ánh đã sai tướng Lê Văn Duyệt
đánh phá Cao Miên và tiến đánh Siêm (Thái Lan). Quân lính Việt Nam hồi
ấy đã giết hại quân lính Miên rồi dùng dao chặt đầu họ để kê làm bếp nấu
cơm - Cứ ba cái đầu người Miên làm thành một cái bếp. Rồi lại cướp đất
của người Miên để làm đất của người Việt Nam. Do đó, hai dân tộc căm thù
nhau vô cùng. Tôi nhớ đến những câu chuyện ấy mà rùng mình, rởn gai ốc.
Không hiểu đó là sự thật hay do thầy tôi thêm thắt, dệt thêm. Dòng tư
tưởng đưa tôi liên miên suy nghĩ và liên hệ đến thực tại. Tôi nhủ thầm:
"Chắc bọn họ chờ dịp này để hãm hại dân mình rồi đây, mình là nạn nhân của sự trả thù ngàn đời về trước rồi!"
Chúng tôi run sợ như lũ nai tơ bị bầy chó
sói bao vây để hãm hại. Sau này, tôi được biết là trong cánh rừng đó,
bọn lính người Miên tên Para, Pol Pot và lính kháng chiến quân của người
Lào cũng ở đó. Không một ai thoát khỏi nanh vuốt của bọn lính này. Hàng
ngày, hàng giờ, bọn chúng chia nhau ngồi ở hai bên đường mòn để chực
bắt các người tỵ nạn Việt Nam. Chúng dùng tiếng Miên để kiểm soát và lọc
ra những người không hiểu tiếng Miên. Vả lại, nét mặt, màu da, dáng
điệu của người Việt khác xa người bản xứ. Chỉ cần quan sát kỹ cũng đủ
nhận ra. Nếu may ra mà gặp lính của vị tướng người Lào thì đỡ hơn vì
tương đối họ tử tế và có tác phong tốt hơn.
Bọn lính Para ra dấu hiệu cho chúng tôi đi
theo chúng vào sâu trong rừng cây. Ba thằng lôi tôi vào bụi rậm, bắt tôi
cởi hết áo quần. Trong lúc tôi đứng tơ hơ thì bọn chúng chia nhau lục
xét áo quần và xà rông của tôi. Rồi chúng chia nhau xét cái giỏ quần áo
của tôi. Chúng bắt tôi chổng mông để chúng móc ở hậu môn, ở cửa mình để
kiếm vàng. Bàn tay chúng thô và to như những trái chuối. Tôi đau đớn và
hổ thẹn, muốn khóc mà khóc không được. Cái nhục không thể nào kể xiết
được. Nỗi hận thù chất đầy tâm trí. Tôi không dám chống cự và la hét vì
sợ bị giết ở ngay tại đó, tội nghiệp cho bầy con vô tội ngây thơ.
Sau đó, bọn lính bóp miệng tôi để xem có
vàng nhẫn dấu trong miệng tôi không. Rồi chúng nắm tóc tôi gỡ ra từng
đám để xem tôi có cột nhẫn vàng trong tóc không. Xét kỹ lưỡng mà chúng
chả tìm được một xu nhỏ nơi tôi, bọn chúng tát cho tôi mấy cái tát tóe
lửa rồi xô tôi té nhào vào bụi gai. Tôi rú khẽ vì quá đau. Máu từ vết
thơng bị gai đâm rỉ ra. Tôi đau quá, ứa nước mắt sống ra. Trong lòng
tôi, tôi nhủ thầm:
"Bọn khốn nạn, chúng mày sẽ phải trả giá đắt cho việc làm chó má của chúng mày!”
Tới phiên các con tôi, chúng lôi các cháu
vào nơi khác để xét. Chúng bắt các cháu cởi quần áo để chúng mong tìm
chút vàng hay tiền. Cuối cùng, chúng lôi được tờ bạc hai mươi dollars mà
tên lính Miên hôm qua đã thí lại cho chúng tôi từ chiếc quần của cháu
Trang. Thế là chúng đánh con tôi túi bụi vì con bé đã không chịu đưa cho
chúng ngay, phải đợi chúng xét mới thấy.
Con gái tôi khóc rấm rứt vì bị đòn. Chúng
cũng xét miệng các cháu, bóp miệng, nắm tóc móc hậu môn. Xét chưa xong
thì tên lính Para kia đã đưa được anh Vĩnh đi ngược về. Chúng xô Vĩnh té
nhào xuống đất, rồi đánh anh bằng báng súng. Mặt anh tái nhợt. Chúng
tôi đưa mắt nhìn nhau mà ứa lệ. Ngôn ngữ không đủ để diễn tả cho phút
nhục nhã cực điểm ấy Thế rồi chúng bắt anh Vĩnh tới lùm cây khác để xét
của. Chúng bắt Vĩnh cởi truồng, chổng mông để chúng tìm nhẫn vàng trong
hậu môn. Rồi lại một màn bị bóp miệng, bị đánh đấm nữa. Chúng bực bội vì
gặp một bọn nghèo mạt như gia đình tôi. Chúng hung hăng như bầy quỷ dữ.
Chúng nói đủ thứ mà tôi không thể hiểu được. Rồi chúng hất hàm cho phép
chúng tôi mặc quần áo. Chúng tôi cắm đầu mặc đồ vội vàng, không dám nói
chuyện hay hó hé gì cả.
Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có
những tiếng hét thảm thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm
lính Para khác đang tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác.
Tiếng kêu thét như tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột,
vang động cả núi rừng. Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không
ngờ mình đã gặp phải một bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng
quá vì sợ chúng hãm hiếp mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng
đã to, chứ không thì... Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết.
Bọn lính Para hằn học đá tung mấy cái giỏ
của chúng tôi và ra dấu cho gia đình tôi ngồi lại một chỗ chung với
nhau. Từ nãy đến giờ, những người chủ xe bò thấy chúng tôi bị bắt xét,
nên họ cũng ngừng xe lại để nghỉ ngơi, cho trâu bò ăn rơm và để nấu cơm
cho bữa ăn trưa.
Một ông Miên tuổi trung niên, đi trong đoàn
xe bò của tôi bước đến nói rất nhiều với nhóm lính Para. Tôi đoán chừng
chắc ông ta kể cho chúng là chúng tôi đã bị cướp sạch từ ngày hôm trước
rồi. Rồi bọn Para nói đủ thứ như dặn dò ông trung niên nọ điều gì.
Chúng tôi ngồi lo nghĩ, mặt hướng về phía đường mòn và mong cho sớm được
thả. Nếu được thả sớm thì còn đi ké theo đoàn xe bò. Chứ nếu được thả
trễ, đám người kia ăn cơm xong rồi đi tiếp thì xe đâu mà đi, biết đường
đâu mà lần tới biên giới? Tiền đã mất trọn, không có người đưa đi thì
chắc chết cả gia đình. Mà còn kéo dài những phút này, còn sợ bị bọn
chúng hãm hiếp và giết hại.
Thời gian như ngừng đọng lại, tôi đưa mắt
nhìn ông Miên trung niên kia ra vẻ cầu xin ông giúp đỡ. Mắt tôi nhìn
ông, rồi quay nhìn chồng con, rồi lại nhìn bọn Para. Ông ta hiểu ý, quay
lại nói với bọn Para nữa. Khoảng độ nửa tiếng sau, chúng hất hàm ra dấu
cho chúng tôi được đi tiếp. Chúng tôi mừng quá chạy vội đến xe bò,
không dám chần chờ vì sợ chúng đổi ý thì chết. Nắng lên đã cao. Dù ở
trong rừng, cơn nắng vẫn quái ác, tác hại đến chúng tôi. Cái khát làm
bỏng cổ họng.
Chúng tôi leo lên lại hai xe bò. Tôi và hai
cháu gái một xe, hai cháu trai một xe, hai xe này khác hai xe chúng tôi
đã đi. Còn anh Vĩnh thì bị ông Miên trung niên đòi hết số giấy tờ quan
trọng của gia đình chúng tôi. Ông ta bọc số giấy tờ của chúng tôi vào
người ông rồi ông dắt Vĩnh đi bộ với ông ta. Tôi không hiểu ý ông ta
muốn gì mà lại giữ giấy tờ của gia đình tôi và lại còn bắt Vĩnh đi bộ
sát ông ta. Chắc bọn kia đã dặn dò ông ta làm như thế. Bây giờ chúng tôi
như cá trong rọ, chim trong lồng nên chỉ biết nghe lời người ta.
Trời đã về trưa, chúng tôi đi giữa cái
nóng, cái nắng và sự lo âu. Cháu Ninh kêu mệt và nằm ngửa trên xe bò,
dưới cơn nắng. Dù đang ở trong rừng nhưng nắng vẫn ác nghiệt đổ xuống
đầu chúng tôi. Tôi đau xót nhìn con trai nhưng không làm gì giúp con
được vì cháu ngồi xe phía trước, còn tôi ngồi xe phía sau. Bố nó lại
phải đi bộ một cách khổ cực.
Cứ thế chúng tôi câm nín đội cái nắng mà
đi. Các con trâu, con bò cũng mệt mỏi, chúng chẳng thèm bước, chủ chúng
phải rút ra cái roi có đinh nhọn để đánh chúng, buộc chúng đi. Chúng kêu
lên đau đớn. Trông thật tội nghiệp. Đi khoảng nửa giờ, chúng tôi lại
gặp một bọn Para khác, chúng lại bắt chúng tôi xuống xe bò, vào bụi. Lại
một màn xét, lục lọi, nắn bóp và đánh đập, và chửi rủa. Chúng tôi làm
thinh chờ. Bọn lính này tức giận vì không kiếm được một xu nơi chúng
tôi. Còn gì nữa đâu mà cướp mà lấy?
Lúc này, cháu Ninh đã mệt lả, cháu xỉu luôn
tại lùm cây đó. Mặt cháu tái xám, đôi mắt nhắm chặt như chết rồi. Tôi
thương con quá. Rồi chúng tôi xúm lại lôi dầu cù là ra để bôi và giựt
tóc mai cho cháu. Tôi biết chắc là cháu không trúng gió gì cả mà chỉ vì
đói, khát và trúng nắng mà thôi. Sức cháu yếu, sự chịu đựng chỉ có hạn
mà sự khổ sở thì vô vàn. Cháu xỉu là phải. Tôi quay nhìn bọn Para hung
dữ, cổ chúng toàn màu đỏ và đủ loại bùa. Chúng xâm hình tượng Phật đầy
mặt mũi tay chân. Mặt thằng nào cũng đen đúa. Tôi chỉ cháu Ninh, rồi chỉ
một bình nước ra ý muốn xin cho cháu một ngụm nước. Chúng gật đầu,
chúng tôi liền đưa vào miệng đứa con. Đứa bé vội mở mắt, uống ngay.
Nhưng, cháu vừa uống được một hớp thì một tên Para giằng bình nước lại
và cất đi. Tôi tức muốn khóc. Cháu Ninh vẫn nằm thiêm thiếp, mặt tái
mét.
Ở góc cây phía xa, tôi thấy hai cô gái Việt
Nam đứng run rẩy, nét mặt còn hằn vẻ đau đớn, nước mắt còn lưng tròng.
Quần áo các cô rách nát tả tơi. Tôi đau nhói trong lòng, không dám hỏi
han, chỉ biết thương và xót cho các cô gái xinh tươi đó. Anh Vĩnh ghé
sát tai ông Miên giữ giấy tờ của chúng tôi, anh ra hiệu để ông ta nói
với bọn Para cho đi tiếp.
Đoàn người đi buôn lậu vẫn tấp nập qua lại
trên đường rừng. Một số người thấy cảnh tình con tôi bị xỉu thì họ đứng
lại xem và bàn chuyện. Chúng tôi biết chỉ có cách là chịu nhịn, năn nỉ
bọn lính Para mà đi thì mới mong yên thân, nếu còn ở lẩn quẩn đâu đây,
nếu chúng buồn tình lia cho một tràng đạn thì uổng công, uổng đời quá.
Đã đến lúc cùng cực ấy, tôi chịu nhục, chắp
tay lạy bọn Para để xin cho đi tiếp; chúng cười ha hả vì thấy có kẻ lạy
chúng. Tôi chỉ tay liên tiếp về phía cháu Ninh đang nằm bất động để
mong chúng động lòng thương hại. Chúng suy nghĩ rồi gật đầu. Thế là Vĩnh
cõng con trai chạy thật lẹ đi kiếm xe bò.
Đoàn xe bò đã đi khuất từ lúc nào, có lẽ từ
lúc chúng tôi cạo gió cho con. Chúng tôi đành lếch thếch kéo nhau đi bộ
dưới cái nóng tàn bạo. Ông người Miên dẫn chúng tôi đi tiếp. Tôi dặn
Vĩnh phải bám sát ông ta kẻo lạc ông ta là mất hết giấy tờ quan trọng
của mình. Cứ thế, chúng tôi lại đi bộ như lết. Vĩnh cõng cháu Ninh, tôi
cõng cháu Kim, còn hai cháu lớn lếch thếch chạy bộ phía sau. Tay chúng
tôi còn hai xách giỏ quần áo, thùng nước và hai chai nước. Hai chai nước
còn quý hơn mọi thứ gì khác, mất chúng là chết khát.
Như một bọn ăn mày lem luốc, chúng tôi bước
đi nặng nhọc. Hai chân mỏi rã rời. Cơn khát làm bỏng cổ, cháy họng. Cái
nắng chói chang làm chúng tôi tối tăm mặt mày, hoa cả mắt, mắt nổ đom
đóm. Các con tôi hết sức để mà nói, mà than thở. Chúng phải chạy mới
theo kịp ông Miên dẫn đường. Tôi bâng khuâng tự hỏi không biết mình còn
chịu cảnh "vác thập giá" này đến bao nhiêu lâu nữa?
Tôi đoán chắc năm xưa, Chúa Giêsu vác thánh
giá chắc cũng đau đớn như chúng tôi lúc đó là cùng, khác hơn là Chúa
chỉ có một mình. Còn chúng tôi phải lo nghĩ, băn khoăn cho sự sống và an
sinh của gia đình gần bảy người.
Cái nắng bây giờ đã ở trên đỉnh đầu nên
càng làm chúng tôi mệt mỏi hơn. Phân bò rơi rải rác đầy đường mòn nên
chúng tôi phải đi cẩn thận để khỏi đạp trúng các đám phân bò ấy. Chân
chúng tôi bắt đầu sưng tấy lên và gây cơn nhức nhối. Tôi lên tiếng kêu
Vĩnh kéo ông Miên dẫn đường đứng lại để chúng tôi được nghỉ dừng chân
một tí cho đỡ mệt. Nhưng kệ, ông ta vẫn cắm đầu bước thật mau. Hình như
ông đã quá quen với việc đi bộ và với lộ trình này. ông ta nói tía lia
và chỉ tay về phía trước. Vĩnh chẳng hiểu gì nhưng anh vẫn hỏi:
"Xiêm? Xiêm?" ý là "Tới Thái Lan chưa?"
Ông Miên gật đầu và ra dấu cho gia đình tôi
bước mau hơn. Trên lưng Vĩnh, cháu Ninh mắt nhắm chặt, mặt xám ngắt.
Cháu đã bất động từ hồi lâu rồi. Tuy cơn mệt mỏi đã lớn và giãn nở ra,
nhưng chúng tôi buộc lòng phải cố mà lết về phía trước để hy vọng đến
trại tỵ nạn sớm mà xin cơm, nước và thuốc cho cháu Ninh và các đứa con
khác của tôi.
Trên lưng tôi, cháu Kim rên rỉ vì quá khát,
nó cũng chẳng còn sức đâu mà khóc, mà nói nhiều nữa, nó chỉ rên khẽ
trong miệng. Thời gian như ngưng đọng lại. Từ phía sau của chúng tôi,
một cô gái người Miên - người mà tôi đã gặp lúc chúng tôi dừng lại để
nấu cơm cùng với bọn người đi xe bò chiều hôm trước - đã đi bắt kịp
chúng tôi và sau đó, ông Miên và cô gái vừa đi vừa thảo luận. Tôi nghe
mà chẳng hiểu gì. Cơn mệt quá sức. Cơn khát quá sức chịu đựng. Tôi đứng
lại thở hắt ra và la lớn:
"Tắc, tắc, bòn ơi! Tắc, tắc!" (Uống, uống, ông ơi, cho tôi uống!)
Hai người Miên kia quay lại nhìn tôi và nói
thật to những tiếng Miên mà tôi chẳng hiểu gì, nhưng qua ngôn ngữ quốc
tế, tôi đoán là chắc sắp đến nơi rồi.
Hai đứa con lớn của tôi vừa đi vừa chạy,
mặt chúng đã xạm đi vì cháy nắng. Chúng đưa mắt nhìn tôi cầu cứu và van
lơn. Hai chai nước đã trống rỗng vì hết đã từ lâu nhưng chúng tôi vẫn
phải giữ cái vỏ chai để dành khi gặp vũng nước ao tù hay ao nước bùn thì
lấy nước dùng. Hai cái vỏ chai mà chị Tư đã cho lúc này đập long coong
vào nhau vì cháu Khang đã đuối sức, nó cứ để cho hai cái vỏ chai trống
rỗng tha hồ đập vào nhau.
Lúc ấy, tôi chỉ sợ lỡ hai chai đó bể thì sẽ
chết khát vì không còn gì để đựng nước. Vì thế tôi quay về hướng Khang
và hất hàm ra dấu cho cháu đeo hai chai nước lên vai. Làm như vậy thì
cháu đỡ phải xách vì một chai ở phía trước còn chai kia ở sau lưng. Sau
này, cũng nhờ hai cái vỏ chai tầm thường đó mà chúng tôi có đồ chứa nước
để chạy giặc và để dấu kỹ trong lều tỵ nạn.
Đối với dân ty nạn đường bộ như chúng tôi
thì những đồ đựng nước còn quý hơn vàng bạc. Ở các trại tỵ nạn sâu trong
rừng hoang, cho dù có tiền vẫn không thể mua gì được vì không có chợ
cũng không được đi ra ngoài vòng rào của trại. Về sau, người ta ăn cắp
chai nước của nhau đều đều. Kẻ bị mất chai nước thì sáng hôm sau dậy
khóc la thảm thiết vì tiếc của.
Rồi dưới cơn nắng đổ lửa, chúng tôi lết đi
theo sự dẫn đường của hai người Miên. Cực hình đeo đẳng, chúng tôi chỉ
mong chết ngay lập tức để tránh nỗi khổ sở đó. Con đường trước mặt như
cứ dài thêm lên. Đứa con trên lưng cứ chực muốn rớt tuột xuống. Lâu lâu,
tôi phải đứng dừng lại để sửa vị trí đứa con lại cho ngay ngắn. Mỗi lần
như vậy, tôi phải chạy mới theo kịp những người khác.
Đến khoảng một, hai giờ trưa ngày 10 tháng 4
năm 1980, gia đình chúng tôi đến một đồn lính. Lúc đó, tôi chẳng biết ở
trong đó có những ai, nhưng vì tưởng tượng nhiều quá nên tôi nghĩ rằng
chắc nơi đây có hội thiện nguyện, có người Âu Mỹ. Chắc họ sẽ đón tiếp
mình ân cần lắm vì hội thiện là một tổ chức nhân đạo. Tôi lại hình dung
đến những ly nước đá mát rượi, những chai nước si rô màu đỏ, màu cam hay
những miếng dưa hấu đỏ óng ánh và những trái xoài chín vàng thơm ngon.
Có lẽ họ sẽ cho mình các thức ăn đó.
Tôi cố nuốt nước miếng và quay ra hỏi ông
Miên dẫn đường, dù biết rằng ông ta không hiểu tôi nói "trại ty nạn.” là
cái gì. Ông Miên đáp:
"Ông lớn Para!"
Từ ngữ "Ông lớn" này được tất cả những
người Miên mà tôi gặp trên xe bò hay trên đường đi dùng để nói về bọn
lính Para. Họ nói chữ "Ông lớn" bằng tiếng Việt Nam. Bọn lính trẻ Para
mà tôi gặp ở trong rừng cũng từng tự xưng là "Ông lớn". Về sau tôi còn
được biết nghĩa chữ ông lớn dịch ra tiếng Miên là "Lục thum" hay "Lục
thung.”
10. Kết Luận:
Cuối cùng, khi chúng tôi đến được biên giới Thái Miên thì ai cũng tơi tả và rách rưới như những người hành khất.
Đến được trại Non Chan, chúng tôi nhập đoàn
vói nhóm ông Phạm Thanh và gia đình ông Lê Tấn Lý. Chúng tôi sống lây
lất trong 7 tháng trời trong cơn đói khát và khổ cực.
Những gì xẩy ra trong các trại tỵ nạn mà
gia đình chúng tôi ở như ở các trại Non Chan, Northwest 9 (NW9),
Panatnikhom Holding Center, và Rangsit Transit Center thi cũng đã được
mô tả kỹ lưỡng trong các phần kể chuyện của những người bạn tỵ nạn của
chúng tôi ở các chương trước.
Trong lúc mang thai cháu bé, gia đình chúng
tôi phải chạy giặc nhiều lần, mỗi lần chạy giặc về thì rơi mất dép, mất
các chai nước để dành trong lều và mất luôn quần áo.
Cùng với những người tị nạn khác sống trong
trại Non Chan và NW 9, chúng tôi luôn phải chạy trốn vì trại tị nạn nằm
giữa hai lằn đạn của Việt Công và Thái Lan. Nhưng nỗi thống khổ vô cùng
lớn lao, bút mực không tả xíêt. Cảnh đói khát, áp bức, tranh giành và
hiếp đáp xẩy ra hằng ngày như một tấn bi hài kịch trên sân khấu.
Một điều đặc biệt là tôi sinh ra một cháu
gái có tên là Hà Thái Thiên Hương vào đêm rạng sáng 17 tháng 7 năm 1980.
Cháu sinh ra mà không có nước để tắm, không có quần áo tã lót để mặc.
Mẹ cháu phải đi bộ rất xa để đến các hố vệ sinh, dù vừa sinh con. Gia
đình tôi phải xin một miếng vải bao gạo để làm võng cho cháu bé nằm.
Thấy con sinh ra giữa cảnh không nhà, không tiền bạc, không quần áo,
không nước tắm, lòng chúng tôi xót xa ngậm ngùi.
Ngày nay, sau 27 năm, cháu Thiên Hương đã
tốt nghiệp đại học UCI. Cháu là đứa con rất thông minh, tài giỏi và
ngoan ngoãn nhất trong gia đình. Vợ chồng tôi luôn cảm tạ Thiên Chúa và
Mẹ Maria vì hồng ân cao cả mà gia đình chúng tôi đã nhận được. Lòng biết
ơn của gia đình chúng tôi thể hiện nơi cái tên mà chúng tôi chọn cho
cháu Thiên Hương. (Hương Thơm của Thiên Chúa.)
Đi vượt biên đường bộ mà không bị bắt hay
bị giết, không lạc thân nhân, không bị hãm hiếp thì đó là một hồng ân mà
muôn đời chúng tôi không ngớt ngợi khen Danh Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi
không quên cầu nguyện cho các bạn tị nạn xấu số. Họ mãi mãi bị vùi xác
nơi rừng hoang biên giới, chết tức tưởi mà không ai biết nơi chôn.
Xin quý vị cùng các bạn cùng giữ thinh lặng
trong giây lát để dâng một lời cầu nguyện chân thành cho các hương hồn
người tị nạn đường bộ Việt Nam đã dám hy sinh mạng sống để tìm tự do.
Xin Thiên Chúa đầy Lòng Thương Xót giải oan và giải thoát cho linh hồn
các nạn nhân này sớm hưởng Nhan Thánh Chúa!
Kim Hà
22/4/07 (Những Ngày Của Tháng Tư Đen)
Sunday, November 17, 2013
THY NGA * HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG
Chuyện kể Hành trình Biển Đông
Thông thường thì quốc gia nào cũng vậy, qua một
quá trình thay đổi, thì cái giai đoạn mà người Việt chúng ta đi tìm tự do qua
hành trình Biển Đông là cái giai đoạn mà chúngta cần phải nhìn lại. Cái nhìn
lại không phải để chúng ta nhớ lại những đau thương nhưng mà cái nhìn lại,
chúng ta giúp cho thế hệ mai sau biết được những gì mà cha mẹ của họ, những
nguyên nhân tại sao ra đi, và những gì mất mát qua hành trình Biển Đông.
… chúng ta giúp cho thế hệ mai sau biết được những gì mà cha mẹ của họ, những nguyên nhân tại sao ra đi, và những gì mất mát qua hành trình Biển Đông.Ngụy Vũ
Thy Nga:
Vào năm 2002, Ngụy Vũ
khởi xướng cuộc thi truyện ngắn, để người Việt tỵ nạn ở các nơi có cơ hội kể
lại hành trình vượt biển mà chính họ đã trải qua năm nào và chưa thể xóa nhòa
trong tâm trí.
Ngụy Vũ:
Thưa chị Thy Nga và quý vị, Ngụy Vũ đến Pilau
Bidong vào năm 1989, sau 14 tháng Ba 1989 tức là Vũ phải ở trại mấy năm trời
qua thanh lọc. Ngụy Vũ là một thuyền nhân, nạn nhân của cướp biển. Trước mắt
Ngụy Vũ, hải tặc Thái Lan giết mấy chục mạng người và bắt đi mấy chục cô gái.
Sau 5 ngày hãm hiếp, họ vứt tất cả những cô này xuống biển. Tuy nhiên, có một
cô sống sót do một chiếc tàu đánh cá Thái Lan vớt đưa đến Songkla (ở Thái).
“Biển cạn” nhạc bản
của Kim Tuấn, Khánh Hà trình bày …
Sau đó, Cao Ủy Tỵ Nạn đã giúp Vũ tìm ra được cô
gái ấy. Vũ mới bay qua Thái Lan để trình bày lại cái sự kiện cho cảnh sát Thái
Lan, và cùng với cảnh sát Thái ra ngoài biển Đông tìm những tàu mà đã từng giết
hại con tàu của Ngụy Vũ. Và trở lại cái làng ở Songkla bắt được mấy tên cướp.
Thy Nga:
Phải chăng vì chính
anh chứng kiến cái cảnh hãi hùng trên biển, nó thôi thúc anh dấn thân vào công
việc này?
Ngụy Vũ:
Những điều đó nó nằm trong ký ức, trong tâm hồn
của Ngụy Vũ cho nên Vũ mới thực hiện được cái chuyện mà Vũ đã theo đuổi suốt
trong mấy năm qua.
Về cuộc thi truyện ngắn, trên một ngàn người
thuyền nhân kể lại những chuyện thương đau của họ trên Biển Đông cũng như là qua
các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á.
Từ trên một ngàn câu chuyện đó, hội đồng giám
khảo các nhà văn lựa ra khoảng một trăm truyện tiêu biểu để làm sử liệu về
Thuyền nhân Việt Nam.
Từ một trăm câu chuyện đó, chúng tôi chia ra làm
2 bộ sách, gọi là tập 1 và tập 2 của “Chuyện kể hành trình Biển Đông” và Ngụy Vũ
có diễn đọc trong bộ 10 CD.
Sound from audio book
…
Thưa quý vị cũng biết, con tàu Cap Anamur của
Đức, vào năm 1979, Tiến sĩ Rupert Neudeck vận động tàu Cap Anamur đã cứu được
gần 12 ngàn thuyền nhân.
Ngụy Vũ nhớ công ơn của ổng, công ơn người Đức đã
cưu mang thuyền nhân Việt Nam cho nên Vũ đã bay qua Đức hai chuyến, nhờ bạn bè
và một số hội đoàn tại đó để mà làm cái bản Đức ngữ cho người Đức hiểu được tại
sao người Việt chúng ta có mặt trên nước Đức.
Sau đó, Vũ tiếp tục vay mượn được một số tiền,
chuyển dịch ra bản Anh ngữ tên là “Risking death to find freedom” (Liều chết để
tìm tự do). Năm 2006, Hành trình Biển Đông Foundation hoàn tất tập bằng Anh ngữ
- có lẽ, cái tuyển tập bằng Anh ngữ đó mới chính thức nói lên toàn bộ những cái
gì mà người Việt Nam chúng ta đã đi tìm hai chữ Tự Do, và cụ thể nhất là cho
nước Mỹ cũng như lương tâm nhân loại hiểu một cách rõ ràng hơn.
… qua sự gặp gỡ, chúng ta biết rằng mình là những người may mắn thì chúng ta cùng nhau tưởng niệm, nhớ lại những người đã cùng với chúng ta đi tìm tự do qua hành trình Biển Đông mà họ mãi mãi không đến được bến bờ.Ngụy Vũ
Ngụy Vũ hoàn tất, in ra được khoảng một ngàn cuốn
đầu tiên để gởi vào Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, các thư viện, các trường đại học
Hoa Kỳ, và bạn bè trên các quốc gia nói tiếng Anh. Nhờ như vậy mà rất nhiều
trường đại học đã biết về thảm trạng thuyền nhân Việt Nam. Đó là một trong
những mục đích cao nhất mà Ngụy Vũ muốn theo đuổi.
Kế hoạch kế tiếp là phát hành tầm vóc hơn cho
người Việt trên toàn thế giới thì Ngụy Vũ đã ngưng lại, là vì … đến đó thì hết
tiền.
Ngụy Vũ nghĩ rằng qua cái việc đã hình thành 2
tuyển tập nói lên thảm trạng thuyền nhân Việt Nam thì hy vọng có được một sử
liệu để cho đời sau hiểu được những cái giá mà thuyền nhân Việt Nam đã trả.
“Xác em nay ở phương
nao” Hằng Nga hát …
Vào Chủ Nhật đầu tháng Tư, Ngụy Vũ tổ chức Ngày
Thuyền Nhân, và hầu như ngày này đã trở thành một ngày truyền thống. Hằng năm,
chỉ cần có các thông báo đơn giản là thuyền nhân khắp mọi nơi tụ họp tham dự.
Mỗi năm như vậy, có trên một ngàn người quy tụ tại Nam California. Mục đích
Ngụy Vũ muốn là qua sự gặp gỡ, chúng ta biết rằng mình là những người may mắn
thì chúng ta cùng nhau tưởng niệm, nhớ lại những người đã cùng với chúng ta đi
tìm tự do qua hành trình Biển Đông mà họ mãi mãi không đến được bến bờ.
“Lời kinh đêm” Việt
Dzũng trình bày …
Những người mà ngày xưa đã cùng thuyền, cùng
trại, cùng đảo, có dịp gặp lại nhau. Đây là một sinh hoạt mà hầu như năm nào
cũng tạo sự xúc động.
Trong cuốn tiếng Anh mà giáo sư Richard Sindt là
người hiệu đính lại phần Anh ngữ, ông nói đây là một chương trình và một cái
ngày mang tính nhân bản rất cao.
Thy Nga:
Như tựa đề cuốn sách, biết bao con người dân Việt đã vượt
cái chết để tìm sự sống và từ những nát tan trong đời, họ đã nỗ lực vươn lên để
không những tồn tại, mà còn gầy dựng cho con cái thành đạt, và ổn định cuộc
sống ở hải ngoại.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/MusicForWeekend/The-story-of-a-south-china-sea--journey-tnga-04262009130812.html
TRẦN ĐÌNH PHƯỚC * KHÔNG BỎ ANH EM, KHÔNG BỎ BẠN BÈ.
Tình Cờ Trên Một Chuyến Xe.
KHÔNG BỎ ANH EM, KHÔNG BỎ BẠN BÈ.
Còn vài ngày nữa là đúng một tháng thân mẫu bạn TQT mất. Tôi xin viết
vài hàng để nhớ lại một lần tình cờ gặp bà trên chuyến xe đò thăm nuôi
tù cải tạo từ Sàigòn đi Xuân Lộc - Đồng Nai vào đầu năm 1983. Lúc đó tôi
tự nguyện đi thăm một Niên trưởng Không Quân mà vợ con anh đang chịu
khổ cực ở vùng Kinh tế mới với bao nhiêu khó khăn, thiếu thốn và không
thể nào có điều kiện để đi thăm nuôi anh.
Chuyến xe khởi hành ở số 54 đường Hoà Hưng, Quận 10 vào lúc 5 giờ sáng.
Chủ xe kiêm tài xế tên Hạnh rất vui vẻ và thông cảm với bà con đi thăm
nuôi. Vé xe cho mỗi người là $50.00 ( Bằng một tháng lương của giáo viên
hay công nhân viên lúc đó), nhưng không hiểu sao ông ta chỉ tính tôi
nửa giá, chắc là ông tội nghiệp cho tôi.
Xe chở chật cứng, hành khách phải ngồi chen chúc lên nhau. Mỗi người đi
thăm nuôi thân nhân, ai cũng cố gắng mang theo các quà cáp càng nhiều
càng tốt. Nếu ai có người nhà ở nước ngoài tiếp viện thì quà cáp rủng
rỉnh hơn. Riêng phần tôi chỉ đựng trong giỏ một đệm gồm : 2 ký đường tán
loại Oval, 2 ký muối hột, ít bánh kẹo, ít chà bông, 1 hủ dưa muối, 1
lon Guigoz đậu phụng, 1 ký mè đen, 1 ký tôm khô, 2 cây thuốc lá hiêụ hoa
mai, 2 bánh thuốc lào Cái Sắn, 1 bịch thuốc rê, ½ ký cà phê, 1cây kem
đánh răng, ít thuốc bổ, 20 viên Aspirin và 3 viên Fansida ( Thuốc trị
sốt rét rất công hiệu), lúc này hoàn cảnh tôi cũng không khá gì. Tôi
phải nhờ đến anh em trong gia đình, kêu gọi một số bạn bè và người quen
có lòng tốt, mỗi người giúp một tay cho chuyến đi thăm nuôi tự nguyện
này.
Đường từ Sàigòn đi Long Khánh chưa đầy 100 cây số. Tuy nhiên, mất rất
nhiều thời gian di chuyển vì phải qua nhiều trạm kiểm soát của quản lý
thị trường và công an kinh tế. Xe chạy cứ một chập là phải ngừng lại để
cho họ leo lên lục soát. Họ cố tình đặt nhiều trạm kiểm soát dọc đường
để tìm bắt hàng lậu, hàng nhà nước cấm. Thật ra mục đích là bắt bà con
đi buôn chuyến phải nộp tiền mãi lộ cho họ, Riêng phần tài xế đều phải
chung cho họ một số tiền đóng hụi chết tùy theo họ ấn định ở mỗi trạm.
Mỗi lần sắp đến trạm kiểm soát, tài xế cho xe chạy chầm chậm, rồi ngừng
lại cách xa trạm khoảng 50 mét, anh lơ xe lật đật nhảy xuống, chạy thật
nhanh đến trạm, trên tay cầm một cuộn giấy báo vo tròn bằng ngón tay
trỏ, trong chứa một số tiền gọi là “bồi dưỡng” và dúi thật nhanh vào tay
em nhỏ bán thuốc lá lẻ đứng kế bên trạm. Khi em này ra dấu hiệu riêng
là coi như xe đã làm tròn bổn phận, lúc đó họ vẫy tay cho xe đi. Nếu xe
nào không biết thế nào là lễ độ thì họ gây khó khăn, khám xét đủ thứ,
bắt xuống hết hàng, có khi đến chiều mới được rời khỏi trạm, một đôi khi
xe bị tạm giam, tài xế bị tịch thu bằng lái, khi đó hành khách bị đuổi
xuống hết, tự tìm xe khác tiếp tục đi. Đây là một hình thức tàn nhẫn,
sách nhiễu, ngăn sông, cấm chợ gây rất nhiều phiền phức, và khổ sở cho
người dân lương thiện.
Xe sắp đến thị xã Xuân Lộc, mọi người đều vui mừng, thầm cầu mong không
còn gặp bất cứ trở ngại nào khác đế cho kịp giờ thăm nuôi vì nếu chậm
trễ sẽ bị dời sang ngày hôm sau mới được thăm thì rất nhiêu khê. Có một
vài trường hợp, khi người nhà đến trại, không được gặp thân nhân vì họ
đang bị phạt kỷ luật, lúc đó chỉ để quà cáp lại ngoài cổng, nhờ giám thị
mang vô giùm (Đôi khi không đến tay người thân hoặc bị thất thoát nhiều
thứ) và uễ oải ra về trong hờn căm, uất hận.
Ngồi bên cạnh tôi là một bà cụ khoảng ngoài 60 tuổi, dáng điệu mệt mỏi
đang sắp xếp, kiểm tra và đếm lại các giỏ đệm được đan bằng lát, chất
đầy quà trong đó.
Thấy bà cụ mang theo nhiều quà quá. Tôi hỏi bà :"Có ai đi theo phụ giúp
bà không ? Làm sao bà có thể mang hết các thứ ấy đến trại với sức của bà
?” Tôi nói : “Chắc là bác trai sẽ vui mừng khi nhận được hết các món
quà này ?” Bà chậm rải trả lời : “Làm gì có bác trai mà vui với mừng.
Tôi đi thăm thằng con giai tôi. Giời ơi ! Nó cứng đầu, cứng cổ quá và
lại nóng tính nửa, nên giờ này vẫn chưa đươc người ta cho về, trong khi
bạn bè cùng lứa, cùng cấp bậc với nó đã được trả tự do gần hết, đã có
người vượt biên đến đảo, gửi thư về báo tin mừng cho gia đình, nghỉ mà
tội nghiệp và thương cho nó, không biết đến bao giờ họ mới tha cho nó về
với gia đình ?...”
Tôi lại hỏi tiếp : "Thế anh ấy cấp bậc và chức vụ gì mà bị nhốt lâu quá
hở bác ?...” Bà trả lời : “Nó chỉ là Sĩ Quan Không Quân, cấp bậc và chức
vụ tầm thường thôi, đâu phải ông Tá hay ông Tướng gì cho cam.
Nhưng tính nó hay cãi bướng và không biết nhẫn nhịn, nên nó tự làm khổ
tấm thân nó, mặc dù gia đình bác đã nhiều lần khuyên nhũ :" Im lặng là
vàng.” Tôi hỏi tiếp :“ Thế anh ấy tên gì và làm việc ở đâu ?” Bà cho tôi
biết con trai bà tên TQT, làm Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị ở Bộ Tư
Lệnh Không Quân. Lúc đó tôi liên tưởng ngay đến TQT khoá 7/68 KQ. Tôi
liền diễn tã con trai bà, vóc dáng cao ráo, giọng nói rõ ràng nửa Nam
nửa Bắc và khuôn mặt có nét hao hao giống bà. Tôi cho bà biết, anh T
cùng học chung khoá 7/68 KQ với tôi. Hồi ở quân trường Thủ Đức, anh và
tôi ở chung Trung đôi 383. Anh hay tự ái và nóng tính đúng như bà nói.
Bà hỏi tôi :" Sao cháu được về sớm và bây giờ đi thăm nuôi ai vậy ?” Tôi
trả lời với bà là : "Do may mắn và biết “ Nín Thở Qua Sông” nên được về
sớm, nay thấy một đàn anh gặp khốn đốn, hoạn nạn, đang sống trong tuyệt
vọng mà gia đình thì ở xa và hoàn cảnh nhiều khó khăn, nên cố gắng tìm
cách đi thăm một lần, để cho anh ấy giữ vững tinh thần, lạc quan chịu
đựng cảnh cá chậu chim lồng mà không biết đến bao giờ được về đoàn tụ
với vợ con, chẳng những thế đôi khi lại :
“Đến đây thì ở lại đây,
Chờ khi xanh cỏ, xanh cây mới về”
Chờ khi xanh cỏ, xanh cây mới về”
Bà rất ngạc nhiên vì bà đi thăm nuôi trên tuyến đường này nhiều lần, đây
là đầu tiên bà mới gặp trường hợp thăm nuôi như vậy. Sau đó bà tháo kim
băng nơi túi áo bà ba nâu, lấy ra 2 tờ giấy $10.00 đưa cho tôi và nhờ
tôi cầm biếu cho anh ấy, nhưng tôi lịch sự từ chối khéo và cám ơn lòng
tốt của bà đã nghĩ đến Niên trưởng của tôi đang cùng chung cảnh ngộ
giống như con trai bà. Đang trao đổi câu chuyện với bà thì nửa chừng
phải ngưng lại vì tài xế Hạnh cho biết xe đã đến ngã ba Ông Đồn. Tất cả
những ai đi thăm nuôi thân nhân ở hòm thư Z30A và B Xuân lộc - Đồng Nai
phải xuống xe để đổi xe khác vào trại. Riêng những ai đi thăm nuôi thân
nhân ở hòm thư Z30C và D Hàm Tân - Thuận Hải thì ở lại xe để ông ta chở
đi tiếp. Khi đó tôi mới biết bà đi Hàm Tân thăm anh T. Tôi xuống xe,
chào từ giã bà, không quên chúc sức khoẻ đến bà và nhờ bà chuyển lời
thăm anh T., cầu chúc anh sớm được về đoàn tụ cùng gia đình, để bà không
còn phải lặn lội thân già đi thăm con. Bà cám ơn tôi và cũng chúc gia
định tôi được an lành.
Nghe đâu khoảng đầu năm 1984, vào dịp Tết Giáp Tý, anh T được trả tự do
từ trại Z30C Hàm Tân - Thuận Hải mà không phải “ Nín thở qua sông hay Im
lặng là vàng.” Niên trưởng của tôi cũng được thả ra từ trại Z30A Xuân
Lộc - Đồng Nai hình như cũng trong khoảng thời gian này. Hiện anh và gia
đình đang định cư ở San José. Thỉnh thoảng anh em gặp nhau, ngồi tâm sự
bên ly cà phê đắng của quán Vĩa Hè hay H.O để tìm về một thoáng hương
xưa, hầu quên đi quảng đời tị nạn, tha phương còn lại, mà cái tình, cái
nghĩa của con người đôi khi rất bạc bẽo, tàn nhẫn trắng tựa như vôi…
Có một lần anh hỏi tôi : “Em không là thuộc cấp của anh, em chưa một
ngày giờ nào làm việc với anh mà sao lại đi thăm nuôi anh, trong khi
hoàn cảnh em, cũng như gia đình em đâu dư giã gì”. Câu hỏi này làm tôi
nhớ lại lúc được vào thăm anh ở Z30A - Đội 5 B máy cưa, tôi phải trải
qua các thủ tục đầu tiên - tiền đâu từ lúc bắt đầu làm đơn xin đi thăm
nuôi ở địa phương, chờ đợi họ cứu xét chấp thuận cho phép đi thăm, tìm
hỏi mua vé xe, thu xếp mọi chuyện gia đình và khi đến được trại, phải
trải qua rất nhiều cam go, bị hạch sách, bị hoạnh hoẹ, bị điều tra, bị
vặn vẹo, hỏi tới, hỏi lui, chất vấn đủ điều và đủ cách vì tôi không phải
là thân nhân ruột thịt của anh mà tại sao lại đến đây, trong khi đó
nghề nghiệp của tôi lại là cựu tù cải tạo với giấy tạm tha cho về và có
thể bị đưa trở lại trại tiếp tục cải tạo bất cứ lúc nào.
Ngoài ra, họ có thể gây bao nhiêu khó khăn, rắc rối cho tôi và tôi sẽ gặp nhiều bất trắc, nguy hiểm không lường đuơc vì dám cả gan đi vào hang hùm. Tuy nhiên, vì tấm lòng, vì tình chiến hữu nên tôi điếc không sợ súng, đã lỡ leo lên lưng cọp, do đó tôi không sợ hãi và sẵn sàng chấp nhận bất cứ những tình huống cho dù xấu nhất có thể xãy đến cho tôi. Anh đã xúc động, nước mắt chày ròng vì quá bất ngờ khi gặp mặt tôi, một thằng em trong quá khứ chưa hề nhận được bất cứ một ân huệ nào từ anh. Tôi chỉ cười và nói với anh : “Lá rách đùm lá nát trong lúc này mới quý anh ơi ! Và xin anh hãy quên đi, đừng bao giờ lập lại câu hỏi này nữa."
Ngoài ra, họ có thể gây bao nhiêu khó khăn, rắc rối cho tôi và tôi sẽ gặp nhiều bất trắc, nguy hiểm không lường đuơc vì dám cả gan đi vào hang hùm. Tuy nhiên, vì tấm lòng, vì tình chiến hữu nên tôi điếc không sợ súng, đã lỡ leo lên lưng cọp, do đó tôi không sợ hãi và sẵn sàng chấp nhận bất cứ những tình huống cho dù xấu nhất có thể xãy đến cho tôi. Anh đã xúc động, nước mắt chày ròng vì quá bất ngờ khi gặp mặt tôi, một thằng em trong quá khứ chưa hề nhận được bất cứ một ân huệ nào từ anh. Tôi chỉ cười và nói với anh : “Lá rách đùm lá nát trong lúc này mới quý anh ơi ! Và xin anh hãy quên đi, đừng bao giờ lập lại câu hỏi này nữa."
Viết vài hàng để nhớ lại một lần tình cờ trên chuyến xe đò thăm tù cải
tạo, gặp thân mẫu bạn TQT, một bà Mẹ Việt Nam đúng nghĩa. Lúc nào cũng
thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã và
bi đát của con mình. Cầu chúc bà yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng vì bà đã
sống suốt một cuộc đời tận tuỵ hy sinh cho chồng con.
Cầu xin bà phù hộ cho các con cháu đưọc bình an và hạnh phúc. Riêng phần tôi, tôi đã làm được điều.
Trần Đình Phước. San José
Trần Đình Phước. San José
Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè.
NGÂN BÌNH * PHÍA SAU NỖI ĐAU
Ngân Bình
Phía sau nỗi đau
“Đám cưới của con và Đông sẽ được hủy bỏ. Xin lỗi, con đã gây phiền hà cho ba mẹ vì quyết định đột ngột này.”
Dán mảnh giấy nhỏ lên tủ lạnh, tôi kéo chiếc vali con ra khỏi nhà, bỏ
lại sau lưng những tiếng la hét đinh tai, nhức óc. Từ bé đến lớn, tuy đã
chứng kiến hàng trăm lần cuộc cãi vã của ba mẹ, nhưng chưa lần nào tôi
xấu hổ và đau khổ như hôm qua khi Đông nhìn tôi bằng ánh mắt thoáng nét
giễu cợt:
- Liệu chừng khi sống chung, mỗi khi cãi nhau, em có gọi anh bằng mày giống mẹ của em…
Đông hất mặt về phía phòng ăn với cử chỉ -theo tôi- hình như có chút
khinh miệt. Tôi bất mãn và bực dọc vì sự vô ý, bất cần của ba mẹ. Tôi
nghĩ, ít ra ông bà cũng phải giữ gìn ý tứ trước mặt người con rể tương
lai để còn được Đông kính trọng. Rồi tôi giận lây sang cả ông trời, sao
lại đổ mưa bất ngờ để Đông không thể ra về trước khi cuộc chiến của ba
mẹ tôi bắt đầu, mà nguyên nhân không có gì ghê gớm, chỉ là xếp chỗ ngồi
cho bà con bên nội, bên ngoại trong tiệc cưới sắp tới của tôi và Đông.
Ba mẹ, ai cũng cho là bà con của mình đáng được ngồi ở hàng ghế danh dự
hơn, còn bên ông (hoặc bên bà) có gì mà phải ăn trên, ngồi trước. Nhưng
điều kinh khủng nhất là tiếng xưng hô mày, tao cùng những ngôn ngữ thô
lỗ, cộc cằn. Tôi đã từng tự hỏi, lúc ngọt ngào gọi anh xưng em với nhau,
ba mẹ có chợt nhớ lại những lời nặng nề đã nói với vợ (chồng) mình mà
cảm thấy ngượng ngùng không? Và câu trả lời của tôi là không. Vì nếu có,
thì sự thể đã không đều đặn tái diễn trong suốt mấy mươi năm nay.
Tôi nhớ, có lần Ánh Linh gào lên trong nước mắt khi cuộc cãi vã xảy ra
trong tiệc sinh nhật của nó có đông đảo bạn bè đang tham dự “con lạy ba
mẹ, ba mẹ đừng gọi nhau bằng mày tao nữa, con xấu hổ lắm”. Nhưng ba mẹ
tôi chẳng bao giờ biết kềm chế cơn giận dữ. Bất cứ nơi nào, lúc nào, có
mặt ai hay không, nếu cần trút cơn giận dữ thì cứ thản nhiên gấu ó,
không cần giữ gìn thể diện của nhau hay tội nghiệp con cái phải buồn,
phải thẹn.
Thường khi, tôi cứ vào phòng đóng cửa lại hay lấy xe đi đâu đó để ba mẹ
tự do đấu đá nhau. Chị em tôi gần nhau chai đá trước những trận chiến
không phân thắng bại ấy từ bé, nên chẳng cảm thấy gì ngoài cảm giác chán
chường. Nhưng lần này, câu hỏi của Đông như một cú đá thốc vào người
tôi. Cái cảm giác bị khinh khi, xem thường làm cơn giận của tôi chợt bốc
lên ngùn ngụt. Tôi nhìn Đông bằng ánh mắt gay gắt và hỏi một câu đáng
lẽ không nên hỏi:
- Giống thì sao, từ hôn hả? Nếu anh muốn thì cứ làm đi, đây không cần ai hết.
Cái vẻ hùng hổ của tôi làm Đông hơi bất ngờ. Hình như Đông định nói một
điều gì đó, nhưng sau cái mím môi anh nhún vai bước ra ngoài, không một
tiếng chào. Tôi xô mạnh cánh cửa, cũng không biết vì giận ba mẹ, tức tối
Đông hay căm ghét chính tôi khi nhận ra cách nói năng của mình sao hệt
khuôn mẹ lúc nghênh ngang thách thức ba.
* * *
Đặt ly cà phê bốc khói xuống chiếc bàn kê giữa một rừng hoa xum xê,
rực rỡ, nhưng đặc biệt chỉ có hai màu, chị Ánh Ly thích nhất là tím và
vàng nổi bật, hòa lẫn vào nhau, lòng tôi chợt dịu xuống. Mùi thơm thoang
thoảng từ những đóa hoa hồng mang sắc tím phơn phớt cho tôi cảm giác
thật nhẹ nhàng, dễ chịu, dù suốt đêm qua, trong tâm trạng hỗn độn, bất
an, tôi không chợp mắt dù chỉ một phút ngắn ngủi.
- Vậy mà ba năm rồi. Mau quá phải không Liên?
Chị Ánh Ly kéo ghế ngồi xuống cạnh tôi. Vâng! ba năm. Kể từ ngày chị
theo chồng về thành phố núi non trùng điệp này, chị em tôi không có dịp
gặp nhau. So với ngày trước, chị Ánh Ly xinh đẹp hơn nhiều. Khuôn mặt
đầy đặn cùng làn da trắng mịn với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi cho
tôi biết chị đang có một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Thật sự, tôi
không tìm thấy một chị Ánh Ly nghiêm khắc, lúc nào cũng quắc mắt, toét
miệng rầy la những đứa em phá phách nghịch ngợm: “Mấy đứa kia, có nghe
tao nói hay không? ” Hoặc: “Chúng mày có im ngay không, hay muốn tao tát
mỗi đứa một cái cho vỡ mồm?”. Bây giờ tôi mới nhận ra một điều, chị Ánh
Ly không còn mày tao với tôi nữa. Tiếng xưng hô ngọt lịm và cách cư xử
thật dịu dàng của chị làm tôi cảm thấy lạ lùng. Bắt đầu từ lúc nào vậy
ta?
Thấy tôi tủm tỉm cười, chị cũng cười theo với vẻ tò mò:
- Có chuyện gì thú vị mà cười một mình vậy? Nói cho chị nghe được không?
Sợ chị ngượng ngùng tôi không dám nói thật ý nghĩ của mình.
- Nhìn chị, em nhớ ngày trước, mỗi lần tụi em làm sai chuyện gì là chị
xén áo, một tay chống nạnh, một tay cầm cây roi, quát tháo ầm ĩ. Tụi em
hay lén gọi chị là bà chằn lửa. Đâu ngờ bà chằn bây giờ lại dịu hiền,
xinh đẹp quá.
Tôi âu yếm nắm hai bàn tay mềm mại của chị:
- Anh Bắc vẫn tốt với chị như hồi chưa cưới chứ? Anh chị hạnh phúc lắm phải không?
Chị gật đầu, đôi mắt long lanh niềm cảm xúc:
- Thật ra, hai người xuất thân từ hai gia đình khác nhau từ nếp sống đến
lối suy nghĩ, để có được cái hạnh phúc ngày hôm nay cũng phải trải qua
nhiều thử thách, sóng gió. Nhớ thời gian đầu chung sống, chị cứ quen
thói quát tháo đàn em, nên cứ điều gì không hài lòng là chị làm ầm ĩ.
Anh Bắc không nói gì, chỉ im lặng nhìn chị. Cái nhìn lạ lẫm như đang tò
mò muốn khám phá một người từ hành tinh khác làm chị cảm thấy quê. Từ đó
chị cố gắng tự nhắc nhở và kềm chế mình.
Tôi thập thò dò hỏi:
- Em nhớ khi chưa cưới chị anh Bắc thường tới nhà chơi. Vậy, có lần nào anh gặp ba mẹ cãi nhau không?
Chị Ánh Ly thở dài:
- Không gặp, nhưng có nghe khi vừa tới cửa.
- Rồi sao?
Thấy vẻ nôn nóng của tôi chị bật cười:
- Thì sao nữa, chạy một mạch về nhà không dám quay đầu lại.
- Nhưng anh Bắc có nói gì về những điều anh nghe được không? Anh có phân vân khi quyết định cưới chị không?
- Anh Bắc có nói với chị, hy vọng em không giống mẹ và anh không giống ba của em.
Tôi nhấp nhỏm trên chiếc ghế mây:
- Anh Bắc nói như thế là có ý chê bai và xem thường ba mẹ mình. Rồi chị trả lời sao? Chị có giận không?
Trái ngược với thái độ tức tối của tôi, chị Ánh Ly nhẹ nhàng lắc đầu:
- Chị không giận mà xấu hổ. Vì điều anh Bắc nói là sự thật. Chẳng phải
chị em mình đã nhiều lần than thở với nhau về hành động của ba mẹ sao?
Chính em cũng đã từng nói: “Chị em mình đứa nào cũng dữ dằn, ngang
ngược. Cũng tại ba mẹ làm gương xấu cho con cái!”
Tôi ngoe nguẩy giận dỗi:
- Tuy là vậy… nhưng em không chấp nhận người khác, nhất là con rể, phê phán ba mẹ mình.
- Chính vì thế mà em quyết định hủy bỏ hôn lễ với Đông?
Tôi quay đi, im lặng trong sự bực bội. Chị Ánh Ly vẫn ôn tồn:
- Đó là cái lý của em. Em luôn bảo vệ người thân của mình, bất chấp điều
đó có đúng hay không. Nhưng chị cũng có cái lý của chị. Chị nhận ra cái
sai, cái dở của ba mẹ và cố tránh, không lặp lại điều đó. Chị hoàn toàn
không giận anh Bắc khi anh phê phán những cái không tốt của chị. Miễn
là những lời ấy mang thiện ý xây dựng chứ không phải xuất phát từ ý muốn
chỉ trích. Chị rất cám ơn anh Bắc, vì nhờ đó mà chị thay đổi rất nhiều.
Bằng chứng là em vừa khen chị nói năng ngọt ngào, dịu dàng chứ không
giống bà chằn lửa như ngày trước… Có điều chị muốn em hãy nhìn vào thực
tế. Em có biết là em đã đi ngược lại cái lý bảo thủ của em bằng quyết
định hủy bỏ hôn lễ. Hãy thử nghĩ, ba mẹ phải ăn nói sao với gia đình
Đông và phải trả lời thế nào với bao nhiêu câu hỏi của họ hàng thân
quyến. Nhưng điều quan trọng nhất là em tự đánh mất hạnh phúc của chính
em chỉ vì tự ái, mà đối với chị, tự ái đó em đã đặt không đúng chỗ. Em
ráng bình tâm suy nghĩ lời chị nói.
Chị Ánh Ly đứng lên, vỗ nhẹ lên vai tôi khi nghe tiếng anh Bắc gọi từ
phía trong. Xuyên qua làn kính mỏng tôi thấy anh Bắc trao bé Lyly qua
tay chị Ánh Ly và bước ra cửa, sau khi đặt một nụ hôn dài lên trán chị.
Cái cảnh đầm ấm hạnh phúc ấy khiến lòng tôi nao nao buồn. Tôi nhắm mắt
lại và hình dung khuôn mặt của Đông cùng những dòng chữ cay đắng đã gửi
cho anh.
“Anh may mắn được sinh ra trong một gia đình hòa thuận. Bố mẹ anh lúc
nào cũng yêu thương và tôn trọng nhau. Ngược lại, ba mẹ em thường xuyên
bất hòa và bất nhã đối với nhau. Nhưng dù thế nào em cũng không muốn bất
cứ một ai xem thường ba mẹ em, nhất là anh với thân phận con rể. Em
quyết định hủy bỏ hôn lễ để anh thấy rằng, đối với em, ba mẹ em vẫn là
người quan trọng nhất”.
* * *
Tôi ngã bệnh ngay ngày đám cưới của Đông. Giấu sau nụ cười tươi tắn
mà tôi cố tạo ra -khi nhìn mẹ nước mắt chảy quanh, thấy ba ôm đầu hồi
tiếc- là nỗi đau của trái tim vỡ vụn. Đông đã bước ra khỏi nhà tôi ngày
hôm đó và không một lần quay trở lại -như câu nói anh gửi gấm qua bạn
bè: “Cô ta không cần tôi, chẳng lẽ tôi cần cô ta?”.
Tôi đã tự đánh mất cái hạnh phúc mà bàn tay tôi đã chạm tới vì một lời
thách thức ngu xuẩn. Nhưng đổi lại, ba mẹ tôi đã nhìn thấy những khuyết
điểm của mình sau biến cố đau buồn đó và gia đình tôi thật sự có được sự
êm ấm hạnh phúc mà từ lâu chị em tôi hằng mong ước. Âu đó cũng là niềm
an ủi lớn lao trong sự mất mát tình cảm cũng lớn lao không kém của tôi.
Ngân Bình
(Viết theo chuyện kể của A)
- See more at: http://thoibao.com/2013/10/30/phia-sau-noi-dau/#sthash.641Y9u2g.dpuf
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 287
No comments:
Post a Comment