VOA * HÌNH ẢNH THẾ GIỚI
Thế giới qua ảnh ngày 18 tháng 11, 2013
Phổ biến ngày 18.11.2013
br>THỬ TÀI CHỤP ẢNH CỦA BẠN
Hãy gửi cho VOA những bức ảnh của bạn và ảnh của bạn có thể sẽ xuất hiện trong chuyên mục Thế giới qua ảnh của chúng tôi! Cách gửi ảnh.
Bấm vào đây để xem thêm.
Hãy gửi cho VOA những bức ảnh của bạn và ảnh của bạn có thể sẽ xuất hiện trong chuyên mục Thế giới qua ảnh của chúng tôi! Cách gửi ảnh.
Bấm vào đây để xem thêm.
1
Khói bốc lên từ thân ống khói của một nhà máy điện sử dụng khí đốt sau khi mặt trời lặn ở vùng ngoại ô thủ đô Minsk, Belarus.
2
Ứng viên Tổng thống Chile Michelle Bachelet vẫy chào người ủng hộ trong
một buổi vận động tranh cử tại thủ đô Santiago. Bà Bachelet nắm chắc
phần thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, mặc dù bà sẽ phải đợi đến vòng
bỏ phiếu lần hai vào tháng sau để đóng dấu chiến thắng.
3
Quân nổi dậy thuộc Quân đội Syria Tự do dùng súng máy hạng nặng chiến
đấu chống lại lực lượng chính phủ ở khu dân cư Salah al-Din thuộc thành
phố Aleppo phía bắc Syria.
4
Một người đàn ông bám đầy bụi làm việc tại một mỏ vàng lộ thiên ở làng
Lukingi trong vùng Mubende, khoảng 150 km về phía tây nam thủ đô Kampala
của Uganda, ngày 17 tháng 11, 2013.
6
Tàu thám hiểm sao Hỏa MAVEN của NASA trên bệ phóng ở Cape Canaveral,
bang Florida, Mỹ. MAVEN bắt đầu cuộc hành trình 10 ngày trên sao Hỏa từ
ngày 18 tháng 11 năm 2013 và sẽ thực hiện những đo đạc quan trọng về bầu
khí quyển trên sao Hỏa để giúp các nhà khoa học hiểu được sự biến đổi
khí hậu trong lịch sử của Hành tinh Ðỏ.
8
Một chiếc xe chỏng chơ trên đống mảnh vỡ do lốc xoáy gây ra khi quét
qua thành phố Washington thuộc bang Illinois, Mỹ, ngày 17 tháng 11,
2013. Một hệ thống bão di chuyển nhanh gây ra nhiều cơn lốc xoáy, giết
chết ít nhất 5 người, làm bị thương khoảng 40 người và san phẳng phần
lớn thành phố Washington như nó quét qua vùng Trung tây.
9
Một du khách đi qua hai hàng rào thép gai điện tại khu tưởng niệm
Auschwitz-Birkenau nơi từng là một trại tập trung người Do thái ở Ba
Lan.
10
Ban công tròn, đóng cửa kể từ năm 1920, và một cầu thang xoắn ốc mới,
tại Phòng triển lãm tranh Quốc gia ở trung tâm London, Anh.
11
Các vị sư chuẩn bị thả đèn trời sau khi buổi lễ trong lễ hội Hoa đăng
tại một ngôi chùa ở Chiang Mai, Thái Lan, ngày 17 tháng 11, 2013.
12
Một người phụ nữ ở Nairobi, Kenya, hoàn tất một món đồ chơi động vật được làm từ những mảnh dép vứt đi
13
Lính cứu hỏa và nhân viên cứu hộ làm nhiệm vụ tại địa điểm xảy ra vụ
tai nạn máy bay chở khách của Nga gần Kazan, thủ phủ nước cộng hòa
Tatarstan , khoảng 720 km về phía đông thủ đô Moscow, ngày 17 Tháng 11,
năm 2013.
15
Một giống nấm có tên khoa học là Amanita muscaria loại nấm mọc ở thành
phố phía tây Thorigné- Fouillard của Pháp. Nấm này là một trong những
loại nấm đặc trưng nổi bật nhất với mũ đỏ và những đốm trắng, nổi tiếng
với tính độc của nó và khả năng gây ảo giác.
VĂN QUANG * TẠI SAO DÂN TÔI KHỔ?
Tại sao dân tôi khổ thế này? (kỳ 1)
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
VienDongDaily.Com – 14/09/2013
http://www.viendongdaily.com/tai-sao-dan-toi-kho-the-nay-ky-1-iSXkRVci.html
Trước hết mời bạn đọc một vở kịch ngắn của một độc giả trên tờ báo Người Lao Động ngày 4-9-2013 vừa qua. Vở kịch không có tên và tác giả có cái biệt danh rất lãng mạn là Ngấn Lệ Hoàng Hôn. Nghe cái tên này không thể đoán biết là nam hay nữ. Chỉ hiểu lơ mơ rằng đó là những giọt nước mắt khóc vào lúc hoàng hôn. Nhưng tất cả không quan trọng bằng ý nghĩa thật của nó. Mời bạn đọc ghé thăm màn kịch ngắn này:
- Kịch 1 màn. 1 nhân vật độc thoại.
Nhân vật vào vai thanh tra môi trường, bụng to như cái trống, lom khom lúi húi đếm cái gì đó trong phong bì, rồi cất vào túi và ngửng đầu lên, nhìn xuống sân khấu và nói, “Thưa các đồng chí, thưa bà con sở tại, môi trường ở đây tốt lắm! Các giếng nước rất ngọt và mát, đảm bảo chất lượng môi sinh và vi sinh. Không có dấu hiệu nhiễm độc nước ăn vì thuốc trừ sâu phế thải! Bà con yên tâm cứ xài nước thoải mái, và nếu cần thì bịt khẩu trang khi ngủ, cho nó … êm lỗ mũi, nhé. Xin chào tạm biệt, cuối năm chúng tôi sẽ lên kiểm tra tiếp, nhé”! Hạ màn! (Tác giả: Ngấn Lệ Hoàng Hôn)
Phim và kịch
Vở kịch ngắn tủn nhưng lại nói lên rất nhiều điều phải nói với bà con cô bác. Chắc chắn vở kịch không bao giờ được diễn nhưng nó lại có thật ngoài đời. Thường là như thế, cái có thật khó được phơi bày, cái không thật lại được phô trương rất náo nhiệt. Vở kích tuy ngắn tủn nhưng còn hơn nhiều cuốn phim VN bây giờ, mất hàng chục tỉ, khoe một lô chân dài, một loạt nhà cửa xe cộ choáng lộn, hàng chục anh hùng đường phố oánh lộn tung bừng, phóng xe gắn máy như điên và những cuộc tình vớ va vớ vẩn kiểu yêu đương “dở dăng dở đèn”… Phim chẳng ra phim, hài “rẻ tiền,” đôi khi thô tục, chẳng nói lên được điều gì.
Ngoài ra khi xem bất kỳ phim nào, khán giả cũng được hầu hết các đài
dộng một đống quảng cáo vào mặt. Cứ chừng 10 phút lại một loạt quảng cáo
dài lê thê. Có những màn quảng cáo lố bịch, xấu hoắc, ông bà chủ nhà
thuốc nào đó thích lên ti vi, bèn làm quảng cáo thuốc bổ tì bổ thận, vợ
chồng lên ti vi rao hàng. Mắt lé, da ngăm, miệng rộng, chân ngắn, nói
dai, nói dài, nói dở… Vậy mà, nếu cứ tính trung bình, một ngày xem phim
phải xem vài chục lần như thế, làm sao chịu nổi! Khán giả có cảm tưởng
tốn tiền thuê bao bị các đài ép xem toàn quảng cáo! Chưa kể đến khi đang
xem, màn hình bỗng tắc tịt không rõ lý do. Riêng đài K+ cứ mưa là nghỉ
chơi, chỉ có cái thông báo “Tín hiệu thấp, xin xem lại đường truyền hoặc
gọi số 19001592 để được hỗ trợ,” xem lại đường truyền hay gọi số ĐT
cũng vô ích, chẳng giải quyết được gì. Người ta đành hậm hực tắt máy.
Người thuê bao luôn chịu lép vế.
Quay lại với vở kịch không tên ngắn tủn của độc giả trên đây, độc giả đọc chơi còn thú vị hơn xem phim VN. Thật ra vở kịch chỉ thay cho một lời bình luận, ai cũng viết được, nó chỉ mang một “thể loại” khác hơn mà thôi. Vài động tác ngắn gọn, vài lời thoại giản dị mộc mạc, biểu hiện cho một nỗi phẫn nộ bởi thói gian lận, thói vô cảm, sự tha hóa lương tâm đang diễn ra trong cuộc sống. Nỗi đau, sự cô đơn làm nước mắt của người dân chảy dài trong buổi hoàng hôn của nền kinh tế, của cuộc đời nghèo đói bệnh tật. Đó là một thông điệp bằng nước mắt gửi tới những người có trách nhiệm. Thôi thì tạm lấy tên tác giả làm tiêu đề vở kịch, “Ngấn Lệ Hoàng Hôn” cho dễ nhớ. Nhưng vì sao lại có vở kịch này?
Người dân tự đi tìm chứng cớ
Nguyên do bắt nguồn vào ngày 26-8, hàng trăm người dân các xã Cẩm Vân, Cẩm Tâm, huyện Cẩm Thuỷ và xã Yên Lâm, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa đã tự kéo nhau ra chặn chiếc xe tải bị nghi ngờ chở thuốc trừ sâu của Công ty CP Nicotex Thanh Thái đi “phi tang” trước khi có đoàn đến thanh kiểm tra công ty.
Để làm rõ sự thật, sáng ngày 30-8, hàng trăm người dân đã tràn vào phía trong khuôn viên của Công ty CP Nicotex Thanh Thái “khai quật” lên hàng chục phuy đựng hóa chất bị hoen gỉ chôn sâu dưới lòng đất. Nhiều gói thuốc bảo vệ thực vật nhãn hiệu Nitrin 100EC cùng với nhiều vỏ chai nhựa, nắp chai, vòng sắt gỉ cũng được tìm thấy.
Trong khi, toàn bộ gia đình dân các xã Cẩm Vân, Cẩm Tâm, Yên Lâm đều sử dụng mạch nước nguồn ngay cạnh sát công ty để ăn. Gần 10 năm trời lại đây, tại các thôn xóm này đã có rất nhiều người mắc đủ thứ bệnh ung thư, tôi sẽ nói rõ ở đoạn sau.
Số người mắc bạo bệnh liên quan tới việc ô nhiễm môi trường do việc chôn lấp thuốc trừ sâu trong lòng đất đã và sẽ còn gây ra ảnh hưởng tai hại nghiêm trọng chưa thể biết chắc chắn. Nhưng chắc chắn, sự “ô nhiễm” về tư duy, về ý thức, về lương tâm và cách hành xử ảnh hưởng tới sự an lành, an sinh của người dân, của Công ty Nicotex Thanh Thái, là quá rõ.
Sự cô đơn của người dân
Sau đó, người dân tràn vào cả khuôn viên công ty đào bới tìm kiếm “vật chứng” tội ác, nói lên một điều rất đáng buồn “người dân cô đơn quá” khi họ không thể trông chờ vào hành động tích cực nào của các ngành, các cấp, các cơ quan chức năng bảo vệ cho quyền lợi, cho sự sống an lành của họ nên buộc họ phải tự cứu mình. Cái khẩu hiệu “vì dân” mà các bác hay lớn tiếng phát biểu, không biết đang cất giấu ở đâu?
Trước đó, người ta chưa quên vụ dân làng xã Duy Tân, huyện Kinh Môn (Hải Dương), đã phải tự lập “chiến lũy,” đối đầu chống lại công ty Trường Khánh, chuyên sản xuất sản xuất Pro Niken, thứ hóa chất dùng trong mạ hợp kim, khiến môi trường sống của họ bị đe dọa, vì họ cũng cô đơn quá.
Giờ, đến lượt người dân các xã thuộc Cẩm Thủy, Yên Định lại đi theo con đường đau khổ của người dân huyện Kinh Môn.
Cô đơn, vì người dân các xã cho rằng, trong việc này, có dấu hiệu cơ quan chức năng bao che cho công ty, ngăn cản họ, dù họ phát hiện có tới 15 phuy hóa chất không rõ nguồn gốc còn bám đầy đất đỏ bên ngoài vỏ phuy, đang được công ty đưa đi tẩu tán.
Cô đơn hơn nữa, vì từ 15 năm nay, người dân đã kêu cứu. Nhưng dường như các cơ quan chức năng không nghe thấy gì hết.
Năm nào cũng đi kiểm tra, nhưng kiểm tra ngoài hàng rào
Để đến khi vụ việc vỡ lở, bùng phát dữ dội, mới thấy các cơ quan chính quyền các cấp, vội vàng lao vào cuộc. TừUBND tỉnh đếnPhòng Cảnh sát môi trường, Công an tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với chính quyền địa phương, sớm làm rõ những vi phạm của Công ty NicotexThanh Thái, đồng thời có biện pháp chấn chỉnh. Nói là “sớm,” nhưng thật ra là quá muộn!
Tệ nhất, là năm nào Sở Tài Nguyên – Môi Trường (TN- MT) Thanh Hóa cũng đều có các đoàn lên kiểm tra mỗi năm một lần, nhưng lần nào cũng… báo trước. Và ông Chi Cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường cho biết, “Năm nào cũng thanh tra – kiểm tra, nhưng ngoài tường rào(!)” (Theo báo Lao động, ngày 4/9).
Tiêu hủy tốn kém nên cứ tự ý chôn lấp chất độc, ai chết mặc ai
Về sự tàn phá của chất thải này, hãy nghe ý kiến của ông Lâm Vĩnh Ánh (Cục Kỹ thuật, Binh chủng Hoá học- Bộ Quốc phòng):
“Việc tự ý chôn lấp nêu trên của Công ty cổ phần Nicotex Thanh Thái sẽ gây nguy hại cho môi trường, nhất là khi gặp mưa chất độc sẽ phát tán ra môi trường xung quanh.
Nếu doanh nghiệp (DN) xử lý kỹ thuật rồi mới chôn lấp, thì việc làm đó phải được cơ quan chức năng biết và kiểm tra, đánh giá xem việc xử lý đến đâu, có đạt các tiêu chuẩn quy định không.Tuy nhiên, có thể do việc tiêu hủy theo đúng quy định chôn đốt khá tốn kém (khoảng 25-50 triệu đồng/tấn) nên DN đã “trốn” việc tiêu hủy theo đúng quy trình mà tự chôn lấp.”
Tất cả sự tha hóa của những kẻ tham nhũng, nhóm lợi ích, cho đến chuyện chôn lấp hóa chất độc hại, bất kể số phận, tính mạng người dân ra sao, cũng do sự tha hóa lương tâm của những kẻ có trách nhiệm.
Quan thanh tra nói như không có chuyện gì xảy ra
Liên quan tới việc Cty Nicotex Thanh Thái bị “tố” chôn hóa chất độc hại xuống đất gây ô nhiễm môi trường, chiều ngày 4/9, ông Trịnh Quốc Huy, Chánh thanh tra Chi cục Bảo vệ thực vật Thanh Hóa vẫn thản nhiên trả lời như không có chuyện gì xảy ra (?!).
Ông Huy cho biết, năm nào thanh tra chi cục cũng thành lập đoàn cùng với các cơ quan chức năng liên ngành đến thanh tra hoạt động của Cty Nicotex Thanh Thái. Kết quả mới nhất năm 2012 cho thấy công ty này không vi phạm chỉ tiêu nào được ghi trong giấy đăng ký hoạt động. (?)
Trái ngược với thanh tra chi cục bảo vệ thực vật, ông Lưu Trọng Quang, Phó Giám đốc Sở TN&MT Thanh Hóa cho biết, năm 2012 qua kiểm tra, phân tích về không khí có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nhưng vẫn nằm trong ngưỡng cho phép. Nhưng Về mẫu đất, có một mẫu có 2 chỉ tiêu vượt tiêu chuẩn cho phép. Lần kiểm tra ngày 18/3/2013, mẫu đất có chỉ tiêu Dimithoat vượt 1.2 lần; còn mẫu nước có 2 mẫu (1 mẫu nước ao và 1 mẫu nước hồ) vượt 3.3 lần chỉ tiêu TSS.
Bên cạnh đó, trong báo cáo giám sát môi trường năm 2012 đối với Cty Nicotex Thanh Thái có nhiều vi phạm như: Cty Nicotex Thanh Thái chưa có biện pháp xử lý chất thải nguy hại như: giẻ lau dính hóa chất, cặn bùn , vỏ thùng phuy, bao bì… theo đúng quy định. Chưa thực hiện đầy đủ các giải pháp bảo vệ môi trường theo báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt. Đúng là ông nói gà bà nói vịt.
(Xem tiếp kỳ 2 đăng thứ Hai, 16/9/2013)
Tại sao dân tôi khổ thế này? (kỳ 2)
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
VienDongDaily.Com – 16/09/2013
http://www.viendongdaily.com/tai-sao-dan-toi-kho-the-nay-ky-2-77tS8v7q.html
(Tiếp kỳ 1 đăng thứ Bảy, 14/9/2013)
Đấu tranh tới cùng, dù là phải bán cả nhà để lấy kinh phí
Mặc dù đã được lấy mẫu xét nghiệm trước đó, tuy nhiên người dân vẫn phải “mòn mỏi” chờ đợi kết quả trong “vô vọng.”
Ngày mùng 4/9 họ lại được tận mắt chứng kiến lần thứ hai cơ quan chức năng vào lấy mẫu hóa chất độc hại đi xét nghiệm và nghi ngờ việc làm trên có nhiều “uẩn khúc.”
Dường như việc lấy mẫu lần hai của cơ quan chức năng đã làm cho người dân không còn tin tưởng. Do vậy họ đã tự bật nắp các thùng phuy được chôn dưới đất lên để lấy mẫu tự mang đi xét nghiệm, đồng thời lưu giữ mẫu để “phòng” đối chứng với mẫu của cơ quan chức năng đã lấy trước đó. Như vậy là nhà nước lấy mẫu xét nghiệm riêng và người dân cũng lấy mẫu đi xét nghiệm riêng. Người dân không còn tin tưởng vào những nơi gọi là “cơ quan chức năng” nữa!
Ông Lê Văn Tuấn, người dân ở đây cho biết, “Chúng tôi không làm như vậy thì sau này con cháu chúng tôi sẽ là người trực tiếp phải gánh chịu hậu quả do công ty gây ra. Và chúng tôi sẽ đấu tranh tới cùng, dù là phải bán cả nhà, đất để lấy kinh phí.”
Hàng trăm người dân dựng lều vây kín công ty
Sau nhiều ngày đào bới, người dân đã phát hiện được trên 20 thùng phuy chứa thuốc trừ sâu được chôn dưới lòng đất, trong khuôn viên Công ty Cổ phần Nicotex Thanh Thái. Ngoài ra còn có hàng chục điểm được người dân “khai quật” lên có chứa nguồn nước độc hại, sặc mùi thuốc trừ sâu.
Quanh khu vực nhà máy, mùi thuốc trừ sâu bốc lên nồng nặc, không khí bị đầu độc nghiêm trọng bởi những thùng phuy đựng hóa chất được người dân đào bới lên.
Theo người dân nơi đây, trong khuôn viên công ty này hiện có hàng chục tấn thuốc trừ sâu được chôn dưới lòng đất. Đặc biệt công ty này lại nằm ở chân núi, từ nơi đây có rất nhiều mạch nước chảy thẳng về khu dân cư với hàng trăm gia đình dân đang sinh sống.
Bởi vậy, ngày 3-9, hàng trăm người dân ở các xã lân cận Công ty Nicotex Thanh Thái để giữ nguyên hiện trường nơi đã đào lên 1 lượng lớn hóa chất độc hại. Để tránh công ty tẩu tán thuốc sâu đi nơi khác và thay đổi hiện trường đào bới, người dân đã dựng lều lán thay nhau túc trực quanh công ty.
Chiều ngày 10/9, hàng chục người dân các xã bị ảnh hưởng mùi thuốc sâu quanh Cty Nicotex Thanh Thái đã lên núi tìm kiếm nơi công ty này chôn hóa chất, bất ngờ người dân phát hiện ra một số điểm ở các hang đá có đấu chai, vỏ nhựa và nắp của chai thuốc. Rải rác quanh đó còn tìm thấy nhiều chai lọ thuốc bảo vệ thực vật đã cũ mục.
Theo kết quả điều tra ban đầu, Công an Thanh Hóa đã kết luận Công ty Nicotex Thanh Thái đã thực hiện không đầy đủ tần suất giám sát môi trường, xây lắp không đúng công trình xử lý môi trường (hệ thống xử lý nước thải) theo quy định, làm phát tán mùi hôi nồng khó chịu của thuốc trừ sâu ra môi trường; chưa có biện pháp xử lý bảo đảm phòng ngừa “sự cố” trong việc lưu giữ thuốc bảo vệ thực vật quá hạn sử dụng…
Làng ung thư, suy giảm thần kinh, dị dạng, đẻ non, sẩy thai…
Như trên đã thông tin, nhiều người dân trong những thôn làng xung quanh Công ty Nicotex như: xã Cẩm Vân, Cẩm Tâm (huyện Cẩm Thuỷ) và Yên Lâm (huyện Yên Định, Thanh Hóa) hằng năm phải ăn, hít thở không biết bao nhiêu hóa chất độc hại vào người. Chính vì vậy mà con số mắc bệnh hiểm nghèo tăng lên chóng mặt. Người dân không ngần ngại đặt cho những xã sống quanh Cty Nicotex là “làng ung thư.”
Theo con số thống kê từ Trạm y tế xã Yên Lâm (huyện yên Định), trong vòng hơn 10 năm qua trở lại đây tổng số người mắc bệnh hiểm nghèo của xã đã lên tới con số 315 người gồm các bệnh như: ung thư, suy giảm thần kinh, dị dạng, đẻ non, sẩy thai…
Trong đó, số người mắc bệnh ung thư đã chết là 150 người, hiện tại đang còn hàng chục người mắc bệnh ung thư nằm chờ chết. Sẩy thai 20 người, còn lại là bị thần kinh, dị dạng, đẻ non.
Ông Đào Hồng Quyết, Trạm trưởng trạm y tế xã Yên Lâm cho biết: mỗi năm ở đây có đến cả chục người chết do ung thư, ông Quyết nói:
“Trong 3 xã giáp danh Cty Nicotex thì xã Yên Lâm là xa nhất, nhưng lại có số người mắc bệnh nhiều nhất vì nằm dưới khu vực hạ lưu của sông Mã nên nước sinh hoạt bị ô nhiễm trầm trọng.”
Xã Yên Lâm có 10 thôn, tuy nhiên số người chết và mắc bệnh ung thư tập trung nhiều nhất là ở các thôn như: Cao Khánh 37 người; Thắng Long 38 người và Hành Chính 12 người…
Những người mắc bệnh ung thư hầu hết ở lứa tuổi từ 40 đến 50 với chứng bệnh như: ung thư dạ dày, phổi, gan, vòm họng. Nhưng những năm gần đây số người mắc ung thư ở lứa tuổi trẻ tăng lên rất nhiều.
Sống khổ hơn chết
Theo danh sách trong sổ của ông Quyết, phóng viên báo VN Net đến thăm gia đình chị Phạm Thị Ng. (21 tuổi) thôn Thắng Long.
– Chị Ng. bị căn bệnh ung thư tử cung hai năm nay, giờ chỉ nằm ở nhà chờ chết.
Cũng như chị Ng., còn có nhiều người trẻ khác mắc bệnh như: Lê Thị H (23 tuổi) ung thư vú; Đặng Thị Ng (22 tuổi); Lê Thị Tr (28 tuổi)…
– Cũng chung cảnh “làng ung thư” như xã Yên Lâm, ông Lê Viết Hùng, trưởng thôn Cò Đồm (xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thuỷ) cho biết, thôn Cò Đồm có 75 gia đình dân, với hơn 300 người. Nhưng khoảng 10 năm trở lại đây đã có gần chục người chết do ung thư. Còn số người đẻ non, dị dạng thì không thể đếm xuể. Đúng là cảnh sống khổ hơn chết.
– Chị Lê Thị Tân, thôn Cò Đồm cho biết, đứa con trai chị sinh ra được hơn một năm nhưng cháu không hề biết khóc thành lời, cũng không thể phát âm ra tiếng gì ngoài lắp bắp miệng. Chị Tân cho biết “Nhà tôi cách Công ty Nicotex qua một quả núi. Nhưng mùi thuốc sâu bốc lên nồng nặng, nhất là trời sương mù thuốc sâu càng đậm đặc. Có những hôm ăn cơm mà không thể nuốt nổi. Chúng tôi nghi ngờ nguồn nước ăn ở đây bị thẩm thấu qua khiến con tôi mới bị di chứng thế này”
Tại sao dân tôi khổ như thế này?
- Bà Đinh Thị Lương (61 tuổi), thôn Phong Mỹ, nhà bà Lương có 4 người, chồng bà đã chết do căn bệnh ung thư phổi (năm 2005). Người con dâu thì bị tai nạn, giờ chỉ còn bà và đứa con trai đang mang trong mình căn bệnh ung thư quái ác, chờ ngày về với ông bà tổ tiên. Bà Lương không giấu được những giọt nước mắt trên khuôn mặt già nua mỗi khi nhắc đến người chồng và đứa con trai đang nghi mang trong mình căn bệnh ung thư này.
Nhìn vào di ảnh của chồng, bà khóc như ai oán, “Tại sao gia đình tôi lại khổ đến như vậy. Chồng đã ra đi vì căn bệnh ung thư, giờ đây tôi cũng nằm chờ chết với bệnh ung thư vòm họng. Đứa con trai đang nghi ngờ bị ung thư, nhưng nó không dám đi khám vì sợ bị suy sụp tinh thần rồi không lo hậu sự được cho tôi khi tôi chết.”
Bà Lương cho biết, người dân ở đây khổ lắm. Nguồn nước sinh hoạt chủ yếu là giếng khơi, làng lại nằm ở dưới hạ lưu sông Mã nên hóa chất độc hại của Cty Nicotex theo dòng nước chảy xuống ngấm vào nguồn nước.
Ông Đoàn Quang Tơn, y tá thôn Phong Mỹ cho biết, hiện nay thôn Phong Mỹ cũng có tới cả chục người đang mắc bệnh ung thư. Con số này không dừng lại ở đó, vì lẽ người dân không đi khám nên không biết mình mang bệnh. Chỉ đến khi bệnh nặng thì mới phát hiện là mình sắp chết.
Những di chứng do chất độc gây ra được bù đắp như thế nào?
Tôi tưởng không cần đưa ra lời bình luận nào thêm về thảm cảnh của những người dân đang sống khổ hơn chết của những thôn xóm được gọi là “làng ung thư.” Xin chuyển đến những người gọi là có trách nhiệm với nhân dân câu hỏi ai oán “Tại sao gia đình tôi khổ như thế này?.” Và một câu hỏi được đặt ra:
Sự việc trên sẽ được các cơ quan chức năng làm rõ, những kẻ vi phạm sẽ bị xét xử. Ngoài ra, những người dân bị ảnh hưởng có thể kiện công ty này bồi thường vật chất về những thiệt hại mà họ đã và đang gánh chịu. Thế nhưng, những thiệt hại về tinh thần, những di chứng do chất độc đối với con người hiện tại và các thế hệ tương lai sẽ được bù đắp như thế nào?
Văn Quang (13-9-2013)
NGUYỄN THIÊN THU* THE DIFFERENCES BETWEEN THE COMMUNIST LEADERS
THE DIFFERENCES BETWEEN THE COMMUNIST LEADERS
by NGUYỄN THIÊN THU
Marx
was a confidant philosopher, he always affirmed that his theory was
absolutely correct . Besides , Engels appraised him so much when he
wrote:This law, which has the same significance for history as the law of the transformation of energy has for natural science.( 1 )
Formal logic itself has been the arena of violent controversy from the
time of Aristotle to the present day. And dialectics has so far been
fairly closely investigated by only two thinkers, Aristotle and Hegel.
But it is precisely dialectics that constitutes the most important form
of thinking for present-day natural science, for it alone offers the
analogue for, and thereby the method of explaining, the evolutionary
processes occurring in nature, inter-connections in general, and
transitions from one field of investigation to another ( 2)
Natural
Science is an exact science, but philosophy, literature and religion
are the Social Science. Nobody cannot deny the laws of science , on
contrary, there are many discords in politics, religion and
philosophy. It is the same in the Communist world, a lot of communist
leaders didn't follow exactly Marx, even they betrayed Marx. Milovan
Djilas criticized Marx's dialectic of nature :
In
the history of human thought it would be difficult to find anything
more nonsensical than the Marxist doctrine on the dialectic of nature ;
yet for all that , it has , by supplementing Marxist ideology , played a
tremendous role in social struggles. This could well lead one to take a rather dim view of human being and their intelligence. (3)
I. PROLETARIAT AND PEASANT
Karl Marx focused on the modern capitalism and proletariat. The Industrial Revolution was the transition to new manufacturing
processes in the period from about 1760 to sometime between 1820 and
1840. It began in England and within a few decades had spread to Western Europe and the United States.
In
1848, Marx wrote the Communist Manifesto , the capitalism and the
proletariat were developing. But at that time, the intellectuals
established the Communist Party and Karl Marx and Engels wrote the "Communist Manifesto". In this manifesto, he wrote:"In countries like France, where the
peasants constitute far more than half of the population".(4)
Thus, Marx realized that the peasants were the majority but he forgot them, he only focused on the proletariat class.In common sense, proletariat is the lowest or one of the lowest economic and social classes in a society. In ancient Rome the proletariat consisted of the poor landless freemen. It included artisans and small tradesmen who had been gradually impoverished by the extension of slavery. But in Marxism, proletariat class is only the working class. Engels defined that: by proletariat, the class of modern wage laborers who, having no means of production of their own, are reduced to selling their labor power in order to live.(5)
Thus, Marx realized that the peasants were the majority but he forgot them, he only focused on the proletariat class.In common sense, proletariat is the lowest or one of the lowest economic and social classes in a society. In ancient Rome the proletariat consisted of the poor landless freemen. It included artisans and small tradesmen who had been gradually impoverished by the extension of slavery. But in Marxism, proletariat class is only the working class. Engels defined that: by proletariat, the class of modern wage laborers who, having no means of production of their own, are reduced to selling their labor power in order to live.(5)
Marx proclaimed:" Of
all the classes that stand face to face with the bourgeoisie today, the
proletariat alone is a genuinely revolutionary class ( 6) while he criticized the middle class including the peasants: The
lower middle class, the small manufacturer, the shopkeeper, the
artisan, the peasant, all these fight against the bourgeoisie, to save
from extinction their existence as fractions of the middle class. They
are therefore not revolutionary, but conservative. Nay, more, they are
reactionary, for they try to roll back the wheel of history.(7)
Although realized the important role of the peasants in the revolution when he said:
Today the question of the peasant movement has become vital not only in the
theoretical but also in the most direct practical sense. We now have to
transform our general slogans into direct appeals by the revolutionary
proletariat to the revolutionary peasantry. The time has now come when the
peasantry is coming forward as a conscious maker of a new way of life in
Russia. And the course and outcome of the great Russian revolution depend in
tremendous measure on the growth of the peasants’ political consciousness (8), Lenin still followed Marx strictly to highlight the workers.
In China and in Vietnam, at the beginning of the XXth century, the force of capitalism and the proletariat were still weak.According to Đào Duy Anh, under French colonial rule, Vietnam had 150.000 workers (9).According to Nguyễn Thế Anh, before 1945, Vietnam had 200.000 workers including children.(10)
In China and in Vietnam, at the beginning of the XXth century, the force of capitalism and the proletariat were still weak.According to Đào Duy Anh, under French colonial rule, Vietnam had 150.000 workers (9).According to Nguyễn Thế Anh, before 1945, Vietnam had 200.000 workers including children.(10)
Thus,
the force of workers in Vietnam under French colonialism occupied
about 1% the population. The force of workers in China, Russia might be
the same. In China, the farmers comprised far more than half of the population. Mao Zedong recognized the power of the farmers, he promoted both farmers and workers , so both of them became allies in the Chinese Communist Party.
After Mao Zedong died, Dèng Xiǎopíng
returned to Capitalism with the market economy. Jiang Zemin came to
power following the Tiananmen Square protests of 1989, replacing Zhao
Ziyang as General Secretary of the Communist Party of China. Jiang
Zemin presented his Three Represents theory at its Sixteenth Party
Congress in 2002."Three Represents" refers to what the Communist Party
of China currently stands for.
That is:It represents the development trends of advanced productive forces.
His theory is very obscure. But in fact, Jiang Zemin abandoned Marx and Mao, and replaced workers and farmers with businessmen and intellectuals. But businessmen and intellectuals are the red capitalists, the family members of the Chinese communist leaders.
Marx, Lenin, Stalin, Mao Zedong and Hồ Chí Moinh emphasized the workers, but in fact workers and peasants became their victims. With their command economy, they created Five year plans, Ten year plans to serve their ambition of rapid industrialization and collectivization of agriculture. However, these efforts often led to less efficient production, ensuring that mass starvation swept the countryside.
In a word, Communists took advantage of farmers and workers, they killed
them, tortured them and exploited them. When their people , especially
the workers and peasants lived in misery, they became the red
capitalists enjoyed a splendid life. They betrayed their country and
their people. They were the liars.
II. THE CLASS STRUGGLE
Karl Marx came out with the theory of class struggle, hence many people followed him and praised him so much. Although he was maltreated after the Nhân Văn Giai Phẩm movement in 1956, Trần Đức Thảo wrote:" the class struggle perspective is correct and fundamental. " (12)
Many philosophers and
communists in the world respected Stalin, especially Mao Zedong and Hồ Chí Minh. But
everything changed when Khrushchev gave a speech entitled, "On the
Personality Cult and its Consequences," concerning Stalin on 25 February
1956 to a closed session of the Twentieth Party Congress
of the Communist Party of the Soviet Union. Khrushchev thoroughly
shocked his listeners by denouncing Stalin's dictatorial rule and his
cult of personality as inconsistent with Communist and Party ideology.
After De-Stalinization, Khrushchev launched a lengthy series of reforms. Those reforms were called revisionism.
Khrushchev’s revisionism refers to claims by Soviet leader Nikita Khrushchev that:
• Socialism can be brought about by peaceful, constitutional means within capitalist democracies.
• Socialist and capitalist countries can coexist peacefully.
The term "revisionism" has been used in a number of different contexts to refer to a number of different revisions (or claimed revisions) of Marxist theory but all kinds of revisionism have the same aim to criticize Marxism.
In the late 19th century, revisionism was used to describe democratic socialist writers such as Eduard Bernstein (12) and Jean Jaurès, who sought to revise Karl Marx's ideas about the transition to socialism and claimed that a revolution through force was not necessary to achieve a socialist society. The views of Bernstein and Jaurès gave rise to reformist theory, which asserts that socialism can be achieved through gradual peaceful reforms from within a capitalist system.
In the 1920s and 1930s, the International Left Opposition led by Leon Trotsky, which had been expelled from the Communist International, accused the leadership of the Comintern and Soviet Union of revising the internationalist principles of Marxism and Leninism in favor of the aspirations of an elite bureaucratic caste which had come to power in the Soviet Union.
The Trotskyists saw the nascent Stalinist bureaucracy as a roadblock on the proletariat's path to world socialist revolution, and to the shifting policies of the Comintern, they counterposed the Marxist theory of Permanent Revolution. The Soviet authorities, meanwhile, labeled the Trotskyists as "revisionists" and eventually expelled them from the Communist Party of the Soviet Union, whereupon the Trotskyists founded their Fourth International.
Khrushchev’s revisionism refers to claims by Soviet leader Nikita Khrushchev that:
• Socialism can be brought about by peaceful, constitutional means within capitalist democracies.
• Socialist and capitalist countries can coexist peacefully.
The term "revisionism" has been used in a number of different contexts to refer to a number of different revisions (or claimed revisions) of Marxist theory but all kinds of revisionism have the same aim to criticize Marxism.
In the late 19th century, revisionism was used to describe democratic socialist writers such as Eduard Bernstein (12) and Jean Jaurès, who sought to revise Karl Marx's ideas about the transition to socialism and claimed that a revolution through force was not necessary to achieve a socialist society. The views of Bernstein and Jaurès gave rise to reformist theory, which asserts that socialism can be achieved through gradual peaceful reforms from within a capitalist system.
In the 1920s and 1930s, the International Left Opposition led by Leon Trotsky, which had been expelled from the Communist International, accused the leadership of the Comintern and Soviet Union of revising the internationalist principles of Marxism and Leninism in favor of the aspirations of an elite bureaucratic caste which had come to power in the Soviet Union.
The Trotskyists saw the nascent Stalinist bureaucracy as a roadblock on the proletariat's path to world socialist revolution, and to the shifting policies of the Comintern, they counterposed the Marxist theory of Permanent Revolution. The Soviet authorities, meanwhile, labeled the Trotskyists as "revisionists" and eventually expelled them from the Communist Party of the Soviet Union, whereupon the Trotskyists founded their Fourth International.
In the 1940s and 1950s within the international communist movement, revisionism
was a term used by Stalinists
to describe communists who focused on consumer goods production instead
of heavy industry; accepted national differences instead of promoting
proletarian internationalism; and encouraged liberal reforms instead of
remaining faithful to established doctrine. Revisionism was also one of
the charges leveled at Titoists
as punishment for their pursuance of a relatively independent form of
communist ideology, amidst a series of post-World War 2 purges beginning
in 1949 in Eastern Europe
by the Soviet administration under Stalin.
After Stalin's death a more participatory, more democratic form of socialism became briefly acceptable in Hungary during Imre Nagy's government (1953-1955) and in Poland during Władysław Gomułka's government, containing ideas that the rest of the Soviet bloc, and the Soviet Union itself, variously considered revisionist, although neither Nagy nor Gomułka described themselves as revisionists, since to do so would have been self-deprecating.
After Stalin's death a more participatory, more democratic form of socialism became briefly acceptable in Hungary during Imre Nagy's government (1953-1955) and in Poland during Władysław Gomułka's government, containing ideas that the rest of the Soviet bloc, and the Soviet Union itself, variously considered revisionist, although neither Nagy nor Gomułka described themselves as revisionists, since to do so would have been self-deprecating.
Following
the 1956 Secret Speech that denounced Stalin, many communist activists,
astounded and disheartened by what they saw as the betrayal of
Marxist-Leninist
principles by the very people who had founded them, resigned from
western communist parties in protest. These quitters were sometimes
accused of revisionism by those communists who remained in these
parties, although some of these same loyalists also shortly thereafter
split from the same communist parties in the 1960s to become the New
Left "anti-revisionists",
indicating that they, too, were disillusioned by the actions of the
Soviet Union by that point in time.
Khrushchev's party colleagues, Mao Zedong, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ attacked The Modern Revisionism but in the World War II, Stalin and Mao cooporated with the USA, and Dèng Xiǎopíng
opened China to foreign capitalists' investment. So do the Vietnamese communists.
Most of those who left in the
sixties started aligning themselves closely with Mao Zedong as opposed
to the Soviet Union. E. P. Thompson's New Reasoner was an
example.In the early 1960s, Mao Zedong and the Communist Party of China
revived the term revisionism to attack Nikita Khrushchev and the Soviet
Union over various ideological and political issues, as part of the
Sino-Soviet split. The Chinese routinely described the Soviets as
"modern revisionists" through the 1960s.(Wikipedia).
In the years
1960, a lot of Vienamese communists adopted the revisionism of
Khrushchev with the hope that Socialist and capitalist countries can
coexist peacefully and North Vietnam and South Vietnam could live in
peace.(Wikipedia- Revisionism)
Khrushchev's party colleagues, Mao Zedong, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ attacked The Modern Revisionism but in the World War II, Stalin and Mao cooporated with the USA, and Dèng Xiǎopíng
opened China to foreign capitalists' investment. So do the Vietnamese communists.
V. FIVE STAGES OF HUMAN KIND
Marx divided fives stages in the history of humankind:
- Primitive Communism
- Slave Society
- Feudalism
- Capitalism
- Socialism
- Primitive Communism
- Slave Society
- Feudalism
- Capitalism
- Socialism
Marx demanded a certain, "inevitable" path, a "law of history" that would
demonstrate the absolute inevitability of history's reaching its final
glory in a communist society. In the Communist Manifacto, he said:" What the bourgeoisie therefore produces, above all, are its
own grave-diggers. Its fall and the victory of the proletariat are
equally inevitable "(14)
Marx is wrong because of many reasons:
(1). Five stages are avoidable and unecessary.
Until today, there are many tribes living in the forests. In some countries, feudalism coexisted with capitalism. Communism couldn't conquer France, England, Autralia, Canada, and the USA. In those countries, Capitalism coexisted with Proletariat. Capitalism lasts long than communism because the fall of East Europe and USSR at the end of XXth century.
(2). Marx's affirmation of five stages is contrary to his Dialectical and Historical Materialism.
Dialectics holds that nature is not a state of rest and immobility, stagnation and immutability, but a state of continuous movement and change, of continuous renewal and development, where something is always arising and developing, and something always disintegrating and dying away.
Engels said: "All nature, from the smallest thing to the biggest. from grains of sand to suns, from protista (the primary living cells – J. St.) to man, has its existence in eternal coming into being and going out of being, in a ceaseless flux, in unresting motion and change (15)
All nature changes why communism doesn't change? Something is always arising and developing,why communism is worse than capitalim?
Lenin was Marx's discipline but he didn' follow strickly his master when Lenin advocated that countries can move on communism without the development of capitalism. Thus, Lenin proved that people can make history, history is a pruduction of human mind, hence history is not the materialist law. If we can abandoned the stage of capitalism, we also can abandon communism. Communism is evitable! So Marx's fives stages of history were also production of his imagination, not the law of history.
Moreover, Lenin divided the stage of communism into two phases: socialism and communism. Thus, are there five stages or six stages of history of human development?
In a word, Marxism is a wrong theory, therefore many people criticized it, even the communist leaders.
Although trying to change USSR with the policy of Perestroika and Glasnost , at last Gorbachev gave up, he said:"
Marx is wrong because of many reasons:
(1). Five stages are avoidable and unecessary.
Until today, there are many tribes living in the forests. In some countries, feudalism coexisted with capitalism. Communism couldn't conquer France, England, Autralia, Canada, and the USA. In those countries, Capitalism coexisted with Proletariat. Capitalism lasts long than communism because the fall of East Europe and USSR at the end of XXth century.
(2). Marx's affirmation of five stages is contrary to his Dialectical and Historical Materialism.
Dialectics holds that nature is not a state of rest and immobility, stagnation and immutability, but a state of continuous movement and change, of continuous renewal and development, where something is always arising and developing, and something always disintegrating and dying away.
Engels said: "All nature, from the smallest thing to the biggest. from grains of sand to suns, from protista (the primary living cells – J. St.) to man, has its existence in eternal coming into being and going out of being, in a ceaseless flux, in unresting motion and change (15)
All nature changes why communism doesn't change? Something is always arising and developing,why communism is worse than capitalim?
Lenin was Marx's discipline but he didn' follow strickly his master when Lenin advocated that countries can move on communism without the development of capitalism. Thus, Lenin proved that people can make history, history is a pruduction of human mind, hence history is not the materialist law. If we can abandoned the stage of capitalism, we also can abandon communism. Communism is evitable! So Marx's fives stages of history were also production of his imagination, not the law of history.
Moreover, Lenin divided the stage of communism into two phases: socialism and communism. Thus, are there five stages or six stages of history of human development?
In a word, Marxism is a wrong theory, therefore many people criticized it, even the communist leaders.
Although trying to change USSR with the policy of Perestroika and Glasnost , at last Gorbachev gave up, he said:"
“We have retreated from the perennial values. I don't think that
we need any new values. The most important thing is to try to revive the
universally known values from which we have retreated.
As a young
man, I really took to heart the Communist ideals. A young soul certainly
cannot reject things like justice and equality. These were the goals
proclaimed by the Communists. But in reality that terrible Communist
experiment brought about repression of human dignity. Violence was used
in order to impose that model on society. In the name of Communism we
abandoned basic human values. So when I came to power in Russia I
started to restore those values; values of "openness" and freedom.” (
Wikipedia)
President Boris Yeltsin also proclaimed": You can build a throne with bayonets, but you can't sit on it for long. Communists are incurable, they must be eradicated.
____
(1).Engels.Preface to the Third German Edition of The Eighteenth Brumaire of Louis Bonapart.
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1885/prefaces/18th-brumaire.htm
(2). Engels.On Dialectics (1878)http://www.marxists.org/archive/marx/works/1878/05/dialectics.htm
(3). Milovan Djilas .Unperfect Society Beyond the New Class.Harcourt Bruce& World, NewYork, 1969, 83.
(4).Communist Manifesto Part III,
(5). Communist Manifesto. Note by Engels - 1888 English edition.
(6). Communist Manifesto I
(7). Communist Manifesto I
(8).Lenin. The Proletariat and the Peasantry- http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1905/nov/12.htm )
(9). Đào Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. Quan Hải Tùng Thư, Huế.1938. 68.
(10). Nguyễn Thế Anh.Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, Saigon. 1970, 256
(11). What Is "Three Represents" CPC Theory? .http://www.china.org.cn/english/zhuanti/3represents/68735.htm(12).Trần Đức Thảo. Vấn Đề Con Người và Chủ Nghĩa Lý Luận Không có Con Người Xuất bản lần đầu năm 1988, và in lần hai, Saigon, 1989, 122.
(13).Eduard Bernstein (6 January 1850 – 18 December 1932) was a German social democratic political theorist and politician, a member of the Social Democratic Party (SPD), and the founder of evolutionary socialism and revisionism. Bernstein had held close association to Karl Marx and Friedrich Engels, but he saw flaws in Marxist thinking and began to criticize views held by Marxism when he investigated and challenged the Marxist materialist theory of history.[1] He rejected significant parts of Marxist theory that were based upon Hegelian metaphysics; he rejected the Hegelian dialectical perspective.(Wikipedia)
(14). Comminist Manufacto, part I.\
(15). Marx and Engels, Vol. XIV, p. 484.)
(14). Comminist Manufacto, part I.\
(15). Marx and Engels, Vol. XIV, p. 484.)
NGUYỄN THIÊN THỤ * SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC TƯ TƯỞNG GIA CỘNG SẢN
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC TƯ TƯỞNG GIA CỘNG SẢN
Marx
tự hào rằng chủ nghĩa Marx là một khoa học nghĩa là tất cả gì Marx nói
là hoàn toàn đúng không ai có thể cãi được. Thí dụ ngày xưa người ta
nói trời tròn đất vuông, mặt trời chạy quanh trái đất. Ai
cũng thấy là mặt trời sáng mọc phương đông và tối lặn ở phương tây.
Nhưng đó là nói theo cảm tính, theo cái nhìn sai lầm của con mắt mình.
Khoa học chứng minh rằng mặt trời là định tinh, nghĩa là đứng một
chỗ , còn trái đất là hành tình, nghĩa là quay xung quanh mặt trời.
Nay thì ai cũng công nhận điều này đúng, không thể có ý kiến khác. Một thí dụ nhỏ nữa, các nhà khoa học nói rằng nước sôi ở trăm độ, dù ở châu Âu hay châu Á, nước vẫn sôi ở trăm độ, không ai dám nói nước sôi ở 90 độ hay 80 độ. Nói theo cảm tính là sai, vì chủ quan, còn khoa học là đúng vì có chứng minh, kiểm nghiệm.
Engels ca tụng Marx, nghĩa là ca tụng ông và chủ nghĩa duy vật của hai ông. Ông nói rằng triết học Marx là khoa học, triết học Marx như là dầu Nhị Thiên Đường chữa bách bệnh; thuyết lý của Marx là thuyết lý khoa học, định luật khoa học. Ông nói:
Nay thì ai cũng công nhận điều này đúng, không thể có ý kiến khác. Một thí dụ nhỏ nữa, các nhà khoa học nói rằng nước sôi ở trăm độ, dù ở châu Âu hay châu Á, nước vẫn sôi ở trăm độ, không ai dám nói nước sôi ở 90 độ hay 80 độ. Nói theo cảm tính là sai, vì chủ quan, còn khoa học là đúng vì có chứng minh, kiểm nghiệm.
Engels ca tụng Marx, nghĩa là ca tụng ông và chủ nghĩa duy vật của hai ông. Ông nói rằng triết học Marx là khoa học, triết học Marx như là dầu Nhị Thiên Đường chữa bách bệnh; thuyết lý của Marx là thuyết lý khoa học, định luật khoa học. Ông nói:
This law, which has
the same significance for history as the law of the transformation of
energy has for natural science.
Preface to The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte (1885)
Dialectics constitutes the most important form of thinking for present-day natural science, for it alone offers the analogue for, and thereby the method of explaining, the evolutionary processes occurring in nature, inter-connections in general, and transitions from one field of investigation to another.( On Dialectics (1878)
Engels nói như vậy là chẳng hiểu gì về khoa học. Không có định luật nào là chung cho các khoa học huống hồ chung cho khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn. Và Marx cũng như Engels quá tự hào và chủ quan vì triết học Marx cũng chỉ là một khoa học nhân văn, không phải là khoa học thuần túy.
Preface to The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte (1885)
Dialectics constitutes the most important form of thinking for present-day natural science, for it alone offers the analogue for, and thereby the method of explaining, the evolutionary processes occurring in nature, inter-connections in general, and transitions from one field of investigation to another.( On Dialectics (1878)
Engels nói như vậy là chẳng hiểu gì về khoa học. Không có định luật nào là chung cho các khoa học huống hồ chung cho khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn. Và Marx cũng như Engels quá tự hào và chủ quan vì triết học Marx cũng chỉ là một khoa học nhân văn, không phải là khoa học thuần túy.
Chủ
nghĩa Marx không phải là khoa học như Marx quả quyết vì có
nhiều lý thuyết gia cộng sản cãi lại lời Marx. Họ là những lãnh tụ cộng
sản, không phải là phản động hay kẻ địch xuyên tạc Marx. Và họ cũng
không phải là những kẻ ngu si, không hiểu gì Marx mà nói bậy. Điều này
cho thấy chủ nghĩa Marx cũng là một loại học thuyết như trăm ngàn học
thuyết khác chỉ có giá trị tương đối mà thôi, cũng bị cải biên, suy
thoái, mất bản săc buổi đầu , bị phê phán và chống đối. Còn khoa học thì
có giá trị tuyệt đối tuy rằng một số vấn đề khoa học theo thời gian
cũng bị đào thải, hoặc sửa đổi.
I. CÔNG NÔNG
Marx viết
Tuyên Ngôn Cộng sản năm 1848, lúc này giai cấp tư sản mới manh nha và
giai cáp công nhân cũng non kém. và họ là những nông dân bỏ ruộng đồng
ra thành thị xin việc làm. Cách mạng công nghiệp mới phát triển tại Anh,
còn toàn cầu vẫn là những quốc gia nông nghiệp. Chính Marx thú nhận
điều này trong bản Tuyên Ngôn Cộng sản:"
" Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số"(1)
Thế mà chỉ một đám nhỏ, không phải là công nhân mà là trí thức, con nhà tư bản, địa chủ, phú hào tụ họp tại Luân Đôn thảo ra Tuyên Ngôn Cộng sản. Bọn họ có tài thật, từ một bóng ma, họ tuyên truyền cổ vũ khiến cho bóng ma này thành một lực lượng toàn cầu!
Lúc Marx viết Tuyên Ngôn Cộng Sản đề cao giai cấp công nhân trừ nước Anh đi đầu tiên trong việc phát triển khoa học còn các nước khác vẫn là những nước nông nghiệp lạc hậu, đa số dân chúng vẫn là nông dân.
Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (2). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con. Ông cho ta số liệu như sau:
Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( 3)
Lúc bấy giờ dân số Việt Nam là 20 triệu. Theo như tài liệu Nguyễn Thế Anh, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% dân số. Giai cấp công nhân Nga và Trung Quốc có lẽ cũng tương tự.Ngay tại Nga và Trung Quốc đều chưa có giai cấp tư sản và vô sản . Và cuộc khởi nghĩa tháng 10 Nga là do toàn dân, lực lượng chủ yếu là trí thức và nông dân nổi dậy lật đổ Nga hoàng chứ không phải là cách mạng vô sản vùng lên tiêu diệt tư sản như Marx mong muốn. Hơn nữa cuộc cách mạng này không phải do Lênin và Bolchevich lãnh đạo mà do toàn dân đa số là nông dân. Cách Mạng Nga xảy ra hai lần. Tháng 2/1917, đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga tổng nổi dậy lật đổ chế độ quân chủ Sa hoàng, thành lập nên Nhà Nước Dân Chủ Cộng Hòa Nga, do hoàng thân Lvov cầm đầu chính phủ Lúc này Lenin ở nước ngoài, Trotsky và đồng đảng Bolshevishs tuyên truyền phản chiến khiến binh sĩ bỏ ngũ cho nên chính phủ suy yếu . Tám tháng sau, tức Cách mạng tháng mười, hầu hết các nhà lãnh đạo các đảng phái dân chủ đều bị lực lượng Bolshevik của Đảng Công Nhân Xã Hội do Lenin lãnh đạo loại trừ, cùng chuyển thể Đảng Xã Hội này thành Đảng Cộng Sản. Lúc này số công nhân còn it thì tư bản vẫn còn it, không phải là một lực lương đe dọa giai cấp vô sản. Vô sản không có, tư bản không có, như vậy là Marx suy diễn, thêu dệt cho thế giới nổi lên cuộc chém giết theo cái đầu óc điên cuồng của ông trong chủ trương " đấu tranh giai cấp" của ông.
" Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số"(1)
Thế mà chỉ một đám nhỏ, không phải là công nhân mà là trí thức, con nhà tư bản, địa chủ, phú hào tụ họp tại Luân Đôn thảo ra Tuyên Ngôn Cộng sản. Bọn họ có tài thật, từ một bóng ma, họ tuyên truyền cổ vũ khiến cho bóng ma này thành một lực lượng toàn cầu!
Lúc Marx viết Tuyên Ngôn Cộng Sản đề cao giai cấp công nhân trừ nước Anh đi đầu tiên trong việc phát triển khoa học còn các nước khác vẫn là những nước nông nghiệp lạc hậu, đa số dân chúng vẫn là nông dân.
Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (2). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con. Ông cho ta số liệu như sau:
1905
|
1930
|
1938
| |
Công nhân mỏ
|
5.000
|
53.240
|
54.950
|
Công nhân kỹ nghệ và thương mãi
|
12.000
|
86.624
|
61.025
|
Công nhân nông nghiệp
|
81.188
|
70.000
| |
Tổng số
|
221. 052
|
185.975
|
Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( 3)
Lúc bấy giờ dân số Việt Nam là 20 triệu. Theo như tài liệu Nguyễn Thế Anh, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% dân số. Giai cấp công nhân Nga và Trung Quốc có lẽ cũng tương tự.Ngay tại Nga và Trung Quốc đều chưa có giai cấp tư sản và vô sản . Và cuộc khởi nghĩa tháng 10 Nga là do toàn dân, lực lượng chủ yếu là trí thức và nông dân nổi dậy lật đổ Nga hoàng chứ không phải là cách mạng vô sản vùng lên tiêu diệt tư sản như Marx mong muốn. Hơn nữa cuộc cách mạng này không phải do Lênin và Bolchevich lãnh đạo mà do toàn dân đa số là nông dân. Cách Mạng Nga xảy ra hai lần. Tháng 2/1917, đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga tổng nổi dậy lật đổ chế độ quân chủ Sa hoàng, thành lập nên Nhà Nước Dân Chủ Cộng Hòa Nga, do hoàng thân Lvov cầm đầu chính phủ Lúc này Lenin ở nước ngoài, Trotsky và đồng đảng Bolshevishs tuyên truyền phản chiến khiến binh sĩ bỏ ngũ cho nên chính phủ suy yếu . Tám tháng sau, tức Cách mạng tháng mười, hầu hết các nhà lãnh đạo các đảng phái dân chủ đều bị lực lượng Bolshevik của Đảng Công Nhân Xã Hội do Lenin lãnh đạo loại trừ, cùng chuyển thể Đảng Xã Hội này thành Đảng Cộng Sản. Lúc này số công nhân còn it thì tư bản vẫn còn it, không phải là một lực lương đe dọa giai cấp vô sản. Vô sản không có, tư bản không có, như vậy là Marx suy diễn, thêu dệt cho thế giới nổi lên cuộc chém giết theo cái đầu óc điên cuồng của ông trong chủ trương " đấu tranh giai cấp" của ông.
Marx đề cao công nhân, nhưng Mao
Trạch Đông thấy rõ vấn đề hơn nên đã trung dung mà nêu khẩu hiệu công
nông đoàn kết. Công nhân chỉ là 1/100, còn tại nhiều nơi, nông dân chiếm
90%, cần phải đề cao nông dân trong cuộc kháng Nhật và việc cướp
quyền. Công nhân các nước cộng với cộng
sản chỉ có vài chục ngàn, không phải là đa số. Cộng sản lợi dụng lòng
yêu nước, dùng tuyên truyền giả dối và thủ đoạn khủng bố man rợ mà
thành công.
Ngay tại Anh, thành thị mở rộng, hãng xưởng phát triển, nhưng công nhân không phải từ trên trời rơi xuống. Họ là những nông dân bỏ ruộng đồng ra thành phố tìm việc. Cái tâm lý họ, tinh thần của họ vẫn là nông dân. Marx cho rằng giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng nhất nhưng bản chất vẫn là nông dân có khác gì nông dân mà bảo họ có tinh thần cách mạng? Tại Việt Nam, bọn cộng sản phải giả làm công nhân mà khich động họ theo cộng sản, biểu tình và phá hoại. Nếu không tuyên truyền, đem thủ đoạn dụ dỗ và khủng bố thì chẳng ai theo. Giai đoạn đầu không có vô sản mà là trí thức. Đỗ Mười, Võ Chí Công ,Trần Quốc Hoàn ...chỉ theo cộng khi cộng đã mạnh. Các nước khác cũng vậy. Công nhân chỉ theo công sản giai đoạn sau và cộng sản chỉ lợi dụng " vô sản" để họ thành giai cấp thống trị.
Sau cuộc lật đổ chính quyền, các lãnh tụ cộng sản theo Marx giết hại tư sản, tịch thu tài sản tư sản nhưng tư sản đâu có nhiều, cho nên Mao, Hồ phải đem trung nông, phú nông, đôi khi là bần nông lên làm địa chủ để mà đấu tố và giết hại. Theo Trung cộng, địa chủ chiếm 5% dân số. Trong khoảng 1954, nếu ngoài Bắc có khoảng 20 triệu dân thì một triệu dân là địa chủ.Một triệu địa chủ cộng thêm vơ con, nếu mỗi gia đình có ba con, vị chi năm triệu người đau khổ...
Nhưng lý thuyết trọng công nhân của Marx đã bị Mao phủ nhận, rồi sau này Giang Trạch Dân sửa đổi. Sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình lên làm "hoàng đế", ông nhận thấy kinh tế Marx Lenin sai lầm, chỉ hại dân tốn của nên đổi sang kinh tế tư bản, tức kinh tế thị trường. Kinh tế tư bản quả nhiên hiệu nghiệm, nó giúp hàng triệu đảng viên thành địa chủ tư bản. Địa chủ, tư bản lúc này chính là cộng sản, không phải là kẻ thù của nhân dân. Họ không phải là kẻ thù mà lại là lãnh tụ của đảng cộng sản Trung Quốc. Tình thế đã đổi thay cho nên Giang Trạch Dân đã sửa cương lĩnh đảng và luật lệ Trung Quốc.
Trong đại hội 16 của cộng đảng Trung Quốc, tháng 11 năm 2002, Giang Trạch Dân đã đưa ra thuyết Ba đại diện, thì giai cấp tư sản cùng công nông là ba thành phần quan trọng của đảng Cộng sản. Giang Trạch Dân nêu lên thuyết ba đại diện và nay, trong quốc hội Trung cộng đã có vài trăm tỷ phú và triệu phú, vậy vô sản đi đâu rồi hỡi đảng vô sản? Nếu có mặt họ, thì được bao nhiêu mống? Đảng Cộng sản Trung Quốc nay đã bỏ Marx Lê và Mao vào sọt rác nhưng vẫn theo đường lối cai trị của cộng sản, vẫn treo cờ cộng sản vì ông nhận thấy chính sách bá đạo của cộng sản giúp ich cho ông cai trị Trung Quốc với bàn tay sắt. Nhưng một khi hạ tầng cơ sở là kinh tế tư bản thì thượng tầng kiến trức cộng sản có thích hợp không? Nay Trung Quốc phải thay đổi kinh tế và chính trị, có thành công không?
Nói tóm lại việc Marx đề cao giai cấp công nhân là một điều dối trá vì công nhân chỉ là kẻ bị lợi dụng. Công nhân chẳng thích cộng sản, chỉ trừ công nhân các nước nghèo đói, mất độc lập, nhưng sự thành công tại châu Á là do lòng yêu nước của nhân dân mà đại đa số là nông dân. Công nhân tại các nước tư bản không theo cộng sản. Cộng sản đã thất bại tại các nước công nghiệp mà nơi đây giai cấp công nhân rất lớn mạnh.
Ngay tại Anh, thành thị mở rộng, hãng xưởng phát triển, nhưng công nhân không phải từ trên trời rơi xuống. Họ là những nông dân bỏ ruộng đồng ra thành phố tìm việc. Cái tâm lý họ, tinh thần của họ vẫn là nông dân. Marx cho rằng giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng nhất nhưng bản chất vẫn là nông dân có khác gì nông dân mà bảo họ có tinh thần cách mạng? Tại Việt Nam, bọn cộng sản phải giả làm công nhân mà khich động họ theo cộng sản, biểu tình và phá hoại. Nếu không tuyên truyền, đem thủ đoạn dụ dỗ và khủng bố thì chẳng ai theo. Giai đoạn đầu không có vô sản mà là trí thức. Đỗ Mười, Võ Chí Công ,Trần Quốc Hoàn ...chỉ theo cộng khi cộng đã mạnh. Các nước khác cũng vậy. Công nhân chỉ theo công sản giai đoạn sau và cộng sản chỉ lợi dụng " vô sản" để họ thành giai cấp thống trị.
Sau cuộc lật đổ chính quyền, các lãnh tụ cộng sản theo Marx giết hại tư sản, tịch thu tài sản tư sản nhưng tư sản đâu có nhiều, cho nên Mao, Hồ phải đem trung nông, phú nông, đôi khi là bần nông lên làm địa chủ để mà đấu tố và giết hại. Theo Trung cộng, địa chủ chiếm 5% dân số. Trong khoảng 1954, nếu ngoài Bắc có khoảng 20 triệu dân thì một triệu dân là địa chủ.Một triệu địa chủ cộng thêm vơ con, nếu mỗi gia đình có ba con, vị chi năm triệu người đau khổ...
Nhưng lý thuyết trọng công nhân của Marx đã bị Mao phủ nhận, rồi sau này Giang Trạch Dân sửa đổi. Sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình lên làm "hoàng đế", ông nhận thấy kinh tế Marx Lenin sai lầm, chỉ hại dân tốn của nên đổi sang kinh tế tư bản, tức kinh tế thị trường. Kinh tế tư bản quả nhiên hiệu nghiệm, nó giúp hàng triệu đảng viên thành địa chủ tư bản. Địa chủ, tư bản lúc này chính là cộng sản, không phải là kẻ thù của nhân dân. Họ không phải là kẻ thù mà lại là lãnh tụ của đảng cộng sản Trung Quốc. Tình thế đã đổi thay cho nên Giang Trạch Dân đã sửa cương lĩnh đảng và luật lệ Trung Quốc.
Trong đại hội 16 của cộng đảng Trung Quốc, tháng 11 năm 2002, Giang Trạch Dân đã đưa ra thuyết Ba đại diện, thì giai cấp tư sản cùng công nông là ba thành phần quan trọng của đảng Cộng sản. Giang Trạch Dân nêu lên thuyết ba đại diện và nay, trong quốc hội Trung cộng đã có vài trăm tỷ phú và triệu phú, vậy vô sản đi đâu rồi hỡi đảng vô sản? Nếu có mặt họ, thì được bao nhiêu mống? Đảng Cộng sản Trung Quốc nay đã bỏ Marx Lê và Mao vào sọt rác nhưng vẫn theo đường lối cai trị của cộng sản, vẫn treo cờ cộng sản vì ông nhận thấy chính sách bá đạo của cộng sản giúp ich cho ông cai trị Trung Quốc với bàn tay sắt. Nhưng một khi hạ tầng cơ sở là kinh tế tư bản thì thượng tầng kiến trức cộng sản có thích hợp không? Nay Trung Quốc phải thay đổi kinh tế và chính trị, có thành công không?
Nói tóm lại việc Marx đề cao giai cấp công nhân là một điều dối trá vì công nhân chỉ là kẻ bị lợi dụng. Công nhân chẳng thích cộng sản, chỉ trừ công nhân các nước nghèo đói, mất độc lập, nhưng sự thành công tại châu Á là do lòng yêu nước của nhân dân mà đại đa số là nông dân. Công nhân tại các nước tư bản không theo cộng sản. Cộng sản đã thất bại tại các nước công nghiệp mà nơi đây giai cấp công nhân rất lớn mạnh.
Marx đưa ra thuyết đấu tranh giai cấp nhiều người thán phục trong đó có Trần Đức Thảo. Sau 1956, ông bị cộng sản trị tội tham gia Nhân Văn GIai Phẩm, ông nhận thức rằng lối lý luận cộng sản là lý luận ''không con người'' nghĩa là lối lý luận bất nhân, ông vẫn ca người chính sách tàn bạo của cộng sản khi ông viết :" Quan điểm giai cấp là hoàn toàn đúng và căn bản. " (4)
Chính
sách đấu tranh giai cấp và chủ trương sắt máu của vô sản chuyên chính
của Stalin đã bị Trotsky chống đối vì cho là quá tàn nhẫn. Chính sách
đấu tranh giai cấp của Marx lại bị Khruschev loại bỏ khi ông tố cáo tội
ác Stalin và hô hào xét lại. Nội dung chủ nghĩa xét lại hiện đại là phê
phán chủ nghĩa cộng sản độc tài, tàn bạo, hô hào bỏ đấu tranh giai cấp,
tư bản cộng sản sống chung hòa bình. Đi xa hơn, Khrushchev chủ trương
hai miền Nam Bắc Việt Nam hòa bình(5)
Lý
thuyết sống chung hòa bình này bị đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc,
Việt Nam phản đối. Nhưng chính Stalin, Mao Trạch Đông đã sống chung hòa
bình trong đệ nhị thế chiến. Và sau này, Trung Cộng và Việt Cộng cũng
giao thương với tư bản mặc dầu vẫn giữ nhãn hiệu cộng sản.
Milovan Djilas nhận định về điểm này:
Trong lịch sử nhân loại không có gì vô nghĩa hơn chủ nghĩa Marx về biện chứng tự nhiên. Đó là một phần phụ của ý thức hệ giai cấp đấu tranh. Thuyết này chỉ làm cho con người tối tăm, ngu dốt.(Unperfect Society Beyond theNew Class, 83)
Thuyết Ba Đại Diện của Giang Trạch Dân, luật thừa kế , chính sách kinh tế thị trường, giao thương với tư bản đã là những phát đại bác bắn vào thành trị cộng sản mặc dầu Trung Quốc, Việt Nam vẫn giữ nhãn hiệu cộng sản.Cuôc vùng dậy của dân Đông Âu và Liên Xô cuối thế kỷ XIX đã đạp đổ thần tượng Marx Engels, Lenin và Stalin. Cộng sản nay chỉ còn tàn dư tại Trung Quốc Việt Nam. Chừng ấy sự kiện lịch sử đã cho thấy nhiều triết gia cộng sản đã it nhiều phủ nhận Marx, và triết thuyết Marx là một chủ thuyết sai lầm và thất bại
Milovan Djilas nhận định về điểm này:
Trong lịch sử nhân loại không có gì vô nghĩa hơn chủ nghĩa Marx về biện chứng tự nhiên. Đó là một phần phụ của ý thức hệ giai cấp đấu tranh. Thuyết này chỉ làm cho con người tối tăm, ngu dốt.(Unperfect Society Beyond theNew Class, 83)
Thuyết Ba Đại Diện của Giang Trạch Dân, luật thừa kế , chính sách kinh tế thị trường, giao thương với tư bản đã là những phát đại bác bắn vào thành trị cộng sản mặc dầu Trung Quốc, Việt Nam vẫn giữ nhãn hiệu cộng sản.Cuôc vùng dậy của dân Đông Âu và Liên Xô cuối thế kỷ XIX đã đạp đổ thần tượng Marx Engels, Lenin và Stalin. Cộng sản nay chỉ còn tàn dư tại Trung Quốc Việt Nam. Chừng ấy sự kiện lịch sử đã cho thấy nhiều triết gia cộng sản đã it nhiều phủ nhận Marx, và triết thuyết Marx là một chủ thuyết sai lầm và thất bại
III. NĂM GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
Marx
cho rằng xã hội loài người phát triển theo năm giai đoạn mà giai đoạn
cộng sản là tất yếu. Điều này hoàn toàn sai vì khi Marx viết Tuyên Ngôn
cộng sản, có nhiều bộ lạc sống trong rừng, không thay đổi gì cả. Và cho
đến bây giờ, Việt Nam vẫn có nhiều bộ lạc. Tại Anh, Nhật và nhiều nước
khác, quân chủ vẫn tồn tại trong xã hội tư bản. Và cuối thế kỷ XX, cộng
sản đã tiệt tiêu tại Đông Âu và thành trì Liên Xô. Như vậy là chủ thuyết
của Marx sai lầm.
Trong khi Marx chủ trương xã hội phải trải qua năm giai đoạn phát triển, thì Lenin chủ trương các nước có thể "tiến lên cộng sản chủ nghĩa " mà bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy là Lenin suy nghĩ và làm trái với Marx.
Nếu loài người có thể bỏ qua giai đoạn tư bản thì cũng có thể bỏ qua giai đoạn cộng sản. Vậy sau tư bản là chế độ nào?
Sở dĩ Lenin cãi Marx là vì Nga lúc bấy giờ bắt đầu có cơ sở tư bản nhưng thực chất vẫn là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu. Nếu theo Marx thì phải chờ đến trăm năm hay vài trăm năm xây dựng tư bản chủ nghĩa thì lâu quá, Marx và đám cộng sản Nga chết hết rồi còn đâu! Vì vậy, sau khi lật đổ các chính phủ dân chủ, Lenin vội xưng vương và lập nên một triều đại cộng sản độc tài .
Marx rất khôn khi chủ trương muốn phát triển chủ nghĩa cộng sản phải thông qua tư bản chủ nghĩa bởi vì lúc này nền kinh tế tư bản vững vàng, đem chân tay vào cướp nhà giàu thì có sẵn vàng bạc, nhà cửa,heo gà, giường chiếu, mặc sức thu hưởng. Còn cướp nhà nghèo thì chỉ có nhà rách vách xiêu. Lenin đành cướp nhà nghèo, dẫu sao thì Lenin vẫn làm hoàng đế tất nhiên là sống huy hoàng, còn bọn dân đen sống chết mặc tụi nó.
Chủ trương của Marx là tịch thu tài sản tư bản và các tư liệu sản xuất là khôn vì cộng sản cướp của người làm của mình , mình từ tay không nay có một mớ vàng bạc, nhà cửa, xe cộ hãng xưởng thật là sướng. Chủ trương này cũng có lợi là họ có thể tuyên truyền rằng họ tiêu diệt hết giai cấp bóc lột, giải phóng vô sản, và đem của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Tất nhiên những hạng giàu lòng từ bi, nghĩa hiệp và dân nghèo đều hoan hô và quy tụ đông đúc xung quang đảng cộng sản nhưng những đàn kiến khổng lồ!Còn như một số nhóm tổ chức sống theo chủ nghĩa cộng sản mà lương thiện và tự lực thì chật vật, khổ sở lắm.
Trong khi Marx chủ trương xã hội phải trải qua năm giai đoạn phát triển, thì Lenin chủ trương các nước có thể "tiến lên cộng sản chủ nghĩa " mà bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy là Lenin suy nghĩ và làm trái với Marx.
Nếu loài người có thể bỏ qua giai đoạn tư bản thì cũng có thể bỏ qua giai đoạn cộng sản. Vậy sau tư bản là chế độ nào?
Sở dĩ Lenin cãi Marx là vì Nga lúc bấy giờ bắt đầu có cơ sở tư bản nhưng thực chất vẫn là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu. Nếu theo Marx thì phải chờ đến trăm năm hay vài trăm năm xây dựng tư bản chủ nghĩa thì lâu quá, Marx và đám cộng sản Nga chết hết rồi còn đâu! Vì vậy, sau khi lật đổ các chính phủ dân chủ, Lenin vội xưng vương và lập nên một triều đại cộng sản độc tài .
Marx rất khôn khi chủ trương muốn phát triển chủ nghĩa cộng sản phải thông qua tư bản chủ nghĩa bởi vì lúc này nền kinh tế tư bản vững vàng, đem chân tay vào cướp nhà giàu thì có sẵn vàng bạc, nhà cửa,heo gà, giường chiếu, mặc sức thu hưởng. Còn cướp nhà nghèo thì chỉ có nhà rách vách xiêu. Lenin đành cướp nhà nghèo, dẫu sao thì Lenin vẫn làm hoàng đế tất nhiên là sống huy hoàng, còn bọn dân đen sống chết mặc tụi nó.
Chủ trương của Marx là tịch thu tài sản tư bản và các tư liệu sản xuất là khôn vì cộng sản cướp của người làm của mình , mình từ tay không nay có một mớ vàng bạc, nhà cửa, xe cộ hãng xưởng thật là sướng. Chủ trương này cũng có lợi là họ có thể tuyên truyền rằng họ tiêu diệt hết giai cấp bóc lột, giải phóng vô sản, và đem của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Tất nhiên những hạng giàu lòng từ bi, nghĩa hiệp và dân nghèo đều hoan hô và quy tụ đông đúc xung quang đảng cộng sản nhưng những đàn kiến khổng lồ!Còn như một số nhóm tổ chức sống theo chủ nghĩa cộng sản mà lương thiện và tự lực thì chật vật, khổ sở lắm.
Marx,
Lenin, Stalin, Mao, Hồ ra sức xây dựng chủ nghĩa cộng sản nhưng
Khruschev đã phá hoại chủ nghĩa cộng sản gần một nửa. Cuối thế kỷ XX,
Gorbachev đã cố gắng cải tạo với các chính sách
Perestroika và Glasnost nhưng vẫn không vực dậy nổi liên bang Xô viết và nước Nga, ông đành đem chôn cái thây ma cộng sản xuống ba thước đất , và ông tuyên bố:
Perestroika và Glasnost nhưng vẫn không vực dậy nổi liên bang Xô viết và nước Nga, ông đành đem chôn cái thây ma cộng sản xuống ba thước đất , và ông tuyên bố:
“We have retreated from the perennial values. I don't think that
we need any new values. The most important thing is to try to revive the
universally known values from which we have retreated.
As a young
man, I really took to heart the Communist ideals. A young soul certainly
cannot reject things like justice and equality. These were the goals
proclaimed by the Communists. But in reality that terrible Communist
experiment brought about repression of human dignity. Violence was used
in order to impose that model on society. In the name of Communism we
abandoned basic human values. So when I came to power in Russia I
started to restore those values; values of "openness" and freedom.”
Chúng
ta đã rút lui khỏi những giá trị lâu đời. Tôi không tin rằng chúng ta
cần những giá trị mới. Điều quan trọng nhất của là cố gắng làm sống lại
những giá trị mà ta từ bỏ. Khi còn trẻ, tôi thực sự chú tâm vào lý tưởng
cộng sản, Một tâm hồn trẻ không thể chối bỏ những vật như công bằng và
bình đẳng. Đó là mục tiêu của những người cộng sản. Thực tế rất kinh
khủng. Người cộng sản đã đem lại áp bức vào phẩm giá con người. Bạo
lực được dùng làm khuôn mẫu xã hội. Với danh nghĩa xã hội chủ nghĩa,
chúng ta từ bỏ giá trị căn bản của con người. Vì vậy mà khi tôi nắm
quyền lực ở Nga, tôi bắt đầu lập lại , giá trị của cởi mở và tự do.
những giá trị này.(Mikhail Gorbachev. Wikipedia)
You can build a throne with bayonets, but you can't sit on it for long. Communists are incurable, they must be eradicated.
Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê, nhưng anh không thể ngồi lâu trên đó.
Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải xóa bỏ đi.
( Russia President Boris Yeltsin -Tổng Thống Nga)
Đó là những tư tưởng gia, và cũng là lãnh tụ cộng sản đã kết thúc chủ nghĩa cộng sản.
Lý thuyết của Marx không phải là khoa học. Đó chỉ là một mớ kiến thức mươn danh khoa học để lòe đời. Bộ môn khoa học tự nhiên là một khoa học chính xác , nó được nghiên cứu với tinh thần khách quan và phương pháp khoa học. Nó giải thích đúng, áp dụng được và tiên đoán đúng. Những thuyết của Marx chưa kiểm nghiệm đã áp dụng gây thiệt mạng cho hàng trăm triệu người, bao triệu gia đình đau khổ, và nửa thế giới điêu tàn. Ngay trong hàng ngũ cộng sản, nhiều lãnh đạo đảng cộng sản đã ý thức đươc sai lầm và hiểm họa cộng sản đã lên tiếng phê bình, và hành động chống lại chủ nghĩa Marx,cuối cùng chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, chỉ còn tàn dư ở Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn. Một ngày gần đây dông bão sẽ đi qua, và mặt trời sẽ đem lại ánh sáng cho nhân loại.
(1). Tuyên ngônCS, ch.III. B. chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.
(2).Đào Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. 1938. 68.
(3). Nguyễn Thế Anh.Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, Saigon. 1970, 256).
(4).Trần Đức Thảo. Vấn Đề Con Người
và Chủ Nghĩa Lý Luận Không có Con Người Xuất bản lần đầu
năm 1988, và in lần hai, Saigon, 1989, 122.
(5).Chủ nghĩa Xét lại là quan điểm lí luận chính trị đòi "xét lại" những luận điểm của K. Marx và F. Engels
về cương lĩnh, chiến lược và sách lược cách mạng... xem nó có còn phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn trên thế giới và trong các điều kiện hiện có
trong nước hay không. Những quan điểm xét lại tùy theo trường phái từ
xét lại một phần đến xét lại toàn phần học thuyết của Marx và Engels, do
đo có chủ nghĩa xét lại hiện đại. Chủ nghĩa Xét lại do E. Bernsteinn khởi xướng
( XÉT LẠI HIỆN ĐẠI- WIKIPEDIA.)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 288
ÂM NHẠC TRONG TRUYỆN KIỀU = GIANG TRẠCH DÂN = ĐỘNG THIÊN ĐƯỜNG
TRẦN VĂN KHÊ * ÂM NHẠC TRONG TRUYỆN KIỀU
ÂM NHẠC TRONG TRUYỆN KIỀU
TRẦN VĂN KHÊ
Chưa
có trong một tác phẩm văn chương nào của Việt Nam mà âm nhạc được nhắc
đến nhiều như trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Khi muốn mạn đàm về âm
nhạc trong truyện Kiều, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi như sau:
Câu hỏi thứ nhứt: Thúy Kiều dùng cây đàn gì?
Những
họa sĩ thiết kế trang bìa thường vẽ Thúy Kiều ôm cây đàn Tì bà. Riêng
tôi, tôi đã trả lời câu hỏi này từ lâu, đã có in ra bằng Pháp ngữ và
Việt ngữ những tiểu luận về cây đàn ấy và đã khẳng định rằng Thúy Kiều
không đàn cây Tì bà như phần đông các họa sĩ đã vẽ. Cây đàn trong tay
Thuý Kiều vừa có thùng đàn tròn như mặt trăng: “Trên hiên treo sẵn cầm trăng”; Cây đàn ấy lại có bốn dây “Bốn dây to nhỏ nên vần cung thương”. Cây đàn đó phải là một loại với Hồ cầm “Nghề riêng ăn đứt, Hồ cầm một chương”.
Sau khi xem trong sách Thích danh và Tự điển Từ Nguyên - Từ Hải thì chỉ
có ba cây đàn
thuộc về Tì Bà loại: tứ huyền Tì bà, ngũ huyền Tì bà và Nguyễn Tì bà.
Ba cây đàn ấy đều có thể được gọi là Hồ cầm. Nhưng hai cây đầu thì thùng
đàn hình bầu dục chỉ có cây Nguyễn Tì bà tên thật là Nguyễn cầm do
Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra. Đàn có thùng hình tròn như mặt trăng, có bốn
dây, cần dài hơn Nguyệt cầm của Trung Quốc, hiện đã thất truyền tại
Trung Quốc, chỉ còn hình vẽ của Nguyễn cầm trong động Đôn Hoàng và một
cây đàn nguyên bản trong Bảo tàng viện Shosoin tại Nara, Nhựt Bổn.
Chúng
ta cũng không thể nói đó là cây đàn nguyệt vì chữ Hán gọi là “Yue Qin”
tức Nguyệt cầm thì thùng đàn tròn mà cần đàn rất ngắn thường ở trong tay
người bán hàng rong chứ người quí tộc không sử dụng Yue Qin. Tiếng Việt
đàn Nguyệt cầm
ngày nay gọi là đàn Nguyệt dưới thời cụ Nguyễn Du không được gọi là
Nguyệt cầm mà mang tên đàn Song Vận.
Điều này phỏng theo tư liệu đã in
trong quyển “Đại Thanh hội điển sự lệ”, sử gia Trung Quốc có chép lại
tên các cây đàn của dàn nhạc An Nam quốc nhạc, là một trong chín dàn
nhạc của nước ngoài có mặt tại triều nhà Thanh tức là một thời đại với
Nguyễn Du.
Vậy
cây đàn Thúy Kiều sử dụng phải là Nguyễn cầm. Cụ Nguyễn Du có lẽ thích
cây đàn Nguyễn cầm nên để nó trong tay Thuý Kiều và cả một người danh
cầm khác ở làng Long Thành trong bài viết bằng chữ Hán có mấy câu:
“ Long Thành cầm giả ca ....
Độc thiện Nguyễn cầm ...”
Có nghĩa là một người ca nhi biết đờn Cầm ở làng Long Thành, chuyên đời rất hay cây Nguyễn cầm.
Câu hỏi thứ hai: Trong cả truyện, Kiều đã đàn bao nhiêu lần, đàn cho ai nghe và trong dịp nào?
Kể cả những lần Nguyễn Du chỉ nói phớt qua thì Thuý Kiều đàn tất cả tám lần.
+
Lần thứ nhứt, Kiều đàn cho Kim Trọng nghe khi gặp gỡ lần đầu. Kim Trọng
tự tay lấy cây đàn “Cầm trăng”, dâng đàn lên ngang mày và yêu cầu Thúy
Kiều đàn cho mình nghe vì đã biết tiếng Thúy Kiều là một danh cầm. Lần
này, tác giả đã dùng tới hai mươi tám câu thơ (từ câu 463 đến câu 490).
Rằng nghe nỗi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Thưa rằng: “Tiện kỹ sá chi
Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng”
Hiên say treo sẵn cầm trăng
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: “Nghề mọn riêng tay
Làm chi cho bận lòng nầy lắm thân!”
So lần dây Vũ dây Văn
Bốn dây to nhỏ theo vần Cung, Thương.
Khúc đau Hán Sở chiến trường
Nghe ra, tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc dâu Tư Mã Phượng cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng !
Kê Khang, nầy khúc Quảng lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.
Quá quan, nầy khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiêng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Rằng: “Hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
+
Lần thứ nhì, khi Mã Giám Sinh đến làm trung gian lấy ba trăm lạng bạc
mà chuộc tội cho Vương Ông, đã gạt Thúy Kiều bắt nàng phải đàn cho mình
nghe và gầy cuộc trăng hoa (câu 640: “Ép câu cầm nguyệt thử bài quạt thơ”)
+ Lần thứ ba, Kiều bị bắt buộc phải đàn khi tiếp khách trong lầu xanh (câu 1246: “Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”).
+ Lần thứ tư, sau khi gặp Thúc Sinh trong lầu xanh, một hôm Kiều có đàn cho Thúc Sinh nghe (câu 1298: “Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”).
+
Lần thứ năm, khi Hoạn Thơ biết chồng mình là Thúc Sinh đã dan díu với
một khách làng chơi là Thúy Kiều thì tìm cách bắt nàng về nhà hành hạ
như một hoa nô. Khi biết Thúy Kiều có tiếng đàn hay, một hôm, Hoạn Thơ
bảo Thúy Kiều đàn cho mình nghe (câu 1777 đến 1780).
Phải đêm êm ả chiều trời
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày
Lĩnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Sau khi nghe Thúy Kiều “lên dây nắn phím” thì Hoạn Thơ cũng có chút thương tài mà đối đãi bớt phần nghiêm khắc.
+
Lần thứ sáu, khi Thúc Sinh về nhà, Hoạn Thơ chẳng những bắt Thúy Kiều
dâng rượu để “làm cho nhìn chẳng được nhau”, lại còn bắt nàng đàn cho
Thúc sinh nghe (câu 1850 đến 1862).
“...Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!”
Nàng đà tán hón tê mê
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn;
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Giọt châu lả chả khôn cầm
Cúi đậu chàng những gạt thầm giọt Tương
Tiểu thư lại thét lấy nàng
“ Cuộc vui gây khúc đoạn trường ấy chi?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi”
+
Lần thứ bảy, khi Hồ Tôn Hiến gạt Thúy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, phục
binh bất ngờ xuất hiện. Từ Hải mặc dầu võ dõng nhưng “mãnh hổ nan địch
quần hồ” nên đã bị tử trận và chết đứng. Sau khi đó, Hồ Tôn Hiến đã bắt
Thúy Kiều dâng rượu và ép nàng phải đàn cho mình nghe (câu 2567 đến
2578).
Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hó nào tày
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”
Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc nầy
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây”
+ Lần thứ tám, đàn cho Kim Trọng nghe lúc tái ngộ, đoàn viên (từ câu 3197 đến 3206).
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ắm dương hoà
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên
Trong sau châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Khi
xem qua tám lần ấy, chúng ta thấy rằng Thúy Kiều chưa lần nào tự nguyện
mà đàn. Đối với Từ Hải, người đã giúp cho Kiều báo ân, báo oán, nàng
chưa một lần nào đàn cho chàng nghe. Lần quan trọng nhứt là lần đầu khi
Kiều đàn cho Kim Trọng theo lời yêu cầu của chàng, tác giả tả rành mạch
tiếng đàn và kể tên cả những bản đã đàn.
Câu hỏi thứ ba: Thúy Kiều đã đàn những bản gì?
Bản đàn được nhắc đầu tiên mang tên “Bạc mệnh” (câu 34: “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”).
Thúy Kiều đã soạn bài đó nhưng khi đàn lần đầu cho Kim Trọng nghe lại
không dùng bài đó mà chỉ đàn khi bắt buộc phải đàn cho Hồ Tôn Hiến (câu
2575 đến 2578).
Lúc gặp Kim Trọng lần đầu, bản đàn của Thúy Kiều biểu diễn được Nguyễn Du mô tả bằng câu thơ: “Khúc đâu Hán Sở chiến trường” nhưng
ngang qua đó, chúng ta có thể đoán được tên những bản đàn Tì bà Trung
Quốc được nổi tiếng đến bây giờ mà Thuý Kiều đã đàn.
Sách
Sử ký có ghi lại rằng dưới đời Tần, Lưu Bang và Hạng Võ cùng nhau đánh
vua Tần. Khi thắng trận, Hạng Võ tự xưng mình là Tây Sở Bá vương còn Lưu
Bang trở thành Hán vương. Hai nước Hán và Sở đều muốn mở rộng bờ cõi
nên có sự giao tranh. Trong một trận lớn Sở Bá vương bị vây trong thành
Cát Hạ thì lúc đó muốn thoát khỏi vòng vây phải cởi giáp nặng nề để phi
ngựa ra khỏi chiến trường. Trong những bài bản cổ điển cho đàn Tì Bà có
hai loại:
+ Văn khúc gồm những bài tả cảnh, tả tình nét nhạc êm dịu, tiết tấu hòa hoãn như loại bài “Dương xuân bạch tuyết”, tả cảnh mùa xuân ấm áp khi tuyết vừa tan; hay bài “Xuân giang hoa nguyệt dạ” tả cảnh một đêm trăng đi thuyền trên sông, trên trăng dưới nước dọc hai bên bờ có hoa nở đầy cành.
+ Vũ khúc gồm những bài tả lại không khí, khung cảnh của chiến trường như bản “Bá vương xả giáp”
tả lúc vua nước Sở cởi giáp để thoát nạn phá được vòng vây đầy gian lao
khổ cực vì đi đến cửa nào cũng bị đoàn Hán quân mai phục trong bản“Thập diện mai phục” vượt ra khỏi chiến trường đến sông Ô thì đâm mình để tự tử.
Do
đó mà chúng ta có thể nghĩ rằng bản nhạc Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng
nghe có lẽ thuộc về loại vũ khúc đó. Đặc biệt nhứt trong bài “Thập diện mai phục”
từ chương ba đến sau có nhiều đoạn ngón tay giữa của bàn tay trái phải
chen vào các dây làm cho tiếng đàn khảy không phát ra các âm có độ cao
nhứt định mà nghe như tiếng gươm giáo chạm vào nhau. Nguyễn Du chẳng có
câu: “Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau”. Vì vậy bản đàn Thúy Kiều đàn chỉ có thể là “Thập diện mai phục”.
Sau đó, đến câu “Khúc đâu Tư Mã phượng cầu” thì ai cũng biết rằng bản đàn đó là “Phụng cầu hoàng” mà
một nhà danh cầm đời Hán, Tư Mã Tương Như đàn cho Trác Văn Quân nghe.
Chúng tôi chỉ muốn nói rõ thêm là bài Phụng cầu hoàng trong nhạc Trung
Quốc rất khác xa hai bản “Phụng hoàng” và “Phụng cầu” trong
âm nhạc tài tử miền Nam trong loạt bốn bài Tứ oán. Có rất nhiều trường
hợp bản đàn trùng tên mà nét nhạc chẳng giống nhau. “Danh tương như thực
bất tương” như: Bản Nam Ai trong hai truyền thống Ca nhạc Huế và đàn tài tử, bản “Bình sa lạc nhạn” trong cổ nhạc Trung Quốc và trong
truyền thống ca nhạc Huế.
Tư
Mã Tương Như người ở đất Lâm Cùng, một hôm, đến chơi nhà Trác Vương Tôn
và dự tiệc rượu. Con gái của Vương Tôn tên Văn Quân nhan sắc tuyệt vời,
nổi tiếng làm thơ hay, ca hát giỏi. Nàng mới góa chồng và ý định thủ
tiết thờ chồng. Nàng cũng biết tiếng Tư Mã Tương Như là một người tài
hoa, phong nhã nên khi giữa tiệc mọi người yêu cầu Tư Mã Tương Như đánh
đàn thì nàng đứng sau cửa nhìn trộm. Tư Mã Tương Như nổi tiếng đàn cổ
cầm rất hay. Hôm đó, chẳng những chàng so dây cây Ỷ cầm lại còn sáng tác
ra hai khúc ca. Vừa đàn, vừa ca như có ý nhắn nhủ với người đẹp không
có mặt ở tiệc rượu nhưng vẫn ở đâu đó trong tư thất
để nghe. Ca rằng:
Phượng hề, phượng hề qui cố hương
Du ngao tứ hải cầu kỳ hoàng
Có nghĩa là:
Chim phượng về quê
Sau khi đi ngao du bốn biển để tìm chim hoàng đẹp
Hữu nhứt diễm nữ đại thức tương
Thất nhi nhân hà độc ngã trang
Hà do giao tiếp vị uyên ương
Có nghĩa là:
Có một người con gái đẹp ở nơi đây, ngay trong nhà này
Phòng gần, người xa làm khô héo ruột gan ta
Biết làm sao gặp gỡ được nhau để trở thành đôi uyên ương.
Sau
khi nghe bài ca và tiếng đàn của Tư Mã Tương Như, Trác Văn Quân vô cùng
xúc động và đêm đó đã thu xếp hành lý bỏ nhà theo chàng.
Tiếp theo từ câu 477 đến câu 478
“Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng lưu thuỷ hai rằng hành vân”.
Kê
Khang, theo sách Thông chí là người ở nước Ngụy sống vào đời Tam quốc,
thuộc hạng hào hoa phong nhã, diện mạo khôi ngô, thấm nhuần đạo Lão
Trang, được người xưa tôn làm một trong bảy vị hiền trong phái Trúc Lâm
Thất hiền. Một đêm, ở trọ trong Hoa Dương Đình, vùng Lạc Tây, lấy đàn
cầm ra gẩy. (Đàn cầm là một nhạc khí theo tương truyền do vua Phục Hy
chế ra. Mặt đàn cong như vòm trời, lưng đàn phẳng như mặt đất (quan điểm của người xưa). Đàn
có năm dây tượng trưng cho ngũ hành. Sau Văn vương thêm một dây, Võ
vương thêm một dây nên đàn có tất cả là bảy dây.
Cây đàn này đã được ở
trong tay của những danh cầm như Khổng
Tử, người đã sáng tác bản U Lan (Bông Lan trong bóng tối) để bày tỏ
lòng mình khi rời nước Lỗ muốn ẩn dật như bông Lan ở trong bóng tối,
không ánh sáng mặt trời mà sắc vẫn đẹp, hương vẫn nồng. Bá Nha cũng dùng
cổ cầm đàn cho Chung Tử Kỳ nghe đến khi người bạn tri âm quá vãn, đạp
cây đàn của mình để không bao giờ đàn nữa vì trên đời này nếu không còn
người tri kỷ, tri âm thì tiếng đàn của mình có còn ai hiểu được nữa mà
đàn. Đàn cổ cầm cũng là cây đàn mà Tư Mã Tương Như sau khi biểu diễn
được nàng Trác Văn Quân bỏ nhà đi theo mình - giải thích thêm của người
viết).
Trong
lúc Kê Khang đang chìm trong tiếng nhạc thì có người khách lạ đến xin
gặp Kê Khang để bàn luận về âm luật. Ngay buổi đó, Kê Khang và vị khách
đã trở thành hai người bạn tâm giao. Vị khách quí lấy đàn và soạn ra
được một khúc Quãng Lăng. Kê Khang được truyền bản đó và nổi tiếng là
người đàn bản Quãng Lăng hay nhứt. Vị khách có tiên phong đạo cốt có dặn
Kê Khang là không nên truyền bản đó cho người đời sau. Lúc cuối đời, Kê
Khang bị kẻ thù ám hại nên có giai đoạn bản Quảng Lăng bị thất truyền.
Nhưng ngày nay, có nhiều nhà nhạc học Trung Quốc tìm đâu được dấu vết
của bản Quảng Lăng nên hiện giờ tại Trung Quốc lục địa
hay ở Đài Loan, bản Quảng Lăng được các danh cầm trình bày trong những
buổi hòa nhạc.
Sau đó là câu:
“Một rằng lưu thuỷ hai rằng hành vân”
Lưu
Thủy và Hành Vân, trong nhạc sử của Trung Quốc không thấy nhắc đến hai
bản đàn liền nhau như một cặp mà chỉ có tên Lưu Thủy và bản Cao san lưu
thủy đều là những bản đàn đặt riêng cho cổ cầm.
Vậy
khi cụ Nguyễn Du nói đến “lưu thủy” và “hành vân” có thể là cụ nghĩ tới
cách đàn lưu loát và êm dịu như trong Tống sử có một nhân vật là Tô
Thức thường ví lời văn hay như “mây trôi nước chảy” (hành vân, lưu
thủy).
Sau đó có hai câu:
“Quá quan này khúc Chiêu quân
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia”
là
cụ Nguyễn Du muốn nhắc lại nàng cung nữ nhà Hán tên là Vương Tường
nhưng được người đời biết tên là Chiêu Quân, con nhà lương thiện ở đất
Tường Qui, nhan sắc tuyệt vời, tài nghệ xuất chúng được tuyển vào cung
dưới thời vua Hán Nguyên Đế. Số cung phi rất đông nên vua nhà Hán sai
một họa sĩ tên Mạc Duyên Thọ vẽ lại các cung nữ. Nhà vua chỉ nhìn trên
bức họa đó mà chọn những người nào vào hầu nhà vua. Các cung tần mỹ nữ
đều lo lót cho Duyên Thọ tô điểm thêm để vẽ mình thêm đẹp. Riêng Chiêu
Quân không lo lót nên họa sĩ khi vẽ nàng có thêm một nốt ruồi sát phu vì
thế mà Chiêu Quân không bao giờ được gọi vào cung.
Đến khi
Thiền Vu là vua Hung nô đem hậu lễ cống cho vua Hán để mong được chức
chư hầu và xin vua cho mình một cung nữ đẹp để đem về làm hoàng hậu thì
coi theo hình vẽ vua chọn Chiêu Quân. Đến khi đem Chiêu Quân ra mắt nhà
vua trước khi gả cho Hung nô thì nhà vua giựt mình trước sắc đẹp lộng
lẫy của nàng và không hề có nốt ruồi sát phu. Nhà vua muốn lưu Chiêu
Quân ở lại nhưng việc đã rồi, không thể nào thay đổi. Chiêu Quân khi
phải lên đường để đi đến nước Hung nô, lúc qua cửa ải lòng vô cùng xúc
động vì rời bỏ quê hương, đất nước nên ôm tỳ bà khảy một khúc đàn để nói
lên sự đau khổ của lòng mình và sau đó có rất nhiều nhạc sĩ phỏng theo
câu chuyện đó mà đặt ra nhiều bản đàn.
Tại Quảng Đông, đầu thế kỷ 20, có
một danh ca tên
Hồng Tuyến Nữ được cả nước say mê khi cô hát bài “Chiêu Quân xuất tái”
và trong một bản đàn Triều Châu truyền sang nước Việt Nam có bản “Quá
ngũ quan” còn được thông dụng. Trong các bài ca vọng cổ có bài mà nghệ
sĩ Bạch Tuyết trong vai Dương Quí Phi trách An Lộc Sơn không về kịp để
cứu mình có dùng bản “Quá ngũ quan” giữa hai đoạn vọng cổ. Bản của Thúy
Kiều đàn có lẽ là bản “Quá quan” trong những bản văn khúc đặt cho đàn Tì bà.
Khi
lọt vào tay Mã Giám Sinh thì Kiều bị ép buộc phải đàn một bản và đề thơ
vịnh quạt để thử tài thì chúng ta chỉ thấy câu thơ: “Ép cung cầm nguyệt thử bài họa thơ” mà không biết Kiều đàn bản gì.
Đến khi vào lầu xanh, Tú Bà sau khi biết tài Thúy Kiều thì bắt buộc Kiều khi tiếp khách phải đàn và đánh cờ trong câu: “Cung cầm trong nguyệt, nét cờ dưới hoa”. Biết Thúy Kiều có đàn nhưng đàn bản gì chúng ta cũng không rõ.
Khi gặp Thúc Sinh, lúc đầu còn ngại ngùng nhưng lâu ngày thì:
“Khi hương sớm, khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”
Có đàn, có đánh cờ nhưng chúng ta cũng không biết đàn bản gì.
Lúc Hoạn Thơ bắt được Kiều về nhà, đày đoạ Kiều như một nô tỳ. Một hôm muốn biết tài Thúy Kiều nên “Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày”. Thúy Kiều “Lĩnh lời nàng mới lựa dây, nỉ non thảnh thót dễ say lòng người”. Sau buổi đó, Hoạn Thơ đối với Kiều có phần nhẹ nhàng hơn nhưng chúng ta cũng không biết Thúy Kiều đàn bản gì.
Khi
Thúc Sinh về nhà, Hoạn Thơ bắt Kiều phải hầu tiệc rót rượu như một hoa
nô và bảo Kiều đàn cho Thúc Sinh nghe. Có lẽ Thuý Kiều đàn một bản buồn
lắm mặc dầu không nói tên ra nhưng cụ Nguyễn Du đã viết:
“Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng”
Thúc
Sinh nghe lã chã dòng châu, Kiều lại một phen bị Hoạn Thơ mắng: “Cuộc
vui gẩy khúc đoạn trường ấy chi”. Và cũng như những lần khác, chúng ta
không biết Thúy Kiều đàn bản gì.
Trong đoạn sau, khi Kiều bị Hồ Tôn Hiến gạt và bắt buộc đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe.
“Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu”...
“Một cơn gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”
Tiếng đàn đã làm cho Hồ Tôn Hiến phải rơi lụy và hỏi nàng đã đàn bản gì.
“Thưa rằng bạc mệnh khúc này
Phổ vào âm ấy những ngày còn thơ”
“Cung cầm lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây”
Đây là lần đầu tiên nghe Thúy Kiều đàn bản “Bạc mệnh” mà từ trước tới giờ không bao giờ nghe nhắc đến.
Đến khi tái ngộ với Kim Trọng, Kiều một hôm đã đàn lại cho Kim Trọng nghe (từ câu 3197 - 3206)
“Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh”
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ?”
Trong sao, châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam - điền mới đông”
“Hồ
điệp” là con bướm, “Trang sinh” tức là một người con trai tên Trang Chu
người ở huyện Mông, nước Lương thời chiến quốc. Trong sách Trang tử có
đoạn nói rằng: Trang Chu một hôm nằm chiêm bao thấy mình hóa ra một con
bướm. Trong lòng rất vui thích quên hẳn mình là Trang Chu nhưng khi thức
giấc thì Trang Chu vẫn là Trang Chu. Trong sách đã có nêu câu hỏi không
biết Trang Chu nằm chiêm bao thấy mình thành con bướm hay con bướm thấy
chiêm bao biến thành Trang Chu?
Trong
cổ nhạc Trung Quốc, chúng tôi chưa gặp bài nào tên “Hồ Điệp”. Trong cổ
nhạc Việt Nam, theo truyền thống Huế, thì “Hồ điệp” là một bản rất gần
với “cổ bản” theo hơi khách. Nét nhạc vui tươi. Có thể lúc gặp Kim
Trọng, tiếng đàn của Kiều không não nùng như khi xưa mà có nét vui tươi
của lần tái ngộ và chúng ta cũng không biết rõ đó là bản gì.
“Xuân
tình” đây là tình trong mùa xuân. Trong cổ nhạc Việt Nam miền Trung, có
bản “xuân tình điểu ngữ” là tiếng chim rộn rã trong mùa xuân. Trong âm
nhạc tài tử miền Nam, có bài “xuân tình chấn” là một trong sáu bản Bắc
lớn. Chúng tôi không nghĩ rằng Thúy Kiều đã đàn một trong hai bản đó vì
không phải là bản đặc biệt cho đàn Tỳ Bà.
“Thục
đế” là vua nước Thục, “Đỗ quyên” là chim quốc cũng gọi là “Tử qui”.
Trong sách Hoàn vũ ký có đoạn nhắc vua nước Thục tên là Đỗ Vũ. Khi
nhường ngôi vua cho người khác, lên núi Tây Sơn ở ẩn, chết hóa thành con
chim Đỗ quyên. Tiếng kêu ai oán. Do đó, chúng tôi hơi ngạc nhiên là cụ
Nguyễn Du nói rằng tiếng nhạc êm ái xuân tình. Có thể cụ Nguyễn Du muốn
nói Thuý Kiều vì muốn “nể lòng người cũ” nên đàn một bản “êm ái xuân
tình” nhưng lòng vẫn sầu bi cho kiếp phận như tiếng kêu ai oán của chim
đỗ quyên. Nhưng rồi chúng ta cũng không biết Thuý Kiều đã đàn bản gì.
“Duyềnh ” là vùng biển có trăng soi. “Lam-điền” tên núi ở Thiểm Tây bên Trung Quốc là nơi sanh ra nhiều ngọc quí.
Cả sáu câu này, không nói rõ ra bản gì nhưng ý thơ là lấy trong bài thơ mang tên là “Cầm Sắt” của Lý Thương Ẩn đời Đường:
“Trang sinh hiểu mộng mơ hồ điệp
Thục đế xuân tâm, thác Đỗ quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam-điền nhựt noãn ngọc sinh yên”
Có nghĩa là:
Trang sinh trong giấc mộng buổi sáng, mơ màng tưởng mình hóa ra con bướm.
Vua Thục chết đi ký thác cho chim Đỗ quyên tình yêu mùa xuân.
Trên biển rộng, ánh trăng soi hạt ngọc sáng như có giọt nước mắt.
Tại Lam-điền dưới ánh mặt trời nóng ấm hạt ngọc lên hơi.
Lại
một lần nữa chúng ta thấy rằng từ tên bản đàn đến lời thơ của Lý Thương
Ẩn đều có liên quan đến đàn Cầm và đàn Sắt chứ không phải đàn Tì Bà
nhưng cụ Nguyễn Du dựa trên những ý đẹp đó mà diễn tả tiếng đàn của Thuý
Kiều.
Kết luận:
Chưa
có trong quyển truyện thơ nào trong văn chương Việt Nam mà tác gỉa đã
dành rất nhiều câu về âm nhạc khi nói đến nhân vật chánh như trong
truyện Kiều của Nguyễn Du.
Những
câu thơ đó chứng tỏ rằng tác gỉa rất yêu âm nhạc và đã đọc khá nhiều
sách về cổ nhạc Trung Quốc nên nhắc lại nhiều tên bản đờn danh tiếng và
khi miêu tả cách đàn của Thuý Kiều có rất nhiều câu chứng tỏ tác gỉa là
người nhận xét tiếng đàn một cách tế nhị và thi vị. Tuy nhiên, khi nhắc
đến những bản danh tiếng của cổ nhạc Trung Quốc, cụ Nguyễn Du không để ý
rằng ngoài bản “Thập diện mai phục” và “Chiêu quân xuất tái” là những
bản đặc biệt cho đàn Tì bà còn những bản khác là những bản dành riêng
cho cây đàn cổ cầm mà những nhạc khí như Hồ cầm không biểu diễn được.
Vì
thế nên khi chú thích những câu thơ của Nguyễn Du nếu phối hợp được sự
hiểu biết văn thơ từ ngữ và điển tích với Âm nhạc sử và Âm nhạc học của
Trung Quốc ngày xưa mới có thể đầy đủ được.
Trên
đây, chúng tôi có hơi nặng về Âm nhạc học nếu có chi sơ sót về mặt văn
chương từ ngữ hay điển tích, xin quí bạn độc giả bổ sung, chỉnh lý cho.
Chúng tôi rất sẵn sàng lĩnh giáo và chân thành cảm ơn.
Tuesday, November 19, 2013
FRANK YU * GIANG TRẠCH DÂN
Một nhà sử học nói rằng chế độ thời Giang Trạch Dân là “tham nhũng nhất”
Ông Nguyễn, một chuyên gia về cộng sản Trung Quốc và là tác giả của 2 cuốn sách, Hồ Diệu Bang tại những bước ngoặt lịch sử (1991) và Đặng Tiểu Bình: Biên niên sử của một triều đại (1992), giải thích: “Tôi nghĩ rằng mục tiêu ban đầu của Đặng Tiểu Bình là ‘Để cho một số người làm giàu trước’. Tuy nhiên, tôi tin rằng mục đích chính yếu của Đặng là phân bố của cải cho mọi người dân Trung Quốc một cách bình đẳng.” Ông nói với Lịch sử Minh Kính, một xuất bản bổ sung của Mirror Books, có trụ sở tại Hong Kong, hồi tháng 6.
“‘Ba đại diện’ của Giang Trạch Dân không xứng tầm với những mục tiêu
của Đặng”, ông Nguyễn nói về học thuyết bị cười chê tại Trung Quốc về sự
mập mờ. Tư tưởng của Giang bao gồm câu khẩu hiệu rằng Đảng Cộng sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) nên phát huy thúc đẩy lực lượng sản xuất Trung Quốc,
văn hóa Trung Quốc, và “lợi ích thiết yếu của người dân Trung Quốc.”
“Khi nói đến vai trò của ĐCSTQ trong việc ‘thúc đẩy lực lượng sản
xuất’, thì ai là ‘lực lượng sản xuất’?” Ông Nguyễn chất vấn. “Thông
thường chỉ có người lao động tạo ra giá trị, tuy nhiên đôi khi giá trị
được tạo ra không được phân bổ công bằng giữa mọi người,” ông nói. “Tuy
nhiên, dưới triều đại của Giang, sản xuất không còn tạo ra giá trị nữa,
chỉ có đầu tư tư bản mới có thể tạo ra giá trị – chỉ có Phố Wall mới tạo
nên giá trị.”
“Trước tiên, Giang đến New York và mở giao dịch tại Sở Giao dịch
Chứng khoán New York, sau đó thuê Goldman Sachs cho thị trường Trung
Quốc,” ông Nguyễn nói. “Tiếp đó, Giang hạ tiền lương của nông dân và cho
phép các nhà đầu tư bất động sản trở nên giàu có… Chính là dưới sự điều
hành của Giang mà tham nhũng đã lên tới đỉnh điểm. Con trai của Giang,
cũng như con trai của Lí Bằng, đều giàu có lên trong giai đoạn này,” ông
Nguyễn giải thích.
Ông Nguyễn tin rằng khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Phố Wall và Giang góp phần tạo nên sự khủng hoảng đó.
Nguyễn Minh là một nhà khoa học và bình luận về chính trị. Ông đã
từng là cố vấn cao cấp và là người soạn diễn văn cho cựu Tổng bí thư Hồ
Diệu Bang, và đã làm việc với Hồ Cẩm Đào. Ông đã là công dân Đài Lo
ĐỘNG THIÊN ĐƯỜNG-QUẢNG BÌNH
Tôi khám phá Thiên Đường .
Tháng 4 vừa rồi làm 1 chuyến du ngoạn miền Trung, tất cả thông tin, hành trình, lịch bay, khách sạn, hình ảnh chụp được, geotagging đều được thực hiện trên iPhone 4. Tôi muốn chia sẽ ở đây để giới thiệu với mọi người 2 thứ:
- vẻ đẹp "ngỡ ngàng" của động Thiên Đường ở Quảng Bình.
- sự "lợi hại" của những apps phục vụ du lịch của iPhone 4.
Bà con cô bác nào thấy hay và hữu ích thì like mạnh và share mạnh nhé.
Tất cả hình ảnh của
chuyến đi trên
Maps...
Ở đâu?
Từ Đồng Hới, đi thẳng đường Hồ Chí Minh khoảng 30km sẽ đến ngã 3 rẽ vào bến đò vào Phong Nha. Từ ngã 3 đoạn rẽ vào Phong Nha – Kẽ Bàng, đi thẳng đường Hồ Chí Minh, đến gần ngã 3 Đông Dương (thực chất là điểm giao của đường HCM Đông và HCM Tây) thì rẽ trái. Đầu ngã rẽ có biển ghi “Động Thiên đường” rất to. Đi thẳng hoài khoảng 16km là đến khu resort đang xây dựng của công ty Trường Thịnh. Gửi xe đi bộ thêm khoảng 1.5km và leo 524 bậc thang là đến cửa động.
Ngã 3 vào động Phong Nha.
Lời khuyên: Đừng nên tiết kiệm 60,000 đi xe vào thẳng chân núi, vì 524 bậc thang là rất phê.
Lưu ý: Đoạn đường từ ngã 3 đường Hồ Chí Minh vào động Thiên đường phải nói là rất đẹp. Đẹp tuyệt vời. Đôi khi bạn nên dừng lại hít thở, ngắm cảnh, hoặc thậm chí là tắm suối, vì nước rất mát và trong. Cảnh vật 2 bên rất thiên nhiên, hùng vĩ, xanh mát. Đây là khu vực có nhiều động chưa được khai phá, thành ra có những đoạn đường trời đang hanh mát bỗng nhiên có những làn gió rất lạnh, người ta nói đó là “gió động”. Đi ngang đường mà thấy mát mát là biết có động đâu đó quanh mình rồi.
Từ cổng bến thuyền vào Phong Nha...
Đi ra ngã 3 quẹo trái đường Hồ Chí Minh 1 đoạn là đến cầu này (không nhớ là cầu gì, hic, chỉ biết là cảnh đẹp quá nên chụp lại)…
Đi khoảng 10km, gặp bảng chỉ dẫn quẹo trái vào Thiên Đường, đi 1 đoạn nữa sẽ tới Cầu Tróoc và thưởng ngoạn vẻ đẹp trùng đẹp của đất nước nơi đây.
Núi sông xanh rì và rất mát…
Có những đoạn đường trời đang hanh mát bỗng nhiên có những làn gió rất lạnh, người ta nói đó là “gió động”. Đi ngang đường mà thấy mát mát là biết có động đâu đó quanh mình rồi.
Đường vào động đẹp như mơ...
Một cánh đồng cỏ có thể chạy xe vào và tắm suối...
Đường đi bộ lên hang Thiên đường...
Là cái gì?
Tháng 4 vừa rồi làm 1 chuyến du ngoạn miền Trung, tất cả thông tin, hành trình, lịch bay, khách sạn, hình ảnh chụp được, geotagging đều được thực hiện trên iPhone 4. Tôi muốn chia sẽ ở đây để giới thiệu với mọi người 2 thứ:
- vẻ đẹp "ngỡ ngàng" của động Thiên Đường ở Quảng Bình.
- sự "lợi hại" của những apps phục vụ du lịch của iPhone 4.
Bà con cô bác nào thấy hay và hữu ích thì like mạnh và share mạnh nhé.
Ở đâu?
Từ Đồng Hới, đi thẳng đường Hồ Chí Minh khoảng 30km sẽ đến ngã 3 rẽ vào bến đò vào Phong Nha. Từ ngã 3 đoạn rẽ vào Phong Nha – Kẽ Bàng, đi thẳng đường Hồ Chí Minh, đến gần ngã 3 Đông Dương (thực chất là điểm giao của đường HCM Đông và HCM Tây) thì rẽ trái. Đầu ngã rẽ có biển ghi “Động Thiên đường” rất to. Đi thẳng hoài khoảng 16km là đến khu resort đang xây dựng của công ty Trường Thịnh. Gửi xe đi bộ thêm khoảng 1.5km và leo 524 bậc thang là đến cửa động.
Ngã 3 vào động Phong Nha.
Lời khuyên: Đừng nên tiết kiệm 60,000 đi xe vào thẳng chân núi, vì 524 bậc thang là rất phê.
Lưu ý: Đoạn đường từ ngã 3 đường Hồ Chí Minh vào động Thiên đường phải nói là rất đẹp. Đẹp tuyệt vời. Đôi khi bạn nên dừng lại hít thở, ngắm cảnh, hoặc thậm chí là tắm suối, vì nước rất mát và trong. Cảnh vật 2 bên rất thiên nhiên, hùng vĩ, xanh mát. Đây là khu vực có nhiều động chưa được khai phá, thành ra có những đoạn đường trời đang hanh mát bỗng nhiên có những làn gió rất lạnh, người ta nói đó là “gió động”. Đi ngang đường mà thấy mát mát là biết có động đâu đó quanh mình rồi.
Từ cổng bến thuyền vào Phong Nha...
Đi ra ngã 3 quẹo trái đường Hồ Chí Minh 1 đoạn là đến cầu này (không nhớ là cầu gì, hic, chỉ biết là cảnh đẹp quá nên chụp lại)…
Đi khoảng 10km, gặp bảng chỉ dẫn quẹo trái vào Thiên Đường, đi 1 đoạn nữa sẽ tới Cầu Tróoc và thưởng ngoạn vẻ đẹp trùng đẹp của đất nước nơi đây.
Núi sông xanh rì và rất mát…
Có những đoạn đường trời đang hanh mát bỗng nhiên có những làn gió rất lạnh, người ta nói đó là “gió động”. Đi ngang đường mà thấy mát mát là biết có động đâu đó quanh mình rồi.
Đường vào động đẹp như mơ...
Một cánh đồng cỏ có thể chạy xe vào và tắm suối...
Đường đi bộ lên hang Thiên đường...
Là cái gì?
Năm
2005, khi phát hiện hang động này, các nhà thám hiểm của Hội Hang động
hoàng gia Anh (BCRA) đã bàng hoàng vì vẻ đẹp thần tiên của hang, chỉ có
thể thốt lên được hai tiếng: “Thiên đường!”
Trong danh mục những hang động đẹp nhất thế giới, động Phong Nha được xếp hạng một trong hai hang động đẹp nhất thế giới với danh hiệu “đệ nhất động”. Tuy nhiên, khi các chuyên gia hang động tìm ra Thiên Đường, nhiều người đã cho điểm Thiên Đường đẹp gấp 10 lần Phong Nha.
Trong danh mục những hang động đẹp nhất thế giới, động Phong Nha được xếp hạng một trong hai hang động đẹp nhất thế giới với danh hiệu “đệ nhất động”. Tuy nhiên, khi các chuyên gia hang động tìm ra Thiên Đường, nhiều người đã cho điểm Thiên Đường đẹp gấp 10 lần Phong Nha.
Động
Thiên Đường là một động tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình. Động này đã được Hội Nghiên cứu hang động Anh
quốc phát hiện năm 2005 và được đánh giá là động lớn nhất và đẹp nhất
tại Phong Nha-Kẻ Bàng. Đây là một động khô, không có sông ngầm chảy qua
như động Phong Nha. Theo kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa học, so
với động Phong Nha thì động Thiên Đường có chiều dài kỉ lục 31km (chỉ
mới khai thác du lịch được 1.6km), với niên đại từ 300 – 400 triệu năm
trước và quy mô lớn hơn nhiều. Trong động Thiên Đường có nhiều khối
thạch nhũ và măng đá kỳ
ảo.
Phần lớn nền đất trong động này là đất dẻo, khá bằng phẳng nên thuận
tiện cho việc tham quan và thám hiểm. Nhiệt độ bên trong động Thiên
Đường luôn chênh lệch so với bên ngoài khoảng 16 °C.
Quả không hổ thẹn với tên gọi, động Thiên Đường đứng đầu bảng xếp hạng hang động quốc tế vì tính thẩm mỹ, khoa học lẫn vẻ lộng lẫy, khoáng đạt, với nhiều tầng thạch nhũ đẹp say lòng. Khai trương ngày 3-9-2010 nhưng đến ngày 24-12-2010, động Thiên Đường mới mở cửa đón khách.
Cổng xuống Thiên đường là đây...
Có gì hay?
Đến cửa động, thật bất ngờ, cửa chỉ nhỏ vừa đủ một người xuống, nằm dưới lèn đá cao hơn trăm mét trông rất ngoạn mục. Một cái dốc dẫn xuống nền động dài 15m, dốc được tạo rất cầu kỳ với vô vàn hạt thạch nhũ to tròn, hai bên dốc có nhiều dấu tích sập đổ, ngổn ngang những cột thạch nhũ chổng chơ như thể vừa trải qua một đợt kiến tạo. Chân chạm nền động, một cảm giác mát lạnh phả vào, cho dù ngoài trời đang nắng nóng, nhiệt kế mang theo chỉ 18 độ, nhiệt độ lý tưởng để thưởng ngoạn thiên nhiên.
Đường lên lại "Hạ giới"...
Mỗi khối thạch nhũ đẹp mỗi vẻ, không khối nào giống khối nào, đã tạo nên một thiên đường huyền hoặc. Nào Cung Thạch Hoa Viên với khối thạch nhũ như tượng đức mẹ đồng trinh tay bế hài đồng; nào Cung Giao Trì là nơi Ngọc Hoàng bàn việc nước với các cận thần, xung quanh là tượng kỳ lân, chim phượng hoàng, ruộng bậc thang, nhà rơm. Độc đáo là Cung Quảng Hàn, nơi khối thạch nhũ rũ xuống trông như bức rèm the của tiên nữ. Hay Cung Quần Tiên Hội Tụ với cả quần thể tượng Phật A Di Đà, lạc đà hóa nghê châu, thầy trò Đường Tăng trên đường thỉnh kinh, linh vật mình ngựa đầu rồng, Phúc – Lộc – Thọ, tháp Phật. Có những cột nhũ lớn đường kính 1-2 m trông rất giống tượng Phật Bà Quan Âm.
Độc đáo là Cung Quảng Hàn, nơi khối thạch nhũ rũ xuống trông như bức rèm the của tiên nữ.
Cái này chắc là thạch “snack”, nhìn như mấy miếng bánh, hehe…
Cung Giao trì với thạch nhũ hình 3 ông Phước Lộc Thọ
Thạch "Phòng the"........
Ấn tượng nhất là Tháp Liên Hoa với hình thù đặc sắc mà dưới mắt mỗi người, ở mỗi góc nhìn đều mang những hình thù khác nhau; người thì bảo trông giống như cây thông Noel, người bảo giống tòa sen… Thật ra đó là khối thạch nhũ được hình thành từ những giọt nước bắn tung tóe không theo quy luật nào.
Cổng Thiên Đường.
Suối trong động...
Đây có lẽ là quảng đường động dài nhất, và là tấm hình chụp Panorama đẹp nhất của mình trong động...
Cung Quần Tiên Hội Tụ
Cao nhất là Cung Đại Thánh Đường, với trần hang cao nhất động.
Thạch “Nhà rông”
Đoạn cuối động, vẫn còn đang khai thác tiếp…
Lời khen cho nhà đầu tư Trường Thịnh
Không chỉ ngạc nhiên khi thưởng lãm một kỳ quan của đất trời mà tôi còn bất ngờ trước sự sạch sẽ, quy củ, đầu tư xây dựng công phu, chăm sóc kỹ lưỡng của đơn vị quản lý khai thác động Thiên Đường – Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Thịnh. Chắc là của tư nhân nên dàn nhân viên trong đồng phục bắt mắt đón khách rất nhiệt tình, được huấn luyện rất tốt, chào hỏi và mỉm cười rất dịu dàng như khách quý đến chơi, từ bác bảo vệ đến anh quản lý. Sau khi giới thiệu những nét chung về hang động, hướng dẫn viên đưa chúng tôi đi sâu vào trong hang qua tuyến cầu thang gỗ hàng trăm bậc được xây dựng và lắp đặt công phu dài hơn 1 km.
Không như các quần thể hang động khác tại Việt Nam, nhà đầu tư đã tôn trọng tự nhiên tối đa, ngay cả đèn chiếu sáng cũng là ánh sáng trắng nhằm giữ nguyên màu sắc tự nhiên, tươi mới của hang động. Trên toàn bộ đường tham quan, chúng tôi đều đi trên những thang gỗ tự nhiên chứ không để mài mòn nền động như những nơi khác. Cô hướng dẫn viên giải thích làm như vậy để khách dễ đi lại, bảo quản nền động không bị tàn phá.
Tấm này không phải được chụp bằng iPhone, nhưng nó mang tính chất tổng quan đường tham quan động, nên để vào cho các bạn tham khảo...
Nhà chờ ngoài cửa động.
Quả không hổ thẹn với tên gọi, động Thiên Đường đứng đầu bảng xếp hạng hang động quốc tế vì tính thẩm mỹ, khoa học lẫn vẻ lộng lẫy, khoáng đạt, với nhiều tầng thạch nhũ đẹp say lòng. Khai trương ngày 3-9-2010 nhưng đến ngày 24-12-2010, động Thiên Đường mới mở cửa đón khách.
Cổng xuống Thiên đường là đây...
Có gì hay?
Đến cửa động, thật bất ngờ, cửa chỉ nhỏ vừa đủ một người xuống, nằm dưới lèn đá cao hơn trăm mét trông rất ngoạn mục. Một cái dốc dẫn xuống nền động dài 15m, dốc được tạo rất cầu kỳ với vô vàn hạt thạch nhũ to tròn, hai bên dốc có nhiều dấu tích sập đổ, ngổn ngang những cột thạch nhũ chổng chơ như thể vừa trải qua một đợt kiến tạo. Chân chạm nền động, một cảm giác mát lạnh phả vào, cho dù ngoài trời đang nắng nóng, nhiệt kế mang theo chỉ 18 độ, nhiệt độ lý tưởng để thưởng ngoạn thiên nhiên.
Đường lên lại "Hạ giới"...
Mỗi khối thạch nhũ đẹp mỗi vẻ, không khối nào giống khối nào, đã tạo nên một thiên đường huyền hoặc. Nào Cung Thạch Hoa Viên với khối thạch nhũ như tượng đức mẹ đồng trinh tay bế hài đồng; nào Cung Giao Trì là nơi Ngọc Hoàng bàn việc nước với các cận thần, xung quanh là tượng kỳ lân, chim phượng hoàng, ruộng bậc thang, nhà rơm. Độc đáo là Cung Quảng Hàn, nơi khối thạch nhũ rũ xuống trông như bức rèm the của tiên nữ. Hay Cung Quần Tiên Hội Tụ với cả quần thể tượng Phật A Di Đà, lạc đà hóa nghê châu, thầy trò Đường Tăng trên đường thỉnh kinh, linh vật mình ngựa đầu rồng, Phúc – Lộc – Thọ, tháp Phật. Có những cột nhũ lớn đường kính 1-2 m trông rất giống tượng Phật Bà Quan Âm.
Độc đáo là Cung Quảng Hàn, nơi khối thạch nhũ rũ xuống trông như bức rèm the của tiên nữ.
Cái này chắc là thạch “snack”, nhìn như mấy miếng bánh, hehe…
Cung Giao trì với thạch nhũ hình 3 ông Phước Lộc Thọ
Thạch "Phòng the"........
Ấn tượng nhất là Tháp Liên Hoa với hình thù đặc sắc mà dưới mắt mỗi người, ở mỗi góc nhìn đều mang những hình thù khác nhau; người thì bảo trông giống như cây thông Noel, người bảo giống tòa sen… Thật ra đó là khối thạch nhũ được hình thành từ những giọt nước bắn tung tóe không theo quy luật nào.
Cổng Thiên Đường.
Suối trong động...
Đây có lẽ là quảng đường động dài nhất, và là tấm hình chụp Panorama đẹp nhất của mình trong động...
Cung Quần Tiên Hội Tụ
Cao nhất là Cung Đại Thánh Đường, với trần hang cao nhất động.
Thạch “Nhà rông”
Đoạn cuối động, vẫn còn đang khai thác tiếp…
Lời khen cho nhà đầu tư Trường Thịnh
Không chỉ ngạc nhiên khi thưởng lãm một kỳ quan của đất trời mà tôi còn bất ngờ trước sự sạch sẽ, quy củ, đầu tư xây dựng công phu, chăm sóc kỹ lưỡng của đơn vị quản lý khai thác động Thiên Đường – Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Thịnh. Chắc là của tư nhân nên dàn nhân viên trong đồng phục bắt mắt đón khách rất nhiệt tình, được huấn luyện rất tốt, chào hỏi và mỉm cười rất dịu dàng như khách quý đến chơi, từ bác bảo vệ đến anh quản lý. Sau khi giới thiệu những nét chung về hang động, hướng dẫn viên đưa chúng tôi đi sâu vào trong hang qua tuyến cầu thang gỗ hàng trăm bậc được xây dựng và lắp đặt công phu dài hơn 1 km.
Không như các quần thể hang động khác tại Việt Nam, nhà đầu tư đã tôn trọng tự nhiên tối đa, ngay cả đèn chiếu sáng cũng là ánh sáng trắng nhằm giữ nguyên màu sắc tự nhiên, tươi mới của hang động. Trên toàn bộ đường tham quan, chúng tôi đều đi trên những thang gỗ tự nhiên chứ không để mài mòn nền động như những nơi khác. Cô hướng dẫn viên giải thích làm như vậy để khách dễ đi lại, bảo quản nền động không bị tàn phá.
Tấm này không phải được chụp bằng iPhone, nhưng nó mang tính chất tổng quan đường tham quan động, nên để vào cho các bạn tham khảo...
Nhà chờ ngoài cửa động.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 288
TIN BIỂN ĐÔNG = VĂN MIẾU HUẾ = VIỆT NAM BẰNG GIẢ
TIN BIỂN ĐÔNG
Mỹ, Canada tăng hợp tác quân sự Á châu
Luật sư Vũ Đức Khanh
Viết cho BBCVietnamese.com từ Canada
Cập nhật: 04:23 GMT - chủ nhật, 24 tháng 11, 2013
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Hiệp định Khung này sẽ tăng cường phối hợp các
hoạt động tham gia quân sự của Canada và Mỹ trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, nhằm mục đích xây dựng nội lực và năng lực giữa các đối tác
châu Á bằng cách phối hợp các hoạt động đào tạo và thao diễn quân sự, và
hỗ trợ các diễn đàn khu vực để tăng cường đối thoại và hợp tác.
Ông Chuck Hagel nói: “Canada từ lâu đã là một
trong các đồng minh đáng giá nhất của Mỹ… Hoa Kỳ và Canada lại là hai
quốc gia cùng nằm chung bên bờ Thái Bình Dương” và ông Bộ trưởng còn cho
biết thêm rằng thỏa thuận mới này “là một ví dụ của hai quốc gia (Hoa
Kỳ, Canada) có thể tận dụng thế mạnh của nhau để giúp giải quyết những
vấn đề thách thức toàn cầu.”
Ông Bộ trưởng Hoa Kỳ kết luận: “Chiến lược tái
cân bằng lực lượng của (Hoa Kỳ) chúng tôi ở châu Á - Thái Bình Dương
không chỉ đơn thuần là quân sự”, nó phải được hiểu như đó là một chiến
lược tổng thể kết tinh của “kinh tế, thương mại, xã hội, văn hóa, giáo
dục, an ninh -- nó là sự ổn định trong một thế giới nối kết toàn cầu”.
Quan điểm của Canada
Trong khi đó thì Bộ trưởng Quốc phòng Canada Rob Nicholson cho biết: “Hoa Kỳ là đồng minh và đối tác quốc phòng quan trọng bậc nhất của Canada… Quan hệ an ninh quốc phòng giữa hai nước Canada và Hoa Kỳ đều dựa trên những giá trị chung, có chung lịch sử và một truyền thống hợp tác quân sự và khả năng tương tác"."Canada nhận thức được tầm quan trọng của việc duy trì an ninh và ổn định trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương hầu đảm bảo tiếp tục sự tăng trưởng của nó trong môi trường hòa bình."
Bộ trưởng Quốc phòng Canada Rob Nicholson
“Khi môi trường an ninh toàn cầu phát triển ngày
càng phức tạp, chúng tôi phải tiếp tục tìm kiếm phương cách để cùng
nhau làm việc,” ông nói thêm rằng “Canada nhận thức được tầm quan trọng
của việc duy trì an ninh và ổn định trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương hầu đảm bảo tiếp tục sự tăng trưởng của nó trong môi trường hòa
bình”.
Và ông Nicholson kết luận rằng “Canada và Hoa Kỳ
đều chia sẻ với các đối tác châu Á của chúng tôi một mối quan tâm trong
việc thúc đẩy sự ổn định” của khu vực.
Trong bối cảnh một Trung Quốc đang trỗi dậy gây
đầy bất an và biến động trong khu vực, liệu động thái mới này của
Canada và Hoa Kỳ có đủ làm yên tâm các quốc gia đang có tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ và lãnh hải với Trung Quốc trên Biển Đông?
Bài phản ánh quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, luật sư sống tại Canada.
Quân sự Mỹ-Việt và chính sách "ba không"
GS Carlyle A. Thayer, Học viện Quốc phòng Australia
Gửi tới BBC tiếng Việt
Cập nhật: 12:29 GMT - thứ năm, 21 tháng 11, 2013
Bài khác của Carl Thaeyr
Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nhìn lại phản ứng cả quyết của Hoa Kỳ sau khi sóng thần ập vào Indonesia hồi năm 2004.
Một năm sau đó Hoa Kỳ lại có lực lượng cứu trợ
cho Myanmar sau bão Nargis nhưng không được tham gia trực tiếp do thái
độ của chính quyền Myanmar.
Hoa Kỳ có thể phản ứng rất nhanh tại Philippines
vì quân đội hai bên đã bao gồm cả cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai
vào hàng loạt các chương trình tập trận chung thường niên.
Nói cách khác, Hoa Kỳ và Philippines đã bàn bạc
từ trước về thể thức trợ giúp của nước ngoài, các thủ tục hoạt động và
các hoạt động tương hỗ.
Quân đội Hoa Kỳ sẵn sàng thực hiện cứu trợ nhân
đạo cho bất cứ nước nào ở Châu Á Thái Bình Dương bất chấp liên hệ quân
sự của họ với nước đó ra sao, dù là đồng minh, đối tác chiến lược hay
một dạng quan hệ nào khác.
Dĩ nhiên Philippines là trường hợp đặc biệt vì quan hệ lâu dài giữa hai nước từ thời thuộc địa.
Cử tri người Philippines ở Hoa Kỳ cũng có vai trò quan trọng. Và Philippines là đồng minh đã ký hiệp ước với Hoa Kỳ.
"Ba không"
Khả năng quân đội Hoa Kỳ trở lại Cảng Cam Ranh trong tương lai gần là khó xảy ra.
Việt Nam có chính sách "ba không" - không liên
minh quân sự, không căn cứ quân sự và không sử dụng quan hệ song phương
nhắm vào nước thứ ba.
Việt Nam cũng có khả năng tương đối tốt để ứng phó với các thảm họa tự nhiên quy mô lớn.
Dĩ nhiên bất cứ nước nào cũng có thể bị choáng ngợp bởi thảm họa tự
nhiên lớn và cần sự trợ giúp của nước ngoài. Hoa Kỳ và Việt Nam đã bao
gồm cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai trong Biên bản Ghi nhớ quốc
phòng.Điều này cho phép Việt Nam nhận sự trợ giúp từ Hoa Kỳ và các nước
khác trong trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia.Khả năng ứng phá trước thảm họa tự nhiên của Hoa Kỳ sẽ được cải thiện cùng với sự hiện diện luân phiên của binh lính Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, nhất là ở Philippines.
"Có tin nói Nga, nước đang trợ giúp Việt Nam trong việc bảo trì tàu ngầm hạng Kilo, đang muốn có đặc quyền vào khu mới này"
Hiện tại Vịnh Cam Ranh được chia ra làm ba khu vực: vùng quân sự của Việt Nam, khu vực dân sự và một khu mới phát triển dành cho sửa chữa và bảo trì tàu quân sự.
Có tin nói Nga, nước đang trợ giúp Việt Nam trong việc bảo trì tàu ngầm hạng Kilo, đang muốn có đặc quyền vào khu mới này.
Cho tới nay Việt Nam mới chỉ cho các tàu phi tác
chiến của Hoa Kỳ cập cảng Cam Ranh để sửa chữa. Các tàu này thuộc Tư
lệnh Hải vận của Hoa Kỳ.
Kịch bản có khả năng diễn ra nhất trong lĩnh vực
cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai là Việt Nam cho phép máy bay
và/hoặc các tàu hải quân Hoa Kỳ vào phi trường hay hải cảng của họ tron
phòng chống thiên tai lớn ở Việt Nam hay ở quốc gia lân bang.
Và kịch bản này chỉ xảy ra trong tình huống đặc biệt.
Khi Hoa Kỳ và Philippines đồng ý được với nhau về mặt pháp lý để thực thi Tuyên bố Tầm nhìn Chung của họ, người ta sẽ thấy số quân luân phiên của Hoa Kỳ ở Philippines tăng đáng kể.
Nó cũng bao gồm dự trữ đồ tiếp tế phòng khi có thiên tai.
Như vậy Cảng Cam Ranh sẽ thành thừa.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/11/131121_carl_thayer_cam_ranh.shtml
TQ lập vùng phòng không mới trên biển
Cập nhật: 11:54 GMT - thứ bảy, 23 tháng 11, 2013
Trung Quốc đã phân định một
"vùng xác định phòng không" trên một khu vực của Biển Hoa Đông, bao gồm
các đảo mà Nhật Bản cũng tuyên bố chủ quyền.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói phi cơ đi vào vùng
này phải tuân theo quy định của Trung Quốc nếu không muốn đối mặt với
các "biện pháp phòng vệ khẩn cấp".
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Nhật Bản đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ đối với điều mà họ gọi là một sự "leo thang".
"Thiết lập không phận như vậy là đơn phương làm leo thang tình hình xung quanh quần đảo Senkaku và có nguy cơ dẫn đến một tình huống bất ngờ," Bộ Ngoại giao Nhật Bản nói trong một tuyên bố.
Đài Loan, cũng tuyên bố chủ quyền với Điếu Ngư/Senkaku, bày tỏ lấy làm tiếc về động thái này, và hứa hẹn rằng quân đội sẽ tiến hành biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia.
'Không nhắm mục tiêu cụ thể'
"Việc này không nhằm chống lại bất kỳ quốc gia hay nhắm mục tiêu cụ thể nào... Các phi vụ bình thường bởi các hãng hàng không quốc tế trong Khu vực Xác định Phòng không ở Biển Hoa Đông sẽ không bị ảnh hưởng"
Phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng TQ
Trong tuyên bố của mình, Bộ Quốc phòng Trung
Quốc nói các phi cơ phải báo cáo kế hoạch bay "duy trì thông tin liên
lạc radio hai chiều" và "đáp ứng một cách kịp thời và chính xác" với các
yêu cầu nhận dạng.
"Lực lượng vũ trang của Trung Quốc sẽ áp dụng
biện pháp phòng thủ khẩn cấp để đối phó với phi cơ không hợp tác trong
việc xác định hoặc từ chối làm theo hướng dẫn," tuyên bố nói.
Tuyên bố nói thêm quy định khu vực mới thiết lập có hiệu lực từ 10:00 giờ địa phương (tức 02:00 GMT) hôm thứ Bảy, 23/11.
Hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã trình bày một
bản đồ trên trang web của mình, bao gồm một khu vực rộng lớn của Biển
Hoa Đông, bao gồm một vùng rất gần với Hàn Quốc và Nhật Bản.
Trả lời các câu hỏi về vùng phòng không trên một
trang mạng chính thức của nhà nước, một phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng
nói Trung Quốc thiết lập khu vực "với mục đích bảo vệ chủ quyền quốc
gia, an ninh lãnh thổ, không phận và duy trì trật tự bay".
"Việc này không nhằm chống lại bất kỳ quốc gia
hay nhắm mục tiêu cụ thể nào", phát ngôn nhân này nói thêm và cho hay
"Trung Quốc luôn tôn trọng tự do không lưu theo luật pháp quốc tế ".
"Các phi vụ bình thường bởi các hãng hàng không
quốc tế trong Khu vực Xác định Phòng không ở Biển Hoa Đông sẽ không bị
ảnh hưởng trong bất cứ cách thức nào."
'Bắn hạ phi cơ không người lái'
Trong năm 2012, chính phủ Nhật Bản mua ba trong số các đảo từ một chủ sở hữu người Nhật, động thái gây ra các cuộc biểu tình phản đối ở các thành phố Trung Quốc.
Kể từ đó, tàu thuyền Trung Quốc đã nhiều lần ra vào những khu vực mà Nhật Bản nói là lãnh hải của họ.
Vào tháng Chín năm nay, Nhật Bản nói sẽ bắn hạ phi cơ không người lái trong không phận Nhật Bản, sau khi một phi cơ loại này của Trung Quốc bay gần các hòn đảo tranh chấp.
Bắc Kinh nói bất kỳ nỗ lực nào của Nhật Bản nhằm bắn hạ phi cơ của Trung Quốc sẽ tạo thành "một hành động chiến tranh".
Tháng trước Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, Itsunori Onodera, nói hành động của Trung Quốc đối với quần đảo tranh chấp ở Biển Hoa Đông gây nguy hiểm cho hòa bình.
Chủ biên Đông Á của BBC World Service, Charles Scanlon nói cuộc đối đầu về chuỗi các đảo nhỏ trong quần đảo không có người sinh sống đang trở nên cứng rắn hơn bởi các tuyên bố chủ quyền đối nghịch đối với một khu vực giàu có tài nguyên năng lượng dưới đáy biển.
Nhưng vấn đề nay đã trở thành một vấn đề có tính nguyên tắc quốc gia ở cả hai nước, làm cho cả hai phía gặp khó khăn hơn khi muốn giảm đối đầu, vẫn theo Chủ biên Đông Á Scanlon.
Nhật Bản: 'TQ đe dọa hòa bình trên biển'
Cập nhật: 15:27 GMT - thứ ba, 29 tháng 10, 2013
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản cho rằng cách cư xử của Trung Quốc về tranh chấp trên biển Hoa Đông gây nguy hại tới hòa bình.
Bình luận của ông Itsunori Onodera được đưa ra
trong lúc căng thẳng giữa hai quốc gia về vùng đảo Senkaku/Điếu Ngư ngày
càng dâng cao.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Thời gian gần đây, hai quốc gia thường xuyên lời qua tiếng lại, với Nhật Bản nói Trung Quốc tăng cường hoạt động trong khu vực.
Tuần trước Nhật đã ba lần cho chiến đấu cơ xua đuổi máy bay của quân đội Trung Quốc bay gần không phận của Nhật.
Hai quốc gia tranh cãi về khu đảo hiện do Nhật kiểm soát, mà Đài Loan cũng tuyên bố có chủ quyền.
Năm 2012, Tokyo mua lại ba hòn đảo từ một chủ sở
hữu tư nhân người Nhật, động thái này gây bất bình và nhiều cuộc biểu
tình ở các thành phố khác nhau ở Trung Quốc đã nổ ra.
Từ đó tàu thuyền của phía Trung Quốc thường
xuyên ra vào vùng nước mà Nhật tuyên bố có chủ quyền, gây quan ngại sẽ
xảy ra đụng độ.
'Thổi phồng'
Ông Onodera nói với phóng viên ở Tokyo ông tin
rằng “việc Trung Quốc đột nhập vào vùng nước xung quanh khu đảo Senkaku,
là ‘vùng ranh giới xám’ [giữa] hòa bình và tình huống khẩn cấp”.
Hôm thứ Hai 28/10/2013, bốn tàu Trung Quốc đi
vào vùng nước quanh khu đảo, sau khi Nhật cho chiến đấu cơ quần đảo liên
tiếp ba ngày do máy bay Trung Quốc bay trên vùng biển quốc tế gần đảo
Okinawa ở phía Nam Nhật.
Cuối tuần qua Thủ tướng Shinzo Abe cũng nói Nhật cần quyết đoán hơn trong việc đối phó với Trung Quốc ở châu Á.
Cũng có tin ông Abe đã thông qua kế hoạch quốc
phòng trong đó có cho phép tình huống sử dụng không quân để bắn hạ máy
bay không người lái lọt vào không phận của Nhật Bản.
Hồi tháng trước, một máy bay không người lái bay đến gần khu đảo và sau đó trở lại không phận của Trung Quốc, theo một báo cáo.
Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc nói mọi
cố gắng từ phía Nhật nhằm bắn hạ máy bay Trung Quốc “sẽ được coi là
khiêu khích nghiêm trọng, có thể coi là một hành động chiến tranh”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Trung Quốc, bà
Hoa Xuân Oánh nói hôm thứ Ba 29/10 rằng Nhật Bản nên “ngừng thổi phồng
những đe dọa từ bên ngoài và hãy giải thích cặn kẽ với cộng đồng quốc tế
về ý đồ thực sự của việc triển khai quân sự của mình là gì”.
Khu đảo tranh chấp nằm ở phía Đông Trung Quôc và
Tây Nam đảo Okinawa của Nhật. Đây là vùng gần với các tuyến vận tải
biển quan trọng và có tiềm năng hải sản phong phú.
NHẬT BẢN VÀ TRUNG CỘNG
Nhật Bản muốn truyền đi 2 thông điệp: Đoạt vĩnh viễn đảo Senkaku nếu TQ
đánh chiếm; có thể cắt đứt tuyến đường hàng hải ra vào Thái Bình Dương
của TQ.
Ngày 1 tháng 11, tại Tokyo, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori
Onodera cho hay: "Căn cứ vào luật pháp quốc tế tiến hành cảnh giới, theo
dõi thông thường không có bất cứ vấn đề gì, hoàn toàn không thể hiểu
được sự phản đối của Trung Quốc".
Ông Onodera cho rằng, ông không hiểu được sự phẫn nộ của Trung Quốc đối
với việc tàu chiến, máy bay Nhật Bản xâm nhập khu vực diễn tập của Quân
đội Trung Quốc trước đó. Nhưng, trong cùng một ngày, Nhật Bản điều động
15% tổng binh lực của Lực lượng Phòng vệ (34.000 quân) tiến hành tập trận đoạt đảo quy mô lớn.
Theo các phương tiện truyền thông quốc tế, đây là hành động ứng phó với
tình hình đảo Senkaku. Một đài truyền hình của Anh cho rằng, Lực lượng
Phòng vệ tiến hành diễn tập quân sự truyền đi hai thông điệp lớn: Cho dù
Quân đội Trung Quốc xâm phạm đảo Senkaku, chúng tôi cũng có thể đoạt
lại; thông qua triển khai tên lửa đất đối hạm, chúng tôi có thể cắt đứt
tuyến đường hàng hải của Trung Quốc ở Thái Bình Dương.
Trong khi đó, bài viết cho rằng, tổ chức diễn tập quy mô lớn sẽ gây lo
ngại cho dư luận về khả năng chung sống giữa Nhật-Trung trong thời đại
mới đối đầu cứng rắn. Đài phát thanh YTNNam Hànngày 1 tháng 11 cho rằng,
cùng với không khí "sẵn sàng chiến đấu" giữa Trung-Nhật ngày càng tăng,
đảo Senkaku đang vượt qua bán đảo Triều Tiên, trở thành thùng thuốc
súng hàng đầu Đông Bắc Á.
Tập trận đại quy mô đoạt lại đảo
Trước khi diễn tập, Bộ Quốc phòng Nhật Bản công bố quy mô của cuộc diễn
tập từ ngày 1 đến ngày 18 tháng 11 năm 2013, cho biết: "Khoảng 34.000
quân tham gia, 2 khu vực tác chiến lớn là Kyushu, Okinawa, máy bay chiến
đấu F-2, tàu khu trục được điều động, 3 quân chủng lục, hải, không quân
phối hợp diễn tập phòng thủ và đổ bộ lên đảo, đồng thời có bắn đạn
thật".
Đài truyền hình Anh cho rằng, tuy đảo Okidaito, nơi diễn ra cuộc tập
trận đổ bộ đoạt đảo của Lực lượng Phòng vệ cách đảo Senkaku rất xa,
nhưng Bắc Kinh hiểu thâm ý Tokyo nhằm vào đối tượng diễn tập đổ bộ của
Lực lượng Phòng vệ chính là đảo Senkaku.
Tờ "Daily Telegraph" Anh ngày 1 tháng 11 cho rằng, cuộc diễn tập lần này
đã được tổ chức công phu, trước khi tập trận, khẩu chiến giữa
Nhật-Trung bất ngờ leo thang, máy bay quân sự Lực lượng Phòng vệ Nhật
Bản gần đây liên tục trong 3 ngày cất cánh ứng phó với máy bay quân sự
Trung Quốc, phát biểu nhằm vào Trung Quốc của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật
Bản cũng đã tăng thêm một bậc, tuyên bố: Trung Quốc đang đe dọa hòa bình
khu vực.
Các quan chức quốc phòng Nhật Bản cân nhắc triển khai hỏa tiễn đối hạm
Project 88 tầm phóng 150 km ở đảo Ishigaki (cũng có người suy đoán là
đảo Miyako), trong khi đó đảo này cách đảo Senkaku không đến 100 km.
Đài truyền hình Anh cho rằng, Nhật Bản thông qua cuộc diễn tập quân sự
lần này truyền đi một thông điệp cứng rắn với Trung Quốc: "Chúng tôi sẽ
phòng thủ những hòn đảo này, cho dù chúng bị các anh xâm lược, chúng tôi
sẽ đoạt lại chúng bất cứ giá nào !".
Thông điệp cứng rắn thứ hai của cuộc diễn tập quân sự cũng quan trọng:
Thông qua triển khai những hỏa tiển đối hạm này, các anh sẽ hiểu rõ, nếu
Nhật-Trung trở nên đối đầu, các anh đi qua những tuyến đường này sẽ rất
khó khăn.
Chuyên gia quân sự Trung Quốc Lý Kiệt ngày 1 tháng 11 trả lời tờ "Thời
báo Hoàn Cầu" cho rằng, truyền thông Nhật Bản cho biết, Nhật sẽ triển
khai tên lửa chống hạm Project 88 ở đảo Miyako, tên lửa này có tầm phóng
150 km, trong khi đó, độ rộng của eo biển Miyako chỉ 250 km.
Nếu Nhật Bản triển khai tên lửa này ở hai bờ eo biển, một trong những
tuyến đường hàng hải chính ra vào Thái Bình Dương của Hải quân Trung
Quốc đối mặt với rủi ro bị phong tỏa hoàn toàn.
Tờ The Diplomat Nhật Bản có bài viết nhan đề "Thủy quân lục chiến tương
lai của Nhật Bản tổ chức diễn tập đổ bộ quy mô lớn", cho biết, Bộ Quốc
phòng Nhật Bản tuyên bố thẳng rằng, mục đích diễn tập phòng thủ đảo là
ngăn chặn Trung Quốc xâm phạm đảo Senkaku.
Bài viết còn cho biết, tháng 11 hàng năm Nhật Bản đều sẽ tiến hành diễn
tập đổ bộ quy mô lớn tương tự, quy mô tham gia diễn tập năm 2011 đạt
35.000 quân. Tháng 11 năm 2012, Nhật-Mỹ từng tiến hành diễn tập quân sự
liên hợp, nhưng do lo ngại gây kích động Trung Quốc quá mức nên hủy bỏ
nội dung tác chiến đổ bộ lên đảo. Nhưng năm nay (2013), Lực lượng Phòng
vệ Nhật Bản sẽ độc lập tiến hành diễn tập, Tokyo đã triển khai nội dung
tác chiến đổ bộ lên đảo.
Lý Kiệt cho rằng, Nhật Bản luôn hy vọng một khi đảo Senkaku nổ ra xung
đột, Nhật Bản có thể được Mỹ tiến hành việc động binh, nhưng đến nay,
thái độ của Washington có vẻ chỉ cung cấp hỗ trợ tình báo, khí tài QS và
hậu cần cho Nhật Bản, Mỹ sẽ không trực tiếp xuất quân, vì vậy, Nhật Bản
phải tự mình kiểm tra năng lực độc lập đoạt đảo.
Tờ The Diplomat cho rằng, lực lượng tham gia chính của cuộc diễn tập lần
này là đơn vị WAIR (JGSDF Western Army Infantry Regiment), một LLĐB
giỏi phòng thủ đảo nhỏ và tác chiến tinh nhuệ. Đơn vị WAIR lấy căn cứ
Sasebo ở Nagasaki làm trụ sở, Lực lượng này chính là tiền thân của Thủy
quân lục chiến tương lai Nhật Bản.
Tờ "Asahi Shimbun" cho biết, Đại cương Phòng vệ mới sắp được Bộ Quốc
phòng Nhật Bản công bố vào tháng 12 năm nay, chính thức lấy 700 binh sĩ
từ đơn vị WAIR để thành lập trung đoàn đổ bộ, trong tương lai quy mô lực
lượng này sẽ tăng quân số 3.000 người.
Tờ Diplomat còn cho biết, một đơn vị trực thuộc của WAIR hầu như hàng
năm đều đến San Diego tham gia diễn tập quân sự Mỹ-Nhật, học hỏi kỹ xảo
tác chiến của Thủy quân lục chiến Mỹ. "Chương trình học" của họ ngày
càng phức tạp, đến nay còn bao gồm nội dung tác chiến đổ bộ hoàn chỉnh.
Lực lượng WAIR Army Infantry Regiment tiền thân của TQLC Nhật tương lai thực tập tác chiến với TQLC Mỹ tại
Camp Pendleton Marine Corps base, California, 13,01, 2013. (Kyodo News)
Tờ "Thời báo Hàn Quốc" có bài viết nhan đề "Nếu như Trung-Nhật bước vào
chiến tranh" cho rằng, "Nhật Bảntự tin họ có thể giành thắng lợi".
Các quan chức của họ cho rằng, tuy tổng binh lực của Quân đội Trung Quốc
gấp 10 lần Lực lượng Phòng vệ (2.240.000/ 230.000), nhiều con số khác
của Quân đội Trung Quốc cũng chiếm ưu thế như số lượng tàu chiến hải
quân (1.090/ 143), số lượng máy bay chiến đấu (620/ 250), số lượng tàu
ngầm hạt nhân (8/ 0), nhưng binh sĩ của Lực lượng Phòng vệ Nhật luôn tự
hào là một trong những lực lượng vũ trang mạnh nhất thế giới, trong lịch
sử, truyền thống lực lượng này đã từng trải qua rất nhiều cuộc chiến
tranh đẫm máu như chiến tranh Thái Bình Dương thời Đệ II Thế Chiến, cùng
những chương trình tập trận thường xuyên với đồng minh Hoa Kỳ hiện nay
Tờ "Thời báo Hàn Quốc" cho rằng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản hiện nay có
cách nhìn về chính họ rất giống với quân đội Thiên Hoàng khi tập kích
Trân Châu Cảng vào năm 1941.
Ngày 5-11, Nhật báo Yomiuri Shimbun dẫn các nguồn tin giấu tên cho
biết, Nhật Bản đang cân nhắc tăng cường hạm đội tàu khu trục Aegis của
nước này từ 6 chiếc hiện nay lên 8 chiếc để đối phó với những mối đe
dọa từ tên lửa của Triều Tiên cũng như những căng thẳng liên quan đến
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc.
Theo nhật báo trên, chính phủ nước này đã bắt đầu kế hoạch chuẩn
bị để chế tạo thêm hai chiếc tàu khu trục Aegis mới được trang bị
tên lửa đánh chặn hiện đại.
Nhật Bản hy vọng sẽ đưa kế hoạch này vào một chương trình phòng thủ
cơ bản mới, sẽ được thông qua vào cuối năm nay. Dự kiến, hai tàu khu
trục mới này có thể được triển khai trong vòng 10 năm tới, nhật báo
Yomiuri Shimbun cho biết.
Hiện tại, Nhật Bản đang sở hữu sáu chiếc tàu thuộc 2 lớp tàu khu
trục Kongo và Atago được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis, sử dụng
tên lửa SM-2 và SM-3 do Mỹ phát triển.
Bộ quốc phòng nước này cho rằng việc tăng cường quy mô của hạm đội
là một lựa chọn đang được cân nhắc thuộc một phần của kế hoạch đánh
giá chương trình quốc phòng của chính phủ.
"Chúng tôi đang cân nhắc việc tăng cường hạm đội tàu chiến Aegis",
phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Nhật Bản Tsuyoshi Hirata cho biết.
Theo nhật báo Yomiuri Shimbun, Nhật Bản muốn tăng cường đội tàu
chiến Aegis là vì sự phát triển hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên đã
trở thành một mối đe dọa cận kề đối với an ninh của Nhật Bản và đặc
biệt là mối đe dọa từ Trung Quốc cũng ngày càng gia tăng xung
quanh vùng biển phía tây nam của Nhật Bản, khi hai nước đang có
những tranh chấp đối với chuỗi đảo Senkaku trên biển Hoa Đông.
Nhật báo này nhấn mạnh rằng việc chế tạo các tàu Aegis mới
này không chỉ để chống lại tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, mà còn
nhằm tăng cường khả năng giám sát và theo dõi của Nhật Bản, nếu
họ có thể thực sự triển khai được tàu chiến Aegis trang bị một
hệ thống radar hiện đại thường trực tới các khu vực xung quanh
quần đảo phía tây nam này.
NGUYỄN VĂN LIÊM * VĂN MIẾU HUẾ
Văn Miếu Huế.
-
Nói đến Văn Miếu, hầu như tất cả mọi người đều nghĩ đến văn Miếu ở thủ
đô Hà Nội, và ít ai biết đến có một Văn Miếu ở Huế. Khách du lịch sau
khi thăm các lăng tẩm, Đại Nội, cũng chỉ lên tới chùa Thiên Mụ rồi quay
lui, mặc dù Văn Miếu Huế cách chùa Thiên Mụ chưa đến 1 km.
Văn Miếu Huế
Nói đến Văn Miếu, hầu như tất cả mọi người đều nghĩ đến văn Miếu ở thủ
đô Hà Nội, và ít ai biết đến có một Văn Miếu ở Huế. Khách du lịch sau
khi thăm các lăng tẩm, Đại Nội, cũng chỉ lên tới chùa Thiên Mụ rồi quay
lui, mặc dù Văn Miếu Huế cách chùa Thiên Mụ chưa đến 1 km.
Văn Miếu Huế
Văn Miếu hay Văn Thánh là cách gọi tắt của một ngôi miếu: Văn Thánh
Miếu, ngôi miếu thờ vị Thánh về văn - người được hậu thế tôn vinh là Vạn
Thế Sư Biểu (người thầy của muôn đời): Khổng Tử. Ngôi miếu này thường
có nhiều tên gọi khác: Tiên Sư Miếu, Khổng Tử Miếu, Chí Thánh Miếu, hoặc
có nơi gọi là Chí Thánh Tiên Sư Miếu. Tất cả các nước có nền văn hóa
Hán và coi trọng Nho học đều có lập Văn Miếu để thờ đức Khổng Tử.
Ở nước ta, việc lập miếu thờ đức Khổng Tử sớm nhất được sử sách ghi lại là vào năm Canh Tuất (1070) dưới triều Lý. Vua Thánh Tông nhà Lý cho lập Văn Miếu tại Kinh thành Thăng Long, đắp tượng Khổng Tử cùng các học trò của ông là Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử để thờ. Văn Miếu này được xem là nơi thờ Khổng Tử đầu tiên của nước ta.
Các triều đại kế tiếp như Trần, Hồ rồi Hậu Lê vẫn duy trì miếu thờ Khổng Tử của nhà Lý. Đến thời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia ghi tên Tiến sĩ , khởi đầu từ khoa thi dưới triều vua Lê Thái Tông. Tổng số bia còn đến hiện nay là 83 tấm. Dưới triều Nguyễn công trình mang tính điển lễ này vẫn được bảo quản giữ gìn, và vì Thăng Long Hà Nội không còn là kinh đô nên nơi đây trở thành Văn Miếu riêng của Hà Nội.
Trong thời kỳ các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu cũng được thiết lập ở Phú Xuân và được xem như Văn Miếu riêng của xứ Đàng Trong, Văn Miếu đầu tiên được chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng vào năm 1691, tại làng Triều Sơn, nay là Triều Sơn Tây, phường Hương Sơ, thành phố Huế. Đến năm 1766, chúa Nguyến Phúc Thuần dời vào làng Lương Quán, nay thuộc phường Thuỷ Biều, Thành phố Huế. Đến năm Canh Dần (1770) dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ, (nay là xã Hương Hồ, huyện Hương Trà).
Sau khi Gia Long lên ngôi vua, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế (nay thuộc Phường Hương Long, Thành phố Huế). Ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ (tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử).
Ở nước ta, việc lập miếu thờ đức Khổng Tử sớm nhất được sử sách ghi lại là vào năm Canh Tuất (1070) dưới triều Lý. Vua Thánh Tông nhà Lý cho lập Văn Miếu tại Kinh thành Thăng Long, đắp tượng Khổng Tử cùng các học trò của ông là Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử để thờ. Văn Miếu này được xem là nơi thờ Khổng Tử đầu tiên của nước ta.
Các triều đại kế tiếp như Trần, Hồ rồi Hậu Lê vẫn duy trì miếu thờ Khổng Tử của nhà Lý. Đến thời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia ghi tên Tiến sĩ , khởi đầu từ khoa thi dưới triều vua Lê Thái Tông. Tổng số bia còn đến hiện nay là 83 tấm. Dưới triều Nguyễn công trình mang tính điển lễ này vẫn được bảo quản giữ gìn, và vì Thăng Long Hà Nội không còn là kinh đô nên nơi đây trở thành Văn Miếu riêng của Hà Nội.
Trong thời kỳ các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu cũng được thiết lập ở Phú Xuân và được xem như Văn Miếu riêng của xứ Đàng Trong, Văn Miếu đầu tiên được chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng vào năm 1691, tại làng Triều Sơn, nay là Triều Sơn Tây, phường Hương Sơ, thành phố Huế. Đến năm 1766, chúa Nguyến Phúc Thuần dời vào làng Lương Quán, nay thuộc phường Thuỷ Biều, Thành phố Huế. Đến năm Canh Dần (1770) dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ, (nay là xã Hương Hồ, huyện Hương Trà).
Sau khi Gia Long lên ngôi vua, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế (nay thuộc Phường Hương Long, Thành phố Huế). Ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ (tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử).
Văn Miếu Huế nhìn từ sông Hương
Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, dưới thời Vua Gia Long. Các công trình kiến trúc chính đều xây trên mặt bằng ngọn đồi cao gần 3m so với nền đất xung quanh. Trước mặt là dòng sông Hương, phía sau là làng mạc, núi đồi lan ra từ rặng Trường Sơn bọc lấy đằng sau Văn Miếu. Các công trình được x trong mặt bằng hình vuông mỗi cạnh chừng 160m. Xung quanh có xây la thành bao bọc. Khi còn nguyên vẹn, tất cả chừng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ, đều được xây dựng bằng gỗ lim và các vật liệu đắt giá khác.
Bên ngoài, từ cổng Đại Thành Môn nhìn vào, ngay chính giữa là ngôi đại điện thờ Khổng Tử, tên gọi là Đại Thành Điện. Những tên gọi này thống nhất cho tất cả Văn Miếu ở trung ương và địa phương, kể cả những Văn Miếu ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... những công trình tương tự như vậy đều có tên gọi như nhau.
Cổng Đại Thành Môn
Điện Đại Thành là kiến trúc trọng yếu của Văn Miếu, toàn bộ được dựng trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m. Cấu trúc của ngôi đại điện theo lối trùng thiềm điệp ốc truyền thống của Huế. Ở hai bên trước điện Đại Thành, dựng hai ngôi nhà đối diện nhau là Đông Vu và Tây Vu đều bảy gian.
Trước sân miếu, có hai nhà bia gọn gàng xinh xắn, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia ”Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” (Thánh Tổ Nhân Hoàng đế (vua Minh Mạng) dụ về việc Thái Giám không được liệt vào hạng quan lại); bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia “Hiến Tổ Chương Hoàng đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” (Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị) dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền).
Ra khỏi cổng Đại Thành của Văn Miếu, bên trái có xây Hữu Văn Đường; bên phải xây Dị Lễ Đường. Đây là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế ở Miếu. Phía trước là hai dãy gồm 32 tấm bia tiến sĩ dựng thành hai dãy ở hai bên sân đối diện nhau.
Hai dãy trường lan với những tấm bia đá có kích thước và hình dáng khác
nhau ghi lại những thịnh suy của lịch sử nhưng tất cả đều nói lên việc
học bao giờ cũng được coi trọng
32 tấm bia đá khắc tên 293 vị Tiến sĩ từ khoa thi đầu tiên (1822) đến khoa thi cuối cùng (1918) của triều Nguyễn.
Tất cả 32 bia đều có rùa đội bia và làm bằng đá thanh cẩm thạch. Các tấm bia dựng trên lưng rùa xếp thành 2 hàng, mỗi hàng 16 cái: Bia lớn nhất cao 1,15m, rộng 0,85m; Rùa đá con lớn nhất dài 1,35m, rộng 0,77m, cao 0,60m. Bia tiến sĩ ở đây không cao lớn bằng bia ở Văn Miếu Hà Nội nhưng đều đặn hơn, dạng thức, trang trí khác hơn. Trên 32 tấm bia này đã khắc tên, tuổi, quê quán của 293 vị Tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (1919). Trong số các vị tiến sĩ lưu danh ở đây, có những tên tuổi như Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Đinh Văn Chất, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng... (Trong thời trị vì của vua Gia Long, triều đình chưa mở các kỳ thi Hội, mới chỉ có các khoa thi Hương nên tại đây chưa dựng bia tiến sĩ).
Một tấm bia trên lưng rùa đá
Trước cổng Văn Miếu, gần bờ sông lại có cửa Linh Tinh Môn gồm bốn trụ xây bằng gạch, phần trên trang trí pháp lam. Tấm biển ở giữa phía trước có đề bốn chữ Hán lớn “Đạo Tại Lưỡng Gian” (đạo giữa trời đất); mặt sau đề bốn chữ Hán tương đương “Trác Việt Thiên Cổ” (vượt cao ngàn xưa). Hai bên khu vực trước cổng Văn Miếu có tấm bia “Khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa).
Cửa Linh Tinh Môn nhìn từ phía bên trong ra
Đối với việc thờ phụng, triều Nguyễn cho lập bài vị bằng gỗ (còn gọi linh vị, mộc chủ, thần chủ) để thờ và buộc tất cả các địa phương nơi nào thờ Khổng Tử bằng hình tượng đều phải thay thế bằng bài vị mộc chủ, còn các tượng thì phải lựa chọn nơi sạch sẽ chôn đi. Đây là một cách nhìn khá đặc biệt của triều Nguyễn. Họ cho rằng thờ bằng hình tượng là thiếu trang trọng, thiếu lễ độ đối với người đã khuất, cho nên ngay cả bàn thờ các vua Nguyễn cũng không hề thờ bằng hình tượng.
Văn Miếu Huế là một di tích lịch sử quý giá, đánh dấu thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo - thời kỳ vương triều Nguyễn dùng Nho học làm phương tiện trợ giúp đắc lực để thiết lập quyền thống trị trên toàn đất nước.
PHẠM VIỆT HÙNG * CHUYỆN BẰNG CẤP GIẢ
CHUYỆN BẰNG CẤP GIẢ
VÀ
TIẾN SĨ DÕM
PHẠM VIỆT HÙNG,Saigon
Hai năm trước, con tôi tốt nghiệp cử-nhân-cao-đẳng ngành kế toán – tài chánh Trường cao đẳng Công Nghiệp 4 nhưng thú thật, tôi không được vui lắm.
PHẠM VIỆT HÙNG,Saigon
Hai năm trước, con tôi tốt nghiệp cử-nhân-cao-đẳng ngành kế toán – tài chánh Trường cao đẳng Công Nghiệp 4 nhưng thú thật, tôi không được vui lắm.
Nội cái tên bằng cấp thời này nghe đã kỳ kỳ, có vẻ…nhập nhằng khi so
với bằng cử nhân đúng nghĩa của hệ trường đại học. Rồi đến chuyện làm
luận văn ra trường. Lại nghe cũng hơi…lớn lối, nếu so với thời chúng
tôi học cao học (sau khi đậu cử nhân) ở trường Văn Khoa trước 30/4.
Hồi đó, chỉ được gọi khiêm tốn là viết “tiểu luận cao học”, nghĩa là
chưa được mon men gì tới “luận án” hay “luận văn tiến sĩ”. Đó chỉ mới
là tên gọi bên ngoài, còn bước vô nội dung các “ luận văn” thì… thật
nhức đầu! Trong lúc con tôi bỏ ra hơn hai tháng vất vả lui tới một
công ty xuất nhập khẩu để xin số liệu, ghi chép tình hình kinh doanh,
điều tra thị phần để lập biểu đồ.v.v…thì nhiều bạn bè của cháu nhẹ
khỏe hơn nhiều.
Nguyên những công ty đã từng có sinh viên đến thực tập,
làm luận văn ra trường, đều giữ lại một bản của những “sáng tác” ấy.
Nay các cô cậu sinh viên đợt sau chỉ cần móc ngoặt – tốn chút đỉnh! –
làsẽ có người của công ty giao cho một bản photocopy của bài luận văn
nào đó na ná với đề tài mình đang viết. Cứ về nhà xào nấu lại, thay
tựa thay tên, đưa vào vài số liệu, biểu đồ mới… là xong. Một cách nhẹ
khỏe hơn nữa là dò hỏi ở những tiệm dịch vụ vi tính, photocopy trước
cửa các trường đại học và cao đẳng, các cô cậu có thể tha hồ truy lục
trong “rừng” đĩa CD mà các tiệm đã “seo” lại, tìm bài nào đó gần gủi
với đề tài mình chọn. Chỉ trả có 8,000 đồng/đĩa là bạn có thể mang về
nhà nghiên cứu, pha chế. Các cậu sinh viên thích long nhong ngoài
đường thì có thể dạo qua các các tiệm sách cũ (hà-rầm ở gần cổng các
trường) hay những chỗ này bán sách báo cũ trên vĩa hè, bỏ thì giờ lục
lạo, chọn mua các bài luận văn cũ với giá… giấy báo cũ.
Tệ nạn trộm cắp chất xám, ý tưởng hay công khai đạo-văn, đạo-nhạc
trong giới văn nghệ sĩ nay đã thầm lặng phát triển thành đạo-luận-văn
trong giới sinh viên. Nạn “xào” lại bài của người khác phổ biến nhất
là trong các đề tài luận văn về lãnh vực kinh tế, thương mại, tiểu thủ
công nghiệp. Còn lại thì ít phổ biến hơn trong các đề tài về y dược.
Sinh viên đã nộp bài thì không phải trường nào cũng buộc các cô cậu
phải ra bảo vệ “tác phẩm” của mình trước một hội đồng giám khảo. Không
rõ vì lý do gì ( số sinh viên ra trường hằng năm không quá đông),
trường đại học Kinh tế thành phố Sàigòn miễn luôn thủ tục bảo vệ cho
sinh viên học hệ cao đẳng. Còn ở trường cao đẳng Công nghiệp 4, khi ra
bảo vệ luận án, mỗi sinh viên phải trình bày ngắn gọn bài của mình rồi
nghe hội đồng giám khảo chất vấn. Có chất vấn thì mới dễ lòi ra những
ai “xào” lại bài của người khác vì một khi đạo-luận-án, các cô cậu
thường rất khó trả lời nhanh nhạy và thông suốt những câu chất vấn.
Kết quả là những sinh viên ấp a ấp úng này chỉ được cho điểm thấp hay trung bình của thang điểm10. Điểm cao chỉ xứng đáng cho những người thật sự bỏ công nghiên cứu, soạn luận án nghiêm túc. Nhưng... Đã có trường hợp cụ thể là một sinh viên cùng đợt bảo vệ luận án với con tôi, đã được ông giáo sư phụ trách hướng dẫn ( đứng đầu hội đồng giám khảo) cho đến điểm 8,5 sau khi sinh viên này đến nhà thầy, gởi thầy chỉ có 500,000 đồng “bồi dưỡng”, nên được thầy châm chước cho chất lượng đáng nghi ngờ của bài luận văn.
Kết quả là những sinh viên ấp a ấp úng này chỉ được cho điểm thấp hay trung bình của thang điểm10. Điểm cao chỉ xứng đáng cho những người thật sự bỏ công nghiên cứu, soạn luận án nghiêm túc. Nhưng... Đã có trường hợp cụ thể là một sinh viên cùng đợt bảo vệ luận án với con tôi, đã được ông giáo sư phụ trách hướng dẫn ( đứng đầu hội đồng giám khảo) cho đến điểm 8,5 sau khi sinh viên này đến nhà thầy, gởi thầy chỉ có 500,000 đồng “bồi dưỡng”, nên được thầy châm chước cho chất lượng đáng nghi ngờ của bài luận văn.
Vừa rồi, tôi lại sững sờ khi tình cờ xem một chương trình tivi khô
khan, ít ai để ý, tên là “Tiêu Điểm” do đài VTV1 ở Hà Nội phát vào
lúc 20g30 đêm 22/11, dài khoảng 30 phút.
Bắt đầu là hình ảnh nhộn nhịp của một dãy tiệm dịch vụ vi tính,
photocopy ngay bên khuôn viên trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
Phóng viên đi làm phóng sự – điều tra đã cho biết là tại đây, chỉ với
50,000đ, sinh viên cần làm luận án ra trường sẽ công khai mua được một
bài lấy ra từ ổ cứng vi tính, hao hao như bài mình muốn soạn, để về
nhà “xào” lại. Vào mùa thi vào đại học, cũng gần như công khai trước
mắt mọi người, dãy tiệm này chuyên phục vụ giá hạ về đủ cỡ “phao” lớn
nhỏ (trước 30/4 gọi là “phim”, tức tài liệu mà thí sinh lén đem vô
phòng thi).
Bao nhiêu năm nay, không biết bao nhiêu thanh niên đã vào học đại học
và ra trường theo đuờng đi nước bước quĩ ma như thế? Nhưng đâu riêng
gì bọn trẻ! Một ông vụ phó vụ đại học và sau đại học ( thuộc Bộ giáo
dục và đào tạo), trưởng ban điều tra xác minh bằng cấp/chứng chỉ, đã
buồn bã tiết lộ trước ống kính thu hình rằng trong đợt “chiến dịch”
xác minh khoảng 1,300,000 bằng cấp/chứng chỉ các loại ở nhiều nơi
trong cả nước, đã có tới 1,400 trường hợp là giả. Vô số sinh viên đang
học bị buộc thôi học vì đã nộp chứng chỉ tú tài dõm ở để thi vào
trường. Vô số cán bộ đương chức bị kỹ luật, giáng chức, hạ bậc lương,
bác bỏ trình độ văn hóa, nghiệp vụ vì đã mua, đã“chạy” cho có bằng cấp
dõm để được lên chức, lên lương hay để được gởi đi học nâng cao nghiệp
vụ. Và ít nhất là có 5 bằng tiến sĩ bị thu hồi.
Ngày xưa, các bậc túc nho đã dùng hình ảnh “tiến sĩ giấy” ( con rối
bằng giấy, mặc áo đội mão màu mè, dùng làm đồ chơi cho con trẻ, như
trong mùa Trung Thu) để chế diễu bọn khoa bảng bất tài vô tướng, “giá
áo túi cơm”. Nhưng ít ra mấy ông cống, ông nghè này cũng đã từng được
xướng danh thi đỗ trong các kỳ thi của triều đình, chỉ có điều là
không có năng lực khi ra làm quan giúp dân giúp nước màthôi. Còn hôm
nay, đài ti-vi trung ương có nhã ý giới thiệu với bàng dân thiên hạ
một địa chỉ tuyệt vời, nổi tiếng về nghề viết thuê...luận văn tiến sĩ
đại học: phố Minh Khai ở Hà Nội. Giá cả không rõ nhưng cách đây hai
năm, nhân chuyện một đường dây thi hộ vào đại học bị triệt phá, một tờ
báo ở Sàigòn đã cho biết chỉ bỏ ra 5 triệu đồng là ai đó có thể thuê
“chuyên viên” viết hộ một luận văn tiến sĩ và 4 triệu cho hạng phó
tiến sĩ.
Tiếp theo (trên ti-vi) là đến lượt ông Hồ, một cán bộ đang công tác ở
Viện nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp (Hà Nội), nơi được tiếng là đã
đào tạo hằng ngàn tiến sĩ, đã tố cáo chuyện thi hộ môn Anh văn ở đầu
vào bậc cao học tại viện này. Một đoàn thanh tra cấp bộ và giới báo
đài đã nhất trí rằng tố cáo của ông Hồ là có cơ sở. Nhưng như chương
trình Tiêu Điểm đãbình luận, vụ này chắc là...” chìm xuồng” vì “Có lẽ
vì lời tố cáo của ông Hồ liên quan đến nhiều cán bộ lớn trong Viện nên
Bộ đã chưa công khai, chính thức tra xét...?”. Ông tiến sĩ mới về nhận
chức tân viện trưởng, đã dẫn phóng viên đài đến cái tủ sắt chứa toàn
bộ hồ sơ, bài thi, biên bản chấm thi...bậc cao học của viện đang bị
khóa kín và thú nhận rằng mình chưa biết phải bắt đầu như thế nào vì
không thể biết giờ này chìa khóa tủ ai giữ nữa!
Rồi đến hình ảnh một ông giáo sư tiến sĩ “thiệt” khác phải sửa nát cả
một bài luận văn của nghiên cứu sinh về đề tài xã hội học, nhân chủng
học gì đấy. Chữ nghĩa, ngữ pháp thì có thể dập xóa, viết lại nhưng các
biểu đồ (thiết lập do điều tra thực tế?) thì...tầm bậy tầm bạ đến mức
phải xóa bỏ hẳn luôn! Ông giáo sư than thở: “ Rất nhiều luận văn như
thế này. Trước hội đồng khoa học, tôi đề nghị bác bỏ mấy bài này thì
chỉ một số ít người trong hội đồng tán thành, những người khác lại
chấp nhận, với lý luận rằng trong cuộc đời của những nghiên cứu sinh
này, đây chỉ mới là công trình bắt đầu, họ còn sống, còn nghiên cứu,
hãy để thời gian cho họ sửa chữa…”.
Không biết có phải do tâm lý xuề xòa, thông cảm này không mà chương
trình Tiêu Điểm đã nêu tin trong đợt thẩm xét để phong chức danh giáo
sư, phó giáo sư hiện nay, đã có đến 5000 hồ sơ, công trình nghiên cứu
chờ xét nhưng bước đầu, đã thấy phần rất lớn là phải bác bỏ vì bất hợp
lệ hoặc chỉ là nghiên cứu vô giá trị!
Bên cạnh đó, tinh thần cả nễ, nhân nhượng rất nặng nề trong giới có
học vị. Họ thầm lặng bỏ qua các sai phạm, hàm hồ trong các công trình
nghiên cứu của các cán bộ quản lý, đứng đầu các ban bệ. Một tiến sĩ
“thiệt” khác, tên làPhạm Duy Hiển, nhận xét rằng bộ mặt khác của sự cả
nễ chính là tình trạng hành-chánh-hóa các nghiên cứu khoa học. Do tệ
trạng này, “tác phẩm” của cán bộ lãnh đạo các viện, trường, trung tâm...được
ưu tiên công nhận (chấm đậu!). Và mặc dù chỉ có công ( bằng quyền lực)
kiếm được kinh phí nghiên cứu rồi ngồi chủ trì cho nhóm nghiên cứu làm
việc, tên tuổi của các ngài luôn được tô đậm, đứng đầu danh sách những
người tham gia nghiên cứu, điển hình như trong danh sách các chuyên
viên soạn thảo sách giáo khoa.
Và không phải lớp cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ được lợi lộc về danh
giá, tên tuổi. Một giáo sư tiến sĩ, tên là Nguyễn Xuân Hải, cho biết
trong số tiền tỷ bỏ ra để soạn sách giáo khoa bấy lâu nay, chỉ có ¼
trả cho phần thù lao biên sọan, ¾ còn lại dành hết cho chi phí quản
lý. Vẫn ông khổng lồ “quản lý”: hiện nay, trong lực lượng tiến sĩ các
ngành ở VN, chỉ có 30o/o chuyên về nghiên cứu, 70o/o còn lại thì ngồi
ghế quản lý!
Nhìn ra ngoài thế giới để so sánh một chút thì VN hiện có 21,000 tiến
sĩ vàphó TS , nghĩa là gấp ba lần Thái Lan nhưng VN chỉ có ( không rõ
thời điểm nào, trong hạn thời gian nào) 13 bằng sáng chế được quốc tế
công nhận, đứng hàng 94 trên thế giới về năng lực nghiên cứu công
nghệ. Điều tra còn cho thấy trên các chuyên san nghiên cứu của các
trường đại học trên thế giới, chỉ có 300 bài của VN, trong tổng số
70,000 bài của giới khoa học toàn cầu.
Vậy mà VN đãtừng có kế hoạch đào tạo 5000 tiến sĩ các ngành trong 2
năm, tức có qui mô gấp hai lần kế hoạch cùng loại của Liên Xô cũ. Đài
ti-vi nêu câu hỏi: “Phải chăng chúng ta muốn lấy số lượng cứu vãn chất
lượng (tiến sĩ) ?”ù.
Và để kết thúc chương trình phát hình, ông bộ trưởng bộ Khoa học và
công nghệ cho rằng, về mặt cơ chế thì nếu được chỉnh đốn bằng suy nghĩ
đúng đắn, cũng phải cần đến từ 5 đến 10 năm nữa, ngành khoa học, học
thuật VN mới có đột phá, thay đổi…
Rất cám ơn chương trình Tiêu Điểm. Ít khi nào người dân đuợc dịp ghi
nhận một lượng thông tin quí giá ở tính chất chính thức, công khai
trên phương tiện truyền thông, trao tặng cho cái quyền-được-biết của
công dân, như vừa rồi. Nhưng những anh thầy giáo cử nhân đời cũ, đã
“tháo giầy” ra khỏi ngành giáo dục, sư phạm lâu rồi như chúng tôi thì
không thể nào an tâm trước một thực trạng học hành, thi cử, lấy bằng
cấp như thế.
Cuộc sống thì còn nhiều khó khăn, chỉ biết ký thác cho đời sau, nhưng chúng tôi còn có thể tin tưởng, trao phó số phận con cái còn đi học của chúng tôi cho ai đây một khi nơi những vị thầy của chúng nó, cứ u u minh minh một rừng bằng cấp giả do nạn “học giả thi thật” ( học tào lao chiếu lệ nhưng cũng dự thi), “học thật thi giả” ( có đi học nhưng người khác thi dùm) hay thậm chí là “học giả thi giả” (ghi tên học hay đăng ký làm luận văn nhưng mướn người khác đi học thế hay viết hộ bài)..., để ra lò vô số tiến sĩ dõm lại có quyền cầm cân nẩy mực, dạy dỗ người khác?
Cuộc sống thì còn nhiều khó khăn, chỉ biết ký thác cho đời sau, nhưng chúng tôi còn có thể tin tưởng, trao phó số phận con cái còn đi học của chúng tôi cho ai đây một khi nơi những vị thầy của chúng nó, cứ u u minh minh một rừng bằng cấp giả do nạn “học giả thi thật” ( học tào lao chiếu lệ nhưng cũng dự thi), “học thật thi giả” ( có đi học nhưng người khác thi dùm) hay thậm chí là “học giả thi giả” (ghi tên học hay đăng ký làm luận văn nhưng mướn người khác đi học thế hay viết hộ bài)..., để ra lò vô số tiến sĩ dõm lại có quyền cầm cân nẩy mực, dạy dỗ người khác?
Hình như còn một cửa oái ăm cho cho chúng tôi đánh gởi niềm tin - cả
lòng kính trọng và quí mến nữa. Đó là những anh nông dân, những người
ít học, nhưng đã nổ lực lâu dài, mày mò thực nghiệm, có khi bán cả tài
sản để, đến lượt họ ( chứ không phải mấy ông tiến sĩ dõm) làm công
việc nghiên cứu, sáng tạo. Và chính những con người học ít nhưng làm
thật này, đã mạnh dạn tham dự Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart VN
2005) vào tháng 10 vừa qua.
Như “nhà khoa học chân đất” Trần Văn Dũng ở Trà Vinh giới thiệu máy hút bùn tự hành có thể hút ở mực nước sâu và tãi bùn đi xa, được 7 người mua với giá 55 triệu đồng. Như lão nông Nguyễn Tất Hải ở Nghệ An với máy bơm nước không cần điện hay xăng, chỉ đạp bằng chân như đạp xe đạp, thích hợp cho dân miền núi và vùng ruộng bậc thang. Như ông Huỳnh Hữu Phước ở Sàigòn với xe chữa cháy tí hon nhưng chứa đến 900 lít nước và 2 bình CO2, dư sức len vào những con hẽm nhỏ, hay như anh Tống Văn Dũng với máy bơm nước tiết kiệm điện...Xin tôn vinh những nhà sáng chế không học vị, không biết mặt mũi cái bằng tiến sĩ vuông méo thế nào, nhưng dù ít dù nhiều, họ đã làm ra được những máy móc “bình dân” nhưng ơn ích cụ thể cho cuộc sống!
Như “nhà khoa học chân đất” Trần Văn Dũng ở Trà Vinh giới thiệu máy hút bùn tự hành có thể hút ở mực nước sâu và tãi bùn đi xa, được 7 người mua với giá 55 triệu đồng. Như lão nông Nguyễn Tất Hải ở Nghệ An với máy bơm nước không cần điện hay xăng, chỉ đạp bằng chân như đạp xe đạp, thích hợp cho dân miền núi và vùng ruộng bậc thang. Như ông Huỳnh Hữu Phước ở Sàigòn với xe chữa cháy tí hon nhưng chứa đến 900 lít nước và 2 bình CO2, dư sức len vào những con hẽm nhỏ, hay như anh Tống Văn Dũng với máy bơm nước tiết kiệm điện...Xin tôn vinh những nhà sáng chế không học vị, không biết mặt mũi cái bằng tiến sĩ vuông méo thế nào, nhưng dù ít dù nhiều, họ đã làm ra được những máy móc “bình dân” nhưng ơn ích cụ thể cho cuộc sống!
Thursday, November 21, 2013
HÌNH ẢNH THẾ GIỚI TRONG TUẦN
Thế giới qua ảnh ngày 21 tháng 11, 2013
Phổ biến ngày 21.11.2013
br>THỬ TÀI CHỤP ẢNH CỦA BẠN
Hãy gửi cho VOA những bức ảnh của bạn và ảnh của bạn có thể sẽ xuất hiện trong chuyên mục Thế giới qua ảnh của chúng tôi! Cách gửi ảnh.
Bấm vào đây để xem thêm.
Hãy gửi cho VOA những bức ảnh của bạn và ảnh của bạn có thể sẽ xuất hiện trong chuyên mục Thế giới qua ảnh của chúng tôi! Cách gửi ảnh.
Bấm vào đây để xem thêm.
1
Khói bốc lên từ một ngọn núi lửa phun trào dưới đáy biển, hình thành
một hòn đảo mới ngoài khơi bờ biển của Nishinoshima, một hòn đảo nhỏ
không người ở, trong chuỗi đảo Ogasawara ở phía nam Nhật Bản.
Sini Saarela người Phần Lan (giữa) vui mừng sau khi được thả khỏi nhà
tù ở St Petersburg, Nga. Một số trong 30 nhà hoạt động của tổ chức
Greenpeace (Hòa bình xanh) đã được trả tự do sau khi bị bắt trong một
cuộc biểu tình chống đối Nga khoan dầu ở Bắc Cực.
3
-8168-ff4ab068497a_w974_n_s>
Một chiến binh Quân đội Syria Tự do đeo vũ khí nhìn ra từ một cửa hàng
bị hư hại vì đạn pháo trong khu vực Karm al- Jabal của thành phố Aleppo,
Syria.
<-8168-ff4ab068497a_w974_n_s .jpg=""> -8168-ff4ab068497a_w974_n_s>
4
Cây máu rồng, địa phương gọi là cây Dam al- Akhawain hoặc máu hai anh
em, trên đảo Socotra. Ðảo Socotra trong biển Ả-rập, cách Yemen 380 km về
hướng nam và cách Sừng châu Phi 80 km về hướng tây, là nơi sinh sống
của nhiều loài chim và thực vật quý hiếm, được UNESCO công nhận là địa
điểm di sản thiên nhiên thế giới hồi tháng 7 năm 2008.
5
Một con tàu bị bão Haiyan cuốn lên bờ gần hai tuần trước ở trung tâm thành phố Tacloban, miền trung Philippines.
8
Tượng sáp những vũ công của vũ đoàn The Rockettes tại bảo tàng Madame Tussauds ở Thành phố New York.
9
Phó giám đốc Thibault Garin (trái) của hãng rượu vang Laboure-Roi nâng
ly uống loại rượu Beaujolais Nouveau 2013 với khách tại một spa rượu
vang ở thành phố Hakone, tỉnh Kanagawa, cách Tokyo 100 km về hướng tây,
Nhật Bản.
-A49B-4738-8FD9-BC1A4F315993_w974_n_s.jpg" />
12
Hai người chạy bộ chạy dọc theo bờ kè sông Aare trong đợt tuyết đầu mùa
ở thành phố Bern, ngàu 21 tháng 11, 2013. Cơ quan dự báo thời tiết Thụy
Sĩ cho biết tuyết rơi dày từ 5 đến 15 cm vào thứ Năm.
13
Người chơi dù lượn bay ở phía trước của quận Miraflores ở thủ đô Lima, Peru, ngày 20 tháng 11 2013.
14
Người hâm mộ đội Sao Paulo của Brazil cổ vũ đội bóng của mình trong
trận đầu tiên của giải Copa Sudamericana 2013 chân đấu với đội Ponte
Preta, được tổ chức tại sân vận động Morumbi, Sao Paulo, ngày 20 tháng
11, 2013.
15
Một cặp hải cẩu đeo thiết bị truyền tín hiệu liên kết vệ tinh trên đầu
trong vùng biển Howe Sound ở Porteau Cove, tỉnh British Columbia,
Canada, ngày 20 tháng 11, 2013.
16
Tác phẩm Scallop (con sò) (2003) của nhà điêu khắc Maggi Hambling tưởng
nhớ nhà soạn nhạc Benjamin Britten trên bãi biển Aldeburgh, miền đông
nước Anh.
Những hình ảnh tuyệt đẹp con ngựa trong lịch sử Việt Nam, từ con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương hay sự hy sinh của các chiến mã của Bình Định Vương Lê Lợi có lẽ người Việt nào cũng biết . Nhưng trong cuộc sống hằng ngày tại sao từ Ngựa lại mang hai ý nghĩa lúc khen lúc mắng.
Thành ngữ « thẳng ruột ngựa » là đẹp hay xấu ? Bằng cách nào mà con ngựa Pháp cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng … đủng đỉnh đi vào đời sống và văn chương bình dân của Việt Nam ? Trong bài khảo luận « Ngựa… và Thẳng ruột ngựa », giáo sư Nguyễn Dư ở Lyon tìm cách trả lời các câu hỏi này.
RFI : Nhân đầu năm Giáp Ngọ, RFI, qua phần phỏng vấn sau đây, xin giới thiệu bài khảo luận vừa nghiêm túc vừa ý nhị của tác giả. Ngựa và… Thẳng ruột ngựa !
Nguyễn Dư : Ngựa không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày. Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi đừng nói nữa, ta thèm !
Tuy vậy, ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Thần thoại của ta có cậu bé làng Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười, trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu nước, bèn vươn vai hoá thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con ngựa sắt để đi dẹp giặc Ân. Giặc tan…
Áo nhung cởi lại Linh-san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình ảnh đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành động… như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ. Tấu lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần, Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa ngự trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me, hốc đá ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu quận. Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình, nội tạng của ngựa.
Xưa kia, ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến toà án), thì sẽ được biết cái vành móng ngựa. Vành bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt đóng dưới móng chân ngựa (fer à cheval). Bị can đứng trong vành nghe quan toà buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được dùng.
Mấy ông lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái mùa đông rét mướt, nhiều mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm. Cái màu xanh lá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như quần áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời tây cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng hiểu.
Một dạo, thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court). Mái tóc chỉ còn như cái móng chân (sabot) ngựa. Gọi là đầu móng ngựa.
Vào khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô cột mớ tóc thề thành cái đuôi ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê ly đời ta !
Bên cạnh ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng ngày, phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có con mang vẻ đẹp oai hùng :
- Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có con đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút :
- Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có con hay tự hào, tự tôn :
Ớ ! nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa? (Lục súc tranh công)
Ngựa khoe cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền. Không biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục. Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu rằng: «Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông» (Nhị độ mai)
(Khuyển mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa, mến chủ).
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để trả cho hết nợ).
Có con xả thân vì đại nghĩa :
- Năm 1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn … (Lam Sơn thực lục).
Có Con ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956) chết thảm thương.
Ngoài ra, bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không ? Ngựa cũng có vấn đề à?
Ta có thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng… khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay hoay tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn, điển tích nào có thành ngữ này.
- Tự vị Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
- Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
- Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
- Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành ngữ Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa là: Nghĩ thế nào thì nói ra như thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn, bộc trực.
Nói gọn lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa, ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng ta có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa (Hoàng Phê, thí dụ của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái không thẳng là một điều chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn lại hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin bàn về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ trước đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần : Thẳng / ruột ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một điều là… thẳng như cái không thẳng. Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ còn một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
- Chia cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa gì! Thẳng ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên ! Thẳng ruột / ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt Nam!
- Dạ, đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là tiếng Việt của người Việt !
1) Thẳng ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực trường nghĩa là : Ruột gan ngay thẳng. Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra ngay, tuồng như đại trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào Duy Anh).
Thực tế thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy Anh cũng nói rõ là tuồng như đại trường thẳng tuột.
Thẳng ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa bóng là ruột gan ngay thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói thẳng ra như thế, không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn đề thẳng như.
Mấy cách giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ giải nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất từ ngựa.
2) Ngựa của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa này không biết kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống cái) và Cavallo (giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ của tiếng Pháp như cavalerie (kị binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy ông đi tán gái), cavalière (được Việt hoá thành ca-ve, gái nhảy) v.v.
Vòng vo một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy em ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve bị biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa cái) được dùng để ám chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao lâu ngựa của tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta. Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào sách vở.
Tự vị Huỳnh Tịnh Của có câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng mắng).
Từ điển Génibrel có Nết ngựa : ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs légères, débauchée). Đĩ ngựa : đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các bà thời thượng trong Nam bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm 1931, Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa, kể chuyện đêm giao thừa, anh phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa người ám chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là anh phu kéo xe tay. Hai loại ngựa đặc sản của thời Pháp thuộc.
Rốt cuộc, Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói thật như gái điếm.
- Trời đất quỷ thần ơi ! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
- Còn lâu ! Thẳng ruột ngựa phải được « hiểu ngầm » theo một cách khác !
- Cách nào ? Đính chánh lẹ lên.
Trước khi trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người xưa có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn, nhất là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không có lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một cách nói châm biếm, hài hước, tương tự như Vè nói ngược :
Bong bóng thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng…
Ai không thích « giễu dở » thì nói : Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Người xưa quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay thật.
Nghe các em « giãi bày tâm sự » thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ bịnh, một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi gia đình. Em mới « đi » được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong nhã…
Anh nghe mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay bướm, lang bang phải coi chừng « ruột gan ngay thẳng… của ca-ve ». Chẳng khác gì người miền Nam ngày trước khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái điếm lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà. Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo lối nói châm biếm.
Thẳng ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba nền văn hoá Tàu, Tây và Ta. Ý nghĩa quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu sai.
- Tôi bấy giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi không bị hạn gì cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh hùng) (*).
- Anh Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng ruột ngựa nên anh sợ (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) (*).
Nhà văn muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người hiểu là anh cán bộ và cô Út đang bị chê.
Nói thẳng nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc rối quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết con Ngựa 2014)
(*) theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang.
Thằng Búa
Nguyễn Sĩ Nam
Thằng Búa ! Tất cả tù nhân lớn bé trước sau gì ở cái nhà tù vượt biên ở
Vũng Tàu đều phải biết đến thằng Búa. Người nào không biết đến cái thằng
tù nhân “ốc tiêu” này đều không xứng đáng gọi là tù nhân.
Thằng Búa có cái đầu tròn quay, to như quả mít, tóc mọc lởm chởm, thưa thớt như một ngọn đồi trọc khô nước. Cái đầu nó thật to muốn lấn át cả cái thân gầy xọm của nó. Ai nhìn vào nó phải thấy ngay cái đầu nó trước nhất, rồi mới đến bộ xương sườn gầy guộc ỏng bụng, kế đến mới tới đôi chân khẳng khiu như hai cây sậy. Thế mà nó cũng có thể bước đi vững vàng, chạy nhảy thoăn thoắt như con chim sẻ vậy. Trông thân hình nó chẳng khác nào một cái búa. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên cho nó là thằng Búa chăng, hay tại Mẹ nó đã khéo đặt tên cho nó ? Chẳng ai hay biết chuyện này cả.
Suốt một đêm nằm rũ liệt, toàn thân bị ê ẩm như đã chịu đựng trăm ngàn vết roi, tôi cố nhướng con mắt dậy để tìm chút ánh sáng thì gặp ngay gương mặt thằng oắt con to chành vạnh, nhoẻn miệng cười phô bày cái nướu răng ra, chỉ còn vài cái răng mọc không đều làm kiểng, trông nó dị hợm hết sức. Nó cúi đầu sát vào mặt tôi giọng trìu mến :
- Sao, anh ngủ được không ?
Cơn giận đêm qua vẫn còn nặng trĩu trong lòng tôi nên tôi chẳng buồn trả lời nó. Thêm nữa, cái đầu nóng như thiêu như đốt, cải cổ khô ran, con mắt cứ muốn sụp xuống như đang đeo quả tạ nghìn cân, tôi đâu còn hơi để mà trả lời.
- Sao, anh còn nóng không ? Đêm hồi hôm em phải xức dầu cho anh đó. Nếu không chắc toi mạng rồi ! Quái lạ ! Cái miệng nó nói thật khó ngửi, có lẽ nó chưa súc miệng nhưng sao lời lẽ có vẻ thâm tình quá vậy ? Lúc bây giờ tôi mới nhận ra là có mùi dầu “cù là” phảng phất trên thân mình. Tôi thầm cảm ơn nó. Nó không có vẻ gì giống cái thằng đêm hồi hôm dọa nạt tôi :
- Đỡ đỡ rồi em. Cám ơn em. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ nó. Trong cái xôn xao náo động của một buổi sáng thức dậy trong tù, đám tù nhân bắt đầu nhao nhao như ong vỡ tổ. Mặc dù không nhúc nhích được một tấc nhưng mọi người đều cố tìm cách làm cho mình có một tư thế thoải mái được càng nhiều càng tốt. Trong lúc đó mùi phân trong cái thùng thiếc đặt ở một góc mà thiên hạ đang “đi” bay tỏa đều đặn khắp phòng khiến tôi phải bịt mũi liên tục. Đám tù nhân cũ trong phòng nhìn tôi cười sằng sặc như chế diễu…
Bỗng có tiếng lách cách như mở cửa, rồi một thằng cai tù ốm nhỏ cặp kè khẩu AK trên tay tiến vào, một thằng khác đứng canh ở bên ngoài. Thằng bên trong tiến lại mở cùm chân cho thằng oắt con bên cạnh tôi rồi ra lệnh trọ trẹ :
Dậy đi lấy nước mày. Số còn lại ngồi im nghe chưa ?
Thằng nhỏ trần trùi trụi đầy ghẻ lở khắp mình đứng phóc dậy một cách quen thuộc. Nó chỉ mặc có một cái quần đùi rách đít. Chờ cho thằng cai tù bước ra ngoài, nó kề miệng vào sát tai tôi nói nhỏ :
- Để em đi lấy nước sôi cho anh rửa mặt !
Nói xong nó phóng theo thằng cai tù để nhập với đám tù khác đi khiêng nước. Tôi lật đật xí chổ trống còn lại của nó để ngã cái lưng xuống nằm một tí cho khỏe. Lúc đó tôi mới để ý thấy có một ông già nằm bên cạnh nó, đêm qua hai người nói chuyện có vẻ tương đắc lắm, ý chừng hai cha con, tôi nghĩ vậy. Ông già nhìn tôi mỉm cười làm quen. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi nhỏm dậy chào ông già :
- Con của Bác đó hả ?
- Con với cái gì. Nó ở tù còn lâu hơn cái thân gìa này nữa, có điều thấy nó tội nghiệp nên già cũng nhận đại nó làm con cho đỡ buồn. Ông già nói xong, tìm cái mủng dừa còn sạch chia cho tôi một nhúm trà khô để có tí nhâm nhi buổi sáng.
Trong khi chờ thằng oắt con trở lại, tôi tò mò hỏi ông già lý do tại sao nó có mặt nơi đây, ông già buông một câu gọn lỏn :
- Nó giết người !
- Trời ơi ! Nó giết người !?
Tôi há mồm thật to ngạc nhiên hỏi.
Lúc đó không ai bảo ai, bọn tù nhân đều quay về phía ông già như chờ đợi những tin sốt dẻo khác nhưng ông vẫn lặng thinh sờ vào mông gãi soàn soạt. Khi đó tôi mới có dịp nhìn tấm thân trần trụi của ông già đúng là một tấm bia ghẻ. Ghẻ mọc từ trên đầu xuống tới chân lộ ra một màu tím thẩm pha lẫn màu máu khô, mủ vàng xì ra ướt nhẹp. Thiên hạ vẫn không để ý đến chuyện đó mà vẫn tiếp tục hỏi ông già về chuyện giết người của thằng nhỏ nhưng ông già lắc đầu trả lời :
- Ai muốn biết cứ hỏi nó !
Thấy cái đầu nóng ran của nó cứ rúc rúc vào ngực tôi như con mèo con tìm vú mẹ, tôi thương hại hỏi nó :
- Búa ! Em có điều gì muốn nói với anh ?
- Dạ có ! Anh cho phép em mới nói.
Nó ngóc đầu dậy trả lời. Rồi không đợi tôi cho phép, nó bắt đầu câu chuyện một cách thật bình tĩnh :
- Anh Hai ! Em đã phạm tội giết người !
- Hả ? Em giết người ? Tôi đã biết trước mà vẫn không khỏi thắc mắc. Như không cần để ý đến câu hỏi của tôi, nó tiếp với giọng vừa đủ tôi nghe :
- Hồi trước nhà em ở miệt vườn. Nhà em nghèo lắm. Ba em là lính Nghĩa quân, Mẹ em cày cấy nuôi em nhưng cả hai đều cố cho em ăn học. Đùng một cái tụi giặc Cộng vô đây sát hại ba em, tịch thu luôn cả mảnh ruộng nhỏ bằng cái sân, bắt mẹ em vô làm tập thể gì đó mà không có lấy một hột gạo ăn.
May mắn thay, chuyến vượt ngục thành công. Ngày hôm sau, tôi về lại căn nhà trọ ở Ngã Ba Ông Tạ, trong túi còn rủng rỉnh mấy bịch kẹo ngọt. Chưa biết gởi xuống cho thằng Búa bằng cách nào, cũng không biết nó còn sống hay đã chết !?
Nguyễn Sĩ Nam
_____________
Nguyễn Sĩ Nam là bút hiệu của một cựu Sinh viên QGHC, khóa Đốc Sự 17.
EM BÉ LÊN SÁU
Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vương mây sám lạnh
Cỏ hoa còn ngóng trông
Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang vòm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời
I
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua;
Bố mẹ nó không còn
Đứa trẻ nay gầy còm
Bỗng thương tình côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đo nhìn đời bỡ ngỡ:
"Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!"
II
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
-- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy"
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đưá bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ: "sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa".
III
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ,
Đã lâu năm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim
Nào "liên quan phản động"
"Mất cảnh giác lập trường"
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn lòng câu hỏi:
"Sao thương con kẻ thù ?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo"
Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường
Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tình yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời
IV
Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo :
- "Có bầu trời nhân đạo
Còn vương vất bóng đêm
Đồng chí đã thắp đèn
Dòng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên"
Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đã tung tăng cặp sách
Cùng trẻ em nông dân
Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của nghìn năm tội ác
Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.
(6/1995)
Tập thơ Những bài thơ lẻ
LÁ DIÊU BÔNG
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!
Thuở
bé mình mới biết có người tên xấu như anh Đom. Mình hỏi anh, nói răng
anh tên Đom. Anh kể nhà anh đã có 5 con trai, ba mạ anh ráng đẻ thêm một
đứa nữa, hy vọng con gái. Ngày mạ anh có chửa, chả biết mấy cô y tá hộ
sinh ở trạm xá khám xét thế nào, khẳng định là con gái. Ba mạ anh mừng
lắm, mổ heo ăn mừng. Đến ngày sinh, ba anh chầu chực suốt đêm bên cửa
sổ. Nghe tiếng trẻ khóc ông nhóng cổ thò mồm qua cửa sổ, nói trai hay
gái? Nghe bảo con gái ông cười cái hậc, nói đom! Từ đó anh có tên là cu
Đom.
Khi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.
CHUYỆN NĂM NGỰA =TRUYỆN KÝ = BÌNH MINH=CĂN NHÀ KHÔNG ĐÀN BÀ
TÚ ANH * CHUYỆN NĂM NGỰA
Năm Ngọ kể chuyện Ngựa trong lịch sử văn chương
Việt Nam và nhiều thành phố châu Á chaủan bị đón năm Ngọ - REUTERS
Đúng vào lúc 12 giờ đêm (nay) 30/01/2014 con rắn của Quý Tỵ
bàn giao năm mới cho con ngựa Giáp Ngọ. Theo một số nhà chiêm tinh Á
Châu đặc biệt là ở Hồng Kông thì năm Giáp Ngọ sẽ có nhiều biến động và
đầy bất trắc, tai tiếng, xung đột, bạo lực cho đến động đất … ở nhiều
nước châu Á.
Tuổi Ngọ được mô tả là con người phóng khoáng, nhanh nhẹn,
trung thực nhưng từ « Ngựa » lại gây không ít ngộ nhận cho người tuổi
ngựa kể cả trong thành ngữ …Những hình ảnh tuyệt đẹp con ngựa trong lịch sử Việt Nam, từ con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương hay sự hy sinh của các chiến mã của Bình Định Vương Lê Lợi có lẽ người Việt nào cũng biết . Nhưng trong cuộc sống hằng ngày tại sao từ Ngựa lại mang hai ý nghĩa lúc khen lúc mắng.
Thành ngữ « thẳng ruột ngựa » là đẹp hay xấu ? Bằng cách nào mà con ngựa Pháp cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng … đủng đỉnh đi vào đời sống và văn chương bình dân của Việt Nam ? Trong bài khảo luận « Ngựa… và Thẳng ruột ngựa », giáo sư Nguyễn Dư ở Lyon tìm cách trả lời các câu hỏi này.
RFI : Nhân đầu năm Giáp Ngọ, RFI, qua phần phỏng vấn sau đây, xin giới thiệu bài khảo luận vừa nghiêm túc vừa ý nhị của tác giả. Ngựa và… Thẳng ruột ngựa !
Nguyễn Dư : Ngựa không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày. Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi đừng nói nữa, ta thèm !
Tuy vậy, ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Thần thoại của ta có cậu bé làng Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười, trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu nước, bèn vươn vai hoá thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con ngựa sắt để đi dẹp giặc Ân. Giặc tan…
Áo nhung cởi lại Linh-san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình ảnh đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành động… như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ. Tấu lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần, Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa ngự trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me, hốc đá ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu quận. Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình, nội tạng của ngựa.
Xưa kia, ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến toà án), thì sẽ được biết cái vành móng ngựa. Vành bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt đóng dưới móng chân ngựa (fer à cheval). Bị can đứng trong vành nghe quan toà buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được dùng.
Mấy ông lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái mùa đông rét mướt, nhiều mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm. Cái màu xanh lá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như quần áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời tây cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng hiểu.
Một dạo, thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court). Mái tóc chỉ còn như cái móng chân (sabot) ngựa. Gọi là đầu móng ngựa.
Vào khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô cột mớ tóc thề thành cái đuôi ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê ly đời ta !
Bên cạnh ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng ngày, phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có con mang vẻ đẹp oai hùng :
- Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có con đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút :
- Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có con hay tự hào, tự tôn :
Ớ ! nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa? (Lục súc tranh công)
Ngựa khoe cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền. Không biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục. Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu rằng: «Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông» (Nhị độ mai)
(Khuyển mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa, mến chủ).
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để trả cho hết nợ).
Có con xả thân vì đại nghĩa :
- Năm 1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn … (Lam Sơn thực lục).
Có Con ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956) chết thảm thương.
Ngoài ra, bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không ? Ngựa cũng có vấn đề à?
Ta có thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng… khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay hoay tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn, điển tích nào có thành ngữ này.
- Tự vị Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
- Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
- Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
- Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành ngữ Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa là: Nghĩ thế nào thì nói ra như thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn, bộc trực.
Nói gọn lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa, ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng ta có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa (Hoàng Phê, thí dụ của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái không thẳng là một điều chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn lại hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin bàn về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ trước đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần : Thẳng / ruột ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một điều là… thẳng như cái không thẳng. Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ còn một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
- Chia cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa gì! Thẳng ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên ! Thẳng ruột / ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt Nam!
- Dạ, đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là tiếng Việt của người Việt !
1) Thẳng ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực trường nghĩa là : Ruột gan ngay thẳng. Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra ngay, tuồng như đại trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào Duy Anh).
Thực tế thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy Anh cũng nói rõ là tuồng như đại trường thẳng tuột.
Thẳng ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa bóng là ruột gan ngay thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói thẳng ra như thế, không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn đề thẳng như.
Mấy cách giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ giải nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất từ ngựa.
2) Ngựa của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa này không biết kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống cái) và Cavallo (giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ của tiếng Pháp như cavalerie (kị binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy ông đi tán gái), cavalière (được Việt hoá thành ca-ve, gái nhảy) v.v.
Vòng vo một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy em ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve bị biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa cái) được dùng để ám chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao lâu ngựa của tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta. Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào sách vở.
Tự vị Huỳnh Tịnh Của có câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng mắng).
Từ điển Génibrel có Nết ngựa : ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs légères, débauchée). Đĩ ngựa : đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các bà thời thượng trong Nam bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm 1931, Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa, kể chuyện đêm giao thừa, anh phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa người ám chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là anh phu kéo xe tay. Hai loại ngựa đặc sản của thời Pháp thuộc.
Rốt cuộc, Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói thật như gái điếm.
- Trời đất quỷ thần ơi ! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
- Còn lâu ! Thẳng ruột ngựa phải được « hiểu ngầm » theo một cách khác !
- Cách nào ? Đính chánh lẹ lên.
Trước khi trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người xưa có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn, nhất là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không có lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một cách nói châm biếm, hài hước, tương tự như Vè nói ngược :
Bong bóng thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng…
Ai không thích « giễu dở » thì nói : Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Người xưa quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay thật.
Nghe các em « giãi bày tâm sự » thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ bịnh, một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi gia đình. Em mới « đi » được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong nhã…
Anh nghe mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay bướm, lang bang phải coi chừng « ruột gan ngay thẳng… của ca-ve ». Chẳng khác gì người miền Nam ngày trước khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái điếm lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà. Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo lối nói châm biếm.
Thẳng ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba nền văn hoá Tàu, Tây và Ta. Ý nghĩa quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu sai.
- Tôi bấy giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi không bị hạn gì cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh hùng) (*).
- Anh Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng ruột ngựa nên anh sợ (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) (*).
Nhà văn muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người hiểu là anh cán bộ và cô Út đang bị chê.
Nói thẳng nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc rối quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết con Ngựa 2014)
(*) theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang.
Sunday, November 24, 2013
NGUYỄN SĨ NAM * THẰNG BÚA
Thằng Búa
Nguyễn Sĩ Nam
Thằng Búa có cái đầu tròn quay, to như quả mít, tóc mọc lởm chởm, thưa thớt như một ngọn đồi trọc khô nước. Cái đầu nó thật to muốn lấn át cả cái thân gầy xọm của nó. Ai nhìn vào nó phải thấy ngay cái đầu nó trước nhất, rồi mới đến bộ xương sườn gầy guộc ỏng bụng, kế đến mới tới đôi chân khẳng khiu như hai cây sậy. Thế mà nó cũng có thể bước đi vững vàng, chạy nhảy thoăn thoắt như con chim sẻ vậy. Trông thân hình nó chẳng khác nào một cái búa. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên cho nó là thằng Búa chăng, hay tại Mẹ nó đã khéo đặt tên cho nó ? Chẳng ai hay biết chuyện này cả.
Ngày đầu tiên bị tống vô phòng biệt giam ẩm mốc, những tù nhân khác chen lấn hai bên ép tôi đến chảy nước ra. Lúc này tôi lại đâm ra thù mấy ông tù nhân bên cạnh. Trong lúc nóng giận không dằn lòng được, tôi tung cánh chỏ bên trái thụi đại một phát cho đỡ tức, tức thì có một giọng nói sặc mùi oắt con lên tiếng cảnh cáo :
- Cẩn thận nghe cha ! Mới vô mà làm tàng, ông cho một búa đi đời nhà ma bây giờ !
Tôi giật mình thầm nghĩ, quái lạ tại sao giữa chốn gió tanh mưa máu này lại có một thằng nhỏ, mà cái giọng thằng nhỏ chứng tỏ nó không phải là một tay vừa. Tôi cố nuốt nước miếng dằn bụng cho đỡ nhục trong khi cái cổ khô ran không có một giọt nước. Tôi nhận thấy tình hình nơi đây không phải là chốn bình thường nữa rồi. Căn phòng nóng ran như cái lò thiêu. Mồ hôi thiên hạ nhễ nhại trào ra hòa lẫn với mồ hôi của tôi cũng vã ra như tắm bốc lên một mùi khét lẹt đến lợm giọng. Tôi cố chờ một lát cho con mắt làm quen được với bóng tối căn phòng để nhìn cho rõ mặt thằng oắt con nào hỗn xược. Thời gian chờ đợi này cũng hơi lâu. Bỗng có tiếng xì xầm ở góc tối bên kia :
Tôi biết mình có lỗi nên nín thinh. Đêm đó tôi cố tìm giấc ngủ nhưng không thể nào chợp mắt được. Cảnh tù nhân chen chúc nhau trong căn phòng nhỏ này như nêm cá hộp. Tôi hình dung khung cảnh nơi đây chẳng khác nào cảnh ở địa ngục A tì. Tôi cảm thấy mình nhuốm bệnh và bắt đầu lên cơn sốt dữ dội. Bên ngoài trời đêm đã xuống tự bao giờ. Thỉnh thoảng có tiếng phèng la ở ngoài vọng gác báo động như tiếng cú gọi hồn.
Suốt một đêm nằm rũ liệt, toàn thân bị ê ẩm như đã chịu đựng trăm ngàn vết roi, tôi cố nhướng con mắt dậy để tìm chút ánh sáng thì gặp ngay gương mặt thằng oắt con to chành vạnh, nhoẻn miệng cười phô bày cái nướu răng ra, chỉ còn vài cái răng mọc không đều làm kiểng, trông nó dị hợm hết sức. Nó cúi đầu sát vào mặt tôi giọng trìu mến :
- Sao, anh ngủ được không ?
Cơn giận đêm qua vẫn còn nặng trĩu trong lòng tôi nên tôi chẳng buồn trả lời nó. Thêm nữa, cái đầu nóng như thiêu như đốt, cải cổ khô ran, con mắt cứ muốn sụp xuống như đang đeo quả tạ nghìn cân, tôi đâu còn hơi để mà trả lời.
- Sao, anh còn nóng không ? Đêm hồi hôm em phải xức dầu cho anh đó. Nếu không chắc toi mạng rồi ! Quái lạ ! Cái miệng nó nói thật khó ngửi, có lẽ nó chưa súc miệng nhưng sao lời lẽ có vẻ thâm tình quá vậy ? Lúc bây giờ tôi mới nhận ra là có mùi dầu “cù là” phảng phất trên thân mình. Tôi thầm cảm ơn nó. Nó không có vẻ gì giống cái thằng đêm hồi hôm dọa nạt tôi :
- Đỡ đỡ rồi em. Cám ơn em. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ nó. Trong cái xôn xao náo động của một buổi sáng thức dậy trong tù, đám tù nhân bắt đầu nhao nhao như ong vỡ tổ. Mặc dù không nhúc nhích được một tấc nhưng mọi người đều cố tìm cách làm cho mình có một tư thế thoải mái được càng nhiều càng tốt. Trong lúc đó mùi phân trong cái thùng thiếc đặt ở một góc mà thiên hạ đang “đi” bay tỏa đều đặn khắp phòng khiến tôi phải bịt mũi liên tục. Đám tù nhân cũ trong phòng nhìn tôi cười sằng sặc như chế diễu…
Bỗng có tiếng lách cách như mở cửa, rồi một thằng cai tù ốm nhỏ cặp kè khẩu AK trên tay tiến vào, một thằng khác đứng canh ở bên ngoài. Thằng bên trong tiến lại mở cùm chân cho thằng oắt con bên cạnh tôi rồi ra lệnh trọ trẹ :
Dậy đi lấy nước mày. Số còn lại ngồi im nghe chưa ?
Thằng nhỏ trần trùi trụi đầy ghẻ lở khắp mình đứng phóc dậy một cách quen thuộc. Nó chỉ mặc có một cái quần đùi rách đít. Chờ cho thằng cai tù bước ra ngoài, nó kề miệng vào sát tai tôi nói nhỏ :
- Để em đi lấy nước sôi cho anh rửa mặt !
Nói xong nó phóng theo thằng cai tù để nhập với đám tù khác đi khiêng nước. Tôi lật đật xí chổ trống còn lại của nó để ngã cái lưng xuống nằm một tí cho khỏe. Lúc đó tôi mới để ý thấy có một ông già nằm bên cạnh nó, đêm qua hai người nói chuyện có vẻ tương đắc lắm, ý chừng hai cha con, tôi nghĩ vậy. Ông già nhìn tôi mỉm cười làm quen. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi nhỏm dậy chào ông già :
- Con của Bác đó hả ?
- Con với cái gì. Nó ở tù còn lâu hơn cái thân gìa này nữa, có điều thấy nó tội nghiệp nên già cũng nhận đại nó làm con cho đỡ buồn. Ông già nói xong, tìm cái mủng dừa còn sạch chia cho tôi một nhúm trà khô để có tí nhâm nhi buổi sáng.
Trong khi chờ thằng oắt con trở lại, tôi tò mò hỏi ông già lý do tại sao nó có mặt nơi đây, ông già buông một câu gọn lỏn :
- Nó giết người !
- Trời ơi ! Nó giết người !?
Tôi há mồm thật to ngạc nhiên hỏi.
- Ừ ! Thiệt chớ giỡn sao !
Lúc đó không ai bảo ai, bọn tù nhân đều quay về phía ông già như chờ đợi những tin sốt dẻo khác nhưng ông vẫn lặng thinh sờ vào mông gãi soàn soạt. Khi đó tôi mới có dịp nhìn tấm thân trần trụi của ông già đúng là một tấm bia ghẻ. Ghẻ mọc từ trên đầu xuống tới chân lộ ra một màu tím thẩm pha lẫn màu máu khô, mủ vàng xì ra ướt nhẹp. Thiên hạ vẫn không để ý đến chuyện đó mà vẫn tiếp tục hỏi ông già về chuyện giết người của thằng nhỏ nhưng ông già lắc đầu trả lời :
- Ai muốn biết cứ hỏi nó !
Bấy giờ, tôi không còn tin miệng lưỡi của thằng nhỏ nữa rồi. Nếu tôi
đoán không nhầm thì nó trạc chừng 11 hay 12 tuổi là cùng, miệng còn hôi
sữa làm sao nó có thể giết người được ? Nhưng chẳng lẽ ông già nói xạo,
kết án hàm hồ một thằng nhỏ mà ông đã coi nó như con. Còn nếu nó giết
người thật thì nó giết ai ? Bao nhiêu câu hỏi cứ quay vòng vòng như vụ
trong đầu tôi càng khiến tôi mất tin tưởng ở thằng nhỏ. Có lẽ nó là một
thằng cực kỳ nguy hiểm không chừng. Tôi nhớ lại lời dọa nạt của nó hồi
hôm mà ớn lạnh. Trong khi đó, ở một góc tối của phòng giam, mấy người
nào đó xì sầm cho là ông già nói xạo !
Bỗng có tiếng xôn xao ở bên ngoài, thì ra bọn tù khiêng nước nóng đã về.
Tôi cũng đoán chừng vậy thôi vì nghe tiếng lanh canh của cái thùng chớ
chẳng có chỗ trống nào để mà thấy. Chỉ có một cái lỗ nhỏ như lỗ tò vò
thì đã bị thiên hạ dành mất chỗ thở rồi. Tôi cứ nghĩ là mình bất ngờ
chết quách một cái là xong, khỏi phải nghĩ ngợi lung tung vô ích. Còn
ông già như đã quen với bầu không khí này rồi nên bắt đầu lục trong giỏ
xách ra một cái muỗng nhỏ và một gói đường đen như cứt ngựa, sau đó ông
bốc một nhúm nhỏ chia cho tôi.
Cuối cùng thằng oắt con cũng chui được vô phòng với một lon Ghi-gô đựng
nước sôi, vừa đi vừa hô “nước sôi, nước sôi” khiến mọi người tìm cách
dạt ra một bên cho nó đi. Cái miệng nó chu ra thổi phù phù cho nước
nguội bớt trông thật vô duyên hết sức. Lúc đó thằng cai tù bắt đầu cho
từng tù nhân ra ngoài lấy nước rửa mặt, tôi để ý thấy chẳng có người nào
nhỏ như nó. Một già, một trẻ, một trung niên là tôi giống như ba cha
con ngồi xúm lại một góc nhâm nhi uống nước trà trông có vẻ đế vương hơn
những tù nhân khác. Thằng oắt con luôn luôn o bế tôi khiến tôi thấy đỡ
cô đơn đôi chút.
Chợt một hồi kẻng dài vang lên, ông già cho biết đã đến giờ lao động.
Ông chỉ tay vào góc phòng, nơi “tọa lạc” của cái thùng thiếc đầy phân
của đám tù nhân khốn khổ lúc nào cũng sẵn sàng tỏa ra một mùi hôi thối
không chịu được như ngầm ám chỉ đó là công tác “Xã hội chủ nghĩa” đầu
tiên. Đám tù nhân cũ cử ra hai người trực cái “lò hơi” này mỗi ngày và
luân phiên xoay vần trong số người của họ. Tôi lấy làm lạ hỏi ông già
tại sao những thằng tù nhân mới như tôi lại không được phân công kế tiếp
thì được ông già giải thích là không dễ gì được cái “vinh dự” ấy.
Người
nào được cái “vinh dự” khiêng phân đi đổ mỗi sáng phải là người có
thành tích tốt, tiêu biểu cho thành phần tù nhân tiên tiến của cách mạng
“XHCN” hoặc là phải ở lâu trong tù. Lý do thật dễ hiểu là vì mỗi lần tù
nhân nào được khiêng phân ra ngoài đi đổ đều có một cơ hội hiếm hoi
bằng vàng để hít thở chút không khí trong lành của buổi sáng mai, có một
khoảng đường dài để vận động gân cốt, có một chút khoảng trống để tập
thể dục bất đắc dĩ và nhất là được ngắm lén những “người đẹp” cùng chung
số phận ở dãy phía bên kia.
Thời gian cứ nặng nề trôi qua. Tù nhân cũ mới gì không cần biết điều bất
thần bị gọi lên “làm việc” với bọn quản giáo. Nhiều người được gọi ban
ngày, có kẻ bị lôi xềnh xệch vào ban đêm với những cú đánh hộc máu mồm
bằng báng súng trước giờ “tẩm quất”. Hầu hết tù nhân đều trở về phòng
với tấm thân rũ liệt, rướm máu, cong gập người lại như thân cây chuối bị
bổ ngang, nằm bò lê bò càng giữa căn phòng ẩm mốc, xám xịt. Riêng thằng
oắt con vì tội trạng rành rành nên bọn quản giáo ít gọi lên. Thay vào
đó, chúng bắt thằng nhỏ lao động đến hụt hơi, bắt làm đủ mọi việc không
kể nặng nhẹ như khiêng phân đi đổ, gánh nước đổ vào phuy cho bọn chúng
tắm, trồng rau muống cho vịt ăn, quét nhà, lau chùi cống xí cho tụi nó,
đánh bóng xe đạp v.v… trông chẳng khác nào một tên đầy tớ. Lòng tôi đau
như cắt !
Một bữa nọ, trong khi tôi với ông già chờ nó về để cùng chia bo bo bữa
ăn chiều thì bỗng một tù nhân hớt hơ, hớt hãi chạy vào cho biết là nó
vừa bị mấy thằng quản giáo đánh cho một trận nhừ tử, đang nằm bất động ở
trên nhà ăn. Một nhân chứng phụ trách về ẩm thực sau đó về lại phòng có
cho hay là trong lúc nấu cháo heo cho lũ cán bộ, thằng Búa đã không dằn
được cơn đói xé lòng nên đã múc một chén cháo nóng hổi húp chùn chụt
trước khi bỏ rau vào.
Vô phúc cho nó, một thằng quản giáo đi lớ ngớ
xuống thấy nên đã tát cho nó một cái tát nẩy lửa, tô cháo rơi xuống đất
bể tan tành. Vốn tánh nóng, sẵn cái dao phay thái rau trên bàn, thằng
Búa nhảy bổ tới cầm lấy con dao đâm cho thằng quản giáo một phát nhưng
bị hụt, thành ra cả đám cán bộ nghe tiếng kêu cứu của đồng bọn vội chạy
vào “bề” cho nó một trận đòn hội chợ chí tử! Những tù nhân đứng gần đó
sợ xanh mặt không ai dám vào can. Tôi và ông già lật đật chạy về phía
hàng rào trố mắt nhìn qua dãy nhà bếp thì thấy một khối thịt nằm lù lù ở
đó. Ông già tức giận chửi thề bên tai tôi :
- Tiên sư nhà tụi nó. Ác độc cũng vừa thôi chứ, nhè con nít mà ăn hiếp !
Người tù nhân khác đứng bên cạnh tiếp :
- Tôi phục thằng Búa sát đất. Nó nhỏ mà gan ! Không có ai ở đây dám chọc giận mấy thằng khốn đó !
Ông già tỏ vẻ hiểu biết :
- Gan là cái chắc. Tôi có coi sơ cái bàn tay nó chẳng giống ai. Tay gì mà đường trí đạo với tâm đạo trùng vào nhau thành một. Trên bàn tay nó chỉ có hai đường. Thảo nào nó nghĩ đâu thì làm đó. Hôm nọ thằng Bảy Công đang lên đồng múa võ thần quyền cho mọi người xem thì bị nó nhảy vào phía sau đâm cho một phát vô lưng, may nó nhảy ra kịp, không thì bị quật chết tươi rồi. Thiệt tội cho nó !
Tối hôm đó, thằng nhỏ được mấy bạn tù nhân khiêng về bỏ giữa phòng lạnh như cắt da để nhờ mấy bạn tù nhân bác sĩ chạy chữa. Nhờ mọi người trong phòng ai cũng thương nó một thân côi cút không người thăm nom nên đã hết sức xoa dầu, đấm bóp, hô hấp liên tục. Nhờ đó mà tỉnh lại. Nhìn những vết u bầm tím sưng vù trên trán, trên mặt, trên ngực, trên lưng nó với những dòng máu đỏ chảy nhòe ra từ mũi và miệng nó, tự nhiên tôi không ngăn được giọt nước mắt đang lăn dài trên đôi má.
Nửa tháng sau, vào một đêm nọ trời mưa tầm tã, trong lúc các bạn tù nhân phơi thân nằm la liệt trên sàn đất cố đổ giấc ngủ sau những ngày bị tra tấn, thẩm vấn liên tục đến căng não ra thì thằng Búa tự dưng trườn lên mình tôi tỉ tê :
- Anh Hai, anh có ghét em không ?
Tôi lấy làm lạ hỏi :
- Không ! Mắc gì mà ghét em ?
Ngập ngừng một lúc nó nói :
- Tại bữa đầu anh mới vô, em đã vô lễ với anh !
Tôi trực nhớ lại câu chuyện sáu tháng về trước và chợt thấy thương nó vô hạn. Tôi vội trả lời :
- Không ! Đó là lỗi của anh. Em không có lỗi gì cả !
Nói xong, tôi đưa tay xoa cái đầu tròn lẳng của nó, lòng tràn ngập tình thương chẳng khác nào tôi thương thằng em ruột của tôi còn ở ngoài quê.
Nhìn lên trần nhà giam, cái đèn tù mù như hết muốn sáng cũng còn cố soi rõ cái cảnh âm u như địa ngục a tì của một tối mùa đông. Gió lạnh từ bên ngoài nện sầm sập vào cánh cửa như muốn giải thoát đám tù nhân khốn khổ.
- Tiên sư nhà tụi nó. Ác độc cũng vừa thôi chứ, nhè con nít mà ăn hiếp !
Người tù nhân khác đứng bên cạnh tiếp :
- Tôi phục thằng Búa sát đất. Nó nhỏ mà gan ! Không có ai ở đây dám chọc giận mấy thằng khốn đó !
Ông già tỏ vẻ hiểu biết :
- Gan là cái chắc. Tôi có coi sơ cái bàn tay nó chẳng giống ai. Tay gì mà đường trí đạo với tâm đạo trùng vào nhau thành một. Trên bàn tay nó chỉ có hai đường. Thảo nào nó nghĩ đâu thì làm đó. Hôm nọ thằng Bảy Công đang lên đồng múa võ thần quyền cho mọi người xem thì bị nó nhảy vào phía sau đâm cho một phát vô lưng, may nó nhảy ra kịp, không thì bị quật chết tươi rồi. Thiệt tội cho nó !
Tối hôm đó, thằng nhỏ được mấy bạn tù nhân khiêng về bỏ giữa phòng lạnh như cắt da để nhờ mấy bạn tù nhân bác sĩ chạy chữa. Nhờ mọi người trong phòng ai cũng thương nó một thân côi cút không người thăm nom nên đã hết sức xoa dầu, đấm bóp, hô hấp liên tục. Nhờ đó mà tỉnh lại. Nhìn những vết u bầm tím sưng vù trên trán, trên mặt, trên ngực, trên lưng nó với những dòng máu đỏ chảy nhòe ra từ mũi và miệng nó, tự nhiên tôi không ngăn được giọt nước mắt đang lăn dài trên đôi má.
Nửa tháng sau, vào một đêm nọ trời mưa tầm tã, trong lúc các bạn tù nhân phơi thân nằm la liệt trên sàn đất cố đổ giấc ngủ sau những ngày bị tra tấn, thẩm vấn liên tục đến căng não ra thì thằng Búa tự dưng trườn lên mình tôi tỉ tê :
- Anh Hai, anh có ghét em không ?
Tôi lấy làm lạ hỏi :
- Không ! Mắc gì mà ghét em ?
Ngập ngừng một lúc nó nói :
- Tại bữa đầu anh mới vô, em đã vô lễ với anh !
Tôi trực nhớ lại câu chuyện sáu tháng về trước và chợt thấy thương nó vô hạn. Tôi vội trả lời :
- Không ! Đó là lỗi của anh. Em không có lỗi gì cả !
Nói xong, tôi đưa tay xoa cái đầu tròn lẳng của nó, lòng tràn ngập tình thương chẳng khác nào tôi thương thằng em ruột của tôi còn ở ngoài quê.
Nhìn lên trần nhà giam, cái đèn tù mù như hết muốn sáng cũng còn cố soi rõ cái cảnh âm u như địa ngục a tì của một tối mùa đông. Gió lạnh từ bên ngoài nện sầm sập vào cánh cửa như muốn giải thoát đám tù nhân khốn khổ.
Những giọt nước mưa buốt giá thỉnh thoảng len vào khe cửa, hắt lên
mặt tôi gây một cảm giác vừa đê mê vừa dễ chịu. Tôi nằm yên đưa lưỡi
liếm những giọt nước đang đọng trên vành môi. Mấy con chuột chù ở trên
trần nhà bắt đầu bám vào mấy sợi dây treo các bịch đồ ăn của tù nhân để
kiếm ăn bữa tối. Lúc này thiên hạ ngủ hết nên không ai buồn đuổi chúng
nữa.
Nhìn gương mặt thơ ngây, non choẹt và vàng vọt của thằng Búa, tôi chợt nghĩ chắc nó có điều gì muốn nói với tôi đêm nay. Tự nhiên tôi thốt ra :
- Búa ! Anh cám ơn em. Em đã giúp cho anh nhiều quá !
Hình ảnh thằng Búa thay tôi để đi khiêng phân mỗi lần đến phiên trực khiến tôi tự hổ thẹn với nó. Tôi xưa nay vốn không quen ở chỗ hôi thối nên rất ngại đi khiêng phân. Cứ mỗi lần tới phiên trực của tôi, thằng Búa biết trước nên tình nguyện đi làm thế cho tôi. Ơn ấy tôi không bao giờ quên.
Nó ngày càng sa sút thấy rõ,
thân ốm o gầy mòn đến trơ xương ra như tàu lá chuối khô. Tôi với ông
già lúc nào có đồ tiếp tế cũng đều chia sớt cho nó những phần ngon nhất
nhưng những hành hạ khắc nghiệt của bọn cai tù không thể nào kéo sức
khỏe nó trở lại bình thường được.Nhìn gương mặt thơ ngây, non choẹt và vàng vọt của thằng Búa, tôi chợt nghĩ chắc nó có điều gì muốn nói với tôi đêm nay. Tự nhiên tôi thốt ra :
- Búa ! Anh cám ơn em. Em đã giúp cho anh nhiều quá !
Hình ảnh thằng Búa thay tôi để đi khiêng phân mỗi lần đến phiên trực khiến tôi tự hổ thẹn với nó. Tôi xưa nay vốn không quen ở chỗ hôi thối nên rất ngại đi khiêng phân. Cứ mỗi lần tới phiên trực của tôi, thằng Búa biết trước nên tình nguyện đi làm thế cho tôi. Ơn ấy tôi không bao giờ quên.
Thấy cái đầu nóng ran của nó cứ rúc rúc vào ngực tôi như con mèo con tìm vú mẹ, tôi thương hại hỏi nó :
- Búa ! Em có điều gì muốn nói với anh ?
- Dạ có ! Anh cho phép em mới nói.
Nó ngóc đầu dậy trả lời. Rồi không đợi tôi cho phép, nó bắt đầu câu chuyện một cách thật bình tĩnh :
- Anh Hai ! Em đã phạm tội giết người !
- Hả ? Em giết người ? Tôi đã biết trước mà vẫn không khỏi thắc mắc. Như không cần để ý đến câu hỏi của tôi, nó tiếp với giọng vừa đủ tôi nghe :
- Hồi trước nhà em ở miệt vườn. Nhà em nghèo lắm. Ba em là lính Nghĩa quân, Mẹ em cày cấy nuôi em nhưng cả hai đều cố cho em ăn học. Đùng một cái tụi giặc Cộng vô đây sát hại ba em, tịch thu luôn cả mảnh ruộng nhỏ bằng cái sân, bắt mẹ em vô làm tập thể gì đó mà không có lấy một hột gạo ăn.
Mẹ em đành gửi em đi chăn trâu nhờ ở nhà một người chú. Tiếng là
trâu của chú chớ tụi nó cũng ăn giựt luôn. Thế là em bỏ học. Hàng ngày
em đưa trâu lên phía Rạch Dừa cho trâu ăn. Cánh đồng này nằm gần đường
lên trường làng. Bực một cái là bọn con cán ngố đi học ngang đây ngày
nào cũng mắng nhiếc em là thằng con lũ ngụy. Em tức quá không biết làm
sao nên thủ sẵn một con dao.
Một bữa nọ, tụi nó kéo nhau cả bọn đến gây
sự với em, cũng mắng nhiếc em là thằng con lũ ngụy. Sau đó nó nhổ phẹt
một miếng nước bọt vào mặt em. Trong lúc tức quá, em rút con dao nhỏ
xông tới đâm một thằng thấu tim, máu chảy ào ào, bọn còn lại bỏ chạy tứ
tung. Từ đó em bị bắt, tính đến nay đã hơn năm năm rồi mà chẳng biết tụi
nó sẽ làm gì. Em xin lỗi anh, em đã giết người ! Em đã giết chết một
thằng Cộng con. Ít ra em cũng đã trả thù được cho ba em. Em thà chết,
quyết không chịu nhục ! Xin anh hiểu và tha thứ cho em !
Nói xong chừng như mệt quá, thằng Búa ho hộc hộc mấy cái rồi nằm úp mặt lên ngực tôi đầm đìa nước mắt. Tôi quá xúc động, khâm phục và thở dài. Thế mà trước đây tôi cứ nghĩ nó là một thằng ác nhơn, ác đức, giết người chả ra chi. Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy mình thua nó xa quá ! Tôi bỗng đâm ra thương cái tuổi trẻ khốn khổ của quê hương mình. Thấy nó hối hận, tôi vội hỏi nó :
- Búa ! Ngày mai tụi nó cho anh đi lao động ở Bầu Trũng. Em có cần nhắn ai gì không ?
Thằng Búa như mừng rỡ, ngóc cái đầu dậy, gượng cười nói :
- Vậy hả ? Em nhờ anh một chuyện. Ngày mai là ngày sinh nhật của em, nếu anh có tiện thì mua cho em vài thỏi kẹo. Em thèm kẹo quá mà không có tiền mua. Với lại anh tìm cách nhắn về cho mẹ em biết là em vẫn khỏe. Được không anh ?…
Tôi muốn bật khóc, vội ôm nó vào lòng, thầm hứa sẽ cùng với ông già tổ chức một bữa tiệc vui mừng sinh nhật nó. Tôi và nó ôm nhau ngủ suốt đêm.
Sáng hôm sau, bọn cai tù lùa một đám tù nhân lam lũ xách cuốc, xẻng vác ra Bầu Trũng lao động trong đó có tôi. Thằng Búa hình như bệnh tình càng nặng hơn nằm thiêm thiếp ở một góc. Tôi lật đật giao chai dầu gió xanh lại cho ông già nuôi để xoa đỡ cho nó. Mặc vội cái áo rách tơi tả, chụp cái nón lá lên đầu, tôi hôn nó một cái rồi lật đật bước theo các bạn tù. Ngày hôm đó, nhân lúc ghé một quán nước nghỉ để mua ít kẹo cho thằng Búa, tôi xin phép thằng cai tù đi tiểu ở phía sau rồi vượt thoát luôn.
Nói xong chừng như mệt quá, thằng Búa ho hộc hộc mấy cái rồi nằm úp mặt lên ngực tôi đầm đìa nước mắt. Tôi quá xúc động, khâm phục và thở dài. Thế mà trước đây tôi cứ nghĩ nó là một thằng ác nhơn, ác đức, giết người chả ra chi. Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy mình thua nó xa quá ! Tôi bỗng đâm ra thương cái tuổi trẻ khốn khổ của quê hương mình. Thấy nó hối hận, tôi vội hỏi nó :
- Búa ! Ngày mai tụi nó cho anh đi lao động ở Bầu Trũng. Em có cần nhắn ai gì không ?
Thằng Búa như mừng rỡ, ngóc cái đầu dậy, gượng cười nói :
- Vậy hả ? Em nhờ anh một chuyện. Ngày mai là ngày sinh nhật của em, nếu anh có tiện thì mua cho em vài thỏi kẹo. Em thèm kẹo quá mà không có tiền mua. Với lại anh tìm cách nhắn về cho mẹ em biết là em vẫn khỏe. Được không anh ?…
Tôi muốn bật khóc, vội ôm nó vào lòng, thầm hứa sẽ cùng với ông già tổ chức một bữa tiệc vui mừng sinh nhật nó. Tôi và nó ôm nhau ngủ suốt đêm.
Sáng hôm sau, bọn cai tù lùa một đám tù nhân lam lũ xách cuốc, xẻng vác ra Bầu Trũng lao động trong đó có tôi. Thằng Búa hình như bệnh tình càng nặng hơn nằm thiêm thiếp ở một góc. Tôi lật đật giao chai dầu gió xanh lại cho ông già nuôi để xoa đỡ cho nó. Mặc vội cái áo rách tơi tả, chụp cái nón lá lên đầu, tôi hôn nó một cái rồi lật đật bước theo các bạn tù. Ngày hôm đó, nhân lúc ghé một quán nước nghỉ để mua ít kẹo cho thằng Búa, tôi xin phép thằng cai tù đi tiểu ở phía sau rồi vượt thoát luôn.
May mắn thay, chuyến vượt ngục thành công. Ngày hôm sau, tôi về lại căn nhà trọ ở Ngã Ba Ông Tạ, trong túi còn rủng rỉnh mấy bịch kẹo ngọt. Chưa biết gởi xuống cho thằng Búa bằng cách nào, cũng không biết nó còn sống hay đã chết !?
Nguyễn Sĩ Nam
_____________
Nguyễn Sĩ Nam là bút hiệu của một cựu Sinh viên QGHC, khóa Đốc Sự 17.
ĐẶNG ĐÌNH TUÂN * BÌNH MINH VỚI HOÀNG HÔN
Bình Minh Với Hoàng Hôn | |
---|---|
Đặng Đình Tuân Trong một bữa tiệc ở ngoài trời, lúc mọi người đang vừa ăn vừa trầm trồ nhìn ngắm cảnh mặt trời lặn, chợt có người hỏi tôi giữa bình minh và hoàng hôn tôi chọn cái nào. Không đắn đo, tôi trả lời:
-
Làm sao lựa chọn được. Bình minh và hoàng hôn là hai hiện tượng thiên
nhiên, trái ngược nhau, lại bổ-túc cho nhau. Không có bình minh thì
không có hoàng hôn… Xin lỗi, tôi không thể tách ra chọn riêng được.
Nhưng nếu ông muốn biết tôi thích cái nào thì không đắn đo mà trả lời ngay là tôi thích bình minh hơn.
- Buổi sáng chắc anh thức dậy sớm lắm nhỉ?
-
Rất họa hoằn. Đúng ra thì rất hiếm. Khi tôi ra khỏi nhà trời đã sáng
trưng và buổi sáng đã đi được nửa đường rồi. Tại sao ông đoán chắc vậy?
-
Tôi nghĩ người thích bình minh thì phải thích sự yên tĩnh, thích không
khí trong lành, thích cái tịch mịch, thích cảm giác cô-độc của buổi
sáng, thích hướng vào nội tâm và thích thơ thẩn. Muốn được thế thì phải
dậy sớm...
- Những điều đó với tôi không có và không còn nữa.
- Ủa, nghe sao mâu-thuẫn. Nếu có thì mới còn chứ.
-
Tôi yêu không khí trong lành. Nhưng không chịu được cảm giác cô độc.
Tôi thích đi thơ thẩn nhưng sợ cái tịch mịch. Thỉnh thoảng nội tâm có
hứng khởi nhưng không bao giờ ghi xuống thành thơ được. Hơn nữa, tôi luôn luôn tìm đủ mọi lý do để buổi sáng được ngủ nướng thêm.
- Phức tạp, khó hiểu.
-
Tôi không làm cho ông lầm lẫn đâu. Tôi nói đúng sự thật, đúng ý nghĩ
chân thành của tôi đó thôi. Nhưng mà này, ông đã làm tôi nhớ lại được
nhiều chuyện. Nếu ông cho phép, mình ra góc kia ít người, tôi sẽ giải
thích rõ ràng hơn. Không làm nhàm tai ông đâu.
Hai
người mang ly rượu đến góc vườn, xa hẳn mọi người. Chỗ này có sẵn bàn
và ghế nhựa, đặt núp trong bóng mấy cây tùng. Nhìn ra trước mặt, những
ngọn đồi và thung lũng trùng trùng chạy dài xuống, thấp dần về phía
chân trời.
Thành phố nhộn nhịp ồn ào nằm gọn trong thung lũng dưới kia. Những mái nhà chọc trời, với ánh đèn lấp lánh, nhấp nhô chen lẫn với những đỉnh đồi. Mặt trời bây giờ đã trốn gần kín sau đỉnh đồi thấp dưới kia. Ánh sáng dịu hẳn đi. Trên không những gợn mây mỏng giăng vướng rải rác khắp nơi đã đổi mầu sang vừa vàng cam vừa đỏ huyết dụ lóng lánh rực rỡ trong vòm trời xanh. Vài cái sao hôm đã đến, lấp lánh xa thăm thẳm. Hơi ấm ban ngày đã nhường chỗ cho những làn gió chiều gây gây mát. Sương sớm buổi tối đang kéo đến ôm ấp, che chở những cành cây những ngọn cỏ là đà rồi tỏa rộng ra hơn như một tấm chăn ấp ủ, phủ kín, để đưa những thung lũng kia vào giấc ngủ.
Căn
nhà nằm trên một đỉnh đồi cao, nên ai cũng nhìn thấy cảnh hoàng hôn
đến, không xót một chi tiết nhỏ. Chủ nhà nói khi nào sương mù lên tới
đây thì trời mới tối hẳn và cũng hãnh diện cho biết họ đã được cả những
cụm mây sáng đến vuốt ve mơn trớn.
- Như mình đang chiêm ngưỡng một bức tranh vẽ.
- Ðẹp quá nhỉ!
Người bạn nâng ly rượu đỏ lên xin được chạm ly, rồi vừa trầm trồ ngắm cảnh vừa nhấp môi uống vừa có vẻ kiên nhẫn chờ đợi.
-
Nhiều năm trước đây đời sống của tôi đã phải gắn bó với bình minh.
Không tự ý, không lựa chọn. Khi bị đặt trên một con tàu, bị đuổi ra giữa
đại dương hoang vắng, đi tới đi lui rồi chờ ngày về bến...
- À, thì ra anh làm nghề biển.
Tôi không giữ được bật lên cười nhưng khi thấy mặt người bạn có vẻ ngơ ngác tôi phải ngừng ngay.
-Gần
như thế, nhưng chưa tự tay bắt cá bao giờ, mà chỉ đi xin hoặc mua
thôi. Tôi đã là lính hải quân. Và hải quân đã cho tôi cơ hội đặt chân
lên nhiều chỗ mới lạ mà có lẽ không bao giờ tự ý tôi muốn đến. Từ đại
dương thăm thẳm đến sông ngòi sình lầy hoang vu...
-Tôi hiểu rồi ! Ði biển thì được nhìn bình minh hoài.
-
Ðúng, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Ông biết không, sau những buổi tối
cô độc vô tận ở giữa trời và nước mênh mông, bình minh báo hiệu ngày
sum họp với người thân sắp đến. Sau những đêm tăm tối dài dằng dặc
không ngủ đi phục kích và bắn giết ở Năm Căn, Ðồng Tháp Mười, Cửa Cạn,
nơi mà chỉ có bẫy rập, sình lầy với muỗi mòng, bình minh là hy vọng
mình còn sống sót. Sau những đêm nằm rạp mình tránh đạn pháo kích liên
tục nổ dồn trên đầu, bên tai, kinh hoàng và khiếp đảm ở Mộc Hóa, ở
Tuyên Nhơn, thấy bình minh đến mới biết mình còn có cơ hội phục hồi.
Mắt tôi đã được nhìn, tay tôi đã vuốt ve, miệng tôi đã phải cầu nguyện
cho nhiều người. Họ đã cố níu kéo, cố chờ đợi mãi mà vẫn không bao giờ
thấy bình minh trở lại thêm một lần nữa.
Tôi
nhớ nhất là những lần ở vùng biển ngoài Cửa Cạn Phú Quốc, Vũng Tàu,
Phan Thiết, ở vùng đảo nhỏ cạnh Qui Nhơn, Ðà Nẵng và cả Thuận An. Lênh
đênh trên chiếc tàu nhỏ thả nhấp nhô theo những lượn sóng. Vừa ngồi chờ
sáng. Vừa lẳng lặng làm việc vừa chăm chú quan sát. Bên ngoài
con tàu, tất cả chìm đắm trong bóng tối xâu thẳm… Vũ trụ bao la mà mình
thì quá nhỏ nhoi yếu đuối... Rồi đột nhiên thấy những thuyền đánh cá
từ ngoài khơi tăm tối lũ lượt xuất hiện, kéo nhau trở về bến. Ðèn đuốc
của làng nhỏ ở ven biển trơ trọi nghèo nàn chợt bừng sáng lên chào đón.
Tối tăm tự nhiên tan biến. Tiếng người cười nói vỡ ra oang oang mừng
rỡ. Tiếng trẻ thơ trong trẻo hân hoan cười đùa, gọi nhau vang vọng ra.
Và khói lam nấu bếp bắt đầu tỏa lên từ khắp mọi mái nhà.
Tôi
đã được chứng kiến sự phục sinh. Sự biến đổi từ địa ngục ra thiên
đàng. Sự thua chạy của ma quỷ. Sự khác biệt giữa đêm và ngày. Tôi đã
thấy mặt trời mang những ngày mới tinh khôi đi đến. Cùng với hào quang
rực rỡ, với lễ lạc, với tiếng ca hát xưng tụng tưng bừng. Người, cảnh
và áng sáng hòa hợp như trong buổi đại lễ tín ngưỡng quan trọng. Ðêm
thì lẫn lộn, nhập nhằng, tàn ác. Nhưng ngày lại minh bạch, linh động và
hiền hòa.
Không thể diễn tả được hết cái sống động của những hình ảnh đó.
Tôi
đã hiểu ra được đây mới thực là sự sống. Ðây mới đúng là phép nhiệm
mầu, là sự ra đời của đứa trẻ thơ, là bình minh mà tôi chờ đợi, tìm tòi
và yêu thương. Con người nhỏ bé đơn sơ ở đây đã hăm hở đón nhận và vinh
danh ánh sáng cùng với sự sống. Bình minh này mang đến ý nghĩ ham muốn
và tranh đấu. Bình minh này mang cứu rỗi đến cho linh hồn và máu tươi
hâm nóng cho cơ thể.
Ngay
khi đó hình như nguồn sống mới đã tràn đến, thấm vào, rồi làm cơ thể
tôi đổi mới. Tự nhiên tôi không còn có cảm giác lạc lõng, chán chường,
thiếu ngủ nữa. Tinh thần và xác thịt biến đổi hoàn toàn sang trạng thái
háo hức chờ đợi và sẵn sàng đón tiếp bất cứ biến cố gì sắp xẩy đến.
Không
biết tôi có muốn trở lại sống trong những bình minh đó nữa hay không.
Nhưng chỉ cần nhớ đến những hình ảnh đó không thôi thì máu nóng lại
bừng bừng chẩy.
Từ
ngày rời bỏ quê hương lưu lạc đến đây, tôi đã trải qua nhiều bình minh
khác. Buổi sáng trời vẫn còn tối đã phải leo lên xe buýt. Bình minh
đến lúc xe đang chở tôi đến chỗ làm và còn ngái ngủ. Những bình minh
này trái ngược hẳn, chỉ mang đến chua xót, bon chen và nuối tiếc.
Chưa có cảnh bình minh nào đẹp, kích thích và cảm động như bình minh ở quê hương nghèo khổ của mình… Tôi quá chủ quan phải không? Tuy nhiên mỗi ngày trôi qua, tuổi chất đống thì ngày mới tinh ở đâu đó đối với tôi cũng là bình minh quý hóa. Thêm một ngày mới, thêm những cảm giác và kinh nghiệm lạ cho cuộc đời. Thêm một lần được kiểm chứng và áp dụng lại những kinh nghiệm cũ. Tôi hãnh diện vì còn sống sót cho nên sẽ phải làm thế nào cho những ngày sống mới đầy đủ trọn vẹn hơn. Tôi không ngồi yên chờ đợi nữa mà hân hoan tích cực đón nhận. Vừa để hưởng thụ vừa để làm cho những bình minh chót của cuộc đời phong phú hơn...
Mải mê kể lể tôi không biết người bạn đã bỏ đi từ lúc nào. Rời đi không lời thông báo. Ly rượu cạn không còn
một giọt. Ông ấy có thể đã nghĩ tôi nếu không say thì điên. Thế nào
chăng nữa điều đó không làm tôi bận tâm. Say giữa hoàng hôn mà vẫn tỉnh
táo nói chuyện về bình minh. Tôi đang tận hưởng hoàng hôn hiện tại
nhưng tinh thần đã háo hức sẵn sàng chờ đón bình minh mới của cuộc đời.
Tôi phải cám ơn người bạn đó đã gợi cho tôi cơ hội để nói riêng cho
mình tôi nghe, để biết mình muốn gì…
|
PHAN XUÂN SINH * CĂN NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ
CĂN NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ
PHAN XUÂN SINH
Anh sống với vợ chừng hơn bốn năm, được hai mặt con thì Miền Nam bị mất. Anh học tập theo diện Sĩ quan cải tạo. Vợ phải ra sức nuôi con, không còn trông vào những đồng lương của anh như lúc trước. Chị chạy ngược chạy xuôi, buôn tảo bán tần để kiếm tiền nuôi con còn thơ dại. Hai đứa con lúc đó còn quá nhỏ, nhưng vì không thể gửi cho ai được, mà bồng bế theo thì rất trở ngại. Thuê người giữ thì không có tiền trả, vì vậy chị cứ để hai đứa nhỏ ở nhà một mình, nhờ mấy bà già hàng xóm thỉnh thoảng qua lại coi chừng giùm. Hàng xóm cũng thương cho hoàn cảnh mẹ cút con côi của chị. Họ chăm sóc hai đứa bé mà không lấy một chút thù lao nào. Thỉnh thoảng hôm nào khấm khá, chị mua biếu mấy bà già đó một ít quà tượng trưng lấy thảo, để đền bù cho công lao chăm sóc hai đứa bé khi chị vắng nhà.
Một hôm, mấy bà già hàng xóm bồng bế hai đứa nhỏ ra ngoài Ủy Ban Nhân Dân Phường, báo cáo là mẹ hai đứa nhỏ nầy đi đâu ba ngày nay chưa thấy về. Chắc bị bắt vì buôn bán trái phép, nên xin Ủy Ban tìm giùm. Ban Thương Binh Xã Hội của Phường nhận lãnh hai đứa nhỏ để nuôi đỡ vài hôm, vì nghĩ rằng thế nào mẹ chúng nó vài ngày sau cũng sẽ trở về.
Lúc đó họ sẽ bắt chị làm giấy cam đoan, không bỏ bê con cái bừa bãi v.v…để ép chị vào khuôn khổ của xã hội, đúng với đường lối của nhà nước Cách mạng. Bà Trưởng Ban Xã Hội nghiến răng, hăm he thế nào cũng cho chị một bài học nên thân. Bà phải bắt chị ra Phường học tập, giảng giải cho chị hiểu thông suốt đường lối của nhà nước, trách nhiệm đối với gia đình con cái. Bà đã chuẩn bị một hơi dài những điều phải nhồi nhét vào đầu chị.
Gần một tháng, chị vẫn biệt vô âm tín. Lúc đó không những Ban Xã Hội Phường, mà Bí Thư, Chủ Tịch, Nhân viên của Phường bấn lên. Ðã gọi điện thoại cho Công An Thành Phố, các Công An của các Quận, Huyện Nội Ngoại Thành, xem thử chị có bị giữ nơi đâu để họ can thiệp cho chị trở về để nuôi con. Tất cả đều không tìm thấy manh mối của chị. Hai đứa nhỏ từ khi ra Phường ở, được cho ăn uống đủ thứ nên chúng hay đau bụng, ỉa giải lung tung. Gây nhiều phiền hà cho mọi người. Văn phòng của Ủy Ban Phường biến thành một nhà giữ trẻ. Tất cả mọi người chỉ chăm chú vào hai đứa nhỏ. Nhân viên đều trở thành những người bảo mẫu tốt.
Không tìm ra được chị. Không biết chị đang ở đâu hay chết mất xác rồi. Bây giờ họ quay qua tìm kiếm anh tại các trại cải tạo. Họ nghĩ, anh dễ tìm hơn, anh đang bị nhà nước quản lý, vì hoàn cảnh cấp bách có thể xin anh về để nuôi con. Lần đầu họ nghĩ chỉ cần đưa tên anh lên Ban Quân Sự Quận, rồi Quận chuyển lên Thành Phố, rồi Thành Phố chuyển lên Quân Khu 7. Thế nào cũng tìm ra được anh nhanh chóng, rồi thả ra cho về. Chuyện cũng đơn giản, không có gì nhiêu khê. Yên tâm ngồi chờ, ngày nầy qua ngày nọ vẫn vô hiệu quả. Không biết lá đơn đi chỗ nào. Bà Trưởng Ban Thương Binh Xã Hội, bực mình làm một tờ đơn thống thiết, Chủ Tịch Phường ký tên, Bí Thư chứng nhận. Chính đích thân bà thân chinh mang đơn đi, xin thả anh ra, để về nuôi con.
Trạm khởi đầu của bà tới là Quận. Bà ngồi chờ để được Chủ Tịch Quận chứng nhận trong đơn. Chủ Tịch bận tiếp khách. Bà chờ dài cổ. Khi có chữ ký thì xế trưa, bà phải đạp xe về nhà ăn cơm, nghỉ trưa rồi chiều tính tiếp. Chiều bà đạp xe ra Thành Phố. Ủy Ban đang hội họp không tiếp khách. Bà lại đạp xe trở về. Và cứ thế xin được mấy chữ ký theo hệ thống từ dưới lên trên mất vài ngày. Bà đến Bộ Tư Lệnh Quân Khu 7 (Lúc nầy đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu cũ). Bà đưa đơn cho người lính gác cửa, và yêu cầu xin được gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Khu. Người lính đọc đơn xong nhìn bà nói : “Chuyện cỏn con ai giải quyết cũng được, cần gì tới Tư Lệnh”.
Bà trố mắt, nói móc : “Thế chú có giải quyết được không ?”
Người lính trả lời : “Dĩ nhiên không phải tôi, tôi đang gác. Tôi chỉ cho bà nơi giải quyết”
“Thì cứ chỉ đi, tôi tới đó ngay.”
Người lính gác dơ tay chỉ cho bà phòng tiếp khách, vào đó có người lo mọi chuyện. Bà đưa tay quẹt mồ hôi, leo lên xe đạp. Miệng lầm bầm : “Dóc tổ, thứ gác cổng mà đòi giải quyết chuyện đại sự”.
Bà khóa xe cẩn thận, bước vào bên trong, đến chỗ nhận đơn trình bày lý do. Người nhận đơn bảo bà ngồi chờ. Một lúc sau có người ra mời bà vào phòng. Ông Trưởng phòng tiếp tân, báo cho bà biết đây không phải là nơi giải quyết chuyện Cải tạo viên. Ông chỉ bà đến phòng khác. Không biết ông chỉ dẫn thế nào, mà bà đạp xe lòng vòng cả buổi trong Bộ Tổng Tham Mưu cũ, vẫn không tìm được chỗ giải quyết. Sau đó bà nhờ một anh Bộ đội chỉ giùm. Ðơn của bà được chấp thuận, và họ hẹn tuần sau bà tới đây lại sẽ cho biết kết quả.
Ðúng ngày hẹn bà tới, họ đưa cho bà giấy giới thiệu đến Trảng Lớn Tây Ninh gặp Ban Quản Giáo Trại để xin giải quyết. Ngày hôm sau bà lại đón xe đò đi Trảng Lớn. Bà trình bày mọi chuyện với người phụ trách, kèm theo lá đơn có đóng dấu của nhiều cơ quan liên hệ. Cộng với những lời kính chuyển, mong giúp đỡ tận tình. Trưởng Ban Quản Giáo báo cho bà biết là nơi đây chỉ có quyền giam giữ, chứ không có quyền thả người. Bà phải trở lại Quân Khu 7 để xin giấy thả. Ðến đây thì bà đã đuối sức, mới biết chuyện nầy không đơn giản, nhiêu khê quá chừng. Bà không còn kiên nhẫn nhịn nhục được nữa rồi. Bà nói thẳng với ông Trưởng Phòng : “Ðồng Chí ơi, tôi cũng là Cán bộ, mà các ông hành tôi đi cả tháng nay như vậy. Huống chi dân chúng khổ biết chừng nào.”
“Tôi chỉ làm theo mệnh lệnh, bà thông cảm cho tôi. Tôi cũng muốn thả hết họ về cho rồi, nhốt đây làm chi thêm cực. Bà phải gặp cho được Tư Lệnh hoặc Phó Tư Lệnh, đừng để cho tụi nó chỉ bậy bạ, chạy lòng vòng thêm mệt. Chỉ có hai ông nầy giải quyết mới được.”
Kết quả thì bà kiên nhẫn cũng xin được cho anh ra khỏi trại cải tạo. Trảng Lớn, Quân Khu 7 đi đi lại lại nhiều lần, dĩ nhiên không kể thời gian phải chầu chực. Ðôi lúc bà cũng nãn lòng vì cung cách làm việc quan liêu, thế nhưng nếu bỏ cuộc thì mấy đứa nhỏ tính sao. Phường không có ngân khoản chi tiêu cho vụ nầy. Thôi thì ráng làm cho trót.
Anh mặc bộ áo quần bằng bao cát, trên tay cần bao Ny-lon đựng vài vật dụng cá nhân. Tài sản của anh khi xuất trại vỏn vẹn có bấy nhiêu. Hành khách trên xe đò biết anh là dân cải tạo mới ra, nên nhiều người dúi vào tay anh một ít tiền, đồ ăn… anh tự nhiên xúc động. Ngồi trên xe đò, bà kể rõ mọi sự đã xẩy ra của gia đình cho anh biết. Anh chỉ ngồi ôm mặt khóc, phần thương con, phần không biết bây giờ vợ ở đâu. Anh làm sao nuôi hai đứa con còn thơ dại, làm gì bây giờ để sống. Gần xuống xe đò, người tài xế nói vọng ra phía sau : “Lấy tiền bà cán bộ. Còn anh cải tạo mới về, đừng lấy tiền ảnh”. Mấy người ngồi trên xe cười ồ, cái cách phân biệt rất tự nhiên của anh tài xế. Về đến Ủy Ban Nhân Dân Phường, anh nhìn thấy hai đứa con đang chơi ngoài sân thật vô tư. Anh lại ôm con khóc nức nở. Mấy người đi ngoài đường nhìn thấy, họ cũng mủi lòng.
Anh bồng bế con về nhà cũ. Bước vào buồng ngủ anh nhìn thấy vợ và người đàn ông lạ đang nằm ngủ mê man. Cơn ghen tức nổi lên, anh không còn biết mình là dân cải tạo mới thả ra. Anh bỏ con xuống sàn nhà, nhào lại túm đầu chị đánh đá túi bụi. Người đàn ông thức giấc, ngồi dậy xô anh ngã ra sau. Hàng xóm chạy lại bênh anh, cũng nhào vô đánh chị và người tình của chị, miệng họ la lớn : “Ðánh chết gian phu, dâm phụ. Ðánh chết thứ bỏ bê con cái theo trai”. Sau một hồi ấu đả, mặt mày chị và người tình nhân sưng húp. Công an khu vực chạy lại can thiệp, dẫn tất cả ra Phường.
Công an Phường đã biết chị bỏ con cái đi mấy tháng nay, nên họ cũng bực mình. Người công an khu vực hỏi chị : “Chị về lúc nào ? Mấy tháng nay chị đi đâu ?”
Chị trả lời : “Mới về khuya nay. Ði ra Hải Phòng buôn bán”.
“Chị có biết, chị bỏ bê con cái đói khát không ?”
“Biết, mà ở nhà với con lấy gì ăn, cũng chết vậy.”
“Nhưng chị phải có trách nhiệm với con cái chứ ? Nếu không có chúng tôi, con chị chết lâu rồi.”
Chị cúi mặt, trả lời : “Cám ơn các anh.”
Người công an, hỏi chị về anh kia. Chị trả lời mà không chút sượng sùng : “Anh đó là bồ của tôi. Ảnh là cán bộ, giúp tôi làm ăn.”
“Còn chồng chị đây thì sao ?”
“Ổng về rồi thì nuôi con, cả năm nay tôi khổ quá. Tôi giao lại nhà cửa, con cái cho ổng lo. Tôi đi ra không lấy thứ gì hết.”
“Thế chị không thương con sao ?”
“Dĩ nhiên là có. Nhưng người tình không thể bỏ được.”
Thế là bắt đầu từ đó, chị chia tay với anh. Không chút bận bịu, vương vấn gì cả.
Cái cảnh gà trống nuôi con của anh thật tội nghiệp. Anh cũng tái diễn màn nhờ vã hàng xóm như chị trước đây. Mấy bà già nói đùa : “Chớ dại bỏ con đi biệt tích như con vợ mầy. Nó thì được, còn mầy lạng quạng là vô trại cải tạo lại ngay.”
Anh cười, nói đùa lại : “Ðây cũng hơn gì cải tạo đâu.”
Bạn bè giúp đỡ, anh có một số vốn nho nhỏ mở quán cà phê. Che cái lều gần nhà, công an cũng thông cảm làm ngơ. Vì có thể vừa trông con, vừa buôn bán. Không phải nhờ vã mãi hàng xóm được. Anh đặt tên Quán là “Cà phê Năm Râu”. Từ khi cải tạo về, buồn tình anh để râu ria mọc um tùm trên mặt, chẳng thèm cạo. Những người chung quanh gọi anh bằng cái tên theo thứ tự gia đình, cộng thêm ít râu trên mặt. Người Miền Nam hay gọi tên theo vóc dáng, Tư Mập, Hai Lùn v.v… nên gọi anh cũng vậy.
Quán bán lai rai cũng đủ sống qua ngày. Một hôm, ông Trưởng Phòng Thông Tin Văn Hóa Quận đi ngang qua, nhìn thấy tên quán. Ông lập tức về viết giấy mời, bắt anh phải có mặt, lý do cho biết sau. Anh vội vàng gửi con, nhờ bà hàng xóm trông coi giùm quán cà phê. Anh đạp xe lên văn phòng Thông Tin Văn Hóa, cầm tờ giấy mời vào đưa cho cô thư ký tiếp khách. Một giờ sau đó, cô ra mời anh vào phòng ông Trưởng Phòng.
Ông hỏi anh : “Anh là chủ quán Cà Phê Năm Râu phải không ?”
“Dạ thưa, phải”
“Anh có giấy phép mở quán không ?”
Anh ú ớ : “Dạ thưa không có, tôi chỉ xin phép Phường. Hơn nữa quán lẹp xẹp, người ta bảo không cần phải tới Quận.”
“Ngày mai anh về đóng cửa ngay. Lý do là tên cửa hiệu, không phù hợp văn hóa. Cái tên Năm Râu, nghe rất xấc xược và thiếu văn hóa hết sức. Thế mà anh trương nó lên cho mọi người trông thấy. Tướng râu ria của anh, đã thiếu văn hóa rồi. Anh lại bắt mọi người chú ý cái chuyện bê bối của anh hay sao ?”
" Dạ thưa Bác Hồ cũng có râu.”
“A, anh dám cả gan so sánh với Bác à. Anh thật to gan. Râu của Bác đẹp, phong nhả như thần tiên. Nhìn kìa, râu của anh như một đống rác, gắn lên mặt. Ðúng, anh là thứ thiếu văn hóa, phải cho anh một bài học mới được.”
Ông Trưởng Phòng chậm rãi rút điếu thuốc, châm lửa, rít một hơi dài. Lấy giọng, rồi cho anh một bài học về văn hóa tràng giang. Sống phải đúng văn hóa để hòa đồng với xã hội mới. Ông thao thao bất tuyệt, rồi cuối cùng ông lên giọng : “Anh về thực hiện điều tôi nói, tôi chỉ thị về phường theo dõi anh.”
“Dạ thưa đồng chí, tôi về hạ bảng ngay.”
“Không những hạ bảng mà đóng cửa luôn. Thấy mặt anh để mọi người ngứa mắt sao ? Mặt mày anh dơ dáy như vậy, thì làm sao anh đảm bảo giữ vệ sinh được.”
Pháp luật và mệnh lệnh của nhà nước, được tùy tiện xử dụng. Người ta xét xử theo tùy hứng, tình cảm cá nhân. Pháp lý không có chỗ đứng ở đây. Nạn nhân là những kẻ thấp cổ bé họng, không kêu ca với ai được. Làm gì có sự công bình, khi mà đất nước được điều khiển bằng quyền lực.
Thế là quán bán cà phê Năm Râu của anh dẹp tiệm, số vốn bạn bè giúp đỡ kể như đi đời. Ngày đầu, anh chở con đi xem tình hình có thể buôn bán được gì không. Anh đi từ xa cảng Miền Tây, vòng quanh các chợ búa Sài Gòn, Gia Ðịnh. Làm gì cũng phải cần vốn liếng, mà anh thì đào đâu ra tiền. Chán nãn, anh về nhà nằm nghĩ cách nào để sống cho qua ngày.
Chiều, anh ra ngoài chợ Thanh Ða mua kí gạo, để nấu cho cha con ăn. Anh thấy một người đi xe đạp, chở tới một bao cát gạo bỏ mối. Anh mon men tới hỏi thăm. Người nầy nhìn anh một hồi, rồi nói nhỏ : ” Có phải thầy tên Bình không ?”
Anh giật thót người : “Ðúng, tôi là Bình. Tôi làm cu-li chứ có thầy ba chi anh. Làm sao anh biết tôi ?”
“Hồi trước cùng đơn vị với Thầy. Binh nhứt Cẩm.”
Anh nhìn anh Cẩm một hồi lâu, mới nhớ ra. Cẩm lúc đó mang đại liên cho đại đội của anh. Cẩm mời anh sang quán rượu bên cạnh, hai người làm vài xị rượu đế. Anh kể hoàn cảnh của mình hiện tại cho Cẩm nghe. Cẩm cũng nghèo rớt mồng tơi, nhưng còn xoay xở được. Anh thì hoàn toàn bế tắc. Cẩm thấy thương hại cho cha con anh, nên cho anh mượn một ít tiền chỉ cách đi Long An buôn gạo. Cách buôn nầy cũng năm ăn năm thua. Xui xẻo bị Quản Lý Thị Trường, hay Thuế Vụ bắt thì coi như đứt vốn. Còn may mắn trơn trụt thì lãi gấp rưởi. Anh mừng hết lớn, không ngờ mình cũng còn quý nhân giúp đỡ.
Anh lại gửi con cho hàng xóm, bốn giờ sáng thức dậy đạp xe đi Long An với Cẩm. Mỗi ngày anh mua hai giạ gạo, về bỏ mối cho các hàng bán gạo tại các chợ nhỏ. Anh đạp xe luồng lách để tránh các trạm kiểm soát dọc đường. Về tới Sài Gòn, anh tìm các đường hẻm để đi. Vài tháng như vậy trót lọt. Anh và các con được ăn uống tử tế, mỗi ngày có quà biếu xén mấy bà hàng xóm giữ con, tối làm một xị đế cho giản gân cốt.
Thấy làm ăn cũng được, anh và Cẩm dành dụm mua được mỗi người một chiếc xe Gobel chạy dầu. Xe nầy tiếng nổ nghe nhức tai, khói ra còn hơn tàu lửa. Có một điều là khỏi phải còm lưng đạp, lại chở gạo tương đối nhiều. Ngày đầu tiên ra quân, chạy về tới xa cảng Miền Tây. Hai người chia hai ngã, anh vừa quẹo vào một ngõ hẽm, nhìn lại phía sau thì thấy một đoàn quân Quản Lý Thị Trường chạy Honda theo. Một người chạy lên đầu xe anh chận lại. Thế là, anh bị đưa về văn phòng lập biên bản tịch thu số gạo.
Khi anh bước vào phòng, anh lỡ đụng tay vào bình nước trà để trên bàn, bị đổ. Nước chảy ra ướt giấy tờ, cán bộ lập biên bản thấy gai mắt rồi. Nên họ quyết tịch thu gạo, rồi tống cổ anh ra ngoài cho mau. Khi hỏi đến tên họ, anh khai tên là Ðỗ Bình. Người cán bộ mặt đỏ lên, tưởng anh chọc tức mình, chỉ vào mặt anh :
“Ðây là cơ quan, không phải chỗ chơi để anh đùa giởn. Anh vừa đổ bình nước của tôi, tôi chưa hỏi tội. Bây giờ hỏi tên anh nói là đổ bình. Anh muốn gì đây ?”
“Thưa ông, tôi đúng tên là Ðỗ Bình. Ðây giấy tờ của tôi.”
Ông coi giấy tờ, nói : “Trong giấy là Ðỗ Binh, tại sao anh nói là Bình ?”
“Quả thật tôi là Ðỗ Bình, người làm giấy tờ ra trại quên thêm dấu huyền.”
“Tôi không cần biết điều đó. Tôi cảm thấy từ khi bước vào đây, anh có thái độ bất mãn chúng tôi. Anh mới đi học tập trở về, mà không chấp hành pháp luật nhà nước, chưa thông suốt đường lối Cách mạng. Quen thói mánh mung, buôn bán chụp giựt. Tôi đề nghị với công an nơi anh cư ngụ, gửi anh trở lại trại cải tạo.”
Ðến đây thì anh bực mình, nói giọng cà xốc : “Tôi đâu muốn về, nhà nước bắt tôi về để nuôi con. Bây giờ ông muốn đưa tôi đi đâu cũng được, con tôi giao cho Phường nuôi lại.”
“À, anh thách thức tôi. Ðể rồi anh coi.”
Nửa giờ sau, xe công an Quận 11 đến chở anh về giam. Nằm trong phòng giam đến hai ngày, không ai hỏi han gì cả. Anh nóng ruột, chắc hai con anh ở nhà mấy ngày nay đói khát. Không biết mấy bà hàng xóm cho chúng nó ăn uống giùm không. Ðang nghĩ vơ vẫn, thì công an gọi lên phòng làm việc. Họ đưa cho anh vài tờ giấy bắt làm tờ kiểm điểm.
Anh ngồi húy hoáy viết, kể chuyện học tập được phường bảo lãnh về. Không tìm được việc làm, nên đi buôn gạo để kiếm tiền nuôi con. Tuyệt nhiên anh không viết về ăn năn hối hận gì cả. Anh nghĩ thế nào cũng bị hạch họe lung tung, bị giảng giải hăm dọa trước khi cho về. Không ngờ, ngồi một hồi, anh công an dẫn anh ra chỗ dựng chiếc xe Gobel, trên yên còn nguyên hai bịch gạo. Anh công an vừa đi vừa nói : “Anh buôn lậu mà đi xe tiếng nổ lớn gây ồn ào, khói tỏa mù mịt. Gây chú ý. Nên chúng nó bắt anh đúng thôi. Lần sau làm ơn đi xe đạp giùm cho.”
Anh “dạ”. Rồi nhận tờ giấy thả. Leo lên xe chạy về nhà. Con cái được hàng xóm đem ra Phường giao, tự nhiên Phường phải có bổn phận tìm ra anh ở đâu. Anh nghĩ trong bụng chắc công an phường, hay quận can thiệp cho anh về. Anh ra nhận con, chủ tịch Phường gọi vào hỏi : “Gạo anh nhận lại đủ không ?”, rồi ông vừa nói đùa vừa nói thật : “Chúng tôi nhờ Công an quận can thiệp, thả ngay anh ra. Con anh đói gần chết.” Ôm con vào lòng, bây giờ anh mới thấm thía và đau xót. Vì sự sống còn của gia đình, anh đem các con ra để làm trò tung hứng, mặc cả.
Thế là những ngày sau, khi chở gạo về Thành phố anh không phải dọt vô đường hẽm. Cứ đường chính chạy bon bon, mà chẳng cần tránh né. Thuế vụ, Quản Lý Thị Trường, Công An sau nầy đều nhẵn mặt anh. Anh nói với mấy bà hàng xóm, nếu không thấy anh về là cứ mang con ra ngoài Phường giao. Tự động Phường sẽ tìm anh ra ngay, không cần chi phải lo. Thời buổi đó, mọi gia đình đều ăn bo bo, gạo quý lắm. Nên chở được từ miền Tây về trót lọt, thì lãi tương đối khá. Sau nầy anh thấy gạo chở nhiều mà tiền lãi không bao nhiêu, nghe lời mấy bà bán thịt, anh đi Long An mua thịt heo về bán.
Anh bắt đầu nhập vào chuyện buôn lậu thịt, anh cũng dạo một vòng các chợ để biết mối lái, giá cả. Trước khi bắt tay vào việc nầy. Anh lắng nghe các chuyện cười ra nước mắt, bằng đủ các trò để đưa được thịt vào Thành phố. Có bà quấn thịt dưới hai ống chân, mặt quần đen ống rộng phủ bên ngoài. Có bà độn thịt ở bụng giả làm người mang bầu. Xe cứu thương hụ còi inh ỏi, không có người bị cấp cứu, chỉ toàn chở lậu thịt v.v…Thành phố Sài Gòn lúc ấy thiếu thốn đủ mọi thứ, tất cả mọi người chỉ còn lo lắng cho cái ăn. Dân chúng mỗi tháng chỉ được mua 100gr thịt cho một người theo giá chính thức. Muốn ăn thêm phải mua giá chợ đen.
Lương bổng của công nhân viên chức, mỗi tháng chỉ đủ tiền mua được một con gà, họ phải chật vật chạy mánh mung ngược xuôi để nuôi gia đình. Người dân trong nước đều ở trong tình trạng phạm tội, từ cán bộ cấp nhỏ cho tới dân chúng mang một tâm trạng sợ sệt.
Anh rời khỏi nhà lúc 2 giờ sáng. Ðến lò xẻ thịt tại thị xã Tân An, lấy xong rồi quay về ngay. Sợ nắng lên, sẽ làm cho thịt bị hôi. Cứ thế, ngày nầy qua ngày khác anh vẫn đều đặn công việc làm ăn của mình. Ban ngày ở nhà chơi với con, hoặc chở con đi thăm bà con bạn bè.
Một hôm, anh mang các con vào chợ Bà Chiểu lấy tiền thịt bỏ mối, và luôn tiện cho chúng ăn uống. Cha con vừa ngồi xuống hàng bán cháo, thì thấy vợ anh đang đi lại. Chị ăn mặc rất sang trọng. Các con trông thấy mẹ gọi ríu rít, chị quay lại chạy tới ôm chúng vào lòng, quên đi mình bây giờ, quên đi sự dòm ngó của người khác chung quanh. Nước mắt chị chảy ra, nghẹn ngào không nói gì được. Anh thì cúi đầu lặng lẽ. Ðây là cái lúc đối diện thật oan nghiệt cho anh, cho chị. Tự nhiên anh thấy lòng mình chùng xuống.
Những điều hận chị trước đây bỗng dưng bay đâu mất, anh cảm thấy thương chị. Ðúng ra vì oán hờn chị, anh không cho chị lại gần các con. Nhưng không biết vì sao anh không thể làm điều đó được, các con anh cũng cần có tình thương của mẹ. Ðôi mắt của chúng mở lớn sung sướng, vì được mẹ tới ôm hôn. Anh không thể ích kỷ, bắt các con thèm khát những cái mà anh không thể nào tìm ra được cho chúng. Anh vừa thấy xót xa, vừa thấy bằng lòng với sự yên lặng của mình.
Chân đã bước quá xa, không thể nào quay lại được. Lầm lỡ nào cũng gây cho mình một cảm giác đau đớn. Trong lúc thừa mứa vật chất, bây giờ chị lại thèm khát một mái gia đình. Chị đã đánh vở mất những báu vật linh thiên của cuộc sống. Chồng con chị ngồi đó, mà chị không dám nhìn. Lâu ngày gặp lại, đúng ra phải mừng, nhưng chị lại khóc. Ðời sống họ tả tơi, tan tác, chị không giúp đỡ được. Mà chị có giúp thì họ cũng không thể ngửa tay ra nhận. Cái nghèo của họ thật đáng quý, đáng trân trọng.
Anh chở con về nhà, dỗ cho chúng ngủ. Anh đến ngồi bên cửa sổ, hình ảnh chị ôm các con lại hiện ra lung linh. Trông chị bây giờ đẹp thật, da thịt mát rượi, đời sống sung túc đã thay đổi hẳn con người. Còn cha con anh, trông thật thê thảm, quần áo xốc xếch, ốm đói. Căn nhà trống vắng quá, đang thiếu một cái gí đó để khỏa lấp. Thiếu một bàn tay chăm sóc, thiếu một tiếng nói dịu dàng, để sưởi ấm lại gia đình. Gần cả năm nay vì phải lo chạy từng miếng ăn, phải lo cho đời sống các con, chăm sóc chúng, anh không còn nghĩ gì khác hơn. Bây giờ mọi thứ tạm ổn, mọi sinh hoạt vẫn đều đặn. Phải có một người đàn bà trong gia đình. Vâng, anh thầm nhủ như vậy.
Phan Xuân Sinh
SƠN TRUNG * CÁO HỌC PHÁP THUẬT
CÁO HỌC PHÁP THUẬT
Sau đó, Cáo đến gặp Sói là trùm tổ chức đường dây thi hộ, bỏ ra một số tiền lớn để Sói làm bằng tốt nghiệp giả, giấy chứng minh nhân dân giả cho mèo rừng thông thái đi thi hộ. Kết quả là Cáo đậu thủ khoa.
Nhờ có ô dù và tấm bằng đại học loại xịn, Cáo xin vào làm ở công ty cổ phần Cổ Cò và được bổ nhiệm làm phó phòng. Về đây Cáo không bỏ qua cơ hội nào để lấy lòng sếp. Từ sinh nhật thủ trưởng đến sinh nhật vợ thủ trưởng, từ đám cưới con thủ trưởng đến mừng thọ mẹ thủ trưởng, từ mừng tân gia, mừng năm mới đến mừng xe mới… tất cả đều được Cáo mừng bằng phong bì dầy cui.
Đó là chưa kể mời thủ trưởng đi khách sạn nhà hàng và… em út. Không chỉ đánh vào mặt tiền, Cáo còn đánh vào mặt hậu là… vợ thủ trưởng. Thỏ thường bảo vợ mình đến rủ vợ thủ trưởng đi shop, đi siêu thị, du lịch… Nhờ vậy mà chẳng bao lâu thỏ nhảy từ phó phòng lên trưởng phòng, phó giám đốc rồi… giám đốc!
Sau đó, Cáo Trắng đến chỗ thần rừng và kể cho thần nghe mình đã hoàn thành ba điều kiện như thế nào. Nghe xong thần lắc đầu thở dài nói:
- “Phép thuật”của nhà ngươi đã lợi hại hơn ta rồi, làm sao ta có thể dạy ngươi được. Để mai ta tâu với Ngọc Hoàng cho ngươi làm thần ở đây, còn ta “lạc hậu” quá rồi, không thể phục vụ tốt triều đình nữa, ta phải về vườn thôi.
Một
con Cáo Trắng đến gặp Thần Rừng để xin được ban cho ít phép thuật.
Thần Rừng chấp nhận, với điều kiện, Cáo phải thực hiện được ba điều:
Thứ nhất là lấy được viên ngọc lưu ly trong miệng rắn, thứ hai là phải
đậu vào trường đại học “Bách thú khoa” và thứ ba là phải làm giám đốc
một công ty quốc doanh nào đấy.
Đầu tiên, Cáo Trắng cho đàn em là nhím mang đến tặng rắn món nhái khô vốn là món khoái khẩu của rắn nhưng đã quá “đát” ba tháng. Rắn bị ngộ độc thực phẩm phải đi bệnh viện. Sau đó, thỏ “bắt tay” với bác sĩ gấu kê cho rắn một loạt toa thuốc ngoại nhập. Giá thuốc cao và viện phí quá đắt mà nhà rắn lại nghèo không trả nổi tiền thuốc nên phải đem ngọc đến chỗ thỏ cầm cố.
Đầu tiên, Cáo Trắng cho đàn em là nhím mang đến tặng rắn món nhái khô vốn là món khoái khẩu của rắn nhưng đã quá “đát” ba tháng. Rắn bị ngộ độc thực phẩm phải đi bệnh viện. Sau đó, thỏ “bắt tay” với bác sĩ gấu kê cho rắn một loạt toa thuốc ngoại nhập. Giá thuốc cao và viện phí quá đắt mà nhà rắn lại nghèo không trả nổi tiền thuốc nên phải đem ngọc đến chỗ thỏ cầm cố.
Sau đó, Cáo đến gặp Sói là trùm tổ chức đường dây thi hộ, bỏ ra một số tiền lớn để Sói làm bằng tốt nghiệp giả, giấy chứng minh nhân dân giả cho mèo rừng thông thái đi thi hộ. Kết quả là Cáo đậu thủ khoa.
Nhờ có ô dù và tấm bằng đại học loại xịn, Cáo xin vào làm ở công ty cổ phần Cổ Cò và được bổ nhiệm làm phó phòng. Về đây Cáo không bỏ qua cơ hội nào để lấy lòng sếp. Từ sinh nhật thủ trưởng đến sinh nhật vợ thủ trưởng, từ đám cưới con thủ trưởng đến mừng thọ mẹ thủ trưởng, từ mừng tân gia, mừng năm mới đến mừng xe mới… tất cả đều được Cáo mừng bằng phong bì dầy cui.
Đó là chưa kể mời thủ trưởng đi khách sạn nhà hàng và… em út. Không chỉ đánh vào mặt tiền, Cáo còn đánh vào mặt hậu là… vợ thủ trưởng. Thỏ thường bảo vợ mình đến rủ vợ thủ trưởng đi shop, đi siêu thị, du lịch… Nhờ vậy mà chẳng bao lâu thỏ nhảy từ phó phòng lên trưởng phòng, phó giám đốc rồi… giám đốc!
Sau đó, Cáo Trắng đến chỗ thần rừng và kể cho thần nghe mình đã hoàn thành ba điều kiện như thế nào. Nghe xong thần lắc đầu thở dài nói:
- “Phép thuật”của nhà ngươi đã lợi hại hơn ta rồi, làm sao ta có thể dạy ngươi được. Để mai ta tâu với Ngọc Hoàng cho ngươi làm thần ở đây, còn ta “lạc hậu” quá rồi, không thể phục vụ tốt triều đình nữa, ta phải về vườn thôi.
THƠ HOÀNG CẦM
EM BÉ LÊN SÁU
Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vương mây sám lạnh
Cỏ hoa còn ngóng trông
Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang vòm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời
I
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua;
Bố mẹ nó không còn
Đứa trẻ nay gầy còm
Bỗng thương tình côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đo nhìn đời bỡ ngỡ:
"Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!"
II
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
-- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy"
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đưá bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ: "sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa".
III
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ,
Đã lâu năm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim
Nào "liên quan phản động"
"Mất cảnh giác lập trường"
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn lòng câu hỏi:
"Sao thương con kẻ thù ?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo"
Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường
Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tình yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời
IV
Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo :
- "Có bầu trời nhân đạo
Còn vương vất bóng đêm
Đồng chí đã thắp đèn
Dòng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên"
Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đã tung tăng cặp sách
Cùng trẻ em nông dân
Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của nghìn năm tội ác
Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.
(6/1995)
Tập thơ Những bài thơ lẻ
LÁ DIÊU BÔNG
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!
VŨ MÃO * TRẦN ĐỘ
Thư ông Vũ Mão về đám tang Trần Độ
Vũ Mão
Tháng 7 năm 2007 này, vừa đúng năm năm lễ tang ông Trần Độ. Hôm nay
tôi viết lại đôi dòng về một khía cạnh đã diễn ra ngày ấy. Tôi là người
được Tổ chức phân công đọc Điếu văn vì tôi là Trưởng ban Lễ tang. Còn
việc vì sao phân công tôi làm Trưởng ban Lễ tang sẽ được trình bày vào
một dịp khác.
Điếu văn đọc tại Lễ tang Ông Trần Độ được phân công chuẩn bị khá công
phu. Sau đó, có tham khảo ý kiến của gia quyến. Gia quyến đề nghị bỏ
đoạn nói về thiếu sót, khuyết điểm của ông Trần Độ. Bộ phận soạn thảo
cũng muốn vậy nhưng không được cấp trên chấp nhận, vì lập luận rằng,
phải công bằng và khách quan giữa cống hiến và khuyết điểm. Bản Dự thảo
mới, tuy vẫn nói tới thiếu sót nhưng đã được giảm nhẹ và thu gọn lại. Đã
có một cuộc họp nhanh, nói cho chính xác là có cuộc hội ý ngay sau
phiên họp buổi chiều của Quốc hội. Các ý kiến phát biểu sôi nổi và vẫn
giữ ý kiến như cũ, tức là phải nói cả công lao và thiếu sót. Cuối cùng,
các đồng chí dự Hội nghị đã vui vẻ dặn tôi: Khi đọc Điếu văn, đoạn nói
về những đóng góp của ông Trần Độ thì đọc to; còn về thiếu sót, khuyết
điểm thì đọc nhỏ thôi.
Mọi người đều biết tôi không muốn nhận sự phân công này, đặc biệt
trong Điếu văn lại phải đọc cả thiếu sót khuyết điểm của người quá cố là
điều tối kỵ, chưa ai làm thế bao giờ, nên tôi càng không đồng tình.
Tuy nhiên, tôi không có cách nào khác là chấp hành sự phân công của Tổ chức và tôi đã thực hiện nghiêm chỉnh.
Tại Lễ truy điệu, tôi đọc Điếu văn. Trong lời đọc của mình, khi nói
về công lao, thành tích, cống hiến của ông Trần Độ đối với Cách mạng,
đối với Tổ quốc và Nhân dân thì tôi đọc to và rõ ràng, hào hùng đầy khí
thế. Tôi xúc động thực sự từ đáy lòng mình. Khi đọc đến thiếu sót tôi
đọc rất nhỏ, thực chất chỉ mấp máy môi để không ai nghe thấy gì cả.
Trong trường hợp này, có thể nói: “Tôi là một Nghị sĩ đã đóng vai một
Nghệ sĩ xuất sắc trong diễn đạt và biểu cảm”.
Tôi tự ví von, mình là một Nghị sĩ đóng vai một Nghệ sĩ xuất sắc, âu
cũng là sự hài hước để giảm nhẹ bớt nỗi đau của riêng mình. Thế mới
biết, dù có dùng bất cứ một thứ nghệ thuật nào và trình độ diễn đạt có
siêu đẳng đến mấy cũng không thể thay thế cái công bằng của sự thật,
tình nhân ái của con người.
Hội trường Ba Đình, ngày 1/8/2007
Nguồn: Tư liệu của Nhà văn Võ Bá Cường (Trích Thời tôi sống, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
* * *
Trần Quang Vinh: Bức thư của anh Vũ Mão
"Trong cuốn sách 'Nhớ nhà văn Trần Độ', có đăng bài 'Bài ca tặng anh
Trần Độ' của anh Vũ Mão – lúc đó nguyên là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
Bài viết lấy từ một bức thư của anh Vũ Mão viết và gửi cho ông Trần Độ
ngày 17 tháng 2 năm 1993 và được gia đình gìn giữ như một kỷ vật thiêng
liêng".
NGUYỄN QUANG LẬP * ANH CU ĐOM
24-11-2013
Chuyện tình anh cu Đom
Nguyễn Quang LậpKhi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.
Anh cu Đom ở xóm Cá, sát ngay xóm của mình, anh chọn học sư
phạm 7+2 vì Trường trung cấp sư phạm Quảng Bình sơ tán lên thung lũng
Chớp Ri, đóng sát ngay sau nhà anh. Nếu học tiếp lên cấp 3 anh phải vượt
đèo Cao Mại ra phố huyện cách nhà hơn hai chục cây số. Anh học sư phạm
như học phổ thông, khi nào cũng một cuốn vở cuộn tròn nhét túi, chẳng
thấy túi, cặp gì. Học đựợc nửa buổi anh bỏ lớp tót về nhà chơi với tụi
mình, lắm khi anh bỏ học hai ba ngày không tới lớp. Phần vì anh ham
chơi, đi học chẳng qua vì đỡ phải đi làm chứ anh chẳng thiết tha gì việc
học hành, phần vì anh mê cô Lý.
Cô Lý là cô giáo 7+2 thực tập lớp trường mình. Cô ở cùng xóm với mình,
xưa gọi bằng chị nay gọi bằng cô. Gọi bằng cô cho cô mừng thôi chứ cô
chẳng dạy dỗ gì mình. Cô Lý hiền lành nhu mì nhưng xấu chết, đen thui từ
đầu đến đuôi. Chả hiểu sao anh Đom mê cô Lý. Anh đẹp trai, đánh bóng
chuyền giỏi lại biết thổi kèn armonica. Học sau cô Lý nhưng anh Đom còn
hơn cô Lý một tuổi vì anh đúp mấy năm liền mới qua được lớp
7. Một hôm thấy anh Đom đứng đái, mình chạy lại đái gần anh, tranh thủ
chiêm ngưỡng con cu rất hoành tráng của anh. Anh nói nhìn cái chi, lên
lớp 7 là bằng cu tau thôi mà. Mình nói anh yêu cô Lý à? Anh nói yêu chớ
sợ chi không yêu. Mình nói răng anh yêu cô Lý, anh nói con nớ bụ to.
Chợt anh vỗ vai mình đánh bốp, nói a nhớ rồi, mi biết mần thơ phải
không, duyệt tao bài thơ. Anh lôi ra bài thơ vừa sáng tác tặng cô Lý.
“Ôi cái tên Minh Lý/ Tên em đẹp hết ý/ Lý ơi yêu anh tí/ Đêm nào anh
cũng bí.” Mình ôm bụng cười rũ, nói anh mần thơ như ẻ. Anh trợn mắt lên,
nói thằng ni nói chi rứa bay, thơ tau gieo vần êm như nhíp.
Mình nói anh không biết mần thơ để tui mần cho. Anh ôm lấy mình ra sức
nịnh nọt, nói mần giúp anh nghe, anh sẵn sàng cho mi tập giấy năm hào
hai mới cứng. Mình nói anh đừng nịnh cô Lý, cô Lý ghét nịnh, phải dọa cô
mới sợ. Anh hỏi dọa răng. Mình đọc ngay tức thì, nói nếu mà Lý chẳng
yêu Đom/ thì Đế Quốc Mỹ thả bom xuống liền. Anh vỗ tay đánh bốp, nói oa
chà hay chi hay ác! Anh chép ngay bài thơ. Hôm sau đưa mình tập giấy năm
hào hai, nói cảm ơn mi, nhờ thơ mi tau sờ được bụ con Lý rồi.
Cô Lý ở gần nhà mình, chỉ cách một ngõ nhỏ. Mình vọt về kiểm tra xem anh
Đom có nói láo hay không. Cô đang thái rau heo, mình chạy vào hỏi cô,
nói cô đang yêu à. Cô cười, nói ừ. Mình hỏi cô yêu ai. Cô ngừng thái
rau, mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu. Mình nhăn răng cười, nói
em biết cô yêu ai rồi. Nghe vậy cô Lý tái mặt vội vàng ôm lấy mình, nói
em đừng nói với ai cả nghe chưa. Ba cô ghét anh Đom lắm. Mình lại vọt đi
tìm anh Đom, nói ba cô Lý ghét anh lắm đó.. Anh cười cái hậc, nói è he,
mần cặc chi tau.
Mình đeo lấy anh Đom, đòi anh kể chuyện anh yêu cô. Anh kể hấp dẫn như
các chú bộ đội kể chuyện đánh giáp la cà. Anh nói tau hun cái nghe chưa,
hắn cho tau một tát nghe chưa, tau không sợ nghe chưa, tau đè hắn ra
nghe chưa, hắn cho tau một đạp nghe chưa, tao xé đứt lai quần hắn rồi
ngoạm hắn nghe chưa, hắn mềm dần như bún, he he rứa là xong om. Mình nói
ngạm chỗ mô, anh nói chỗ hắn đi đái đó, thằng ngu. Mình nhăn răng cười,
nói tởm tởm, anh ni tởm gớm bay. Anh đá đít mình, nói ngu, mi đúng là
đồ con nít. Từ đó hễ gặp cô mình đều tưởng tượng anh Đom ngoạm cô thế
nào. Nghĩ mãi không ra tại sao anh Đom ngoạm thì cô mềm dần như bún. Hi
hi.
Một hôm đi học về thấy cô Lý ngồi bó gối dựa tường gạch, nước mắt hai
hàng. Chắc ba cô vừa đánh cô. Hôm trước ba cô cầm dao rượt đuổi anh Đom,
anh bỏ chạy vào rừng, chạy vòng vèo khiến ba cô đuổi đứt hơi. Anh lừa
ba cô chạy vào khu rừng người ta hay bẫy heo. Ba cô sập bẫy, treo lủng
lẳng suốt ngày trong rừng. May có người nghe tiếng kêu cứu không ông
chết không ai biết.
Mình hỏi anh Đom, nói răng ba cô Lý ghét anh. Anh cốc đầu mình phát, nói
thằng ni tò mò tọc mạch gớm. Mình túm áo anh, nói kể đi kể đi. Anh nói
cả nhà con Lý căm thù nhà tau như căm thù Đế Quốc Mỹ, nghe chưa. Mình
hỏi răng căm thù. Anh nói xưa ba con Lý tố cáo ba tau tham ô ba tạ thóc,
ba tau trả thù bằng cách rặp cho được vợ ông ta, nghe chưa. Nay ông ta
lên trường sư phạm tố cáo tố cáo ăn cắp mít nhà ông, tao trả thù bằng
cách rặp cho được con gái ông ta, nghe chưa. Anh ngửa cổ cười he he he,
nói rứa đo rứa đo.
Tất nhiên mình không dám kể chuyện này với cô Lý. Thấy cô khóc, mình
cũng thương nhưng chẳng biết nói gì, không lẽ bảo cô bỏ quách anh Đom
cho xong. Bỗng cô vùng dậy lao đầu đập tường liên tục, đập đến tóe máu
đầu, vừa đập vừa hét chết đi cho rồi! Chết đi cho rồi! Mình sợ quá ôm
lấy cô, khóc nói cô ơi đừng chết! Cô ơi đừng chết! Cô ôm đầu hét rất to.
nói không, cô phải chết thôi, không ai cho cô sống đâu!
Mình nói với anh Đom, nói anh thôi yêu cô Lý đi cho rồi, tội cô lắm. Anh
Đom cười, nói tại hắn yêu tau chớ, tau rặp được rồi, hắn bỏ càng khỏe
xác tau. Tối mình về tìm các đọc trộm nhật kí cô, cô viết dài hàng chục
trang. Bây giờ chẳng nhớ gì, chỉ nhớ câu: Đom ơi em không thể sống thiếu
anh! Đom ơi là Đom ơi. Đom Đom Đom Đom…
Mình chạy tìm anh Đom, nói cô Lý nói không thể sống thiếu anh. Anh cười
cái hậc, nói đàn bà con mô nỏ rứa, lẹo phát là dính như keo.. Mình không
hiểu lắm, chỉ biết cô Lý coi anh Đom như người tình lý tưởng trong khi
anh chẳng mấy quan tâm, chỉ kể chuyện làm tình với cô, đè cô ra sao,
ngoạm cô thế nào và cười he he he.
Cô Lý thức trắng mấy đêm liền, rồi bỏ trốn, rủ cả anh Đom cùng đi. Thầy
hiệu trưởng nói nhất định trốn vô rừng và huy động cả trường đi tìm.
Mình vừa đi vừa gọi, nói anh Đom ơi anh Đom trốn mô ra đi, tụi em đói
lắm rồi. Ba cô Lý cầm dao lùng sục khắp rừng, nói cha tổ mi vơ Đom, bắt
được tau chặt mi ra ba khúc. Chuyện này ầm ĩ khắp thung lũng.
Cuối cùng cô Lý và anh Đom cũng trở về. Cô Lý xanh như que củi, nằm ốm
cả tháng trời, chỉ còn da bọc xương. Hết ốm thì bị chuyển trường, không
đuổi dạy, chỉ chuyển trường thực tập thôi. Mình hỏi anh Đom, nói cô Lý
với anh trốn mô, sao tự nhiên bỏ về? Anh Đom nói chui vô hang Dơi chớ
mô, ăn hết đồ ăn mang theo thì về chớ răng. Anh nói cô Lý mang theo bánh
bích qui, thịt heo rừng nướng, xôi cả bọc to, ăn đã thôi. Anh khoa chân
múa tay, nói chưa khi mô tau được ăn no như rứa, ngày sáu bữa, cơm no
bò cưỡi ngày sáu phát, sướng cực, sướng cực. Anh lại ngửa cổ cười he he.
Bỗng cái miệng anh dần ngậm lại, cô Lý như mọc dưới đất lên, nói anh vừa
nói chi, nói lại nghe coi. Anh cười nhăn nhở, nói chi mô nói chi mô. Cô
cho anh một tát nảy đom đóm rồi bỏ đi, đi mãi không thấy cô trở lại.
Người ta bảo cô Lý ra suối Tranh tự vẫn nhưng không ai tìm ra xác.
NGUYỄN QUANG LẬP
QUÊ CHOA
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 288
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0288
Những hình ảnh tuyệt đẹp con ngựa trong lịch sử Việt Nam, từ con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương hay sự hy sinh của các chiến mã của Bình Định Vương Lê Lợi có lẽ người Việt nào cũng biết . Nhưng trong cuộc sống hằng ngày tại sao từ Ngựa lại mang hai ý nghĩa lúc khen lúc mắng.
Thành ngữ « thẳng ruột ngựa » là đẹp hay xấu ? Bằng cách nào mà con ngựa Pháp cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng … đủng đỉnh đi vào đời sống và văn chương bình dân của Việt Nam ? Trong bài khảo luận « Ngựa… và Thẳng ruột ngựa », giáo sư Nguyễn Dư ở Lyon tìm cách trả lời các câu hỏi này.
RFI : Nhân đầu năm Giáp Ngọ, RFI, qua phần phỏng vấn sau đây, xin giới thiệu bài khảo luận vừa nghiêm túc vừa ý nhị của tác giả. Ngựa và… Thẳng ruột ngựa !
Nguyễn Dư : Ngựa không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày. Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi đừng nói nữa, ta thèm !
Tuy vậy, ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Thần thoại của ta có cậu bé làng Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười, trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu nước, bèn vươn vai hoá thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con ngựa sắt để đi dẹp giặc Ân. Giặc tan…
Áo nhung cởi lại Linh-san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình ảnh đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành động… như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ. Tấu lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần, Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa ngự trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me, hốc đá ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu quận. Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình, nội tạng của ngựa.
Xưa kia, ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến toà án), thì sẽ được biết cái vành móng ngựa. Vành bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt đóng dưới móng chân ngựa (fer à cheval). Bị can đứng trong vành nghe quan toà buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được dùng.
Mấy ông lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái mùa đông rét mướt, nhiều mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm. Cái màu xanh lá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như quần áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời tây cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng hiểu.
Một dạo, thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court). Mái tóc chỉ còn như cái móng chân (sabot) ngựa. Gọi là đầu móng ngựa.
Vào khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô cột mớ tóc thề thành cái đuôi ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê ly đời ta !
Bên cạnh ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng ngày, phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có con mang vẻ đẹp oai hùng :
- Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có con đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút :
- Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có con hay tự hào, tự tôn :
Ớ ! nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa? (Lục súc tranh công)
Ngựa khoe cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền. Không biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục. Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu rằng: «Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông» (Nhị độ mai)
(Khuyển mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa, mến chủ).
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để trả cho hết nợ).
Có con xả thân vì đại nghĩa :
- Năm 1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn … (Lam Sơn thực lục).
Có Con ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956) chết thảm thương.
Ngoài ra, bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không ? Ngựa cũng có vấn đề à?
Ta có thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng… khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay hoay tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn, điển tích nào có thành ngữ này.
- Tự vị Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
- Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
- Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
- Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành ngữ Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa là: Nghĩ thế nào thì nói ra như thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn, bộc trực.
Nói gọn lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa, ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng ta có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa (Hoàng Phê, thí dụ của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái không thẳng là một điều chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn lại hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin bàn về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ trước đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần : Thẳng / ruột ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một điều là… thẳng như cái không thẳng. Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ còn một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
- Chia cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa gì! Thẳng ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên ! Thẳng ruột / ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt Nam!
- Dạ, đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là tiếng Việt của người Việt !
1) Thẳng ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực trường nghĩa là : Ruột gan ngay thẳng. Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra ngay, tuồng như đại trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào Duy Anh).
Thực tế thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy Anh cũng nói rõ là tuồng như đại trường thẳng tuột.
Thẳng ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa bóng là ruột gan ngay thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói thẳng ra như thế, không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn đề thẳng như.
Mấy cách giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ giải nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất từ ngựa.
2) Ngựa của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa này không biết kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống cái) và Cavallo (giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ của tiếng Pháp như cavalerie (kị binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy ông đi tán gái), cavalière (được Việt hoá thành ca-ve, gái nhảy) v.v.
Vòng vo một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy em ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve bị biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa cái) được dùng để ám chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao lâu ngựa của tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta. Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào sách vở.
Tự vị Huỳnh Tịnh Của có câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng mắng).
Từ điển Génibrel có Nết ngựa : ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs légères, débauchée). Đĩ ngựa : đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các bà thời thượng trong Nam bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm 1931, Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa, kể chuyện đêm giao thừa, anh phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa người ám chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là anh phu kéo xe tay. Hai loại ngựa đặc sản của thời Pháp thuộc.
Rốt cuộc, Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói thật như gái điếm.
- Trời đất quỷ thần ơi ! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
- Còn lâu ! Thẳng ruột ngựa phải được « hiểu ngầm » theo một cách khác !
- Cách nào ? Đính chánh lẹ lên.
Trước khi trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người xưa có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn, nhất là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không có lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một cách nói châm biếm, hài hước, tương tự như Vè nói ngược :
Bong bóng thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng…
Ai không thích « giễu dở » thì nói : Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Người xưa quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay thật.
Nghe các em « giãi bày tâm sự » thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ bịnh, một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi gia đình. Em mới « đi » được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong nhã…
Anh nghe mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay bướm, lang bang phải coi chừng « ruột gan ngay thẳng… của ca-ve ». Chẳng khác gì người miền Nam ngày trước khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái điếm lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà. Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo lối nói châm biếm.
Thẳng ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba nền văn hoá Tàu, Tây và Ta. Ý nghĩa quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu sai.
- Tôi bấy giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi không bị hạn gì cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh hùng) (*).
- Anh Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng ruột ngựa nên anh sợ (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) (*).
Nhà văn muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người hiểu là anh cán bộ và cô Út đang bị chê.
Nói thẳng nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc rối quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết con Ngựa 2014)
(*) theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang.
Thằng Búa
Nguyễn Sĩ Nam
Thằng Búa ! Tất cả tù nhân lớn bé trước sau gì ở cái nhà tù vượt biên ở
Vũng Tàu đều phải biết đến thằng Búa. Người nào không biết đến cái thằng
tù nhân “ốc tiêu” này đều không xứng đáng gọi là tù nhân.
Thằng Búa có cái đầu tròn quay, to như quả mít, tóc mọc lởm chởm, thưa thớt như một ngọn đồi trọc khô nước. Cái đầu nó thật to muốn lấn át cả cái thân gầy xọm của nó. Ai nhìn vào nó phải thấy ngay cái đầu nó trước nhất, rồi mới đến bộ xương sườn gầy guộc ỏng bụng, kế đến mới tới đôi chân khẳng khiu như hai cây sậy. Thế mà nó cũng có thể bước đi vững vàng, chạy nhảy thoăn thoắt như con chim sẻ vậy. Trông thân hình nó chẳng khác nào một cái búa. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên cho nó là thằng Búa chăng, hay tại Mẹ nó đã khéo đặt tên cho nó ? Chẳng ai hay biết chuyện này cả.
Suốt một đêm nằm rũ liệt, toàn thân bị ê ẩm như đã chịu đựng trăm ngàn vết roi, tôi cố nhướng con mắt dậy để tìm chút ánh sáng thì gặp ngay gương mặt thằng oắt con to chành vạnh, nhoẻn miệng cười phô bày cái nướu răng ra, chỉ còn vài cái răng mọc không đều làm kiểng, trông nó dị hợm hết sức. Nó cúi đầu sát vào mặt tôi giọng trìu mến :
- Sao, anh ngủ được không ?
Cơn giận đêm qua vẫn còn nặng trĩu trong lòng tôi nên tôi chẳng buồn trả lời nó. Thêm nữa, cái đầu nóng như thiêu như đốt, cải cổ khô ran, con mắt cứ muốn sụp xuống như đang đeo quả tạ nghìn cân, tôi đâu còn hơi để mà trả lời.
- Sao, anh còn nóng không ? Đêm hồi hôm em phải xức dầu cho anh đó. Nếu không chắc toi mạng rồi ! Quái lạ ! Cái miệng nó nói thật khó ngửi, có lẽ nó chưa súc miệng nhưng sao lời lẽ có vẻ thâm tình quá vậy ? Lúc bây giờ tôi mới nhận ra là có mùi dầu “cù là” phảng phất trên thân mình. Tôi thầm cảm ơn nó. Nó không có vẻ gì giống cái thằng đêm hồi hôm dọa nạt tôi :
- Đỡ đỡ rồi em. Cám ơn em. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ nó. Trong cái xôn xao náo động của một buổi sáng thức dậy trong tù, đám tù nhân bắt đầu nhao nhao như ong vỡ tổ. Mặc dù không nhúc nhích được một tấc nhưng mọi người đều cố tìm cách làm cho mình có một tư thế thoải mái được càng nhiều càng tốt. Trong lúc đó mùi phân trong cái thùng thiếc đặt ở một góc mà thiên hạ đang “đi” bay tỏa đều đặn khắp phòng khiến tôi phải bịt mũi liên tục. Đám tù nhân cũ trong phòng nhìn tôi cười sằng sặc như chế diễu…
Bỗng có tiếng lách cách như mở cửa, rồi một thằng cai tù ốm nhỏ cặp kè khẩu AK trên tay tiến vào, một thằng khác đứng canh ở bên ngoài. Thằng bên trong tiến lại mở cùm chân cho thằng oắt con bên cạnh tôi rồi ra lệnh trọ trẹ :
Dậy đi lấy nước mày. Số còn lại ngồi im nghe chưa ?
Thằng nhỏ trần trùi trụi đầy ghẻ lở khắp mình đứng phóc dậy một cách quen thuộc. Nó chỉ mặc có một cái quần đùi rách đít. Chờ cho thằng cai tù bước ra ngoài, nó kề miệng vào sát tai tôi nói nhỏ :
- Để em đi lấy nước sôi cho anh rửa mặt !
Nói xong nó phóng theo thằng cai tù để nhập với đám tù khác đi khiêng nước. Tôi lật đật xí chổ trống còn lại của nó để ngã cái lưng xuống nằm một tí cho khỏe. Lúc đó tôi mới để ý thấy có một ông già nằm bên cạnh nó, đêm qua hai người nói chuyện có vẻ tương đắc lắm, ý chừng hai cha con, tôi nghĩ vậy. Ông già nhìn tôi mỉm cười làm quen. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi nhỏm dậy chào ông già :
- Con của Bác đó hả ?
- Con với cái gì. Nó ở tù còn lâu hơn cái thân gìa này nữa, có điều thấy nó tội nghiệp nên già cũng nhận đại nó làm con cho đỡ buồn. Ông già nói xong, tìm cái mủng dừa còn sạch chia cho tôi một nhúm trà khô để có tí nhâm nhi buổi sáng.
Trong khi chờ thằng oắt con trở lại, tôi tò mò hỏi ông già lý do tại sao nó có mặt nơi đây, ông già buông một câu gọn lỏn :
- Nó giết người !
- Trời ơi ! Nó giết người !?
Tôi há mồm thật to ngạc nhiên hỏi.
Lúc đó không ai bảo ai, bọn tù nhân đều quay về phía ông già như chờ đợi những tin sốt dẻo khác nhưng ông vẫn lặng thinh sờ vào mông gãi soàn soạt. Khi đó tôi mới có dịp nhìn tấm thân trần trụi của ông già đúng là một tấm bia ghẻ. Ghẻ mọc từ trên đầu xuống tới chân lộ ra một màu tím thẩm pha lẫn màu máu khô, mủ vàng xì ra ướt nhẹp. Thiên hạ vẫn không để ý đến chuyện đó mà vẫn tiếp tục hỏi ông già về chuyện giết người của thằng nhỏ nhưng ông già lắc đầu trả lời :
- Ai muốn biết cứ hỏi nó !
Thấy cái đầu nóng ran của nó cứ rúc rúc vào ngực tôi như con mèo con tìm vú mẹ, tôi thương hại hỏi nó :
- Búa ! Em có điều gì muốn nói với anh ?
- Dạ có ! Anh cho phép em mới nói.
Nó ngóc đầu dậy trả lời. Rồi không đợi tôi cho phép, nó bắt đầu câu chuyện một cách thật bình tĩnh :
- Anh Hai ! Em đã phạm tội giết người !
- Hả ? Em giết người ? Tôi đã biết trước mà vẫn không khỏi thắc mắc. Như không cần để ý đến câu hỏi của tôi, nó tiếp với giọng vừa đủ tôi nghe :
- Hồi trước nhà em ở miệt vườn. Nhà em nghèo lắm. Ba em là lính Nghĩa quân, Mẹ em cày cấy nuôi em nhưng cả hai đều cố cho em ăn học. Đùng một cái tụi giặc Cộng vô đây sát hại ba em, tịch thu luôn cả mảnh ruộng nhỏ bằng cái sân, bắt mẹ em vô làm tập thể gì đó mà không có lấy một hột gạo ăn.
May mắn thay, chuyến vượt ngục thành công. Ngày hôm sau, tôi về lại căn nhà trọ ở Ngã Ba Ông Tạ, trong túi còn rủng rỉnh mấy bịch kẹo ngọt. Chưa biết gởi xuống cho thằng Búa bằng cách nào, cũng không biết nó còn sống hay đã chết !?
Nguyễn Sĩ Nam
_____________
Nguyễn Sĩ Nam là bút hiệu của một cựu Sinh viên QGHC, khóa Đốc Sự 17.
EM BÉ LÊN SÁU
Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vương mây sám lạnh
Cỏ hoa còn ngóng trông
Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang vòm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời
I
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua;
Bố mẹ nó không còn
Đứa trẻ nay gầy còm
Bỗng thương tình côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đo nhìn đời bỡ ngỡ:
"Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!"
II
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
-- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy"
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đưá bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ: "sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa".
III
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ,
Đã lâu năm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim
Nào "liên quan phản động"
"Mất cảnh giác lập trường"
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn lòng câu hỏi:
"Sao thương con kẻ thù ?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo"
Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường
Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tình yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời
IV
Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo :
- "Có bầu trời nhân đạo
Còn vương vất bóng đêm
Đồng chí đã thắp đèn
Dòng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên"
Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đã tung tăng cặp sách
Cùng trẻ em nông dân
Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của nghìn năm tội ác
Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.
(6/1995)
Tập thơ Những bài thơ lẻ
LÁ DIÊU BÔNG
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!
Thuở
bé mình mới biết có người tên xấu như anh Đom. Mình hỏi anh, nói răng
anh tên Đom. Anh kể nhà anh đã có 5 con trai, ba mạ anh ráng đẻ thêm một
đứa nữa, hy vọng con gái. Ngày mạ anh có chửa, chả biết mấy cô y tá hộ
sinh ở trạm xá khám xét thế nào, khẳng định là con gái. Ba mạ anh mừng
lắm, mổ heo ăn mừng. Đến ngày sinh, ba anh chầu chực suốt đêm bên cửa
sổ. Nghe tiếng trẻ khóc ông nhóng cổ thò mồm qua cửa sổ, nói trai hay
gái? Nghe bảo con gái ông cười cái hậc, nói đom! Từ đó anh có tên là cu
Đom.
Khi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.
Monday, October 31, 2016
CHUYỆN NĂM NGỰA =TRUYỆN KÝ = BÌNH MINH=CĂN NHÀ KHÔNG ĐÀN BÀ
TÚ ANH * CHUYỆN NĂM NGỰA
Năm Ngọ kể chuyện Ngựa trong lịch sử văn chương
Việt Nam và nhiều thành phố châu Á chaủan bị đón năm Ngọ - REUTERS
Đúng vào lúc 12 giờ đêm (nay) 30/01/2014 con rắn của Quý Tỵ
bàn giao năm mới cho con ngựa Giáp Ngọ. Theo một số nhà chiêm tinh Á
Châu đặc biệt là ở Hồng Kông thì năm Giáp Ngọ sẽ có nhiều biến động và
đầy bất trắc, tai tiếng, xung đột, bạo lực cho đến động đất … ở nhiều
nước châu Á.
Tuổi Ngọ được mô tả là con người phóng khoáng, nhanh nhẹn,
trung thực nhưng từ « Ngựa » lại gây không ít ngộ nhận cho người tuổi
ngựa kể cả trong thành ngữ …Những hình ảnh tuyệt đẹp con ngựa trong lịch sử Việt Nam, từ con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương hay sự hy sinh của các chiến mã của Bình Định Vương Lê Lợi có lẽ người Việt nào cũng biết . Nhưng trong cuộc sống hằng ngày tại sao từ Ngựa lại mang hai ý nghĩa lúc khen lúc mắng.
Thành ngữ « thẳng ruột ngựa » là đẹp hay xấu ? Bằng cách nào mà con ngựa Pháp cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng … đủng đỉnh đi vào đời sống và văn chương bình dân của Việt Nam ? Trong bài khảo luận « Ngựa… và Thẳng ruột ngựa », giáo sư Nguyễn Dư ở Lyon tìm cách trả lời các câu hỏi này.
RFI : Nhân đầu năm Giáp Ngọ, RFI, qua phần phỏng vấn sau đây, xin giới thiệu bài khảo luận vừa nghiêm túc vừa ý nhị của tác giả. Ngựa và… Thẳng ruột ngựa !
Nguyễn Dư : Ngựa không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày. Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi đừng nói nữa, ta thèm !
Tuy vậy, ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Thần thoại của ta có cậu bé làng Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười, trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu nước, bèn vươn vai hoá thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con ngựa sắt để đi dẹp giặc Ân. Giặc tan…
Áo nhung cởi lại Linh-san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình ảnh đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành động… như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ. Tấu lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần, Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa ngự trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me, hốc đá ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu quận. Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình, nội tạng của ngựa.
Xưa kia, ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến toà án), thì sẽ được biết cái vành móng ngựa. Vành bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt đóng dưới móng chân ngựa (fer à cheval). Bị can đứng trong vành nghe quan toà buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được dùng.
Mấy ông lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái mùa đông rét mướt, nhiều mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm. Cái màu xanh lá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như quần áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời tây cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng hiểu.
Một dạo, thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court). Mái tóc chỉ còn như cái móng chân (sabot) ngựa. Gọi là đầu móng ngựa.
Vào khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô cột mớ tóc thề thành cái đuôi ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê ly đời ta !
Bên cạnh ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng ngày, phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có con mang vẻ đẹp oai hùng :
- Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có con đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút :
- Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có con hay tự hào, tự tôn :
Ớ ! nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa? (Lục súc tranh công)
Ngựa khoe cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền. Không biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục. Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu rằng: «Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông» (Nhị độ mai)
(Khuyển mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa, mến chủ).
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để trả cho hết nợ).
Có con xả thân vì đại nghĩa :
- Năm 1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn … (Lam Sơn thực lục).
Có Con ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956) chết thảm thương.
Ngoài ra, bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không ? Ngựa cũng có vấn đề à?
Ta có thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng… khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay hoay tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn, điển tích nào có thành ngữ này.
- Tự vị Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
- Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
- Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
- Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành ngữ Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa là: Nghĩ thế nào thì nói ra như thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn, bộc trực.
Nói gọn lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa, ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng ta có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa (Hoàng Phê, thí dụ của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái không thẳng là một điều chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn lại hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin bàn về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ trước đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần : Thẳng / ruột ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một điều là… thẳng như cái không thẳng. Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ còn một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
- Chia cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa gì! Thẳng ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên ! Thẳng ruột / ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt Nam!
- Dạ, đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là tiếng Việt của người Việt !
1) Thẳng ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực trường nghĩa là : Ruột gan ngay thẳng. Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra ngay, tuồng như đại trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào Duy Anh).
Thực tế thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy Anh cũng nói rõ là tuồng như đại trường thẳng tuột.
Thẳng ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa bóng là ruột gan ngay thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói thẳng ra như thế, không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn đề thẳng như.
Mấy cách giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ giải nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất từ ngựa.
2) Ngựa của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa này không biết kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống cái) và Cavallo (giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ của tiếng Pháp như cavalerie (kị binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy ông đi tán gái), cavalière (được Việt hoá thành ca-ve, gái nhảy) v.v.
Vòng vo một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy em ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve bị biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa cái) được dùng để ám chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao lâu ngựa của tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta. Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào sách vở.
Tự vị Huỳnh Tịnh Của có câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng mắng).
Từ điển Génibrel có Nết ngựa : ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs légères, débauchée). Đĩ ngựa : đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các bà thời thượng trong Nam bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm 1931, Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa, kể chuyện đêm giao thừa, anh phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa người ám chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là anh phu kéo xe tay. Hai loại ngựa đặc sản của thời Pháp thuộc.
Rốt cuộc, Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói thật như gái điếm.
- Trời đất quỷ thần ơi ! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
- Còn lâu ! Thẳng ruột ngựa phải được « hiểu ngầm » theo một cách khác !
- Cách nào ? Đính chánh lẹ lên.
Trước khi trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người xưa có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn, nhất là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không có lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một cách nói châm biếm, hài hước, tương tự như Vè nói ngược :
Bong bóng thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng…
Ai không thích « giễu dở » thì nói : Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Người xưa quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay thật.
Nghe các em « giãi bày tâm sự » thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ bịnh, một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi gia đình. Em mới « đi » được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong nhã…
Anh nghe mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay bướm, lang bang phải coi chừng « ruột gan ngay thẳng… của ca-ve ». Chẳng khác gì người miền Nam ngày trước khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái điếm lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà. Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo lối nói châm biếm.
Thẳng ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba nền văn hoá Tàu, Tây và Ta. Ý nghĩa quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu sai.
- Tôi bấy giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi không bị hạn gì cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh hùng) (*).
- Anh Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng ruột ngựa nên anh sợ (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) (*).
Nhà văn muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người hiểu là anh cán bộ và cô Út đang bị chê.
Nói thẳng nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc rối quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết con Ngựa 2014)
(*) theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang.
Sunday, November 24, 2013
NGUYỄN SĨ NAM * THẰNG BÚA
Thằng Búa
Nguyễn Sĩ Nam
Thằng Búa có cái đầu tròn quay, to như quả mít, tóc mọc lởm chởm, thưa thớt như một ngọn đồi trọc khô nước. Cái đầu nó thật to muốn lấn át cả cái thân gầy xọm của nó. Ai nhìn vào nó phải thấy ngay cái đầu nó trước nhất, rồi mới đến bộ xương sườn gầy guộc ỏng bụng, kế đến mới tới đôi chân khẳng khiu như hai cây sậy. Thế mà nó cũng có thể bước đi vững vàng, chạy nhảy thoăn thoắt như con chim sẻ vậy. Trông thân hình nó chẳng khác nào một cái búa. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên cho nó là thằng Búa chăng, hay tại Mẹ nó đã khéo đặt tên cho nó ? Chẳng ai hay biết chuyện này cả.
Ngày đầu tiên bị tống vô phòng biệt giam ẩm mốc, những tù nhân khác chen lấn hai bên ép tôi đến chảy nước ra. Lúc này tôi lại đâm ra thù mấy ông tù nhân bên cạnh. Trong lúc nóng giận không dằn lòng được, tôi tung cánh chỏ bên trái thụi đại một phát cho đỡ tức, tức thì có một giọng nói sặc mùi oắt con lên tiếng cảnh cáo :
- Cẩn thận nghe cha ! Mới vô mà làm tàng, ông cho một búa đi đời nhà ma bây giờ !
Tôi giật mình thầm nghĩ, quái lạ tại sao giữa chốn gió tanh mưa máu này lại có một thằng nhỏ, mà cái giọng thằng nhỏ chứng tỏ nó không phải là một tay vừa. Tôi cố nuốt nước miếng dằn bụng cho đỡ nhục trong khi cái cổ khô ran không có một giọt nước. Tôi nhận thấy tình hình nơi đây không phải là chốn bình thường nữa rồi. Căn phòng nóng ran như cái lò thiêu. Mồ hôi thiên hạ nhễ nhại trào ra hòa lẫn với mồ hôi của tôi cũng vã ra như tắm bốc lên một mùi khét lẹt đến lợm giọng. Tôi cố chờ một lát cho con mắt làm quen được với bóng tối căn phòng để nhìn cho rõ mặt thằng oắt con nào hỗn xược. Thời gian chờ đợi này cũng hơi lâu. Bỗng có tiếng xì xầm ở góc tối bên kia :
Tôi biết mình có lỗi nên nín thinh. Đêm đó tôi cố tìm giấc ngủ nhưng không thể nào chợp mắt được. Cảnh tù nhân chen chúc nhau trong căn phòng nhỏ này như nêm cá hộp. Tôi hình dung khung cảnh nơi đây chẳng khác nào cảnh ở địa ngục A tì. Tôi cảm thấy mình nhuốm bệnh và bắt đầu lên cơn sốt dữ dội. Bên ngoài trời đêm đã xuống tự bao giờ. Thỉnh thoảng có tiếng phèng la ở ngoài vọng gác báo động như tiếng cú gọi hồn.
Suốt một đêm nằm rũ liệt, toàn thân bị ê ẩm như đã chịu đựng trăm ngàn vết roi, tôi cố nhướng con mắt dậy để tìm chút ánh sáng thì gặp ngay gương mặt thằng oắt con to chành vạnh, nhoẻn miệng cười phô bày cái nướu răng ra, chỉ còn vài cái răng mọc không đều làm kiểng, trông nó dị hợm hết sức. Nó cúi đầu sát vào mặt tôi giọng trìu mến :
- Sao, anh ngủ được không ?
Cơn giận đêm qua vẫn còn nặng trĩu trong lòng tôi nên tôi chẳng buồn trả lời nó. Thêm nữa, cái đầu nóng như thiêu như đốt, cải cổ khô ran, con mắt cứ muốn sụp xuống như đang đeo quả tạ nghìn cân, tôi đâu còn hơi để mà trả lời.
- Sao, anh còn nóng không ? Đêm hồi hôm em phải xức dầu cho anh đó. Nếu không chắc toi mạng rồi ! Quái lạ ! Cái miệng nó nói thật khó ngửi, có lẽ nó chưa súc miệng nhưng sao lời lẽ có vẻ thâm tình quá vậy ? Lúc bây giờ tôi mới nhận ra là có mùi dầu “cù là” phảng phất trên thân mình. Tôi thầm cảm ơn nó. Nó không có vẻ gì giống cái thằng đêm hồi hôm dọa nạt tôi :
- Đỡ đỡ rồi em. Cám ơn em. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ nó. Trong cái xôn xao náo động của một buổi sáng thức dậy trong tù, đám tù nhân bắt đầu nhao nhao như ong vỡ tổ. Mặc dù không nhúc nhích được một tấc nhưng mọi người đều cố tìm cách làm cho mình có một tư thế thoải mái được càng nhiều càng tốt. Trong lúc đó mùi phân trong cái thùng thiếc đặt ở một góc mà thiên hạ đang “đi” bay tỏa đều đặn khắp phòng khiến tôi phải bịt mũi liên tục. Đám tù nhân cũ trong phòng nhìn tôi cười sằng sặc như chế diễu…
Bỗng có tiếng lách cách như mở cửa, rồi một thằng cai tù ốm nhỏ cặp kè khẩu AK trên tay tiến vào, một thằng khác đứng canh ở bên ngoài. Thằng bên trong tiến lại mở cùm chân cho thằng oắt con bên cạnh tôi rồi ra lệnh trọ trẹ :
Dậy đi lấy nước mày. Số còn lại ngồi im nghe chưa ?
Thằng nhỏ trần trùi trụi đầy ghẻ lở khắp mình đứng phóc dậy một cách quen thuộc. Nó chỉ mặc có một cái quần đùi rách đít. Chờ cho thằng cai tù bước ra ngoài, nó kề miệng vào sát tai tôi nói nhỏ :
- Để em đi lấy nước sôi cho anh rửa mặt !
Nói xong nó phóng theo thằng cai tù để nhập với đám tù khác đi khiêng nước. Tôi lật đật xí chổ trống còn lại của nó để ngã cái lưng xuống nằm một tí cho khỏe. Lúc đó tôi mới để ý thấy có một ông già nằm bên cạnh nó, đêm qua hai người nói chuyện có vẻ tương đắc lắm, ý chừng hai cha con, tôi nghĩ vậy. Ông già nhìn tôi mỉm cười làm quen. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi nhỏm dậy chào ông già :
- Con của Bác đó hả ?
- Con với cái gì. Nó ở tù còn lâu hơn cái thân gìa này nữa, có điều thấy nó tội nghiệp nên già cũng nhận đại nó làm con cho đỡ buồn. Ông già nói xong, tìm cái mủng dừa còn sạch chia cho tôi một nhúm trà khô để có tí nhâm nhi buổi sáng.
Trong khi chờ thằng oắt con trở lại, tôi tò mò hỏi ông già lý do tại sao nó có mặt nơi đây, ông già buông một câu gọn lỏn :
- Nó giết người !
- Trời ơi ! Nó giết người !?
Tôi há mồm thật to ngạc nhiên hỏi.
- Ừ ! Thiệt chớ giỡn sao !
Lúc đó không ai bảo ai, bọn tù nhân đều quay về phía ông già như chờ đợi những tin sốt dẻo khác nhưng ông vẫn lặng thinh sờ vào mông gãi soàn soạt. Khi đó tôi mới có dịp nhìn tấm thân trần trụi của ông già đúng là một tấm bia ghẻ. Ghẻ mọc từ trên đầu xuống tới chân lộ ra một màu tím thẩm pha lẫn màu máu khô, mủ vàng xì ra ướt nhẹp. Thiên hạ vẫn không để ý đến chuyện đó mà vẫn tiếp tục hỏi ông già về chuyện giết người của thằng nhỏ nhưng ông già lắc đầu trả lời :
- Ai muốn biết cứ hỏi nó !
Bấy giờ, tôi không còn tin miệng lưỡi của thằng nhỏ nữa rồi. Nếu tôi
đoán không nhầm thì nó trạc chừng 11 hay 12 tuổi là cùng, miệng còn hôi
sữa làm sao nó có thể giết người được ? Nhưng chẳng lẽ ông già nói xạo,
kết án hàm hồ một thằng nhỏ mà ông đã coi nó như con. Còn nếu nó giết
người thật thì nó giết ai ? Bao nhiêu câu hỏi cứ quay vòng vòng như vụ
trong đầu tôi càng khiến tôi mất tin tưởng ở thằng nhỏ. Có lẽ nó là một
thằng cực kỳ nguy hiểm không chừng. Tôi nhớ lại lời dọa nạt của nó hồi
hôm mà ớn lạnh. Trong khi đó, ở một góc tối của phòng giam, mấy người
nào đó xì sầm cho là ông già nói xạo !
Bỗng có tiếng xôn xao ở bên ngoài, thì ra bọn tù khiêng nước nóng đã về.
Tôi cũng đoán chừng vậy thôi vì nghe tiếng lanh canh của cái thùng chớ
chẳng có chỗ trống nào để mà thấy. Chỉ có một cái lỗ nhỏ như lỗ tò vò
thì đã bị thiên hạ dành mất chỗ thở rồi. Tôi cứ nghĩ là mình bất ngờ
chết quách một cái là xong, khỏi phải nghĩ ngợi lung tung vô ích. Còn
ông già như đã quen với bầu không khí này rồi nên bắt đầu lục trong giỏ
xách ra một cái muỗng nhỏ và một gói đường đen như cứt ngựa, sau đó ông
bốc một nhúm nhỏ chia cho tôi.
Cuối cùng thằng oắt con cũng chui được vô phòng với một lon Ghi-gô đựng
nước sôi, vừa đi vừa hô “nước sôi, nước sôi” khiến mọi người tìm cách
dạt ra một bên cho nó đi. Cái miệng nó chu ra thổi phù phù cho nước
nguội bớt trông thật vô duyên hết sức. Lúc đó thằng cai tù bắt đầu cho
từng tù nhân ra ngoài lấy nước rửa mặt, tôi để ý thấy chẳng có người nào
nhỏ như nó. Một già, một trẻ, một trung niên là tôi giống như ba cha
con ngồi xúm lại một góc nhâm nhi uống nước trà trông có vẻ đế vương hơn
những tù nhân khác. Thằng oắt con luôn luôn o bế tôi khiến tôi thấy đỡ
cô đơn đôi chút.
Chợt một hồi kẻng dài vang lên, ông già cho biết đã đến giờ lao động.
Ông chỉ tay vào góc phòng, nơi “tọa lạc” của cái thùng thiếc đầy phân
của đám tù nhân khốn khổ lúc nào cũng sẵn sàng tỏa ra một mùi hôi thối
không chịu được như ngầm ám chỉ đó là công tác “Xã hội chủ nghĩa” đầu
tiên. Đám tù nhân cũ cử ra hai người trực cái “lò hơi” này mỗi ngày và
luân phiên xoay vần trong số người của họ. Tôi lấy làm lạ hỏi ông già
tại sao những thằng tù nhân mới như tôi lại không được phân công kế tiếp
thì được ông già giải thích là không dễ gì được cái “vinh dự” ấy.
Người
nào được cái “vinh dự” khiêng phân đi đổ mỗi sáng phải là người có
thành tích tốt, tiêu biểu cho thành phần tù nhân tiên tiến của cách mạng
“XHCN” hoặc là phải ở lâu trong tù. Lý do thật dễ hiểu là vì mỗi lần tù
nhân nào được khiêng phân ra ngoài đi đổ đều có một cơ hội hiếm hoi
bằng vàng để hít thở chút không khí trong lành của buổi sáng mai, có một
khoảng đường dài để vận động gân cốt, có một chút khoảng trống để tập
thể dục bất đắc dĩ và nhất là được ngắm lén những “người đẹp” cùng chung
số phận ở dãy phía bên kia.
Thời gian cứ nặng nề trôi qua. Tù nhân cũ mới gì không cần biết điều bất
thần bị gọi lên “làm việc” với bọn quản giáo. Nhiều người được gọi ban
ngày, có kẻ bị lôi xềnh xệch vào ban đêm với những cú đánh hộc máu mồm
bằng báng súng trước giờ “tẩm quất”. Hầu hết tù nhân đều trở về phòng
với tấm thân rũ liệt, rướm máu, cong gập người lại như thân cây chuối bị
bổ ngang, nằm bò lê bò càng giữa căn phòng ẩm mốc, xám xịt. Riêng thằng
oắt con vì tội trạng rành rành nên bọn quản giáo ít gọi lên. Thay vào
đó, chúng bắt thằng nhỏ lao động đến hụt hơi, bắt làm đủ mọi việc không
kể nặng nhẹ như khiêng phân đi đổ, gánh nước đổ vào phuy cho bọn chúng
tắm, trồng rau muống cho vịt ăn, quét nhà, lau chùi cống xí cho tụi nó,
đánh bóng xe đạp v.v… trông chẳng khác nào một tên đầy tớ. Lòng tôi đau
như cắt !
Một bữa nọ, trong khi tôi với ông già chờ nó về để cùng chia bo bo bữa
ăn chiều thì bỗng một tù nhân hớt hơ, hớt hãi chạy vào cho biết là nó
vừa bị mấy thằng quản giáo đánh cho một trận nhừ tử, đang nằm bất động ở
trên nhà ăn. Một nhân chứng phụ trách về ẩm thực sau đó về lại phòng có
cho hay là trong lúc nấu cháo heo cho lũ cán bộ, thằng Búa đã không dằn
được cơn đói xé lòng nên đã múc một chén cháo nóng hổi húp chùn chụt
trước khi bỏ rau vào.
Vô phúc cho nó, một thằng quản giáo đi lớ ngớ
xuống thấy nên đã tát cho nó một cái tát nẩy lửa, tô cháo rơi xuống đất
bể tan tành. Vốn tánh nóng, sẵn cái dao phay thái rau trên bàn, thằng
Búa nhảy bổ tới cầm lấy con dao đâm cho thằng quản giáo một phát nhưng
bị hụt, thành ra cả đám cán bộ nghe tiếng kêu cứu của đồng bọn vội chạy
vào “bề” cho nó một trận đòn hội chợ chí tử! Những tù nhân đứng gần đó
sợ xanh mặt không ai dám vào can. Tôi và ông già lật đật chạy về phía
hàng rào trố mắt nhìn qua dãy nhà bếp thì thấy một khối thịt nằm lù lù ở
đó. Ông già tức giận chửi thề bên tai tôi :
- Tiên sư nhà tụi nó. Ác độc cũng vừa thôi chứ, nhè con nít mà ăn hiếp !
Người tù nhân khác đứng bên cạnh tiếp :
- Tôi phục thằng Búa sát đất. Nó nhỏ mà gan ! Không có ai ở đây dám chọc giận mấy thằng khốn đó !
Ông già tỏ vẻ hiểu biết :
- Gan là cái chắc. Tôi có coi sơ cái bàn tay nó chẳng giống ai. Tay gì mà đường trí đạo với tâm đạo trùng vào nhau thành một. Trên bàn tay nó chỉ có hai đường. Thảo nào nó nghĩ đâu thì làm đó. Hôm nọ thằng Bảy Công đang lên đồng múa võ thần quyền cho mọi người xem thì bị nó nhảy vào phía sau đâm cho một phát vô lưng, may nó nhảy ra kịp, không thì bị quật chết tươi rồi. Thiệt tội cho nó !
Tối hôm đó, thằng nhỏ được mấy bạn tù nhân khiêng về bỏ giữa phòng lạnh như cắt da để nhờ mấy bạn tù nhân bác sĩ chạy chữa. Nhờ mọi người trong phòng ai cũng thương nó một thân côi cút không người thăm nom nên đã hết sức xoa dầu, đấm bóp, hô hấp liên tục. Nhờ đó mà tỉnh lại. Nhìn những vết u bầm tím sưng vù trên trán, trên mặt, trên ngực, trên lưng nó với những dòng máu đỏ chảy nhòe ra từ mũi và miệng nó, tự nhiên tôi không ngăn được giọt nước mắt đang lăn dài trên đôi má.
Nửa tháng sau, vào một đêm nọ trời mưa tầm tã, trong lúc các bạn tù nhân phơi thân nằm la liệt trên sàn đất cố đổ giấc ngủ sau những ngày bị tra tấn, thẩm vấn liên tục đến căng não ra thì thằng Búa tự dưng trườn lên mình tôi tỉ tê :
- Anh Hai, anh có ghét em không ?
Tôi lấy làm lạ hỏi :
- Không ! Mắc gì mà ghét em ?
Ngập ngừng một lúc nó nói :
- Tại bữa đầu anh mới vô, em đã vô lễ với anh !
Tôi trực nhớ lại câu chuyện sáu tháng về trước và chợt thấy thương nó vô hạn. Tôi vội trả lời :
- Không ! Đó là lỗi của anh. Em không có lỗi gì cả !
Nói xong, tôi đưa tay xoa cái đầu tròn lẳng của nó, lòng tràn ngập tình thương chẳng khác nào tôi thương thằng em ruột của tôi còn ở ngoài quê.
Nhìn lên trần nhà giam, cái đèn tù mù như hết muốn sáng cũng còn cố soi rõ cái cảnh âm u như địa ngục a tì của một tối mùa đông. Gió lạnh từ bên ngoài nện sầm sập vào cánh cửa như muốn giải thoát đám tù nhân khốn khổ.
- Tiên sư nhà tụi nó. Ác độc cũng vừa thôi chứ, nhè con nít mà ăn hiếp !
Người tù nhân khác đứng bên cạnh tiếp :
- Tôi phục thằng Búa sát đất. Nó nhỏ mà gan ! Không có ai ở đây dám chọc giận mấy thằng khốn đó !
Ông già tỏ vẻ hiểu biết :
- Gan là cái chắc. Tôi có coi sơ cái bàn tay nó chẳng giống ai. Tay gì mà đường trí đạo với tâm đạo trùng vào nhau thành một. Trên bàn tay nó chỉ có hai đường. Thảo nào nó nghĩ đâu thì làm đó. Hôm nọ thằng Bảy Công đang lên đồng múa võ thần quyền cho mọi người xem thì bị nó nhảy vào phía sau đâm cho một phát vô lưng, may nó nhảy ra kịp, không thì bị quật chết tươi rồi. Thiệt tội cho nó !
Tối hôm đó, thằng nhỏ được mấy bạn tù nhân khiêng về bỏ giữa phòng lạnh như cắt da để nhờ mấy bạn tù nhân bác sĩ chạy chữa. Nhờ mọi người trong phòng ai cũng thương nó một thân côi cút không người thăm nom nên đã hết sức xoa dầu, đấm bóp, hô hấp liên tục. Nhờ đó mà tỉnh lại. Nhìn những vết u bầm tím sưng vù trên trán, trên mặt, trên ngực, trên lưng nó với những dòng máu đỏ chảy nhòe ra từ mũi và miệng nó, tự nhiên tôi không ngăn được giọt nước mắt đang lăn dài trên đôi má.
Nửa tháng sau, vào một đêm nọ trời mưa tầm tã, trong lúc các bạn tù nhân phơi thân nằm la liệt trên sàn đất cố đổ giấc ngủ sau những ngày bị tra tấn, thẩm vấn liên tục đến căng não ra thì thằng Búa tự dưng trườn lên mình tôi tỉ tê :
- Anh Hai, anh có ghét em không ?
Tôi lấy làm lạ hỏi :
- Không ! Mắc gì mà ghét em ?
Ngập ngừng một lúc nó nói :
- Tại bữa đầu anh mới vô, em đã vô lễ với anh !
Tôi trực nhớ lại câu chuyện sáu tháng về trước và chợt thấy thương nó vô hạn. Tôi vội trả lời :
- Không ! Đó là lỗi của anh. Em không có lỗi gì cả !
Nói xong, tôi đưa tay xoa cái đầu tròn lẳng của nó, lòng tràn ngập tình thương chẳng khác nào tôi thương thằng em ruột của tôi còn ở ngoài quê.
Nhìn lên trần nhà giam, cái đèn tù mù như hết muốn sáng cũng còn cố soi rõ cái cảnh âm u như địa ngục a tì của một tối mùa đông. Gió lạnh từ bên ngoài nện sầm sập vào cánh cửa như muốn giải thoát đám tù nhân khốn khổ.
Những giọt nước mưa buốt giá thỉnh thoảng len vào khe cửa, hắt lên
mặt tôi gây một cảm giác vừa đê mê vừa dễ chịu. Tôi nằm yên đưa lưỡi
liếm những giọt nước đang đọng trên vành môi. Mấy con chuột chù ở trên
trần nhà bắt đầu bám vào mấy sợi dây treo các bịch đồ ăn của tù nhân để
kiếm ăn bữa tối. Lúc này thiên hạ ngủ hết nên không ai buồn đuổi chúng
nữa.
Nhìn gương mặt thơ ngây, non choẹt và vàng vọt của thằng Búa, tôi chợt nghĩ chắc nó có điều gì muốn nói với tôi đêm nay. Tự nhiên tôi thốt ra :
- Búa ! Anh cám ơn em. Em đã giúp cho anh nhiều quá !
Hình ảnh thằng Búa thay tôi để đi khiêng phân mỗi lần đến phiên trực khiến tôi tự hổ thẹn với nó. Tôi xưa nay vốn không quen ở chỗ hôi thối nên rất ngại đi khiêng phân. Cứ mỗi lần tới phiên trực của tôi, thằng Búa biết trước nên tình nguyện đi làm thế cho tôi. Ơn ấy tôi không bao giờ quên.
Nó ngày càng sa sút thấy rõ,
thân ốm o gầy mòn đến trơ xương ra như tàu lá chuối khô. Tôi với ông
già lúc nào có đồ tiếp tế cũng đều chia sớt cho nó những phần ngon nhất
nhưng những hành hạ khắc nghiệt của bọn cai tù không thể nào kéo sức
khỏe nó trở lại bình thường được.Nhìn gương mặt thơ ngây, non choẹt và vàng vọt của thằng Búa, tôi chợt nghĩ chắc nó có điều gì muốn nói với tôi đêm nay. Tự nhiên tôi thốt ra :
- Búa ! Anh cám ơn em. Em đã giúp cho anh nhiều quá !
Hình ảnh thằng Búa thay tôi để đi khiêng phân mỗi lần đến phiên trực khiến tôi tự hổ thẹn với nó. Tôi xưa nay vốn không quen ở chỗ hôi thối nên rất ngại đi khiêng phân. Cứ mỗi lần tới phiên trực của tôi, thằng Búa biết trước nên tình nguyện đi làm thế cho tôi. Ơn ấy tôi không bao giờ quên.
Thấy cái đầu nóng ran của nó cứ rúc rúc vào ngực tôi như con mèo con tìm vú mẹ, tôi thương hại hỏi nó :
- Búa ! Em có điều gì muốn nói với anh ?
- Dạ có ! Anh cho phép em mới nói.
Nó ngóc đầu dậy trả lời. Rồi không đợi tôi cho phép, nó bắt đầu câu chuyện một cách thật bình tĩnh :
- Anh Hai ! Em đã phạm tội giết người !
- Hả ? Em giết người ? Tôi đã biết trước mà vẫn không khỏi thắc mắc. Như không cần để ý đến câu hỏi của tôi, nó tiếp với giọng vừa đủ tôi nghe :
- Hồi trước nhà em ở miệt vườn. Nhà em nghèo lắm. Ba em là lính Nghĩa quân, Mẹ em cày cấy nuôi em nhưng cả hai đều cố cho em ăn học. Đùng một cái tụi giặc Cộng vô đây sát hại ba em, tịch thu luôn cả mảnh ruộng nhỏ bằng cái sân, bắt mẹ em vô làm tập thể gì đó mà không có lấy một hột gạo ăn.
Mẹ em đành gửi em đi chăn trâu nhờ ở nhà một người chú. Tiếng là
trâu của chú chớ tụi nó cũng ăn giựt luôn. Thế là em bỏ học. Hàng ngày
em đưa trâu lên phía Rạch Dừa cho trâu ăn. Cánh đồng này nằm gần đường
lên trường làng. Bực một cái là bọn con cán ngố đi học ngang đây ngày
nào cũng mắng nhiếc em là thằng con lũ ngụy. Em tức quá không biết làm
sao nên thủ sẵn một con dao.
Một bữa nọ, tụi nó kéo nhau cả bọn đến gây
sự với em, cũng mắng nhiếc em là thằng con lũ ngụy. Sau đó nó nhổ phẹt
một miếng nước bọt vào mặt em. Trong lúc tức quá, em rút con dao nhỏ
xông tới đâm một thằng thấu tim, máu chảy ào ào, bọn còn lại bỏ chạy tứ
tung. Từ đó em bị bắt, tính đến nay đã hơn năm năm rồi mà chẳng biết tụi
nó sẽ làm gì. Em xin lỗi anh, em đã giết người ! Em đã giết chết một
thằng Cộng con. Ít ra em cũng đã trả thù được cho ba em. Em thà chết,
quyết không chịu nhục ! Xin anh hiểu và tha thứ cho em !
Nói xong chừng như mệt quá, thằng Búa ho hộc hộc mấy cái rồi nằm úp mặt lên ngực tôi đầm đìa nước mắt. Tôi quá xúc động, khâm phục và thở dài. Thế mà trước đây tôi cứ nghĩ nó là một thằng ác nhơn, ác đức, giết người chả ra chi. Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy mình thua nó xa quá ! Tôi bỗng đâm ra thương cái tuổi trẻ khốn khổ của quê hương mình. Thấy nó hối hận, tôi vội hỏi nó :
- Búa ! Ngày mai tụi nó cho anh đi lao động ở Bầu Trũng. Em có cần nhắn ai gì không ?
Thằng Búa như mừng rỡ, ngóc cái đầu dậy, gượng cười nói :
- Vậy hả ? Em nhờ anh một chuyện. Ngày mai là ngày sinh nhật của em, nếu anh có tiện thì mua cho em vài thỏi kẹo. Em thèm kẹo quá mà không có tiền mua. Với lại anh tìm cách nhắn về cho mẹ em biết là em vẫn khỏe. Được không anh ?…
Tôi muốn bật khóc, vội ôm nó vào lòng, thầm hứa sẽ cùng với ông già tổ chức một bữa tiệc vui mừng sinh nhật nó. Tôi và nó ôm nhau ngủ suốt đêm.
Sáng hôm sau, bọn cai tù lùa một đám tù nhân lam lũ xách cuốc, xẻng vác ra Bầu Trũng lao động trong đó có tôi. Thằng Búa hình như bệnh tình càng nặng hơn nằm thiêm thiếp ở một góc. Tôi lật đật giao chai dầu gió xanh lại cho ông già nuôi để xoa đỡ cho nó. Mặc vội cái áo rách tơi tả, chụp cái nón lá lên đầu, tôi hôn nó một cái rồi lật đật bước theo các bạn tù. Ngày hôm đó, nhân lúc ghé một quán nước nghỉ để mua ít kẹo cho thằng Búa, tôi xin phép thằng cai tù đi tiểu ở phía sau rồi vượt thoát luôn.
Nói xong chừng như mệt quá, thằng Búa ho hộc hộc mấy cái rồi nằm úp mặt lên ngực tôi đầm đìa nước mắt. Tôi quá xúc động, khâm phục và thở dài. Thế mà trước đây tôi cứ nghĩ nó là một thằng ác nhơn, ác đức, giết người chả ra chi. Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy mình thua nó xa quá ! Tôi bỗng đâm ra thương cái tuổi trẻ khốn khổ của quê hương mình. Thấy nó hối hận, tôi vội hỏi nó :
- Búa ! Ngày mai tụi nó cho anh đi lao động ở Bầu Trũng. Em có cần nhắn ai gì không ?
Thằng Búa như mừng rỡ, ngóc cái đầu dậy, gượng cười nói :
- Vậy hả ? Em nhờ anh một chuyện. Ngày mai là ngày sinh nhật của em, nếu anh có tiện thì mua cho em vài thỏi kẹo. Em thèm kẹo quá mà không có tiền mua. Với lại anh tìm cách nhắn về cho mẹ em biết là em vẫn khỏe. Được không anh ?…
Tôi muốn bật khóc, vội ôm nó vào lòng, thầm hứa sẽ cùng với ông già tổ chức một bữa tiệc vui mừng sinh nhật nó. Tôi và nó ôm nhau ngủ suốt đêm.
Sáng hôm sau, bọn cai tù lùa một đám tù nhân lam lũ xách cuốc, xẻng vác ra Bầu Trũng lao động trong đó có tôi. Thằng Búa hình như bệnh tình càng nặng hơn nằm thiêm thiếp ở một góc. Tôi lật đật giao chai dầu gió xanh lại cho ông già nuôi để xoa đỡ cho nó. Mặc vội cái áo rách tơi tả, chụp cái nón lá lên đầu, tôi hôn nó một cái rồi lật đật bước theo các bạn tù. Ngày hôm đó, nhân lúc ghé một quán nước nghỉ để mua ít kẹo cho thằng Búa, tôi xin phép thằng cai tù đi tiểu ở phía sau rồi vượt thoát luôn.
May mắn thay, chuyến vượt ngục thành công. Ngày hôm sau, tôi về lại căn nhà trọ ở Ngã Ba Ông Tạ, trong túi còn rủng rỉnh mấy bịch kẹo ngọt. Chưa biết gởi xuống cho thằng Búa bằng cách nào, cũng không biết nó còn sống hay đã chết !?
Nguyễn Sĩ Nam
_____________
Nguyễn Sĩ Nam là bút hiệu của một cựu Sinh viên QGHC, khóa Đốc Sự 17.
ĐẶNG ĐÌNH TUÂN * BÌNH MINH VỚI HOÀNG HÔN
Bình Minh Với Hoàng Hôn | |
---|---|
Đặng Đình Tuân Trong một bữa tiệc ở ngoài trời, lúc mọi người đang vừa ăn vừa trầm trồ nhìn ngắm cảnh mặt trời lặn, chợt có người hỏi tôi giữa bình minh và hoàng hôn tôi chọn cái nào. Không đắn đo, tôi trả lời:
-
Làm sao lựa chọn được. Bình minh và hoàng hôn là hai hiện tượng thiên
nhiên, trái ngược nhau, lại bổ-túc cho nhau. Không có bình minh thì
không có hoàng hôn… Xin lỗi, tôi không thể tách ra chọn riêng được.
Nhưng nếu ông muốn biết tôi thích cái nào thì không đắn đo mà trả lời ngay là tôi thích bình minh hơn.
- Buổi sáng chắc anh thức dậy sớm lắm nhỉ?
-
Rất họa hoằn. Đúng ra thì rất hiếm. Khi tôi ra khỏi nhà trời đã sáng
trưng và buổi sáng đã đi được nửa đường rồi. Tại sao ông đoán chắc vậy?
-
Tôi nghĩ người thích bình minh thì phải thích sự yên tĩnh, thích không
khí trong lành, thích cái tịch mịch, thích cảm giác cô-độc của buổi
sáng, thích hướng vào nội tâm và thích thơ thẩn. Muốn được thế thì phải
dậy sớm...
- Những điều đó với tôi không có và không còn nữa.
- Ủa, nghe sao mâu-thuẫn. Nếu có thì mới còn chứ.
-
Tôi yêu không khí trong lành. Nhưng không chịu được cảm giác cô độc.
Tôi thích đi thơ thẩn nhưng sợ cái tịch mịch. Thỉnh thoảng nội tâm có
hứng khởi nhưng không bao giờ ghi xuống thành thơ được. Hơn nữa, tôi luôn luôn tìm đủ mọi lý do để buổi sáng được ngủ nướng thêm.
- Phức tạp, khó hiểu.
-
Tôi không làm cho ông lầm lẫn đâu. Tôi nói đúng sự thật, đúng ý nghĩ
chân thành của tôi đó thôi. Nhưng mà này, ông đã làm tôi nhớ lại được
nhiều chuyện. Nếu ông cho phép, mình ra góc kia ít người, tôi sẽ giải
thích rõ ràng hơn. Không làm nhàm tai ông đâu.
Hai
người mang ly rượu đến góc vườn, xa hẳn mọi người. Chỗ này có sẵn bàn
và ghế nhựa, đặt núp trong bóng mấy cây tùng. Nhìn ra trước mặt, những
ngọn đồi và thung lũng trùng trùng chạy dài xuống, thấp dần về phía
chân trời.
Thành phố nhộn nhịp ồn ào nằm gọn trong thung lũng dưới kia. Những mái nhà chọc trời, với ánh đèn lấp lánh, nhấp nhô chen lẫn với những đỉnh đồi. Mặt trời bây giờ đã trốn gần kín sau đỉnh đồi thấp dưới kia. Ánh sáng dịu hẳn đi. Trên không những gợn mây mỏng giăng vướng rải rác khắp nơi đã đổi mầu sang vừa vàng cam vừa đỏ huyết dụ lóng lánh rực rỡ trong vòm trời xanh. Vài cái sao hôm đã đến, lấp lánh xa thăm thẳm. Hơi ấm ban ngày đã nhường chỗ cho những làn gió chiều gây gây mát. Sương sớm buổi tối đang kéo đến ôm ấp, che chở những cành cây những ngọn cỏ là đà rồi tỏa rộng ra hơn như một tấm chăn ấp ủ, phủ kín, để đưa những thung lũng kia vào giấc ngủ.
Căn
nhà nằm trên một đỉnh đồi cao, nên ai cũng nhìn thấy cảnh hoàng hôn
đến, không xót một chi tiết nhỏ. Chủ nhà nói khi nào sương mù lên tới
đây thì trời mới tối hẳn và cũng hãnh diện cho biết họ đã được cả những
cụm mây sáng đến vuốt ve mơn trớn.
- Như mình đang chiêm ngưỡng một bức tranh vẽ.
- Ðẹp quá nhỉ!
Người bạn nâng ly rượu đỏ lên xin được chạm ly, rồi vừa trầm trồ ngắm cảnh vừa nhấp môi uống vừa có vẻ kiên nhẫn chờ đợi.
-
Nhiều năm trước đây đời sống của tôi đã phải gắn bó với bình minh.
Không tự ý, không lựa chọn. Khi bị đặt trên một con tàu, bị đuổi ra giữa
đại dương hoang vắng, đi tới đi lui rồi chờ ngày về bến...
- À, thì ra anh làm nghề biển.
Tôi không giữ được bật lên cười nhưng khi thấy mặt người bạn có vẻ ngơ ngác tôi phải ngừng ngay.
-Gần
như thế, nhưng chưa tự tay bắt cá bao giờ, mà chỉ đi xin hoặc mua
thôi. Tôi đã là lính hải quân. Và hải quân đã cho tôi cơ hội đặt chân
lên nhiều chỗ mới lạ mà có lẽ không bao giờ tự ý tôi muốn đến. Từ đại
dương thăm thẳm đến sông ngòi sình lầy hoang vu...
-Tôi hiểu rồi ! Ði biển thì được nhìn bình minh hoài.
-
Ðúng, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Ông biết không, sau những buổi tối
cô độc vô tận ở giữa trời và nước mênh mông, bình minh báo hiệu ngày
sum họp với người thân sắp đến. Sau những đêm tăm tối dài dằng dặc
không ngủ đi phục kích và bắn giết ở Năm Căn, Ðồng Tháp Mười, Cửa Cạn,
nơi mà chỉ có bẫy rập, sình lầy với muỗi mòng, bình minh là hy vọng
mình còn sống sót. Sau những đêm nằm rạp mình tránh đạn pháo kích liên
tục nổ dồn trên đầu, bên tai, kinh hoàng và khiếp đảm ở Mộc Hóa, ở
Tuyên Nhơn, thấy bình minh đến mới biết mình còn có cơ hội phục hồi.
Mắt tôi đã được nhìn, tay tôi đã vuốt ve, miệng tôi đã phải cầu nguyện
cho nhiều người. Họ đã cố níu kéo, cố chờ đợi mãi mà vẫn không bao giờ
thấy bình minh trở lại thêm một lần nữa.
Tôi
nhớ nhất là những lần ở vùng biển ngoài Cửa Cạn Phú Quốc, Vũng Tàu,
Phan Thiết, ở vùng đảo nhỏ cạnh Qui Nhơn, Ðà Nẵng và cả Thuận An. Lênh
đênh trên chiếc tàu nhỏ thả nhấp nhô theo những lượn sóng. Vừa ngồi chờ
sáng. Vừa lẳng lặng làm việc vừa chăm chú quan sát. Bên ngoài
con tàu, tất cả chìm đắm trong bóng tối xâu thẳm… Vũ trụ bao la mà mình
thì quá nhỏ nhoi yếu đuối... Rồi đột nhiên thấy những thuyền đánh cá
từ ngoài khơi tăm tối lũ lượt xuất hiện, kéo nhau trở về bến. Ðèn đuốc
của làng nhỏ ở ven biển trơ trọi nghèo nàn chợt bừng sáng lên chào đón.
Tối tăm tự nhiên tan biến. Tiếng người cười nói vỡ ra oang oang mừng
rỡ. Tiếng trẻ thơ trong trẻo hân hoan cười đùa, gọi nhau vang vọng ra.
Và khói lam nấu bếp bắt đầu tỏa lên từ khắp mọi mái nhà.
Tôi
đã được chứng kiến sự phục sinh. Sự biến đổi từ địa ngục ra thiên
đàng. Sự thua chạy của ma quỷ. Sự khác biệt giữa đêm và ngày. Tôi đã
thấy mặt trời mang những ngày mới tinh khôi đi đến. Cùng với hào quang
rực rỡ, với lễ lạc, với tiếng ca hát xưng tụng tưng bừng. Người, cảnh
và áng sáng hòa hợp như trong buổi đại lễ tín ngưỡng quan trọng. Ðêm
thì lẫn lộn, nhập nhằng, tàn ác. Nhưng ngày lại minh bạch, linh động và
hiền hòa.
Không thể diễn tả được hết cái sống động của những hình ảnh đó.
Tôi
đã hiểu ra được đây mới thực là sự sống. Ðây mới đúng là phép nhiệm
mầu, là sự ra đời của đứa trẻ thơ, là bình minh mà tôi chờ đợi, tìm tòi
và yêu thương. Con người nhỏ bé đơn sơ ở đây đã hăm hở đón nhận và vinh
danh ánh sáng cùng với sự sống. Bình minh này mang đến ý nghĩ ham muốn
và tranh đấu. Bình minh này mang cứu rỗi đến cho linh hồn và máu tươi
hâm nóng cho cơ thể.
Ngay
khi đó hình như nguồn sống mới đã tràn đến, thấm vào, rồi làm cơ thể
tôi đổi mới. Tự nhiên tôi không còn có cảm giác lạc lõng, chán chường,
thiếu ngủ nữa. Tinh thần và xác thịt biến đổi hoàn toàn sang trạng thái
háo hức chờ đợi và sẵn sàng đón tiếp bất cứ biến cố gì sắp xẩy đến.
Không
biết tôi có muốn trở lại sống trong những bình minh đó nữa hay không.
Nhưng chỉ cần nhớ đến những hình ảnh đó không thôi thì máu nóng lại
bừng bừng chẩy.
Từ
ngày rời bỏ quê hương lưu lạc đến đây, tôi đã trải qua nhiều bình minh
khác. Buổi sáng trời vẫn còn tối đã phải leo lên xe buýt. Bình minh
đến lúc xe đang chở tôi đến chỗ làm và còn ngái ngủ. Những bình minh
này trái ngược hẳn, chỉ mang đến chua xót, bon chen và nuối tiếc.
Chưa có cảnh bình minh nào đẹp, kích thích và cảm động như bình minh ở quê hương nghèo khổ của mình… Tôi quá chủ quan phải không? Tuy nhiên mỗi ngày trôi qua, tuổi chất đống thì ngày mới tinh ở đâu đó đối với tôi cũng là bình minh quý hóa. Thêm một ngày mới, thêm những cảm giác và kinh nghiệm lạ cho cuộc đời. Thêm một lần được kiểm chứng và áp dụng lại những kinh nghiệm cũ. Tôi hãnh diện vì còn sống sót cho nên sẽ phải làm thế nào cho những ngày sống mới đầy đủ trọn vẹn hơn. Tôi không ngồi yên chờ đợi nữa mà hân hoan tích cực đón nhận. Vừa để hưởng thụ vừa để làm cho những bình minh chót của cuộc đời phong phú hơn...
Mải mê kể lể tôi không biết người bạn đã bỏ đi từ lúc nào. Rời đi không lời thông báo. Ly rượu cạn không còn
một giọt. Ông ấy có thể đã nghĩ tôi nếu không say thì điên. Thế nào
chăng nữa điều đó không làm tôi bận tâm. Say giữa hoàng hôn mà vẫn tỉnh
táo nói chuyện về bình minh. Tôi đang tận hưởng hoàng hôn hiện tại
nhưng tinh thần đã háo hức sẵn sàng chờ đón bình minh mới của cuộc đời.
Tôi phải cám ơn người bạn đó đã gợi cho tôi cơ hội để nói riêng cho
mình tôi nghe, để biết mình muốn gì…
|
PHAN XUÂN SINH * CĂN NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ
CĂN NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ
PHAN XUÂN SINH
Anh sống với vợ chừng hơn bốn năm, được hai mặt con thì Miền Nam bị mất. Anh học tập theo diện Sĩ quan cải tạo. Vợ phải ra sức nuôi con, không còn trông vào những đồng lương của anh như lúc trước. Chị chạy ngược chạy xuôi, buôn tảo bán tần để kiếm tiền nuôi con còn thơ dại. Hai đứa con lúc đó còn quá nhỏ, nhưng vì không thể gửi cho ai được, mà bồng bế theo thì rất trở ngại. Thuê người giữ thì không có tiền trả, vì vậy chị cứ để hai đứa nhỏ ở nhà một mình, nhờ mấy bà già hàng xóm thỉnh thoảng qua lại coi chừng giùm. Hàng xóm cũng thương cho hoàn cảnh mẹ cút con côi của chị. Họ chăm sóc hai đứa bé mà không lấy một chút thù lao nào. Thỉnh thoảng hôm nào khấm khá, chị mua biếu mấy bà già đó một ít quà tượng trưng lấy thảo, để đền bù cho công lao chăm sóc hai đứa bé khi chị vắng nhà.
Một hôm, mấy bà già hàng xóm bồng bế hai đứa nhỏ ra ngoài Ủy Ban Nhân Dân Phường, báo cáo là mẹ hai đứa nhỏ nầy đi đâu ba ngày nay chưa thấy về. Chắc bị bắt vì buôn bán trái phép, nên xin Ủy Ban tìm giùm. Ban Thương Binh Xã Hội của Phường nhận lãnh hai đứa nhỏ để nuôi đỡ vài hôm, vì nghĩ rằng thế nào mẹ chúng nó vài ngày sau cũng sẽ trở về.
Lúc đó họ sẽ bắt chị làm giấy cam đoan, không bỏ bê con cái bừa bãi v.v…để ép chị vào khuôn khổ của xã hội, đúng với đường lối của nhà nước Cách mạng. Bà Trưởng Ban Xã Hội nghiến răng, hăm he thế nào cũng cho chị một bài học nên thân. Bà phải bắt chị ra Phường học tập, giảng giải cho chị hiểu thông suốt đường lối của nhà nước, trách nhiệm đối với gia đình con cái. Bà đã chuẩn bị một hơi dài những điều phải nhồi nhét vào đầu chị.
Gần một tháng, chị vẫn biệt vô âm tín. Lúc đó không những Ban Xã Hội Phường, mà Bí Thư, Chủ Tịch, Nhân viên của Phường bấn lên. Ðã gọi điện thoại cho Công An Thành Phố, các Công An của các Quận, Huyện Nội Ngoại Thành, xem thử chị có bị giữ nơi đâu để họ can thiệp cho chị trở về để nuôi con. Tất cả đều không tìm thấy manh mối của chị. Hai đứa nhỏ từ khi ra Phường ở, được cho ăn uống đủ thứ nên chúng hay đau bụng, ỉa giải lung tung. Gây nhiều phiền hà cho mọi người. Văn phòng của Ủy Ban Phường biến thành một nhà giữ trẻ. Tất cả mọi người chỉ chăm chú vào hai đứa nhỏ. Nhân viên đều trở thành những người bảo mẫu tốt.
Không tìm ra được chị. Không biết chị đang ở đâu hay chết mất xác rồi. Bây giờ họ quay qua tìm kiếm anh tại các trại cải tạo. Họ nghĩ, anh dễ tìm hơn, anh đang bị nhà nước quản lý, vì hoàn cảnh cấp bách có thể xin anh về để nuôi con. Lần đầu họ nghĩ chỉ cần đưa tên anh lên Ban Quân Sự Quận, rồi Quận chuyển lên Thành Phố, rồi Thành Phố chuyển lên Quân Khu 7. Thế nào cũng tìm ra được anh nhanh chóng, rồi thả ra cho về. Chuyện cũng đơn giản, không có gì nhiêu khê. Yên tâm ngồi chờ, ngày nầy qua ngày nọ vẫn vô hiệu quả. Không biết lá đơn đi chỗ nào. Bà Trưởng Ban Thương Binh Xã Hội, bực mình làm một tờ đơn thống thiết, Chủ Tịch Phường ký tên, Bí Thư chứng nhận. Chính đích thân bà thân chinh mang đơn đi, xin thả anh ra, để về nuôi con.
Trạm khởi đầu của bà tới là Quận. Bà ngồi chờ để được Chủ Tịch Quận chứng nhận trong đơn. Chủ Tịch bận tiếp khách. Bà chờ dài cổ. Khi có chữ ký thì xế trưa, bà phải đạp xe về nhà ăn cơm, nghỉ trưa rồi chiều tính tiếp. Chiều bà đạp xe ra Thành Phố. Ủy Ban đang hội họp không tiếp khách. Bà lại đạp xe trở về. Và cứ thế xin được mấy chữ ký theo hệ thống từ dưới lên trên mất vài ngày. Bà đến Bộ Tư Lệnh Quân Khu 7 (Lúc nầy đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu cũ). Bà đưa đơn cho người lính gác cửa, và yêu cầu xin được gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Khu. Người lính đọc đơn xong nhìn bà nói : “Chuyện cỏn con ai giải quyết cũng được, cần gì tới Tư Lệnh”.
Bà trố mắt, nói móc : “Thế chú có giải quyết được không ?”
Người lính trả lời : “Dĩ nhiên không phải tôi, tôi đang gác. Tôi chỉ cho bà nơi giải quyết”
“Thì cứ chỉ đi, tôi tới đó ngay.”
Người lính gác dơ tay chỉ cho bà phòng tiếp khách, vào đó có người lo mọi chuyện. Bà đưa tay quẹt mồ hôi, leo lên xe đạp. Miệng lầm bầm : “Dóc tổ, thứ gác cổng mà đòi giải quyết chuyện đại sự”.
Bà khóa xe cẩn thận, bước vào bên trong, đến chỗ nhận đơn trình bày lý do. Người nhận đơn bảo bà ngồi chờ. Một lúc sau có người ra mời bà vào phòng. Ông Trưởng phòng tiếp tân, báo cho bà biết đây không phải là nơi giải quyết chuyện Cải tạo viên. Ông chỉ bà đến phòng khác. Không biết ông chỉ dẫn thế nào, mà bà đạp xe lòng vòng cả buổi trong Bộ Tổng Tham Mưu cũ, vẫn không tìm được chỗ giải quyết. Sau đó bà nhờ một anh Bộ đội chỉ giùm. Ðơn của bà được chấp thuận, và họ hẹn tuần sau bà tới đây lại sẽ cho biết kết quả.
Ðúng ngày hẹn bà tới, họ đưa cho bà giấy giới thiệu đến Trảng Lớn Tây Ninh gặp Ban Quản Giáo Trại để xin giải quyết. Ngày hôm sau bà lại đón xe đò đi Trảng Lớn. Bà trình bày mọi chuyện với người phụ trách, kèm theo lá đơn có đóng dấu của nhiều cơ quan liên hệ. Cộng với những lời kính chuyển, mong giúp đỡ tận tình. Trưởng Ban Quản Giáo báo cho bà biết là nơi đây chỉ có quyền giam giữ, chứ không có quyền thả người. Bà phải trở lại Quân Khu 7 để xin giấy thả. Ðến đây thì bà đã đuối sức, mới biết chuyện nầy không đơn giản, nhiêu khê quá chừng. Bà không còn kiên nhẫn nhịn nhục được nữa rồi. Bà nói thẳng với ông Trưởng Phòng : “Ðồng Chí ơi, tôi cũng là Cán bộ, mà các ông hành tôi đi cả tháng nay như vậy. Huống chi dân chúng khổ biết chừng nào.”
“Tôi chỉ làm theo mệnh lệnh, bà thông cảm cho tôi. Tôi cũng muốn thả hết họ về cho rồi, nhốt đây làm chi thêm cực. Bà phải gặp cho được Tư Lệnh hoặc Phó Tư Lệnh, đừng để cho tụi nó chỉ bậy bạ, chạy lòng vòng thêm mệt. Chỉ có hai ông nầy giải quyết mới được.”
Kết quả thì bà kiên nhẫn cũng xin được cho anh ra khỏi trại cải tạo. Trảng Lớn, Quân Khu 7 đi đi lại lại nhiều lần, dĩ nhiên không kể thời gian phải chầu chực. Ðôi lúc bà cũng nãn lòng vì cung cách làm việc quan liêu, thế nhưng nếu bỏ cuộc thì mấy đứa nhỏ tính sao. Phường không có ngân khoản chi tiêu cho vụ nầy. Thôi thì ráng làm cho trót.
Anh mặc bộ áo quần bằng bao cát, trên tay cần bao Ny-lon đựng vài vật dụng cá nhân. Tài sản của anh khi xuất trại vỏn vẹn có bấy nhiêu. Hành khách trên xe đò biết anh là dân cải tạo mới ra, nên nhiều người dúi vào tay anh một ít tiền, đồ ăn… anh tự nhiên xúc động. Ngồi trên xe đò, bà kể rõ mọi sự đã xẩy ra của gia đình cho anh biết. Anh chỉ ngồi ôm mặt khóc, phần thương con, phần không biết bây giờ vợ ở đâu. Anh làm sao nuôi hai đứa con còn thơ dại, làm gì bây giờ để sống. Gần xuống xe đò, người tài xế nói vọng ra phía sau : “Lấy tiền bà cán bộ. Còn anh cải tạo mới về, đừng lấy tiền ảnh”. Mấy người ngồi trên xe cười ồ, cái cách phân biệt rất tự nhiên của anh tài xế. Về đến Ủy Ban Nhân Dân Phường, anh nhìn thấy hai đứa con đang chơi ngoài sân thật vô tư. Anh lại ôm con khóc nức nở. Mấy người đi ngoài đường nhìn thấy, họ cũng mủi lòng.
Anh bồng bế con về nhà cũ. Bước vào buồng ngủ anh nhìn thấy vợ và người đàn ông lạ đang nằm ngủ mê man. Cơn ghen tức nổi lên, anh không còn biết mình là dân cải tạo mới thả ra. Anh bỏ con xuống sàn nhà, nhào lại túm đầu chị đánh đá túi bụi. Người đàn ông thức giấc, ngồi dậy xô anh ngã ra sau. Hàng xóm chạy lại bênh anh, cũng nhào vô đánh chị và người tình của chị, miệng họ la lớn : “Ðánh chết gian phu, dâm phụ. Ðánh chết thứ bỏ bê con cái theo trai”. Sau một hồi ấu đả, mặt mày chị và người tình nhân sưng húp. Công an khu vực chạy lại can thiệp, dẫn tất cả ra Phường.
Công an Phường đã biết chị bỏ con cái đi mấy tháng nay, nên họ cũng bực mình. Người công an khu vực hỏi chị : “Chị về lúc nào ? Mấy tháng nay chị đi đâu ?”
Chị trả lời : “Mới về khuya nay. Ði ra Hải Phòng buôn bán”.
“Chị có biết, chị bỏ bê con cái đói khát không ?”
“Biết, mà ở nhà với con lấy gì ăn, cũng chết vậy.”
“Nhưng chị phải có trách nhiệm với con cái chứ ? Nếu không có chúng tôi, con chị chết lâu rồi.”
Chị cúi mặt, trả lời : “Cám ơn các anh.”
Người công an, hỏi chị về anh kia. Chị trả lời mà không chút sượng sùng : “Anh đó là bồ của tôi. Ảnh là cán bộ, giúp tôi làm ăn.”
“Còn chồng chị đây thì sao ?”
“Ổng về rồi thì nuôi con, cả năm nay tôi khổ quá. Tôi giao lại nhà cửa, con cái cho ổng lo. Tôi đi ra không lấy thứ gì hết.”
“Thế chị không thương con sao ?”
“Dĩ nhiên là có. Nhưng người tình không thể bỏ được.”
Thế là bắt đầu từ đó, chị chia tay với anh. Không chút bận bịu, vương vấn gì cả.
Cái cảnh gà trống nuôi con của anh thật tội nghiệp. Anh cũng tái diễn màn nhờ vã hàng xóm như chị trước đây. Mấy bà già nói đùa : “Chớ dại bỏ con đi biệt tích như con vợ mầy. Nó thì được, còn mầy lạng quạng là vô trại cải tạo lại ngay.”
Anh cười, nói đùa lại : “Ðây cũng hơn gì cải tạo đâu.”
Bạn bè giúp đỡ, anh có một số vốn nho nhỏ mở quán cà phê. Che cái lều gần nhà, công an cũng thông cảm làm ngơ. Vì có thể vừa trông con, vừa buôn bán. Không phải nhờ vã mãi hàng xóm được. Anh đặt tên Quán là “Cà phê Năm Râu”. Từ khi cải tạo về, buồn tình anh để râu ria mọc um tùm trên mặt, chẳng thèm cạo. Những người chung quanh gọi anh bằng cái tên theo thứ tự gia đình, cộng thêm ít râu trên mặt. Người Miền Nam hay gọi tên theo vóc dáng, Tư Mập, Hai Lùn v.v… nên gọi anh cũng vậy.
Quán bán lai rai cũng đủ sống qua ngày. Một hôm, ông Trưởng Phòng Thông Tin Văn Hóa Quận đi ngang qua, nhìn thấy tên quán. Ông lập tức về viết giấy mời, bắt anh phải có mặt, lý do cho biết sau. Anh vội vàng gửi con, nhờ bà hàng xóm trông coi giùm quán cà phê. Anh đạp xe lên văn phòng Thông Tin Văn Hóa, cầm tờ giấy mời vào đưa cho cô thư ký tiếp khách. Một giờ sau đó, cô ra mời anh vào phòng ông Trưởng Phòng.
Ông hỏi anh : “Anh là chủ quán Cà Phê Năm Râu phải không ?”
“Dạ thưa, phải”
“Anh có giấy phép mở quán không ?”
Anh ú ớ : “Dạ thưa không có, tôi chỉ xin phép Phường. Hơn nữa quán lẹp xẹp, người ta bảo không cần phải tới Quận.”
“Ngày mai anh về đóng cửa ngay. Lý do là tên cửa hiệu, không phù hợp văn hóa. Cái tên Năm Râu, nghe rất xấc xược và thiếu văn hóa hết sức. Thế mà anh trương nó lên cho mọi người trông thấy. Tướng râu ria của anh, đã thiếu văn hóa rồi. Anh lại bắt mọi người chú ý cái chuyện bê bối của anh hay sao ?”
" Dạ thưa Bác Hồ cũng có râu.”
“A, anh dám cả gan so sánh với Bác à. Anh thật to gan. Râu của Bác đẹp, phong nhả như thần tiên. Nhìn kìa, râu của anh như một đống rác, gắn lên mặt. Ðúng, anh là thứ thiếu văn hóa, phải cho anh một bài học mới được.”
Ông Trưởng Phòng chậm rãi rút điếu thuốc, châm lửa, rít một hơi dài. Lấy giọng, rồi cho anh một bài học về văn hóa tràng giang. Sống phải đúng văn hóa để hòa đồng với xã hội mới. Ông thao thao bất tuyệt, rồi cuối cùng ông lên giọng : “Anh về thực hiện điều tôi nói, tôi chỉ thị về phường theo dõi anh.”
“Dạ thưa đồng chí, tôi về hạ bảng ngay.”
“Không những hạ bảng mà đóng cửa luôn. Thấy mặt anh để mọi người ngứa mắt sao ? Mặt mày anh dơ dáy như vậy, thì làm sao anh đảm bảo giữ vệ sinh được.”
Pháp luật và mệnh lệnh của nhà nước, được tùy tiện xử dụng. Người ta xét xử theo tùy hứng, tình cảm cá nhân. Pháp lý không có chỗ đứng ở đây. Nạn nhân là những kẻ thấp cổ bé họng, không kêu ca với ai được. Làm gì có sự công bình, khi mà đất nước được điều khiển bằng quyền lực.
Thế là quán bán cà phê Năm Râu của anh dẹp tiệm, số vốn bạn bè giúp đỡ kể như đi đời. Ngày đầu, anh chở con đi xem tình hình có thể buôn bán được gì không. Anh đi từ xa cảng Miền Tây, vòng quanh các chợ búa Sài Gòn, Gia Ðịnh. Làm gì cũng phải cần vốn liếng, mà anh thì đào đâu ra tiền. Chán nãn, anh về nhà nằm nghĩ cách nào để sống cho qua ngày.
Chiều, anh ra ngoài chợ Thanh Ða mua kí gạo, để nấu cho cha con ăn. Anh thấy một người đi xe đạp, chở tới một bao cát gạo bỏ mối. Anh mon men tới hỏi thăm. Người nầy nhìn anh một hồi, rồi nói nhỏ : ” Có phải thầy tên Bình không ?”
Anh giật thót người : “Ðúng, tôi là Bình. Tôi làm cu-li chứ có thầy ba chi anh. Làm sao anh biết tôi ?”
“Hồi trước cùng đơn vị với Thầy. Binh nhứt Cẩm.”
Anh nhìn anh Cẩm một hồi lâu, mới nhớ ra. Cẩm lúc đó mang đại liên cho đại đội của anh. Cẩm mời anh sang quán rượu bên cạnh, hai người làm vài xị rượu đế. Anh kể hoàn cảnh của mình hiện tại cho Cẩm nghe. Cẩm cũng nghèo rớt mồng tơi, nhưng còn xoay xở được. Anh thì hoàn toàn bế tắc. Cẩm thấy thương hại cho cha con anh, nên cho anh mượn một ít tiền chỉ cách đi Long An buôn gạo. Cách buôn nầy cũng năm ăn năm thua. Xui xẻo bị Quản Lý Thị Trường, hay Thuế Vụ bắt thì coi như đứt vốn. Còn may mắn trơn trụt thì lãi gấp rưởi. Anh mừng hết lớn, không ngờ mình cũng còn quý nhân giúp đỡ.
Anh lại gửi con cho hàng xóm, bốn giờ sáng thức dậy đạp xe đi Long An với Cẩm. Mỗi ngày anh mua hai giạ gạo, về bỏ mối cho các hàng bán gạo tại các chợ nhỏ. Anh đạp xe luồng lách để tránh các trạm kiểm soát dọc đường. Về tới Sài Gòn, anh tìm các đường hẻm để đi. Vài tháng như vậy trót lọt. Anh và các con được ăn uống tử tế, mỗi ngày có quà biếu xén mấy bà hàng xóm giữ con, tối làm một xị đế cho giản gân cốt.
Thấy làm ăn cũng được, anh và Cẩm dành dụm mua được mỗi người một chiếc xe Gobel chạy dầu. Xe nầy tiếng nổ nghe nhức tai, khói ra còn hơn tàu lửa. Có một điều là khỏi phải còm lưng đạp, lại chở gạo tương đối nhiều. Ngày đầu tiên ra quân, chạy về tới xa cảng Miền Tây. Hai người chia hai ngã, anh vừa quẹo vào một ngõ hẽm, nhìn lại phía sau thì thấy một đoàn quân Quản Lý Thị Trường chạy Honda theo. Một người chạy lên đầu xe anh chận lại. Thế là, anh bị đưa về văn phòng lập biên bản tịch thu số gạo.
Khi anh bước vào phòng, anh lỡ đụng tay vào bình nước trà để trên bàn, bị đổ. Nước chảy ra ướt giấy tờ, cán bộ lập biên bản thấy gai mắt rồi. Nên họ quyết tịch thu gạo, rồi tống cổ anh ra ngoài cho mau. Khi hỏi đến tên họ, anh khai tên là Ðỗ Bình. Người cán bộ mặt đỏ lên, tưởng anh chọc tức mình, chỉ vào mặt anh :
“Ðây là cơ quan, không phải chỗ chơi để anh đùa giởn. Anh vừa đổ bình nước của tôi, tôi chưa hỏi tội. Bây giờ hỏi tên anh nói là đổ bình. Anh muốn gì đây ?”
“Thưa ông, tôi đúng tên là Ðỗ Bình. Ðây giấy tờ của tôi.”
Ông coi giấy tờ, nói : “Trong giấy là Ðỗ Binh, tại sao anh nói là Bình ?”
“Quả thật tôi là Ðỗ Bình, người làm giấy tờ ra trại quên thêm dấu huyền.”
“Tôi không cần biết điều đó. Tôi cảm thấy từ khi bước vào đây, anh có thái độ bất mãn chúng tôi. Anh mới đi học tập trở về, mà không chấp hành pháp luật nhà nước, chưa thông suốt đường lối Cách mạng. Quen thói mánh mung, buôn bán chụp giựt. Tôi đề nghị với công an nơi anh cư ngụ, gửi anh trở lại trại cải tạo.”
Ðến đây thì anh bực mình, nói giọng cà xốc : “Tôi đâu muốn về, nhà nước bắt tôi về để nuôi con. Bây giờ ông muốn đưa tôi đi đâu cũng được, con tôi giao cho Phường nuôi lại.”
“À, anh thách thức tôi. Ðể rồi anh coi.”
Nửa giờ sau, xe công an Quận 11 đến chở anh về giam. Nằm trong phòng giam đến hai ngày, không ai hỏi han gì cả. Anh nóng ruột, chắc hai con anh ở nhà mấy ngày nay đói khát. Không biết mấy bà hàng xóm cho chúng nó ăn uống giùm không. Ðang nghĩ vơ vẫn, thì công an gọi lên phòng làm việc. Họ đưa cho anh vài tờ giấy bắt làm tờ kiểm điểm.
Anh ngồi húy hoáy viết, kể chuyện học tập được phường bảo lãnh về. Không tìm được việc làm, nên đi buôn gạo để kiếm tiền nuôi con. Tuyệt nhiên anh không viết về ăn năn hối hận gì cả. Anh nghĩ thế nào cũng bị hạch họe lung tung, bị giảng giải hăm dọa trước khi cho về. Không ngờ, ngồi một hồi, anh công an dẫn anh ra chỗ dựng chiếc xe Gobel, trên yên còn nguyên hai bịch gạo. Anh công an vừa đi vừa nói : “Anh buôn lậu mà đi xe tiếng nổ lớn gây ồn ào, khói tỏa mù mịt. Gây chú ý. Nên chúng nó bắt anh đúng thôi. Lần sau làm ơn đi xe đạp giùm cho.”
Anh “dạ”. Rồi nhận tờ giấy thả. Leo lên xe chạy về nhà. Con cái được hàng xóm đem ra Phường giao, tự nhiên Phường phải có bổn phận tìm ra anh ở đâu. Anh nghĩ trong bụng chắc công an phường, hay quận can thiệp cho anh về. Anh ra nhận con, chủ tịch Phường gọi vào hỏi : “Gạo anh nhận lại đủ không ?”, rồi ông vừa nói đùa vừa nói thật : “Chúng tôi nhờ Công an quận can thiệp, thả ngay anh ra. Con anh đói gần chết.” Ôm con vào lòng, bây giờ anh mới thấm thía và đau xót. Vì sự sống còn của gia đình, anh đem các con ra để làm trò tung hứng, mặc cả.
Thế là những ngày sau, khi chở gạo về Thành phố anh không phải dọt vô đường hẽm. Cứ đường chính chạy bon bon, mà chẳng cần tránh né. Thuế vụ, Quản Lý Thị Trường, Công An sau nầy đều nhẵn mặt anh. Anh nói với mấy bà hàng xóm, nếu không thấy anh về là cứ mang con ra ngoài Phường giao. Tự động Phường sẽ tìm anh ra ngay, không cần chi phải lo. Thời buổi đó, mọi gia đình đều ăn bo bo, gạo quý lắm. Nên chở được từ miền Tây về trót lọt, thì lãi tương đối khá. Sau nầy anh thấy gạo chở nhiều mà tiền lãi không bao nhiêu, nghe lời mấy bà bán thịt, anh đi Long An mua thịt heo về bán.
Anh bắt đầu nhập vào chuyện buôn lậu thịt, anh cũng dạo một vòng các chợ để biết mối lái, giá cả. Trước khi bắt tay vào việc nầy. Anh lắng nghe các chuyện cười ra nước mắt, bằng đủ các trò để đưa được thịt vào Thành phố. Có bà quấn thịt dưới hai ống chân, mặt quần đen ống rộng phủ bên ngoài. Có bà độn thịt ở bụng giả làm người mang bầu. Xe cứu thương hụ còi inh ỏi, không có người bị cấp cứu, chỉ toàn chở lậu thịt v.v…Thành phố Sài Gòn lúc ấy thiếu thốn đủ mọi thứ, tất cả mọi người chỉ còn lo lắng cho cái ăn. Dân chúng mỗi tháng chỉ được mua 100gr thịt cho một người theo giá chính thức. Muốn ăn thêm phải mua giá chợ đen.
Lương bổng của công nhân viên chức, mỗi tháng chỉ đủ tiền mua được một con gà, họ phải chật vật chạy mánh mung ngược xuôi để nuôi gia đình. Người dân trong nước đều ở trong tình trạng phạm tội, từ cán bộ cấp nhỏ cho tới dân chúng mang một tâm trạng sợ sệt.
Anh rời khỏi nhà lúc 2 giờ sáng. Ðến lò xẻ thịt tại thị xã Tân An, lấy xong rồi quay về ngay. Sợ nắng lên, sẽ làm cho thịt bị hôi. Cứ thế, ngày nầy qua ngày khác anh vẫn đều đặn công việc làm ăn của mình. Ban ngày ở nhà chơi với con, hoặc chở con đi thăm bà con bạn bè.
Một hôm, anh mang các con vào chợ Bà Chiểu lấy tiền thịt bỏ mối, và luôn tiện cho chúng ăn uống. Cha con vừa ngồi xuống hàng bán cháo, thì thấy vợ anh đang đi lại. Chị ăn mặc rất sang trọng. Các con trông thấy mẹ gọi ríu rít, chị quay lại chạy tới ôm chúng vào lòng, quên đi mình bây giờ, quên đi sự dòm ngó của người khác chung quanh. Nước mắt chị chảy ra, nghẹn ngào không nói gì được. Anh thì cúi đầu lặng lẽ. Ðây là cái lúc đối diện thật oan nghiệt cho anh, cho chị. Tự nhiên anh thấy lòng mình chùng xuống.
Những điều hận chị trước đây bỗng dưng bay đâu mất, anh cảm thấy thương chị. Ðúng ra vì oán hờn chị, anh không cho chị lại gần các con. Nhưng không biết vì sao anh không thể làm điều đó được, các con anh cũng cần có tình thương của mẹ. Ðôi mắt của chúng mở lớn sung sướng, vì được mẹ tới ôm hôn. Anh không thể ích kỷ, bắt các con thèm khát những cái mà anh không thể nào tìm ra được cho chúng. Anh vừa thấy xót xa, vừa thấy bằng lòng với sự yên lặng của mình.
Chân đã bước quá xa, không thể nào quay lại được. Lầm lỡ nào cũng gây cho mình một cảm giác đau đớn. Trong lúc thừa mứa vật chất, bây giờ chị lại thèm khát một mái gia đình. Chị đã đánh vở mất những báu vật linh thiên của cuộc sống. Chồng con chị ngồi đó, mà chị không dám nhìn. Lâu ngày gặp lại, đúng ra phải mừng, nhưng chị lại khóc. Ðời sống họ tả tơi, tan tác, chị không giúp đỡ được. Mà chị có giúp thì họ cũng không thể ngửa tay ra nhận. Cái nghèo của họ thật đáng quý, đáng trân trọng.
Anh chở con về nhà, dỗ cho chúng ngủ. Anh đến ngồi bên cửa sổ, hình ảnh chị ôm các con lại hiện ra lung linh. Trông chị bây giờ đẹp thật, da thịt mát rượi, đời sống sung túc đã thay đổi hẳn con người. Còn cha con anh, trông thật thê thảm, quần áo xốc xếch, ốm đói. Căn nhà trống vắng quá, đang thiếu một cái gí đó để khỏa lấp. Thiếu một bàn tay chăm sóc, thiếu một tiếng nói dịu dàng, để sưởi ấm lại gia đình. Gần cả năm nay vì phải lo chạy từng miếng ăn, phải lo cho đời sống các con, chăm sóc chúng, anh không còn nghĩ gì khác hơn. Bây giờ mọi thứ tạm ổn, mọi sinh hoạt vẫn đều đặn. Phải có một người đàn bà trong gia đình. Vâng, anh thầm nhủ như vậy.
Phan Xuân Sinh
SƠN TRUNG * CÁO HỌC PHÁP THUẬT
CÁO HỌC PHÁP THUẬT
Sau đó, Cáo đến gặp Sói là trùm tổ chức đường dây thi hộ, bỏ ra một số tiền lớn để Sói làm bằng tốt nghiệp giả, giấy chứng minh nhân dân giả cho mèo rừng thông thái đi thi hộ. Kết quả là Cáo đậu thủ khoa.
Nhờ có ô dù và tấm bằng đại học loại xịn, Cáo xin vào làm ở công ty cổ phần Cổ Cò và được bổ nhiệm làm phó phòng. Về đây Cáo không bỏ qua cơ hội nào để lấy lòng sếp. Từ sinh nhật thủ trưởng đến sinh nhật vợ thủ trưởng, từ đám cưới con thủ trưởng đến mừng thọ mẹ thủ trưởng, từ mừng tân gia, mừng năm mới đến mừng xe mới… tất cả đều được Cáo mừng bằng phong bì dầy cui.
Đó là chưa kể mời thủ trưởng đi khách sạn nhà hàng và… em út. Không chỉ đánh vào mặt tiền, Cáo còn đánh vào mặt hậu là… vợ thủ trưởng. Thỏ thường bảo vợ mình đến rủ vợ thủ trưởng đi shop, đi siêu thị, du lịch… Nhờ vậy mà chẳng bao lâu thỏ nhảy từ phó phòng lên trưởng phòng, phó giám đốc rồi… giám đốc!
Sau đó, Cáo Trắng đến chỗ thần rừng và kể cho thần nghe mình đã hoàn thành ba điều kiện như thế nào. Nghe xong thần lắc đầu thở dài nói:
- “Phép thuật”của nhà ngươi đã lợi hại hơn ta rồi, làm sao ta có thể dạy ngươi được. Để mai ta tâu với Ngọc Hoàng cho ngươi làm thần ở đây, còn ta “lạc hậu” quá rồi, không thể phục vụ tốt triều đình nữa, ta phải về vườn thôi.
Một
con Cáo Trắng đến gặp Thần Rừng để xin được ban cho ít phép thuật.
Thần Rừng chấp nhận, với điều kiện, Cáo phải thực hiện được ba điều:
Thứ nhất là lấy được viên ngọc lưu ly trong miệng rắn, thứ hai là phải
đậu vào trường đại học “Bách thú khoa” và thứ ba là phải làm giám đốc
một công ty quốc doanh nào đấy.
Đầu tiên, Cáo Trắng cho đàn em là nhím mang đến tặng rắn món nhái khô vốn là món khoái khẩu của rắn nhưng đã quá “đát” ba tháng. Rắn bị ngộ độc thực phẩm phải đi bệnh viện. Sau đó, thỏ “bắt tay” với bác sĩ gấu kê cho rắn một loạt toa thuốc ngoại nhập. Giá thuốc cao và viện phí quá đắt mà nhà rắn lại nghèo không trả nổi tiền thuốc nên phải đem ngọc đến chỗ thỏ cầm cố.
Đầu tiên, Cáo Trắng cho đàn em là nhím mang đến tặng rắn món nhái khô vốn là món khoái khẩu của rắn nhưng đã quá “đát” ba tháng. Rắn bị ngộ độc thực phẩm phải đi bệnh viện. Sau đó, thỏ “bắt tay” với bác sĩ gấu kê cho rắn một loạt toa thuốc ngoại nhập. Giá thuốc cao và viện phí quá đắt mà nhà rắn lại nghèo không trả nổi tiền thuốc nên phải đem ngọc đến chỗ thỏ cầm cố.
Sau đó, Cáo đến gặp Sói là trùm tổ chức đường dây thi hộ, bỏ ra một số tiền lớn để Sói làm bằng tốt nghiệp giả, giấy chứng minh nhân dân giả cho mèo rừng thông thái đi thi hộ. Kết quả là Cáo đậu thủ khoa.
Nhờ có ô dù và tấm bằng đại học loại xịn, Cáo xin vào làm ở công ty cổ phần Cổ Cò và được bổ nhiệm làm phó phòng. Về đây Cáo không bỏ qua cơ hội nào để lấy lòng sếp. Từ sinh nhật thủ trưởng đến sinh nhật vợ thủ trưởng, từ đám cưới con thủ trưởng đến mừng thọ mẹ thủ trưởng, từ mừng tân gia, mừng năm mới đến mừng xe mới… tất cả đều được Cáo mừng bằng phong bì dầy cui.
Đó là chưa kể mời thủ trưởng đi khách sạn nhà hàng và… em út. Không chỉ đánh vào mặt tiền, Cáo còn đánh vào mặt hậu là… vợ thủ trưởng. Thỏ thường bảo vợ mình đến rủ vợ thủ trưởng đi shop, đi siêu thị, du lịch… Nhờ vậy mà chẳng bao lâu thỏ nhảy từ phó phòng lên trưởng phòng, phó giám đốc rồi… giám đốc!
Sau đó, Cáo Trắng đến chỗ thần rừng và kể cho thần nghe mình đã hoàn thành ba điều kiện như thế nào. Nghe xong thần lắc đầu thở dài nói:
- “Phép thuật”của nhà ngươi đã lợi hại hơn ta rồi, làm sao ta có thể dạy ngươi được. Để mai ta tâu với Ngọc Hoàng cho ngươi làm thần ở đây, còn ta “lạc hậu” quá rồi, không thể phục vụ tốt triều đình nữa, ta phải về vườn thôi.
THƠ HOÀNG CẦM
EM BÉ LÊN SÁU
Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vương mây sám lạnh
Cỏ hoa còn ngóng trông
Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang vòm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời
I
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua;
Bố mẹ nó không còn
Đứa trẻ nay gầy còm
Bỗng thương tình côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đo nhìn đời bỡ ngỡ:
"Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!"
II
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
-- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy"
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đưá bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ: "sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa".
III
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ,
Đã lâu năm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim
Nào "liên quan phản động"
"Mất cảnh giác lập trường"
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn lòng câu hỏi:
"Sao thương con kẻ thù ?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo"
Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường
Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tình yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời
IV
Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo :
- "Có bầu trời nhân đạo
Còn vương vất bóng đêm
Đồng chí đã thắp đèn
Dòng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên"
Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đã tung tăng cặp sách
Cùng trẻ em nông dân
Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của nghìn năm tội ác
Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.
(6/1995)
Tập thơ Những bài thơ lẻ
LÁ DIÊU BÔNG
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!
VŨ MÃO * TRẦN ĐỘ
Thư ông Vũ Mão về đám tang Trần Độ
Vũ Mão
Tháng 7 năm 2007 này, vừa đúng năm năm lễ tang ông Trần Độ. Hôm nay
tôi viết lại đôi dòng về một khía cạnh đã diễn ra ngày ấy. Tôi là người
được Tổ chức phân công đọc Điếu văn vì tôi là Trưởng ban Lễ tang. Còn
việc vì sao phân công tôi làm Trưởng ban Lễ tang sẽ được trình bày vào
một dịp khác.
Điếu văn đọc tại Lễ tang Ông Trần Độ được phân công chuẩn bị khá công
phu. Sau đó, có tham khảo ý kiến của gia quyến. Gia quyến đề nghị bỏ
đoạn nói về thiếu sót, khuyết điểm của ông Trần Độ. Bộ phận soạn thảo
cũng muốn vậy nhưng không được cấp trên chấp nhận, vì lập luận rằng,
phải công bằng và khách quan giữa cống hiến và khuyết điểm. Bản Dự thảo
mới, tuy vẫn nói tới thiếu sót nhưng đã được giảm nhẹ và thu gọn lại. Đã
có một cuộc họp nhanh, nói cho chính xác là có cuộc hội ý ngay sau
phiên họp buổi chiều của Quốc hội. Các ý kiến phát biểu sôi nổi và vẫn
giữ ý kiến như cũ, tức là phải nói cả công lao và thiếu sót. Cuối cùng,
các đồng chí dự Hội nghị đã vui vẻ dặn tôi: Khi đọc Điếu văn, đoạn nói
về những đóng góp của ông Trần Độ thì đọc to; còn về thiếu sót, khuyết
điểm thì đọc nhỏ thôi.
Mọi người đều biết tôi không muốn nhận sự phân công này, đặc biệt
trong Điếu văn lại phải đọc cả thiếu sót khuyết điểm của người quá cố là
điều tối kỵ, chưa ai làm thế bao giờ, nên tôi càng không đồng tình.
Tuy nhiên, tôi không có cách nào khác là chấp hành sự phân công của Tổ chức và tôi đã thực hiện nghiêm chỉnh.
Tại Lễ truy điệu, tôi đọc Điếu văn. Trong lời đọc của mình, khi nói
về công lao, thành tích, cống hiến của ông Trần Độ đối với Cách mạng,
đối với Tổ quốc và Nhân dân thì tôi đọc to và rõ ràng, hào hùng đầy khí
thế. Tôi xúc động thực sự từ đáy lòng mình. Khi đọc đến thiếu sót tôi
đọc rất nhỏ, thực chất chỉ mấp máy môi để không ai nghe thấy gì cả.
Trong trường hợp này, có thể nói: “Tôi là một Nghị sĩ đã đóng vai một
Nghệ sĩ xuất sắc trong diễn đạt và biểu cảm”.
Tôi tự ví von, mình là một Nghị sĩ đóng vai một Nghệ sĩ xuất sắc, âu
cũng là sự hài hước để giảm nhẹ bớt nỗi đau của riêng mình. Thế mới
biết, dù có dùng bất cứ một thứ nghệ thuật nào và trình độ diễn đạt có
siêu đẳng đến mấy cũng không thể thay thế cái công bằng của sự thật,
tình nhân ái của con người.
Hội trường Ba Đình, ngày 1/8/2007
Nguồn: Tư liệu của Nhà văn Võ Bá Cường (Trích Thời tôi sống, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
* * *
Trần Quang Vinh: Bức thư của anh Vũ Mão
"Trong cuốn sách 'Nhớ nhà văn Trần Độ', có đăng bài 'Bài ca tặng anh
Trần Độ' của anh Vũ Mão – lúc đó nguyên là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
Bài viết lấy từ một bức thư của anh Vũ Mão viết và gửi cho ông Trần Độ
ngày 17 tháng 2 năm 1993 và được gia đình gìn giữ như một kỷ vật thiêng
liêng".
NGUYỄN QUANG LẬP * ANH CU ĐOM
24-11-2013
Chuyện tình anh cu Đom
Nguyễn Quang LậpKhi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.
Anh cu Đom ở xóm Cá, sát ngay xóm của mình, anh chọn học sư
phạm 7+2 vì Trường trung cấp sư phạm Quảng Bình sơ tán lên thung lũng
Chớp Ri, đóng sát ngay sau nhà anh. Nếu học tiếp lên cấp 3 anh phải vượt
đèo Cao Mại ra phố huyện cách nhà hơn hai chục cây số. Anh học sư phạm
như học phổ thông, khi nào cũng một cuốn vở cuộn tròn nhét túi, chẳng
thấy túi, cặp gì. Học đựợc nửa buổi anh bỏ lớp tót về nhà chơi với tụi
mình, lắm khi anh bỏ học hai ba ngày không tới lớp. Phần vì anh ham
chơi, đi học chẳng qua vì đỡ phải đi làm chứ anh chẳng thiết tha gì việc
học hành, phần vì anh mê cô Lý.
Cô Lý là cô giáo 7+2 thực tập lớp trường mình. Cô ở cùng xóm với mình,
xưa gọi bằng chị nay gọi bằng cô. Gọi bằng cô cho cô mừng thôi chứ cô
chẳng dạy dỗ gì mình. Cô Lý hiền lành nhu mì nhưng xấu chết, đen thui từ
đầu đến đuôi. Chả hiểu sao anh Đom mê cô Lý. Anh đẹp trai, đánh bóng
chuyền giỏi lại biết thổi kèn armonica. Học sau cô Lý nhưng anh Đom còn
hơn cô Lý một tuổi vì anh đúp mấy năm liền mới qua được lớp
7. Một hôm thấy anh Đom đứng đái, mình chạy lại đái gần anh, tranh thủ
chiêm ngưỡng con cu rất hoành tráng của anh. Anh nói nhìn cái chi, lên
lớp 7 là bằng cu tau thôi mà. Mình nói anh yêu cô Lý à? Anh nói yêu chớ
sợ chi không yêu. Mình nói răng anh yêu cô Lý, anh nói con nớ bụ to.
Chợt anh vỗ vai mình đánh bốp, nói a nhớ rồi, mi biết mần thơ phải
không, duyệt tao bài thơ. Anh lôi ra bài thơ vừa sáng tác tặng cô Lý.
“Ôi cái tên Minh Lý/ Tên em đẹp hết ý/ Lý ơi yêu anh tí/ Đêm nào anh
cũng bí.” Mình ôm bụng cười rũ, nói anh mần thơ như ẻ. Anh trợn mắt lên,
nói thằng ni nói chi rứa bay, thơ tau gieo vần êm như nhíp.
Mình nói anh không biết mần thơ để tui mần cho. Anh ôm lấy mình ra sức
nịnh nọt, nói mần giúp anh nghe, anh sẵn sàng cho mi tập giấy năm hào
hai mới cứng. Mình nói anh đừng nịnh cô Lý, cô Lý ghét nịnh, phải dọa cô
mới sợ. Anh hỏi dọa răng. Mình đọc ngay tức thì, nói nếu mà Lý chẳng
yêu Đom/ thì Đế Quốc Mỹ thả bom xuống liền. Anh vỗ tay đánh bốp, nói oa
chà hay chi hay ác! Anh chép ngay bài thơ. Hôm sau đưa mình tập giấy năm
hào hai, nói cảm ơn mi, nhờ thơ mi tau sờ được bụ con Lý rồi.
Cô Lý ở gần nhà mình, chỉ cách một ngõ nhỏ. Mình vọt về kiểm tra xem anh
Đom có nói láo hay không. Cô đang thái rau heo, mình chạy vào hỏi cô,
nói cô đang yêu à. Cô cười, nói ừ. Mình hỏi cô yêu ai. Cô ngừng thái
rau, mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu. Mình nhăn răng cười, nói
em biết cô yêu ai rồi. Nghe vậy cô Lý tái mặt vội vàng ôm lấy mình, nói
em đừng nói với ai cả nghe chưa. Ba cô ghét anh Đom lắm. Mình lại vọt đi
tìm anh Đom, nói ba cô Lý ghét anh lắm đó.. Anh cười cái hậc, nói è he,
mần cặc chi tau.
Mình đeo lấy anh Đom, đòi anh kể chuyện anh yêu cô. Anh kể hấp dẫn như
các chú bộ đội kể chuyện đánh giáp la cà. Anh nói tau hun cái nghe chưa,
hắn cho tau một tát nghe chưa, tau không sợ nghe chưa, tau đè hắn ra
nghe chưa, hắn cho tau một đạp nghe chưa, tao xé đứt lai quần hắn rồi
ngoạm hắn nghe chưa, hắn mềm dần như bún, he he rứa là xong om. Mình nói
ngạm chỗ mô, anh nói chỗ hắn đi đái đó, thằng ngu. Mình nhăn răng cười,
nói tởm tởm, anh ni tởm gớm bay. Anh đá đít mình, nói ngu, mi đúng là
đồ con nít. Từ đó hễ gặp cô mình đều tưởng tượng anh Đom ngoạm cô thế
nào. Nghĩ mãi không ra tại sao anh Đom ngoạm thì cô mềm dần như bún. Hi
hi.
Một hôm đi học về thấy cô Lý ngồi bó gối dựa tường gạch, nước mắt hai
hàng. Chắc ba cô vừa đánh cô. Hôm trước ba cô cầm dao rượt đuổi anh Đom,
anh bỏ chạy vào rừng, chạy vòng vèo khiến ba cô đuổi đứt hơi. Anh lừa
ba cô chạy vào khu rừng người ta hay bẫy heo. Ba cô sập bẫy, treo lủng
lẳng suốt ngày trong rừng. May có người nghe tiếng kêu cứu không ông
chết không ai biết.
Mình hỏi anh Đom, nói răng ba cô Lý ghét anh. Anh cốc đầu mình phát, nói
thằng ni tò mò tọc mạch gớm. Mình túm áo anh, nói kể đi kể đi. Anh nói
cả nhà con Lý căm thù nhà tau như căm thù Đế Quốc Mỹ, nghe chưa. Mình
hỏi răng căm thù. Anh nói xưa ba con Lý tố cáo ba tau tham ô ba tạ thóc,
ba tau trả thù bằng cách rặp cho được vợ ông ta, nghe chưa. Nay ông ta
lên trường sư phạm tố cáo tố cáo ăn cắp mít nhà ông, tao trả thù bằng
cách rặp cho được con gái ông ta, nghe chưa. Anh ngửa cổ cười he he he,
nói rứa đo rứa đo.
Tất nhiên mình không dám kể chuyện này với cô Lý. Thấy cô khóc, mình
cũng thương nhưng chẳng biết nói gì, không lẽ bảo cô bỏ quách anh Đom
cho xong. Bỗng cô vùng dậy lao đầu đập tường liên tục, đập đến tóe máu
đầu, vừa đập vừa hét chết đi cho rồi! Chết đi cho rồi! Mình sợ quá ôm
lấy cô, khóc nói cô ơi đừng chết! Cô ơi đừng chết! Cô ôm đầu hét rất to.
nói không, cô phải chết thôi, không ai cho cô sống đâu!
Mình nói với anh Đom, nói anh thôi yêu cô Lý đi cho rồi, tội cô lắm. Anh
Đom cười, nói tại hắn yêu tau chớ, tau rặp được rồi, hắn bỏ càng khỏe
xác tau. Tối mình về tìm các đọc trộm nhật kí cô, cô viết dài hàng chục
trang. Bây giờ chẳng nhớ gì, chỉ nhớ câu: Đom ơi em không thể sống thiếu
anh! Đom ơi là Đom ơi. Đom Đom Đom Đom…
Mình chạy tìm anh Đom, nói cô Lý nói không thể sống thiếu anh. Anh cười
cái hậc, nói đàn bà con mô nỏ rứa, lẹo phát là dính như keo.. Mình không
hiểu lắm, chỉ biết cô Lý coi anh Đom như người tình lý tưởng trong khi
anh chẳng mấy quan tâm, chỉ kể chuyện làm tình với cô, đè cô ra sao,
ngoạm cô thế nào và cười he he he.
Cô Lý thức trắng mấy đêm liền, rồi bỏ trốn, rủ cả anh Đom cùng đi. Thầy
hiệu trưởng nói nhất định trốn vô rừng và huy động cả trường đi tìm.
Mình vừa đi vừa gọi, nói anh Đom ơi anh Đom trốn mô ra đi, tụi em đói
lắm rồi. Ba cô Lý cầm dao lùng sục khắp rừng, nói cha tổ mi vơ Đom, bắt
được tau chặt mi ra ba khúc. Chuyện này ầm ĩ khắp thung lũng.
Cuối cùng cô Lý và anh Đom cũng trở về. Cô Lý xanh như que củi, nằm ốm
cả tháng trời, chỉ còn da bọc xương. Hết ốm thì bị chuyển trường, không
đuổi dạy, chỉ chuyển trường thực tập thôi. Mình hỏi anh Đom, nói cô Lý
với anh trốn mô, sao tự nhiên bỏ về? Anh Đom nói chui vô hang Dơi chớ
mô, ăn hết đồ ăn mang theo thì về chớ răng. Anh nói cô Lý mang theo bánh
bích qui, thịt heo rừng nướng, xôi cả bọc to, ăn đã thôi. Anh khoa chân
múa tay, nói chưa khi mô tau được ăn no như rứa, ngày sáu bữa, cơm no
bò cưỡi ngày sáu phát, sướng cực, sướng cực. Anh lại ngửa cổ cười he he.
Bỗng cái miệng anh dần ngậm lại, cô Lý như mọc dưới đất lên, nói anh vừa
nói chi, nói lại nghe coi. Anh cười nhăn nhở, nói chi mô nói chi mô. Cô
cho anh một tát nảy đom đóm rồi bỏ đi, đi mãi không thấy cô trở lại.
Người ta bảo cô Lý ra suối Tranh tự vẫn nhưng không ai tìm ra xác.
NGUYỄN QUANG LẬP
QUÊ CHOA
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 288
No comments:
Post a Comment