CÁC NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI
2013-04-26 09:45:20
CÁC NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG
TRÊN THẾ GIỚI
1. Haeinsa, Hàn Quốc
Ngôi chùa Haeinsa (Hải Ấn tự) nằm trên núi Kaya là một trong những ngôi chùa Phật giáo quan trọng nhất ở Hàn Quốc. Chùa được xây dựng lần đầu tiên năm 802 và được tái thiết lại năm 1818 sau vụ hỏa hoạn thiêu rụi toàn bộ ngôi chùa xảy ra năm 1817. Kho báu ngàn đời của ngôi chùa chính là những tấm gỗ Tripitaka Koreana (Tam Tạng) – một bộ sưu tập đầy đủ nhất các bản kinh, giáo pháp và những thỏa ước Phật giáo còn tồn tại cho đến ngày nay được khắc trên 80.000 tấm gỗ từ năm 1237 đến 1247, được UNESCO chính thức công nhận là Di sản Thế giới năm 1995.
2. Wat Arun, Thái Lan
Wat Arun hay còn gọi là Chùa Bình Minh nằm bên bờ Thonburi trên dòng sông Chao Phraya, tỉnh Nakhon Sawan, Thái Lan là một trong những ngôi chùa Phật giáo đẹp nhất, cổ kính nhất, thu hút nhiều khách du lịch nhất thủ đô Bangkok, có mô phỏng kiến trúc “Núi vũ trụ Meru” (Mount Meru) của người Ấn Độ. Trong chùa có tháp Phra Prang cao 79m được khảm sành sứ Trung Hoa trên mái nhà và các bệ. Mặc dù là chùa Bình Minh nhưng cảnh chùa được ưa thích nhất lại là lúc mặt trời lặn.
3. Pha That Luang, Lào
Chùa Pha That Luang theo tiếng thổ ngữ có nghĩa là Tháp vĩ đại hay Tháp xá lợi linh thiêng là một trong những khu di tích quan trọng nhất tại Viêng Chăn, Lào. Được xây dựng năm 1566 dưới triều đại vua Setthathirat (1534 – 1572) theo hình một nậm rượu dát vàng, bên trên phế tích một ngôi đền Khmer trước đó, ngôi chùa có dáng hình một khối tháp uy nghi, khổng lồ đại diện cho sự giác ngộ Phật giáo, trong đó nơi cao nhất đại diện cho thế giới hư vô, nơi thấp nhất đại diện cho thế giới vật chất. Pha That Luang bị phá hủy trong cuộc xâm lược của người Thái năm 1828, được người Pháo xây dựng lại năm 1931.
4. Jokhang, Tây Tạng
Đại chiêu tự Jokhang, ngôi chùa linh thiêng theo Phật giáo Mật Tông nằm trong trung tâm phố cổ Lhasa ở Barkhor, Tây Tạng là nơi thu hút hàng nghìn tín đồ Phật giáo hành hương mỗi năm. Ngôi chùa do vua Tùng Tán Cán Bố (605 – 649) xây dựng vào thế kỷ thứ 7 (năm 647) khi vương triều này hưng thịnh nhất theo lối kiến trúc pha trộn giữa Ấn Độ, Nepal và Trung Quốc thời Đường trên một khuôn viên rộng 25.000 mét vuông. Jokhang được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 2000.
Thành phố Lhasa có ba con đường chính để người hành hương sử dụng đi bộ đến đền Jokhang. Nhiều người đã nhất bộ nhất bái dọc theo các tuyến đường để đạt được tâm nguyện chí thành lên Đức Phật.
Chùa Jokhang Temple.
Khuôn viên của chùa Jokhang Temple.
Hai con nai chầu Bánh Xe Pháp Luân và một cái chuông đồng trên mái củachùa Jokhang Temple.
Những người hành hương phủ phục trước chùa Jokhang.
Đông Đại tự Todaiji, ngôi chùa bằng gỗ được xem là lớn nhất thế giới, được xây dựng tại thành phố Nara, Nhật Bản từ thế kỷ 8 bởi hoàng đế Shomu (701 – 756) , trở thành một trong những thánh địa Phật giáo quan trọng nhất xứ sở Phù Tang. Trải qua rất nhiều lần xây dựng, tu sửa, kích thước của chùa chỉ còn bằng hai phần ba so với Đông Đại tự nguyên thủy. Hiện, chùa còn lưu giữ những bức chạm khắc tinh vi, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc gỗ Nhật Bản cùng hàng trăm di vật, cổ vật quý hiếm khác. Đông Đại tự Todaiji được UNESCO công nhận là “Quần thể đài tưởng niệm mang tính lịch sử của thời kỳ Kinh đô Nara” .
6. Tiger’s Nest Monastery
Taktsang Dzong hoặc Paro Taktsang, cũng gọi là tu viện Taktsang hoặc Tiger's Nest, là một tu viện Phật giáo của người Tây Tạng nổi bật của tông phái Nyingma (phái mũ đỏ), nằm trên một mỏm núi của thung lũng Paro, xứ Bhutan. Được xây dựng vào năm 1692, xung quanh hang Senge Taktsang Samdup, nơi Guru Padmasambhava được cho là đã thiền định ba tháng trong thế kỷ thứ 8. Padmasambhava được biết là đã đem Phật giáo đến Bhutan và là vị thần thành hoàng của đất nước này.Tu viện được xây dựng vào năm 1692 và xây dựng lại vào năm 1998 sau khi hỏa hoạn. Bây giờ, tu viện bị hạn chế để thực hành nơi ẩn dật và khách du lịch thông thường thì không được thăm viếng.
Tu viện Taktsang
Tu viện Taktsang
7. Wat Rong Khun
Wat Rong Khun ở Chiang Rai, Thái Lan không giống bất kỳ một ngôi chùa Phật giáo nào trên thế giới. Toàn thể màu trắng, cấu trúc trang trí công phu được cẩn vào những tấm kiếng tỏa ánh sáng kỳ diệu, được thực hiện trong một phong cách hiện đại rõ rệt. Ngôi chùa là đứa con tinh thần của nghệ sĩ nổi tiếng Thái Lan Chalermchai Kositpipat.Trên thực tế, ngôi chùa vẫn còn đang xây dựng. Chalermchai hy vọng sẽ mất khoảng 90 năm nữa để hoàn thành, làm cho nó trở thành một ngôi chùa Phật giáo giống như ngôi nhà thờ Sagrada Familia ở Barcelona, Tây Ban Nha!
Wat Rong Khun, ngôi chùa trắng
Wat Rong Khun, nhìn từ xa
Một góc của mái chùa
Kỹ thuật trang trí mái chùa
Tôn tượng Phật điêu khắc, với các đường viền mạ gương khảm
Tay của địa ngục xin tiền lẻ của bạn
8. SHWEDAGON PAYA
Không ai biết chính xác ngôi chùa Shwedagon Paya
ở Myanmar được xây dựng
khi nào - theo truyền
thuyết kể rằng ngôi chùa đã
có 2.500 năm tuổi mặc dù
các nhà khảo cổ ước tính
rằng ngôi chùa được
xây dựng giữa thế kỷ thứ 6 và thứ 10.
Bây giờ, khi mọi người nói "ngôi chùa vàng", họ thường
có nghĩa là cấu trúc màu vàng. Nhưng khi nói đến chùa Shwedagon, vàng có
nghĩa là được dát vàng! Trong thế kỷ 15, một nữ hoàng của dân tộc Môn
đã ban tặng khối lượng vàng bằng với trọng lượng sức nặng của mình cho
ngôi đền. Truyền thống này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay, nơi người
hành hương thường tiết kiệm tiền trong nhiều năm để mua những gói lá
vàng nhỏ để dát vào các bức tường ngôi đền.
Như thể tất cả những vàng là không đủ, các chóp của ngôi
tháp và mái vòm được bao phủ với hơn 5.000 viên kim cương và hồng ngọc
2.000 (có cả một viên kim cương 76 carat ở trên đỉnh!). Và Ngôi chùa này
là một trong những di tích thiêng liêng nhất trong Phật giáo: thờ tám
xá lợi tóc của Phật.
Shwedagon Pagoda và tháp vàng
Shwedagon Pagoda vào ban đêm
9. Chion-in Temple
Chion-in Temple được xây dựng vào năm 1234 CE để tôn
vinh người sáng lập của Jodo (Tịnh) Phật giáo, một tu sĩ tên là Honen,
người đã nhịn đói đến chết ngay tại chỗ đó. Tại một thời điểm, toàn thể
là 21 tòa nhà nhưng do động đất và hỏa hoạn, những tòa nhà còn sót lại
thì xây dựng từ thế kỷ 17.
Du khách đến đền Chion-in đầu tiên phải đi qua chiếc
cổng lớn nhất ở Nhật Bản: Cửa San-mon có hai tầng. Cái chuông của chùa
cũng là một kỷ lục: nặng 74 tấn và cần đến 17 vị hòa thượng rung chuông
trong lễ đón mừng năm
mới.
Một tính năng thú vị của ngôi đền Chion-in là sàn của
hội trường "biết hát." Được gọi là sàn uguisu-bari hay Chim sơn ca, tấm
ván bằng gỗ được thiết kế để lung lay vì mỗi bước đi nhằm cảnh báo cho
các nhà sư là có kẻ xâm
nhập!
Cổng chính của chùa Chion-in
Chùa Chion-in trong mùa đông
Mái chùa Chion-in
Chuông của chùa Chion-in
Cấu trúc sàn nhà Chim Sơn Ca
10. Borobudur
Trong thế kỷ 19, người Hoà Lan xâm chiếm Indonesia họ đã
tìm thấy một cổ đại lớn đổ nát vùi sâu dưới rừng nhiệt đới Java. Những
gì họ phát hiện ra là một khu tổng thể Borobudur, một kiến trúc khổng lồ
được xây dựng với gần 2.000.000 feet khối (55.000 m³) của đá. Ngôi đền
có gần 2700 tấm chạm khắc nổi và 504 bức tượng
Phật.
Cho đến ngày hôm nay, không ai biết chắc khi nào và tại
sao nó được xây dựng, và cũng không rõ lý do nào mà Borobudur bị bỏ rơi
trong nhiều năm. Một số học giả tin rằng Borobudur thực sự là một cuốn
sách giáo khoa khổng lồ của Phật giáo, những bức phù điêu kể lại những
câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật và các giáo lý căn bản của Phật
Pháp. Để "đọc", một khách hành hương phải thực hiện theo cách của mình
thông qua chín nền tảng và đi bộ một đoạn đường dài trên 2
dặm.
Toàn cảnh của Borobudur.
Borobudur
Borobudur
Borobudur
Tầng trên cùng của ngôi đền Borobudur
Bên trong mỗi tháplà tôn tượng Phật
Những hình điêu khắc tại Borobudur.
11. ĐIỆN POTALA
Cung điện Potala, được xây trên đỉnh của ngọn núi Red
Mountain ở Lhasa, Tây Tạng, Trung Quốc được xây bởi hoàng đế đầu tiên
của Tây Tạng trong 637 CE. Các cung điện hiện nay được xây dựng lại vào
giữa năm 1600 của Dalai Lama thứ năm.
Cung điện gồm hai tòa nhà chính, Potrang Karpo (White
Palace) và Portrang Marpo (Red Palace). Đây là tòa nhà của vị thứ mười
bốn và hiện tại Dalai Lama cho đến khi ông bị buộc phải chạy trốn sang
Ấn Độ khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng vào năm 1959. Bây giờ là một bảo
tàng của nhà nước Trung
Cộng.
Tòa cung điện Potala
The White Palace.
Tọa
lạc tại vùng ngoại ô thủ đô Kathmandu, Nepal, Boudhanath là một trong
những tòa bảo tháp lớn nhất thế giới. Nơi đây được xem là trung tâm của
Phật giáo Tây Tạng ở Nepal, đồng thời cũng là nơi rất nhiều người tị nạn
từ Tây Tạng định cư trong nhiều thập kỷ và là điểm thu hút khách du
lịch trên toàn thế giới. Tòa tháp màu trắng nổi bật với chiều cao 36m,
chung quanh tòa tháp là một vành đai với 108 hình ảnh Phật A Di Đà này
còn nổi tiếng bởi trên cả 4 mặt của tòa tháp có chạm khắc đôi mắt Đức
Phật nhìn xa bốn phương tám hướng.
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
|
|||||||||||||||
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
CHÙA - THỦ ẤN
CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI TRUNG QUỐC
Thiên Đường Trên Đỉnh Nga Mi
Nga Mi sơn là một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn. Vị Bồ Tát bảo trợ của Nga Mi sơn là Samantabhadra, trong tiếng Việt còn được gọi là Phổ Hiền bồ tát.
Chùa Mặt Trời Và Mặt Trăng
Nằm bên hồ Banyu, chùa Mặt Trời và Mặt Trăng là một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất của tỉnh Quế Lâm
Chùa Leifeng
Được xây dựng vào năm 975, bởi vị vua của vương quốc Wuyue
Chùa Yellow Crane
Chùa Yellow Crane là một trong những tòa bảo tháp nổi tiếng nhất ở phía Nam sông Dương Tử và là một biểu tượng của thành phố Vũ Hán
Chùa Tianning
Ngôi chùa Tianning thuộc địa phận thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô, miền Đông, Trung Quốc gồm 13 tầng làm bằng gỗ quý hiếm.
Chùa Big Wild Goose
Nằm ở Tây An, một trong bốn thủ đô cổ đại của Trung Quốc, chùa Big Wild Goose là một biểu tượng của văn hóa Trung Quốc
Chùa Sakayamuni
Ngôi chùa cổ xưa nhất được làm hoàn toàn bằng gỗ ở Trung Quốc
Chùa Liuhe
Theo nghĩa đen có nghĩa là "Chùa 6 nốt nhạc hoà âm", kỳ quan kiến trúc này nằm ở chân đồi Yuelun ở Hàng Châu, Trung Quốc
Chùa Bạch Mã: Ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc
Chùa Bạch Mã, ngôi chùa cổ nhất Trung Quốc, nằm cách thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, miền đông Trung Quốc 6 dặm
Hàn Sơn Tự
Trung Quốc là đất nước mà chùa chiền có mặt ở khắp mọi nơi. Trong đó có nhiều thiền tự đã trở thành những di tích linh thiêng níu chân phật tử
CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI NHẬT BẢN
Các Chùa danh tiếng ở Nhật Bản
Ma Cốc Cổ Tự
01-02-2013 23:00:53 | lượt xem : 178Ma Cốc Cổ Tự (Magoksa) tọa lạc tại 966, Thôn magoksa-ro, Phường myeon Sagok, Thành phố Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do).
Chiêm ngưỡng ngôi chùa được công nhận là Di sản văn hóa cố đô Kyoto, Chùa Kiyomizudera
27-02-2013 05:53:35 | lượt xem : 383Tên chùa Kiyomizudera trong tiếng Nhật có nghĩa “Chùa nước thiêng -Thanh Thủy Tự”. Chùa thờ Phật Quan Âm nghìn tay, được công nhận là Di sản văn hóa cố đô Kyoto và từng là ứng viên bầu chọn Bảy kỳ quan thế giới mới năm 2007.
Chùa Hòa Lạc
20-03-2013 05:05:50 | lượt xem : 200Chùa Hòa Lạc là ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam sống ở miền Tây, Kansai, Nhật Bản.
Royal Grand Hall
20-03-2013 05:24:20 | lượt xem : 331Royal Grand Hall - Hùng Nghiêm Đại Điện Phật Giáo ở Quận hạt Hyogo, Nhật Bản dường như sẽ phá nhiều kỷ lục trên thế giới. Hyogo, Japan
Chùa Đông Đại
20-03-2013 05:29:58 | lượt xem : 186Chùa Đông Đại, tiếng Nhật là Todai-ji (Đông Đại tự - 東大寺), là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Nhật Bản
Asakusa - Ngôi chùa to và nổi tiếng nhất Tokyo
20-03-2013 05:46:45 | lượt xem : 203Chùa Hòa Lạc là ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam sống ở miền Tây, Kansai, Nhật Bản
Chùa gỗ cổ nhất Nhật Bản
20-03-2013 05:51:33 | lượt xem : 261Không chỉ nổi tiếng với mùa hoa anh đào nở hay tự hào là đất nước của Mặt trời mọc, Nhật Bản còn nổi tiếng với những công trình kiến trúc chùa cổ
Hōryū Gakumonji - Ngôi chùa nổi tiếng ở Nhật Bản
20-03-2013 05:57:08 | lượt xem : 257NTO - Hōryū-ji (kanji: 法隆寺, romaji: Hōryū-ji, phiên âm Hán-Việt: Pháp Long Tự) là một ngôi chùa Phật giáo ở Ikaruga, tỉnh Nara, Nhật Bản
Chùa vàng Kinkakuji nổi tiếng ở Nhật Bản
20-03-2013 06:01:00 | lượt xem : 407Ngôi chùa Kinkakuji ở Kyoto, thường được mệnh danh là Tây Kinh của nước Nhật.
CÁC NGÔI CHÙA DANH TIẾNG TẠI THÁI LAN
10 ngôi chùa nổi tiếng và đẹp nhất Thái Lan
Nếu nói đến du lịch Thái Lan, không thể không nhắc đến những ngôi chùa hoành tráng, quy mô và lộng lẫy, là niềm tự hào của “đất nước của những nụ cười” này. Thái Lan còn được đặt thêm một một cái tên nữa là “Đất nước của những chiếc áo cà sa”, đặc tả về một tôn giáo lớn mà khoảng 95% người dân Thái tôn thờ đó là Phật Giáo, được xem là Quốc giáo. Vì vậy, dulichcamthai xin gửi đến quý khách giới thiệu đôi nét về 10 ngôi chùa đẹp lộng lẫy nhất và nổi tiếng nhất Thái Lan để quý khách có thêm kiến thức về đất nước này.
Đặc biệt, trong chương trình du lịch Thái Lan tháng 2 và tháng 3/2013 ,
chúng tôi có chương trình khuyến mãi du lịch Thái Lan giá rẻ rất hấp dẫn
dành cho du khách book tour ngay hôm nay. Đừng chần chừ nữa, hãy gọi
ngay 0938 65 77 68 hoặc 0973 35 14 68 để được tư vấn tour Thái giá rẻ
ngay.
Nhắc đến Thái Lan người ta nghĩ ngay đến “đất nước của những nụ cười
,đất nước tự do,đất nước của những chiếc áo cà sa”. Tên gọi cuối cùng
này đã mô tả một cách sâu sắc về một tôn giáo lớn mà dân tộc Thái đang
tôn thờ đó là Phật giáo.Vì 95% dân số của Thái Lan theo đạo phật và được
xem như Quốc Giáo.Chính vì thế khi có dịp đến thăm đất nước Thái quý
khách không thể bỏ qua trong lịch trình của mình đó là tham quan những
ngôi chùa.Xin giới thiệu 10 cảnh chùa đẹp và nổi tiếng nhất đất nước
Thái Lan để quý khách tham khảo.
1. CHÙA CHIANG MAN
Chùa Chiang Man là một ngôi chùa tại thành phố Chiang
Mai, Thái Lan. Đây là ngôi chùa lâu đời nhất tại Chiang Mai, được xây
vào khoảng thế kỷ 13. Nó thậm chí còn nhiều tuổi hơn cả thành phố này.
Vua Mengrai đã đến sống tại đây trong khi chờ thủ phủ xây dựng xong.
Ngôi chùa nổi tiếng với bức tượng Phật pha lê Phra sae Tang
Kamani.Một bức tượng khác cũng làm nên sự nổi tiếng của ngôi chùa này là
tượng Phật bằng đá Phra Sila, chạm khắc vào năm 900 tại Ấn Độ.
Vẻ đẹp của ngôi chùa còn được khắc họa ở hình ảnh 15 con voi quay về
các hướng, ở tượng Phật đứng cao tuổi nhất vương quốc Lanan Thai (542
năm) và ở bản khắc đá gần cửa phòng lễ thụ chức. Bản khắc đá kể về lịch
sử của thành phố, về đế chế Lanna Thai và những người có công đóng góp
cho ngôi chùa.
2. CHÙA WAT PHRA KAEW CHIANG RAI VÀ BANGKOK
a.Wat phra Kaew Chiang RaiWat Phra Kaew là một quần thể chùa và tu viện Phật giáo ở Thanon Trairat tại Tambon Wiang, huyện Muueng, tỉnh Chiang Rai, Thái Lan.
Wat Phra Kaew đã được chỉ định làm ngôi chùa hoàng gia đầu tiên ở Chiang Rai ngày 31 tháng 5 năm 1978(năm 2521 Phật lịch).
Ngôi chùa từng được gọi là Pa Yeah (วัดป่าเยี้ยะ hay วัดป่าญะ – Chùa Rừng Tre) vì trên thực tế xung quanh chùa này có tre bao bọc cho đến năm 1434 khi chedi của nó bị sét đánh để lộ ra hình ảnh Phật ngọc bên trong. Sau thời điểm đó chùa được đổi tên thành Phra Kaew.
b. Wat Phra Kaew Bangkok - Chùa Phật Ngọc
Wat Phra Kaew hay còn gọi là Chùa Phật Ngọc ở Bangkok được xem là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất ở Thái Lan. Chùa tọa lạc tại trung tâm lịch sử Bangkok (quận Nakhon), bên trong khuôn viên củaCung điện Hoàng Gia Thái Lan
Việc xây dựng ngôi chùa này bắt đầu khi vua Phật Yodfa Chulaloke
(Rama I) dời kinh đô từ Thonburi đến Bangkok năm 1785 . Wat Phra Keo nằm
cạnh Cung điện Lớn và có tầm quan trọng bậc nhất trong các ngôi chùa
nổi tiếng của Thái Lan, được xem như nhà chùa của Hoàng gia, với diện
tích rộng đến 945.000 m², bao gồm hơn 100 tòa nhà cao tầng, và là ngôi
chùa duy nhất không có sư sãi. Chùa nổi tiếng không chỉ vì vẻ đẹp của
nhiều kiểu kiến trúc, mà còn vì bức tượng Phật bằng ngọc bích thiêng
liêng nhất trong hằng hà sa số tượng Phật trên vương quốc. Không giống
các ngôi chùa khác, chùa này không có khu nhà ở cho các vị sư mà chỉ có
các tòa nhà được trang trí các cảnh linh thiêng, các bức tượng.
3. CHÙA WAT PHRATHAT DOI SUTHEP
Chùa Phrathat Doi Suthep (tiếng Thái: วัดพระธาตุดอยสุเทพ Wat Phrathat Doi Suthep) là một trong những ngôi chùa thiêng liêng nhất tại Chiang Mai (Thái Lan) và được nhiều người Thái Lan tin sùng.
Người ta có câu “Chưa đến chùa Phrathat Doi Suthep là chưa đến Chiang
Mai”, ” Đây cũng là ngôi chùa linh thiêng ở Chiang Mai “. Suốt 600 năm
qua, chùa có nhiều thay đổi và được tu sửa nhiều lần. Trước đây để lên
được đỉnh núi phải mất 5 giờ qua một con đường hẹp, nhỏ và nhấp nhô được
xem là trở ngại lớn nhất để lên được đỉnh chùa.
Năm 1934, nhà sư Kruba Srivichai đến Chiang Mai để thực hiện dự án
xây dựng đường lên chùa. Tin tức lan truyền khắp nơi nên Phật tử khắp
nơi đổ về đây góp công sức, kể cả những người dân tộc thiểu số sống ở
vùng núi.
Chùa còn là điểm tham quan hấp dẫn của thành phố Chiang Mai, ngoài
việc thưởng ngoạn, viếng bái Phật, chùa còn là nơi có thể phóng tầm mắt
ngắm nhìn toàn thể thành phố Chiang Mai từ trên cao từ núi Doi Suthep.
4.CHÙA WAT RATCHANADDARAM
Wat Ratchanaddaram (tiếng Thái: วัดราชนัดดาราม , tiếng Việt: Chùa Ra- cha -nách -đa -ram)
là một ngôi chùa khá lớn nằm ngay giao lộ Ratchadamnoen Klang và
Mahachak Road, thuộc quận Phra Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa này được xây
dựng vào năm 1846 theo lệnh của vua NangKlao, tức vua Rama III.
Nét đặc sắc nhất của chùa
Đằng sau Wat Ratchanaddaram có một kiến trúc đặc sắc và gây chú ý tại
Bangkok, đó chính là Loha Prasad. Đài kỷ niệm này do hoàng đế Rama III
xây dựng, một cao ốc có mái nhiều tầng chồng lên nhau, rập theo mô hình
kiến trúc tại Sri Lanka. Đền kỷ niệm vươn cao 36 m, những chóp nhọn bằng
thép bao phủ những tháp tua tủa lên không trung, mệnh danh là tháp kim
lọai. Có tất cả 37 tháp.
Đền kỷ niệm có tiếng tăm ấn tượng nhất trong vùng là PhuKhaoThung,
còn gọi là Núi Vàng. Đền kỷ niệm cao tới 78 m, chóp đỉnh kề thang gác
318 bậc quanh chân ngọn đồi. Tại đây trưng bày nhiều di vật của đức Phật
do Phó vương Ấn Độ tên là Lord Curzon trao cho quốc vương Chulalongkorn
vào năm 1877.
5. CHÙA WAT TRAIMIT - Chùa Phật Vàng
Wat Traimit (tiếng Thái:วัดไตรมิตร), còn có tên tiếng Việt là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ đẹp độc đáo, lịch sử của nó, và nhờ pho tượng Phật bằng vàng nguyên khối cao 3 mét đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn. Người địa phương cho rằng bức tượng lớn nhất thế giới này biểu thị cho sự thịnh vượng và thuần khiết cũng như sức mạnh và quyền năng. Chùa này tọa lạc ở cuối đường Yaowarat, gần ga Hualampong, thuộc quận Samphanthawong.
6. CHÙA WAT BOWONNIWET
Chùa Wat Bowonniwet Vihara (Tiếng Thái:วัดบวรนิเวศวิหาร) là ngôi chùa khá nổi tiếng nằm ở quận Phra Nakhon, Bangkok. Chùa này là trung tâm của phái Thammayut và là ngôi chùa được các triều vua Chakri thường xuyên lui tới. Chùa được xây dựng vào năm 1936, là nơi vua Rama IV lên ngôi và ban hành luật pháp. Hiện nay trong chùa còn phần mộ của vị quốc vương này.
7. CHÙA WAT PATHUM WANARAM
Wat Pathum Wanaram (Tiếng Thái: วัดปทุมวนาราม,phiên
âm kiểu tiếng Việt: Chùa Pa-thum -wa-na-ram) là ngôi chùa nằm ở quận
Pathum Wan , nằm giữa 2 trung tâm thương mại lớn của Bangkokchính là
Siam Paragon và Central world, nằm trên đường Siam Square. Ngôi chùa
được xây dựng vào năm 1857 bởi vua King Mongkut (Rama 4) là nơi tiến
hành các nghi lễ của hoàng tộc ,tôn giáo của vua gần Sa Pathum Palace.
8. CHÙA WAT RAJBOPIT
Wat Rạbopit (tiếng Thái:วัดราชบพิธสถิตมหาสีมารามราชวรวิหาร) là ngôi chùa nằm ở phía Nam của Wat Suthat thuộc quận Phara Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa này được xây dựng vào thời vua Rama V (1868-1910 AD). Đây chính là điểm tham quan hấp dẫn của Bangkok cạnh Wat Suthat.
Điểm nổi bật nhất của công trình này chính là những khảm sành sứ 5 màu được khảm trên tháp đựng hài cốt chính. Kiến trúc của gian thờ chính mang phong cách Thái, còn phần trang trí nội thất lại có hơi hướng chịu ảnh hưởng của trường phái Châu Âu với một số chi tiết Gô-tích. Đặc biệt nhất và ấn tượng nhất vẫn là những mảng khảm trai trang nhã và những bức phù điêu tinh tế trên các tấm cửa sổ và cửa ra vào của gian thờ chính.
9. CHÙA WAT SUTHAT
Chùa Wat Suthat Thepwararam (tiếng Thái Lan: วัดสุทัศน์เทพวราราม) nằm trên đại lộ Bamrung Muang ở thủ đô Bangkok.
Chùa xây dựng năm 1807 do hoàng đế Rama I xây dựng và kéo dài tới
triều đại Rama III mới hoàn tất. Chùa lưu giữ nhiều tượng Phật mạ vàng
nhất và là ngôi chùa cao nhất tại Bangkok.
Toàn bộ khuôn viên chùa được lát bằng đá hoa cương sạch sẽ và bóng
lộn. Tượng thờ chính trong gian chính điện là bức tượng Phật mạ vàng (Phra Sisakayamuni) cổ nhất và là bức tượng Phật mạ vàng lớn nhất tại Thái Lan nặng 5,5 tấn.
Tòa thư viện sau chùa được xem là to nhất và là đẹp nhất trong loại
này tại Thái Lan. Thư viện này cao 72 m với 68 cây cột bao quanh. Bên
trong tòa nhà có bức tượng Phật tọa thiền bằng đồng mạ vàng
(PhraPutatrilokachet) khá sắc sảo cao 8,45 m và và bề ngang là 5,2m.
10. CHÙA WAT YAN NAWA
Wat Yan Nawa (Tiếng Thái: วัดยานนาวา, Tiếng Việt: Chùa Thuyền ) là ngôi chùa nằm ở đường Charoen Krung thuộc quận Sathon, Bangkok. Đây là ngôi chùa độc nhất vô nhị vì nó được xây dựng theo hình dáng một con thuyền được xây dựng bởi vua Rama III. Hình dáng chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình dáng con thuyền của người Trung Hoa cùng với kiến trúc Thái là các chedi cao vút mang đậm phong cách thời Ayuthaya. Đồng thời ngôi chùa còn là nơi lưu giữ nhiều xá lợi nhất.
Ngoài 10 cảnh chùa nêu trên Thái Lan còn rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác.
Tìm kiếm trên Google:
- ngoi den noi tieng o thai lan
- hinh nen nguoi dep thai lan
- chùa thái lan
- hinh nen ngoi chua chu
- ung ngi chua dep nhat
- den chua o thai lan
- nhung ngoi chua dep
- nhung ngoi chua o thai lan
- nhung ngoi chua dep nhat thai lan
- nhung canh chua dep
Ý nghĩa các thủ ấn trong tượng Phật ở Thái Lan
Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật
giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các
quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng
nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều
này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở
Thái Lan.
Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật
giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các
quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng
nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều
này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở
Thái Lan. Có rất nhiều các thủ ấn khác nhau, nhưng có một thủ ấn rất đặc
biệt ở Thái Lan đó là thủ ấn tượng Phật nằm. Ngoài thủ ấn này, còn có 6
thủ ấn chính khác nữa ở tượng Phật Thái Lan.
1. Thiền ấn (pang sa-maa-ti hay dhyana mudra)
Cử chỉ này thường thấy ở các tượng Phật ngồi. Lòng bàn tay Phật ngửa lên đặt ngay ngắn trong lòng. Tư thế này cho thấy Phật đang tập trung tinh thần nhiếp phục thân tâm.
2. Thí vô úy ấn (pang bpra-taan a-pi hay abhaya mudra)
Khi bàn tay Phật thể hiện động tác này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Tư thế này thường thấy ở cả tượng Phật đứng và tượng Phật ngồi. Có hai biến thể. Một trong các biến thể là cánh tay cong ở cả cổ tay và khuỷu tay. Các ngón tay chỉ lên trên và lòng bàn tay hướng ra ngoài. Trường hợp nếu là cánh tay phải thì có nghĩa là điều phục thú dữ. Nếu là cả hai tay thì có nghĩa là nghiêm cấm thân nhân.
3. Thí nguyện ấn (pang bpra-taa pon hay varada mudra)
Tay phải của Đức Phật chỉ xuống với lòng bàn tay phải hướng về phía trước và các ngón tay mở rộng. Tư thế này thường được thấy trên tượng Phật đứng khi đang cho hoặc nhận của bố thí.
4. Xúc địa ấn ( pang maa-ra-wi-chai hay bhumisparsa mudra)
Trong nghệ thuật tượng Phật Thái tư thế này được gọi là Đức Phật điều phục Mara (Ma vương). Mara là một con quỷ cám dỗ Đức Phật. Tay phải của Phật được đặt trên cẳng chân trong trạng thái chạm vào Trái đất, đôi khi chỉ là tượng trưng. Đây là tư thế thường thấy nhất.
5. Chuyển pháp luân ấn (dharmacakrapravartana mudra)
Ngón tay trỏ và ngón tay cái của mỗi bàn tay chạm vào nhau. Các ngón của bàn tay trái chạm vào lòng bàn tay phải. Đây là một tư thế rất hiếm gặp. Tư thế này nói lên việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp với bài pháp đầu tiên của mình.
6. Giáo hóa ấn (vitarka mudra)
Ngón tay cái và ngón tay trỏ, thường là ở bàn tay phải chạm vào nhau, các ngón còn lại hướng lên trên. Cánh tay cong nơi khuỷu tay và cổ tay. Điều này được xem như lời kêu gọi hòa bình. Đức Phật đang nhằm kêu gọi mọi người hãy giải quyết các vấn đề thông qua tư duy lôgic và lý luận.
THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu
khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng
được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời kỳ
đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn rụi
theo cát bụi và thời gian.
Lời giới thiệu:
Thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên là thế kỷ hoàng kim của các tôn
giáo Á Đông. Những biến cố mang tính cách lịch sử vĩ đại đã lần
lượt xảy ra tại các nước Đông Phương: Khổng Tử và Lão Tử tại
Trung Hoa, Zoroaster tại Iran (Ba Tư), Mahavira và Đức Phật Thích Ca
tại Ấn Độ.
Trong vùng lốc xoáy tôn giáo đó, đaọ Phật do Đức Thích Ca sáng
lập, đã đứng vững và tiếp tục lớn mạnh như một ngọn đuốc sáng để
đáp ứng nhu cầu tâm linh của loài người. Đaọ Phật đã đem đến cho
con người một đời sống tâm linh hoàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, đaọ Phật
cũng không thoát ra ngoài qui luật chung của vũ trụ "thành, trụ,
hoại, không," và cũng đã trãi qua không biết bao nhiêu biến cố thăng
trầm của lịch sử các dân tộc và tôn giáo; nhưng đạo Phật vẫn tồn
tại và còn tồn tại mãi trong dòng sinh mệnh của các đất nước đạo
Phật đã đi qua và để lại dấu ấn.
Nói đến đạo Phật, thiết tưởng chúng ta phải nhắc đến vị giáo chủ đã sáng lập ra tôn giáo đó.
Vào thế kỷ thứ 6, năm 566 trước Công Nguyên, tại thành Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavatsu) của một tiểu vương quốc tại Ấn Độ, Thái tử
Tất Đạt Đa (Siddhartha) đã giáng sanh trong sự chờ đón trọng thể
huy hoàng của hoàng gia và dân chúng. Thái tử là con của đức vua
Tịnh Phạn (Sudhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi). Thái tử ra đời
tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), gần sát biên giới Nepal và Ấn Độ.
Một đạo sĩ đã tiên đoán rằng "Thái tử, hoặc sẽ trở thành một
đaị vương cai trị tứ châu thiên hạ, hoặc sẽ xuất gia tu hành đắc
quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." Vua cha nghe vậy, vội tìm
đủ mọi cách ngăn chận. Nhưng những phương cách đó đều vô hiệu,
ngay cả người vợ tài sắc của Thái tử là công nương Da Du Đà La
(Yasodhara) và đưá con mới chào đời La Hầu La (Rahula) cũng không thể
dẹp tan được ý nghĩ thoát ly mọi ràng buộc thế tục của Thái tử.
Thái tử đã nhìn thấy được cảnh sanh, lão, bệnh, tử của con người,
đã hiểu rõ sự vô thường thay đổi của vạn hữu hàm linh và Thái tử
muốn đi tìm phương pháp giải thoát khổ đau cho chính mình và
nhân loại. Không lâu sau đó, Thái tử đã thoát ly hoàng cung, rời
xa mái ấm gia đình, dấn thân vào cát bụi.
Sau 11 năm tầm sư học đaọ, khổ hạnh đủ mùi, tham bái cầu đạo
với nhiều danh sư, Bồ Tát Tất Đạt Đa vẫn không thấy thoả mãn.
Ngài nhận thấy phương cách tu tập, lý thuyết của các đạo sư vẫn
tiêu cực bế tắc. Ngài liền bỏ lối tu tập đó và một mình một bóng
đến ngồi tham thiền bên bờ sông Ni Liên Thiền (Uruvila). Qua 49
ngày đêm nhập định, Bồ Tát Tất Đạt Đa hoát nhiên đại ngộ, chứng thành
quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tôn hiệu là Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni. Sau khi chứng đắc chân lý, Đức Phật đã đến gặp năm
anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển. Bài thuyết pháp đầu tiên
của Đức Phật nói về pháp Tứ Đế được gọi là Chuyển Pháp Luân
(Dhamma - Chakrapravartana). Giáo lý Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo)
xuyên suốt Bát Thánh Đạo hay Bát Chánh Đạo (Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh
Định, Chánh Niệm) đã hướng dẫn bao nhiêu người giải thoát từ dòng
sông đau khổ đến bến bờ cực lạc hạnh phúc.
Suốt 45 năm, Đức Phật và hàng đại đệ tử của Ngài đã đi khắp
lãnh thổ Ấn Độ, từ bờ sông Hằng đến những làng quê hẻo lánh, cốt
yếu để truyền bá chánh pháp giải thoát lầm mê cho chúng sanh. Ánh sáng
đạo Phật truyền đến đâu thì bóng tối vô minh tan đến đó. Hàng triệu
triệu người đã tìm thấy hạnh phúc và giải thoát. Đức Phật nhập
diệt tại thành Câu Thi Na (Kusinagara) năm 486 trước Công Nguyên. Năm
ấy, Ngài được 80 tuổi.
Đạo Phật đã phát triển rực rỡ tại Ấn Độ, nhất là tại thành Câu
Xá La (Kosala) và Ma Kiệt Đà (Magadha) còn được gọi là trung tâm
Phật Giáo. Nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 200 năm, đạo
Phật cũng theo những biến cố lịch sử mà có nhiều thăng trầm thay
đổi. Trong những biến cố lịch sử đó, trận chiến thảm khốc với
quân Kalinga của vua A Dục (Asoka) là bước ngoặt nổi tiếng trong lịch sử
Phật Giáo Ấn Độ.
Vua A Dục đã rùng mình tỉnh giấc mộng đế vương khi nhìn xác
người ngựa đẫm máu nằm chết la liệt ở chiến trường. Hình ảnh đẫm máu đó
đã khích động mãnh liệt lòng vị vua bạo tàn đó, khiến ông ta
hối hận đã gây ra cảnh tương tàn hủy diệt sanh linh. Từ đó, A
Dục Vương đã chuyển hoá tâm hồn, tìm hiểu đạo Phật và qua giáo lý, A
Dục Vương đã thuần hoá từ từ trở thành một vị vua nhân đức nhất
của lịch sử Ấn Độ.
Những thánh tích Phật Giáo còn sót lại trên lãnh thổ Ấn Độ đều
có dấu ấn trùng tu lại của vua A Dục; nhờ thế mà ngày nay chúng
ta có thể học và hiểu rõ thêm về những di tích lịch sử Phật Giáo
qua những bia ký và thánh địa.
Những Thánh Địa
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại dấu chân Ngài trên toàn
lãnh thổ Ấn và hình bóng Ngài đã khắc sâu trong tâm tư nhân loại.
Trong thời kỳ chánh pháp hưng thịnh, các địa danh quan trọng đều
được nhắc tới. Bốn thánh địa nổi tiếng của Phật Giáo nói riêng
và của Ấn Độ nói chung là: Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật
giáng sanh, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya) nơi Đức Phật thành đạo, Lộc Uyển
(Sarnath) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, và Câu Thi Na
(Kusinagara) nơi Đức Phật nhập diệt.
Bốn địa danh quan trọng khác cũng được đề cập đến trong lịch
sử Phật Giáo là bốn nơi Đức Phật đã thi triển thần thông để giáo
hoá điều phục chúng sanh. Những địa danh đó là: Sravasti (thủ phủ của
Kosala) nơi Đức Phật đã thi triển thần thông điều phục Ca Diếp
(Puruna Kasyapa), người lãnh đạo phái Tirthika (đạo thờ thần
lửa). Nơi thứ hai là Sankasya, Đức Phật đã lên tầng trời thứ 33
để giáo hoá cho hoàng hậu Ma Gia (mẫu thân của Ngài). Nơi thứ ba
là Rajagriha (thủ phủ của Ma Kiệt Đà), nơi đây Đức Phật đã điều
phục con voi say do Đề Bà Đạt Đa sai khiến ra giết Đức Phật. Nơi thứ
tư là Vệ Sá Ly (Vaisali), nơi đây Đức Phật đã thọ dụng bát mật ong
do đàn khỉ dâng cúng.
Những địa danh nổi tiếng này và những biến cố trong cuộc đời
Đức Phật đã là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Phật Giáo
từ xưa cho đến nay.
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thập
phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng được
xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời
kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn
rụi theo cát bụi và thời gian.
Ngày nay, các nhà khảo cổ Ấn Độ đang trên đường khai quật lại di tích và trùng tu lại các thánh địa.
Thánh địa thứ nhất:
Lâm Tỳ Ni (Lumbini)
Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng sanh, là một thánh địa
ở vùng Rummindei, cách một dặm về phía Bắc vùng Paderia và hai
dặm phía Bắc vùng Bhagwanpur nước Nepal. Ngày nay các nhà khảo cổ
xác định Lâm Tỳ Ni nằm về phía Bắc quận Basti của xứ Uttar
Pradesh.
Theo tài liệu sử Phật Giáo, Lâm Tỳ Ni tọa lạc cách thành Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavastu) 12 dặm. Sử chép rằng, "Theo tục lệ, Hoàng
Hậu Ma Gia phải trở về quê mẹ để sanh nở. Khi đến động hoa Lâm Tỳ
Ni, bà cảm thấy trong người sảng khoái lạ thường. Cảnh vật xinh
đẹp tươi mát chào đón, chim muông hót ríu rít trên cây, gió hiu
hiu thổi làm tâm hồn người dịu êm nhẹ nhàng, Hoàng Hậu thong thả dạo
bước ngắm nhìn thưởng thức cảnh trí thiên nhiên.
Khi đến tàng cây Sa La, Hoàng Hậu dơ tay vịn cành hoa sà thấp
trước mặt và kỳ lạ thay, Thái tử giáng trần trong tư thế đứng của
người mẹ. Chư Thiên tung hoa chào đón, bẩy con rồng phun nước
thơm tắm rửa Thái tử và Thái tử đi 7 bước dõng dạc tuyên bố rằng:
"Ta là đấng Vô Thượng Đạo Sư của Trời Người." (Thiên thượng
thiên hạ, duy Ngã độc tôn). Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử được các cung
nô hầu hạ trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Quang cảnh giáng sanh của Thái tử Tất Đạt Đa là đề tài cho
hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Ấn mà ngày nay người ta đã tìm thấy
trong điêu khắc và tranh vẽ.
Nhận dạng được địa danh của Lâm Tỳ Ni, thiết tưởng chúng ta
phải nhớ đến công ơn của vua A Dục. Hai mươi năm sau ngày đăng
quang lên ngôi hoàng đế, Vua A Dục đã đích thân đi chiêm bái
đãnh lễ các thánh địa và chính Vua đã sai người đúc một cột trụ khắc
lên dòng chữ "Địa danh này là nơi Đức Phật giáng sanh." Vua A Dục
cũng đã giảm 5% thuế hằng năm cho dân chúng vùng này. Đó là một
đặc ân của vua A Dục đối với dân cư địa phương nơi Đức Phật giáng
sanh. Bên cạnh cột trụ này, người ta còn thấy một ngôi đền xưa cũ khắc
chạm hình ảnh quang cảnh giáng sanh của Đức Phật.
Lâm Tỳ Ni đã trở thành một thánh địa quan trọng hàng đầu đối
với người Phật tử. Ngàn năm trước, những du tăng Trung Quốc đều
lần lượt viếng thăm Lâm Tỳ Ni. Chung quanh cột trụ do vua A Dục
sai đúc, các vị du tăng cũng đã tự đắp lấy những bia đá lớn nhỏ
đánh dấu những cuộc viếng thăm cúng dường. Về sau, chính phủ Nepal
ra lệnh khai quật vùng này để tìm thêm tài liệu chứng cứ.
Thánh địa thứ hai:
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya)
Thánh địa nổi tiếng thứ hai trong lịch sử Phật Giáo là Bồ Đề
Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Nơi đây Đức Phật đã tọa thiền
suốt 49 ngày đêm dưới tàng cây pipala, bên cạnh dòng sông Ni Liên
Thiền. Vì hiện tượng bất diệt đó, địa danh này đã trở thành Bồ
Đề Đạo Tràng, và cây cổ thụ pipala được đặt tên là cây Bồ Đề (có
nghĩa là "giác ngộ, bodhi tree").
Có thể nói, Bồ Đề Đạo Tràng đã trở thành một cái nôi của lịch
sử văn hoá Phật Giáo và các đệ tử Phật đều ao ước được ít nhất
một lần đến chiêm bái nơi này. Tòa cỏ Đức Phật ngồi thiền, cây Bồ
Đề đều được chăm sóc kỹ lưỡng. Những bia tháp và những cột đá
lớn nhỏ chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, do các du tăng Ấn Độ, Trung
Quốc và các nước khác tự đắp lấy cúng dường khi đến chiêm bái thánh địa
này, và tài liệu ghi chép của ngài Tam Tạng Huyền Trang, đã cho
chúng ta hình dung ra được quang cảnh sầm uất rực rỡ của địa danh
này trong quá khứ hơn 2500 năm trước. Cây Bồ Đề bây giờ là cây
cháu cây chắt của hàng ngàn cây Bồ Đề gốc, nhưng cành lá vẫn xum
xuê, thân cây to lớn rắn chắc.
Chính ngài Alexander Cunningham và một số các nhà bác học khác
là những người đầu tiên khai quật những bia ký và cột trụ tại Bồ
Đề Đạo Tràng này. Đại tháp Bồ Đề đã được trùng tu lại nhiều lần
với một kinh phí rất to lớn. Vua A Dục cũng đã xây dựng một ngôi
đền tại thánh địa này. Ngôi đền do vua A Dục xây đã được miêu tả
nhiều trong nghệ thuật Ấn; tuy nhiên di tích của ngôi đền này đã
không còn tìm thấy dấu vết nữa.
Ngôi đại tháp Bồ Đề chúng ta thấy hiện nay là ngôi tháp mới
được trùng tu lại sau này. Theo sự miêu tả của ngài Tam Tạng
Huyền Trang thì đại tháp Bồ Đề đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 7
sau Công Nguyên theo mô hình của một đại bảo tháp tại Miến Điện (Burma).
Hiện nay, ngôi đại bảo tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng cao gần 160
bộ và xây theo hình tứ giác. Trên đỉnh là một ngọn tháp nhọn.
Trong tháp, người ta khắc chạm hình tượng Đức Phật thành đạo. Phiá Bắc
của ngôi tháp là một con đường hẹp cách mặt đất 4 bộ.
Người ta
miêu tả đó là con đường nhỏ mà Đức Phật, sau khi thành đạo, đã đi thiền
hành qua lại trên con đường này. Ngoài ra, lại còn có nhiều hình
hoa sen được chạm trỗ trên con đường đó vì người ta tin rằng
mỗi bước chân Đức Phật đi đều có hoa sen nở tung ra đến đó.
Người ta còn thấy một mảng đá cát đỏ cạnh cây Bồ Đề, tượng trưng
cho đệm cỏ mà hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã ngồi và chứng
đạo. Còn rất nhiều những kiến trúc chạm trỗ khác khắc ghi lại
hình ảnh của Đức Phật và các đại đệ tử, các Phạm Thiên. Những
kiến trúc thẩm mỹ đó đã hấp dẫn hàng triệu người đến chiêm bái Bồ
Đề Đạo Tràng mỗi năm càng ngày càng đông, tạo nên một luồng
sóng du lịch khổng lồ về quê Đức Phật giúp cho nền tài chánh quốc phòng
Ấn thêm một phần lợi tức đáng kể.
Thánh Địa thứ ba:
Sarnath
Một thánh địa đáng ghi nhớ nữa trong lịch sử Phật Giáo là
thánh địa Isipitana hay Sarnath. Nơi đây, trong sự tĩnh lặng của
vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã khai giảng bài pháp đầu tiên cho 5 anh
em ông Kiều Trần Như trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Nội
dung bài thuyết pháp nói về những khổ đau của kiếp người và những phương
cách giải hóa những thống khổ đó. Sự kiện này đã được mệnh danh
là "Chuyển Pháp Luân," có nghĩa là Đức Phật chuyển bánh xe pháp
đầu tiên đánh dấu một kỷ nguyên huy hòang rực rỡ của một tôn giáo
kéo dài bền vững trên 2500 năm cho đến nay.
Sarnath là nơi xuất phát tôn giáo do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
sáng lập. Vì thế, Sarnath đã trở thành trung tâm Phật giáo lớn
nhất tồn tại trên 1500 năm. Trong những thế kỷ đầu tiên của thời
kỳ Phật giáo hưng thịnh, dưới triều đại vua A Dục, Sarnath đã
trở thành một nơi tranh luận nổi tiếng giữa các tông phái và đạo giáo.
Hai ngài Pháp Hiền và Trần Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh tích này
vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Hai ngài đã để
lại cho chúng ta nhiều tài liệu giá trị về lịch sử thánh địa
này. Nơi đây, vua A Dục cũng đã sai người xây dựng một cột trụ
đánh dấu khu vực ẩn cư trong nhiều tòa nhà lớn nhỏ khác nhau của
hơn 1500 vị tăng sĩ Phật giáo đến Sarnath. Trong những di tích
còn sót lại đó, người ta phải nhắc đến một ngôi đền tuyệt mỹ có
tượng Phật bằng đồng trong hình tướng chuyển Pháp luân, một ngôi
cổ tháp và một cột trụ bằng đá. Tất cả đều do vua A Dục xây
dựng. Thánh địa này đã phát triển rực rỡ trong nhiều triều đại
và cũng đã được trùng tu lại nhiều lần. Theo bia ký và những
chứng cứ khảo cổ, người ta biết rằng ngôi đền có tượng Đức Phật
Chuyển Pháp Luân đã được trùng tu lại theo lệnh của hòang hậu
Kumaradevi vào phân nửa đầu thế kỷ thứ 12 trước Công nguyên.
Chẳng bao lâu sau, địa danh này bị quân đội của Muhammad Ghori,
của đạo quân Huns và Mahmud Ghazni phá hủy hòan tòan, nhưng
Sarnath lại được trùng tu do công sức của các tín đồ Tăng Ni
Phật giáo khắp nơi. Tuy nhiên về sau, vì đạo Phật đã suy tàn tại
Ấn Độ, Sarnath, một địa danh lịch sử nổi tiếng và huy hòang một
thời đã bị tiêu hủy mất dấu trong đổ nát hoang tàn của cát bụi thời
gian.
Ngày nay, viện khảo cổ Ấn đã tổn phí sức lực và tài chánh
thật nhiều trong công cuộc khai quật và trùng tu lại thánh địa
Sarnath. Khi chúng ta đến Sarnath từ hướng Varanasi, chúng ta sẽ
thấy một mặt phẳng bát giác bằng gạch nung nhô lên khỏi mặt đất. Mặt
phẳng này là di tích còn sót lại của một ngôi tháp trước kia đánh dấu
nơi Đức Phật đến gặp 5 anh em ông Kiều Trần Như. Ngôi tháp bát
giác này được trùng tu lần sau cùng bởi tiểu vương Akbar năm
1588, thuộc triều đại Gupta.
Trong số những di tích tàn rụi còn sót lại không bị các đạo
quân tàn phá là ngôi tháp Dhamekh cao hơn mặt đất 150 bộ. Ngôi tháp này
được xây cất bằng nguyên liệu bền cứng, những khối đá khổng lồ
bằng gạch và mang hình dáng cột trụ. Những hình tượng khắc trên
mặt tháp cho chúng ta biết ngôi tháp Dhamekh được xây vào triều đại
Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Danh từ "Dhamekh" phát xuất
từ nguyên từ Phạn ngữ "Dharmekh - chánh pháp". Cách ngôi tháp
này không xa về hướng Tây là một ngôi tháp nhỏ do vua A Dục xây
cất. Tháp vua A Dục xây, theo lời miêu tả của ngài Trần Huyền
Trang, có thể là nơi Đức Phật tọa thiền thuyết pháp cho 5 anh em
Kiều Trần Như. Xa hơn một tí về phía Bắc, là một côt trụ hình
đầu sư tử được khắc chạm rất công phu. Cột trụ sư tử này hiện nay được
trưng bày tại viện bảo tàng khảo cổ gần đó. Tại ngôi tháp này,
chúng ta còn thấy sót lại những mảnh đá lớn của nền nhà chánh
điện và những cột lớn nhỏ của một cổng chính dẫn lối vào chánh
điện ngôi tháp. Ngòai ra, chúng ta còn thấy rất nhiều mãnh vỡ
của các tượng Phật và Bồ tát mang dấu ấn điêu khắc của nhiều triều đại
khác nhau. Một bức tượng Phật đẹp nhất tạc bằng đá cát khắc hình
Đức Phật Chuyển Pháp Luân là bức tượng tuyệt mỹ mang dấu nghệ
thuật điêu khắc triều đại Gupta.
Tất cả những bức tượng điêu khắc vào thời đại này đều khắc
theo tám biến cố lịch sử của cuộc đời Đức Phật như Đức Phật giáng
sanh, thành đạo, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn, thi triển thần
thông, v.v. Đáng kể nữa là một bức tàn lọng bằng đá khắc trọn
vẹn bài pháp Tứ Đế bằng tiếng cổ Pàli.
Dù đã bị tàn phá nhiều theo thời gian, Sarnath vẫn còn hấp dẫn
du khách tìm về Ấn Độ để tưởng nhớ lại hình ảnh Đức Từ Phụ và
giáo âm của Ngài vẫn vang vọng bất diệt trong lòng người con
Phật.
Thánh địa thứ tư:
Kusinagara
Kusinagara hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã thâu thần tịch diệt năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây
Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở
quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
Giống như các thánh địa khác liên quan đến những biến cố lịch
sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa quan trọng
để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
Vào thời điểm đó, hàng ngàn tự viện và bảo tháp đã được xây
dựng lên chung quanh thánh địa này. Tuy nhiên, không rõ vì lý do
gì, có thể bị đạo quân Hồi giáo phá hủy hay do thời gian phai tàn
xóa dấu mà thánh địa này đã bị hoang phế tàn rụi. Hai ngài Pháp
Hiền và Huyền Trang, khi đến chiêm bái thánh địa này, cũng phải thốt
lên lời ta thán bi thiết khi nhìn cảnh vật hoang liêu đổ nát của
Kusinagara.
Qua những cuộc khai quật để tìm lại dấu vết, người ta đào được
một số những mảnh vỡ vụn của các tượng Phật, những cột trụ loang
lỗ. Tuy nhiên, căn cứ trên những dấu hiệu của các di tích còn
sót lại đó và những bia ký thì chắc chắn nơi đây là thánh địa
nhập Niết bàn của Đức Phật. Ngôi tháp Đại Bát Niết Bàn mà vua A Dục
xây cất cũng không có thể tìm thấy được nữa và có thể ngôi tháp này
đã bị chôn vùi dưới nền tinh xá Niết bàn xây dựng ở triều đại
Gupta.
Tượng Phật nhập Niết bàn
Trong số những di tích đó, người ta tìm được một bức tượng Đức
Phật trong tư thế nhập Niết bàn. Bức tượng này cũng bị vỡ vụn và
đã được nhà điêu khắc Carlleyle khéo léo hàn gắn chạm trỗ lại.
Ngôi đại bảo tháp Ramabhar được dựng ngay tại địa điểm làm lễ trà
tỳ kim thân Đức Phật và xá lợi Ngài được phân chia ra làm tám
phần đồng nhau cho tám vương quốc lớn mạnh nhất thời đó.
Nơi trà tỳ kim thân của đức Phật
Hiện nay các nhà khảo cổ vẫn còn tiếp tục công cuộc khai quật
thánh địa Kusinagara, mong sẽ tìm thêm tài liệu chứng cứ hơn nữa
để làm sáng tỏ thêm một địa danh linh thiêng đã được đón nhận kim
thân Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thánh địa thứ năm:
Sravasti
Sravasti, thủ phủ của vương quốc Kosala ngày xưa, được các
Phật tử tôn sùng vì nơi đây hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã thi
triển thần thông giáo hóa các đạo sư thờ thần lửa.
Theo các sử liệu ghi chép lại, Đức Phật đã thi triển các phép
lạ như trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân ra lửa,
dưới thân ra nước, hay mặt trời mặt trăng chiếu sáng cùng một lúc
trên bầu trời, và nhiều hóa thân của Đức Phật. Những phép lạ đó đã
là đề tài cho nhiều tác phẩm nghệ thuật Ấn từ các thời đại cổ xưa cho
đến nay.
Ngay trong thời Đức Phật, Sravasti đã là một trung tâm Phật
giáo sầm uất phồn thịnh. Chính nơi đây, trưởng giả Cấp Cô Độc đã
rãi vàng mua hết đất vườn hoa của Thái Tử Kỳ Đà để xây dựng tinh
xá cúng dường Đức Phật và chư tăng. Câu chuyện rãi vàng mua đất
của ông Cấp Cô Độc đã khích động mãnh liệt đến các tầng lớp quí
tộc vua chúa, khanh hầu, trưởng giả và đó cũng là đầu đề về lòng sùng
bái tuyệt đối của ông Cấp Cô Độc cũng như các tác phẩm nghệ thuật
Ấn sau này. Càng về sau, nhiều tinh xá, bảo tháp xây cất rải rác chung
quanh địa danh này khiến Sravasti thêm nổi tiếng và phồn vinh.
Các nhà khảo cổ tin rằng Sravasti thuộc địa phương Saheth -
Maheth nằm sát biên giới quận Gonda và Bahraich của xứ Utta -
Pradesh. Nơi đây họ đã tìm thấy vài bia ký liên quan đến tinh xá
Kỳ Viên ở Sravasti.
Địa danh Saheth - Maheth gồm có hai vùng riêng biệt. Vùng lớn
nhất, Maheth, rộng 400 mẫu, ngày xưa là một tỉnh lỵ trù phú.
Saheth thì chỉ rộng có 32 mẫu, nằm độ 0.25 dặm phía Tây Nam của
Kỳ Viên tinh xá. Những cuộc khai quật tại vùng Maheth đã cho
chúng ta biết được rằng xưa kia Maheth là một thành phố rất giàu có
đông đúc. Saheth, tuy nhỏ hơn, nhưng lại nổi tiếng hơn vì nơi đây
Đức Phật đã dừng chân để giáo hóa và còn sót lại nhiều nền nhà của
tinh xá, tự viện, bảo tháp; cho nên đa số các tăng sĩ, du khách
đều ghé tới Saheth để chiêm bái tham quan.
Những di tích trưng bày đó mang dấu hiệu thời đại Mauryan cho
đến những năm đạo Phật bắt đầu suy tàn tại Ấn Độ thế kỷ thứ 12
sau Công nguyên. Tại đây, người ta thấy một ngôi tháp cổ nhất
được xây cất từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, chứa đựng xá lợi Phật
và một tượng đầu Đức Phật tạc ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên
thuộc triều đại Bala. Tượng đầu Đức Phật này giờ được trưng bày
tại bảo tàng Ấn Độ ở Calcutta. Hòang hậu Kumaradevi, vợ vua
Govinda-Chandra là người cuối cùng bảo trợ tài chánh kinh phí xây
dựng trùng tu lại Kỳ Viên tinh xá năm 1128-29.
Đạo Phật bây giờ đã suy tàn nhiều tại Ấn Độ và địa danh
Sravasti, một thời nổi tiếng huy hòang trong lịch sử Phật giáo
Ấn, đã bị gót giầy đạo quân Hồi giáo tàn phá thiêu hủy thành bình
địa.
Thánh địa thứ sáu:
Sankasya
Một địa danh thiêng liêng khác có liên quan đến cuộc đời Đức
Phật là Sankasya, nơi Đức Phật thi triển thần thông lên cung trời
Đao Lợi thứ 33 thuyết pháp giáo hóa thân mẫu của Ngài là Hòang
hậu Ma Gia và chư Thiên. Đức Phật đã giảng A Tỳ Đạt Ma Luận trên
cung trời Phạm Thiên. Sự kiện này đã xảy ra sau khi Đức Phật thi
thố phép lạ ở Sravasti.
Sankasya, còn được gọi là Sankisa hay Sanisa Basantapur, thuộc
quận Farrukhabad của Utta Pradesh. Địa phương này được biết xác
thực là nhờ vào bia ký của vua A Dục khắc trên tượng một con voi
đánh dấu thánh địa này.
Không riêng chỉ có hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đến
chiêm bái thánh địa Sankasya, mà có nhiều tăng sĩ Trung Hoa khác
cũng đến viếng thăm thánh địa này -- nhưng những tài liệu do họ
để lại cũng không còn đầy đủ chứng cứ để xác minh rõ hơn về địa danh
này. Ngôi làng hiện giờ ở thánh địa này nằm trên một ngọn đồi, cao độ
41 bộ và rộng cỡ 1,500 mét vuông. Cách đó về hướng Nam độ 0.25
dặm là một ngôi tháp do hòang hậu Devi ra lệnh xây cất. Rải rác
chung quanh ngọn đồi này là những đống gạch đá vỡ vụn và những di
tích sót lại của cổng thành, đòn ngang, xà nhà, v.v. Những tàn
tích này không đủ dữ kiện để chúng ta xác định lịch sử của thánh
địa Sankasya.
Tượng con voi do vua A Dục sai đúc là di tích quan trọng nhất
đánh dấu địa danh Sankasya và những cuộc khai quật trong tương
lai hy vọng sẽ đem lại cho chúng ta nhiều điều lý thú hơn về
Sankasya.
Hình bức tượng voi ở Sankasya do vua A Dục sai đúc đánh dấu địa danh này
Thánh địa thứ bảy:
Rajagriha
Rajagriha, thủ phủ của vương quốc Ma Kiệt Đà hùng mạnh, có thể
nói rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo vì nhiều nguyên do.
Không những Rajagriha là nơi Đức Phật đã dừng chân lại nhiều lần
trong cuộc đời hành đạo của Ngài, mà nơi đây cũng chính là nơi Đề
Bà Đạt Đa (Devadatta), em họ của Đức Phật, đã âm mưu nhiều lần để giết
Ngài. Hơn nữa, tại thủ phủ này, ở động Sattapanni trên ngọn đồi
Vaibhara, Đại Hội Kiết tập lần thứ I đã được tổ chức tại đây dưới
sự chủ tọa của ngài Ưu Bà Li (Upali) và ngài A Nan (Ananda).
Những điểm chính yếu của giáo lý và giới luật của Phật giáo đều
nêu lên trong kỳ Đại Hội Kiết Tập này. Vì thế, Rajagriha đã trở
thành một địa danh nổi tiếng và quan trọng trong sự thành lập và
phát triển Tăng đòan Phật giáo.
Là một thành phố nổi tiếng ngày xưa, Rajagriha bây giờ là một
phố thị trong quận Patna của xứ Bihar, bao bọc chung quanh là
những ngọn đồi núi chập chùng. Rajagriha còn được gọi là
Vaibhara, Vipula, Ratna, Chatha, Udayagiri và Sonagiri. Dưới chân
ngọn đồi về phía Bắc của phố thị Rajagriha ngày xưa là vương quốc của
vua A Xà Thế (Ajatasatru), con vua Bình Sa vương (Bimbisara). Sau
đời vua A Xà Thế, thái tử Udayin kế vị ngai vàng và dời kinh đô
Kusumapura đi nơi khác và đời vị vua kế tiếp là Kalasola lại dời
kinh đô về Pataliputra, do đó Rajagriha dần dần đã mất đi vai trò
quan trọng của nó trong vương quốc. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều
biến đổi thăng trầm trong chính trường và tôn giáo, Rajagriha vẫn
luôn được nhắc đến trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và lịch sử các
đạo giáo khác.
Những di tích của thành phố cổ xưa Rajagriha còn sót lại rất
ít. Qua những di tích và bia ký vỡ vụn, các nhà khảo cổ tin rằng
thánh địa này đã từng là địa điểm sinh họat của nhiều tôn giáo
khác nhau. Ngay cả động Sattapanni, nơi kiết tập Đại Hội Phật
giáo lần thứ I, cũng mờ dấu vết. Theo kinh điển và sử liệu, động
Sattapanni, nằm về phía Bắc sườn đồi Baibhara và nhà bác học Stein có
lý khi ông cho rằng vị trí động đá này tọa lạc phía Bắc trên một
mảnh đất rất rộng có nhiều hang động nhỏ. Một kiến trúc đặc biệt
đáng kể, Jarasandha Ki Baithak, trên sườn đồi Vaibhara phía Đông,
có những hầm nhà lớn nhỏ không đồng đều nhau, được mô tả là nơi
ẩn cư của Đức Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa), vị chủ tọa kỳ Đại Hội
Kiết Tập lần thứ I. Về sau, các hang động này đều là chỗ ở của
các đạo sĩ Kỳ Na giáo (Jainism) một thời.
Ngọn núi Gridhrakutta một thời là nơi ẩn cư tu hành của Đức
Phật, nằm gần sát bên thành phố Rajagriha và theo một số dữ kiện
lịch sử cũng như các dân địa phương cư ngụ tại vùng này, thì động
Sonbhandar phía Đông đồi Vaibhara có mỏ vàng chưa khai phá tại đây.
Rajagriha, bây giờ là một thắng cảnh hấp dẫn các du khách trong và ngòai nước đến viếng, không những là địa điểm nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà còn là một địa danh có nhiều ngọn suối nóng chữa bệnh và an dưỡng.
Thánh địa thứ tám:
Vaisali (Vệ Xá Ly)
Trong thời Phật giáo hưng thịnh, Vaisali, thành phố của vương
quốc Lichchhavi hùng cường, là cái nôi của nền văn hóa triết
thuyết Phật học.
Đức Phật đã từng dừng chân du thuyết của Ngài 3 lần nơi thành
phố này. Nơi đây Đức Phật đã thọ nhận bát mật ong do đàn khỉ
dâng cúng và nơi đây cũng là địa phận Đức Phật tuyên bố 3 tháng
nữa Ngài sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Hơn nữa, Vaisali cũng là nơi
kiết tập Đại Hội Phật Giáo lần II hơn 100 năm sau ngày Thế Tôn nhập
diệt. Đối với tín đồ Kỳ Na giáo, Vaisali cũng là một thánh địa vì Đức
Mahavira, vị đạo sư đời thứ 14 của Kỳ Na giáo ra đời.
Vaisali là một thành phố thuộc quận Muzaffarpur của Bihar. Vào
triều đại Gupta, Vaisali là một thủ phủ phồn vinh náo nhiệt.
Khách thương, tàu bè, hải cảng buôn bán tấp nập. Các cửa tiệm,
nhà băng, công sở, mở cửa suốt ngày đêm. Các kho chứa thóc gạo,
lụa là, v.v. của hòang cung đều đầy ngập. Vaisali, thời đó, đã
gíup cho triều đại Gupta một thế đứng vững vàng trên vũ đài chính
trị cho đến triều đại Mauryan, Vaisali vẫn còn là một thủ đô quan
trọng.
Bảo tháp và trụ đá vua A Dục
Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh địa
này. Theo lời của ngài Huyền Trang, Vaisali chỉ rộng cỡ 10, 12
dặm vuông. Chung quanh Vaisali có vô số những tháp, bia đá không
biết cơ man nào mà kể. Nhưng thời gian đã tàn nhẫn xóa sạch những
di tích ấy và chỉ còn sót lại ở khu Kolhua, cách 2 dặm về phía
Tây Bắc thành phố Raja Bisal Ka Garh, một trụ đá tạc tượng sư tử cao hơn
mặt đất 22 bộ.
Trụ đá sư tử này có vẻ giống các trụ đá vua A Dục sai xây đắp
nhưng không có một bút tích hay bia ký nào cho chúng ta xác định
rõ trụ đá này thuộc thời đại vua A Dục cả. Gần trụ đá này, về
phía Nam, có một hồ nước nhỏ, mà tương truyền rằng đó là vũng nước
mà hàng 2000 năm xưa, đàn khỉ đã đào để lấy nước dâng Đức Phật uống
mỗi ngày. Vì thế, hồ nước này có tên gọi là Rama-Kund hay là
Markata-Hraka, có nghĩa là "hồ nước của lòai khỉ." Về phía Tây Bắc,
một nền đất của một ngôi đền còn sót lại. Ngôi đền này ngày xưa
được vua A Dục sai xây cất bằng gạch nung và một ngôi tháp có dấu
hiệu vua A Dục xây còn sót lại trên mảnh đất hoang sơ một thời
trù phú và quan trọng này.
Thời gian đã làm phai mờ và rụi tàn bao nhiêu đền đài, bảo
tháp, nhưng những thánh địa Phật Giáo vẫn luôn luôn là quê hương
tìm về của những người con Phật.
Những Địa Danh Quan Trọng
Trong thời kỳ Phật giáo phát triển và hưng thịnh, ngoài những
thánh địa linh thiêng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, những địa
danh quan trọng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ như Sanchi, Nalanda
cũng góp phần không nhỏ cho sự huy hòang của Chánh Pháp.
Những tự viện, tinh xá ở Gandhara, Taxila, Purushapura, West
Pakistan, East Pakistan đều là những trung tâm văn hóa Phật giáo.
Ngòai những nét thẩm mỹ và kiến trúc độc đáo ra, các trung tâm
văn hóa Phât giáo này còn là nơi xuất phát những anh kiệt của
Phật giáo tạo nên những cuộc tranh luận triết lý văn học rất sôi nổi
phấn khởi hào hùng; tiêu biểu là trung tâm Phật giáo Sanchi,
Nalanda, Ajanta và Ellora.
Những địa danh này, cũng theo qui luật vô thường của vạn vật
mà biến thiên dời đổi. Những di tích còn sót lại đó không đủ đem
lại ánh sáng rọi vào quá khứ vàng son của những địa danh này. Tuy
nhiên, dù đã mờ nhạt đi trong lịch sử, những địa danh quan trọng
này vẫn còn đủ sức hấp dẫn những học giả, tăng ni, tín đồ Phật giáo
nối gót nhau lần dò về những miền xa xôi hẻo lánh để tìm lại một
chút dư âm thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ.
Sanchi
Sanchi là một trong những địa danh nổi tiếng quan trọng của
lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Địa danh này không có chút liên quan đến
cuộc đời Đức Phật, nhưng Sanchi là một trung tâm văn hóa Phật
giáo rất nổi tiếng và phồn thịnh thời Phật giáo cực thịnh. Theo
sử liệu và văn chương truyền thuyết Phật gíao, Sanchi là nơi hội
tụ các tinh hoa nghệ thuật của Ấn Độ, và có thể nói, Sanchi là
tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ nhất của nước Ấn.
Theo sử liệuTích Lan, vua A Dục đã cưới con gái một thương
buôn giầu có và hạ sanh được một thái tử đặt tên là Mahinda. Thái
tử Mahinda là một người mộ đạo Phật và rất được Vua Cha và Hòang
Mẫu thương yêu. Khi vua A Dục già yếu, ngài muốn đưa hai người
con trai và con gái của ngài qua Tích Lan truyền đạo, và tháp
Sanchi đã được xây cất trên ngọn đồi vùng lân cận Vidisa, khi thái tử
Mahinda dừng chân lại nghỉ ngơi trên đường qua Tích Lan hoằng hóa
đạo Phật.
Dù tài liệu có đúng hay không thì những bia ký, tháp tự ở
Sanchi đều mang dấu ấn thời vua A Dục và người ta cũng tin rằng
chỉ có vua A Dục, vị đại thí chủ hòang gia đó mới đủ tài sức để
phát triển Sanchi thành một trung tâm văn hóa Phật giáo phồn vinh và nổi
tiếng.
Hầu hết các tháp tự ở Sanchi đều tọa lạc trên một ngọn đồi cao
bao bọc bởi một tường đá rắn chắc vào thế kỷ thứ 10 sau Công
nguyên. Những ngôi tháp, bia ký này đều có dấu ấn từ thế kỷ thứ 3
trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên, tính từ đại
tháp Sanchi cao 50 bộ và đường kính của vòm tháp Sanchi là 100 bộ là
tháp lớn nhất đến ngôi tháp nhỏ nhất cao không quá 01 bộ, thì
những tháp tự lớn nhỏ này tạo cho ngọn đồi một thế đứng hùng mạnh
sừng sững.
Ngôi đại tháp ở Sanchi được xây cất bởi gạch đá thời vua A
Dục, gồm có những cột trụ cao bằng đá rắn chắc chạy dài bao
quanh ngôi tháp, và cổng chính của tháp được xây cất và chạm trỗ một
cách điêu luyện đầy thẫm mỹ độc đáo như hình bên cạnh. Hai cột trụ
đứng chạm kinh văn nguyên bản tiếng Phạn xưa. Đầu cột tạc 2 con
voi đỡ 3 xà ngang, có chỗ trạm chỗ hình voi, sư tử, kinh văn,
v.v. tượng trưng những sinh hoạt văn học triết lý của các thời
kỳ chánh pháp, tượng pháp Phật giáo Ấn Độ. Bốn mặt đại tháp có 4
cổng gồm 1 cổng lớn và 3 cổng nhỏ. Ba cổng nhỏ kia cũng xây cất
và chạm trỗ giống như cổng lớn với các hình tượng voi, sư tử,
nam nữ, ngựa, v.v. miêu tả theo những thần thọai về cuộc đời và
giáo pháp của Thế Tôn. Những thuyết thần thọai hóa cuộc đời Đức
Phật miêu tả trong kinh Bổn Sanh Bổn Sự được các nghệ nhân Ấn
đúc kết chạm trỗ điêu khắc trên các cổng thành và tường tháp. Đáng chú ý
nữa là hình tượng vua A Dục được chạm khắc trên một cổng thành,
miêu tả lại quang cảnh vua A Dục viếng thăm chiêm bái cây bồ đề ở Bồ
Đề Đạo Tràng.
Hình ảnh vua A Dục ở Sanchi là hình ảnh duy nhất
được chạm trỗ do các nghệ nhân và thần dân của Vua khắc lại để
tưởng nhớ đến công ơn của một vị đại thí chủ của Phật giáo đã
hết lòng ủng hộ công cuộc hoằng dương chánh pháp.
Những tác phẩm nghệ thuật này đều phản ảnh lòng nhiệt thành mộ
đạo của thần dân địa phương vùng Sanchi. Họ đã tổn phí rất nhiều
và phải mất nhiều năm mới hòan thành các tác phẩm kiến trúc
tuyệt mỹ này. Từng đường khắc, từng nét chạm, từng nét vẽ đều
mang trong nó tâm hồn yêu nghệ thuật, lòng sùng kính, dâng hiến và biết
ơn của người nghệ sĩ. Các nghệ nhân này làm công việc đó không
phải vì lợi danh, địa vị, cho nên tâm tư họ thỏai mái, an lạc
hướng trọn tâm hồn cho nghệ thuật. Vì thế, các tác phẩm đều tóat
lên một sức sống mãnh liệt khiến người xem cảm thấy rung động sâu
xa như đang sống trong ánh sáng Đạo Vàng Giải Thóat.
Trong số những tháp tự này, có 3 ngôi tháp được người ta chú ý nhiều nhất.
Tháp thứ nhất là ngôi tháp thứ 3, nằm về hướng Đông Bắc của
ngôi Đại Tháp, mặc dù là tháp nhỏ nhất nhưng là ngôi tháp kiểu
mẫu. Trong căn phòng tôn thờ xá lợi, Tướng Cunningham đã khám
phá ra những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên, hai vị
đại đệ tử của Phật. Hai vị này rất nổi tiếng. Ngài Xá Lợi Phất
là "Trí Tuệ Đệ Nhất." Ngài Mục Kiền Liên là "Thần Thông Đệ Nhất."
Các xá lợi của hai vị đại đệ tử Phật được các nhóm khảo cổ mang về Anh
Quốc, trưng bày ở bảo tàng thành phố Luân Đôn, và sau đó mang trả
về lại tôn thờ ở Sanchi trong ngôi tháp số 3 này. Ngày xưa, ngôi
tháp số 3 này thường hay bị đào xới khai quật.
Ngôi tháp thứ 2, nằm trên sườn đồi phía Tây. Ngôi tháp này
không có xá lợi, không có cổng chính, nhưng còn lưu giữ lại một
số những đồ dùng của các nghệ nhân ngày xưa để quên lại, và những
đồ dùng vật liệu này giúp cho người ta biết được cách đây hơn
2500 năm, các nghệ nhân đã đúc tượng chạm vẽ thế nào. Các nét điêu
khắc ở ngôi tháp này có vẻ tân tiến hơn lối kiến trúc của Đại Tháp.
Ngôi tháp nhỏ cuối cùng gần chân đồi phía Tây là nơi tôn thờ
xá lợi của ngài Ca Diếp. Ngòai sự đặc biệt này, ngôi tháp còn đặc
biệt với những cột trụ, đầu cột, bức tường chạm khắc các hình
ảnh vô cùng tuyệt xảo độc đáo.
Nhiều tháp nhỏ rải rác chung quanh Đại Tháp được tìm thấy.
Trong đó, người ta đào được nhiều mảnh vụn vỡ của các tượng, bia
ký, v.v. Ở Sonari cách Sanchi vài dặm, nhiều di tích được tìm
thấy. Ở Satdhara, cách đó ba dặm, người ta lại tìm thấy xá lợi
của ngài Xá Lợi Phất trong 2 ngôi tháp nhỏ, giống như xá lợi tìm thấy
ở tháp vùng Sanchi. Còn rất nhiều tháp ở vùng Bhojpur, vùng Andher
mà các dấu ấn đều mờ nhạt không thể giúp chúng ta xác định được
các tháp xây cất vào triều đại Asoka hay sau thế kỷ thứ nhất sau
Công nguyên.
Trong số các tháp tự đó, đáng kể nhất là cột trụ đá vua A Dục
với tượng 4 sư tử đâu lưng vào nhau, gần cổng chính Đại Tháp
Sanchi phía Nam. Trên đầu cột trụ, có khắc hàng chữ tuyên bố lệnh
"Cấm phân rẽ, phá họai Tăng Đòan, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc"
của vua A Dục. Ngòai ra, ngôi đền số 17, số 18 xây cất vào khỏang từ
thế kỷ thứ 7 đến thời kỳ thứ 12 sau Công nguyên, với những tượng
Phật, cột trụ đá, những bức tường chạm trỗ cũng góp phần vào công
trình tuyệt mỹ ở Sanchi.
Những tháp tự ở Sanchi đã được giữ gìn, phục hồi lại rất cẩn
thận và khéo léo bởi các nghệ nhân điêu khắc và các nhà khảo cổ
bác học. Người có công nhất trong cuộc trùng tu khai quật này là
ngài John Marshall, vị cựu tổng giám đốc Viện Khảo Cổ Quốc Gia Ấn
Độ. Ông đã tu bổ, sửa chữa, phục hồi lại các di tích và những du
khách khi đến Sanchi đều có thể tưởng tượng như đang trở về thời quá
khứ vàng son của Chánh Pháp với những ngôi tháp hùng vĩ sừng sững
một góc trời.
Ajanta và Ellora
Hai địa danh nổi tiếng đáng kể nữa là Ajanta và Ellora tọa lạc
ở vùng Maharashtra. Trong một thung lũng nhỏ hẹp là hang động
đẹp tuyệt vời Ajanta với những di tích của những ngôi đền và tự
viện.
Từ những tảng đá thiên nhiên, những nghệ nhân đã đẽo gọt, khắc
chạm thành những tượng Phật, Bồ Tát hay những tác phẩm nghệ
thuật vô cùng tinh xảo. Những bức tường, cột trụ đá, trần động
đều được chạm trỗ thật tinh vi xuất sắc mang dấu ấn nghệ thuật Phật
giáo kéo dài suốt 800 năm và không có một di tích nào ở Ấn Độ có thể
so sánh được với những tuyệt tác này.
Những hang động ở Ellora thì được khai quật và tìm thấy trên
một cao nguyên tòan đá rất rộng lớn. Không giống như Ajanta,
Ellora tượng trưng cho sự tổng hợp nghệ thuật của 3 nền tôn giáo
lớn ở Ấn Độ. Đó là: Phật giáo, Bà La Môn giáo, và Kỳ Na giáo.
Ngôi đền Kailasa nổi tiếng của đạo Bà La Môn là tiêu biểu xuất
sắc nhất của nền nghệ thuật thế giới với những trần nhà, hành lang thiết
kế mỹ thuật, những bức tường thần sống động qua những nét chạm
trỗ điêu khắc, những tranh ảnh họa theo những truyền thuyết, tất
cả những di tích đó đều được đẽo gọt từ những lòng đá mà ra,
khiến cho ngôi đền trong hang động Ellora thêm lừng danh nổi
tiếng.
Những hang động ở Ajanta mang dấu ấn những thế kỷ cuối cùng
của kỷ nguyên trước Thiên Chúa, và theo thứ tự niên đại, Ajanta
đã góp phần vào sự phát triển nghệ thuật, mỹ thuật, điêu khắc, xây
cất những kỳ tích. Hang động số 9 và số 10 là những hang động lâu
đời nhất nằm sâu tận trong lòng những dãy động đá ở Ajanta. Từ
những dãy động đá này suốt đến hang động thứ 19 và 26, người ta
thấy vô số những hình ảnh, tượng khắc Đức Phật theo nhiều cách
thiết họa khácnhau. Các tượng, tranh ảnh vẽ Đức Phật trong tư thế ngồi
kiết già thiền định hay trong dáng đứng Chuyển Pháp Luân. Những
nghệ nhân thời xưa đã dâng trọn trái tim nghệ thuật và sự tôn
kính sùng bái lên Thế Tôn qua nét vẽ và chạm khắc của họ.
Hang động thứ 16, 17, và 02 là những hang động quan trọng
nhất. Hang động thứ 16 và 17 được xây cất từ năm 500 sau Công
nguyên và hang động thứ 1 và thứ 2 được xây cất một thế kỷ sau
đó. Những hang động này rất đẹp nhờ những cột trụ đá chạm trỗ và sự
thóang mát của các dãy hành lang rộng lớn. Nhưng sự huy hòang tráng
lệ của Ajanta đúng ra là do số lượng khổng lồ của tranh vẽ. Những
họa sĩ nổi tiếng đã vẽ những sự tích đời Đức Phật theo kinh Bổn
Sanh Bổn Sự và thêm vào đó là những tranh ảnh vẽ chân dung Đức
Phật, các vị Bồ Tát và các Phạm Thiên.
Trong số những hang động trần thiết ở Ellora, 12 hang động
dọc theo hướng Nam được trần thiết theo những truyền thuyết Phật
giáo, ngòai ra là những hang động theo kiểu Bà La Môn giáo và
Kỳ Na giáo. Những di tích ở Ajanta và Ellora thường có dấu chân của
các nhà bác học, khảo cổ và nghệ nhân đến chiêm ngưỡng và học hỏi
hơn là các du khách, vì hang động này nằm ở vị trí sâu và cao hơn
trên rừng núi. Tuy nhiên, Ajanta và Ellora vẫn được liệt kê vào danh
sách các danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Ấn Độ.
Nalanda
Tu viện Nalanda chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong
lịch sử Phật giáo cận đại. Theo truyền thống, Đức Phật đã viếng
thăm tu viện Nalanda vài lần và lịch sử ngôi tu viện này có thể
mang dấu ấn triều đại vua A Dục. Tuy nhiên, những cuộc khai quật
cũng chưa đủ chứng minh về thời gian xây dựng tu viện này và những
chứng cứ như bia ký, dấu ấn, vài di tích còn sót lại trùng hợp với
một số điển tích thì tu viện Nalanda phồn vinh và nổi tiếng từ
thế kỷ thứ 5 cho đến cuối thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên.
Cũng
chính nơi đây, nhà du tăng nổi tiếng Trung Hoa, Trần Huyền
Trang, đã đến ở lại vài lần. Ngài đã ghi lại nhiều dữ kiện và sơ đồ của
nhiều kiến trúc khác nhau của tu viện Nalanda, một tu viện cũng
là học viện có sức chứa đựng hơn 10,000 tăng sĩ tu tập hàng năm
tại đây để tu hành, nghiên cứu kinh điển và tranh luận. Ngài
Tam Tạng Huyền Trang cũng ghi nhận sự cúng dường ủng hộ của vua
Harsha và nhiều vị vua các triều đại kế tiếp. Ngài Nghĩa Tịnh (I
Tsing), một nhà sư Trung Hoa, cũng đến tham quan tu viện Nalanda
và ghi nhận lại các tăng sĩ trụ xứ tại Nalanda đã được sự yểm trợ
ủng hộ của hơn 200 ngôi làng chung quanh và dưới sự tài trợ của
nhiều vị vua.
Nalanda được đi vào lịch sử Phật giáo thế giới vì nơi đây các
đạo sư Silabhadra, Santarakshita và Atisa Dipankara đã một thời
tu học và góp phần làm rạng danh tu học viện Nalanda.
Sự hoang tàn đổ nát của Nalanda đã khiến du khách đến xem phải
bàng hòang tiếc nuối cho một tu viện Phật giáo lừng danh một
thời, nay chỉ còn lại vài di tích của những điện thờ, tháp và
tăng phòng. Quang cảnh những di tích còn sót lại đó cũng cho chúng
ta biết là trước kia, những tháp và điện thờ chiếm chiều dài từ Bắc
đến Nam, những tăng xá cho chư Tăng trú ngụ thì trãi dài từ sườn
đồi phía Đông đến phía Tây của cả mấy dãy đồi to lớn. Dù bây giờ
Nalanda đã tàn rụi, nhưng vẫn cho chúng ta hình dung được quang
cảnh sầm uất, phồn thịnh đông đúc của sự sinh họat hàng chục ngàn
tăng sĩ cách đây mấy thế kỷ.
Ngôi tháp số 3 là một kiến trúc đồ sộ tọa lạc ở giữa sườn đồi
phía Tây Nam và được bao bọc chung quanh vô số những tháp nhỏ.
Ngôi tháp đầu tiên chỉ là một ngôi tháp nhỏ, nhưng dần dần được
xây cất lớn rộng ra. Ngôi tháp hiện giờ đã được xây rộng ra cả
đến 7 lần, mỗi lần xây to rộng ra và chạm trỗ điêu khắc thẫm mỹ hơn,
khác lạ hơn. Chân tháp vẫn là hình vuông theo kiến trúc của ngôi
tháp đầu tiên, nhưng đến khi xây cất lại lần thứ 5 thì các nghệ
nhân đã khắc chạm tô vẽ thêm 4 mặt tháp với những miếng gạch lớn
khắc kinh văn Phật giáo ở trên với bút tự ở thế kỷ thứ 6 sau Công
nguyên.
Về phía Bắc ngôi đại tháp này là những dãy tu viện đã được
trùng tu xây sửa lại nhiều lần. Ở đây du khách vẫn còn thấy dấu
vết của rất nhiều điện thờ, tháp nhỏ, v.v. Tại một bảo tàng viện
gần đó, rất nhiều di tích, mãnh vỡ các tượng Phật, Bồ tát được trưng
bày. Những di tích này được tìm thấy trong những cuộc khai quật tu
viện Nalanda.
Những tài liệu về bia ký tìm thấy ở Nalanda cũng không phải
là ít. Người ta tìm thấy những bia ký bằng đồng, bằng đá, bằng
gạch và những con dấu, những bút tự bằng đất nung. Những bia ký bằng
gạch khắc với những bài kinh hay giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên và
những bài thần chú đà la ni, những bia ký này đều được tàng trữ
gìn giữ cẩn thận và trưng bày tại Bảo Tàng Khảo Cổ Ấn Độ.
Nalanda vẫn còn nổi tiếng nhờ sự yểm trợ ủng hộ của nhiều vị
vua chúa, hòang tộc như các vua Narasimhagupta, Kumaragupta đệ
nhị, Vainyagupta và Vishnugupta của triều đại hòang gia Gupta,
Sarvavarman và Avantivarman của triều đại Maukhari, Bhaskaravarman
của Kamarupa, Harshvardhana của Kanauj và rất nhiều thế hệ các vua
chúa khác đã liên tục cúng dường tài trợ tu viện Nalanda trong
suốt mấy thế kỷ. Người ta còn tìm thấy một bia ký bằng đá khắc tên
hòang tộc của vua Yasovarman của Kanauj, và một bia ký bằng đồng
có tên các Vua dòng Pala như vua Dharmapala, vua Devapala, vua
Balaputradeva của triều đại Sailendra. Trong đời các vị vua dòng
Pala, vua Mahipala đệ nhất là người cuối cùng tài trợ công cuộc
tu bổ lại tu viện Nalanda cùng sự góp sức của tu sĩ
Vipulasrimitra.
Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa Phật giáo được các cao tăng
truyền dạy tại Nalanda, nhưng về sau ảnh hưởng của Mật Tông Phật
giáo đã lan rộng ra trong giới tu sĩ, và có pha trộn những kỳ bí
của Mật Tông Bà La Môn giáo khiến cho nền giáo lý học thuật Phật giáo có
phần đổi thay bất lợi, không đúng. Sau này, vì sự chia rẽ mâu
thuẫn trong Tăng đoàn, Hồi giáo đã thừa dịp xâm lấn và phá hủy
những địa danh nổi tiếng của Phật giáo, và một tôn giáo chân
chính, lừng danh với triết thuyết của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni
đã bị phai tàn theo thời gian, mờ dấu vết ngay chính tại quê
hương Đức Phật.
Lời kết:
Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Á Châu. Qua nhiều thăng trầm biến đổi
trong lịch sử, Phật giáo cũng bị nhiều tôn giáo khác lợi dụng
pha trộn tà thuyết sai lầm vào chánh đạo.
Tuy nhiên, những tirết lý về Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát
Nhã, Niết Bàn tịch tĩnh vẫn luôn đứng vững và sáng chói trên vòm
trời học thuật tôn giáo, và những thánh địa vẫn mãi mãi là nơi
tìm về nguồn suối Giải Thóat của những người con Phật trên khắp thế
giới.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp
ở Ấn Độ
24/04/2013 18:06
admin
Được xây dựng trong khoảng từ thế kỷ II TCN đến thế XII, quần thể kiến trúc Đại bao tháp Sanchi đích thực là một trong những kiệt tác Phật môn của người Ấn Độ.
Quần thể di tích Sanchi nằm về phía Bắc của bang Madhya Pradesh chừng 68km. Nơi đây không chỉ là công trình được bảo quản gần như nguyên vẹn suốt hàng ngàn năm qua mà còn được đánh giá là một trong những kiến trúc Bảo tháp Phật môn hoàn hảo nhất.
Tại đây, những người hành hương có cơ hội để thưởng thức tất cả những gì đáng được gọi là nguồn gốc, tinh hoa của nghệ thuật và kiến trúc Phật môn trong khoảng thời gian chừng 1500 năm – gần như bao quát toàn bộ lịch sử của Phật giáo Ấn Độ.
Điều này thật đáng ngạc nhiên, bởi vì địa danh Sanchi không hề gắn với bất cứ sự kiện hay truyền thuyết nào của cuộc đời Đức Phật.
Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, nơi đây cũng chưa từng diễn ra bất kỳ sự kiện quan trọng nào của Phật giáo phương Đông.
Người có công xây dựng nên tòa Đại bảo tháp này chính là quốc vương Ashoka Maurya (còn được biết đến là vua A Dục trong kinh Phật, 273-236 TCN).
Ông chính là vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Ấn Độ, đồng thời cũng là người đóng góp nhiều công đức nhất cho Phật giáo.
Gần 10 năm sau khi bắt đầu triều đại của mình, vào khoảng năm 258 TCN, vua Ashoka Maurya cải đạo sang Phật giáo. Ông được sử sách lưu danh là một trong những vị vua anh minh và hùng mạnh nhất.
Đế chế của ông bao trùm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ và Afghanistan ngày nay. Vương triều của ông thậm chí còn được so sánh với những cường quốc đương thời như Constantine hay Cromwell.
Suốt quãng thời gian 40 năm trị vì của mình, vua Ashoka Maurya đã để lại cho đất nước Ấn Độ không chỉ là những chương sử sách hào hùng, mà còn cả một kho tàng những công trình kiến trúc và nghệ thuật tuyệt vời khiến đời sau phải khâm phục. Sanchi chính là một trong số đó.
Quần thể kiến trúc Sanchi bắt đầu được hình thành khi nhà vua cho xây tòa Đại bảo tháp và dựng lên một cột đá nguyên khối ở chính giữa đỉnh đồi.
Tiếp theo đó, vua Ashoka cũng lần lượt cho xây thêm 8 tòa bảo tháp khác. Những kiến trúc tôn giáo khác, bao gồm các tháp nhỏ và những cổng lớn, lần lượt được bổ sung trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
Trong khoảng 600 năm kể từ khi được xây dựng, Sanchi giống như là một cõi Niết Bàn đối với Phật tử bốn phương. Tuy nhiên vào khoảng thế kỷ XII, cùng với sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ, Sanchi dần đánh mất tầm quan trọng của mình và cuối cùng đã hoàn toàn bị lãng quên.
Mãi đến những năm 1912-1919, kiệt tác hàng ngàn năm tuổi này mới nhận được sự quan tâm xứng đáng.
Những công trình kiến trúc và nghệ thuật nơi đây bắt đầu được phục hồi và bảo quản như là những báu vật của Phật giáo nói riêng và kho tàng văn hóa nhân loại nói chung.
Đại bảo tháp
Công trình nổi bật nhất trong quần thể kiến trúc Sanchi chính là tòa Đại bảo tháp. Tòa tháp lớn nhất này về cơ bản là một mái vòm gần như hoàn hảo với chiều cao 15m và bán kính 30m, được xây dựng bằng gạch nung và vữa.
Toàn cảnh tòa Đại bảo tháp |
Bao quanh ngọn tháp là một hàng lan can nằm ở khoảng 1/3 chiều cao từ dưới lên. Trên đỉnh tháp thiết kế phần sân thượng hình vuông khá rộng rãi, cũng có hàng rào bốn phía. Đây chính là nơi hành lễ trong những dịp quan trọng.
Một hàng rào khác, được xây dựng từ những cột đá nguyên khối khổng lồ, bao bọc quanh toàn bộ phần chân tháp. Hàng rào này nối liền với 4 cổng đá uy nghi được chạm khắc vô cùng tinh xảo, gọi là “toran Dwar” và được đặt theo bốn hướng Nam- Bắc- Đông- Tây.
Cận cảnh chân tòa Đại bảo tháp |
Cả bốn cổng đều được tạc từ những phiến đá nguyên khối có trọng lượng chừng hơn 400 tấn. Phù điêu và tượng được chạm khắc trên mỗi cổng đều miêu tả về cuộc đời Đức Phật và những câu chuyện huyền thoại Phật Môn.
Cổng Bắc
Đây là kiến trúc được bảo tồn tốt nhất trong 4 cổng. Nó gần như còn
nguyên vẹn, ngoại trừ hình tượng bánh xe trên đỉnh bị hư hỏng chút ít.
Những hình chạm khắc trên cổng này chủ yếu mô tả cuộc sống của Đức Phật.
Hai cột trụ đều được chạm khắc hình ảnh 4 con voi quay đầu ra 4 phía,
bên cạnh là những nữ thần. Ngự trị trên đỉnh cao nhất của cổng là hình
tượng Bánh xe công lý (bị hư hỏng như đã nói ở trên). Cùng với đó là vô
số bức phù điêu tinh xảo và sống động khắp mọi nơi.
Cổng Nam
Cổng phía Nam theo những nhà nghiên cứu là lâu đời nhất trong bốn cổng. Phù điêu và hình tượng trên cổng này miêu tả cuộc đời Đức Phật từ lúc sơ sinh và những sự kiện về đức vua Ashoka sau khi cải sang Phật giáo.
Cổng Nam
Cổng phía Nam theo những nhà nghiên cứu là lâu đời nhất trong bốn cổng. Phù điêu và hình tượng trên cổng này miêu tả cuộc đời Đức Phật từ lúc sơ sinh và những sự kiện về đức vua Ashoka sau khi cải sang Phật giáo.
Dưới chân hai cột trụ, thay vì chạm trổ bốn con voi như cổng Bắc thì ở
đây lại là bốn con sư tử. Hình tượng bốn con sư tử này hiện được Ấn Độ
lấy làm biểu tượng quốc gia và cũng xuất hiện trong những đồng tiền của
nước này.
Cổng Tây
Cổng phía Tây được trang trí với những bức phù điêu kể về câu chuyện 7 lần hóa thân của Đức Phật. Ngoài ra ở dưới chân hai cột trụ được chạm trổ hình tượng của 4 vị thần lùn bụng bự đầy vẻ hàm tiếu và phồn thực.
Cổng phía Tây được trang trí với những bức phù điêu kể về câu chuyện 7 lần hóa thân của Đức Phật. Ngoài ra ở dưới chân hai cột trụ được chạm trổ hình tượng của 4 vị thần lùn bụng bự đầy vẻ hàm tiếu và phồn thực.
Cổng Đông
Cổng phía Đông chính là cổng thú kỳ thú nhất. Những hình ảnh chạm trổ trên cổng này tả lại cảnh Phật nhập Niết Bàn với rất đông đồ đệ và Phật tử đứng chầu. Ngoài ra trên cột trụ cũng xuất hiện hình tượng của nữ thần Yakshi đang nhảy múa.
Ngoài tòa Đại bảo tháp uy nghi với bốn cổng đá cực kỳ hoành tráng và tinh xảo, tại Sanchi còn có vô số những tiểu tháp, những ngôi đền và dấu tích của nhiều di sản khác.
Cổng phía Đông chính là cổng thú kỳ thú nhất. Những hình ảnh chạm trổ trên cổng này tả lại cảnh Phật nhập Niết Bàn với rất đông đồ đệ và Phật tử đứng chầu. Ngoài ra trên cột trụ cũng xuất hiện hình tượng của nữ thần Yakshi đang nhảy múa.
Ngoài tòa Đại bảo tháp uy nghi với bốn cổng đá cực kỳ hoành tráng và tinh xảo, tại Sanchi còn có vô số những tiểu tháp, những ngôi đền và dấu tích của nhiều di sản khác.
Những công trình này lại ẩn chứa bên trong vô số kiệt tác nghệ thuật và điêu khắc như tượng phật, phù điêu…
Trải qua hàng ngàn năm nắng mưa và hoang phế, có thể Sanchi ngày nay
không còn xứng là Thánh địa Phật giáo như xưa. Tuy nhiên chỉ với những
gì ít ỏi còn lưu giữ được, nơi đây cũng đã khiến cho chúng ta phải kinh
ngạc trước vẻ đẹp cổ kính và uy nghi của nó.
Bên cạnh đó, những kiến trúc tuyệt vời này cũng thể hiện một cách rõ ràng tài năng, kiến thức và cả sức sáng tạo đáng ngưỡng mộ của những con người đã sinh sống từ hàng ngàn năm trước.
Bên cạnh đó, những kiến trúc tuyệt vời này cũng thể hiện một cách rõ ràng tài năng, kiến thức và cả sức sáng tạo đáng ngưỡng mộ của những con người đã sinh sống từ hàng ngàn năm trước.
AJANTA -
Một Di Tích Phật Giáo Ngoại Hạng
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ cách đây khoảng 2.500 năm và được xem là cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ vốn có sự phân chia giai cấp sâu sắc. Phật giáo thể hiện tính bình đẳng vì bất kỳ ai cũng có thể đạt được sự giác ngộ nếu thành tâm. Vì vậy, đạo Phật nhanh chóng được truyền bá và được tiếp nhận tại rất nhiều nơi ở châu Á.
Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ là cái nôi của nhiều tôn giáo quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa lâu đời của người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây được xem là cứ điểm của đạo Phật trước khi dòng tôn giáo này được phổ biến khắp Ấn Độ.
Quần thể hang động Ajanta là di tích quý giá đại diện cho thời kỳ hưng thịnh của phật giáo tại Ấn Độ. Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta . Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong vách núi đá thẳng đứng cao 76m.
Ajanta tọa lạc ở lưng chừng núi, bên dưới hang động là lòng vực cùng dòng sông Waghora uốn khúc. Ngày nay, tại Ấn Độ, số lượng tín đồ đạo Hindu rất đông, Phật giáo có phần ít phát triển tại nơi mà nó được khai sinh. Tuy nhiên, hang động Ajanta đã trở thành một trong những di tích quan trọng nhất của Ấn Độ, đại diện cho thời kỳ Phật giáo đạt đỉnh cao. Năm 1983, UNESCO đã công nhận quần thể hang động Ajanta là Di sản văn hóa thế giới.
Quần thể hang động không được tạo dựng trong một thời kỳ liên tục. Nhóm hang đầu tiên được kiến thiết vào thế kỷ II TCN, sau đó công việc ngưng lại. Việc hoàn tất hang động Ajanta kéo dài trong gần 800 năm.
Di tích hang động Ajanta có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp.
Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế. Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện.
Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Thời kỳ đầu kéo dài đến khoảng 300 năm. Nhóm hang động thứ hai được tạo dựng vào thế kỷ thứ V, được gọi là thời kỳ sau. Hang số 26 là một điện Phật được xây dựng vào thời kỳ sau với trình độ kỹ thuật cao, các bức tượng chạm khắc đều rất lớn và hầu như tất cả đều còn nguyên vẹn.
Trong hang số 26, chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những hình ảnh của Phật giáo thuộc phái Mật tông. Khác với các tượng Phật ở Nhật Bản, hình dáng của tượng Phật trong hang là mô hình tượng Phật phổ biến tại rất nhiều nước ở châu Á.
Khác với thời kỳ đầu, trong nhóm hang động thứ 2, tượng Phật hiện diện khắp nơi. Có tượng phật ngồi thể hiện rằng đã đạt được sự giác ngộ dưới cội bồ đề, xung quanh là sự cám dỗ của quỷ ma. Trước khi giác ngộ, Đức Phật đã trải qua nhiều giai đoạn tu luyện, tất cả đều được thể hiện qua hàng loạt tác phẩm điêu khắc trong hang. Những hình ảnh Phật giáo sống động trong nhóm hang thứ 2 đã phản ảnh sự hưng thịnh của đạo Phật lúc bấy giờ. Trong các hang động này, hình ảnh của phật Như Lai luôn là tâm điểm chi phối mọi vật xung quanh.
Nhờ sự hậu thuẫn của triều đình cùng giới quý tộc và thương nhân lúc bấy giờ nên nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ đạt tới trình độ phát triển rực rỡ nhất.
Dòng chảy Phật giáo dần lan rộng và phát triển ra một khu vực rộng lớn. Vào thời đó, Ấn Độ được xem là vùng đất của đạo Phật, nơi hành hương quan trọng đối với những tín đồ sùng đạo. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, Phật giáo cũng được phân chia thành nhiều trường phái khác nhau. Từ đó, tính chất thuần nhất của đạo Phật cũng không còn nguyên vẹn. Ngoài các bức tượng và hình ảnh có liên quan đến Phật giáo được chạm khắc trên đá, hang động Ajanta còn sở hữu một kho tàng nghệ thuật phong phú và tinh xảo không kém.
Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ VII là giai đoạn phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại hang động Ajanta . Đó là những bức bích họa được vẽ trên tường trong hang động.
Có thể nói, nghệ thuật hội họa của người Ấn Độ cổ đại đã đạt đến chất lượng hoàn hảo về màu sắc cũng như bố cục. Các tác phẩm này đã qua cuộc thử nghiệm thành công của thời gian.
Có được các tác phẩm tượng Phật đạt đến vẻ đẹp đỉnh cao như thế là nhờ vào các họa sĩ và nhà điêu khắc đã thấm nhuần Phật pháp. Chính họ đã gốp phần rất lớn tạo nên giá trị cho quần thể hang động Ajanta .
Tham Quan Chùa Hang Ajanta
Các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ hầu hết đều là phế tích. Khắp nơi là cảnh hoang tàn đổ nát, chỉ còn lại các dấu vết, nền nhà, vài đoạn tường, vài các tháp xiêu vẹo nham nhở. . .v.v. . . .Thời gian tàn phá thì ít nhưng cái chính là vì sự tàn phá hủy diệt của quân Hồi giáo và sự thờ ơ của dân Ấn vốn theo Ấn Giáo trước giáo pháp của Như Lai.
Chúng tôi càng đi theo vết chân của Như Lai thì càng gặp cảnh hoang tàn của phế tích. Niềm tin, lòng thành kính và cái buồn cứ đan xen, quyện vào nhau trong suốt cuộc hành trình của những người con của Phật đang tìm về nguồn cội. . . .
Chắc biết như vậy nên ban tổ chức chuyến hành hương này đã đưa việc tham quan chùa hang Anjata vào những ngày sắp kết thúc. Tổ hợp chùa hang Ajanta nằm ở triền núi sông Waghora, cách thành phố Aurangabad 108 km về hướng đông bắc, thuộc bang Maharashtra. Bởi vì chùa hang Anjata là một kiệt tác về nghệ thuật của Phật giáo đã được Unesco công nhận là Di Sản Văn Hóa Thế Giới. Và cũng bởi vì chùa hang Anjata ở giữa núi rừng heo hút nên đã thoát khỏi các cuộc tàn phá của quân Hồi Giáo. Do vậy tham quan Chùa Hang Anjata trước khi kết thúc chuyến hành hương quay về quê nhà Việt Nam sẽ để lại dư vị ngọt ngào trong tâm những người con của của Phật trước di tích hoành tráng diểm lệ tràn đầy tính nghệ thuật và tính thiêng liêng thể hiện thời kỳ vàng son hưng thịnh của Phật giáo tại Ấn Độ.
Tổ hợp chùa hang Ajanta nằm trong một dãy núi đá hình móng ngựa giữa cao nguyên Deccan
Tham Quan Chùa Hang Ajanta
Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta.
Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong
vách núi đá thẳng đứng cao 76m. Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ
là cái nôi của nhiều tôn giáo quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các
giá trị văn hóa lâu đời của người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây
được xem là cứ điểm của đạo Phật trước khi được phổ biến khắp Ấn Độ.
Những ngôi chùa đá này bắt đầu được đục khắc vào thế kỷ thứ II (tr. TL) và kết thúc vào thế kỷ thứ VII (TL), từ thời kỳ các bộ phái Hinayana Phật giáo thịnh hành ở vùng đất này cho đến thời điểm Phật giáo Đại thừa phát triển, từ thời điểm tượng Phật chưa được phụng thờ cho đến khi yếu tố Mật giáo in dấu lên các pho tượng Phật và những vị Bồ-tát. 900 năm cho 30 hang động lần lượt ra đời, để rồi sau 1200 năm bị vùi lấp trong quên lãng, tình cờ được khám phá và trở thành một di sản thế giới qua công nhận của UNESCO.
Các động này do quân đội Anh khám phá năm 1819, khi Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Viện Khảo Cổ Ấn Độ tiếp tục khảo cứu và điều tra, xác định được 28 động, và được ghi lại trong các quyển sách của ông James Burgess xuất bản vào năm 1880. Động thứ 29 (15A) được tìm ra vào năm 1956.
Những ngôi chùa đá này bắt đầu được đục khắc vào thế kỷ thứ II (tr. TL) và kết thúc vào thế kỷ thứ VII (TL), từ thời kỳ các bộ phái Hinayana Phật giáo thịnh hành ở vùng đất này cho đến thời điểm Phật giáo Đại thừa phát triển, từ thời điểm tượng Phật chưa được phụng thờ cho đến khi yếu tố Mật giáo in dấu lên các pho tượng Phật và những vị Bồ-tát. 900 năm cho 30 hang động lần lượt ra đời, để rồi sau 1200 năm bị vùi lấp trong quên lãng, tình cờ được khám phá và trở thành một di sản thế giới qua công nhận của UNESCO.
Các động này do quân đội Anh khám phá năm 1819, khi Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Viện Khảo Cổ Ấn Độ tiếp tục khảo cứu và điều tra, xác định được 28 động, và được ghi lại trong các quyển sách của ông James Burgess xuất bản vào năm 1880. Động thứ 29 (15A) được tìm ra vào năm 1956.
Các động Ajanta bắt đầu được đào khoét vào núi vào thế kỷ 2 trước Tây
Lịch đầu tiên do các tu sĩ thuộc phái Thượng Tọa Bộ (hang số 8, 9, 10,
12, 13, 15A), và cộng đồng Phật giáo tiếp tục xây dựng trong 700 năm cho
đến thế kỷ 5 Tây Lịch. Các hang sau nầy có màu sắc của Đại Thừa (các
hang số 1, 2, 16, 17, 19, 26), phản ảnh sự chuyển hướng của Phật giáo Ấn
Độ. Một số hang còn xây dựng dở dang, chưa hoàn tất.
Tổ hợp chùa Hang Ajanta nằm trên lưng chừng dãy núi đá hình móng ngựa nhìn xuống một cái vực sâu. Hôm chúng tôi đến nơi đây, cao nguyên Deccan vào mùa khô. Sông Waghora nằm dưới đáy cái vực sâu trước chùa, cạn khô trơ đá sỏi. . . Cây cối rụng lá tiêu điều và ánh nắng chói chang như thiêu như đốt. Nhen sóc, khỉ, quạ, chim chóc, gà rừng lang thang trong khu rừng thưa đầy cọ và cây chà là để kiếm ăn.
Tổ hợp chùa Hang Ajanta nằm trên lưng chừng dãy núi đá hình móng ngựa nhìn xuống một cái vực sâu. Hôm chúng tôi đến nơi đây, cao nguyên Deccan vào mùa khô. Sông Waghora nằm dưới đáy cái vực sâu trước chùa, cạn khô trơ đá sỏi. . . Cây cối rụng lá tiêu điều và ánh nắng chói chang như thiêu như đốt. Nhen sóc, khỉ, quạ, chim chóc, gà rừng lang thang trong khu rừng thưa đầy cọ và cây chà là để kiếm ăn.
Trong tiếng gió thổi ào ào qua núi đá và tiếng quạ kêu buồn bả trên non,
có tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ thán phục của khách nhàn du. .
. . Du khách rất đông, người nước ngoài và người bản xứ, toàn những
người đến đây để xem cái hoành tráng của dãy núi đá khổng lồ đã được sức
người đục rỗng ruột thành hang, thành chùa, với vô số cột, vô số tượng,
vô số tranh tường, vô số phù điêu tinh xảo diễm lệ.
Từ một dãy núi đá khổng lồ, người ta đã đục đẽo, chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinh tế trong từng chi tiết. Tất cả có 30 ngôi chùa, ngày nay người ta gọi tên theo số.
Từ ngôi chùa I cho đến ngôi chùa XXX. Trong đó ngôi chùa IX và ngôi chùa X là hai công trình được tạo tác sớm nhất, từ thời Vương triều Andra. Hầu hết các ngôi chùa hang khác được xây dựng, tạo tác trong vương triều Phật giáo Gupta, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII.
Vương triều Andra bắt đầu từ năm 28 trước công nguyên, kéo dài 460 năm, là một thời kỳ bình yên với sự phát triển khá mạnh về kỹ nghệ và thương mại, có nhiều thành phố mới được xây dựng, rất hưng thịnh. Những công trình kiến trúc thời kỳ này đã đạt đến đỉnh cao của kỹ nghệ, trong đó tiêu biểu là chùa hang số IX và chùa hang số X.
Từ một dãy núi đá khổng lồ, người ta đã đục đẽo, chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinh tế trong từng chi tiết. Tất cả có 30 ngôi chùa, ngày nay người ta gọi tên theo số.
Từ ngôi chùa I cho đến ngôi chùa XXX. Trong đó ngôi chùa IX và ngôi chùa X là hai công trình được tạo tác sớm nhất, từ thời Vương triều Andra. Hầu hết các ngôi chùa hang khác được xây dựng, tạo tác trong vương triều Phật giáo Gupta, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII.
Vương triều Andra bắt đầu từ năm 28 trước công nguyên, kéo dài 460 năm, là một thời kỳ bình yên với sự phát triển khá mạnh về kỹ nghệ và thương mại, có nhiều thành phố mới được xây dựng, rất hưng thịnh. Những công trình kiến trúc thời kỳ này đã đạt đến đỉnh cao của kỹ nghệ, trong đó tiêu biểu là chùa hang số IX và chùa hang số X.
Tất cả các ngôi chùa hang Ajanta đều được tạo tác bằng cách đục khoét
sâu vào lòng đá. Mặt ngoài, mỗi ngôi chùa thường có khoảng 20 cột đá đục
đẽo liền từ núi đá nguyên thủy, rồi chạm khắc, trang trí công phu. Bước
qua hàng hiên là tới đại sảnh, hai bên có hai dãy trai phòng, nơi cư
ngụ của các nhà sư. Người ta đục đá tạo tác bàn thờ lớn từ giữa hang đến
đáy hang chùa.
Do phải cắt đục lòng núi để tạo thành chùa nên người đời mới gọi là chùa hang. Có những ngôi chùa rất lớn như chùa hang XVI, gian hành lễ rộng đến 400m2. Chùa hang I, chùa hang II cũng có những phòng lễ hội rộng mênh mông với những cột lớn được chạm khắc tỉ mỉ và các đường xoi tế nhị. Chân cột vuông, đỉnh cột có vầng tròn áp trần trang trí những tràng hoa lớn công phu. Chùa hang XXVI có các hàng cột vĩ đại đỡ ngạch cửa khổng lồ với những hình chạm trổ tuyệt đẹp.
(Hang số 10 /Chùa Hang Ajanta)
Điêu khắc đá ở chùa hang Ajanta
Các chùa hang ở Ajanta chứa những bức họa đẹp nhất của nghệ thuật Phật giáo. Dày đặc trên các mái vòm ở các vách chùa hang là những bức tranh màu đặc sắc. Trong 16 ngôi chùa hang có nhiều tranh vẽ bằng màu đỏ, xanh lá cây, xanh lam trên nền đá cẩm thạch, mô tả sinh động những điển tích Phật giáo.
Đó là những tác phẩm mỹ thuật vừa lộng lẫy vừa thiêng liêng. Ở 14 chùa
hang khác có nhiều bức tranh vẽ các tích Phật cùng nhiều bức tranh mô tả
cuộc sống nhiều mặt của người dân Ấn đương thời. Chùa hang XVIII nổi
tiếng với bức bích họa lớn vẽ một phụ nữ và một đứa trẻ, gương mặt họ
bừng lên khao khát hướng tới sự giải thoát. Đó là vợ và con của Đức
Phật.
Trong chùa hang XIX, một điêu khắc đá tuyệt diệu, tạc hình Phật đứng, áo
cà sa bó thân, gương mặt Đức Phật đẹp một vẻ đẹp lý tưởng, miệng hơi
mỉm cười, đôi mắt nhìn xuống. Tóc quăn, tai chảy dài, những biểu hiện
quý tướng của Phật giới; Nhưng tất cả trông thân thiện và ấm áp lạ lùng.
Bức phù điêu đá này được coi là mẫu mực cổ xưa nhất của dáng tượng Phật
đứng. Không chỉ là những tác phẩm điêu khắc đá và bích họa mô tả những
điển tích Phật giáo một cách toàn vẹn, to lớn và sâu sắc, mà nó bao gồm
cả những bích họa và điêu khắc đá mô tả đời sống xã hội Ấn Độ đương
thời. Tư tưởng Phật Giáo hòa quyện một cách tự nhiên giữa thế giới thánh
thần và đời sống con người.
Có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế.
Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế.
Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Tháp Phật ở chùa Hang Ajanta
Chánh điện của một chùa Hang Ajanta, do đục núi đá rồi điêu khắc mà thành
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0263
DI TÍCH PHẬT GIÁO TẠI AFGHANISTAN -BOROBUDUR
Thursday, May 23, 2013
DI TÍCH PHẬT GIÁO TẠI AFGHANISTAN
Tiếng gọi từ những phế tích Phật giáo Afganistan
Thường Huyễn
Thứ Hai, 05:57 18-03-2013
Afghanistan - đất nước đã có một thời Phật giáo lên ngôi, cuộc sống rất an bình, phúc lạc. Vào thời Đại đế Asoka (thế kỷ III, tr. TL), Phật giáo đã được truyền đến đây. Về thăm lại Bamiyan, một thành phố xinh xắn trong thung lũng của vùng núi Hindu Kush, nằm trên con đường Tơ Lụa cổ xưa, con đường duy nhất thông thương các vùng Trung Hoa, Ấn Độ, Châu Âu lúc bấy giờ, nơi dừng chân của thương nhân, khách bộ hành và chư Tăng đi ngang qua đây, giờ đây thật hoang vắng, se thắt lòng người.
Con đường tơ lụa huyền thoại
Thung lũng Bamiyan
Hai tượng Phật khổng lồ cao nhất thế giới cũng được kiến tạo vào thời điểm vàng son của Phật giáo trên mảnh đất này. Một tượng cao 35m được kiến tạo từ năm 544 đến 595, và một tượng cao 53 m được kiến tạo từ năm 591 đến 644. Tính đến năm 2001, hai tượng Phật đã hiện hữu hơn 1500 năm trên vách núi cao có chiều dài vòng cung 500-600m. Dọc theo vách núi này còn có nhiều hang động, nơi tu tập của chư Tăng ngày xưa và tượng Phật lớn nhỏ được chạm khắc công phu. Ngưòi ta tin rằng các kiệt tác này đều được thực hiện vào đời vua Kushan với sự hướng đạo của chư Tăng tại địa phương.
Tượng Phật ở Bamiyan được chụp ở nhiều góc độ
Trong Đại Đường Tây Vực Ký có viết, ngài Huyền Trang viếng thăm nơi đây vào ngày 30 tháng 4 năm 630. Ngài mô tả lại Bamiyan lúc bấy giờ là một trung tâm Phật giáo phồn thịnh với khoảng 10 tự viện lớn gồm cả ngàn tăng chúng. Phật tử thường xuyên cúng dường hương hoa, vòng vàng đá quý trên hai tượng Phật lớn này. Năm 2003, UNESCO đã đưa di tích Phật giáo Bamiyan vào danh sách di sản thế giới. Mô thức chạm khắc tượng Phật và hang động ở Bamiyan vẫn còn thấy nơi các tượng Phật ở Bingling Tự thuộc vùng thạch động tỉnh Gansu, Trung Quốc ngày nay. Lạc Sơn Đại Phật trong tư thế ngồi, cao 71m, được kiến tạo vào đời Đường (618–907), ở Tứ Xuyên, Trung Quốc cũng được phỏng theo phong cách tượng Phật ở Bamiyan. Năm 1996, Liên Hiệp Quốc đã công nhận Lạc Sơn Đại Phật là di sản văn hoá thế giới. Thật kỳ diệu, trận động đất kinh hoàng năm 2008 ở Tứ Xuyên không ảnh hưởng gì đến tượng Phật.
Lạc Sơn Đại Phật ở Tứ Xuyên, Trung Quốc được phỏng theo phong cách tượng Phật Bamiyan
Đạo Phật tại Afghanistan phát triển rực rỡ từ thế kỷ thứ 2 cho đến thế
kỷ thứ 7. Từ đây trở đi Hồi giáo bắt đầu đặt chân trên vùng đất này và
lớn mạnh và nhanh chóng chiếm ưu thế trong tín ngưỡng quần chúng. Đạo
Phật chỉ còn là chùa chiền không Tăng lữ, tượng Phật, hang động hiu
quạnh. Vẫn không yên, những di sản quý báu này luôn bị đe doạ phá huỷ,
xoá sổ trên mặt đất. Năm 1221, cơn thảm hoạ phủ xuống Bamiyan, song
những tượng Phật vẫn bình yên. Sau đó, hoàng đế Mughal, Aurangzeb cố
gắng dùng hoả pháo lớn bắn phá. Đến thế kỷ 18, vua Nader Afshar, Thổ Nhĩ
Kỳ đã dùng đại pháo công phá, thân tượng bị khoét thủng nhiều lỗ nhỏ
nhưng không mấy trầm trọng. Lần định mệnh sau cùng là vào đầu tháng 3
năm 2001, chính phủ Hồi giáo cực đoan Taliban đã ra lệnh dùng thuốc nổ
và nhiều loại vũ khí hiện đại của thế kỷ 20 - 21 làm nổ tung, phá huỷ
hoàn toàn hai tượng Phật khổng lồ.
Đầu tháng 3/2001, chính phủ Hồi giáo cực đoan Taliban đã dùng vũ khí hiện đại phá hủy tượng Phật
Khách du lịch thỉnh thoảng đến thăm viếng nơi đây phải mua vé để rồi
ngắm lại một cái hang vĩ đại không còn bóng dáng của tượng Phật đã được
người dân Afghanistan gìn giữ từ đời này sang đời khác. Thay vì được
ngắm hai tượng Phật khổng lồ, giờ đây họ đau xót ngước mắt lên chỉ thấy
vách núi sừng sững với cái hốc khổng lồ như lồng ngực không trái tim.
Khách đến thăm chỉ còn biết luyến tiếc ngắm những mảnh vụn của 2 tượng
Phật trong tủ đặt trên lối đi không đủ ánh sáng. Ông Hamza Youssefi đang
làm việc tại Khoa Kiến trúc Lịch sử Afghanistan ngậm ngùi: “Không ai
biết cái giá phải trả cho công việc của nghệ nhân, những người đã đi vào
lịch sử nghệ thuật hơn 1500 năm nay, và cũng không ai sẵn lòng trả cái
giá ấy...”
Sau sự kiện 3/2001 Bamiyan chỉ còn trơ trọi vách núi
Sau khi hai tượng Phật bị phá huỷ, chính phủ Nhật Bản và một số tổ chức khác như Học viện Afghanistan ở Bubendorf, Thuỵ Sĩ, tổ chức ETH ở Zurich bàn đến việc tái thiết lại hai tượng Đại Phật này. Vào năm 2002, Phật giáo Tích Lan đã cho kiến tạo một tượng Phật trên núi phỏng theo mô thức của hai tượng Phật Bamiyan. Chính phủ Afgha cho mời hoạ sĩ Hiro Yamagata, người Nhật dùng hệ thống laser 14 phóng hình hai bức tranh Phật lên vách núi, chỗ hai tượng Phật ngày trước. Hệ thống laser này dùng năng lượng mặt trời và gió. Công trình này phải chi phí khoảng 9 tỷ đô la và đã được UNESCO tài trợ.
Hoạ sĩ Hiro Yamagata dùng hệ thống laser 14 phóng hình hai bức tranh Phật lên vách núi
Kể từ năm 2002, ngân khoảng quốc tế liên tục tài trợ cho việc phục hồi dần dần và bảo tồn di sản này. Năm 2009, Tổ chức Văn hoá, Khoa học, Giáo dục Liên Hiệp Quốc đã tài trợ 1.3 tỷ đô la cho chương tình thu gom lại những mảnh vụn của hai tượng Phật, chuẩn bị cho việc tái tạo 2 tượng đại Phật. Ngày 3 - 4 tháng 3 năm 2011, tại Pari, Nhóm Chuyên gia Phục hồi Công trình Văn hoá Afghanistan của UNESO đã ngồi lại với nhau bàn bạc hướng thực hiện cho việc phục hồi di sản này. Nhà nghiên cứu Erwin Emmerling của Trường Đại học Kỹ thuật Munich đưa đề nghị nên tái tạo tượng Phật nhỏ bằng hoá chất Silicon. Hội thảo tại Pari lần này có 39 bản kiến nghị tái thiết tượng Phật và xây dựng một số bảo tàng viện nhằm bảo tồn tốt di tích Bamiyan. Hàng vạn mảnh nhỏ chất liệu xa xưa thô sơ sẽ được nối liền bằng hoá chất hiện đại ngày nay. Bert Praxenthaler, một nhà điêu khắc và cũng là một nhà sử học người Đức nổi tiếng đảm nhận trực tiếp nhiệm vụ này. Việc trước tiên, ông sẽ đào tạo một đội ngũ nghệ nhân địa phương để tiếp tay thực hiện việc phục hồi hang động và tượng Phật. Chương trình này được sự hỗ trợ tích cực của UNESCO và Hội đồng Bảo tồn Di sản Quốc tế (ICOMOS).
Bước đầu cho công tác phục chế 2 tượng Phật
Ngày nay xung quanh thung lũng Bamiya có hơn 400.000 người dân đang sống cảnh nghèo thiếu, lạnh lẽo trong những căn chòi lụp sụp và ở những hang động ẩm tối. Việc phục hồi di sản này cũng bị một vài góp ý rằng việc làm thiết thực nhất trước mắt là ngân khoản dành cho việc phục hồi di sản nên giúp cho người dân tội nghiệp ở đây có nhà ở, điện, nước và các phương tiện sinh sống được tốt hơn. Tuy nhiên, với tầm nhìn xa, việc phục hồi di sản là điều phải thực hiện. Người dân địa phương nói riêng và đất nước Afghanistan rất mong mỏi việc phục hồi di tích này sớm thành hiện thực để họ có công ăn việc làm và phát triển kinh tế đời sống bằng ngành du lịch.
Hiện nay, một nguy cơ thảm hoạ Phật giáo khác ở Afghanistan có thể xảy ra. Thành phố Phật giáo Mes Aynak cổ kính bị lãng quên bao nhiêu thế kỷ, nay đang bị đánh thức bởi lòng tham con người thời đại. Họ khám phá ra đây chính là một mỏ đồng lớn nhất thế giới, một tài nguyên quý hiếm của nhân loại.
Tuy nhiên, một điều hết sức may mắn là sự trì hoãn trong việc xây dựng khu mỏ vĩ đại này, và nhờ vào nguồn tiền đầu tư của Ngân hàng Thế giới, khoa khảo cổ học đã giành được một diện tích 1,5 dặm.
Một nhóm các nhà khảo cổ học quốc tế và hơn 550 nhân công địa phương hiện nay đang tiến hành khai quật. Khu vực này cũng nằm trên con đường Tơ Lụa và có vị trí khá quan trọng được xem như là cửa sổ độc nhất của Afghanistan nhìn sang Trung Hoa, Ấn Độ và các nước Địa Trung Hải. Tại thành phố Phật giáo này, có sáu tự viện xếp theo hình vòng cung và nổi bật là lò luyện đồng, hầm mỏ được xây dựng trên mỏm núi ở độ cao gần 2.500m (8.200 feet). Khung cảnh này cho thấy Phật giáo, việc khai mỏ và mua bán trao đổi có sự liên quan với nhau trong nhiều năm qua kể từ thế kỷ thứ năm.
Điểm đáng lưu tâm là sự mâu thuẫn giữa tư tưởng bảo tồn văn hoá và nhu cầu nâng cao đời sống kinh tế hết sức cần cấp của Afghanistan. Nhiều nước ngoài ngắm ngía nguồi tài nguyên này khiến họ dao động. Mỏ đồng đỏ ở đây có thể trị giá 100 tỷ đô la, gấp năm lần giá trị toàn bộ kinh tế Afghanistan, trong đó chính phủ và quân đội được tài trợ chủ yếu từ nước ngoài.
Năm 2007, Trung Hoa đã ký hợp đồng 3 tỷ cho 30 năm khai mỏ. Đây là lần đầu tư lớn nhất trong lịch sử Afghanistan và các viên chức Afghanistan hoan nghênh việc này như là phần việc then chốt trong công cuộc xây dựng nền kinh tế đất nước chứ không phải chỉ dựa vào nguồn trợ cấp từ các nước và việc buôn bán thuốc phiện. Họ còn cho rằng, việc đầu tư này mang lại hàng trăm triệu đô la mỗi năm cho chính phủ và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người.
Vấn đề nghiêm trọng là việc khai mỏ sẽ tàn phá tất cả di sản văn hoá tinh thần quý giá hiện hữu từ bao lâu nay. Vô số phù điêu, tranh tường và hơn ngàn tượng Phật, Bồ-tát rất có giá trị phải chịu số phận như thế nào đây. Nỗi lo âu ám ảnh cái cảnh tượng kinh hoàng nhất trong lịch sử Afghanistan vào năm 2001, Đức Phật bị giật tung tiêu biến trong chốc lát đang vây kín suy nghĩ của các nhà khảo cổ có lương tâm và quần chúng trong nước và thế giới.
Tuy nhiên vào năm 2009, một nhóm nhỏ gồm các nhà khảo cổ học người Pháp và Afghanistan đã thực hiện được một thoả thuận với Bộ Tài Nguyên cho phép được “khai quật giải nguy”, cất giữ lại được nhiều tác phẩm, tài liệu quý giá trước khi việc khai mỏ khởi công.
Ông Mossadiq Khalili, Thứ trưởng Bộ Văn Hoá Afghanistan cho biết: “Theo dự định, tháng 12 năm ngoái là hạng chót khởi công, song vẫn chưa thấy tiến hành. Bây giờ họ dự định vào tháng 6 năm nay sẽ hoàn tất thi công đợt đầu.”
Các nhà khảo cổ nhận thấy có lẽ việc thi công phải đến năm 2016 vì tiến độ làm việc khá lề mề, chậm chạp. Dường như chưa có một dự án nghiêm túc, thiết bị máy móc, lò nấu kim loại, đường vận chuyển cho công việc. Đây cũng là điều làm giảm bớt sự căng thẳng, các nhà khảo cổ có đủ thời gian để di chuyển các bảo vật, nhưng luyến tiếc thay, một thành phố Phật giáo cổ sẽ bị san bằng trong nay mai. Định mệnh của thành phố này rồi cũng như hai tượng Đại Phật Bamiyan. Hai tượng Phật hy vọng sẽ có ngày phục hồi, còn thành phố này sẽ là “bãi biển nương dâu” do chính con người tạo ra.
Sự hiện hữu của hình ảnh hai tượng đại Phật trong tim nhân loại là bất diệt. Dẫu hốc núi rỗng không quá lớn kia vẫn còn đó, hình ảnh Đức Phật vẫn sừng sững ngự trị trong tâm trí khách hành hương và mọi người. Con người thật quá yếu đuối và cũng thật kiên cường. Trước cảnh thành trụ hoại không của đồng loại, cảnh vật, con người buồn khổ khôn nguôi. Lại cũng chính con người dũng mãnh, kiên trì, chịu đựng, để rồi vượt qua mọi đau khổ, thử thách hướng đến chân trời tươi sáng. Ấy là tâm của người đã nhận ra sự thật vô thường của thiên địa hoàn vũ; ấy là trí của người biết nên làm gì, cần làm gì để chính ta an vui, mọi người an vui, và thế giới an vui.
(Tổng hợp theo nhiều nguồn tài liệu tiếng Anh)
Mes Aynak là một di tích Phật giáo 2600 năm tuổi ở tỉnh Logar, Afghanistan, đây là nơi chứa các di tích khảo cổ học cổ đại và một trong những mỏ đồng lớn nhất thế giới. Năm 2007, một công ty thuộc sở hữu của chính quyền Trung Quốc trả $ 3 tỷ USD để thuê khu vực trong 30 năm với kế hoạch khai thác quẳng đồng trị giá $ 100 tỷ USD.
Trong khi chuẩn bị đào đất, những người thợ mỏ đã tìm thấy một tu viện Phật Giáo rộng 100 mẫu chứa một loạt các ngôi chùa Phật giáo, tượng, di tích và bản thảo kinh điển.
Trong năm 2009 các nhà khảo cổ học đã được một thời hạn ba năm để cố gắng khai quật các di chỉ này, nhưng họ nói rằng đó là một công việc 30-năm và họ hiện đang bị hạn chế rất nhiều về dụng cụ cơ giới.
"Đây có lẽ là một trong những điểm quan trọng nhất dọc theo con đường tơ lụa", Philippe Marquis, một nhà khảo cổ người Pháp tư vấn cho những người Afghanistan, nói với tờ Daily Mail trong năm 2010. "Những gì chúng tôi có tại nơi này, với những gì đã được khai quật, đủ để lấp đầy bảo tàng quốc gia Afghanistan."
Vì vậy, bây giờ các nhà khảo cổ học từ khắp nơi trên thế giới đang vận động để cứu các di tích này với sự giúp đỡ của nhà làm phim tài liệu Brent Huffman.
Dưới đây là một số hình ảnh của Flickr / US. Embassy Kabul cung cấp:
Các di tích nằm khoảng 25 dặm về phía đông nam thủ đô Kabul
Hơn 250 người Afghanistan đang làm việc với một nhóm các nhà khảo cổ quốc tế để khai quật các di tích cổ
Họ đã phát hiện ra hơn hai mươi địa điểm đổ nát, trong đó có bốn tu viện Phật giáo từ thế kỷ thứ 5-6
Một pháo đài sườn đồi và các khu định cư từ thời đại đồ đồng (2300 - 1700 trước công nguyên)
Mỏ đồng chôn cất có thể đã được sử dụng lần đầu tiên bởi con người từ 5.000 năm trước
Đã có một trại dành cho công nhân Trung Quốc,
Các nhà khảo cổ nói Mes Aynak có thể là đáng kể như Pompeii nếu được khai quật và bảo quản
Họ muốn cố gắng bảo vệ kho tàng văn hóa trước và sau khi khai thác
Các di tích bao gồm một số bảo tháp Phật giáo và đền chùa
Khám phá nhiều hành lang và phòng
Hơn 200 bức tượng đã được tìm thấy
Một số lớn có thể sẽ bị phá hủy trước khi di chuyển
Hiện tại không hy vọng có các văn bản cổ trên tường
Ngoài ra còn có đồng tiền bằng kim loại, thủy tinh, các dụng cụ và hiện vật khác,
bao gồm cả bản thảo có thể là của Alexander Đại đế
Hoạt động khai thác mỏ được dự kiến bắt đầu vào tháng Giêng năm 2013
Các chuyên gia khai thác mỏ nói chất đồng sẽ tạo ra đất độc hại
và mọi người sẽ được khuyên nên tránh khu vực
Tìm hiểu thêm: http://www.businessinsider.com/mes-aynak-turned-into-copper-mine-2012-9?op=1 # ixzz27cbEvcyB
Link: http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=6979
THẮNG TÍCH PHẬT GIÁO TẠI INDONÉSIA
Borobudur Temple, thắng tích Phật Giáo tại Indonesia
Borobudur Temple trên đồi. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Có lẽ thế giới sẽ ít ai biết đến Jogyakata nếu không nhờ vào một di tích bảo tháp vĩ đại của Phật Giáo còn lưu lại dấu vết ở đây suốt từ thế kỷ 9 đến nay. Ðó chính là Borobudur Temple.
Từ Jogyakata chạy về hướng Bắc khoảng 1 tiếng rưỡi là du khách đã đến Borobudur Temple. Từ xa ngôi Temple này như mang dáng dấp một ngôi lâu đài lớn nằm trên một ngọn đồi cao. Tên “Borobudur” mang một ý nghĩa là ngôi Phật Tự trên đồi (người hướng dẫn địa phương cho tôi biết chữ “Boro” là chùa, Bud từ chữ Budda là Phật và “ur” có nghĩa trên cao, trên đồi). Tuy nhiên danh từ này cho đến nay vẫn còn là một điều tranh cãi chưa có kết luận. Có cái lạ là Borobudur Temple lại thuộc về nhánh Phật giáo Ðại thừa chứ không phải nhánh Tiểu thừa Phật giáo. Kiến trúc của nó cũng khá đặc biệt lạ lùng và tạo cho người xem nhiều suy nghĩ tìm hiểu các điểm sâu xa về giáo lý và triết lý Phật giáo. Nhìn qua nét kiến trúc của Borobudur, quả thực tôi không biết tại sao người ta lại gọi là Temple vì đây không phải là nơi người ta đến để cầu nguyện hoặc làm một nghi thức lễ Phật giáo nào. Nhưng càng ngắm nhìn kiến trúc Borobudur người thưởng ngoạn lại càng cảm thấy lạ, lại càng đắm chìm vào dòng suy tư tôn giáo, đời sống con người, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
Nét điêu khắc trên đá diễn tả sự lắng nghe lời người lớn tuổi. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Như trong bức họa đồ miêu tả, có người cho Borobudur Temple có dáng dấp như là Mạn-đà-la, một biểu đồ linh thiêng của vũ trụ trong triết lý Phật giáo. Stupa (bảo tháp) lớn nhất tại trung tâm Borobudur như là quả núi vũ trụ lớn nhất so với tất cả các bảo tháp của Phật giáo trên thế giới. Kiến trúc Borobudur có thể tóm gọn lại thành 3 phần: phần tầng 1 diễn tả về đời sống con người. Trong đó các bức điêu khắc ở tầng này dường như chủ ý muốn nói đến cái nhân cái quả của kiếp này kiếp sau. Thường thì có ẩn ý răn dạy con người. Thí dụ những người trẻ không chịu lắng nghe kinh nghiệm từ người lớn tuổi thì mai sau/kiếp sau họ có thể đón nhận những điều bực bội, lận đận đến với họ.
Nét điêu khắc diễn tả sự lận đận ở kiếp sau vì không nghe lời. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Phần hai gồm các tầng từ tầng hai đến tầng bảy bao gồm những câu chuyện về Ðức Phật, từ những câu chuyện về đời sống của Thái tử Tất-Ðạt-a từ lúc sinh ra đến lúc đi tìm chân lý và giác ngộ dưới gốc Bồ Ðề, các câu chuyện các tiền kiếp xa xưa của Phật như mẩu chuyện tiền kiếp của Ngài là Voi và đã hy sinh thân xác của voi để cứu sống những người sắp chết đói. Mẩu chuyện con Sư tử, Nai, và Chim. Sư tử đói bụng vồ được nai thì mừng quá nhưng một chiếc răng Sư tử bị nhức nhối, đau quá nên không ăn thịt nai được. Chim (tiền kiếp của Phật) thấy thế bèn nói Sư tử há miệng và chim lấy chiếc răng đau ra. Sau đó chim chịu làm mồi cho Sư tử thay thế cho nai. Các bức họa điêu khắc miêu tả về các câu chuyện trên thật sống động cho người xem. Người ta ước lượng tổng số các bức điêu khắc có thể dài chừng 4km. Nếu bạn muốn xem từng bức điêu khắc (một bức khoảng 24cm), mỗi bức mất 1 giây đồng hồ thì bạn cần ít nhất 2 ngày thì mới xem hết được. Bạn có đủ can đảm không?
Nét điêu khắc diễn tả câu chuyện Chim, Sư tử và Nai. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Tượng thần Shiva Ấn Ðộ Giáo cũng là một tiền kiếp Ðức Phật. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Phần ba là phần trên cùng bao gồm các tầng 8 đến tầng 10 thì không còn là hình vuông nữa mà là hình tròn. Ðây là phần tinh túy thâm sâu nhất của Borobudur. Có 32 stupa trên vòng tròn thứ nhất, vòng tròn thứ hai có 24 stupa. Tất cả các stupa tầng 1, tầng 2 này gọi tên là Parinirwana và đều được đục lỗ trống chung quanh hình thoi. Riêng tầng 3 có 16 stupa nhưng lại được đục lỗ trống hình vuông và gọi tên là Nirwana. Bảo tháp stupa trên cùng, nằm ngay giữa trung tâm của là một bảo tháp theo mái vòm tròn lớn. Trên đầu mái vòm là một trụ vuông và trên đó là một trụ hình bát giác. Bỏ qua phần ý nghĩa của các stupa thì phải nói đây là phần kiến trúc rất đẹp.
Ba Stupas Parinirwana-Nirwana-Mahaparinirwana, biểu tượng vô tướng. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Borobudur Temple được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 9 nhưng Phật giáo chỉ ảnh hưởng ở đây khoảng hơn 1 thế kỷ thì ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo trở lại. Sau đó Hindu lại phải nhường cho ảnh hưởng Hồi giáo chiếm trọn Borobudur cho đến bây giờ. Vì thế kiến trúc của Borobudur ít nhiều đều có ảnh hưởng từ ba tôn giáo trên.
Tôi đến thưởng ngoạn Borobudur dưới một cơn mưa tầm tã. Sáng nắng chiều mưa là chuyện bình thường vào Tháng Giêng tại đất nước Indonesia. Ngắm nhìn kiến trúc to lớn của Borobudur mà lòng thầm cám ơn ngọn núi lửa Merapi vì nhờ tro bụi của Merapi phủ kín nên Borobudur mới còn tồn tại cho đến khi Thomas Stamford Raffles, một người Anh đến phủi bụi cho temple ló mặt ra thế giới từ năm 1814. Chính phủ Indonesia và UNESCO đã hai lần trùng tu bức tranh Mandala bằng đá này, nhưng những trận động đất thường xảy ra tại đây liệu có phá hủy đi một tuyệt tác của nhân loại không?
Quang cảnh nhìn từ đỉnh Borobudur Temple. (Hình: ATNT Tours & Travel)
|
Jogyakata không phải chỉ có Borobudur Temple mà còn có Prambannan, ngôi đền thờ của Ấn Ðộ giáo cũng vĩ đại không kém. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện thần Shiva của Ấn Ðộ giáo cũng là một tiền kiếp của Ðức Phật và cũng đồng thời nhớ đến mẩu chuyện Ðức Phật cũng là một tiền kiếp của Thần Vishnu bên ngôi đền Hindu tại New Dehli. Ai đúng ai sai! Tôi cho rằng Jogyakata cũng không thua kém gì Angkok Wat của Campuchia.
CÁC NGÔI CHÙA CỔ KÍNH TẠI TRIỀU TIÊN
CÁC NGÔI CHÙA CỔ KÍNH TẠI TRIỀU TIÊN
1. CHÙA BORIAM
Ngôi chùa Boriam cổ kính được đại sư Wonhyo Daisa (617 - 686) xây
cất năm 683 trên một vách đá cheo leo ở lưng chừng núi Chuwolsan nổi
tiếng với phong cảnh đẹp nhất nhì xứ sở Triều Tiên. Chốn linh
thiêng, cổ kính được thiên nhiên ưu ái ban tặng một khoảng không
gian núi đồi điệp trùng, cỏ cây hoa lá chen nhau đua nở này, hằng
năm vẫn đón nhận những Phật tử lòng thành từ khắp nơi đổ về, nguyện
cầu bình an và lắng lòng với thiên nhiên.
2. Samwhasa
Là một ngôi đền cổ có từ hàng nghìn năm trước, bao quanh bốn bề linh thiêng là những dãy núi cao sừng sững trong thung lũng Mureung ở chân núi Datasan, đền Samwhasa mặc dù từng bị quân đội Nhật Bản đốt phá, vẫn giữ được nét “ngọa hổ tàng long” uy nghiêm cùng cảnh trí độc đáo, tinh tế đủ sức hấp dẫn cho các thi sĩ, thư pháp và các nhà sư đức độ năng viếng thăm, ngoạn cảnh.
3. Oeosa
Ngôi chùa với cảnh trí đẹp độc đáo này được Hoàng Đế thứ 26 của triều
đại Silla Jinpyeong (579 - 632) xây cất cách đây hàng nghìn năm, hiện là
một trong những nơi thu hút nhiều Phật tử cũng như du khách viếng thăm
nhất Tri62u Tiên. Nằm bên bờ kinh có hàng cây xanh mướt giữa trùng trùng
điệp điệp là các ngọn đồi thấp phủ đầy sắc vàng, xanh của cỏ cây hoa
lá, ngôi chùa hiện lên linh thiêng, bình dị đến tĩnh mặc. Ai từng đến
đây, hẳn không thể quên bức mặc thủy đẹp hút hồn của Oeosa.
4. Cheongryangsa
Được một đại sư
sống vào thời Hoàng đế Munmu (661 - 681) dưới triều đại Silla xây cất và
sau này được Hoàng đế Taejo (877 - 943) tái thiết lại vào cuối triều
đại Goryeo (918 - 1392), Cheongryangsa là một ngôi đền độc đáo, mặt sau
đền tựa vào vách đá cheo leo giữa lưng chừng núi, mặt trước của đền lại
hướng về xa xa, nơi có những ngọn đồi, vách đá trùng điệp, xanh mướt.
Rất nhiều học giả huyền thoại của Tri62u Tiên như nhà sư Wonhyo Daisa
(617 - 686) - người xây cất chùa Boriam và Toegye Yi Hwang (1501 -
1570), nhà triết học Nho giáo vĩ đại thời Joseon tùng học tại ngôi đền
linh thiêng này.
5. Magoksa
Magoksa, ngôi chùa nằm trên sườn phía đông của ngọn núi Taehwasan, ở thành phố Gongju, tỉnh Nam Chungcheong là một ngôi chùa cổ, rộng lớn, xây cất năm 640 dưới triều đại Silla với khoảng 30 phòng, được xem là đại diện đứng đầu Tông phái Tào Khê Phật giáo Triều Tiên ở Gongji. Bên cạnh vẻ linh thiêng, cổ kính được rừng cây xanh bao phủ trên sườn núi, Mogoksa còn là ngôi chùa Phật giáo lưu giữ rất nhiều di sản văn hóa cổ xưa rất quý giá.
6. Tapsa
Tapsa là ngôi chùa nổi tiếng bởi rất nhiều điều bí ẩn xoay quanh, từ
việc xây dựng gần 100 ngọn tháp cổ mà không cần đến xi-măng hay trát vữa
mà vẫn sừng sững, hiên ngang trước gió bão đến truyền thuyết có một học
giả sống vào thế kỷ 19 đã xây hẳn một ngọn tháp bằng đá làm nơi cầu
nguyện cho toàn nhân loại được bình an. Tapsa thu hút du khách không chỉ
bởi là chốn linh thiêng có nhiều điều bí ẩn mà nơi đây còn có hẳn con
đường hai hàng cây hoa anh đào khoe sắc xuân dài 500m dẫn lối vào chùa.
7. Unjusa
Ngôi đền Unjusa ở tỉnh Nam Jeolla nổi tiếng toàn xứ sở hoa anh đào bởi hàng nghìn bức tượng Đức Phật điêu khắc bằng đá rất tinh xảo dưới muôn hình vạn trạng được xem là vô cùng bí ẩn này, được vị sư nổi tiếng Doseon Guksa (826 - 898) sống dưới triều đại Silla xây cất. Ngôi đền hiện chỉ còn lưu giữ khoảng 80 bức tượng Phật bằng đá và một số di tích quý hiếm khác.
8. Yeongoksa
“Ông tổ” của ngôi đền gắn liền với truyền tích thú vị này là Yeongi Josa. Tương truyền, một lần tình cờ đi ngang qua vùng đất này, Yeongi nhìn thấy một cái ao, ở giữa là dòng xoáy nước, bất chợt có một cánh chim nhạn bay ra từ xoáy nước đó. Như một lời nhắn nhủ từ Đức Phật linh thiêng, Yeongi đem lấp cái ao và xây dựng lên nền đất đó một ngôi chùa và đặt tên là Yeongoksa (Yeon nghĩa là sen, gok nghĩa là xoáy nước). Ngày nay, ngôi chùa Yeongoksa là một thiền viện linh thiêng mà nhiều tín đồ Phật giáo vẫn đến để tụng kinh, cầu nguyện.
9. Bulyoungsa
Khuôn viên rộng lớn của ngôi chùa Bulyoungsa (Bóng Đức Phật) khép mình
giữa chốn núi rừng xanh bao phủ, ở giữa thung lũng Bulyoungsa ngút ngàn
của tỉnh Gyeongsangbuk-do, phía đông Triều Tiên này được xây dựng vào
năm 651 dưới thời triều đại Shinla. Do có bức tượng bằng đá to lớn của
Đức Phật, uy nghiêm chiếu bóng xuống mặt hồ tĩnh lặng mà ngôi chùa được
đặt là Bulyoungsa. Hiện nay, Bulyoungsa vẫn còn lưu giữ rất nhiều di
tích văn hóa quý giá của xứ Hàn.
10. Daeheungsa
Trên một quần đảo ở bờ biển phía tây và nam Hàn Quốc, có một di tích lịch sử nằm ẩn mình trong một khung cảnh thiên nhiên vô cùng lộng lẫy, nơi khu rừng cây xanh rậm rạp bao quanh, hòa cùng cánh đồng cỏ bạt ngút ngàn, được xây dựng trước khi triều đại Silla thống nhất, ngôi chùa Daeheungsa rộng lớn, cổ kính hiện lên như dải thiêng, nơi vẳng văng đâu đây tiếng chuông nguyện cầu, nơi hàng năm vẫn quy tụ rất nhiều Phật tử viếng thăm và thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời.
Đền Taeansa sở hữu một vẻ đẹp xốn xang, đặc biệt là vào tiết trời thu khi những cánh rừng rậm bao quanh đền chuyển sắc vàng và đỏ.
11. Daejeonsa
Daejeonsa là ngôi đền lớn nhất ở tỉnh Cheongsong-gun, nằm gọn trong
khung cảnh tuyệt đẹp của dãy núi Juwang. Công trình nổi tiếng nhất ở
Daejeonsa là Bogwangjeon - vốn được coi là quốc bảo của đất nước. Bên
trong nó lưu giữ bản thảo khắc gỗ và những lá thư tay của Lee Yeo-song,
vị tương quân dưới triều đại nhà Minh ở Triều Tiên.
12. Gangcheonsa
12. Gangcheonsa
Năm 1316 là một năm quan trọng với khu di tích Gangcheonsa, khi ngôi
chùa đá 5 tầng được xây cất trên khuôn viên đền chùa cổ. Người ta cho
rằng, 1.000 nhà sư có thể cùng sống ở trong chùa. Bên cạnh nhóm đền chùa
Gangcheonsa, còn có một loạt những điểm đến hấp dẫn đang chờ đón du
khách như pháo đài trên núi Geumseong, thác nước Yongso, hồ Gangcheon,
hồ Damyang và công viên quốc gia Naejang.
13. Taeansa
Đền Taeansa mang một vẻ đẹp xốn xang, đặc biệt là vào tiết trời thu khi những cánh rừng rậm bao quanh đền chuyển sắc vàng và đỏ. Con đường dài 2,3 km lên vãn cảnh cũng như thung lũng nơi ngôi đền tọa lạc đều đẹp đến nao lòng. Nếu ghé thăm Taeansan, chư Phật tử đừng quên tới ngọn tháp Neungpa gần đó, với kiến trúc truyền thống được bảo tồn gần như nguyên vẹn và thăm Gok-song Haneulnari-một ngôi làng thơ mộng cách đó 5 km.
14. Manggyeongsa
Nằm trên đỉnh núi Taebaek ở độ cao tới 1.460m, đền Manggyeongsa được cho là nơi tọa lạc của bức tượng đá Phật Bodhisattva. Một nhà sư dưới triều đại Silla (năm 57 trước công nguyên tới năm 935 sau công nguyên) có tên Jajang đã cho xây cất ngôi đền để thờ bức tượng. Ngoài ra, khi tới thăm đền, khách du lịch còn được tắm trong dòng suối nước nóng ở địa thế cao nhất Triều Tiên- suối Long.
15. Buseoksa
Nằm trong danh sách 10 ngôi đền lớn nhất Triều Tiên, chùa Buseoksa lưu giữ tới 5 quốc bảo của đất nước. Muryangsujeon, quốc bảo số 18 của xứ Hàn là một trong những tòa nhà gỗ cổ nhất, cũng là điểm sáng trong khu vực kiến trúc Buseoksa.
16. Naejangsa
Bao quanh bởi rừng lá phong đẹp mê hồn trong công viên quốc gia Naejang,
khu vực kiến trúc Phật giáo Naejangsa được khởi công xây cất năm 636,
tuy nhiên phải đến sau thời Jeongyujeran (năm 1579), Naejangsa mới được
hoàn thiện.
17. Beopjusa
17. Beopjusa
Với hơn 60 đại liêu và 70 tu viện, chùa Beopjusa là khu vực đền chùa lớn và lộng lẫy nhất Triều Tiên trước khi bị thiệu rụi trong trận hỏa hoạn năm 1592 gây ra bởi cuộc chiến tranh xâm lăng của Nhật Bản vào Triều Tiên. Hiện tại, Beopjusa còn 30 tòa nhà với rất nhiều di cảo văn hóa. Nổi bật nhất trong khuôn viên Beopjusa là một quốc bảo quan trọng khác của xứ Hàn - ngôi chùa cao nhất Triều Tiên (22,7 mét với 5 tầng) làm bằng gỗ.
18. Cheoneunsa
Cheoneunsa là một trong ba ngôi đền lớn nhất trên núi Jiri. Nó được xây cất năm 828 nhưng bị thiêu rụi sau cuộc xâm lăng của quân Nhật năm 1592. Đến năm 1610, nó lại bị đốt cháy. Đền tiếp tục được xây lại vào năm sau đó, nhưng tiếp tục cháy vào năm 1773. Năm 1775, đền được trùng tu.
Theo tương truyền, khi trùng tu đền vào năm 1592, người dân quanh vùng đã giết một con rắn lớn xuất hiện ở con suối gần ngôi đền. Dòng suối đột nhiên khô cạn và ngôi đền tiếp tục bắt lửa. Người dân tin rằng con rắn chính là linh hồn của nước. Khi Wongyo Lee Gwangsa, một trong bốn nhà thư pháp nổi tiếng thời Joseon (1392 - 1910) biết tới truyền thuyết này, ông đã dùng thư pháp điêu luyện của mình, viết tên ngôi đền và treo nó trước cổng đền. Kể từ đó, ngôi đền đã không cháy nữa.
19. Cheongpyeongsa
Khi tới thăm đền Cheongpyeongsa, du khách sẽ được ngắm cảnh đẹp tuyệt vời của thung lũng và những thác nước thần tiên trên hồ Soyang, và được nghe kể một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Truyện kể rằng, ở vùng Gangwon-do, có một chàng trai yêu một nàng công chúa tới mức biến thành một con rắn để theo sát những bước nàng đi. Vào những năm đói kém, loạn lạc, công chúa đi xin cơm cho người dân.
Khi tới đền Cheongpyeongsa để xin cơm, nàng đã bảo con rắn ở ngoài đợi. Con rắn nằm thu mình, đợi công chúa, tuy nhiên bỗng một cơn bão lớn kéo tới, một vệt sét dài đánh trúng con rắn khiến nó chết. Quá thương tâm, công chúa đã chôn cất con rắn ngay tại ngôi đền.
20. Golgulsa
Đền Golgulsa được xây dựng giữa những hang động, vách đá vôi của ngọn núi Hamwol. Có tới 12 hang động đá vôi lớn trong quần thể đền, chùa và một tượng Phật bằng đá được tạc vào trong núi. Đây được coi là nơi khai sinh môn võ sunmudo, một bộ môn thiền được lưu truyền qua nhiều thế hệ ở Hàn Quốc. Nếu tới đây, teen có thể tham gia các khóa thiền và tập sunmudo, nhưng hãy chắc chắn là dậy trước 4h nhé!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0263
KINH TẾ VIỆT NAM - PHẬT GIÁO HẢI NGOẠI
TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ VIỆT CỘNG
BÁO CHÍ TRONG NƯỚC:
XÁC NHẬN CỦA CÁC LÃNH ĐẠO:
CSVN ĐÃ ĐI VÀO TỬ HUYỆT KINH TẾ
Nguyễn Phúc Liên CHÚ THÍCH:
Chúng tôi đã viết nhiều về Mô hình Kinh tế Chỉ huy Tập quyền và Mô hình Kinh tế định hướng XHCN hay nói đúng hơn mô hình Kinh tế lấy Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Những mô hình Kinh tế Mafia này tự dẫn đến TỬ HUYỆT KINH TẾ.
Cách đây 3 năm, tại Bắc Kinh Ông ZOELLICK,Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới đã họp báo yêu cầu Bắc Kinh phải cải tổ mô hình Kinh tế tự CĂN NGUYÊN. Bà LAGARDE, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cũng đòi hỏi Bắc Kinh phải làm như vậy.
Tại Hà Nội, trước cảnh tụt dốc Kinh tế của Việt Nam, cuộc Họp các Nhà Đầu tư quốc tế cũng yêu cầu Hà Nội phải cải tổ mô hình Kinh tế tận CĂN NGUYÊN. Các Chuyên gia Kinh tế như Bà PHẠM CHI LAN, Tiến sĩ LÊ ĐĂNG DOANH, Tiến sĩ NGUYỄN QUANG A… cũng đồng lên tiếng về đà phá sản Kinh tế mà nguyên do là HỆ THỐNG.
Cải tổ tự CĂN NGUYÊN ở đây có nghĩa là phải dẹp bỏ cái CƠ CHẾ chủ trương “ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ NẮM ĐỘC QUYỀN KINH TẾ“.
CSVN không dám làm điều này mà chỉ cải tổ theo kiểu thoa bóp dầu cù là cho an dân, vì đảng còn muốn giữ quyền hành và nắm chặt túi vàng để ăn cướp tiền chung cho túi riêng từng người.
Sự bất lực cải tổ từ CĂN NGUYÊN Cơ chế sẽ đưa CSVN vào TỬ HUYỆT như một Định Mệnh lù lù tới vậy.
Bài báo dưới đây của báo TUỔI TRẺ cho thấy, tại cuộc họp của ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI ngày 14.05.2013, các nhân vật lãnh đạo Kinh tế CSVN thấy đảng đang đứng chênh vênh cạnh Định mệnh TỬ HUYỆT KINH TẾ !
Nguyễn Phúc Liên
Geneva, 16.05.2013
---Tháng NĂM 2013---
Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!
Tuổi Trẻ – Thứ tư, ngày 15 tháng năm năm 2013
TT - Đó là nhận xét của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tại phiên họp ngày 14-5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính - ngân sách về tình hình kinh tế - xã hội và thu ngân sách những tháng đầu năm 2013.
Tiền huy động tăng nhưng dư nợ tín dụng thấp, doanh nghiệp cũng không
mặn mà vay khi hàng hóa tồn kho lớn là những khó khăn lớn của nền kinh
tế lúc này
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Bà Doan đề nghị: “Phải nhìn thẳng vào tình hình khó khăn của đất nước để giải quyết vấn đề. Nếu kỳ họp Quốc hội này mà không đưa ra được giải pháp đủ mạnh thì những khó khăn sẽ thêm trầm trọng”.
Khó khăn ngày càng lớn
"Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào"
Ông Nguyễn Xuân Cường (phó trưởng Ban Kinh tế trung ương)
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ nét hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn; nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của khu vực sản xuất chưa được cải thiện” - Ủy ban Kinh tế đánh giá.
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Bà Doan đề nghị: “Phải nhìn thẳng vào tình hình khó khăn của đất nước để giải quyết vấn đề. Nếu kỳ họp Quốc hội này mà không đưa ra được giải pháp đủ mạnh thì những khó khăn sẽ thêm trầm trọng”.
Khó khăn ngày càng lớn
"Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào"
Ông Nguyễn Xuân Cường (phó trưởng Ban Kinh tế trung ương)
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ nét hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn; nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của khu vực sản xuất chưa được cải thiện” - Ủy ban Kinh tế đánh giá.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu, việc thực hiện tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đem lại kết quả rõ rệt, chính sách kích thích tăng trưởng bị giới hạn bởi thâm hụt ngân sách, trong khi thị trường vốn và tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức quá thấp.
Ba tháng đầu năm, số lượng doanh nghiệp thành lập mới là 15.700 doanh
nghiệp (giảm 6,8% về số lượng, giảm 16% về vốn so với cùng kỳ năm
trước); trong khi đó số doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể là 15.300
(tăng 14,6% so với quý 1-2012).
Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh nhận định: sức mua của nền kinh tế khó có thể tăng mạnh trở lại trong thời gian ngắn khi việc làm và thu nhập của người lao động giảm sút, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn gặp khó khăn, số lượng doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, giải thể và phá sản nhiều, tồn kho vẫn ở mức cao.
Tăng trưởng tín dụng có thể sẽ khó tăng cao trong ngắn hạn và thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng nếu nợ xấu không sớm được giải quyết, các ngân hàng thương mại không có các giải pháp hữu hiệu phân loại đối tượng cho vay mà vẫn siết chặt điều kiện cho vay sẽ ảnh hưởng đến phục hồi nền kinh tế. “Nếu các khó khăn nêu trên không được xử lý thì khả năng GDP đạt 5,5% như mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2013 là rất khó khăn” - ông Vinh nói.
Ông Nguyễn Xuân Cường - phó trưởng Ban Kinh tế trung ương - nói: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phán đoán: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới một trăm nghìn doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh nhận định: sức mua của nền kinh tế khó có thể tăng mạnh trở lại trong thời gian ngắn khi việc làm và thu nhập của người lao động giảm sút, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn gặp khó khăn, số lượng doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, giải thể và phá sản nhiều, tồn kho vẫn ở mức cao.
Tăng trưởng tín dụng có thể sẽ khó tăng cao trong ngắn hạn và thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng nếu nợ xấu không sớm được giải quyết, các ngân hàng thương mại không có các giải pháp hữu hiệu phân loại đối tượng cho vay mà vẫn siết chặt điều kiện cho vay sẽ ảnh hưởng đến phục hồi nền kinh tế. “Nếu các khó khăn nêu trên không được xử lý thì khả năng GDP đạt 5,5% như mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2013 là rất khó khăn” - ông Vinh nói.
Ông Nguyễn Xuân Cường - phó trưởng Ban Kinh tế trung ương - nói: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phán đoán: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới một trăm nghìn doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Các con số chưa đáng tin cậy
Tăng cường công tác nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình để có chủ trương, đối sách phù hợp, đặc biệt là các vấn đề biên giới, biển đảo, thực hiện các đề án, giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự tại các vùng chiến lược. Cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng đối với ngư dân đánh bắt cá ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của nước ta.
Lấy con số dư nợ tín dụng ngân hàng từ đầu năm chỉ tăng hơn 1%, trong khi huy động tiền gửi tăng 5,5%, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan khẳng định “tiền tệ đã đóng băng, tình hình như thế này là nguy lắm rồi”.
Bà nói: “Doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn thì không giải quyết được vấn đề gì đâu. Bây giờ doanh nghiệp nợ như thế thì có khoanh nợ, giãn nợ, cho vay tiếp không? Phải tập trung bàn về chính sách tiền tệ, giải quyết dòng vốn ra vào, đây là nút thắt”.
Trong khi đó, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đề cập đến thực trạng “ngân hàng lúc nào cũng tuyên bố là sẵn sàng cho vay, nhưng doanh nghiệp nói là muốn vay đâu có dễ, đang nợ thì không thể vay được mà lãi suất cho vay vẫn cao nên chỉ có nước phá sản”.
Ngoài việc khai thông nút thắt tiền tệ, Phó chủ tịch nước đề nghị tập trung vào giải pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: “Phải mạnh dạn cắt giảm, thậm chí xóa bỏ những chương trình không cần thiết. Tôi thấy tình trạng chồng chéo, lãng phí, cái gì cũng dang dở, bộ nào cũng muốn nắm một tí tiền. Chúng ta cần nhìn thẳng vào những khó khăn của đất nước, tiết kiệm chi tiêu công, dừng mua sắm xe công, phương tiện đắt tiền, giảm đi nước ngoài...”.
Một số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ “nghiêm túc và thật thà” trong các con số báo cáo. “Báo cáo của Chính phủ cho thấy tỉ lệ nghèo vẫn giảm nhanh. Tại sao kinh tế khó khăn như vậy, doanh nghiệp đình đốn, công nhân mất việc, sản xuất ra không bán được hàng hóa mà lại giảm nghèo tốt như vậy? Tôi xuống thực tế thấy nghèo tăng lên chứ không có giảm” - Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn nói.
Ông Nguyễn Văn Giàu kể thêm: “Hoàn thuế VAT hôm trước nói 20.000 tỉ, mới có vài ngày mà hôm nay nói là 33.000 tỉ. Không thể tưởng tượng được!”. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước đề nghị các bộ, ngành hãy nhìn vào khó khăn của đất nước mà báo cáo đúng tình hình, đừng đưa ra các con số báo cáo “vì cái ghế của mình”.
Dầu khí cứu ngân sách
Báo cáo của Chính phủ cho thấy thu ngân sách nhà nước năm 2012 tăng hơn 2.600 tỉ đồng (tỉ lệ tăng thu thấp nhất trong nhiều năm gần đây), chủ yếu nhờ vào thu từ dầu thô và thu viện trợ không hoàn lại.
Đặc biệt, thu từ dầu thô vượt dự toán cao nhờ vào cả hai yếu tố giá và sản lượng đều tăng, đồng thời phát sinh 9.800 tỉ đồng từ khoản thu lãi nước chủ nhà năm 2012 và 10.000 tỉ đồng lãi dầu khí được chia cho nước chủ nhà từ năm 2006-2011.
Vì vậy, thu từ dầu thô tăng hơn 53.000 tỉ đồng so với dự toán. Ủy ban Tài chính - ngân sách cho rằng nếu không có số thu thêm từ lãi dầu khí nước chủ nhà từ các năm trước thì ngân sách nhà nước năm 2012 sẽ hụt thu, mất cân đối, ảnh hưởng đến nhiệm vụ chi.
Tình hình thu ngân sách nhà nước năm 2013 được dự báo còn căng thẳng hơn. Bốn tháng đầu năm mới ước đạt hơn 244.000 tỉ, bằng 29,9% dự toán.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp thừa nhận tình trạng căng
thẳng trong việc đảm bảo nhiệm vụ thu năm 2013, “nhiều ý kiến cảnh báo
về khả năng hụt thu”. Do đó, Ủy ban Tài chính - ngân sách đề nghị phải
triệt để tiết kiệm, cắt giảm các khoản chi không hợp lý, tiếp tục rà
soát các dự án đầu tư công, tinh giản biên chế... để đảm bảo cân đối thu
chi, an toàn ngân sách.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - ngân sách Phùng Quốc Hiển cho biết năm nay sẽ không còn trông chờ được vào dầu khí nữa vì sản lượng ổn định và giá dự toán đã ở mức 90 USD/thùng.
Kết thúc cuộc thảo luận, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện báo cáo để trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp tới. “Chưa đặt vấn đề điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng, thu ngân sách..., nhưng nên lường trước tình huống cho kịch bản xấu nhất để xử lý tình hình” - bà Ngân gợi ý.
* TS Lê Thẩm Dương (trưởng khoa quản trị kinh doanh ĐH Ngân hàng TP.HCM):
Chỉ rối phải gỡ từ từ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng tín dụng chậm hiện nay, về phía doanh nghiệp đó là do hàng tồn kho. Chính vì hàng tồn nên dù lãi suất thấp họ cũng không vay vì sản xuất ra bán cho ai? Bốn tháng đầu năm tình trạng hàng tồn vẫn chưa gỡ được bao nhiêu. Còn về phía ngân hàng (NH) do áp lực nợ xấu. Thời gian qua NH đã nỗ lực xử lý nợ xấu bằng cách bán tài sản đảm bảo, trích dự phòng... nhưng nợ xấu vẫn cao khiến NH nhát tay trong xét cho vay.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - ngân sách Phùng Quốc Hiển cho biết năm nay sẽ không còn trông chờ được vào dầu khí nữa vì sản lượng ổn định và giá dự toán đã ở mức 90 USD/thùng.
Kết thúc cuộc thảo luận, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện báo cáo để trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp tới. “Chưa đặt vấn đề điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng, thu ngân sách..., nhưng nên lường trước tình huống cho kịch bản xấu nhất để xử lý tình hình” - bà Ngân gợi ý.
* TS Lê Thẩm Dương (trưởng khoa quản trị kinh doanh ĐH Ngân hàng TP.HCM):
Chỉ rối phải gỡ từ từ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng tín dụng chậm hiện nay, về phía doanh nghiệp đó là do hàng tồn kho. Chính vì hàng tồn nên dù lãi suất thấp họ cũng không vay vì sản xuất ra bán cho ai? Bốn tháng đầu năm tình trạng hàng tồn vẫn chưa gỡ được bao nhiêu. Còn về phía ngân hàng (NH) do áp lực nợ xấu. Thời gian qua NH đã nỗ lực xử lý nợ xấu bằng cách bán tài sản đảm bảo, trích dự phòng... nhưng nợ xấu vẫn cao khiến NH nhát tay trong xét cho vay.
Với những vấn đề hiện nay, nếu để NH và doanh nghiệp tự giải quyết với
nhau thì sẽ không bao giờ giải quyết được vì có tình trạng như hiện nay
còn có nguyên nhân từ nền kinh tế. Cơ quan quản lý phải xắn tay cùng với
NH và doanh nghiệp trong việc ban hành và thực thi các chính sách tháo
gỡ khó khăn, củng cố niềm tin, củng cố thị trường trong nước, làm ấm thị
trường bất động sản... Về phía NH, phải hạ dần lãi suất đầu ra, đa dạng
hóa tài sản đảm bảo, nâng dần tỉ lệ cho vay tín chấp. Phần doanh nghiệp
cũng phải khắc phục những vướng mắc thì mới giải quyết được các vấn đề
khó khăn hiện nay.
* PGS.TS Trần Hoàng Ngân (phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM):
Cần ủy ban khẩn cấp ngăn chặn “dịch” phá sản
Dư nợ tín dụng từ đầu năm đến nay có tăng nhưng ở mức độ thấp: 1,44%. Đây chính là điều đáng lo ngại. Mặt khác, số lượng doanh nghiệp phá sản ba năm qua liên tục theo chiều hướng gia tăng kéo theo số nợ xấu tăng thêm...
Thời gian qua, nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc sống vì nhiều lý do. Theo tôi, đã đến lúc cần lập một ủy ban khẩn cấp để ngăn chặn “dịch” phá sản của doanh nghiệp. Ủy ban này sẽ đứng ra để trực tiếp giải quyết những vấn đề của doanh nghiệp hiện nay. Còn thời gian qua, giải quyết khó khăn nhưng cơ quan quản lý chỉ kêu gọi một chiều NH giảm lãi suất cho doanh nghiệp, nhưng khi NH giảm lãi suất thì doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận được vốn. Chưa kể NH, doanh nghiệp mỗi nơi nói một kiểu, rốt cuộc chính sách được ban ra nhưng vướng mắc vẫn còn nguyên không giải quyết được.
* PGS.TS Trần Hoàng Ngân (phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM):
Cần ủy ban khẩn cấp ngăn chặn “dịch” phá sản
Dư nợ tín dụng từ đầu năm đến nay có tăng nhưng ở mức độ thấp: 1,44%. Đây chính là điều đáng lo ngại. Mặt khác, số lượng doanh nghiệp phá sản ba năm qua liên tục theo chiều hướng gia tăng kéo theo số nợ xấu tăng thêm...
Thời gian qua, nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc sống vì nhiều lý do. Theo tôi, đã đến lúc cần lập một ủy ban khẩn cấp để ngăn chặn “dịch” phá sản của doanh nghiệp. Ủy ban này sẽ đứng ra để trực tiếp giải quyết những vấn đề của doanh nghiệp hiện nay. Còn thời gian qua, giải quyết khó khăn nhưng cơ quan quản lý chỉ kêu gọi một chiều NH giảm lãi suất cho doanh nghiệp, nhưng khi NH giảm lãi suất thì doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận được vốn. Chưa kể NH, doanh nghiệp mỗi nơi nói một kiểu, rốt cuộc chính sách được ban ra nhưng vướng mắc vẫn còn nguyên không giải quyết được.
ÁNH HỒNG ghi
---Tháng MƯỜI 2012---
Bi kịch nền kinh tế Việt Nam
Chủ Nhật, 14/10/2012, 10:41
Theo Trần Việt – ANTĐ
Có thể nói nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước bi kịch lớn. Một thực trạng đáng lo lắng
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên, trong nghiên cứu của mình đã dẫn thống kê của Bộ Kế hoạch Đầu tư: có tới 53.000 doanh nghiệp đóng cửa và phá sản trong năm 2011, và 35.500 doanh nghiệp lâm vào cảnh tương tự trong 8 tháng đầu năm 2012.
Con số này gần bằng một nửa con số các doanh nghiệp đóng cửa và phá sản kể từ năm 1986 tới nay.
Đáng lo hơn hoạt động của các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường cũng không khá hơn. Thống kê cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đã giảm công suất hoạt động, thậm chí nhiều doanh nghiệp chỉ còn tồn tại hình thức bởi không tiêu thụ được sản phẩm, lượng tồn kho cao. Nếu tính trung bình các doanh nghiệp này giảm công suất 20% tương đương với khoảng 150.000 doanh nghiệp nữa đóng cửa và phá sản. Số người thất nghiệp do sự thu hẹp sản xuất lên đến hàng triệu người.
Còn một vấn đề đáng lo nữa là số lượng sản phẩm tồn kho cao và sự giảm giá trị tài sản do giảm phát, hạ giá do sức mua kém. Hàng triệu tỷ đồng vốn đang bị chôn trong hàng hóa tồn kho, trong đó hàng tồn bất động sản lớn nhất. Trên thị trường bất động sản có tới 70.000 căn hộ đang bị ế chỉ ở hai thành phố lớn nhất nước. Ít nhất là có tới 140 nghìn tỷ đồng đang bị chôn, mà phải mất tới 7 năm sau may ra mới xử lý được. Một báo cáo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia ước tính, khu vực bất động sản đã được các ngân hàng bơm gần 350 nghìn tỷ đồng, một số vốn khổng lồ.
Thêm một dẫn chứng bi kịch về bất động sản. Ông Thiên tính toán có 69
công ty bất động sản niêm yết đang đối mặt với vấn đề thanh khoản nghiêm
trọng. Đến cuối năm 2011, các công ty này gánh khoản nợ vay 67.000 tỉ
đồng và chi phí lãi vay mỗi năm 13.400 tỉ đồng. Đáng báo động là trong
cơ cấu nợ vay, khoản vay ngắn hạn trong quý IV của năm ngoái đã tăng lên
26.400 tỉ đồng. Nghĩa là các công ty này phải có 39.800 tỉ đồng để trả
nợ vay đến hạn và lãi vay trong năm 2012. Nhà kinh tế đặt câu hỏi hoài
nghi: “Với tình trạng hiện nay, họ có khả năng trả nợ không?”
Nhìn ra khu vực công, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Ủy ban Kinh tế
của Quốc hội cho biết, năm 2011, tổng số nợ vốn đầu tư của 63 tỉnh và
thành phố là 91.273 tỷ đồng của 47.209 dự án; trong đó, nợ vốn các công
trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành là 25.423 tỷ đồng, nợ vốn của 20.921
dự án đang triển khai là 65.850 tỷ đồng, dãn tiến độ 41 dự án với tổng
số vốn là 38.320 tỷ đồng. Hệ quả của tình trạng trên, không gì khác là
số phận hẩm hiu của các doanh nghiệp và người làm công. Ông nói: “Đang
có nhiều doanh nghiệp “chết” hoặc “chờ chết” vì không thu được món nợ
này”.
Doanh nghiệp Nhà nước nợ khổng lồ
Sự suy giảm này trước hết là do hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước mà đứng đầu là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước làm ăn không những kém hiệu quả mà còn để rơi vào tình trạng phá sản.
Tiến sĩ Đinh Tuấn Minh tại tài liệu phục vụ cho Diễn đàn Kinh tế mùa thu 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức tại thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã chỉ rõ: “Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu”. Ngoài ra, theo ông Minh, nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty chiếm tới 30 – 35% tổng dư nợ của khối này trong vay nợ từ hệ thống ngân hàng thương mại.
Tổng dư nợ đó của 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, theo Đề án tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Tài chính năm 2012. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn Dầu khí (PVN – 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN-62.800 tỷ đồng), Than và Khoáng sản (Vinacomin – 19.600 tỷ đồng).
Ngoài khu vực ngân hàng, tiến sĩ Minh lưu ý nợ xấu của khu vực doanh nghiệp đang “rất lớn” ở Ngân hàng Phát triển (VDB). Chẳng hạn, Vinashin vay ưu đãi VDB gần 300 tỷ đồng lãi suất bằng 0% để hỗ trợ trả lương và phụ cấp; EVN được vay hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ đồng…
Doanh nghiệp Nhà nước nợ khổng lồ
Sự suy giảm này trước hết là do hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước mà đứng đầu là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước làm ăn không những kém hiệu quả mà còn để rơi vào tình trạng phá sản.
Tiến sĩ Đinh Tuấn Minh tại tài liệu phục vụ cho Diễn đàn Kinh tế mùa thu 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức tại thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã chỉ rõ: “Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu”. Ngoài ra, theo ông Minh, nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty chiếm tới 30 – 35% tổng dư nợ của khối này trong vay nợ từ hệ thống ngân hàng thương mại.
Tổng dư nợ đó của 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, theo Đề án tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Tài chính năm 2012. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn Dầu khí (PVN – 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN-62.800 tỷ đồng), Than và Khoáng sản (Vinacomin – 19.600 tỷ đồng).
Ngoài khu vực ngân hàng, tiến sĩ Minh lưu ý nợ xấu của khu vực doanh nghiệp đang “rất lớn” ở Ngân hàng Phát triển (VDB). Chẳng hạn, Vinashin vay ưu đãi VDB gần 300 tỷ đồng lãi suất bằng 0% để hỗ trợ trả lương và phụ cấp; EVN được vay hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ đồng…
Ông Nguyễn Quang Dũng, Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển (VDB) cho biết: “Nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm độ 75 – 80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển…” Các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù số lượng thấp hơn doanh nghiệp tư nhân nhưng nợ thuế cũng khổng lồ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Trần Văn Phu nhận xét: Nợ thuế chưa trả của các DN Nhà nước chiếm khoảng 13% trên tổng số nợ thuế.
Khối các ngân hàng thương mại cũng không khá hơn. Bởi lẽ, giữa năm 2012 NHNN công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là 8,6% tổng dư nợ nghĩa là vào khoảng 202 nghìn tỷ đồng, nhưng trên diễn đàn Quốc hội, Thống đốc NHNN lại thông báo con số 10%, và dư luận lại đánh giá có thể ở mức cao hơn 10%. Gánh nặng này thật sự đã đè gần bẹp khả năng phát triển của nền kinh tế vì vốn là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt động doanh nghiệp.
Những lối thoát cần được tính đến
Ngày 6-10-2012 một cuộc hội thảo quốc gia mang tên: “Kinh tế Việt Nam
năm 2012: Tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình thế”, tập hợp đông đảo các
nhà quản lý và nghiên cứu kinh tế đã được tổ chức. Tại hôi thảo này đa
số các đại biểu cho rằng những khó khăn của nền kinh tế không thể giải
quyết một sớm một chiều bằng một vài ba giải pháp nào đó. Những chỉ tiêu
lên xuống của nền kinh tế hiện nay hầu hết không phản ánh được thực tế
của nền kinh tế cũng như hiệu quả của những chính sách cụ thể. Đại biểu
Quốc hội Trần Du Lịch đồng tình: “Chính phủ cần xây dựng kế hoạch tổng
thể cho cả ba năm tới, thay vì làm kế hoạch cho từng năm như hiện nay.
Kế hoạch đó là nhằm phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Cả ba năm tới
phải tập trung toàn bộ nguồn lực và chủ trương cho kế hoạch này.”.
Những giải pháp đó là cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước và xử lý nợ xấu. Ông Lịch đề xuất, ngân hàng nào hệ số vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản dưới 8%, nhưng nợ xấu lên trên 10%, tức là đã mất hết vốn, thì Nhà nước cần quốc hữu hóa. Bên cạnh đó, ông đề nghị khoanh nợ và cho vay mới với các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, các dự án BOT, BT mà có khả năng sản xuất tiếp. Về tài khóa, ông Lịch đề nghị từ nay đến 2015 tất cả các cơ quan của hệ thống chính trị không được xây mới trụ sở, nếu nơi đó còn trường học bệnh xá là nhà tranh, vách lá. Trên diễn đàn Quốc hội, ông cho biết sẽ đề nghị Quốc hội cắt chi thường xuyên năm 2013 đi 10% so 2012, ngoại trừ tiền lương và chi xã hội; và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 20% từ 25% hiện nay.
Song dư luận cho rằng bên cạnh việc xử lý nợ xấu, hay tồn kho bất động sản, hay các giải pháp cơ cấu nền kinh tế… cần tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước, tìm cơ chế để tìm ra người chịu trách nhiệm khi có những sai phạm gây tác động xấu tới nền kinh tế… Đó cũng sẽ là một việc quan trọng cho phục hồi và xây dựng nền kinh tế bền vững sau này.
Những giải pháp đó là cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước và xử lý nợ xấu. Ông Lịch đề xuất, ngân hàng nào hệ số vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản dưới 8%, nhưng nợ xấu lên trên 10%, tức là đã mất hết vốn, thì Nhà nước cần quốc hữu hóa. Bên cạnh đó, ông đề nghị khoanh nợ và cho vay mới với các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, các dự án BOT, BT mà có khả năng sản xuất tiếp. Về tài khóa, ông Lịch đề nghị từ nay đến 2015 tất cả các cơ quan của hệ thống chính trị không được xây mới trụ sở, nếu nơi đó còn trường học bệnh xá là nhà tranh, vách lá. Trên diễn đàn Quốc hội, ông cho biết sẽ đề nghị Quốc hội cắt chi thường xuyên năm 2013 đi 10% so 2012, ngoại trừ tiền lương và chi xã hội; và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 20% từ 25% hiện nay.
Song dư luận cho rằng bên cạnh việc xử lý nợ xấu, hay tồn kho bất động sản, hay các giải pháp cơ cấu nền kinh tế… cần tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước, tìm cơ chế để tìm ra người chịu trách nhiệm khi có những sai phạm gây tác động xấu tới nền kinh tế… Đó cũng sẽ là một việc quan trọng cho phục hồi và xây dựng nền kinh tế bền vững sau này.
Theo Trần Việt – ANTĐ
CÁC CHÙA VIỆT NAM HẢI NGOẠI
I. CHÙA VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
CHÙA ĐIỀU NGỰ
Lễ Khai Giảng Khóa Tu Học Đặc Biệt dưới sự chứng minh của Chư Tôn Đức Giáo Phẩm Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
CHÙA ĐIỀU NGỰ
Trung tâm Phật giaó Việt nam thống nhất tại hải ngoại
311 E. Mission Rd, San Gabriel, CA 91776 USA • Phone: (626) 614-0566 • Fax: (626) 286-8437 • e-mail: dieuphaptu@gmail.com
311 E. Mission Rd, San Gabriel, CA 91776 USA • Phone: (626) 614-0566 • Fax: (626) 286-8437 • e-mail: dieuphaptu@gmail.com
CHÙA BÁT NHÃ. GHPGVNTN
CHÙA NHƯ LAI
Chùa Như Lai do hòa thượng Thich Chánh Lạc trụ trì
ĐL HT Thích Chánh Lạc
Thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương,
Phó Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo
GHPGVNTN Quốc Nội.
Chủ Tịch kiêm Tổng Uỷ Viên Hoằng Pháp Văn Phòng II VHĐ
CHÙA HỘ PHÁP
Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam ở Houston, Texas, Mỹ
Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam ở Houston, Texas, Mỹ
Tòa Dharma Hall ở Trung tâm Phật giáo chùa Việt Nam - Houston, Texas, Mỹ
Tổ đình Từ Đàm - Houston, Texas, Mỹ
Tòa Linh Đường ở trung tâm Phật giáo chùa Việt Nam - Houston, Texas, USA
Hình ảnh trong buổi lễ Chung Thất cố Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác tại chùa Pháp Luân ở Houston, Texas - 20/1/2013
Tháp thờ Xá Lợi của Đại lão Hòa Thượng
Phòng của cố Đại lão Hòa Thượng Thích Hộ Gíac được giữ lại thành Kỷ niệm đường, lưu giữ di vật của Hòa thượng khi còn sống
Giường (loại giường dành cho người bệnh) của Cố Trưởng lão Hòa Thượng Hộ Giác tại Kỷ Niệm Đường - Ngày 20-1-2013, ta thấy có cả xe lăn
Phòng làm việc
Kệ kinh sách của cố Hòa thượng
1 góc kỷ niệm đường
Xá lợi của cố Hòa thượng Thích Hộ Giác
Chùa Pháp Quang - Houston, Texas
Quan Âm Phật đài ở Trung tâm chùa Việt Nam - Houston - Texas
Hình về chùa có post ở trên kia, đây là 1 trong những ngôi chùa lớn, hàng năm có tổ chức lễ hội Quán Thế Âm, Tất niên, hành hương, lễ An Cư... rất trang nghiêm
Ở các chùa lớn ở nước ngoài những dịp lễ Phật tử rất nhiều người mặc áo tràng, áo dài rất đẹp. Điều này gần đây chùa chiền Việt Nam mới làm được, mà điển hình là ở Đà Nẵng, lễ hội Quán Thế Âm.
Mỹ - Houston: Lễ hội Quán Thế Âm tại chùa Việt Nam
Nhân dịp lễ Khánh Đản của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm năm nay, Chùa Việt nam tại thành phố Houston (Tiểu Bang Texax, Mỹ) đã long trọng tổ chức Lễ Hội Quan Thế Âm trong hai ngày 29, 30 tháng 3/2013 với chủ đề “Nguyện cầu cho thế giới hòa bình an lạc”.
Đến tham dự Lễ hội có sự chứng minh của hơn 300 vị Chư Tôn đức Tăng Ni và hàng chục nghìn Phật tử khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và các quốc gia khác như Đức, Canada … về tham dự. Lễ hội mang đậm màu sắc tâm linh và truyền thống nhắc nhở người con Phật phát khởi lòng từ bi, sống tỉnh thức chánh niệm và neo gương tấm lòng từ bi của Bồ Tát. Nhiều chương trình lễ hội thú vị đặc sắc thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đặc biệt là chương trình đêm văn nghệ “ Hiện bóng mây từ” với sự tham gia biểu diễn của nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng hải ngoại như Hương Thủy, Ngọc Hạ, Gia Huy, Quang Lê, Nguyễn Thành An…
Sau đây là một số hình ảnh của chương trình:
CHÙA BẮC CALIFORNIA, HOA KỲ
Chúng tôi xin giới thiệu hình ảnh sinh hoạt đón Giao thừa tại chùa
Phổ Từ, thành phố Hayward và hình ảnh ngày mồng một Tết Quý Tỵ ở các tự
viện Phật giáo miền Bắc tiểu bang California : chùa Phổ Từ, thành phố
Hayward; chùa An Lạc, chùa Liễu Quán, chùa Đức Viên, thành phố San Jose;
Niệm Phật đường Fremont, thành phố Fremont và thiền viện Vô Ưu, thành
phố San Martin.
Năm nay, ngày mồng một Tết đúng vào ngày chủ nhật nên số lượng Phật tử,
du khách hành hương đến các chùa lễ Phật, vui Xuân nhiều hơn các năm
trước. Đến những ngôi chùa ở San Jose như chùa An Lạc, chùa Đức Viên,
chùa Liễu Quán, chùa Quán Thế Âm, chùa Thiên Trúc, tịnh xá Ngọc Hòa ...
tràn ngập người và xe !
Nam mô Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật !
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát !
Tin và ảnh : Võ Văn Tường
Sen Viet Media and Tourism Corporation, USA
CHÙA VIÊN GIÁC TẠI Oklahoma City, USA
5101 NE 36th Street, Oklahoma City, OK 73121
Sau cuộc biến chuyển của đất nước, số người tỵ nạn Việt Nam đến định cư tại Oklahoma City và vùng phụ cận càng ngày càng đông. Đáp ứng nhu cầu Phật sự, tháng 8 năm 1981, Đại Đức Thích Giác Sơn cùng một số Phật Tử đã vận động kiến tạo một địa điểm để Phật tử có thể đến lễ Phật và tu học hàng tuần. Ngày 4/10/81, sau khi được Phật Tử La Long Phát chuyển nhượng địa điểm với các điều kiện dễ dàng, các Phật tử bắt đầu khởi công sửa chữa ngôi nhà cháy thành chánh điện của Chùa và lấy tên là Viên Giác. Tọa lạc tại 3324 North Ruth, Oklahoma City, Oklahoma.
II. CHÙA VIỆT NAM TẠI CANADA
ĐẠI TÒNG LÂM
Xây vào năm 1988
Theo lời Đốc Giáo Thích Phổ Tịnh, nguyên Giám đốc Học viện Phật giáo Tam Bảo Sơn đã kể về lịch sử phát triển của trung tâm văn hóa Phật giáo có một không hai ở xứ sở Bắc Mỹ xa xôi này, ngôi chùa này được Hòa thượng Thích Thiện Nghị chính thức khai sơn từ năm 1988 trên một vùng đất hoang vu, ít người qua lại, gần chân núi Mont - Tremblant.
Sau 15 năm xây dựng, với sự đóng góp về tài chính và công sức của đông đảo phật tử và bà con trong cộng đồng người Việt ở Canada nói riêng và Bắc Mỹ nói chung, Tam Bảo Sơn chính thức khai trương từ năm 2003 và trở thành ngôi chùa Việt lớn nhất tại Canada.
Phổ Đà Đạo Tràng
Cho đến nay, 14 khu vườn và tượng đài với những nét đặc trưng của văn hóa Phật giáo được kiến tạo trên một vùng đất khá rộng lớn. Trong số đó có 4 thánh tích quan trọng nhất của Đức Phật Thích Ca Mầu Ni được tái tạo, bao gồm: Bồ Đề Đạo Tràng (khánh thành năm 1991), Vườn Lâm Tỳ Ni (1993), Vườn Lộc Uyển (1994), Câu Thi Na Đạo Tràng (1998).
Nằm ở trung tâm khu kiến trúc là Chính điện Thiên Phật Tam Bảo Sơn (
khánh thành năm 1996). Chính điện được kiến trúc với sắc thái đặc trưng
của Phật giáo phái Tùng Lâm, với tượng Phật Thích Ca cao 2,5 m ở chính
giữa điện thờ, xung quanh có 1000 bức tượng Phật với năm biểu tượng khác
nhau tượng trưng cho năm cách hoằng pháp của Đức Thế Tôn. Chính điện
nhìn ra bốn hướng đều thấy những rừng cây, hồ nước và không gian xanh
mát. Hai bên đường dẫn vào Chính điện là 18 bức tượng Đức A La Hán đúc
bằng đồng đứng uy nghiêm.
Lộc Uyển Đạo Tràng
Phía sau Chính điện là Thư viện Phật giáo với trên 50 ngàn cuốn sách thu hút hàng ngàn phật tử và bạn đọc không phân biệt chủng tộc, quốc gia đến tra cứu , học tập. Vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự trang nghiêm của các pho tượng Phật đã biến nơi đây thành một quần thể kiến trúc chùa chiền Phật giáo độc đáo hiếm thấy giữa đất trời phương Tây.
Tôn Thân Đức Phật Khất Thực
Nhiều năm qua, chùa Tam Bảo Sơn đã trở thành điểm đến viếng lãm của hàng chục ngàn bà con người Việt ở Canada mỗi năm. Đặc biệt, cứ vào dịp cuối tuần, nhất là các dịp lễ hội, bà con kiều bào từ khắp mọi miền đất nước Canada đã không quản ngại đường sá xa xôi, thời thiết mưa nắng tìm đến tham quan, chiêm bái và cầu nguyện vạn sự tốt lành cho bản thân và gia đình, cho quê cha đất Tổ.
Tam Bảo Sơn đã thực sự trở thành cầu nối của cộng đồng người Việt ở Canada (kể cả các Phật tử người Canada gốc châu Âu, gốc Hoa, Thái Lan, Ấn Độ...) không phân biệt giai tầng, nghề nghiệp, chính kiến, giàu nghèo.
Câu Thi Na Đạo Tràng
Nếu có dịp tận mắt chứng kiến những dòng người nô nức vượt hàng trăm cây số đến với chùa Tam Bảo Sơn, chúng ta mới thực sự thấu hiểu sự khao khát hướng về cội nguồn trong đời sống tâm linh của phần lớn bà con người Việt.
Và đó chính là một trong những lý do để những người con xa xứ sau những lo toan bề bộn của cuộc sống mưu sinh cùng đến với chùa Tam Bảo Sơn như một điểm hẹn không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần nơi đất khách quê người.
III. CHÙA VIỆT NAM TẠI PHÁP
CHÙA HOA NGHIÊM
CHÙA TRÚC LÂM TẠI PARIS
CHÙA THIÊN MINH-LYON
IV. CHÙA VIỆT NAM TẠI ĐỨC
CHÙA VIÊN GIÁC
CHÙA LINH THỨU, BERLIN
CHÙA PHÁP QUANG
CHÙA PHÁP HOA -NAM ÚC
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
hursday, October 20, 2016
VIỆT CỘNG TÀN BẠO * XÃ HỘI VIỆT NAM - TIN TỨC
DÂN LÀM BÁO * CON TÔI VÔ TỘI
Bà mẹ kiên cường Nguyễn Thị Hóa:
Con tôi vô tội!
CTV Danlambao
- Trong trận càn đàn áp nhân dân sáng nay, CA Nghệ An đã huy động lượng
lượng rất đông, với quân số áp đảo gấp 10 lần dân thường. Trong số này,
xuất hiện một lực lượng cực kỳ quái dị là các nữ công an bịt mặt chuyên
đi bắt người và đánh người.
Đặc điểm nhận dạng của nhóm nữ công an này là cùng mặc một kiểu áo hoa
lốm đốm (loại áo chống nắng), khuôn mặt thì bịt kín giống hệt những tên
khủng bố. Những nữ công an này khi bắt người thì ra tay hết sức tàn bạo,
nhưng do sợ người dân nhận mặt nên họ đã phải che kín mặt.
Sáng nay, mẹ ruột anh Nguyễn Đình Cương là bà Nguyễn Thị Hóa trong lúc
cố gắng kêu gọi trả tự do cho con trai mình đã bất ngờ bị nhóm nữ CA này
xông vào tấn công, bắt bớ. Hình ảnh gửi đi cho thấy, nhóm phụ nữ bịt
mặt này đã được đào tạo rất bài bản về các đòn trấn áp, bắt bớ nhân dân.
Trong lúc vây bắt bà Hóa, bọn chúng đã bấm huyệt, rồi khống chế nạn nhân
bằng cách giữ chặt tay. Sau đó, một nữ CA bịt mặt khác dùng một vật lạ
đâm vào vùng bụng dưới khiến bà Hóa ngã quỵ vì đau đớn.
Bà Hóa bị đưa về giam giữ tại đồn CA. Tuy nhiên, trước thái độ cương
quyết của một bà mẹ thương con, công an buộc phải thả bà vào lúc 12 giờ
trưa.
* Ảnh trên cùng: Bà Nguyễn Thị Hóa và con trai Nguyễn Đình Cương
Con trai bà Nguyễn Thị Hóa là anh Nguyễn Đình Cương, 1 trong 8 thanh niên yêu nước bị đang đưa ra phiên tòa phúc thẩm sáng nay.
Tại phiên tòa sơ thẩm diễn ra hồi tháng 1/2013, anh Cương bị kết án 4
năm tù giam và 3 năm quản chế. Thời điểm ấy, vì lâu ngày không gặp và
thương nhớ con, bà Hóa không kìm lòng đã lên tiếng khuyên con hãy vững
vàng, đồng thời kêu gọi "Các con đừng sợ". Ngay lập tức, bà bị lôi ra
ngoài, sau đó bị CA đánh chấn thương sọ não phải nhập viện 2 tháng.
Tại phiên phúc thẩm hôm nay, bà Hóa không được vào tham dự phiên tòa con trai mình. Quá phẫn uất, bà chỉ biết kêu gào gọi tên con trong vô vọng.
Mặc dù toàn thân còn rất đau đớn, nhưng bà Hóa đã từ chối không đi bệnh
viện để khám thương. Hiện nay, bà vẫn tiếp tục ngồi bên ngoài phiên tòa
để chờ tin con, xung quanh công an vẫn tiếp tục bám sát.
Bất kể phiên tòa phúc thẩm hôm nay diễn ra thế nào chăng nữa, chắc chắn
anh Nguyễn Đình Cương sẽ luôn mỉm cười vì có một người mẹ kiên cường và
bất khuất.
CTV Danlambao
danlambaovn.blogspot.com
CTV Danlambao
danlambaovn.blogspot.com
A courageous mother, Nguyễn Thị Hóa: My son is innocent!
Như Ngọc (Danlambao)
- During the aggressive raid this morning, Nghe An police has mobilized
a huge force as large as 10 times the number of local civilians. Among
them, appeared a monstrous force of masked female police who were
chasing, beating and arresting people.
Local residents could identify this group of special female police by
looking at their unique floral shirts and masks. Their masked faces look
like those of the terrorists. They are very aggressive and cruel so
that they have to veil their faces, fearing people could recognize them.
This morning, Mrs. Hoa Thi Nguyen, mother of Cuong Dinh Nguyen, called
out loud for the release of her son and was abruptly arrested by this
group of female police. Video clips captured at the scene show those
female police used specially trained techniques to crack down and arrest
people effectively in a cruel manner.
During the arrest of Mrs. Hoa Nguyen, they controlled her hands while
another masked female stabbed her lower abdomen with a strange object,
she then collapsed in pain.
Mrs. Nguyen was taken to, and detained, at a police station. However,
her courageous resistance forced them to release her around 12 noon.
Talking to Danlambao, Mrs. Nguyen said her body is still very painful
and weak that she can’t walk. When arrested, she said, the masked
female police stabbed her lower abdomen with a hard and sharp object.
The wound has since caused pain on her each step.
Her son, Cuong Dinh Nguyen, was among the 8 young patriots who appeared at the appeal court this morning.
Cuong was sentenced to 4 years in prison and 3 years of probation at a
trial on January 1, 2013. At that trial, Mrs. Nguyen yelled to her son
“Do not be afraid!” Immediately, she was pulled out of the courtroom and
beaten so badly. As the result, she had brain injury and must stay in
the hospital for 2 months.
Mrs. Nguyen was not allowed to attend the appeal of her son today.
Although suffering severe pains she refused to go to hospital to check
her injury. Currently, she continues to sit outside the courthouse
waiting for the outcomes and police are monitoring her around.
Regardless of the outcomes today, Cuong Dinh Nguyen will surely have a smile for having a courageous and indomitable mother.
TRẦN TRUNG ĐẠO * NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN
Trang Chủ
Bài viết mới nhất
Võ Thị Thắng và Nguyễn Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Trần Trung Đạo
Một nữ đặc công thuộc
lực lượng biệt động thành Sài Gòn được bộ máy tuyên truyền Cộng Sản đánh
bóng đến mức không thể nào bóng hơn. Đó là bà Võ Thị Thắng. Nụ cười khá
ăn ảnh của bà bên ngoài tòa đại hình Sài Gòn, được một phóng viên Nhật
chụp ngày 27 tháng 7 năm 1968 và được Trần Quang Long đưa vào nhạc phẩm Nụ cười chiến thắng.
Bắt lấy cơ hội tuyên truyền, theo chỉ thị của đảng, từ đó, không biết
bao nhiêu phim, nhạc, thơ, bình luận, hồi ký, bút ký đã viết về bà Võ
Thị Thắng.
Kỹ thuật nhồi sọ theo
kiểu “Tăng Sâm giết người” rất đơn giản nhưng vô cùng hữu hiệu. Những
thông tin có tính chỉ đạo của đảng đã theo nhiều ngã tấn công và tấn
công liên tục vào ý thức vào con người. Từ sáng đến chiều, từ ban ngày
qua ban đêm, từ năm tàn qua tháng tận, dần dần không chỉ các em học sinh
có tâm hồn ngây thơ trong trắng yêu “nụ cười chiến thắng” của bà mà cả
người lớn cũng say mê những “mẫu chuyện anh hùng” về bà Võ Thị Thắng.
Và không những đảng
viên CS mà cả những người “phê bình đảng”, những “nhà phản biện” cũng
không thoát ra khỏi sức hút của “nụ cười Võ Thị Thắng”. Trong phiên tòa
xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tháng 4 năm 2011, và lần nữa sau phiên tòa xử
hai em Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha mới đây, “nụ cười chiến
thắng” của Võ Thị Thắng lại được một số tác giả nhắc đến để ca ngợi tinh
thần yêu nước dũng cảm của hai em Phương Uyên và Nguyên Kha. Khi dùng
nụ cười một nữ khủng bố để so sánh với ước vọng dân tộc, nhân bản và hòa
bình trong tâm hồn trong như ngọc của một nữ sinh viên, các tác giả
không để ý đến những nghịch lý vô cùng căn bản trong hai mục đích sống,
hai phương pháp đấu tranh và hai nhân cách đạo đức hoàn toàn trái nghịch
giữa hai con người.
Võ Thị Thắng là ai ?
Bà Võ Thị Thắng, sinh
ngày 10 tháng 12 năm 1945 tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa VIII và khóa IX. Bà là
con út của 10 anh em sinh ra trong một gia đình Cộng Sản hoạt động tại
Long An. Từ khi còn nhỏ bà đã giúp cha mẹ đưa cơm, nuôi giấu cán bộ CS.
Sau
khi từ Long An lên Sài Gòn đi học đến lớp đệ nhị, tức lớp mười một bây
giờ, tại trường Gia Long. Theo tài liệu chính thức của đảng, trong thời
gian tại Sai Gòn, “Thắng tham gia phong trào đấu tranh xuống đường
của thanh niên sinh viên, học sinh Sài Gòn Gia Định; rồi phong trào công
nhân và nhân dân lao động khu xóm, xí nghiệp nội thành; khẩn trương gây
dựng cơ sở, xây dựng căn cứ chính trị nội thành, diệt ác phá kềm, ém
quân, vũ khí mai phục, chuẩn bị vào đợt Mậu thân – tổng công kích khởi
nghĩa năm 1968.”
Từ
sau Mậu Thân, bà Võ Thị Thắng gia nhập lực lượng biệt động thành Sài
Gòn và được giao nhiệm vụ ám sát ông Trần Văn Đỗ. Ông Trần Văn Đỗ chẳng
phải là viên chức cao cấp, một chính khách tên tuổi gì của chính phủ
VNCH mà chỉ là phường trưởng phường Phú Lâm, quận 6, Sài Gòn. Theo tài
liệu đăng trên Quân Đội Nhân Dân ngày 17-09-2009 “Ngày 27-7-1968, sau
khi nắm tình hình địch, chị cải trang đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với
hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác thường lệ tên Đỗ đi ngủ
sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai
phát súng đều không nổ. Thấy động tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba
nhưng không trúng”. Vụ ám sát bị lộ, bà bị bắt, đưa ra tòa đại hình
và bị kết án hai mươi năm tù. Sau khi hiệp định Paris ký kết, bà Võ Thị
Thắng được trao trả về phía Cộng Sản tại Lộc Ninh vào tháng 4 năm 1974.
Tóm
lại, dù “vận chuyển vũ khí mai phục” hay “ám sát”, nhiệm vụ chính của
nữ cán bộ CS Võ Thị Thắng là giết người. Bà Thắng không giết Tây, không
giết Mỹ nhưng như bằng chứng trước tòa, bà đi giết người Việt Nam.
Hoạt
động của biệt động thành Sài Gòn chủ yếu là bắt cóc, ám sát, ném bom,
đặt chất nổ tại các nơi công cộng. Những hoạt động đó xét theo tiêu
chuẩn nào, vào thời kỳ nào và nhân danh bất cứ lý do gì đều là các hoạt
động khủng bố. Yasser Arafat, chủ tịch Tổ Chức Giải Phóng Palestine
(Palestine Liberation Organization), một tổ chức có liên hệ rất nhiều
với các hoạt động khủng bố chống Do Thái và từng thề sẽ làm cho “cuộc
sống của người dân Do Thái không thể nào chịu đựng nỗi” cuối cùng cũng
thừa nhận khủng bố là một hành động xấu xa, tội lỗi.
Phương
pháp khủng bố của biệt động thành Sài Gòn hoàn toàn giống như hoạt động
của phong trào Tháng Chín Đen tại Jordan thập niên 1970, của các nhóm
Hồi Giáo cực đoan tại Iraq sau 2003, Taliban tại Afghanistan sau 2001,
của cánh cực đoan quân sự Hamas tại Palestine, của tổ chức al-Qaeda tại
nhiều nơi trên thế giới hiện nay. Giống như hầu hết các tổ chức khủng
bố, ngoài việc lấy mục đích biện minh cho phương tiện bất nhân, những kẻ
giết người cũng đã được ca ngợi và vinh danh.
Để
giết một người Mỹ các nhóm khủng bố al-Qaeda đã giết hàng trăm người
dân chính nước họ như các hành động đặt đang bom diễn ra tại Iraq. Tương
tự, để giết một người Mỹ hay một người lính VNCH, các biệt động thành
Sài Gòn đã giết nhiều người Việt Nam vô tội trong đó có đàn bà trẻ em.
Một người Việt Nam lớn tuổi nào cũng không thể quên “chiến công hiển
hách” của lực lượng biệt động thành tại nhà hàng Mỹ Cảnh tối 25 tháng 6,
1965. Trong số hàng trăm người chết do hai trái mìm đặt tại nhà hàng có
nhiều “kẻ thù nhân dân” còn mặc tả.
Nguyễn Phương Uyên là ai ?
Nguyễn Phương Uyên,
sinh 12 tháng 10, 1992, sinh viên năm thứ 3 trường Đại học Công nghiệp
thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, cư ngụ xã Hàm Trí, huyện Hàm Thuận Bắc,
Bình Thuận.
Khác với Võ Thị Thắng
được cha mẹ nuôi dường bằng lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sinh viên Nguyễn
Phương Uyên, dù tham gia đoàn trường của đại học nhưng bản chất là một
cô bé ngoan hiền, hồn nhiên, hiếu thảo và có tấm lòng vị tha đối với mọi
người.
Trong hai mươi mốt năm làm người từ lúc mới sinh ra cho đến nay,
cô bé mảnh mai này, ngoại trừ lúc vô tình dẫm lên, có thể chưa tự tay
giết một con kiến đừng nói chi nghĩ đến chuyện giết người. Một bộ ảnh do
bạn bè thu thập cho thấy một Phương Uyên sống yên vui bên cạnh gia
đình. Các em vui chơi, nhảy nhóc tung tăng, cười nói hồn nhiên như một
cánh bướm vàng trong khu vườn xuân tuổi trẻ. Một bạn học của em trả lời
đài Á Châu Tự Do: “Năm cấp 3, em và Uyên chơi thân với nhau. Trong
lớp học, Uyên học rất chăm chỉ. Bạn ấy hiền lắm. Khi đi học, bạn bè có
gì là bạn ấy hay giúp đỡ lắm. Nói chung, bạn ấy rất năng động trong
những hoạt động của trường lớp và hòa đồng với bạn bè.”
Khác với Võ Thị Thắng
là sản phẩm tuyên truyền, được sơn bằng những lớp son phấn giả tạo,
Nguyễn Phương Uyên là một con người thật, tinh khôi như một thiên thần.
Trong lúc Võ Thị Thắng đấu tranh bằng phương tiện giết người, bạo động
Nguyễn Phương Uyên chọn phương pháp ôn hòa để gióng lên tiếng nói của
mình. Che khuất trong đôi cánh thiên thần Phương Uyên là lòng yêu nước
vô cùng trong sáng.
Trong vóc dáng như sợi tơ tưởng chừng một cơn gió
nhẹ cũng có thể thổi em bay ra khỏi cửa sổ là một trái tim chan chứa
tình dân tộc không thể nào lay chuyển được. Em đứng trước tòa án CS nhẹ
nhàng như một nhánh lau non trước cơn bão lớn, điềm tỉnh nhưng cương
quyết: “Việc tôi làm thì tôi chịu, xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ
mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người
trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi
làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã
hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn”. Và em nói tiếp “Tôi là sinh
viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ
khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một
sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi
không cam tâm”.
Tại sao nhiều người vẫn tin vào các “anh hùng” do đảng CS dựng nên ?
Nikolai Bukharin, lý
thuyết gia Cộng Sản, chủ nhiệm báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận chính thức
của đảng CS Liên Xô và người bị Stalin thanh trừng năm 1938, viết trong
tác phẩm kinh điển “ABC về chủ nghĩa Cộng Sản”: Tuyên truyền về chủ
nghĩa cộng sản, về lâu dài trở thành một phương tiện để xóa bỏ mọi tàn
tích cuối cùng của tuyên truyền tư sản bắt nguồn từ chế độ cũ, và là
phương tiện mạnh mẽ để tạo ra một hệ lý luận mới, một cách suy nghĩ mới,
một tầm nhìn về thế giới mới.”
Với chủ trương đó, chính sách trồng người của các chế độ CS thể hiện qua hai phương pháp: giáo dục và tẩy não.
Về giáo dục, nền giáo
dục Cộng Sản không đặt trên cơ sở khách quan khoa học nhưng là một hệ
thống tuyên truyền phục vụ cho các mục tiêu của đảng và nhà nước CS
trong mỗi thời kỳ. Về tẩy não, năm kỹ thuật căn bản được áp dụng triệt
để trong phạm vi toàn xã hội cho đến từng người: cô lâp, kiểm soát, tạo sự bất an, lập đi lập lại và gây xúc động cho đối phương.
Nhận thức của con người
không ở trong trạng thái tỉnh nhưng luôn luôn biến động, thay đổi và
đón nhận các nguồn thông tin từ bên ngoài bao gồm xã hội, giáo dục, môi
trường thiên nhiên và cả cơ thể của chính con người. Chủ động kiểm soát
được nguồn thông tin đi vào ý thức con người là kiểm soát được con
người. Cả năm phương pháp tẩy não được thực hiện liên tục, phối hợp chặt
chẽ và tác dụng hỗ tương vào nhận thức con người cho đến khi đối tượng
hoàn toàn bị đặt trong vòng kiểm soát. Các nguồn thông tin do chế độ CS
cung cấp có tính hệ thống, theo từng tuổi, từng giai đoạn trưởng thành
thâm nhập vào nhận thức con người, củng cố và đóng đinh trong đó. Có lần
Stalin phát biểu một ngày nào đó vai trò của Bộ Công An sẽ không còn
cần thiết. Ý của tên đồ tể này là khi đó người dân đã bị cơ chế hóa, một
hình thức thuần hóa trong sinh vật, đến mức các luật lệ sẽ không cần
phải áp đặt mà vẫn được chấp hành như một phản xạ tự nhiên.
Biết rõ tuổi trẻ là
tuổi của khát vọng xanh tươi, nhiệt tình nồng cháy nhưng chưa có những
tham vọng cá nhân, bộ máy tuyên truyền của các quốc gia Cộng Sản sản
xuất các anh hùng mang tinh thần dâng hiến.
Có một thời tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của
Nikolai Ostrovsky là tác phẩm gối đầu giường của đa số thanh niên CS
khắp thế giới, trong đó có thanh niên miền Bắc. Nhật ký của bác sĩ Đặng
Thùy Trâm, người bị giết tại Quảng Ngãi cuối tháng 6 1970, bắt đầu với
câu trích từ tác phẩm này “Cả đời ta, cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người“.
Tương tự, trong nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, tử trận tại Quảng Trị mùa
hè 1972, cũng thế, đầy những trích dẫn Thép đã tôi thế đấy. Ngày 24
tháng 12 năm 1971, Nguyễn Văn Thạc viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo
ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp
gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn
Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa
xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ
tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như
thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp.”
Trong dòng lịch sử Việt
Nam bốn ngàn năm chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, biết bao nhiêu
câu nói, thơ văn hiển hách của lớp lớp anh hùng dân tộc. Có câu nói nào
hay hơn, khí phách hơn câu nói của Triệu Nữ Vương “Tôi muốn cỡi cơn
gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, giành lại
giang sơn, cởi ách nô lệ, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm
cúi đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta”. Có cái chết nào nói
lên tình yêu chung thủy, tình yêu nước đậm đà hơn cái chết của Nguyễn
Thị Giang, một phụ nữ như Võ Thị Thắng, “Mờ sáng ngày 18 tháng 6 năm
1930, cô về làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc
Vĩnh Phúc) để lạy tạ cha mẹ chồng (ông Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị
Quỳnh), tháo chiếc đồng hồ có khắc chữ “G” tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em
trai Nguyễn Thái Học và từ giã mọi người. Trên đường đi cô ghé quán trà
bên gốc cây đề, thuộc Xóm Mới, xã Đông Vệ giáp quốc lộ số 2, cách làng
Thổ Tang ước chừng một cây số. Sau khi uống bát nước trà xanh, từ biệt
bà chủ quán, cô đến đứng dưới gốc cây đề, mắt nhìn về hướng làng Thổ
Tang và tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học tặng
cô ở đền vua Hùng ngày nào.Hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930”.
Những câu nói anh hùng,
những cái chết kiên trinh như thế, tại sao thanh niên, sinh viên miền
Bắc không học, không sống, không học tập, không trích dẫn lại gối đầu
giường tác phẩm của nhà văn Sô Viết Nikolai Ostrovsky từ tận xứ Ukraine ?
Chỉ vì “nền giáo dục” ngoại lai và nô dịch Việt Nam thực tế chỉ là một phiên bản tuyên truyền của Liên Xô và Trung Quốc.
Trung Quốc có “anh hùng
lao động” Hướng Lôi Phong, Liên Xô có “anh hùng lao động” Alexey
Stakhanov, CSVN có Kim Đồng, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Võ Thị Thắng v.v…
Tuy nhiên, theo thời gian và đà tiến của kỹ thuật thông tin, hầu hết
“anh hùng” của Liên Xô, Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam đều lần lượt
được chứng minh là hàng giả.
Chuyện “anh hùng lao
động” Hướng Lôi Phong một năm sau khi bị trụ đèn đè chết trở thành anh
hùng là một ví dụ rất hề. Bộ máy tuyên truyền của đảng CSTQ, ngoài việc
phát hành các tuyển tập thơ, văn còn trưng bày nhiều hình ảnh của Hướng
Lôi Phong đang “lao động quên mình” khi còn sống. Tuy nhiên, Susan
Sontag, một nhà sản xuất phim ảnh sau khi xem xét bộ ảnh 12 tấm của Lôi
Phong đã nhận xét những bức ảnh đó được chụp bằng một phẩm chất và điều
kiện kỹ thuật tuyệt hảo đến mức không có một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp
nào có thể có mặt bên cạnh Hướng Lôi Phong để chụp. Làm thế nào một
nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp có thể biết trước một anh chàng binh nhì
Hướng Lôi Phong khi anh ta gần như vô danh tiểu tốt, để đi theo và ghi
lại “cuộc đời anh hùng” , “một người vì mọi người” của anh ta qua một bộ
ảnh chuyên nghiệp? Không quá khó để tìm câu giải đáp. Bộ ảnh chỉ là một
sản phẩm tuyên truyền được sản xuất sau khi Hướng Lôi Phong chết. Bây
giờ chuyện Hướng Lôi Phong là một chuyện cười nhưng đã có một thời người
dân Trung Quốc tin một cách chân thành.
Ran Yunfei, một nhà hoạt động dân chủ Trung Quốc, cho The Newyork Review of Books, biết “Tất
cả những gì đảng CS dạy bạn để kính phục đều là những chuyện giả dối.
Hiện nay họ lại thúc đẩy học tập Hướng Lôi Phong lần nữa nhưng ai cũng
biết Hướng Lôi Phong là nhân vật giả tưởng do đảng CS nặn ra. Tất cả
“anh hùng” đều là giả tạo”.
Sự kiện Tôn Đức Thắng Người thủy thủ phản chiến ở Biển đen của CSVN đã bị Giáo sư Christoph Giebel trong buổi phỏng vấn dành cho BBC khẳng định:
“Trong quyển sách của tôi, tôi tin rằng ông Tôn Đức Thắng không có mặt
trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh biến ở Hắc Hải. Tôi
tin là vào thời điểm đó, ông Tôn Đức Thắng đang ở Toulon, cảng miền nam
nước Pháp.” Và thê thảm hơn, Lê Văn Tám là một nhân vật ảo, từ tên
tuổi cho đến đầu mình và tay chân đều do bộ máy tuyên truyền CSVN nặn
ra. Sự kiện này do chính Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ tuyên truyền CSVN
thú nhận và được Phan Huy Lê, một trong nhà sử học hàng đầu của chế độ
tiết lộ.
Nạn nhân của các “anh
hùng” trong nhiều trường hợp lại chính là “anh hùng”. Chuyện Võ Thị Sáu
hái hoa cài lên tóc là một điển hình. Theo sách vở của đảng, ngày bị xử
bắn, trên đường ra pháp trường Võ Thị Sáu còn rảnh rỗi để dừng lại hái
mấy cành hoa cài lên tóc của mình. Lãng mạn hơn, vài phút trước khi bị
bắn, bà ta còn gỡ những cành hoa trên tóc để tặng lại cho những người tù
đào huyệt lát nữa sẽ chôn mình.
Câu chuyện mô tả bà Võ Thị Sáu giống
như một công chúa đi dạo vườn hoa chứ không phải một tử tù sắp chết. Hãy
tạm gác qua bên việc bà có thể bị tâm lý bất bình thường như nhiều
người đang bàn tán mà chỉ xem xét khía cạnh pháp lý. Trên thế giới này,
không phải thế kỷ trước và cũng không phải thời các quốc gia nhược tiểu
bị cai trị dưới ách thực dân tàn bạo mà cả ngày nay tại các nước văn
minh tiên tiến, một tử tù ra pháp trường hai tay phải bị còng và chân
phải bị xích. Còng và xích không phải là vì sợ tử tù bỏ chạy nhưng đó là
một phần của bản án tử hình. Giống như Hướng Lôi Phong của Trung Quốc,
nhân vật Võ Thị Sáu có thể là một người thật, đảng Cộng Sản lợi dụng bà
trong tuổi vị thành niên để khích động lòng dân nhưng lại tô vẽ nên một
Võ Thị Sáu bịnh hoạn đến độ đáng thương.
Chúng ta đều biết, về
mặt kinh tế và kỹ thuật Việt Nam phát triển chậm hơn các quốc gia khác
nhiều chục năm tuy nhiên đó chưa hẳn là một mối nguy nghiêm trọng lâu
dài. Mối lo lớn của đất nước là về mặt dân trí, xã hội, đạo đức và những
mặt này Việt Nam còn thua xa các quốc gia tiên tiến nhiều thế kỷ. Với
óc cần cù của người Việt, chúng ta không phải quá lo lắng về một nền
khoa học hiện đại, một nền kỹ thuật hiện đại nhưng điều đáng lo lắng
nhất là làm thế nào để có những con người Việt Nam với những suy nghĩ
đúng, có nhận thức đúng về hướng đi của đất nước hôm nay và mai sau.
Phục hưng dân tộc, vì thế, phải bắt đầu ở việc phục hưng các đặc điểm
đạo đức, các giá trị nhân bản, khai phóng từ chính trong mỗi người Việt
Nam. Một xã hội lương thiện phải được xây dựng bằng những con người có
tinh thần hướng thiện.
Một con vẹt có thể cất
giọng ca thánh thót và ngay cả hát hay hơn một con chim sơn ca ngoài
vườn buổi sáng nhưng không ai bảo tiếng hát của vẹt là biểu tượng cho
“mùa xuân, hạnh phúc, hy vọng, may mắn, tự do, niềm vui, tuổi trẻ, tính
sáng tạo và ngày mới” như khi nhắc đến chim sơn ca. Phương Uyên là tiếng
hát của sơn ca trong khu vườn xuân đất nước. Cơn mưa dài chưa dứt, cơn
bão lớn chưa ngưng nhưng hy vọng vẫn còn đây trong lòng người Việt. Tổ
tiên để lại cho chúng ta một gia tài vô cùng phong phú với tất cả phương
tiện cần thiết để đưa đất nước Việt Nam thành một cường quốc văn minh
và hiện đại. Chúng ta có tinh thần độc lập, tự chủ cao hơn bất cứ một
quốc gia nào ở vùng Đông Nam Á. Chúng ta đều ôm ấp một giấc mơ Việt Nam
huy hoàng, sáng lạng. Cái duy nhất mà chúng ta chưa có đó là một cơ hội.
Và cơ hội sẽ không do ai ban cho, không do ai viện trợ nhưng chính
người Việt Nam trong và ngoài nước, đặc biệt là các bạn trẻ, là những
người đang tạo ra cơ hội cho dân tộc mình.
Phân tích chính sách
tuyên truyền của chế độ CS để thấy sự tác hại của nó trong nhận thức của
các tầng lớp nhân dân và cũng cho thấy việc so sánh giữa Võ Thị Thắng
và Nguyễn Phương Uyên chẳng khác gì so sánh giữa giả và thật, chiến
tranh và hòa bình, hận thù và nhân ái, bóng tối và ánh sáng.
Trần Trung Đạo
(25.5.2013)
CHUYỄN HÓA
Friday, May 24, 2013
KHOA HỌC & ĐỜI SỐNG
Tin tức / Ðời sống
Tại sao tổ tiên của loài người lại đứng thẳng lên để đi?
CỠ CHỮ
24.05.2013
Điều gì đã khiến tổ tiên sơ khai nhất của chúng ta lại từ bỏ sự che chở của cây cối để đứng thẳng người và đi bằng hai chân?
Các lý thuyết truyền thống nêu lên những biến đổi khí hậu làm giảm bớt sự che phủ của cây và buộc người xưa phải tìm thức ăn và săn bắt trên đất cứng.
Nhưng một cuộc khảo cứu mới gợi ý về một kích thích tiến hóa khác.
Các nhà khảo cổ tại Trường Đại Học York ở London bên Anh nói con người sơ khai bị hấp dẫn bởi mặt đất gồ ghề được tạo ra bởi các núi lửa và các trận động đất thời Pliocene, từ hai triệu tới năm triệu năm trước đây.
Những vỉa đất trồi lên và những hẻm núi cung cấp nơi ẩn náu và các cơ hội săn bắt, nhưng đòi hỏi phải bò, trườn, leo trèo và phải di chuyển nhanh qua những lớp đất nứt.
Trong tạp chí Antiquity, các nhà khảo cứu Châu Âu nói các tình huống nêu trên khuyến khích một dáng đứng thẳng hơn, bàn tay to hơn, cánh tay khéo léo hơn, kết quả những người nguyên sơ biết dùng các dụng cụ thô sơ.
Isabelle Winder, một trong các tác giả của cuộc khảo cứu này gợi ý rằng sống trong khung cảnh khó khăn như vậy dẫn tới “việc cải thiện những kỹ năng nhận biết, ví dụ như biết xác định vị trí và có khả năng truyền tin,” tiếp tục biến hóa thành những chủng loại như chúng ta ngày nay.
Các lý thuyết truyền thống nêu lên những biến đổi khí hậu làm giảm bớt sự che phủ của cây và buộc người xưa phải tìm thức ăn và săn bắt trên đất cứng.
Nhưng một cuộc khảo cứu mới gợi ý về một kích thích tiến hóa khác.
Các nhà khảo cổ tại Trường Đại Học York ở London bên Anh nói con người sơ khai bị hấp dẫn bởi mặt đất gồ ghề được tạo ra bởi các núi lửa và các trận động đất thời Pliocene, từ hai triệu tới năm triệu năm trước đây.
Những vỉa đất trồi lên và những hẻm núi cung cấp nơi ẩn náu và các cơ hội săn bắt, nhưng đòi hỏi phải bò, trườn, leo trèo và phải di chuyển nhanh qua những lớp đất nứt.
Trong tạp chí Antiquity, các nhà khảo cứu Châu Âu nói các tình huống nêu trên khuyến khích một dáng đứng thẳng hơn, bàn tay to hơn, cánh tay khéo léo hơn, kết quả những người nguyên sơ biết dùng các dụng cụ thô sơ.
Isabelle Winder, một trong các tác giả của cuộc khảo cứu này gợi ý rằng sống trong khung cảnh khó khăn như vậy dẫn tới “việc cải thiện những kỹ năng nhận biết, ví dụ như biết xác định vị trí và có khả năng truyền tin,” tiếp tục biến hóa thành những chủng loại như chúng ta ngày nay.
Mời
xem cơ thể con người ta làm việc như thế nào: vô cùng kỳ diệu. Những
phát minh khoa học cực kỳ phức tạp đều do bộ óc con người suy nghĩ, sáng
chế.
Với những đồ họa máy tính, những kỹ
thuật chụp ảnh tân tiến, quay chậm tuyệt diệu, chúng ta có thể khám
phá mọi khía cạnh, mọi bộ phận trong cơ thể con người trong nhiều giai
đoạn phát triển .
CÂU CHUYỆN CUỘC SỐNG (Life Story)
Người dịch: Phạm Phương Anh, Trần Thanh Vân, Bích Ngọc đến từ KEC1
Người biên tập: Nguyễn Huyền Trang + VCĐ
Người dịch: Phạm Phương Anh, Trần Thanh Vân, Bích Ngọc đến từ KEC1
Người biên tập: Nguyễn Huyền Trang + VCĐ
Mời Bấm:
XÃ HỘI VIỆT NAM
Những kiểu giữ của 'có một không hai'
25.04.2013 09:39
Có gia đình, cuộn giấy vệ sinh cũng phải khóa vì sợ bị lấy mất.
Chỉ sợ mất cái chỗ ngồi.
Khóa vào bất kỳ nơi đâu có thể.
Xe ô tô cũng cần khóa thủ công.
Bánh trước, bánh sau, đố ai lấy được?
Cuộn giấy vệ sinh cũng sợ bị lấy cắp.
Món ngon đâu muốn chia phần cho ai.
Vì một mét vuông mười thằng ăn trộm nên đôi dép tổ ong cũng phải khóa kỹ.
Cả nhà cả cửa còn mỗi cái điện thoại.
Cho chắc.
Khóa làm gì?
Mô-tô cũng khóa như khóa xe đẹp.
Khóa ngoài, khóa cả trong.
Cứ phải xích vào cây.
Khi quên khóa.
Dori (Xzone/Tri Thức Thời Đại)
Thursday, May 23, 2013
TIN TỨC GẦN XA
Philippines: Căng thẳng châu Á có thể dẫn đến xung đột
Philippine
Foreign Affairs Secretary Albert Del Rosario addresses the media during
a press conference in suburban Pasay City, south of Manila,
Philippines, after his return from the ASEAN Regional Forum in Cambodia
Friday, July 13, 2012. Del Rosario deplo
CỠ CHỮ
24.05.2013
Ngoại trưởng Philippines hôm 23/5 cảnh báo rằng tranh chấp lãnh thổ
tại châu Á đang “tạo căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột” vì có
nhiều quốc gia đang đối đầu với Trung Quốc về chủ quyền biển đảo.
Lên tiếng trong một diễn đoàn doanhnghiệp ở Tokyo, Ngoại trưởng Albert del Rosario nói rằng con đường 9 đoạn của Trung Quốc là một đòi hỏi ông gọi là “quá lố” vì nó coi như bao trùm toàn bộ Biển Đông.
Ông nói tiếp, ngoài Biển Đông còn có Biển Hoa Đông, nơi có nhiều nước châu Á lớn đang có những tranh chấp ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Triều Tiên.
Ông nói rằng “Các cuộc tranh chấp lãnh hải này đang tạo ra căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột.”
Người ta tin rằng Trung Quốc đang tăng cường năng lực Hải quân tại Thái Bình Dương, và Trung Quốc đang bị các nước láng giềng chỉ trích về thái độ mà họ gọi là ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực, biệt là đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên nhiều vùng đất và vùng biển khác nhau.
Ngoại trừ Brunei, tất cả các nước đòi chủ quyền đều có binh sĩ đóng tại các đảo hoặc các bãi san hô tại Trường Sa, quần đảo lớn nhất ở Biển Đông, để khẳng định chủ quyền của mình.
Lên tiếng trong một diễn đoàn doanhnghiệp ở Tokyo, Ngoại trưởng Albert del Rosario nói rằng con đường 9 đoạn của Trung Quốc là một đòi hỏi ông gọi là “quá lố” vì nó coi như bao trùm toàn bộ Biển Đông.
Ông nói tiếp, ngoài Biển Đông còn có Biển Hoa Đông, nơi có nhiều nước châu Á lớn đang có những tranh chấp ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Triều Tiên.
Ông nói rằng “Các cuộc tranh chấp lãnh hải này đang tạo ra căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột.”
Người ta tin rằng Trung Quốc đang tăng cường năng lực Hải quân tại Thái Bình Dương, và Trung Quốc đang bị các nước láng giềng chỉ trích về thái độ mà họ gọi là ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực, biệt là đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên nhiều vùng đất và vùng biển khác nhau.
Ngoại trừ Brunei, tất cả các nước đòi chủ quyền đều có binh sĩ đóng tại các đảo hoặc các bãi san hô tại Trường Sa, quần đảo lớn nhất ở Biển Đông, để khẳng định chủ quyền của mình.
Thứ năm 23 Tháng Năm 2013
Thuyền nhân Việt Nam (Ảnh lưu trữ - DR)
460 thuyền nhân Việt Nam kể cả phụ nữ và trẻ em đã đến Úc trong
4 tháng đầu 2013. Gần 40 năm sau ngày Việt Nam thống nhất trong chế độ
"xã hội chủ nghĩa", hiện tượng người vượt biển lại tăng cao, bằng
tổng số thuyền nhân đến Úc trong 5 năm trước.
Tuy nhiên, chính sách tỵ nạn của Canberra đã khác, không rộng
lượng như thời thập niên 80,90 khi hàng triệu người bỏ nước. Người vượt
biển bị tạm giam trong các trại cách ly với tương lai mờ mịt.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, trong gần hai thập niên sau ngày
30/04/1975, hơn 1,3 triệu người Việt Nam vượt biên, vượt biển đi tỵ
nạn. Trong số này , Liên Hiệp Quốc thẩm định từ 200.000 đến 400.000
người không đến được bến bờ hoặc chết vì tàu bị đắm, bị hải tặc Thái Lan
sát hại. Trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đón nhận 823.000 thuyền
nhân , Pháp 96.000, Úc cũng như Canada nhận 137.000 người, Anh quốc
19.000.
Nhưng vào năm 2013, nguyên nhân nào lại thúc đẩy hàng trăm người
Việt Nam vượt biển ? Theo luật sư Úc Keye Bernard, trong số thuyền nhân
mới đến có một số tín đồ Công giáo từng tham gia tranh đấu bảo vệ giáo
xứ Thái Hà. Một số khác bị truy bức trong các vụ tranh tụng đất đai bị
nhà nước trưng thu.
Tuy nhiên, chính sách tỵ nạn của Úc, quốc gia tây phương duy nhất
gần Việt Nam và cũng là điểm đến của những con người muốn có cơ hội xây
dựng đời sống mới, đã trở nên gắt gao hơn. Số phận thuyền nhân ra sao ?
Phải trở về Việt Nam hay có hy vọng được định cư ? Trong số 101 thuyền
nhân đến Úc trong năm 2011, có sáu người bị đưa về Việt Nam.
Hôm qua 22/05/2013, một phái đoàn của Cộng đồng Việt Nam Tự Do tại Úc
đã gặp thủ tướng Julia Gillard vận động chính phủ Úc về vấn đề thuyền
nhân. Sau khi nhận được tin nhắn cầu cứu của hai thuyền nhân từ đảo
Manus gửi cho RFI, ban biên tập chúng tôi đặt câu hỏi với nhà báo Lưu
Tường Quang từ Sydney.
Nhà báo Lưu Tường Quang : « Trong những ngày
qua, báo chí quốc tế và Úc đều loan tin có sự gia tăng rất đáng kể của
thuyền nhân Việt Nam từ Việt Nam hoặc qua trung gian tại Indonesia đến
Úc trong 4 tháng đầu năm 2013 : 460 người xin tầm trú tại Úc. Đây là
con số đáng kể nhiều hơn của 5 năm về trước . Có người cho rằng đây là
vì lý do kinh tế nhưng cũng có người cho rằng đây là hậu quả của chính
sách đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với nhân quyền, tự do ngôn
luận và chính kiến tại Việt Nam.
Có thể, tất cả những lý do đó đều đúng ….nhưng cần phải xem kỷ
những thuyền nhân này có lý do chính đáng khi họ liều lĩnh vượt biển tìm
tự do tại Úc và những hậu quả khi họ đến lãnh thổ, lãnh hải của Úc thì
họ phải đối diện với những khó khăn gì để những ai bị giam cầm trong các
trại tỵ nạn tại Úc hiểu rõ tiến trình họ phải đi qua và những ai bị đối
xử tàn tệ vì lý do nhân quyền vì lý do chính kiến thì họ sẽ có thể làm
gì, suy nghĩ gì cho tương lai của họ…
Nguyên nhân cốt lõi của hiện tượng thuyền nhân gia tăng : « Nhà
cầm quyền Việt Nam đương nhiên phải nói là người đi tầm trú là vì lý do
kinh tế vì nếu nhìn nhận những thuyền nhân ra đi vì lý do chính trị thì
điều đó là một phản ảnh tiêu cực về chế độ của họ…. Nếu chúng ta nhìn
lại cái tiến trình cho đến năm 2006 khi Hà Nội tổ chức (thượng đỉnh)
Apec thì Hà Nội đã phần nào nới tay đến mức độ mà tổng thống Mỹ George
W. Bush đã lấy tên CHXH Chủ nghĩa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước
cần ưu tư (về tự do tôn giáo)….Trước khi gia nhập WTO ( Tổ chức Thương
mại Thế giới) thì họ cũng có những biện pháp gọi là tạm thời cởi mở cho
đến 2007.
Tuy nhiên, sau hội nghị Apec năm 2006 và được vào WTO đầu năm
2007 thì CHXHCN Việt Nam sử dụng những điều luật 79, 88 tuyên truyền
chống phá nhà nước và âm mưu lật đổ chế độ là những điều khoản đi ngược
lại với những điều khoản bảo vệ tự do ngôn luận, tự do phát biểu ý kiến
có ghi trong Hiến pháp 1992 của Việt Nam cũng như hoàn toàn đi ngược lại
với công ước quốc tế về quyền chính trị mà Việt Nam là thành viên kết
ước… nhà cầm quyền Hà Nội mỗi ngày mỗi siết chặt và gia tăng đàn áp
những người yêu nước, những thanh niên sinh viên tranh đấu cho tự do dân
chủ.
Ngay giờ phút này, 8 thanh niên Công giáo ở Nghệ An đang bị xét
xử phúc thẩm và mới đây vài ngày sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh
Nguyên Kha bày tỏ lòng yêu nước, họ nói vì tổ quốc chống ngoại xâm, vì
tiền đồ dân tộc chống tham nhũng là những điều được gọi là chính sách
của nhà nước thế nhưng họ bị kết ánt ù rất nhiều năm tại tòa án tỉnh
Long An.
Rõ ràng là chính sách đàn áp nhân quyền đã đưa đến tình trạng nhiều người bỏ nước ra đi. Nếu căn cứ vào định nghĩa của « người
tỵ nạn » thì những ai có bằng chứng đang lo sợ bị hành hạ, bị bắt bớ
bị tù đày vì lý do chính kiến, hoặc vì lý do chủng tộc hay tôn giáo thì
họ thỏa mãn định nghĩa về « người tỵ nạn » theo điều khoản thứ nhất
trong Công ước quốc tế về người tỵ nạn 1951-1967.
Trên căn bản đó, nếu họ có ao ước, những hoài bão để cải thiện
đời sống kinh tế thì cái hoài bão đó không loại trừ cái khả năng họ được
chứng nhận là người tỵ nạn vì căn nguyên cốt lõi vẫn là cái nỗi lo sợ
bị trừng phạt, bị tù đày, bạc đãi vì lý do chính kiến hay vì lý do tôn
giáo.Chính sách của Úc đối với thuyền nhân Việt Nam : Từ năm 2012, Úc áp dụng « giải pháp Thái Bình dương , tạm giam thuyền nhân trong các trại di trú trên đảo Nauru và Manus. Đặc điểm của « giải pháp » này là những thuyền nhân tới Úc phải chờ đợi một khoảng thời gian bằng với thời gian đáng lẽ họ phải chờ ở Indonesia để được cứu xét.
Thuyền nhân bị giam trên đất liền hay trên các đảo Christmas, Manus, hãy bình tĩnh chờ đợi … Cộng đồng Việt Nam tại Úc là cộng đồng tỵ nạn và không bao giờ quên đồng hương của mình đang ở trong tình trạng khó khăn. Ngày hôm qua, một phái đoàn của Cộng đồng Người Việt Tự Do, có cả tôi, đã đến gặp thủ tướng Úc Julia Gillard để tranh đấu cho thuyền nhân Việt Nam đang bị giam giữ. Chúng tôi nói hầu hết thuyền nhân Việt Nam không phải là tỵ nạn kinh tế mà vì lý do chính trị.
Tuy nhiên đây là vấn đề hồ sơ, một vấn đề bằng chứng. Cho nên thuyền nhân muốn xin tư cách tỵ nạn thì cần phải chuẩn bị bằng chứng cụ thể , những lý do có cơ sở vững chắc vì lời khai đầu tiên nó có ảnh hưởng đến vấn đề cứu xét…tôi đương cử hai trường hợp cụ thể. Trường hợp thứ nhất là tàu Hào Kiệt với 53 thuyền nhân đến miền tây Úc năm 2003….. tất cả đều được định cư… ».
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130523-38-nam-sau-1975-nguoi-viet-nam-lai-vuot-bien
Khoảng 1,3 triệu di dân bất hợp pháp từ châu Á sống ở Hoa Kỳ
CỠ CHỮ
Elizabeth Lee
22.05.2013
LOS ANGELES — Có ước chừng 11 triệu di
dân không có giấy tờ hợp pháp ở Hoa Kỳ. Trong khi các nhà lập pháp tranh
luận về dự luật cải cách di trú, tập trung phần lớn vào những người từ
châu Mỹ Latinh, 5 trong số 10 nước đứng đầu về số di dân không có giấy
tờ hợp pháp là người Á châu. California là tiểu bang có số di dân bất
hợp pháp lớn nhất tại Hoa Kỳ.
Có chừng 1 triệu 300 ngàn di dân bất hợp pháp từ châu Á đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Mãi cho đến khi lên trung học Anthony Ng mới biết là mình không có giấy tờ hợp pháp. Sau đó anh bắt đầu sống trong sợ hãi. Anthony nói:
“Sợ bị trục xuất, sợ mọi người sẽ đối xử khác, sợ sẽ không được lên đại học nữa, sợ sẽ phải làm việc nặng nhọc mà vẫn không thực hiện được các ước mơ.”
Ng xuất thân từ Philippin. Anh đến Hoa Kỳ cùng với cha mẹ lúc 12 tuổi. Anh cho biết:
“Khi doanh nghiệp của chúng tôi ở Philippin bị phá sản, chúng tôi không còn phương tiện nào để sinh nhai. Do đó cha mẹ chúng tôi đã quyết định đến đây để đem lại cho tôi và các anh chị em tôi một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi thực sự biết ơn điều đó.”
Anh phát hiện rằng anh không có giấy tờ hợp pháp khi bắt đầu xin nội trú và trợ cấp để vào đại học. Di dân bất hợp pháp phần lớn không xin được khoản trợ cấp này. Anh nói:
“Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của vài luật sư để tính xem có cách nào điều chỉnh tình trạng di trú hay không, và họ đều nói là chỉ có cách chờ cải cách luật di trú.”
“Các giá trị Mỹ mà tôi học được ở đây khiến tôi mang tính cách Mỹ. Tôi nghĩ đó không phải là một mảnh giấy. Ðó là cách tôi lớn lên. Cách tôi nói lên điều tôi nghĩ và điều tôi cảm nhận.”
Lối phát biểu ý kiến kiểu Mỹ của anh đã khiến anh trở thành một người tranh đấu cho di dân bất hợp pháp. Anh không còn sợ hãi nữa. Anh đã có công việc toàn thời gian và dự định theo học trường luật trong tương lai.
Có chừng 1 triệu 300 ngàn di dân bất hợp pháp từ châu Á đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Mãi cho đến khi lên trung học Anthony Ng mới biết là mình không có giấy tờ hợp pháp. Sau đó anh bắt đầu sống trong sợ hãi. Anthony nói:
“Sợ bị trục xuất, sợ mọi người sẽ đối xử khác, sợ sẽ không được lên đại học nữa, sợ sẽ phải làm việc nặng nhọc mà vẫn không thực hiện được các ước mơ.”
Ng xuất thân từ Philippin. Anh đến Hoa Kỳ cùng với cha mẹ lúc 12 tuổi. Anh cho biết:
“Khi doanh nghiệp của chúng tôi ở Philippin bị phá sản, chúng tôi không còn phương tiện nào để sinh nhai. Do đó cha mẹ chúng tôi đã quyết định đến đây để đem lại cho tôi và các anh chị em tôi một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi thực sự biết ơn điều đó.”
Anh phát hiện rằng anh không có giấy tờ hợp pháp khi bắt đầu xin nội trú và trợ cấp để vào đại học. Di dân bất hợp pháp phần lớn không xin được khoản trợ cấp này. Anh nói:
“Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của vài luật sư để tính xem có cách nào điều chỉnh tình trạng di trú hay không, và họ đều nói là chỉ có cách chờ cải cách luật di trú.”
Quốc hội tiếp tục tranh luận về cải cách di trú. Hy vọng đã đến hồi
tháng 6 với dự luật Hoãn Hành động đối với những người nhập cư lúc còn
nhỏ, còn gọi tắt là DACA. Dự luật này cấp giấy phép làm việc tạm thời
cho di dân bất hợp pháp đến Hoa Kỳ lúc còn là trẻ em và hoãn lại việc
trục xuất.
Bà Tiffany Panlilio giúp di dân bất hợp pháp nộp đơn xin hưởng quy chế DACA. Bà cho biết lệ phí nộp đơn là 665 đôla và người nộp đơn phải chứng minh họ đã ở Hoa Kỳ từ hồi còn nhỏ. Bà cho biết:
“Rất khó cho những người sống trong bóng tối và chỉ gắng hết sức để tránh lọt tên mình vào đâu đó, và rồi bỗng dưng lại xuất hiện rồi nói bây giờ mình cần phải có bằng chứng là đã có mặt ở đây.”
Cho đến nay chỉ có dưới 300 ngàn người trên toàn quốc được chấp thuận quy chế DACA. Ða số là người Mexico. Ngoài châu Mỹ Latinh ra, có rất nhiều di dân bất hợp pháp từ Trung Quốc, Philippin, Ấn Độ, Nam Triều Tiên và Việt Nam.
Hơn 100 ngàn người Á châu ở khắp Hoa Kỳ có khả năng hội đủ điều kiện hưởng quy chế DACA. Bà Panlilio nói một số đã không nộp đơn bởi vì họ đã được rèn luyện sợ hãi chính phủ.
“Nhất là trong giới truyền thông Trung Quốc theo tôi nhận xét, họ rất ngờ vực.”
Các tổ chức quần chúng trong các cộng đồng Á châu đã tìm cách giáo dục và khích lệ những người không có giấy tờ hợp pháp nộp đơn xin DACA. Anh Anthony Ng đã nộp đơn và được cấp giấy phép làm việc hồi năm ngoái. Anh nói:
Bà Tiffany Panlilio giúp di dân bất hợp pháp nộp đơn xin hưởng quy chế DACA. Bà cho biết lệ phí nộp đơn là 665 đôla và người nộp đơn phải chứng minh họ đã ở Hoa Kỳ từ hồi còn nhỏ. Bà cho biết:
“Rất khó cho những người sống trong bóng tối và chỉ gắng hết sức để tránh lọt tên mình vào đâu đó, và rồi bỗng dưng lại xuất hiện rồi nói bây giờ mình cần phải có bằng chứng là đã có mặt ở đây.”
Cho đến nay chỉ có dưới 300 ngàn người trên toàn quốc được chấp thuận quy chế DACA. Ða số là người Mexico. Ngoài châu Mỹ Latinh ra, có rất nhiều di dân bất hợp pháp từ Trung Quốc, Philippin, Ấn Độ, Nam Triều Tiên và Việt Nam.
Hơn 100 ngàn người Á châu ở khắp Hoa Kỳ có khả năng hội đủ điều kiện hưởng quy chế DACA. Bà Panlilio nói một số đã không nộp đơn bởi vì họ đã được rèn luyện sợ hãi chính phủ.
“Nhất là trong giới truyền thông Trung Quốc theo tôi nhận xét, họ rất ngờ vực.”
Các tổ chức quần chúng trong các cộng đồng Á châu đã tìm cách giáo dục và khích lệ những người không có giấy tờ hợp pháp nộp đơn xin DACA. Anh Anthony Ng đã nộp đơn và được cấp giấy phép làm việc hồi năm ngoái. Anh nói:
“Các giá trị Mỹ mà tôi học được ở đây khiến tôi mang tính cách Mỹ. Tôi nghĩ đó không phải là một mảnh giấy. Ðó là cách tôi lớn lên. Cách tôi nói lên điều tôi nghĩ và điều tôi cảm nhận.”
Lối phát biểu ý kiến kiểu Mỹ của anh đã khiến anh trở thành một người tranh đấu cho di dân bất hợp pháp. Anh không còn sợ hãi nữa. Anh đã có công việc toàn thời gian và dự định theo học trường luật trong tương lai.
PHẠM TÍN AN NINH * NỢ ĐỜI ƠN EM
Nợ đời một nửa, còn một nửa
ơn em........
Biết bao giờ trả cho xong?
(Viết
cho em và
những người vợ
lính trung
hậu)
Phạm Tín An Ninh
Phạm Tín An Ninh
Thời
còn đi học,
lang thang từ
Nha Trang đến
Sài Gòn, dù
con nhà nghèo,
học tàm tạm,
và nhan sắc
dưới trung
bình, tôi cũng
đã mang tiếng
đào hoa. Cho
nên có muốn
kéo dài thêm
cái đời học
trò để được mơ
mộng đủ thứ
chuyện dưới
biển trên trời
thiên hạ cũng
đâu có cho.
Rồi có phải
thuộc giòng
hào kiệt gì
đâu, tôi cũng
xếp bút nghiên
theo việc kiếm
cung.
Nói kiếm
cung cho nó vẻ
văn chương và
lãng mạn, chứ
thực ra tôi
vào lính, mà
lại là thứ
lính hạng bét
thì làm gì có
kiếm với cung.
Có phải lính
tàu bay tàu
thủy gì đâu,
mà là lính đi
bộ. Lúc băng
rừng lội suối,
mặc bộ đồ trận
hôi hám cả
tuần không
tắm, tôi ghét
cay ghét đắng
cái ông nào là
tác giả cái
câu “Bộ Binh
là nữ hoàng
của chiến
trường” mà tôi
đã đọc được
ngay từ khi
mới vào quân
trường, đếm
bước một hai
để hát bài
“đường trường
xa”.
Khổ thì
khổ vậy, chứ
mấy cô gái bé
bỏng hậu
phương lại mê
lính trong mấy
bản nhạc của
ông Nhật
Trường. Vì
“nếu em không
là người yêu
của lính, ai
thương nhớ em
chiều rừng
hành quân, ai
băng gió sương
cho em đợi
chờ, và giữa
chốn muôn
trùng ai viết
tên em lên tay
súng?..”.
Nhờ
vậy, trong mấy
năm đóng quân
dọc đường số
1, nơi nào tôi
cũng để lại
vài mối tình
con. Tôi nghĩ
đời lính như
vậy mà vui,
thì thôi chớ
tính chuyện vợ
con làm gì cho
nó vướng chân
vướng cẳng.
Hơn nữa tôi
cũng hiên
ngang với đám
con gái lắm,
thì làm gì có
chuyện “chết
trong mắt em”.
Vậy rồi trời
xuôi đất khiến
thế nào, sau
mấy năm đánh
đấm ở Quảng
Đức, Ban Mê
Thuột rồi Bình
Định, Phú Yên,
đơn vị tôi
được mấy cái
tàu há mồm chở
vào bỏ xuống
bãi biển Nha
Trang vào lúc
đường phố mới
lên đèn.
Tôi
thấy lòng lâng
lâng sung
sướng vì không
khí yên bình
của thành phố
biển, mà cũng
vì tưởng mình
đã được trở về
với những
“hang động
tuổi thơ” của
ông Nguyễn
Xuân Hoàng.
Nào ngờ, khi
còn mải mê với
mộng mị, tôi
bị đánh thức
lúc nửa đêm
cùng đơn vị
leo lên một
đoàn xe mấy
chục chiếc để
tiếp tục “hát
khúc quân
hành”.
Đoàn xe
ra khỏi thành
phố, qua Ty
Thông Tin, ra
quốc lộ 1,
trực chỉ hướng
bắc. Tôi lại
mừng thầm,
nghĩ là sẽ
được về dưỡng
quân ở huấn
khu Dục Mỹ.
Nhưng tôi đã
“ước tính tình
hình” sai bét.
Đoàn xe dừng
lại tại bùng
binh, ngã ba
Ninh Hòa. Một
tiểu đoàn lính
đổ xuống cái
thị trấn còn
đang say ngủ.
Đại đội tôi
nhận lệnh vào
đóng quân
trong sân vận
động. Sáng hôm
sau tôi rủ mấy
thằng bạn,
quần áo chỉnh
tề, ra phía
trước “thăm
dân cho biết
sự tình”.
Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.
Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó:
Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
…………
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu ?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là..
Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.
Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó - mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ - bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.
Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.
Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:
Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
.................................................
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba
Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.
Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.
Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng.
Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.
Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó:
Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
…………
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu ?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là..
Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.
Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó - mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ - bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.
Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.
Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:
Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
.................................................
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba
Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.
Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.
Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng.
Cuối
cùng nàng cũng
chì còn có
tôi, người
lính thất trận
năm nào, đã
mang đến cho
nàng biết bao
là hệ lụy. Dư
âm cuồng nộ
của những cơn
dông bão năm
nào dường như
vẫn còn đâu đó
trong giấc ngủ
của riêng
nàng.
Tuổi sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà khổ thay, tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
NGUYỄN BÁ LONG - NGUYỄN PHÚ TRỌNG
TS. NGUYỄN BÁ LONG * CỘNG SẢN PHÁ HOẠI
HIỆN TÌNH CÁC MẶT
TRẬN MỞ RA TẠI HẢI NGOẠI CỦA VIỆT GIAN CS NHẰM CHIẾM LĨNH CỘNG ĐỒNG & CÁC
TÔN GIÁO
TS NGUYỄN BÁ LONGHọc Giả Chuyên Về Lý Thuyết Cách Mạng
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000
Trong thời gian vừa qua và trong thời kỳ sắp tới; VC và Việt Gian đã, đang, và sẽ mở nhiều mặt trận để đưa cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại vào vòng tay thống trị của chế độ CSVN. Nhưng các chiến sĩ quyết tử với CS còn nhiều và các nhà ái quốc VN không cam tâm phục vụ cho một đảng và chế độ tham tàn cương quyết đứng lên chống lại; thành ra các mưu toan của chúng không dễ đạt được. Vì có một số bộ phận và thành phần trước đây là người Việt quốc gia hoặc cán bộ, viên chức, cựu quân nhân/sĩ quan QLVNCH đã bán rẻ lương tâm đầu hàng hoặc hoạt động cho giặc; hoặc lập trường chao đảo, đã chủ trương có lợi cho VC; cho nên bài này nhằm phân tích các chiều hướng của Việt Gian CS đã tiến hành hoặc sẽ diễn ra trong những ngày sắp tới, theo chỉ đạo của VC hoặc theo chủ trương điên rồ của các nhóm liên hệ, để nắm hoặc thao túng cộng đồng VN Hải Ngoại, kể cả các tôn giáo.
Nghị Quyết 36 của Bộ Chính Trị Đảng CSVN đã nói khá rõ về chủ trương nắm Hải Ngoại của VC. Nhưng từ khi đưa ra Nghị Quyết đến nay đã gần một thập niên, VC cũng chưa đi tới đâu trong sự thu phục Hải Ngoại, trừ một số ít các kẻ bán rẻ lương tâm, đã tách ra khỏi tập thể tị nạn hoặc lén lút cộng tác với VC, và những kẻ này cũng đã bị nhận diện khá nhiều cũng như bị vô hiệu hóa. Chiến lược của chúng ta là bất cứ kẻ nào hoặc nhóm nào ra mặt hoạt động cho CS hoặc có các thái độ/hành động có lợi cho VC là chúng ta TRIỆT HẠ hoặc VÔ HIỆU HÓA ngay (đặc biệt là CÔNG BỐ TRƯỚC CÔNG LUẬN CÁC CHỦ TRƯƠNG/THÁI ĐỘ/HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÁ NHÂN HOẶC NHÓM NÀY). Trong chiều hướng đó, số Đối Lực 144 tháng 5-2013 là một số cực kỳ quan trọng nhằm PHÁ VỠ CÁC NỖ LỰC ĐÃ VÀ SẼ DIỄN RA CỦÛA VIỆT GIAN CS nhằm thu phục hoặc nhuộm đỏ Hải Ngoại. Có 3 mặt trận chính của Việt Gian CS đã hoặc sẽ được phát động hầu thực hiện các chỉ đạo và đáp ứng các mục tiêu của Đảng CSVN trong giai đoạn tới:
1) Trên mặt trận chính trị, chúng tung ra các chiến dịch XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN, HÒA HỢP HÒA GIẢI & CỘNG TÁC VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG. Các vùng xuất phát và trọng điểm của các chiến dịch này là Ottawa, Paris, Houston, Washington D.C. Chúng lần lượt thảm bại trong chiến dịch “XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN”, “HÒA HỢP HÒA GIẢI”, và bây giờ là luận điệu “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG!”. Luận điệu này thô thiển nhưng nó đánh vào lòng ái quốc của đồng bào, không cảnh giác là dễ dàng sa vào tay VIỆT GIAN CS ngay, vì nói chống TRUNG CỘNG thì người VN ai mà không có lòng dạ đó. Nhưng cái vế THỨ NHẤT của chiêu bài này nó nguy hiểm lắm, nếu không suy nghĩ có thể sa vào tròng Việt Gian CS dễ dàng: BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG là KHÔNG THỂ NÀO (impossible), vì VC KHÔNG BAO GIỜ CHỐNG TRUNG CỘNG, trái lại LÀM THEO LỆNH CỦA TRUNG CỘNG. Chúng ta phải hiểu rằng HỆ THỐNG CỘNG SẢN QUỐC TẾ nay đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng CS Trung Hoa, sau khi Liên Xô (tức Đệ Tam Quốc Tế) bị xóa sổ năm 1991 (Cách Mạng Nga tháng 8-1991). Có thể hiểu rằng những kẻ chủ trương BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG không phải không biết VC không bao giờ chống TC, nhưng chỉ đơn giản là chúng muốn BẮT TAY VỚI VC vì chúng hoạt động trong một hệ thống chịu sự chỉ đạo của ngoại bang, mà ngoại bang liên hệ đang muốn bắt tay với VC và TC để THỦ LỢI VỀ KINH TẾ và NGOẠI GIAO. Một mặt chúng phải nghe lời ngoại bang, một mặt chúng được rót nhiều lời đường mật của VC và bọn nằm vùng, bảo rằng chúng sẽ được dành cho nhiều quyền lợi và danh phận nếu chúng cổ võ đường lối “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TC”, vì nếu chỉ “BẮT TAY VỚI VC” không thì không ai theo, nên chúng phải đưa ra chiêu bài: “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG!”. Người sơ ý không chịu nghĩ thấu đáo có thể bị lừa! BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG chỉ có một nghiã là “VỪA LÀM TAY SAI CHO VC, VỪA LÀM TAY SAI CHO TC”, chứ còn CHỐNG TC LÀ KHÔNG BAO GIỜ, vì VC LÀ TAY SAI CỦA TC, làm sao dám CHỐNG TC. Chúng ta phải nhớ hai chi tiết quan trọng là ĐẢNG CSVN trong thực tế là 1 chi bộ của ĐẢNG CS TRUNG HOA, và Hội Nghị Thành Đô năm 1990 đã chuẩn bị để đưa VN thành một bộ phận của Tàu sau 30 năm, nghiã là vào năm 2020, và việc chuẩn bị này đang được các Thái Thú Bắc Kinh tại Hà Nội tiến hành một cách có hệ thống từ CỜ 6 SAO, GIÁO DỤC CHỮ TÀU, DI DÂN, KINH TẾ, HIẾN DÂNG ĐẤT ĐAI VÀ LÃNH HẢI, MỞ CÁC TRỤC CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾM LĨNH CAO NGUYÊN ĐỂ CHUẨN BỊ CHO CÁC NỖ LỰC TƯƠNG LAI CHIẾM VN v.v. Xin xem thêm bài viết của TS NGUYỄN BÁ LONG nơi trang nhất và bài của TS MAI THANH TRUYẾT về “Thời kỳ Bắc Thuộc mới của VN”. Nội một sự kiện Nguyễn Thiện Nhân sau khi vào Bộ Chính Trị qua Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Khóa 7 chưa nóng đít đã lật đật bay sang chầu Bắc Kinh, thì ta hiểu ngay sự lệ thuộc của Đảng CSVN đối với Đảng CSTH như thế nào? Bởi vậy, nói chuyện VC chống TC là chuyện hoang đường, một Phó Thủ Tướng vừa vào BCT đã lật đật bay sang chầu thiên triều ngay lập tức, thì có khác gì việc làm của các viên chức lãnh đạo An Nam Đô Hộ Phủ ngày xưa đâu? Bây giờ TC đã thiết lập lại ĐÔNG ĐÔ ĐẠI PHỐ tại Bình Dương (gần SG), ĐÔNG ĐÔ ĐẠI PHỐ được thiết lập vào thời kỳ đô hộ của Trương Phụ (thời Kháng Chiến Lam Sơn), mà bây giờ lại được tái lập tại VN. Điều đó nói lên cái gì? Một thời kỳ đô hộ mới tại VN đang được thiết lập. Việt Nam Hải Ngoại chính là căn cứ địa cuối cùng để từ đó người Việt tiến hành các nỗ lực quang phục quê hương một khi VC đã hoàn thành việc xáp nhập VN vào TC theo Hội Nghị Thành Đô. Bởi vậy không bao giờ chúng ta để cho VN Hải Ngoại lọt vào vòng tay VC; nhất là không bao giờ người Việt tị nạn nên nghe lời bọn Hòa Hợp Hòa Giải cổ võ cộng tác với VC ĐỂ CHỐNG TC, vì VC KHÔNG BAO GIỜ CHỐNG TC. Xin xác định lại một lần nữa như thế!
Các nỗ lực BẮT TAY, ĐỐI THOẠI với VC đã được Việt Gian CS phát động đồng loạt từ nhiều trung tâm, bởi nhiều tay sai chứ không phải một người. Các trung tâm chính của nỗ lực này hiện nay là OTTAWA, HOUSTON, PARIS. còn các hoạt động nhằm XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN của người tị nạn thì trung tâm chính hiện nay là Washington D.C., qua hoạt động của Nhóm Nguyễn Ngọc Bích với Nghị Quyết SJR 455 của Đại Nghị Viện Tiểu Bang Virginia chỉ định ngày 30-4-2013 và những ngày 30-4 của những năm sau đó là “South Vietnamese Recognition Day”, nhưng đã hoàn toàn thất bại: Cộng Đồng Washington D.C - Maryland - Virginia đã không tiếp nhận Nghị Quyết đó, và cộng đồng các nơi cũng như các đoàn thể đều lên tiếng chống lại (xin xem số báo đặc biệt Tưởng Niệm Quốc Hận thứ 38, Khai Thác Thị Trường #90, tháng 4-5-6/2013, với các bài viết của TS Nguyễn Bá Long và 10 tác giả khác, từ trang 6-22); cho nên âm mưu XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN 30-4 bằng BÀN TAY NGƯỜI MỸ (ban đầu là một chiến thuật rất đắc ý,
tưởng chừng như thành công tới nơi, của NNB) đã hoàn toàn sụp đổ. Rồi các cuộc họp tại Paris của Liên Minh Dân Chủ VN hệ phái lãnh đạo bởi qúy ông NGÔ THANH HẢI, NGUYỄN TẤN TRÍ và LÊ PHÁT MINH, có dính với “VỀ CHUỒNG”; cũng như chuyến đi về VN của một Việt Gian tại Houston, đều nằm trong nỗ lực của CSVN và hệ thống tay sai tại Hải Ngoại mở mặt trận Hòa Hợp Hòa Giải với VC, sau khi các nỗ lực kêu gọi hợp tác với bạo quyền CSVN của một bà bác sĩ trên Internet được đáp lại bằng sự lạnh nhạt của mọi người. Trận đánh từ tháng 4 đến tháng 6-2013 của hệ thống Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN, Phong Trào Hiến Chương 2000, và phong trào kết hợp qua Đại Hội Mở Rộng Toronto năm 2009, khai triển bởi các cây viết chính: TS NGUYỄN BÁ LONG, GS TS NGUYỄN PHÚC LIÊN, Học Giả NGUYỄN QUANG HIỆP (xin coi bài của tác giả Nguyễn Quang Hiệp trong số này) đã và sẽ giáng cho các nhóm HHHG và BẮT TAY VỚI VC các đòn chí tử nhằm triệt tiêu mặt trận HHHG tại Hải Ngoại. Năm nay, trái với năm 2005 sau chiến dịch DIỄN HÀNH CHO TỰ DO thất bại thê thảm, VT đã rút vào bên trong chứ không chường mặt ra để chủ động lèo lái chiến dịch XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN, mà nhường cho Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ của Nhóm Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Mậu Trinh. VT đang lo cố thủ các vị trí đã dành được nên dè dặt với đòn nguy hiểm là XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN, để cho nhóm cộng tác năm 2005 (Nghị Hội) đứng ra một mình, lãnh đạn!
2) Trên mặt trận TỪ THIỆN & VĂN NGHỆ nhằm ru ngủ và chiêu dụ người Việt Hải Ngoại, chẳng những để lôi cuốn người tị nạn theo Nghị Quyết 36, chúng còn moi tiền đồng bào. Chúng đã tung ra các đòn:
- Mở các chiến dịch TỪ THIỆN XHCN khắp các nơi. Nội ở vùng Toronto mà trong Mùa Xuân 2013 này, đã có hàng chục vụ tổ chức văn nghệ và quyên góp từ thiện, mục đích chính là THU TIỀN VỀ VN (chứ không phải chi tiêu tại Hải Ngoại; chỉ có ngoại lệ một vài hội nào đó là có chi tiêu tại Hải Ngoại, còn đa số là đưa tiền về trong nước). Ta thấy rõ ràng cái này đáp ứng đúng mục tiêu của Đảng CSVN coi Hải Ngoại là CON BÒ SỮA cho chúng vắt, dễ nhất là qua TỪ THIỆN XHCN. Bởi vậy đồng bào Toronto hãy coi chừng các hội nào quyên tiền đưa về VN, phải nhận định cho rõ là những người này làm với mục đích gì?
- Tiếp tục đưa CÁN BỘ & VĂN CÔNG CS RA HẢI NGOẠI để thực hiện Nghị Quyết 36, đặc biệt là ĐVH. Tên ca nô CS dơ dáy này (hun hít một nhà sư ngay trên sân khấu ở Hà Nội) bị người tị nạn tẩy chay khắp nơi. Tại Mississauga đêm 4-5-2013, đồng bào tị nạn đã biểu tình quyết liệt trước địa điểm 6435 Dixie Rd. (Capital Banquet Hall) để phản đối cuộc trình diễn của y. Không thấy người của cộng đồng hoặc bà con tị nạn đi xem đêm văn nghệ này, mà chỉ nghe được giọng của các nhóm người Bắc và các khuôn mặt lạ hoắc (du sinh, lao động v.v.) mà thôi. Điều này chứng tỏ rằng tên ca nô đã không xâm nhập được vào cộng đồng tị nạn và Nghị Quyết 36 còn lâu mới có thể tác động đến cộng đồng VN. Tháng 12/2012, ĐVH đến Montréal đã bị chống mạnh, tháng 5/2013 đến Toronto bị biểu tình quyết liệt. Sắp tới, tên ca nô sẽ đi Vancouver chắc cũng sẽ bị đả đảo tương tự.
3) QUỐC DOANH CỘNG SẢN (Phật Giáo) đang có những chuẩn bị ráo riết để mở mặt trận tại Hải Ngoại, trên nền tảng của Nhóm “VỀ CHUỒNG” đã từng mở mặt trận hòng “XÓA SỔ VĂN PHÒNG II - VHĐ” đưa toàn bộ Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất Hải Ngoại vào vòng tay QUỐC DOANH CỘNG SẢN trong nước. Hiện nay, chúng thay đổi sách lược là DÙNG TÔN GIÁO ĐỂ CHIẾM VIỆT NAM HẢI NGOẠI, sau khi chúng đã THẤT TRẬN năm 2007 và thất bại liên tiếp trong các CHIẾN DỊCH CHÍNH TRỊ do các tay sai và các nhóm Hòa Hợp Hòa Giải thi hành. Ta thấy một sự rất ăn khớp là nhóm LMDCVN qua họp tại Paris có dính với các nhân sự LMDCVN từ Ottawa, Houston, Paris và dính với vị lãnh đạo “VỀ CHUỒNG” tại Paris. Đây không phải vô tình hoặc xã giao mà là một nỗ lực phối hợp rộng lớn cho toàn hải ngoại giữa các nhóm chính trị HHHG, QUỐC DOANH HẢI NGOẠI, QUỐC DOANH CỘNG SẢN và CSVN trong nước. Rồi các nhóm HHHG tại Toronto, Mississauga, Ottawa v.v. bên Canada đều có dính và quan hệ mật thiết với “VỀ CHUỒNG” hết. Một hệ thống báo chí tay sai (có đăng ĐVH trình diễn tại Toronto) cũng liên hệ đến sự tán trợ cho QUỐC DOANH CS “VỀ CHUỒNG” lên lãnh đạo Phật Giáo toàn Canada. Nhưng các nhà ái quốc VN và hệ thống Diễn Đàn Quốc Tế đã nắm vững về các âm mưu và kế hoạch này của QUỐC DOANH CS sắp diễn ra tại Toronto, Canada, nên sẽ đem toàn lực phối hợp với các đoàn thể ái quốc và chống Cộng tại vùng Toronto và Canada bẻ gảy mặt trận này.
QUỐC DOANH HẢI NGOẠI vã các nhóm chính trị HHHG cũng như từ thiện XHCN và tay sai báo chí địa phương là một hệ thống liên hợp hỗ trợ và tiếp sức lẫn nhau. Chúng cố đưa một thượng tọa “VỀ CHUỒNG” lên lãnh đạo Phật Giáo tại Canada, và như thế đặt Phật Giáo VN tại Canada vào hệ thống CS trong nước. QUỐC DOANH HẢI NGOẠI dùng phương tiện là tiền bạc (qua các quyên góp hằng loạt bằng nhiều cách khác nhau) và danh vị để mua chuộc tăng ni nhằm khuynh loát hàng tu sĩ theo phương cách thế tục, kể cả đưa các vị sư quốc doanh trong nước ra. Chúng mở mặt trận đồng loạt, vừa chính trị vừa tôn giáo, liên hệ đến nhiều trung tâm và nhiều nhóm, cá nhân. Chúng cố nắm cho được các phương vị chính trị của ngoại bang để làm bàn đạp và để tăng uy thế, nói cho có nhiều người nghe, và để thuyết phục cộng đồng. Có nhiều người không biết tưởng chúng nắm các phương vị chính trị hoặc dân cử của các nước như Mỹ, Canada v.v. là chống Cộng. Thựs sự chúng chuẩn bị và có ý đồ lâu rồi. Bây giờ chúng cũng giả bộ nói chống Cộng; nhưng những nhà hoạt động theo dõi chúng trong nhiều năm thì đã biết tâm địa chúng và các nỗ lực của chúng. Bởi vậy, hệ thống Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN, Phong Trào Hiến Chương 2000, và 3 phong trào kết hợp qua Đại Hội Mở Rộng Toronto ngày 28-29/11/2009 đã quyết định mở mặt trận đánh vào cùng lúc các nỗ lực của CS, Việt Gian và Quốc Doanh Hải Ngoại về các lãnh vực CHÍNH TRỊ, TÔN GIÁO, TỪ THIỆN XHCN, và TUYÊN VẬN; trong đó, hai mặt trận CHÍNH TRỊ và TÔN GIÁO là tâm điểm của chiến dịch ĐƯA VIỆT NAM HẢI NGOẠI vào VÒNG TAY CS.Sắp tới, sẽ có các trận đánh quyết liệt của các đoàn thể chống Cộng và các nhà ái quốc VN vào QUỐC DOANH HẢI NGOẠI tại Toronto và Canada; ngăn ngừa kế hoạch đưa một vị sư “VỀ CHUỒNG” lên lãnh đạo Phật Giáo ở Canada, và sẽ đặt PG tại đây dưới hệ thống CS trong nước.
Ngày nào các nhà ái quốc VN còn hơi thở là vẫn sẽ QUYẾT TỬ với CS, VIỆT GIAN và QUỐC DOANH HẢI NGOẠI. Không khi nào chúng tôi chấp nhận để các tội đồ dân tộc và lũ BÁN NƯỚC đặt người Việt tị nạn dưới bàn tay tham tàn của bạo quyền CSVN.
II. HƯỚNG ĐI CỦA ĐÁM HHHG & VIỆT GIAN CS HIỆN TẠI LÀ DỰA VÀO NGOẠI BANG ĐỂ BẮT TAY VỚI CS VÀ ĐI NGƯỢC LẠI CỘNG ĐỒNG HẢI NGOẠI
Trước đây chuyện dựa vào ngoại bang để bắt tay với CS ít xảy ra vì các mối quan hệ giữa một số cá nhân trong cộng đồng tị nạn và ngoại bang chưa thật chặt chẻ và ít cá nhân dám nghĩ tới vận dụng ngoại bang để liên hệ với CS vì sợ cộng đồng lên án. Nhưng trong những năm sau này, có một số cá nhân đã trực tiếp bắt tay với CS mà cũng không chết chóc gì, như NCK, PD, NPH v.v. Càng ngày, một số nhân vật chính trị bán rẻ lương tâm trong cộng đồng VN càng nghĩ ra các mưu sâu để hòng vừa bắt tay được với VC để thủ lợi, nhưng tránh bị các lên án của cộng đồng hoặc tiết giảm sự lên án đến mức tối đa. Các con người giảo hoạt này, vừa có trình độ cao hơn các đám đi trước, vừa có tham vọng hơn, nên đã nghĩ ra được nhiều chiêu nhằm đạt được mục đích của họ là BẮT TAY VỚI VC, mà lại được bảo vệ bởi NGOẠI BANG, còn cộng đồng thì cũng hoặc không chỉ trích hoặc chỉ trích ít đi. Trong số những kẻ làm Việt Gian theo hướng này, thì kẻ chọn con đường LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG là khôn ngoan nhất và tránh né được nhiều nhất những chỉ trích của cộng đồng. Nhưng con người thường có tính tham và muốn nổi tiếng, nhất là những người hoạt động chính trị; cho nên những kẻ LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG ít khi giữ được tính chất thuần túy là LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG để lấy tiền công hoặc tiền dịch vụ; mà thường đi xa đến độ lộ rõ những mưu đồ và toan tính tương lai, cũng như bị CS du vào các tình thế BẮT BUỘC PHẢI CỘNG TÁC, nên lúc đầu tính khác nhưng khi đụng vào trận thì không chịu nổi các đòn độc của CS, đã khiến cho một kẻ dùng danh nghiã LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG biến thành TAY SAI CS và HOẠT ĐỘNG CHO CS. Cho nên cuối cùng ra người ta ít chú ý đến khiá cạnh LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG bằng những bằng chứng hùng hồn trong quan hệ của người đó với CS, rõ rệt chứng tỏ người này đã lọt vào vòng tay của CS và tự nguyện làm con rối trong cộng đồng để thỏa mãn những gì anh ta đã hứa với các viên chức CS khi được tiếp đãi riêng. Đây là trường hợp của một Việt Gian CS tại Houston đã đi quá xa để bây giờ trở thành con rối hoạt động cho CS chống lại cộng đồng tị nạn. Và hậu quả là không còn ai nghe người này, khi y là con bài bị lộ hẳn rồi. Y đã rõ ràng phục vụ cho VC rồi. Nó khác với trường hợp một người từng là Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ cũng đi VN nhưng không bị cháy, vì người này đã giữ được khoảng cách cần thiết ,và người này ở vị trí Dân Biểu Liên Bang khi đi thành phái đoàn luôn luôn có nhiều người giám sát, không phải muốn làm gì cũng được; và sau chuyến đi người này cũng chưa có bộc lộ thái độ hoặc hành động gì là tay sai CS. Còn xa hơn nữa thì mình phải chờ mới biết. Có người từng đòi đem máy bay thả bom Miền Bắc trong chiến tranh VN, nhưng sau này thì qùy gối dưới CS, khi chết cũng không được VC cho đem về quê chôn nữa, cho nên một đời thân bại danh liệt, đến nỗi chùa cũng từ chối không dám cúng cho sau khi chết. Thành ra ta thấy làm tay sai VC có nhiều hệ lụy mà gương nhãn tiền nhất là NCK. Hiện có một người cũng thuộc nhóm HHHG ở Canada có một đường hướng tiếp cận với CS qua thế lực và các mối giây liên hệ của ngoại bang, và đây là lúc người này khai triển kế hoạch của mình đã ấp ủ nhiều năm (tức HHHG với CS). Nhưng vì còn sợ cộng đồng VN chỉ trích nên người này trong lúc này còn đi nước đôi, khi thì tuyên bố đòi hỏi dân chủ, bênh vực những người tranh đấu trong nước, lúc lại họp hành với những người chủ trương đối thoại với VC mà không có điều kiện gì, khiến cho nội bộ của chính đảng phái đó, có hai phe, thì phe có chủ trương không HHHG với VC đã lên tiếng bằng một Bản Tuyên Bố rồi. Vì tính cách nguy hiểm của sự lơ lững của người này và nhóm của ông, cho nên kỳ này Diễn Đàn Quốc Tế phải ra số báo này để CẢNH BÁO ĐỒNG BÀO TORONTO VÀ HẢI NGOẠI về chủ trương BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TC, về những sai lầm của nhóm này, và điểm danh các nhân sự liên hệ.
Mối liên hệ giữa nhóm này với lãnh đạo “VỀ NGUỒN”, nhóm chủ trương đối thoại với VC ở Houston, và báo chí tay sai sẵn sàng hỗ trợ “VỀ NGUỒN” cũng như ca nô CS, khiến cho người tị nạn ở Toronto và hải ngoại cần đặt câu hỏi về ý chí thật sự của đoàn thể của người này đối với chủ trương “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TC” như thế nào?
Vì bài đã khá dài, tác giả xin đăng tiếp tài liệu sau đây về cuộc biểu tình chống ĐVH tại Mississauga vàsẽ trở lại vấn đề này trong số Đối Lực 145 tháng 6-2013.
Hải Ngoại ngày 19 tháng 5 năm 2013
T/M Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
TS NGUYỄN BÁ LONG
Chủ Nhiệm
ĐỒNG BÀO TORONTO VÀ HẢI NGOẠI HÃY COI CHỪNG LẬP TRƯỜNG BẤT
ỔN CỦA HỆ PHÁI LIÊN MINH DÂN CHỦ VIỆT NAM DO ÔNG NGÔ THANH HẢI, NGUYỄN TẤN TRÍ
VÀ LÊ PHÁT MINH LÃNH ĐẠO
Phong Trào Hiến Chương 2000
Ngày 16-5-2013, Liên Minh
Dân Chủ Việt Nam (hệ phái lãnh đạo bởi Cựu Hải Quân Đại Tá NGUYỄN VĂN THIỆN -
Hoa Kỳ) đã đưa ra một Bản Tuyên Bố (đăng tải lại phía dưới) minh định lập trường
của Liên Minh Dân Chủ do ông lãnh đạo là dứt khoát
không có HÒA HỢP HÒA GIẢI với Cộng Sản; trái ngược với lập
trường của hệ phái LMDC do ông NGÔ THANH HẢI lãnh
đa.o.Trước lập trường bất ổn nguy hiểm này của LMDC thuộc hệ phái NGÔ THANH HẢI - NGUYỄN TẤN TRÍ - LÊ PHÁT MINH; Phong Trào Hiến Chương 2000 có các nhận định sau:
1. Bắt tay với Việt Cộng để chống Trung Cộng là hoàn toàn sai lầm, nếu không nói là điên rồ, vì không bao giờ Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) chống lại Đảng Cộng Sản Trung Hoa (ĐCSTH). Thực tế, Đảng CSVN là một CHI BỘ của Đảng CSTH, có nhiệm vụ phải thi hành con đường vạch ra của Đảng CSTH, hiện đang lãnh đạo hệ thống cộng sản của những nước Cộng Sản còn lại, sau khi Liên Xô (tức Đệ Tam Quốc Tế) sụp đổ.
2. Lệnh cho CSVN thi hành bởi Đảng CSTH là phải tiến hành các biện pháp để xáp nhập Việt Nam vào với Trung Quốc trong một hạn kỳ nhất định (30 năm), tham chiếu Hội Nghị Thành Đô năm 1990.
3. Hiện các Thái Thú Bắc Kinh tại Hà Nội đang tiến hành các biện pháp dọn đường để chuyển Việt Nam thành một bộ phận của Trung Quốc vào năm 2020, với các biểu hiện như trương CỜ SÁU SAO, chương trình giảng dạy chữ Tàu tại Việt Nam, bỏ chương trình thi sử VN trong điều kiện tốt nghiệp, thay đổi sách giáo khoa Việt Nam theo hướng có lợi cho Tàu và in hình cờ Trung Cộng vào đó, di dân Tàu tự do sang Việt Nam không cần chiếu khán, đặt toàn bộ nền kinh tế dưới sự lệ thuộc Tàu Phù - đặc biệt là 90% gói thầu các ngành đều lọt vào tay Tàu Phù v.v. (xin xem thêm bài viết “Thời kỳ Bắc Thuộc mới của VN” của TS Mai Thanh Truyết ).
4. Không bao giờ có chuyện Đảng CSVN và chế độ CSVN chống Tàu, mà là đang làm mọi cách chuyển giao Việt Nam êm thắm cho Tàu. Do đó biện pháp để Việt Nam thoát khỏi vòng Bắc Thuộc là TIÊU DIỆT CỘNG SẢN chứ không phải là THEO CSVN ĐỂ CHỐNG TÀU. Khi THEO CSVN thì có nghiã là VỪA LÀM TAY SAI CHO CSVN, VỪA LÀM TAY SAI CHO TÀU!
5. Ngoại bang có lý do để BẮT TAY VỚI TÀU CỘNG VÌ KINH TẾ, nhưng NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN thì KHÔNG CÓ MỘT LÝ DO GÌ để VỪA LÀM TAY SAI CHO VIỆT CỘNG VỪA LÀM TAY SAI CHO TÀU CỘNG, trừ khi vì lý do THỦ LỢI CÁ NHÂN và MƯU CẦU DANH LỢI (như một tên Việt Gian tại Houston, nhưng sẽ bị cả VC và TC vắt chanh bỏ võ như chúng ta đã thấy qua kinh nghiệm của đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).
6. Việt Nam Hải Ngoại là CÁI PHAO CUỐI CÙNG để tổ chức QUANG PHỤC VIỆT NAM, trong trường hợp ĐẢNG CSVN BÁN NƯỚC hoàn thành trách vụ CHUYỂN GIAO VIỆT NAM cho Tàu theo tinh thần Hội Nghị Thành Đô; do đó chúng ta phải BẢO VỆ VIỆT NAM HẢI NGOẠI bằng mọi giá không để lọt vào tay Việt Cộng và Tàu Cộng qua con đường HÒA HỢP HÒA GIẢI của bọn TAY SAI CỘNG SẢN và NGOẠI BANG.
7. Trước các con rối làm tay sai cho NGOẠI BANG và CS lại muốn dẫn dắt NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN đi vào con đường PHẢN QUỐC qua chiêu bài “BẮT TAY VỚI VIỆT CỘNG ĐỂ CHỐNG TÀU CỘNG!”, Phong Trào Hiến Chương 2000 CẢNH BÁO ĐỒNG BÀO TORONTO và HẢI NGOẠI coi chừng đám TAY SAI NGOẠI BANG và CỘNG SẢN đang làm mọi cách LỪA ĐỒNG BÀO VÀO RỌ HÒA HỢP HÒA GIẢI VỚI VC của chúng.
Hải Ngoại ngày 17 tháng 5 năm 2013
T/M Phong Trào Hiến Chương 2000
TS NGUYỄN BÁ LONG
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên
TÀI LIỆU THAM CHIẾU:
Liên Minh Dân Chủ Việt Nam
Dân Bản - Tự Do - Độc Lập - Hòa Bình - Trung Lập
* * *
Bản Tuyên Bố
của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam
Trong thời gian qua, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, hệ phái do cựu Hải Quân Đại tá Nguyễn Văn Thiện lãnh đạo, đã có nhiều đóng góp hữu hiệu trong việc tố giác trước công luận trong và ngoài nước các hành vi tay sai bán nước của Cộng sản Việt Nam (CSVN), cũng như vạch trần các hành động của Bắc Kinh xâm lấn lãnh thổ, hải đảo và vùng biển của Việt Nam. Điển hình là cuốn phim chiến lược Đại Họa Mất Nước do Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy phát hành với các chiến hữu LMDCVN là thành phần nòng cốt trong ban thực hiê.n. Đồng thời, tư tưởng và đường lối đấu tranh đúng đắn trước Đại Họa Mất Nước cũng đã được các anh em chiến hữu và thân hữu quảng bá sâu rộng tại các hội thảo chính trị cũng như trên các diễn đàn Paltalk. Những nỗ lực trên đã khiến cho lập trường chính trị vì quốc gia dân tộc của LMDCVN được sáng tỏ.
Tuy nhiên, gần đây có nguồn dư luận, mà tuyên truyền của cộng sản đã khai thác để rửa mặt cho họ, cho rằng LMDCVN đã thay đổi lập trường tranh đấu đối với Cộng sản Việt Nam, chẳng hạn như:
1)- Để chống sự xâm lăng của Trung Quốc, chúng ta có thể hợp tác với CSVN.
2)- Về phương diện chính trị thì chúng ta với CSVN là hai chiến tuyến, còn trong việc bảo vệ tổ quốc thì chúng ta và CSVN cùng một mục tiêu, chúng ta phải đứng chung với CSVN để bảo vệ tổ quốc.
3)- Đối thoại với CSVN không điều kiê.n.
Thực ra, dư luận giao động này gây ra do phát biểu từ một số trong thành phần lãnh đạo của LMDCVN thuộc hệ phái do ông Ngô Thanh Hải làm Chủ Tịch UBCHTƯ, ông Nguyễn Tấn Trí là Phó Chủ Tịch, và ông Lê Phát Minh là Cố vấn. Tất cả các vị đó không còn hoạt động trong đoàn thể LMDCVN của chúng tôi.
Vì vậy, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của cựu Hải Quân Đại tá Nguyễn Văn Thiện long trọng minh xác một lần nữa:
Lập trường, mục tiêu tranh đấu cũng như đường lối và sách lược của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam trước sau như một, luôn theo đúng con đường mà cố GS Nguyễn Ngọc Huy đã viễn kiến vạch ra .
Liên Minh Dân Chủ Việt Nam nhận định:
-Nhận định 1: Lịch sử đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn làm tay sai cho ngoại bang. Trước kia là để phục vụ cho sự bành trướng của Đệ Tam Quốc Tế, gây nên cuộc chiến huynh đệ tương tàn ngay trên quê hương Việt Nam thời chiến tranh la.nh. Ngày nay ''hèn với giặc, ác với dân'', Cộng sản Việt Nam dâng nộp bờ cõi, hải đảo và biển cả cho Trung Quốc xâm lược, ngõ hầu duy trì sự cai trị của Đảng Cộng Sản trên sự thống khổ của đồng bào ruột thi.t.
-Nhận định 2: Ngày trước, tổ quốc của CSVN là Xã Hội Chủ Nghĩa. Ngày nay, tổ quốc của Cộng sản Việt Nam là Đảng Cộng Sản Trung Quốc xâm lươ.c. Mục tiêu hàng đầu của Đảng CSVN không phải là bảo vệ tổ quốc, mà là duy trì chế độ độc tài độc đảng để tiếp tục vinh thân phì gia trên xương máu của nhân dân và tài nguyên của đất nước Việt Nam. Do đó, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam không cùng chung tổ quốc với đảng Cộng sản Việt Nam. ĐảngCộng sản Việt Nam là những người bán nước cho quan thầy Trung Cô.ng. Hợp tác với các thái thú tay sai để chống quan thầy của họ là một hoang tưởng chính trị không bao giờ thành công mà vô hình chung chúng ta chỉ trở thành những con rối của Bắc Kinh và Hà Nô.i.
Liên Minh Dân Chủ Việt Nam xác quyết rằng muốn thoát khỏi ách ngoại xâm Trung Cộng, dân tộc Việt Nam không những không thể hợp tác với đảng Cộng sản Việt Nam, mà trước hết phải thay thế họ bằng một chánh quyền mới vì dân vì nước thật sự.
-Nhận định 3: Luận điệu của Cộng Sản nước nào cũng như nhau là ''để chống kẻ thù số 1 thì có thể hợp tác, làm bạn chiến thuật với kẻ thù số 2 để tiêu diệt kẻ thù số 1''. Do đó, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam xác quyết rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và hành động xăm lăng của Trung Cộng đều là ''hai kẻ thù số 1''. Toàn dân Việt Nam khắp nơi cần phải đấu tranh chống lại một cách song song. Liên Minh Dân Chủ Việt Nam dứt khoát không hợp tác hay đứng chung với Cộng sản Việt Nam với chiêu bài chống hiểm họa Bắc Phương.
-Nhận định 4: Nước Việt Nam cần một thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, đa đảng, thừa nhận đối lập, nhằm đoàn kết toàn dân, và xây dựng chánh quyền trên nền tảng tam quyền phân lập theo đúng tư tưởng dân chủ pháp trị, để mọi công dân có đủ cơ hội thăng tiến tài năng, xây dựng đời sống tự do hạnh phúc, trong một xã hội văn minh, tiến bộ, và phát triển kinh tế bền vững, ổn định cho đất nước. Từ đó, sức mạnh của toàn dân mới có thể vận dụng để chống hoạ ngoại xâm phương Bắc.
Bởi các nhận định nêu trên, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam long trọng tuyên bố:
1.- Tiếp tục mở rộng sự liên kết với các đoàn thể đấu tranh trong và ngoài nước để cùng toàn dân đứng lên làm lịch sử trong vận hội đang tới, theo trào lưu dân chủ hóa toàn cầu, giải thể độc tài đảng trị trên toàn cõi đất nước Việt Nam.
2.- Không chấp nhận đối thoại hay hòa hợp hòa giải với cộng sản khi mà đảng Cộng sản vẫn đàn áp nhân dân, trù dập những tiếng nói đối lập ở trong nước, và cam tâm làm nô lệ cho Tàu.
3.-Cùng toàn dân đấu tranh cho sự Sinh Tồn của Dân Tộc bằng các quyền Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền và toàn vẹn bờ cõi, chống lại đảng Cộng Sản độc tài toàn trị, đàn áp nhân dân và bán nước, hèn với giặc ác với dân.
4.- Cùng toàn dân đấu tranh chống tham nhũng, cướp đất, hiếp đáp nhân dân, xây dựng công bằng xã hội và nhân quyền, trên nền tảng dân chủ pháp trị.
5.- Thực hiện các lý tưởng cho sự Sinh Tồn của Dân Tộc mà cố GS Nguyễn Ngọc Huy đã đề ra cho Liên Minh Dân Chủ Việt Nam: Dân Bản, Độc Lập, Tự Do, Hòa Bình, Trung Lập, không nô lệ bất cứ ngoại bang nào.
Làm tại Hoa Kỳ, ngày 16 tháng 05 năm 2013
Chủ Tịch UBCHTƯ/LMDCVN
Cựu HQ Đại Tá Nguyễn Văn Thiện
TS. MAI THANH TRUYẾT * BẮC THUỘC
Bắc Thuộc lần thứ
5…
TS Mai Thanh Truyết
Kể từ khi tiến chiếm miền Nam của cs Bắc Việt ngày 30/4/1975, chúng ta ngày càng thấy lộ rõ tính nô lệ Trung cộng (TC) của những người lãnh đạo đất nước. Cuộc chiến "có tiếng súng" nổ ra ở biên giới Viê.t-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979 chỉ là sự khởi đầu cho tiến trình Bắc thuộc lần thứ năm của TC. Cuộc chiến không phải chấm dứt 10 ngày sau đó, mà vẫn tiếp tục dai dẳng dọc theo biên giới mãi cho đến năm 1988 qua sự quy phục hoàn toàn của cs Bắc Việt khi TC tiến chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Và cuộc
chiến không tiếng súng bắt đầu.
Và hiệp
ước biên giới được hai bên ký kết (theo lịnh của TC) như sau:
• Cột mốc
biên giới số 1116 đã được chính thức cắm vào phía Nam của Ải Nam Quan và cách ải
280 m;
• Thác
Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch do TC quản lý;
• Quan
trọng hơn cả là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới
Viê.t-Trung tới tận tỉnh Quảng Đông. Người Tày có khuynh hướng thân TC và đã
được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ năm của TC một khi có chiến tranh xảy
ra.
Thật ra,
những sự kiện vừa nêu trên có thể nói là kết quả của những mật đàm từ trước, Hội
nghị Thành Đô ngày 3 và 4 tháng 9 năm1990.
Trong quá
trình lịch sử, chúng ta thấy rất rõ tham vọng chiếm đóng Việt Nam của người Hán
đã xảy ra hàng ngàn năm trước và VN chịu bốn lần ách đô hộ. Và hôm nay, dưới
cuộc chiến không tiếng súng, lại thêm một lần nữa, cuộc đô hộ mới đang xảy ra,
thể hiện quyết định của Hội nghị Thành Đô trên.
Tại nơi
nầy, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thời bấy
giờ, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên Trung Cộng có Tổng Bí thư Giang Trạch
Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường
hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí mật này không được công bố trong nước cho
tới khi "bị" bật mí vào những ngày đầu năm 2013..
Ngày
5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng đến Trung Cô.ng. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung -
Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký
tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.
Tiếp theo
sau, dưới thời Tổng Bí thư cs Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp định Biên giới
trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Cô.ng. Theo báo chí "chiều phải" của
Việt Nam, Việt Nam có quan hệ mật thiết "môi hở răng lạnh" với Trung Cô.ng. Hai
nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đa.o.
Cuối
cùng, công cuộc thực hiện Bắc thuộc hoàn toàn bằng cách biến Việt Nam thành Nam
Việt, một tỉnh theo quy chế tự trị phía Nam thuộc Trung Cộng…và ngôi sao thứ năm
trên lá cờ TC đã xuất hiện trong các cuộc giao tiếp hòa đàm giữa TC và VN từ năm
2011…để chờ ngày chính thức công bố tự trị vào năm 2020? (Lá cờ TC với 5 ngôi
sao xuất hiện lần đầu tiên trên truyền hình Việt Nam vào ngày 11/10/2011 nhân
chuyến viếng thăm TC của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư cs VN để xác định "16 chữ
vàng" một lần nữa là: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai").
Chính
quan hệ mật thiết môi hở răng lạnh của hai đảng cộng sản cộng thêm sự hèn yếu
của cs Bắc Việt khiến cho tiến trình Bắc thuộc ngày càng hiện rõ thêm qua nhiều
chỉ dấu từ đó đến nay:
Tiến trình Bắc thuộc lần thứ 5:
• Di dân Trung Hoa vào Việt Nam
Trước năm
2008, người Trung Hoa khi vào Việt Nam được miễn visa (hộ chiếu) và có thể di
chuyển tự do trong phạm vi miền Bắc mà thôi. Cuối năm 1980, Thủ tướng cs Nguyễn
Tấn Dũng lại miễn hộ chiếu và nới rộng vùng di chuyển của ngưới Tàu đến tận Cà
Mau. Quyết định nầy chính là điểm mấu chốt và là điểm khởi đầu thực sự trong âm
mưu Hán hóa Việt Nam của TC.
Có thể
nói hiện nay, sự hiện diện của người Tàu trên khắp hang cùng ngõ hẹp của đất
nước. Trong hơn 65 Khu chế xuất, Khu công nghiệp tập trung, không đâu là không
thấy công nhân, quản đốc và chủ nhân người Hoa, trong lúc người lao động Việt
Nam khắp nơi phải chịu cảnh thất nghiệp! Trong các nhà máy sản xuất có tính cách
quốc phòng như nhà máy phát điện, nhà máy gang thép, sản xuất hóa chất công
nghiệp…đầu đâu cũng có chủ nhân và công nhân người Tàu…
Ngoài 9
tỉnh địa đầu hầu như chịu ảnh hưởng của người Tàu, đường xá mang tên Tàu, hàng
quán, chợ búa mang tên Tàu, thậm chí cung cách trang hoàng những ngày Tết cũng
đậm nét Tàu như treo lồng đèn đỏ dọc theo các đường phố chính, chưng bày hàng
hóa thực phẩm Tàu…
Trên
306.000 hecta đất cho Tàu thuê mướn trong 50 năm với giá rẻ mạt, chiếm toàn
những vị trí chiến lược trọng yếu ở Bắc Việt, như căn cứ Tam Điệp là nơi Bộ
Chính trị cs VN "chạy trốn" trong giai đoạn chiến tranh năm 1979!
• Đồng hóa tiệm tiến các dân tộc thiểu số miền Cao nguyên Trung phần
Hiện tại,
TC đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm và người thiểu số ở cao nguyên
Bolloven bên Lào, Cambodia và nhập nhằng tóm gọn các dân tộc Chăm và Thượng làm
một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của
vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một
Tiến sĩ người Chăm cổ súy. Nhóm nầy cũng đã được hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã
có nhiều quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc đi.a. Cũng cần nên
biết thêm, người Thượng ở vùng cao nguyên hiện tại cũng đã được các hội thiện
nguyệân và tôn giáo Hoa Kỳ yễm trợ dưới danh nghĩa DEGA.
Theo tin
tức được loan tải trên mạng lưới toàn cầu, họ đã hình thành tổ chức The Cham
National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên Hiệp Quốc công nhận qua
Department of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế tham mưu
(consultative status) kề từ năm 2009.
Một tổ
chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến
đưa hồ sơ lên LHQ và Thụy Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ lưu vong Chăm
(The Cham National Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ
truyền thống của Champa là miền Trung VN, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của
chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Cũng theo dự định, chính phủ nầy sẽ phác
thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào
nội các.
Qua các
tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay lông lá của TC mới thực
hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm. Theo một
nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu sẽ đặt trụ sở tại đảo Hải Nam
(TC), nơi có một cộng đồng thiểu số người Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng
đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang tị nạn và định cư tại đây vào thời Lưu
Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính
sách cai trị hà khắc với dân tộc Chăm năm 988.
Nhưng chỉ
một thời gian ngắn sau đó, dự định trên đã được hủy bỏ vì muốn tránh sự phản
kháng của các thành viên LHQ khác, văn phòng chính phủ lưu vong lấy Thụy Điển
làm văn phòng tạm là P.O. Bax 122, SE-33523, Gnosjo, vì tại nơi nầy, cũng có một
tiến sĩ người Chăm định cư nhằm tạo danh nghĩa để gây áp lực với cs Bắc Việt một
khi cần thiết. Và một trụ sở khác của chính phủ lấy Cambodia làm căn cứ địa đặt
tại Phnom Penh, P.O. Box 1635 Phnom Peenh 12000. (Cơ sở nầy một lần nữa bị bại
lộ do đó TC phải dẹp bỏ vào năm 2012).
Sau cùng,
khi "Ông Thầy đỡ đầu" người Pháp của vị tiến sĩ Chăm đan cử ở phần đầu qua đời,
vị tiến sĩ nầy đi tìm chỗ dựa mới là TC và chuyển trục hoạt động về Malaysia.
Nơi đây ông ta đã tổ chức một viện nghiên cứu về dân tộc Chăm, và có nhiều buổi
nói chuyện về sự hình thành dân tộc Champa do một đại học ở TC đài
thọ.
Vậy, câu
hỏi được đặt ra là: Trung Cộng giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì?
Câu trả
lời giản dị sẽ là TC muốn hoàn toàn khống chế VN trong lãnh vực chính tri.-kinh
tế-quân sự qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần VN. Nắm được cao nguyên
nầy, TC sẽ biến thành một vùng lệ thuộc như miền đất Tây Tạng năm 1959 và Tân
Cương 1960. Đã nắm được yết hầu của VN rồi mặc nhiên TC có toàn khả năng khống
chế lãnh đạo hiện tại của cs Bắc Việt trong mọi tình huống.
Mặt khác,
nguy hiễm hơn nữa là sự hiện diện của hàng chục ngàn người Tàu dưới dạng công
nhân, hay nhân viên tình báo (?) tại hai địa điểm khai thác Bauxite là Nhân Cơ ở
Đăc Nông và Tân Rai ở Lâm Đồng. Sự hiện diện nầy, ngoài các yếu tố kinh tế, và
quân sự, còn là một chiến lược đồng hóa người địa phương và thiểu số bằng những
cuộc hôn nhân dị chủng để…vài chục năm sau, những nơi nầy sẽ có những người
"thiểu số mới"….đứng lên đòi tự trị theo tinh thần của Nghị quyết Dân tộc bản
địa của LHQ?
• Ảnh hưởng về Văn hóa và Giáo dục
Trung
Cộng cũng có âm mưu gây ảnh hưởng về văn hóa. Điều nầy đã bàng bạc thể hiện qua
nhiều lể hội có tính cách văn hóa xen lẫn y phục, lời ca, điệu múa Trung Hoa.
Cung cách cấu trúc, bày trí các vỡ kịch cũng đầy máu sắc và kịch tính Tàu. Những
ảnh hưởng trên thể hiện ra sau khi bình thường hóa quan hệ, cho phép các loại
hình văn hóa của Trung Cộng được xuất bản rộng rãi tại Việt Nam. Rất nhiều các
loại phim TC được dịch và trình chiếu tại các đài truyền hình Trung Ương và địa
phương ở Việt Nam.
Một khía
cạnh quan trọng khác là cách đây hơn 3 năm, TC lại thành lập một Cục giáo dục
tiếng Hoa cho người ngoại quốc. Họ đã đào tạo giáo viên sinh ngữ từ bậc tiểu
ho.c. Từ năm 2010, họ đã bắt đầu cung cấp giáo viên qua việt Nam để giảng dạy
tiếng quan thoa.i. Đây cũng là một âm mưu lâu dài nhằm đem tiếng Hoa vào trong
hệ thống giáo dục VN, chuẩn bị cho công cuộc Bắc thuộc toàn diê.n.
• Xuất nhập cảng làm tê liệt các ngành sản xuất VN bằng cách tung hàng hóa với giá rẻ ma.t.
Trong một
chuyến viếng thăm TC của Tổng Bí thư cs Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên
quyết tâm và "nhất trí" phát triển hai chiều theo "quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện".
Kể từ khi
bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại Trung –
Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại giữa hai
nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700
lần. TC đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Lợi ích thương mại song
phương mang lại cho hai nước là điều dễ dàng nhìn thấy. Nhưng cùng với thương
mại song phương liên tục tăng trưởng, vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa
hai nước đã ngày càng bộc lộ. Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong
thương mại với TC.
Cũng cần
nên nói thêm là TC còn xuất sang Việt Nam nhiều hàng hóa trong lĩnh vực thực
phẩm, tiêu dùng với nhiều sản phẩm có tẩm, ướp, bảo quản, chế biến, sản xuất
bằng các loại hóa chất độc hại, bằng công nghệ gây hại mà thị trường TC đã tẩy
chay khi phanh phui ra các vụ bê bối thực phẩm như các loại hoa quả, thực phẩm,
xí muội, ô mai, nước tương, sữa, trứng gà..., ngoài ra còn có đồ chơi trẻ em có
chứa chì, dày dép, đồ điện tử độc hại, bạo lực, kích dục, chứa chất nổ, dễ gây
thương tích, ảnh hưởng đến nòi giống, sinh sản....
TC cũng
xuất sang Việt Nam các giống cây trồng, vật nuôi có nguy cơ gây hại đến các
giống loài bản địa, gây hại đến nông nghiệp của nước sở tại như ốc bươu vàng,
đỉa trâu, sâu, nhộng, trùng cho chim cảnh, rùa tai đỏ và một số giống vật nuôi
nguy hiểm khác.... điều đáng lưu ý là những sản phẩm này tràn lan trên thị
trường Việt Nam, không thể kiểm soát được và người tiêu dùng Việt Nam đang dùng
hàng ngày do giá rẻ và không phân biệt được thật giả, phẩm chất hay xuất
xứ.
Về phần
Việt Nam, hàng hóa xuất cảng sang TC của Việt Nam chánh yếu là dầu thô (năm 2009
xuất trên 8 triệu tấn dầu thô), than đá và một số nông sản và hầu hết các loại
rau đậu, ngô khoai…Đối lại VN nhập cảng từ TC các mặt hàng như: máy móc thiết
bị, thép, sản phẩm hóa chất, thiết bị vận tải, bông vải, máy móc cho kỹ nghệ
dệt, da giày, phân bón và sản phẩm, máy móc dùng trong nông nghiệp, và hàng tiêu
dùng. Chỉ tính cho năm 2009, riêng hàng nhập khẩu từ TC chiếm tới 80% tổng lượng
nhập khẩu của Việt Nam.
Điểm sau
cùng cũng cần nêu ra đây là vấn đề trúng thầu của các doanh nghiệp TC trong các
dự án có tầm vóc quốc gia của Việt Nam mà báo chí trong nước vẫn đưa lên gần
đây. Đa số các dự án lớn đấu thầu công khai thì đều lọt vào tay nhà thầu TC do
giá đấu thầu của họ rất rẻ. Vấn đề tham gia của TC trong các dự án nhạy cảm, như
trồng rừng ở biên giới, dự bán Bauxite trên cao nguyên Trung phần Việt Nam, các
dự án Nhiệt điện ở khắp nơi từ Hải Phòng cho đến Cà Mau. Nguồn vốn cho vay của
TC ngày càng tăng chiếm hầu hết tổng lượng vốn vay của Việt Nam, dự báo cho một
sự lệ thuộc hoàn toàn của nền kinh tế Việt Nam vào TC.
Tóm lại,
TC dùng đủ mọi thủ đoạn để xuất cảng hàng hóa, vật dụng, thực phẩm chứa hóa chất
độc hại nhằm…ngoài việc làm tê liệt kinh tế VN bằng cách triệt tiêu các kỹ nghệ
nội địa của VN, còn làm hủy diệt sức đề kháng chống ngoại xâm của các thế hệ
thanh niên sau nầy của VN qua kinh nghiệm ngàn năm giữ nước của dân tộc
Viê.t.
Thay lời kết
Đã hơn 38
năm qua từ ngày lìa xa Đất Nước, hơn lúc nào hết, âm mưu Bắc thuộc lần thứ 5 của
Trung Cộng lại hiện rõ trong lúc nầy. Chúng ta còn nhớ, ngay sau khi Liên Sô sụp
đổ năm 1991, CS Bắc Việt mới quay về thuần phục TC.
Và kể từ
đó, trước mặt TC, đảng CSVN mới cam tâm ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng
biển cho Trung Cô.ng. Thứ nhất là "Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt
Nam – Trung Cộng" ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan và thác Bản Giốc), và thứ hai
là "Hiệp ước phân định lãnh hải" ngày 25-12-2000 (mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển
vùng Vịnh Bắc Việt).
Câu
chuyện Tam Sa gồm Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa cũng chỉ là kết luận "tất
yếu" của tiến trình dâng đất và dâng biển cho TC mà thôi.
Qua những
sự kiện vừa liệt kê trên đây, chúng ta thấy rõ ràng ÂM MƯU THÔN TÍNH Việt Nam
của TC cũng như lý tính thuần phục của đảng cs Việt Nam hiện ta.i.
Đất Nước
là Đất Nước của chung, của cả dân tô.c. Từ người lãnh đạo quản lý Đất Nước cho
đến người dân cùng đinh trong xã hội cần phải được dự phần và chia xẻ trách
nhiệm chứ đâu có phải là độc quyền của đảng.
Tóm lại,
cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của
đảng CS Bắc Việt đều do CS TC điều khiển từ xa. Việt Nam hoàn toàn không có khả
năng quyết định vận mệnh của đất nước mình nếu không có sự "góp ý" của
TC.
Hiện tại,
16 chữ vàng và 4 tốt trên đã được Trung Tướng CS Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng
Cục Chính trị cùng phái đoàn 11 tướng lãnh cao cấp khác cam kết và xác định thêm
một lần nữa trước Thái thú Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Hoa là:"Quân đội
hai nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận giữa hai Đảng bằng đối thoại".
Chưa bao
giờ đất nước Việt có một tập đoàn lãnh đạo hèn với giặc và ác với dân như hiện
tại!
Nhìn lại
lịch sử trong quá khứ, vào năm 1428, Vua Lê Lợi lên ngôi sau 10 năm kháng chiến
đau thương và gian khổ để:
"Đại cáo
Bình Ngô lưng cung nỏ,
Giang sơn
thu lại chỉ mười năm" .
Đó là
giang sơn Đại Việt thời xưa!
Và vào
thời cận đại, Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du để phục quốc đã phải
thốt lên:" Phát cây bụi lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này, không phải
là tay chân của hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Sớm chuyên chở, chiều
chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải là máu mỡ mồ hôi của tổ
tiên hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Tổ tiên ta đem nước để lại cho con
cháu. Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ tiên ta. Nước vốn là gia tài của dân
ta".
Và Cụ
viết tiếp:"Sau khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ được mở mang, dân khí sẽ lớn
mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa đô thành,
nước ta đặt một toà nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng
quyết đi.nh. Thượng nghị viện phải đợi trung nghị viện đồng ý, trung nghị viện
phải đợi hạ nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân
chúng có quyền tài phán việc của trung nghị viện và thượng nghị viê.n. Phàm là
dân nước ta, không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử.
Trên là vua nên để hay truất, dưới là quan nên thăng hay giáng".
Lời người
xưa còn đó!
Bao giờ
giang sơn Đại Việt "mới" sẽ được lấy lại từ tay CS Bắc Viê.t.
Mai Thanh Truyết
Ngày Quốc Hận 2013
TRẦN NGÂN *ÔNG TRỌNG THẤT BẠI
Tổng bí thư Trọng và
cuộc Thập tự chinh vô vọng
Trần Hữu Dũng:
Bài mới, vô cùng xuất sắc, của tác giả các bài Thủ tướng Dũng và nền kinh tế thị trường “định hướng quyết liệt” và --Thống đốc Bình có mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng?
Vài năm trở lại đây, tình hình
tham nhũng, chạy chức, chạy quyền ở Việt Nam ngày càng tăng, cộng với
kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao, thất nghiệp lan rộng đã đe
dọa nghiêm trọng tới niềm tin của người dân vào vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản. Tình thế đó đã buộc ban lãnh đạo Đảng phải tìm ra những
giải pháp mới nhằm lấy lại niềm tin của nhân dân. Từ khi lên nắm quyền
sau Đại hội Đảng lần thứ 11, TBT Trọng và Ban chấp hành TW Đảng đã tiến
hành một số biện pháp như:
- Ra Nghị quyết Trung ương 4 về
“Những vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay” và tổ chức rộng khắp
phong trào phê và tự phê theo tinh thần nghị quyết này
- Tái lập Ban Nội chính TW và Ban Kinh tế TW
Bài viết dưới đây sẽ phân tích ý nghĩa của việc tái lập 2 ban này trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
1. Về Ban nội chính và cuộc chiến chống tham nhũng
Vào
năm 2007, Ban Nội chính TW lúc đó đã được sáp nhập vào Văn phòng TW
Đảng. Sau khi được tái lập vào cuối năm 2012, chức năng, nhiệm vụ của
Ban Nội chính TW hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với trước đó. Nếu như
trước đây, nhiệm vụ của Ban rất rộng, chẳng hạn:
- Giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây dựng pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Nghiên cứu đề xuất và theo dõi việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng thành pháp luật nhà nước;
- Theo dõi việc lập và thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Nhà nước. (thuvienphapluat.vn)
thì trong 6 nhóm nhiệm vụ của Ban Nội chính TW hiện nay đều có chữ “tham nhũng” (Vnexpress, 4/1/2013). Điều này cho thấy Ban này được lập ra chủ yếu để đối phó với tình trạng tham nhũng tràn lan hiện nay.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là:
liệu việc tái lập lại Ban này có giúp được gì trong việc giảm bớt tình
trạng tham nhũng hiện nay hay không? Rất tiếc, câu trả lời của tác giả
cũng như nhiều người tỉnh táo khác là không, hoàn toàn không.
Kinh nghiệm chống tham nhũng
trên thế giới đã rất nhiều và những nguyên tắc chung được rút ra không
gì ngoài những nguyên tắc chính: (i) về mặt thể chế phải có tam quyền
phân lập, có sự phân chia và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực; (ii)
công khai và minh bạch trong những lĩnh vực như: hoạch định và thực thi
chính sách, tài sản cán bộ công chức…; (iii) một nền báo chí tự do để
người dân có thể giám soát các quan chức của mình… Có những điều kiện
này chưa chắc đã có kết quả tốt trong việc chống tham nhũng nhưng nếu
không có nó thì chắc chắn không thể chống tham nhũng. Việc lập ra một cơ
quan chống tham nhũng trong thời đại ngày nay mà lại thiếu đi những
điều kiện nền tảng ở trên mà trông mong nó hoạt động có hiệu quả thì chỉ
là sự ảo tưởng.
Về mặt cơ chế, việc lập ra Ban
Nội chính TW như thế này (với chân rết ở tất cả các tỉnh thành, khác với
trước kia là chỉ có một số địa phương có văn phòng của Ban) rõ ràng có
mục đích là “chống”, tức là có vụ án tham nhũng xảy ra rồi thì sẽ tham
gia “xử lý”. Tuy nhiên, cái gốc của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đã ăn
quá sâu vào hệ thống, lan quá rộng ra mọi mặt của xã hội thì cách tốt
nhất phải là “phòng”, tức là phải cải cách mạnh để triệt tiêu những thể
chế tạo ra điều kiện cho tham nhũng như quyền lực, đất đai, đầu tư công,
DNNN… Không giải quyết được những vấn đề gốc rễ này mà lại đẻ ra một tổ
chức để chống thì không thể nào chống được vì có bịt lỗ này chắc chắn
sẽ lại có nhiều lỗ khác xì ra.
Về mặt hoạt động, cũng như Ủy
ban kiểm tra TW của Đảng hiện nay, nó không công khai, minh bạch cho
công chúng cách thức hoạt động mà chủ yếu là vận hành trong nội bộ, đa
số có mục đích dĩ hòa vi quí, thậm chí là “nhân văn” để duy trì sự ổn
định và đoàn kết của Đảng như lời dạy của TBT Trọng: “đấu tranh có
lý có tình để tất cả cùng tiến lên chứ không cốt kỷ luật nhiều thì mới
tốt. Tính nhân văn của NQ Trung ương 4 là thế”, “quan trọng nhất là bước
đầu phải nhóm được cái lò lên, tạo thành hơi ấm thì khi đó củi khô, củi
tươi đưa vào cũng phải cháy hết”; “Kỷ luật mà không tính kỹ, mai kia
lại ân oán, thù oán, đối phó thành phe phái, làm rối nội bộ, có nên
không” (Vietnamnet, 3/12/2012).
Với cách chống tham nhũng mà lúc nào cũng sợ làm hại tới “sinh mệnh
chính trị” của các quan chức như thế (còn mặc kệ sinh mệnh của dân) thì
đừng mong nó có hiệu quả.
Về mặt con người, có lẽ TBT
Trọng và một số người thực lòng muốn chống tham nhũng đã mơ ước tới vai
trò của các quan chức trong Ban Nội chính TW giống Bao Thanh Thiên,
tuyệt đối trong sạch, “thiết diện vô tư”, hoàn toàn khách quan nên đã
“trang bị” cho Ban Nội chính TW một ông Trưởng ban nổi đình nổi đám với
những tuyên bố vang trời là Nguyễn Bá Thanh và qui định là Trưởng ban sẽ
là Ủy viên Bộ Chính trị. 2 Phó ban là Ủy viên TW (trước đó không hề
có)
. Nhưng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, với một hệ thống chính trị
có các quan hệ quyền lợi ràng buộc như mạng nhện thì mơ ước trên đây chỉ
là điều viển vông không tưởng. Bản thân Nguyễn Bá Thanh được rất nhiều
người kỳ vọng nhưng trước khi ra Hà Nội đã kịp đưa con trai là Nguyễn Bá
Cảnh lên làm Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng. Chưa kể, ông này khi còn ở Đà
Nẵng đã dính không ít tai tiếng về tham nhũng. Ông Trưởng ban đã vậy thì
lấy gì đảm bảo các ông phó hoặc cấp dưới không dính vào tham nhũng hoặc
các quan hệ lợi ích nhằng nhịt. Với những cán bộ như vậy thì rõ ràng
việc xử lý các vụ án tham nhũng sẽ mang nhiều động cơ chính trị với các
sự thỏa hiệp và thương lượng để đảm bảo quyền lợi và vị trí của mình,
đặc biệt là ở cấp địa phương.
Như vậy, có thể thấy trước rằng
việc lập ra Ban Nội chính TW và coi đó là biện pháp chủ yếu để chống
tham nhũng trong giai đoạn tới chắc chắn sẽ thất bại thảm hại vì nó
không được hỗ trợ bằng những cải cách thể chế cơ bản. Cách thức hoạt
động thì không công khai, minh bạch. Cán bộ của nó, đặc biệt là cán bộ ở
cấp địa phương cũng không đáng tin vì có quá nhiều mối liên hệ chính
trị rối rắm và có chức vụ hành chính có thể thấp hơn nhiều so với cán bộ
chủ chốt ở đó[1]…
Việt Nam không dám học tập những
kinh nghiệm tốt nhất (“best practice”) về chống tham nhũng đã rất nhiều
trên thế giới, tức là phải tạo ra môi trường để con người không thể (xử
phạt nghiêm minh, không chạy án được), không dám tham nhũng (công khai
minh bạch tài sản của quan chức) mà Việt Nam lại muốn tạo ra con người
không muốn tham nhũng (Tất nhiên các nước khác cũng giúp quan chức
“không muốn” tham nhũng bằng việc trả lương cao cho công chức nhưng với
nguồn lực có hạn thì Việt Nam không thể làm theo).
Việt Nam tạo ra sự
“không muốn” tham nhũng chủ yếu bằng động cơ tinh thần, đạo đức. Chẳng
hạn, đòi hỏi cán bộ phải có cái “tâm” trong khi chả ai định nghĩa được
“cái tâm” là gì (Nếu anh có “tâm”, sao anh không tự nguyện công khai tài
sản cho dân biết đi, cây ngay không sợ chết đứng mà). Biện pháp chống
tham nhũng, tiêu cực chủ yếu hiện nay vẫn là phê và tự phê, cho cán bộ
học tập tư tưởng đạo đức HCM thì đúng là quá ảo tưởng. Tác giả tin chắc rằng 100% người dân Việt Nam chả ai tin rằng đi học tập tư tưởng đạo đức HCM sẽ giúp cán bộ bớt tham nhũng cả.
Vậy mà người ta vẫn rầm rộ thực hiện những việc vô bổ này, vừa tốn thời
gian, tiền bạc, vừa làm lệch sự chú ý khỏi những việc cần thiết đáng lẽ
phải làm.
Khi kinh tế suy thoái, cái bánh
lợi ích bé đi thì việc tranh giành những phần bánh còn lại sẽ trở nên
quyết liệt hơn. Trong bối cảnh chính trị nhiều bè phái hiện nay, nhiều
khả năng là với cách thức tổ chức và hoạt động như thế này, Ban Nội
chính TW sẽ trở thành một công cụ để đấu đá chính trị hơn là chống tham
nhũng thực sự (Hãy nhớ ông trưởng ban Nguyễn Bá Thanh đã hạ nhục ông cựu
tướng cảnh sát Nguyễn Văn Thanh tới mức dù đã nằm liệt trên giường bệnh
vẫn bị đẩy cả giường ra tòa vì ông này và những người khác đã dám tố
cáo Bá Thanh tham nhũng).
2. Về Ban Kinh tế TW và nền kinh tế hiện nay
Do
thành tích điều hành kinh tế kém cỏi của chính phủ do thủ tướng Dũng
đứng đầu, Đảng đã quyết định tái lập Ban Kinh tế TW để mong xoay chuyển
nền kinh tế. Các nhiệm vụ chính của Ban Kinh tế TW gồm có:
- Thứ nhất, chủ trì hoặc tham
gia nghiên cứu, đề xuất xây dựng đường lối, chủ trương, nghị quyết đại
hội, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định về lĩnh vực kinh tế-xã hội của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cơ chế, chính
sách lớn về kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện
quan hệ sản xuất, về các vấn đề xã hội …
- Thứ hai, thẩm định các đề án về kinh tế – xã hội trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Thứ ba, … Ban Kinh tế Trung
ương sẽ giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư nắm tình hình, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc các tập
đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại và
các tổ chức tài chính… (Thuvienphapluat.vn)
Như vậy, Ban Kinh tế TW có 2
nhóm nhiệm vụ chính là: (i) Nghiên cứu, đề xuất các chính sách và (ii)
Giúp Bộ Chính trị và Ban Bí thư trong việc kiểm tra và giám sát.
Với nhóm nhiệm vụ thứ nhất, từ
khi ông Vương Đình Huệ lên làm Trưởng ban Kinh tế TW thì ông đã có nỗ
lực tiếp xúc với một loạt các trường đại học ở Việt Nam như Đại học Thái
Nguyên, Đại học Quốc gia Hà nội… (Tạp chí Tài chính, 29/3/2013) hay Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (Infonet, 17/5/2013) để ký kết các thỏa thuận hợp tác nghiên cứu.
Vấn đề đặt ra ở đây là nếu nhiệm
vụ chủ yếu chỉ là nghiên cứu, đề xuất chính sách thì có cần tái lập một
ban đã bị giải thể và trưởng ban lại phải là Ủy viên Bộ Chính trị hay
không? Rõ ràng là không.
Việc
tư vấn chính sách thì bản thân các trường đại học hay viện nghiên cứu
có thể làm tốt thông qua cơ chế đặt hàng từ các cơ quan cần nó mà không
cần thêm một đầu mối là Ban Kinh tế TW. Nếu đồng ý rằng con đường
đi lên của Việt Nam phải là nền kinh tế thị trường có mô hình tương tự
với các nước phát triển thì có thể thấy Ban này rất khó có thể có những
đóng góp gì đáng chú ý về mặt học thuật hay những chính sách mang tính
đột phá để hiện đại hóa đất nước vì nó là một tổ chức của Đảng nên sẽ bị
những rào cản lớn về mặt tư tưởng không thể vượt qua.
Ai đã từng có dịp
gặp các cán bộ của Ban Kinh tế TW trước đây thì đều biết năng lực của
họ nói chung hạn chế, chủ yếu là cán bộ lý luận, nặng tính hành chính.
Các cán bộ mới năng lực cũng khó có thể khá hơn vì đa số đều được đào
tạo trong hệ thống các trường của Đảng mà bản thân các trường này cũng
có tư duy tụt hậu so với thế giới hàng trăm năm nên cũng không thể đòi
hỏi gì nhiều từ các sản phẩm do họ tạo ra.
Cho dù có tuyển người thực sự
giỏi, tốt nghiệp ở các nước phát triển về (theo qui định, Ban Kinh tế
TW có thể mời các chuyên gia về kiêm nhiệm vị trí Phó ban (Pháp luật TP.HCM, 5/1/2013)
thì họ cũng khó có thể phát huy khả năng trong một môi trường tù túng
và bị kìm hãm về mặt tư tưởng và trí tuệ như vậy. Có lẽ không phải ngẫu
nhiên mà ông Huệ, TS kinh tế tốt nghiệp ở Slovakia, từng là một giảng
viên đại học lâu năm, nguyên hiệu phó Đại học Tài chính Kế toán lại ký
kết nhiều thỏa thuận với các đại học và viện nghiên cứu vì chính ông có
lẽ cũng hiểu khả năng tư duy và tầm mức trí tuệ của các cán bộ dưới
quyền thế nào.
Nên lưu ý là nhiều nhà khoa học
thực sự có tài trong hệ thống các viện nghiên cứu nhà nước (“think tank”
quốc doanh) trong lĩnh vực khoa học xã hội cũng vì những ràng buộc về
mặt tư tưởng, vì sợ bị chụp mũ là phản động, lệch lạc, suy thoái mà
nhiều khi không thể nói thật những điều họ suy nghĩ.
Như vậy, thử hỏi
một ban của Đảng, phải báo cáo cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư là nơi có
những người tư duy thuộc dạng thủ cựu nhất Việt Nam hiện nay thì làm sao
họ dám nói đúng sự thật, đó là nói nếu họ đủ khả năng để nhận ra đâu là
sự thật. Trí thức phải có môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, tự do
học thuật để tranh luận thẳng thắn, các ý tưởng có thể cọ sát với nhau
thì mới có thể tới gần chân lý chứ việc mời một vài chuyên gia, dù giỏi
để làm việc theo kiểu “hiến kế” cho các nhà lãnh đạo bảo thủ như mô hình
thế này rõ ràng không hiệu quả vì có nghe hay không phụ thuộc rất lớn
vào ý muốn chủ quan của một vài lãnh đạo và liệu ý kiến tư vấn đó có tốt
hay không cũng khó đánh giá vì chả mấy ai biết được do không được công
khai tranh luận.
Việc nên làm đầu tiên để
có một hệ thống think tank tốt là cần bỏ ngay Điều 2 trong Quyết định
97/2009/QĐ-TTg do thủ tướng Dũng ký trong đó quy định khi phản biện
thì “không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa
của tổ chức khoa học công nghệ”. Chính điều khoản có thể nói là
ngu dốt này do một người thường tự hào là ngày nào cũng làm việc với các
“trí thức”, người ngay khi mới lên nhậm chức đã ký quyết định giải thể
Ban Nghiên cứu của thủ tướng, ban hành đã làm IDS, “think tank” tư nhân
duy nhất của Việt Nam phải tự giải thể và cũng bịt hết đường ra đời cũng
như góp ý của các “think tank” tư nhân khác.
Như vậy, có lẽ ý định chính của
những người muốn tái lập Ban Kinh tế TW là thông qua nó, dùng quyền lực
của Đảng để can thiệp vào quá trình hoạch định chính sách và giám sát
các tập đoàn là các bầu sữa của chính phủ do thủ tướng Dũng đứng đầu.
Năng
lực điều hành yếu kém của chính phủ hiện nay là điều không thể phủ nhận
nhưng việc quay lại thời kỳ sử dụng quyền lực của Đảng để can thiệp vào
các công việc thuộc chức năng của chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực
kinh tế chỉ tổ làm mọi việc tệ hơn mà thôi. Chưa nói tới sự chồng
chéo về mặt thể chế, lý do cơ bản nhất là tư duy của các lãnh đạo Đảng
thường là bảo thủ, tụt hậu rất xa so với mặt bằng chung các lãnh đạo
trên thế giới (chỉ nói ở ASEAN thôi đã thua lắm rồi) nên rất không thích
hợp cho một quốc gia đang có nhu cầu cấp thiết phải hiện đại hóa và hội
nhập nhanh hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hai cái sai cộng lại không thể
thành một cái đúng được, đặc biệt là trong trường hợp này. Nếu điều này
xảy ra, nó có nguy cơ càng làm đất nước tụt hậu xa hơn nữa.
Tóm lại, với việc tái lập hai
ban này cũng như một số biện pháp khác đã được tiến hành, TBT Trọng và
những người cùng suy nghĩ với ông cũng có thể có mong muốn thật lòng là
muốn giảm bớt trình trạng tham nhũng đã quá nghiêm trọng và cải thiện
được tình hình kinh tế bi đát hiện nay. Tuy nhiên, rõ ràng cuộc Thập tự
chinh được TBT Trọng khởi xướng để chống lại tham nhũng và suy thoái
kinh tế chắc chắn sẽ thất bại vì nó được dựa trên một nền tảng tư duy
hết sức thủ cựu, đầy ảo tưởng, mang nặng niềm tin tôn giáo hơn là thực
tiễn, chủ yếu để đánh lừa dư luận và tự đánh lừa chính mình. Dùng sự sai
lầm về thể chế để đối phó với sự sai lầm của một người (thủ tướng Dũng)
thì chỉ càng làm tình hình xấu thêm vì con người sai còn có thể thay
nhanh chứ thể chế sai khi đã được thiết lập sẽ mang tính bền vững khó
thay đổi hơn nhiều.
3. Con đường gập ghềnh sắp tới của Việt Nam
Như trong một bài viết của tác giả vào tháng 11/2012 về kinh tế Việt Nam (Viet-studies, 20/11/2012), tác giả có nhận định rằng triển vọng trung hạn của nền kinh tế Việt Nam là rất kém vì những lý do chính sau:
- Hầu hết các cải cách quan
trọng cần thiết để giải phóng các nguồn lực tăng trưởng trong trung và
dài hạn liên tục bị trì hoãn mà không được thực thi. Nhưng bản thân
nhiều cải cách này cũng sai ngay từ định hướng nên kết quả rất khó thành
công hay nói đúng hơn là chắc chắn cũng sẽ thất bại.
- Thể chế chính trị hay nói cụ
thể hơn là bộ máy lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam hiện nay đã mất khả năng
“tự sửa sai” và lợi ích của số đông cán bộ lãnh đạo không còn gắn với
với lợi ích của đại đa số nhân dân và đất nước nữa.
- Nhiều chính sách kinh tế trong
thời gian kể từ khi thủ tướng Dũng lên nắm quyền và đặc biệt trong giai
đoạn từ năm 2008 trở lại đây có chất lượng rất kém (ví dụ điển hình gần
đây là chính sách quản lý vàng của NHNN).
Đến nay, sau 6 tháng, quan điểm của tác giả vẫn không hề thay đổi mà còn được khẳng định thêm bằng những sự kiện gần đây.
Các chuyên gia đều thấy các bước
cải cách cơ cấu quá chậm hay nói đúng hơn là không tiến được gì, chỉ
thấy nói, nói và nói. Trong kỳ họp Quốc hội đang diễn ra, ông Đỗ Văn
Đương, ĐBQH phải thốt lên: “Tôi thấy báo cáo của Chính phủ rất sơ
sài, không phân tích được nguyên nhân, cũng không thấy rõ ràng giải
pháp. Trong một trang mà tôi đếm có tới 23 lần các từ “đẩy mạnh, tăng
cường, tích cực”. Ta hô hào rất nhiều mà giải pháp cụ thể không được bao nhiêu”. (Tuổi trẻ, 23/5/2013)
Tại
sao các cải cách cấu trúc rất cần thiết cho tương lai dài hạn của nền
kinh tế mãi bị trì hoãn? Rất nhiều người đã chỉ ra nguồn gốc của nó là
do các nhóm lợi ích muốn duy trì hiện trạng (status quo), chống lại sự
thay đổi và tầng lớp lãnh đạo thiếu đi quyết tâm chính trị để cải cách
hoặc còn tệ hơn là chính họ cũng nằm trong các nhóm lợi ích chống lại sự
thay đổi.
Bộ
máy lãnh đạo chóp bu của đất nước (Ban chấp hành TW Đảng) hiện nay đã
cho thấy họ không thực lòng, không đủ tầm trí tuệ và cũng không có khả
năng thực hiện những cải cách mạnh mẽ và cần thiết để đưa đất nước trở
lại đường ray tăng trưởng nhanh và bền vững. Đa số họ hiện nay
toan tính về quyền lợi cá nhân và phe nhóm nhiều hơn là các vấn đề cấp
bách và sát sườn của đất nước. Các cuộc hội nghị của Ban chấp hành TW
gần đây diễn ra trong tình hình đất nước suy thoái trầm trọng cả về kinh
tế, văn hóa, xã hội nhưng lại không tập trung vào việc tìm ra giải pháp
cho những vấn đề đó mà lại chỉ tập trung nhiều nhất vào vấn đề bầu bán
nhân sự, mà nằm đằng sau đó là đấu đá vì lợi ích phe nhóm.
Không có
chính sách đột phá nào được đưa ra. Sửa đổi Hiến pháp (phải được Ban
chấp hành TW thông qua trước) được quảng cáo rầm rộ, tốn kém, nhưng cuối
cùng chủ yếu chỉ là sửa câu chữ, nhiều vấn đề còn đi thụt lùi về mặt tư
duy (như điều 70 trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi bắt quân đội phải thề
trung thành với Đảng). Những người có trách nhiệm chính trong việc gây
ra tình trạng suy thoái nặng nề hiện nay, cụ thể là thủ tướng Dũng,
không hề bị trừng phạt mà lại càng được củng cố vị thế chính trị sau Hội
nghị TW 7… Những biện pháp được đưa ra để đối phó với tham nhũng và suy
thoái kinh tế lại mang tính bảo thủ, đi ngược với thời đại và cầm chắc
là thất bại.
Chỉ cần nhìn người đứng đầu, ông
TBT Trọng, là cũng có thể đánh giá được phần nào về chất lượng trí tuệ
và bản lĩnh của Ban chấp hành TW hiện nay. Ông
cũng bức xúc về tình hình đất nước nhưng những biện pháp ông đưa ra chủ
yếu là những công cụ của quá khứ dựa chủ yếu vào niềm tin giống tín
ngưỡng tôn giáo với mục đích: “có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, …theo phương châm “trị bệnh cứu người”, giúp nhau cùng tiến bộ” (QĐND, 15/10/2012)
thì làm sao có thể đối đầu được với những “bầy sâu” tham nhũng đầy mưu
mô nham hiểm (theo lời của ông chủ tịch nước) đang nhung nhúc trên khắp
đất nước này?
Về việc sửa đổi Hiến pháp, TBT Trọng nói: “Lần này chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao”. (Pháp luật Tp.HCM, 3/5/2013). Theo cách tư duy này thì đừng mong đất nước có được một Hiến pháp hiện đại, dân chủ, phù hợp với thời đại.
Đã gọi là chính trị mà cái gì cũng mong có sự “thống nhất cao” thì chỉ
là ảo tưởng, đi ngược lại bản chất con người là luôn đa dạng trong ý
kiến và sẽ không bao giờ dám quyết đoán đưa những giải pháp đột phá cho
đất nước được. Rõ ràng TBT Trọng và các
đồng sự trong Ban Chấp hành TW sẵn sàng hi sinh tương lai của đất nước
để giữ được sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ đảng của mình.
Tóm lại, như đã nói ở bài trước, tác giả cho rằng ngược với câu khẩu hiệu nổi tiếng của TBT Trường Chinh: “Đổi mới hay là chết” thì câu khẩu hiệu của TBT Trọng và TW hiện nay là: “Thà chết (dân) chứ (nhất định) không đổi mới”, “Thà mất nước chứ không đánh mất chế độ”.
Sau khi đã mất niềm tin ở Ban
chấp hành TW thì một số người kỳ vọng nhiều vào kỳ họp Quốc hội lần này
với việc lần đầu tiên có việc bỏ phiếu tín nhiệm cho 49 người được Quốc
hội bầu. Bản thân có đại biểu Quốc hội cho rằng việc chạy phiếu rất khó
vì có 500 đại biểu từ nhiều vùng khác nhau[2]. Tuy nhiên, vấn đề là ở
chỗ có 500 đại biểu nhưng đại đa số đều có chung một nguồn gốc: Đảng
Cộng sản (hơn 91%)![3]. Ở đây, tác giả chỉ xét riêng về trường hợp liệu
Quốc hội có bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp cho thủ tướng Dũng hay không?
Tác giả có khảo sát thử danh
sách đại biểu Quốc hội của 15 tỉnh và 2 thành phố Hà Nội và TP.Hồ Chí
Minh thì thấy số đại biểu giữ các chức vụ trung, cao cấp trong Đảng như:
phó bí thư tỉnh ủy, thường vụ tỉnh ủy, tỉnh ủy viên, ủy viên TW, ủy
viên BCT, phó bí thư đảng ủy khối… hoặc tệ nhất thì cũng nằm trong huyện
ủy… thường rất cao, địa phương nào cũng phải ở mức 2/3 trở lên. Cụ thể,
trong 111 ĐBQH của 15 tỉnh thì số này chiếm khoảng 71 người, trong đó
có 18 ủy viên TW, 4 ủy viên Bộ Chính trị. Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh mỗi
địa phương có 30 ĐBQH, tổng cộng là 60 người thì trong đó số đại biểu là
đảng viên cỡ trung, cao cấp trở lên là 40, trong đó có 3 ủy viên TW, 3
ủy viên Bộ Chính trị. Như vậy, tỷ lệ đảng viên trung, cao cấp trong Quốc
hội chiếm khoảng 65% trở lên.
Chắc chắn, suy nghĩ và cách tư
duy của số đảng viên trung, cao cấp này không khác nhiều với Ban chấp
hành TW và họ cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi quyết định Ban chấp hành TW
thông qua các cuộc họp Đảng, các cuộc phổ biến nghị quyết, các mối quan
hệ cá nhân, các cuộc vận động hành lang… Trong lịch sử Quốc hội những
năm gần đây cũng chưa thấy bao giờ Quốc hội bỏ phiếu trái ý với quyết
định từ Ban chấp hành TW cả dù trước đó có thể thảo luận rất sôi nổi với
nhiều ý kiến trái chiều. Cứ nhìn ví dụ rõ ràng về dự án bauxite là
thấy.
(Trường hợp duy nhất mà Quốc hội có vẻ có ý kiến độc lập và bỏ
phiếu khác với dự kiến là việc không thông qua dự án xây dựng Đường sắt
cao tốc nhưng nên nhớ là TW Đảng chưa cho ý kiến về dự án này).
Như
vậy, khi Hội nghị TW6 và 7 đã không thể kỷ luật được thủ tướng Dũng và
phe nhóm, thậm chí vị thế của ông này hiện nay còn được nâng cao hơn[4]
thì chắc chắn không thể mong các đại biểu Quốc hội lại bỏ phiếu chống
thủ tướng được. Chưa tính tới các cuộc vận động hành lang cộng
với tâm lý cả nể, xuê xoa, đại khái của người Việt Nam, tác giả tin
rằng, tỷ lệ tín nhiệm của thủ tướng sẽ phải từ 70-80% trở lên.
Nếu có thành viên chính phủ nào bị bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp thì có lẽ sẽ là thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Như trong một bài trước của tác giả về thống đốc Bình (Viet-studies, 23/2/2013)
, tác giả cho rằng việc thống đốc Bình đưa NHNN vào cuộc chiến với vàng
như hiện nay là một toan tính sai lầm, thiếu suy nghĩ chín chắn, mang
lại rất nhiều tác hại cho người dân, cho nền kinh tế và có thể làm tiêu
tan sự nghiệp chính trị của thống đốc Bình. NHNN đã đưa ra nhiều lập
luận và dẫn chứng để chứng tỏ cách điều hành thị trường vàng hiện nay là
hợp lý (Vneconomy, 8/5/2013)
.
Tuy nhiên, chỉ xin nói thêm là bất cứ chính sách vĩ mô nào cũng phải
có sự đánh đổi và tất nhiên chính sách về vàng hiện nay của NHNN cũng sẽ
phải có một số kết quả nào đó, vấn đề là liệu cái giá phải trả cho các
“kết quả” đó có quá lớn hay không.
Xin nhắc lại là bản thân các lập luận
của Marx và những người theo ông về ưu thế của nền kinh tế kế hoạch tập
trung so với kinh tế thị trường như: không sử dụng lãng phí các nguồn
lực vì không tạo ra sản phẩm thừa, hướng nguồn lực khan hiếm vào những
ngành sản xuất có ích cho quá trình phát triển, triệt tiêu sự bất công
vì thặng dư của quá trình sản xuất sẽ được đưa vào ngân sách rồi tái
phân phối cho người lao động (giống lập luận của NHNN về việc nguồn thu
từ giá vàng cao sẽ được đưa vào ngân sách rồi được đầu tư trở lại cho
người dân)… đều hết sức hấp dẫn, xác đáng và khó bị bác bỏ về mặt lập
luận. Tuy nhiên, cuối cùng rồi thì mô hình đó cũng thất bại vì nó dựa
trên quá nhiều giả định không tưởng về bản chất con người và đi ngược
lại các qui luật cơ bản của kinh tế thị trường.
Tác giả tin chắc chính
sách quản lý vàng của NHNN hiện nay cũng sẽ không đi ra ngoài sự thất
bại này vì nó dựa trên các công cụ hành chính đi ngược hoàn toàn với thị
trường, với kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới…
Các quốc gia khác cũng đạt được những “kết quả” mà NHNN khoe, thậm chí
còn tốt hơn nhiều nhưng họ không bắt người dân và nền kinh tế phải trả
một cái giá quá cao như NHNN đang làm ở Việt Nam.
Chưa kể, chính sách quản lý vàng
hiện nay đã đưa NHNN vào cuộc tranh cãi bất tận với đa số các chuyên
gia phản đối chính sách này. Người dân cũng bất bình vì khoảng cách giữa
giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế. Dù thống đốc Bình và NHNN có
biện minh thế nào đi chăng nữa về các chỉ số vĩ mô thì logic của người
dân rất đơn giản: không ai muốn mua hàng giá đắt cả. Nếu giá vàng trong
nước cao hơn một cách quá phi lý với giá vàng thế giới thì họ đều nghĩ
họ đang bị bóc lột bởi những chính sách của NHNN.
Họ sẽ không còn tin
những gì mà NHNN hứa hẹn vì chính trước đó thống đốc Bình đã nói giá
vàng trong nước cao hơn thế giới 400.000 đồng/lượng là đã có đầu cơ
nhưng hiện nay có lúc giá chênh lệch tới gần 7 triệu đồng/lượng! Tất cả
những ai có hiểu biết về hoạt động của một ngân hàng trung ương đều biết
rằng một trong những yếu tố then chốt làm nên sự hoạt động thành công
của nó phải là sự khả tín hay nói cách khác là mức độ tin cậy của người
dân vào NHTW. Những tranh cãi qua lại liên miên với các chuyên gia và sự
bất bình của người dân đã làm xói mòn nghiêm trọng uy tín của NHNN và
triệt tiêu niềm tin của người dân với tổ chức này. Chính vì thế tác giả
hoàn toàn đồng ý với TS Phạm Chí Dũng rằng thống đốc Bình phải ra đi (BBC, 14/5/2013) thì NHNN Việt Nam mới phần nào có thể lấy lại niềm tin của người dân.
Tóm
lại, dù các đại biểu Quốc hội hiện nay trong thảo luận có nhiều phát
biểu rất hăng hái và bức xúc về hiện tình của nền kinh tế đến đâu nhưng
với chất lượng thể chế, chất lượng chính sách, chất lượng quan chức như
hiện nay thì tác giả vẫn chưa thấy đâu là lối thoát của nền kinh tế và
tương lai của đất nước còn rất mờ mịt.
……………………………………….
[1] Về nhân sự lãnh đạo, Ban Bí
thư yêu cầu bố trí cán bộ cỡ ủy viên thường vụ tỉnh/thành ủy làm trưởng
ban nội chính. Nơi chưa có điều kiện thì giao vị trí quan trọng này cho
cấp ủy viên thuộc diện được quy hoạch vào thường vụ tỉnh/thành ủy khóa
tới. (Vietnamnet, 5/5/2013).
[2] Ủy viên thường trực Ủy ban
Văn hóa – Giáo dục và Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội, Nguyễn
Thanh Hải nhận định: “Việc cùng lúc tiến hành lấy phiếu đánh giá tín
nhiệm với 49 chức danh quan trọng nhất quả thật sẽ ít nhiều gây áp lực
đối với các đại biểu Quốc hội”. Tuy nhiên, bà Hải tin rằng Quốc hội sẽ
thực hiện công việc này một cách thực chất vì “với một tập thể gần 500
người, đại diện cho mọi vùng miền, mọi thành phần cử tri trong xã hội
thì việc “chạy phiếu” là rất khó. (Kienthuc.net.vn, 21/5/2013)
[3] Quốc hội khóa 13 có 42 người ngoài Đảng trúng cử, chiếm tỷ lệ 8,40% (Dân trí, 3/6/2011)
[4] Thủ tướng Dũng là một nhà
chính trị cực kỳ khôn ngoan và lão luyện, khác hẳn sự gà mờ và non nớt
của TBT Trọng. Hãy nhớ cách thủ tướng xây dựng phe cánh bằng cách thâu
tóm quyền lực kinh tế bằng việc giành quyền bổ nhiệm ban lãnh đạo các
tập đoàn kinh tế, bổ nhiệm cho hàng trăm tướng công an… Thủ tướng Dũng
cũng rất giỏi trong việc xây dựng hình ảnh trước công chúng và lấy lòng
giới lãnh đạo quân đội khi thời gian gần đây liên tục đi thăm các quân
chủng phòng không, không quân hay sang tận Nga để thị sát các tàu ngầm
mà Việt Nam sắp mua. Hiện nay nhiều người có nói rằng nếu có thay thủ
tướng Dũng cũng chả có ai xứng đáng để đưa lên.
Theo tác giả đây cũng
chính là cách để thủ tướng Dũng duy trì quyền lực của mình. Tức là khác
với những người tiền nhiệm như ông Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải đã có ý
thức bồi dưỡng cho những cán bộ kế cận thay thế mình thì thủ tướng Dũng
đã cố tình sử dụng những người có năng lực kém, hay phát ngôn những câu
trời ơi làm người dân thất vọng (như PTT Nhân hay bộ trưởng Thăng là ví
dụ điển hình) để càng làm nổi bật mình và không tạo ra đối thủ chính trị
trong tương lai.
QUÊ CHOA
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0263
Thursday, October 20, 2016
TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN - DƯƠNG DANH DY
NGUYÊN HẠNH * NỮ TÙ NHÂN
Nữ tù nhân "cải tạo" ở Z30D
|
Contributed by: phuochung |
Views: 14.271
Nguyên Hạnh
Đã quá lâu chúng tôi không đi xe hơi đường xa, xe Molotova này do tài xế công an CS lái thả giàn, mặc cho chúng tôi ngồi sau thùng xe lắc lư nghiêng ngả, nhất là khi xe rẽ vào đường rừng vừa dốc vừa nhiều ổ gà, quanh co, khúc khuỷu, xe chạy như lăn lộn, ngoằn ngoèo làm cho chúng tôi ngất ngư, choáng váng.
Xe dừng lại khoảng giữa trưa trong một khoảng sân rộng, hai tên công an đàng trước nhảy ra gọi chúng tôi xuống xe, chuyền nhau những giỏ xách xuống theo. Trời nắng gắt, chúng tôi tìm bóng mát trước một gian nhà lợp tranh dài và cao, ngồi bệt xuống đất, dựa vào nền nhà, trong lúc chờ đợi tên công an trưởng xa chạy đi đâu đó, có lẽ đi báo cho văn phòng trưởng trại biết chúng tôi đã đến.
Đang đưa mắt nhìn quang cảnh chung quanh, một bầu trời rộng lớn bao trùm một doanh trại xa lạ, có nhiều dãy nhà tranh ngang dọc, phên là những thân tre đóng sát vào nhau, bỗng nghe trong nhà có những tiếng gọi khẽ tên mỗi chúng tôi. Giật mình xoay vào nhà chúng tôi thấy qua các khe hở lấp lánh những ánh mắt nhìn ra, không thấy được toàn mặt nên không biết là những ai trong đó. Hình như họ đang giới thiệu chúng tôi với nhau. Một toán công an theo nhau xuống nhận chúng tôi. Bọn công an gay gắt và hỗn xược hơn bên bộ đội. Việc đầu tiên là điểm danh, sau đó là lục soát "hành lý" cá nhân chúng tôi đem theo.
- Các chị bày đồ đạc ra để khám xét!
- Ai cho các chị dùng dao găm? Các chị đem theo để làm gì đây?
- Đó là những con dao rỉ sét chúng tôi lượm được ở hố rác các trại cũ dùng để làm cỏ.
- Không được! Ở đây cấm dùng. Để riêng những đồ bằng nhôm, sắt, tôn, thép ra một bên.
Chúng tôi nhìn một cách tiếc rẻ những đồ đạc bị tịch thu, những đồ đạc nghèo nàn thân thuộc đã theo chúng tôi hơn ba năm qua, đã giúp chúng tôi rất nhiều trong lao động ở năm trại trước.
- Các chị nào có dao, kéo, đồng hồ tự giác bỏ ra hết đây, khi nào chuyển trại chúng tôi sẽ trả lại.
Chúng tôi nghe mà rụng rời, thất vọng. Tại sao lại "chuyển trại" nữa mà không nói là "khi nào về"? Mới đến đây, thật là thân gái dặm trường, chẳng biết những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, sẽ xảy đến ở nơi khỉ ho cò gáy này...
Lại những câu đón tiếp khô khan, dằn mặt thường lệ:
- Các chị đến đây phải tuyệt đối tuân theo nội quy trại, lao động tích cực, không được có những hành động chống đối, trốn trại sẽ có những biện pháp cứng rắn đối với các chị, v.v... và v.v...
Có tiếng mở khóa và tiếng dây xích rổn rảng ở đầu nhà. Họ chỉ cho chúng tôi đến đàng kia để vào nhà bằng một khung cửa hẹp. Trong nhà có hai tầng sạp toàn bằng tre, một lớp chúng tôi nằm ở sàn trên, một lớp nằm ở dưới. Rất đông người, trong số đó, toán nữ sĩ quan Cảnh Sát VNCH đi trước đều ở đây, gặp lại nhau rất mừng rỡ, lăng xăng lo lắng cho chúng tôi. Các chị sắp chỗ cho chúng tôi để đồ đạc sắp ở đầu nằm và treo lủng lẳng trước mặt móc vào phía dưới của sạp trên. Tôi thiếp đi một lúc lâu, khi tỉnh dậy, tôi mơ màng nghe chung quanh nói chuyện lao xao:
- Chị ấy rất yếu, mỗi lần chuyển trại phải di chuyển bằng xe là chị đều bị ngất xỉu.
- Khuấy cho chị ấy một ly nước chanh đi!
Trên đời có những chuyện rất nhỏ, như ly nước chanh chẳng hạn, mà chúng ta nhớ suốt đời, vì đó là một niềm an ủi thân thương trong những ngày hoạn nạn...
Tôi ngồi dậy cùng với các chị, kể cho nhau nghe về trại cũ, trại mới. Bây giờ mới biết là mình đã được chuyển đến một trại giam có phiên hiệu Z30D cạnh ngọn núi Mây Tào thuộc địa phận Hàm Tân.
Trong nhà này chúng tôi còn ở chung với nhiều chị thuộc thành phần khác, những chị nữ dân biểu, công chức cao cấp của VNCH, các chị vượt biên bị bắt, các chị mang tội phản động, có hành động chống đối, âm mưu lật đổ "Chính Quyền Cách Mạng," và cả các nữ cán bộ, đảng viên CS bị khép tội bội phản hoặc thâm lạm của công... Các chị em phản động là những phụ nữ từng làm những việc rất có lý tưởng, thường tiếp tế vào rừng cho anh em kháng chiến sau 1975, mở quán cà phê chiêu gọi thanh niên tham gia hoạt động trong các mật khu.
Về các chị em cán bộ CS thì thật là buồn cười. Họ đã từng là các mẹ, các chị của "chiến sĩ CS," nuôi ăn, che giấu, làm giao liên, trà trộn trong dân, nằm vùng ở thôn quê, ở thành thị. Trước năm 1975 bị VNCH bắt, túng quá phải khai sự thật, chỉ điểm, làm cho các tên CS bị lùng bắt. Nay "giải phóng" thành công, các con, các em biết được nên bắt các mẹ các chị vào tù lãnh án 10 năm, 15 năm.
Sau 1975, có chị được CS chiếu cố, phân công, cho lên xe Jeep VNCH để lại, oai phong lẫm liệt đến tiếp thu các quận, các tiểu khu, nào ngờ khi giở các hồ sơ còn lưu lại của chế độ cũ, thấy những tờ giấy cam kết do các chị ký tên, chứng tỏ các chị đã được chiêu hồi và hứa hẹn sẽ làm việc cho cả hai phía để cung cấp tin tức của CS, thế là các chị lãnh án vào ở chung với chúng tôi. Bây giờ họ đã mở mắt ra để thấy rõ thế nào là CS nên rất quý mến chúng tôi.
Ba năm trước đây, chúng tôi do bộ đội CS quản lý, nhà giam trống trải vì cửa bị gỡ hết, tuy gió lùa, mưa tạt, nhưng chúng tôi được đi lui đi tới trong khuôn viên trại thoải mái hơn, tuy chung quanh trại đều có vòng đai kẽm gai rất kiên cố.
Nay, lần đầu tiên ở trong nhà tù có cửa khóa, thế là kể từ đây chúng tôi chính thức ở trong chế độ giam cầm của công an CS, tù đày thật sự. Vậy mà sau đó, đến kỳ cho viết thư về nhà, tôi có câu: "Đã mấy tháng nay rồi không nhìn thấy trăng sao, mặc dầu bị tù túng nhưng vẫn cố gắng lao động tốt để được mau về.". Thư đó đã bị giữ lại, và tôi bị gọi lên Ban Chỉ Huy nghe xài xể:
- Nhà Nước nuôi các chị như vậy mà các chị gọi là ở tù à? Giữ các chị để các chị học tập trở thành con người tốt, con người mới Xã Hội Chũ Nghĩa để sống cho hợp với nếp sống văn minh, văn hóa mới mà chị cho là ở tù. Cúp thư kỳ này!"
Tất cả ở Z30D này đều quá mới lạ một cách hãi hùng đối với chúng tôi.
Trong trại không có nước, không có giếng, không có bể nước. Tắm giặt đều ở các khu suối thật xa sau giờ lao động trên đường về. Vì vậy, muốn có nước dùng để rửa mặt đánh răng, vệ sinh, chúng tôi phải đi lao động mỗi ngày, xách theo xô để lấy nước về mà dùng. Những ai bệnh hoạn không đi ra ngoài được, mấy chị em khác về chia xẻ cho một phần nhỏ nước. Chúng tôi có một cách tắm ở nhà rất ư là hà tiện, dùng một cái ly thật nhỏ để dội từng giọt.
Số nữ tù nhân "chính trị" chúng tôi ở đây có 64 người chia làm hai đội để sinh hoạt và lao động. Mỗi sáng, đến giờ kẻng đánh, hai đội nữ sắp hàng hai ra bãi ngồi xổm xuống để đội trưởng điểm danh, báo cáo số hiện diện, số người bệnh, rồi nghe gọi tên đội để lần lượt nối đuôi nhau ra khỏi cổng trại, chia đi các phía rừng để lao động.
Bãi tập hợp rộng bao la, anh em tù từ tứ phía đến hội tụ cả hàng ngàn người. Từ trên một chòi canh cao, một tên cán bộ đứng gọi loa tên từng đội. Gió lồng lộng thổi. Cảnh tượng thật bi hùng. Cả một lực lượng đáng kể tụ họp đây kia, trong chốn đọa đày lao khổ này! Nhìn các đội nam thất thểu đi ra cổng, từng hàng đôi rách rưới, áo quần vá chằng và đụp, người đi những đôi dép mòn, kẻ chân không, đội nón rách bươm, hoặc nón vải bạc thếch, hoặc đầu trần, chúng tôi liên tưởng đến các "Cái Bang"!... Những con người đó trước đây đã từng là các cấp chỉ huy ưu tú, các chiến sĩ từng xông pha chiến trận thật anh dũng hào hùng... Họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc, cho quê hương, để đồng bào được sống yên lành trong tự do, no ấm.
Có những người tuổi đã cao, tóc đã bạc muối tiêu, thân thể gầy còm đi thất thểu trong các toán, đôi mắt không còn nét tinh anh!
Về phía chúng tôi, nào có hơn gì! Chắc chắn các anh nhìn chúng tôi cũng có những cảm nghĩ tương tự...
Từ bãi tập họp ra đến bãi lao động phải đi vào rừng sâu, cách nhà giam vài ba cây số. Chúng tôi lại cuốc đất, làm cỏ, đánh vồng trồng khoai, bắp, đậu, mồ hôi nhễ nhại. Chúng tôi lao động giáp ranh với đội nam, do đó lén nghe thì thầm nhiều tin tức mới lạ.
Đặc biệt nhất với chúng tôi là phải tắm suối. Sau giờ lao động, dọn dẹp cuốc xẻng cất vào "nhà lô" để trở về, chúng tôi được dẫn đến một bờ suối để tắm. Đi kèm chúng tôi lúc nào cũng có một nữ quản giáo và một nam cán bộ võ trang. Đến suối, tên võ trang đứng xa hơn, nữ quản giáo đứng trên bờ nhìn xuống chúng tôi để canh giữ. Chúng tôi không được bơi ra xa vì bên kia bờ suối là một gò đất có nhiều bụi cây rậm mà trước đây đã có hai cô trốn trại bơi qua đó, băng vào rừng, nhưng sau đó bị bắt lại.
Lần đầu tiên, cảnh chúng tôi tắm suối thật kinh hãi, không thể tưởng tượng nổi có ngày phải như thế! Toán chị em đã về đây từ trước nhanh nhẹn cởi quần áo để trên bờ đá, trần truồng nhảy xuống thật tự nhiên. Chúng tôi khiếp sợ! Làm sao như vậy được?! Khó quá! Chúng tôi để nguyên quần áo đi xuống nước. Thấy chúng tôi ngần ngại, các chị kêu lên:
- Cởi đại ra đi! Không kịp đâu! Chỉ có mười lăm phút vừa tắm vừa giặt. Lần đầu tụi em cũng như mấy chị, nhưng sau quen đi, không thể làm khác được.
Trời cao trong xanh, những làn mây chiều nhẹ trôi. Suối nước rất đẹp. Có những phiến đá để áo quần. Chúng tôi lúng túng. Thật xấu hổ không chịu được! Phụ nữ VN xưa nay vốn kín đáo, e ấp, thẹn thùng. Thẹn với cả trời, đất, cỏ, cây!...
- Các chị kia nhanh lên, hết giờ rồi, đi về!
Cởi dần ra dưới nước... Ngày đầu tiên tắm và giặt đều không sạch vì chậm chạp quá. Ngày thứ hai thôi đành cởi áo trước để đi xuống nước vậy, nhưng cũng không kịp. Và ngày thứ ba trở đi phải đánh liều, hễ đến suối là phải lo cởi gấp hết, nhảy ùa xuống, vừa tắm vừa giặt gấp rút mới kịp giờ. Chúng tôi có cảm tưởng như một bầy tiên nữ từ trên trời xuống trần gian bị lấy thu mất đôi cánh, như trong thời tiền sử... Thật đáng thương, thật tủi nhục không thể nào chấp nhận được! Càng tệ hại hơn, có đôi khi tắm chưa xong, chợt nhìn lên bờ cao, thấy thấp thoáng người đầu tiên của đám tù nam trên đường về sắp tới.
- Nam, nam! Các chị em la lên.
Thế là nhanh như cắt, chúng tôi nhảy lên bờ vơ vội áo quần để mặc đi về, mặt ai nấy đỏ như gấc.
Đã xong đâu! Trên đường về, đi ngang qua chiếc cầu tre, từ xa đã thấy một toán nam đang tắm dưới cầu, thế là chúng tôi phải ngẩng mặt lên nhìn trời mà đi..
Ôi! Chúng tôi đã đi lui về thời kỳ ăn lông ở lỗ...
Họ đã đối xử với chúng tôi như thế!
Có lần nữ quản giáo bệnh nghỉ, chỉ có tên võ trang đưa đi để canh gác chúng tôi lao động. Khi về đến suối để tắm, tên kia cứ đứng trên bờ cao trân trân nhìn xuống. Làm sao chúng tôi tắm được!
- Anh đi ra xa, đứng vậy làm sao chúng tôi tắm!
- Không! Các chị tắm nhanh lên!
- Thôi chúng tôi không tắm nữa, đi về!
- Có gì đâu mà không tắm? Ngày bữa gì!
- Nhất định chúng tôi không tắm.
- Thế nhỡ các chị trốn đi thì sao?
- Bảo đảm chúng tôi không trốn. Biết đường nào mà trốn?
- Không tin được!
- Đi về! Nhất định phải đi về thôi!
Chúng tôi hăng hái toan bước lên bờ đường. Tên kia nhượng bộ:
- Thôi được rồi, tôi nhìn qua phía kia. Các chị xuống tắm đi!
Tên công an võ trang ngồi xổm xuống nhìn ra phía khác.
Nhỡ anh ta quay lại thì sao?!
Đành phải xuống tắm thật nhanh mà mắt cứ phải coi chừng tên kia quay lại.
Những công việc lao động cực nhọc đến đâu, chúng tôi cũng ráng chịu được, cũng không làm chúng tôi đau khổ, bị chà đạp phẩm giá bằng cách phải đi tắm suối ở Hàm Tân (Z30D).
Thời cuộc đã làm cho chúng tôi là những kẻ sa cơ, gánh chịu vô vàn khổ nhục, nhưng vẫn tin tưởng rằng mọi hoàn cảnh đều sẽ có một lối thoát, nếu ta giữ vững được lòng tin.
Ở mỗi trại tù, mỗi sự hành hạ khác nhau. Và còn biết bao nhiêu mẩu chuyện, giai thoại về những người "Tù Cải Tạo," như những chuyện "Nghìn Lẻ Một Đêm," kể sao cho hết được!
Nguyên Hạnh
Đã quá lâu chúng tôi không đi xe hơi đường xa, xe Molotova này do tài xế công an CS lái thả giàn, mặc cho chúng tôi ngồi sau thùng xe lắc lư nghiêng ngả, nhất là khi xe rẽ vào đường rừng vừa dốc vừa nhiều ổ gà, quanh co, khúc khuỷu, xe chạy như lăn lộn, ngoằn ngoèo làm cho chúng tôi ngất ngư, choáng váng.
Xe dừng lại khoảng giữa trưa trong một khoảng sân rộng, hai tên công an đàng trước nhảy ra gọi chúng tôi xuống xe, chuyền nhau những giỏ xách xuống theo. Trời nắng gắt, chúng tôi tìm bóng mát trước một gian nhà lợp tranh dài và cao, ngồi bệt xuống đất, dựa vào nền nhà, trong lúc chờ đợi tên công an trưởng xa chạy đi đâu đó, có lẽ đi báo cho văn phòng trưởng trại biết chúng tôi đã đến.
Đang đưa mắt nhìn quang cảnh chung quanh, một bầu trời rộng lớn bao trùm một doanh trại xa lạ, có nhiều dãy nhà tranh ngang dọc, phên là những thân tre đóng sát vào nhau, bỗng nghe trong nhà có những tiếng gọi khẽ tên mỗi chúng tôi. Giật mình xoay vào nhà chúng tôi thấy qua các khe hở lấp lánh những ánh mắt nhìn ra, không thấy được toàn mặt nên không biết là những ai trong đó. Hình như họ đang giới thiệu chúng tôi với nhau. Một toán công an theo nhau xuống nhận chúng tôi. Bọn công an gay gắt và hỗn xược hơn bên bộ đội. Việc đầu tiên là điểm danh, sau đó là lục soát "hành lý" cá nhân chúng tôi đem theo.
- Các chị bày đồ đạc ra để khám xét!
- Ai cho các chị dùng dao găm? Các chị đem theo để làm gì đây?
- Đó là những con dao rỉ sét chúng tôi lượm được ở hố rác các trại cũ dùng để làm cỏ.
- Không được! Ở đây cấm dùng. Để riêng những đồ bằng nhôm, sắt, tôn, thép ra một bên.
Chúng tôi nhìn một cách tiếc rẻ những đồ đạc bị tịch thu, những đồ đạc nghèo nàn thân thuộc đã theo chúng tôi hơn ba năm qua, đã giúp chúng tôi rất nhiều trong lao động ở năm trại trước.
- Các chị nào có dao, kéo, đồng hồ tự giác bỏ ra hết đây, khi nào chuyển trại chúng tôi sẽ trả lại.
Chúng tôi nghe mà rụng rời, thất vọng. Tại sao lại "chuyển trại" nữa mà không nói là "khi nào về"? Mới đến đây, thật là thân gái dặm trường, chẳng biết những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, sẽ xảy đến ở nơi khỉ ho cò gáy này...
Lại những câu đón tiếp khô khan, dằn mặt thường lệ:
- Các chị đến đây phải tuyệt đối tuân theo nội quy trại, lao động tích cực, không được có những hành động chống đối, trốn trại sẽ có những biện pháp cứng rắn đối với các chị, v.v... và v.v...
Có tiếng mở khóa và tiếng dây xích rổn rảng ở đầu nhà. Họ chỉ cho chúng tôi đến đàng kia để vào nhà bằng một khung cửa hẹp. Trong nhà có hai tầng sạp toàn bằng tre, một lớp chúng tôi nằm ở sàn trên, một lớp nằm ở dưới. Rất đông người, trong số đó, toán nữ sĩ quan Cảnh Sát VNCH đi trước đều ở đây, gặp lại nhau rất mừng rỡ, lăng xăng lo lắng cho chúng tôi. Các chị sắp chỗ cho chúng tôi để đồ đạc sắp ở đầu nằm và treo lủng lẳng trước mặt móc vào phía dưới của sạp trên. Tôi thiếp đi một lúc lâu, khi tỉnh dậy, tôi mơ màng nghe chung quanh nói chuyện lao xao:
- Chị ấy rất yếu, mỗi lần chuyển trại phải di chuyển bằng xe là chị đều bị ngất xỉu.
- Khuấy cho chị ấy một ly nước chanh đi!
Trên đời có những chuyện rất nhỏ, như ly nước chanh chẳng hạn, mà chúng ta nhớ suốt đời, vì đó là một niềm an ủi thân thương trong những ngày hoạn nạn...
Tôi ngồi dậy cùng với các chị, kể cho nhau nghe về trại cũ, trại mới. Bây giờ mới biết là mình đã được chuyển đến một trại giam có phiên hiệu Z30D cạnh ngọn núi Mây Tào thuộc địa phận Hàm Tân.
Trong nhà này chúng tôi còn ở chung với nhiều chị thuộc thành phần khác, những chị nữ dân biểu, công chức cao cấp của VNCH, các chị vượt biên bị bắt, các chị mang tội phản động, có hành động chống đối, âm mưu lật đổ "Chính Quyền Cách Mạng," và cả các nữ cán bộ, đảng viên CS bị khép tội bội phản hoặc thâm lạm của công... Các chị em phản động là những phụ nữ từng làm những việc rất có lý tưởng, thường tiếp tế vào rừng cho anh em kháng chiến sau 1975, mở quán cà phê chiêu gọi thanh niên tham gia hoạt động trong các mật khu.
Về các chị em cán bộ CS thì thật là buồn cười. Họ đã từng là các mẹ, các chị của "chiến sĩ CS," nuôi ăn, che giấu, làm giao liên, trà trộn trong dân, nằm vùng ở thôn quê, ở thành thị. Trước năm 1975 bị VNCH bắt, túng quá phải khai sự thật, chỉ điểm, làm cho các tên CS bị lùng bắt. Nay "giải phóng" thành công, các con, các em biết được nên bắt các mẹ các chị vào tù lãnh án 10 năm, 15 năm.
Sau 1975, có chị được CS chiếu cố, phân công, cho lên xe Jeep VNCH để lại, oai phong lẫm liệt đến tiếp thu các quận, các tiểu khu, nào ngờ khi giở các hồ sơ còn lưu lại của chế độ cũ, thấy những tờ giấy cam kết do các chị ký tên, chứng tỏ các chị đã được chiêu hồi và hứa hẹn sẽ làm việc cho cả hai phía để cung cấp tin tức của CS, thế là các chị lãnh án vào ở chung với chúng tôi. Bây giờ họ đã mở mắt ra để thấy rõ thế nào là CS nên rất quý mến chúng tôi.
Ba năm trước đây, chúng tôi do bộ đội CS quản lý, nhà giam trống trải vì cửa bị gỡ hết, tuy gió lùa, mưa tạt, nhưng chúng tôi được đi lui đi tới trong khuôn viên trại thoải mái hơn, tuy chung quanh trại đều có vòng đai kẽm gai rất kiên cố.
Nay, lần đầu tiên ở trong nhà tù có cửa khóa, thế là kể từ đây chúng tôi chính thức ở trong chế độ giam cầm của công an CS, tù đày thật sự. Vậy mà sau đó, đến kỳ cho viết thư về nhà, tôi có câu: "Đã mấy tháng nay rồi không nhìn thấy trăng sao, mặc dầu bị tù túng nhưng vẫn cố gắng lao động tốt để được mau về.". Thư đó đã bị giữ lại, và tôi bị gọi lên Ban Chỉ Huy nghe xài xể:
- Nhà Nước nuôi các chị như vậy mà các chị gọi là ở tù à? Giữ các chị để các chị học tập trở thành con người tốt, con người mới Xã Hội Chũ Nghĩa để sống cho hợp với nếp sống văn minh, văn hóa mới mà chị cho là ở tù. Cúp thư kỳ này!"
Tất cả ở Z30D này đều quá mới lạ một cách hãi hùng đối với chúng tôi.
Trong trại không có nước, không có giếng, không có bể nước. Tắm giặt đều ở các khu suối thật xa sau giờ lao động trên đường về. Vì vậy, muốn có nước dùng để rửa mặt đánh răng, vệ sinh, chúng tôi phải đi lao động mỗi ngày, xách theo xô để lấy nước về mà dùng. Những ai bệnh hoạn không đi ra ngoài được, mấy chị em khác về chia xẻ cho một phần nhỏ nước. Chúng tôi có một cách tắm ở nhà rất ư là hà tiện, dùng một cái ly thật nhỏ để dội từng giọt.
Số nữ tù nhân "chính trị" chúng tôi ở đây có 64 người chia làm hai đội để sinh hoạt và lao động. Mỗi sáng, đến giờ kẻng đánh, hai đội nữ sắp hàng hai ra bãi ngồi xổm xuống để đội trưởng điểm danh, báo cáo số hiện diện, số người bệnh, rồi nghe gọi tên đội để lần lượt nối đuôi nhau ra khỏi cổng trại, chia đi các phía rừng để lao động.
Bãi tập hợp rộng bao la, anh em tù từ tứ phía đến hội tụ cả hàng ngàn người. Từ trên một chòi canh cao, một tên cán bộ đứng gọi loa tên từng đội. Gió lồng lộng thổi. Cảnh tượng thật bi hùng. Cả một lực lượng đáng kể tụ họp đây kia, trong chốn đọa đày lao khổ này! Nhìn các đội nam thất thểu đi ra cổng, từng hàng đôi rách rưới, áo quần vá chằng và đụp, người đi những đôi dép mòn, kẻ chân không, đội nón rách bươm, hoặc nón vải bạc thếch, hoặc đầu trần, chúng tôi liên tưởng đến các "Cái Bang"!... Những con người đó trước đây đã từng là các cấp chỉ huy ưu tú, các chiến sĩ từng xông pha chiến trận thật anh dũng hào hùng... Họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc, cho quê hương, để đồng bào được sống yên lành trong tự do, no ấm.
Có những người tuổi đã cao, tóc đã bạc muối tiêu, thân thể gầy còm đi thất thểu trong các toán, đôi mắt không còn nét tinh anh!
Về phía chúng tôi, nào có hơn gì! Chắc chắn các anh nhìn chúng tôi cũng có những cảm nghĩ tương tự...
Từ bãi tập họp ra đến bãi lao động phải đi vào rừng sâu, cách nhà giam vài ba cây số. Chúng tôi lại cuốc đất, làm cỏ, đánh vồng trồng khoai, bắp, đậu, mồ hôi nhễ nhại. Chúng tôi lao động giáp ranh với đội nam, do đó lén nghe thì thầm nhiều tin tức mới lạ.
Đặc biệt nhất với chúng tôi là phải tắm suối. Sau giờ lao động, dọn dẹp cuốc xẻng cất vào "nhà lô" để trở về, chúng tôi được dẫn đến một bờ suối để tắm. Đi kèm chúng tôi lúc nào cũng có một nữ quản giáo và một nam cán bộ võ trang. Đến suối, tên võ trang đứng xa hơn, nữ quản giáo đứng trên bờ nhìn xuống chúng tôi để canh giữ. Chúng tôi không được bơi ra xa vì bên kia bờ suối là một gò đất có nhiều bụi cây rậm mà trước đây đã có hai cô trốn trại bơi qua đó, băng vào rừng, nhưng sau đó bị bắt lại.
Lần đầu tiên, cảnh chúng tôi tắm suối thật kinh hãi, không thể tưởng tượng nổi có ngày phải như thế! Toán chị em đã về đây từ trước nhanh nhẹn cởi quần áo để trên bờ đá, trần truồng nhảy xuống thật tự nhiên. Chúng tôi khiếp sợ! Làm sao như vậy được?! Khó quá! Chúng tôi để nguyên quần áo đi xuống nước. Thấy chúng tôi ngần ngại, các chị kêu lên:
- Cởi đại ra đi! Không kịp đâu! Chỉ có mười lăm phút vừa tắm vừa giặt. Lần đầu tụi em cũng như mấy chị, nhưng sau quen đi, không thể làm khác được.
Trời cao trong xanh, những làn mây chiều nhẹ trôi. Suối nước rất đẹp. Có những phiến đá để áo quần. Chúng tôi lúng túng. Thật xấu hổ không chịu được! Phụ nữ VN xưa nay vốn kín đáo, e ấp, thẹn thùng. Thẹn với cả trời, đất, cỏ, cây!...
- Các chị kia nhanh lên, hết giờ rồi, đi về!
Cởi dần ra dưới nước... Ngày đầu tiên tắm và giặt đều không sạch vì chậm chạp quá. Ngày thứ hai thôi đành cởi áo trước để đi xuống nước vậy, nhưng cũng không kịp. Và ngày thứ ba trở đi phải đánh liều, hễ đến suối là phải lo cởi gấp hết, nhảy ùa xuống, vừa tắm vừa giặt gấp rút mới kịp giờ. Chúng tôi có cảm tưởng như một bầy tiên nữ từ trên trời xuống trần gian bị lấy thu mất đôi cánh, như trong thời tiền sử... Thật đáng thương, thật tủi nhục không thể nào chấp nhận được! Càng tệ hại hơn, có đôi khi tắm chưa xong, chợt nhìn lên bờ cao, thấy thấp thoáng người đầu tiên của đám tù nam trên đường về sắp tới.
- Nam, nam! Các chị em la lên.
Thế là nhanh như cắt, chúng tôi nhảy lên bờ vơ vội áo quần để mặc đi về, mặt ai nấy đỏ như gấc.
Đã xong đâu! Trên đường về, đi ngang qua chiếc cầu tre, từ xa đã thấy một toán nam đang tắm dưới cầu, thế là chúng tôi phải ngẩng mặt lên nhìn trời mà đi..
Ôi! Chúng tôi đã đi lui về thời kỳ ăn lông ở lỗ...
Họ đã đối xử với chúng tôi như thế!
Có lần nữ quản giáo bệnh nghỉ, chỉ có tên võ trang đưa đi để canh gác chúng tôi lao động. Khi về đến suối để tắm, tên kia cứ đứng trên bờ cao trân trân nhìn xuống. Làm sao chúng tôi tắm được!
- Anh đi ra xa, đứng vậy làm sao chúng tôi tắm!
- Không! Các chị tắm nhanh lên!
- Thôi chúng tôi không tắm nữa, đi về!
- Có gì đâu mà không tắm? Ngày bữa gì!
- Nhất định chúng tôi không tắm.
- Thế nhỡ các chị trốn đi thì sao?
- Bảo đảm chúng tôi không trốn. Biết đường nào mà trốn?
- Không tin được!
- Đi về! Nhất định phải đi về thôi!
Chúng tôi hăng hái toan bước lên bờ đường. Tên kia nhượng bộ:
- Thôi được rồi, tôi nhìn qua phía kia. Các chị xuống tắm đi!
Tên công an võ trang ngồi xổm xuống nhìn ra phía khác.
Nhỡ anh ta quay lại thì sao?!
Đành phải xuống tắm thật nhanh mà mắt cứ phải coi chừng tên kia quay lại.
Những công việc lao động cực nhọc đến đâu, chúng tôi cũng ráng chịu được, cũng không làm chúng tôi đau khổ, bị chà đạp phẩm giá bằng cách phải đi tắm suối ở Hàm Tân (Z30D).
Thời cuộc đã làm cho chúng tôi là những kẻ sa cơ, gánh chịu vô vàn khổ nhục, nhưng vẫn tin tưởng rằng mọi hoàn cảnh đều sẽ có một lối thoát, nếu ta giữ vững được lòng tin.
Ở mỗi trại tù, mỗi sự hành hạ khác nhau. Và còn biết bao nhiêu mẩu chuyện, giai thoại về những người "Tù Cải Tạo," như những chuyện "Nghìn Lẻ Một Đêm," kể sao cho hết được!
VÕ KỲ ĐIỀN * VÂN THÂM BẤT XỨ
VÂN THÂM BẤT XỨ
Võ Kỳ Điền
Chiếc BL 1648 phăng phăng rẽ
nước, lao vun vút tới trước như con ngựa điên hung hản bị bịt hai mắt.
Tiếng máy gầm thét lẫn với tiếng sóng vỗ rì rào như vang trong gió nỗi
giận hờn, bực tức. Nó đi mà không còn biết đâu là bến bờ. Bây giờ cả
không gian là một khối nắng chói lòa loang loáng. Trên là trời, dưới là
nước. Trời với nước phản chiếu nhau, trộn lẫn nhau, hắt cái hơi nóng
hừng hực lên ghe. Mọi người đứng ngồi la liệt như đám tàn quân bại trận
thảm thương, mặt mày hốc hác, quần áo nhàu nhò. Tôi nghe đầu óc váng
vất. Cả đêm không ngủ rồi tâm trí căng thẳng từ sáng tới giờ, nỗi thất
vọng khiến toàn thân như tê liệt, mấy bắp thịt hầu như nhão ra. Tôi đưa
mắt nhìn lên phòng lái. Cái phòng vuông vức nhỏ xíu đó đông nghẹt người
chen chúc. Loáng thoáng thấy tài công Hốt, tài công mặt rỗ, Quách Linh
Hoạt, Dân thủy thủ, Hủ Tiếu… cùng một đám thanh niên đầu cổ bờm xờm.
Người thì leo lên mui ngồi ngất ngưởng trên đống hành lý, người nắm lấy
vách cột đứng cheo leo. Mặt mũi ai nấy buồn hiu.
Cái bờ biển vô tình hồi sáng, bây giờ đã mất hút trong tầm mắt. Ghe
không còn chạy dọc theo bờ mà lại đâm thẳng ra khơi. Núi non cây cỏ dần
dần khuất mất trong những đợt sóng. Trời, cái điệu nầy Hốt định bỏ Mã
Lai rồi, chắc ‘giả’ định tìm một bến khác. Bến mới nào đây? Singapore
hay Indonésia? hay Úc? Nghĩ tới những quốc gia mới nầy, lòng tôi đâm e
ngại rụt rè. Có chắc gì những nơi sẽ đến, người ta nhân đạo hơn, mở rộng
vòng tay đón tiếp người tỵ nạn. Rồi sẽ đi nữa, đi nữa… Hình như ở thời
đại kỹ nghệ máy móc nầy, tìm một cõi lòng nhân đạo hơi khó khăn!
Bất thình lình trong lúc không mong không đợi, có một chiếc tàu sắt
sơn toàn màu đen tuyền, từ đâu không biết, vụt đến chạy theo ghe. Chiếc
tàu nầy lớn hơn chiếc BL 1648 chút xíu, trang bị đầy máy móc chi chít
đặc nghẹt trong khoang không một chỗ chen chưn, chạy thiệt nhanh và lướt
sóng thiệt khéo. Chắc là loại tàu kéo hay tàu máy của dàn khoan dầu.
Trong chớp mắt nó cặp sát. Những đợt sóng do nó tạo ra đập mạnh vào thân
ghe, khiến chiếc ghe chòng chành dữ dội. Lá cờ trăng lưỡi liềm với các
sọc đỏ nằm ngang bay phần phật trong gió. Đúng là cờ Mã Lai. Từ trong
khoang một người Mã to lớn chui ra, đưa tay ra ngoắc tài công Hốt ra dấu
bảo theo, sau đó chạy trước dẫn đường. Chiếc BL 1648 như người mù mất
phương hướng, bây giờ tự nhiên có người đến dắt đi, mừng rỡ bám sát.
Trên ghe niềm hy vọng làm tươi tỉnh những gương mặt rám đen héo úa.
Những ánh mắt mệt mõi mắt đầu long lanh nhìn theo chiếc tàu lạ. Trưa
nay gió thiệt to và sóng thiệt cao. Chiếc dẫn đường lướt sóng phăng
phăng, chiếc theo sau rán hết sức để bám sát, tiếng máy gầm rú lên từng
hồi. Có nhiều đợt sóng lớn đánh tạt vào mạn ghe, nước văng tung toé lên
cả chỗ ngồi. Chiếc tàu nầy máy mạnh quá. Biền trưa nay động dữ dội mà
trông nó vẫn vững vàng, hai cái hông bè ra đè trên sóng mà đi. Lâu lâu
người thuyền trưởng Mã ló đầu ra phòng lái, cười cười tỏ dấu thân thiện
rồi đưa tay chỉ về phía trước. Tôi đoán chừng chắc đâu đây có cái đảo
nhỏ dành riêng chứa người tỵ nạn do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, các đài
truyền thanh ngoại quốc thường nói đến. Lạy trời cho đúng là nó. Cái đảo
nhỏ bên bờ Mã Lai… niềm hy vọng của rất nhiều người và của riêng tôi.
Nó là nỗi chờ đợi, trông ngóng ước mơ…
Chừng độ một tiếng đồng hồ sau tôi nhìn thấy một hòn đảo in bóng
xam xám trên nền trời trong vắt. Lại gần hơn, gần hơn nữa… Đảo hiện rõ
trong tầm mắt. Cây cối xanh rì, núi non chớn chở. Thằng Dân thủy thủ
đứng cheo leo trên mui ghe, miệng la chói lói vang dội:
-Bà con ơi đảo dừa, đảo dừa…
Cái thằng thiệt lanh tay lẹ miệng, chưa gì hết mà đã dám đặt tên
cho cái nơi sắp đến, làm như đảo nầy không có cây gì khác. Mà cũng đúng
thiệt. Những ngọn dừa đã hiện rõ dưới bầu trời nắng cháy như những chiếc
dù xanh non. Trên đảo chỉ thấy toàn là dừa. Dừa mọc từ bờ nước trở đi,
cây nầy san sát cây kia, nhiều vô tận mọc tuốt sâu bên trong. Chỗ nào
cũng thấy những thân dừa lớn như cây cột cao vút suông đuột. Người
thuyền trưởng Mã tốt bụng bên chiếc tàu đen đưa tay chỉ vào đảo, rồi
khoát tay từ biệt. Chỉ trong vòng vài phút ngắn ngủi chiếc tàu mất hút
sau những ghềnh đá chập chồng, chênh vênh gie ra một góc biển. Ôi! giữa
những cõi lòng vô tình cũng còn có những trái tim nhơn ái.
Chiếc BL 1648 từ từ tiến sát vô bờ. Bãi cát trắng phau phau. Rừng
dừa xanh ngăn ngắt. Hình như là đảo hoang. Không thấy một làn khói, một
mái nhà, một căn lều nhỏ, một dấu vết gì chứng tỏ có sự sinh hoạt của
con người. Vậy thì cái đảo nầy đâu phải là nơi chứa người tỵ nạn. Tôi
ngơ ngác tự hỏi. Nhưng dầu phải hay không, cũng không quan trọng. Cái
quan trọng nhứt là được đặt chưn xuống đất rồi thủng thẳng tính nữa.
Duyên cũng vừa nghĩ tới ý đó :
-Mình vô một đảo hoang, không có nhà cửa gì hết !
-Có lẽ vậy mà tốt, tạm ở vài ngày rồi tìm cách liên lạc với Hồng
Thập Tự hay Liên Hiệp Quốc, chớ nơi thị tứ đông người thì thế nào cũng
bị rắc rối như hồi sáng. Trên ghe đông người quá, khó xoay trở… Nhắc tới
cảnh buổi sáng tôi vụt nhớ tới hai bạn Chiêu, Hiếu bị bỏ lại trên bờ
đất lạ. Không biết tình trạng bây giờ ra sao? Một cảm giác buồn buồn xót
thương trộn lẫn với một chút lo lắng về cái nơi sắp tới. Vô một đảo
hoang? Lấy gì mà ăn. Số thực phẩm trên ghe chỉ có tám bao gạo, mấy ngàn
lít nước phải chia cho ba trăm năm chục người. Cầm cự được mấy ngày?
Tôi vụt nghĩ tới rừng dừa trước mặt, yên tâm không lo nữa. Nếu hết
gạo thì còn cả muôn triệu cây dừa kia, không lo đói. Nước dừa, cơm dừa,
cổ hủ dừa, cái nào ăn cũng được. Trong truyện Một Ngàn Lẻ Một Đêm có
chuyện anh chàng Sinh Bá lọt vô đảo của bọn người khổng lồ, được cho ăn
dừa mỗi ngày để cho thiệt mập. Sau đó chúng lựa người nào mập nhứt mà ăn
thịt. Hơn nữa gần đây có ông Đạo Dừa từ nhỏ tới lớn sống toàn bằng dừa.
Ông ta sống được thì mình cũng sống được. Biết đâu đắc đạo mấy hồi! Tôi
sẽ xin Tư Trần Hưng Đạo vài cái lưỡi câu, đi câu thêm cá tôm ngoài
biển. Đảo nầy vắng vẻ chắc cá cua sò ốc nhiều.
Bãi cát trắng tinh chưa có một dấu chưn người, chạy dài tạo nên một
cái vịnh hình vòng cung rất đẹp. Bờ cát thoai thoải dốc lài ra tận xa,
thiệt là lý tưởng cho ghe ủi bến. Hốt thong thả từ từ lái đâm thẳng vô.
Trên trời năm ba cánh hải âu chao mình liệng qua liệng lại trước mũi ghe
mà nhìn xuống. Nó nhìn chúng tôi ngạc nhiên, tôi nhìn thấy nó, mừng rỡ.
Anh bạn Quách Linh Hoạt từng nói, đi biển cứ mong gặp được cánh chim,
biết là sắp đến được đất liền. Huống chi là đất liền trước mặt. Tôi sắp
được bước chưn lên.
Dưới những tàn dừa im mát tôi sẽ che một cái lều nhỏ lợp bằng những
lá dừa. Vợ chồng con cái sẽ chun vô sống qua ngày để chờ người cứu vớt,
y như ngày xưa, hồi nhỏ chơi trò đám cưới lợp lều bằng lá đủng đỉnh. Bi
sẽ lấy hộp lon sữa bò đi gánh nước nấu cơm, tôi sẽ đi chặt lá dừa để
làm nóc làm buồng nhứt là làm một cái cổng cho đẹp. Duyên vô trong rừng
hái hoa dại để trang hoàng. Tôi còn mong gì hơn…
Nhưng giấc mơ của tôi nửa chừng bị ngưng lại. Khi chiếc ghe sắp
đụng bờ cát dưới những tàn dừa rậm rạp có hai người lính Mã Lai mặc quân
phục rằn ri cầm súng chạy vọt ra dáng điệu hầm hừ. Ở trên ghe nhìn thấy
cả hai nhỏ xíu như đứa con nít mười tuổi. Họ đưa súng bắn rầm rầm, đạn
bay veo véo. Trời ơi, tụi nó bắn thẳng vào ghe. Nguy quá, mọi người sợ
hãi, nằm rạp xuống sàn. Tôi vừa run, vừa lầm bầm “cái xứ gì dã man mọi
rợ! Hồi sáng đánh người, bắt người chưa đủ, bây giờ lại bắn trực xạ như
vậy” Sau một loạt đạn, cả hai quơ tay quơ chưn la lối đuổi ghe ra. Hốt
do dự, ngừng lại. Trên bờ, họ chuẩn bị nạp hai băng đạn mới. Hốt liền
cho ghe quay mũi, nổ máy lớn chạy đi luôn. Cũng may, loạt đạn đầu chúng
chỉ bắn dọa, đạn bay cao trên đầu nên không ai bị thương. Tuy vậy mọi
người đều bị một vết thương trong lòng. Vết thương buổi sáng chưa kịp
hàn miệng thì bây giờ lại bị rách toang thêm. Ôi, đáng thương cho cái
kíếp ăn đậu ở nhờ, bị người xua đuổi tàn tệ không nương tay. Tôi vừa
buồn vừa tủi. Khi không bỏ nhà êm cửa ấm ra đi chầu chực xin xỏ nơi đất
lạ quê người để bị đuổi xô hất hủi. Tại ai? Tại ai mà chúng tôi biến
thành những kẻ đi ăn mày tình thương của kẻ khác, lang thang tận góc
biển chưn trời như vầy. Không ngờ trong đời tôi lại lâm cảnh éo le, lở
khóc lở cười. Chắc Hốt cũng cùng chung một tâm trạng nên tôi nghe trong
tiếng máy ghe nổ ầm ầm rền vang kia có pha lẫn nỗi tức tưởi nghẹn ngào.
Lại một lần nữa, chiếc ghe bỏ thêm một bến lạ mà đi…
Ghe tăng vận tốc đổi hướng vòng lên phía trên đảo. Cây cối cảnh vật
chạy ngược về sau. Vừa qua một vịnh biển hình cánh cung cách đó chừng
vài cây số có một cầu tàu thiệt lớn, được cất gie chồm ra ngoài bờ nước
xa. Cầu xây bằng thép sơn màu xanh đậm, nguy nga đồ sộ. Bên cạnh cầu,
một chiếc tàu sắt, lườn đen, thành sơn màu trắng toát. Nó lớn như một
toà nhà năm sáu từng cao. Cái ống khói lớn như cây cột vĩ đại, sơn hàng
chữ MING KONG theo chiều dọc từ trên xuống dưới, cùng lá cờ Singapore
bay phần phật trong gió. Trên chiếc boong cao vút có mái che, sáu bảy
người thủy thủ Trung Hoa quần áo màu mè, tóc đen dài phủ ót, cùng một
người thuyền trưởng người da trắng to lớn, râu ria bó càm, đứng vịn lan
can tò mò nhìn xuống đám người tỵ nạn đang chen chúc dưới ghe. Thấy họ
thảnh thơi mà tủi thân. Cái ghe nhỏ như vầy chứa trên ba trăm người, còn
cái tàu kia, nó lớn hơn gấp mấy chục lần, vậy mà chỉ chứa có mấy người
trên đó. Họ tha hồ tắm rửa, ăn uống đi tới đi lui. Chiếc tàu nầy bên
trong ít ra cũng có năm bảy từng, chắc có quầy rượu, sàn nhảy đầm, sân
đá banh, hồ tắm… Nhìn mấy bộ bàn ghế bằng mây lớn để dọc theo lan can
tàu thì biết. Y như hình chụp trong các quán rượu sang trọng… bên Tây!
Tôi nghe chưn cẳng tê rần, mấy ngón ngo ngoe hết được, ngồi quá lâu bị
vọp bẻ mất hết cảm giác. Đã ba ngày, ba đêm chịu cảnh bó gối như vậy,
tôi thèm một khoảng trống chỉ cần đủ để ngã cái lưng ra một chút, một
chút xíu thôi. Chắc ở trên đó, mấy người thủy thủ, mỗi người có giường
nệm khăn lót trắng bong, có bồn rửa mặt, có tủ lạnh chứa đồ ăn, có ti vi
để coi mỗi tối. Phải chi mình được lên, không cần nhiều, chỉ xin một
chỗ nào đó cũng được, ngã đại cái lưng xuống sàn, nằm dài ển ngược xương
sống, thẳng chưn ra một cái, nhắm mắt lim dim sảng khoái. Trời ơi! chắc
là đã lắm! Bất cứ chỗ nào cũng được mà, từ đầu mũi tới cuối lái rộng
thinh thinh.
Hốt cho ghe cặp sát vào hông tàu. Chiếc tàu cũng cón khá mới. Vách
cao dựng ngược như vách thành sừng sững, những đốm rỉ sét ăn loang vàng
ẻo. Ở các mối hàn, sơn tróc nhiều mảng lớn. Tàu chừng như đã hết hàng
hóa nên đáy nổi lên cao. Nó lớn quá, nước trưa nay dâng cao sóng vỗ ầm
ầm, nó vẫn im lìm thong dong, không lay động. Trong khi đó, chiếc BL
1648 nhồi lên hụp xuống muốn chóng mặt. Nhựt Bổn từ trong khoang ghe mò
ra đứng trước mũi, ngước cái đầu sói lên tàu, dùng tiếng Trung Hoa để
liên lạc. Ông thuyền trưởng dùng tiếng quan thoại nói khá sỏi và rành
mạch. Hai bên hiểu nhau dễ dàng. Đại khái ông nói luật hàng hải không
cho phép vớt người trên ghe còn tốt và đang ở trong hải phận Mã Lai. Ông
chỉ có thể giúp đỡ bằng cách cung cấp nước, dầu cùng thực phẩm… Cuối
cùng ông chỉ cho Nhựt Bổn vị trí đảo Bidong có trại tỵ nạn lớn lắm, từ
đây đi chừng chín hải lý theo hướng ba trăm mười độ thì thấy. Từ dưới
nhìn lên, thấy ông ta nói hàm râu bạc rậm rì bó quanh càm rung rung,
cánh tay quơ quơ, tôi có cảm tưởng là một linh mục Tây Phương đang giảng
đạo, tụi tôi là những con chiên ngoan.
-Cứ đi đi sẽ gặp Pulau Bidong dễ dàng. Ở đây tụi lính Mã Lai thấy bất tiện lắm. Có gì cần thêm thì tôi sẽ giúp cho…
Đứng cạnh ông mấy người thủy thủ quăng xuống ghe vài bịch thuốc lá, bánh ngọt, chocolat, kẹo…
Ôi! Thêm những cõi lòng nhơn ái. Nếu mọi người trên cõi đời nầy đối
đãi nhau lịch sự như vậy thì quả đất nầy thiệt là thiên đường.
Tôi rán lắng tai nghe, hiểu được lỏm bỏm. Mừng quá! Pulau Bidong
hải đảo nhiệt đới, Pulau Bidong miền đất lạ, nơi ước mơ của ngưởi tỵ nạn
bơ vơ. Nó ở gần đâu đây, loanh quanh trong vùng biển nầy. Vài giờ nữa
tôi tôi sẽ đặt chưn lên tới đó, bắt đầu những ngày sống tự do thoải mái ở
vùng đất mới. Tôi sung sướng gọi nho nhỏ Pulau Bidong, Pulau Bidong.
Mấy tiếng nghe thiệt êm ái như ngày nào thủ thỉ tên ai…
Nhựt Bổn sau khi hỏi thăm kỹ lưỡng đường đi nước bước, lom khom vịn
mui ghe chun vô khoang. Thấy cảnh ông ta đầu sói sọi, muôn dặm lặn lội
đến đây hỏi thăm đường người thuyền trưởng lạ, bất giác tôi nhớ bài thơ
cổ. Bài thơ ngắn chỉ có năm chữ bốn câu:
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sư thái dược khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri xứ
Tạm dịch thì như vầy. Dưới gốc tùng hỏi chú tiểu đồng, thầy em đâu?
Thưa rằng, thầy tôi đi hái thuốc trong núi nầy. Không xa lắm, chỉ có
điều mây mù nhiều quá nên không biềt chỗ nào đó thôi. Chỉ tại thử sơn
trung, vân thân bất tri xứ. Mây phủ dầy đặc nên không biết ở nơi đâu?
Ôi! mây nào giăng kín bưng bưng lòng người dân Mã, mây nào mang mang
lòng người tỵ nạn thê lương, mây nào mù mịt thảm sầu quê hương tù ngục?
Chỉ cần vén được mây đen thì thấy được trời trong xanh ngăn ngắt. Nhưng
phài làm sao để mây tan? Đó là dấu hỏi lớn cho một kiếp người.
Sau khi được chỉ dẫn rõ ràng, mọi người trên ghe hy vọng trở lại.
Tài công quay mũi đổi hướng đúng theo lời dặn dò. Máy nổ mạnh khởi hành,
ghe lướt sóng hăng như con ngựa đua. Bỏ lại hòn đảo Dừa, Bỏ lại chiếc
cầu tàu xanh. Bỏ lại chiếc Ming Kong nhàn hạ.
Đó là buổi trưa ngày thứ ba của cuộc hành trình. Đã đi được ba ngày
không ăn, chỉ uống nước cầm hơi, người người bắt đầu thấm mệt. Đã thấy
đói và khát. Tuy uống nước tới đầy bụng nhưng vẫn cảm thấy muốn uống
hoài, uống nữa. Hình như tất cả số lượng nước trong người đều bốc hơi
bay mất. Nắng nhiệt đới nhiệt nóng bức và chói chang. Không có gì để che
bớt nắng. Cũng may nhờ có gió biển nên cũng còn thở được. Hy vọng gặp
được Bidong làm người ta quên mệt mõi. Chín hải lý. Khoảng cách đâu có
xa. Với sức máy của ghe chỉ cần hai tiếng đồng hồ là nhiều lắm. Trời
thiệt sáng và trong. Hốt vẫn cầm lái. Quách Linh Hoạt đứng trên mui.
nhìn bằng ống dòm chăm chăm, thỉnh thoảng quay hết chỗ nầy tới chỗ kia,.
Anh nhìn thẳng, nhìn ngang, nhìn xiên, nhìn xéo. Cái mặt bị nắng ăn đen
thui. Tôi hồi hộp theo dõi từng cử chỉ, thái độ của anh. Chỉ cần anh
đưa tay chỉ về phía trước là tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi nghĩ thầm trong
bụng, chắc trời thương nên mới gặp người tốt chỉ dẫn, tìm kiếm như vầy
thì con kiến cũng thấy nói gì cái đảo lớn chần dần…
Nhưng mà ở đời, có những chuyện tưởng vậy mà không phải vậy. Cái gì
cũng phải trả đúng với giá của nó. Ngay cả sự tự do… Ghe đã đi nhiều
hải lý, giờ giấc cũng từ từ qua. Những tia mặt trời không còn từ trên
cao đâm xỉa thẳng xuống mà bây giờ đã chiếu chênh chếch. Đảo Bidong nằm ở
chỗ nào, không ai thấy hết. Mặc cho Quách Linh Hoạt đưa ống dòm nhìn
khắp tám hướng, nó vẫn biệt tăm mù mù. Xa chín hải lý. Hướng ba trăm
mười độ. Sao không thấy gì hết! Hổng lẽ ông thuyền trưởng nói gạt. Mà
ổng gạt làm chi. Hay là Hốt coi hải bàn tính sai tọa độ? Cũng không lẽ
nào. Từ Việt Nam qua Mã Lai anh ta lái còn đúng được, nói chi đoạn đường
còn có bấy nhiêu. Nhưng mà sao giờ nầy vẫn chưa thấy tăm hơi Bidong đâu
hết. Tại sao kỳ vậy? Tôi hơi sốt ruột. Nếu không khéo chỉ còn vài giờ
ngắn ngủi nữa thôi, mặt trời lặn mất thì nguy lắm. Đêm đen mịt mùng sẽ
phủ kín vạn vật. Bóng tối đồng nghĩa với tối tăm, ảm đạm, bất trắc, nguy
hiểm. Lại phải thêm một ngày sóng gió lênh đênh nữa. Hình như nước biển
buổi chiều dâng cao hơn hồi trưa nhiều lắm. Sóng trở nên hung hãn. Từng
đợt dâng lên thiệt cao rồi rút xuống thiệt nhanh. Chiếc ghe cứ chạy
phăng phăng, trồi hụp theo đợt sóng. Mọi người đâm ra im lặng. Chắc cùng
chung một tâm trạng lo lắng sợ sệt. Có cái gì bất thường. Tất cả đều
mệt mõi quá rồi. Từ sáng sớm tới giờ chạy tới chạy lui ở bờ biển nầy
cũng không đi tới đâu.
Trong làn sóng dữ dội, chiếc ghe nhỏ mong manh trồi lên hụp xuống
bất ngờ một tiếng va chạm mạnh ở lườn ghe. Ầm! Chiếc ghe đương lướt ngon
trớn bỗng khựng lại. Tôi cảm thấy dưới lườn có cụt đá cứng nâng chiếc
ghe lên. Hồn vía tôi bay bổng. Chết rồi! ghe đụng đá ngầm. Nhìn ra xa
một chút, nhiều tảng đá lớn bằng cái nhà mấp mô trên mặt nước đầy sóng
bạc trắng xoá. Nhiều quá, chi chít đó đây. Đá màu gan gà, nâu tím, xám
đen, nằm lắp xắp trên mặt nước như một bãi mìn. Xung quanh, rải rác,
thấy sóng bạc đầu trắng xoá chứng tỏ chỗ nầy có bãi rạn. Hốt mải mê tìm
kiếm Bidong ở trên trời mà quên nhìn xuống phía dười nước. Chỗ nầy nước
không còn xanh thẩm nữa mà xanh lợt lợt. Đáy biển cạn quá! Sau cái đụng
long trời lở đất đó, tiếng máy ghe lại nổ không bình thường. Tôi rán
lắng nghe. Một thứ tiếng gì trào trạo, lột xột, trục trặc như có những
mảnh sắt vụn trộn lẫn trong các trục bánh xe đang quay. Thỉnh thoảng máy
gầm gừ, khục khặc, như người bịnh lên cơn suyễn. Từ hầm máy bốc lên mùi
dầu dư hôi rình khét lẹt. Tôi sợ quá nhìn lên phòng lái để kiếm Hốt,
thấy mặt chị Thuần, chị Điệp xám ngoét. Tư Trần Hưng Đạo, Út Trung, Dân
gì đó ngồi co ro, hai mắt mở to thao láo. Không ai nói với ai tiếng nào.
Một nỗi im lặng kinh hoàng, hầu như không ai dám thở mạnh nữa. Bi thì
mệt lã nằm thiêm thiếp trên tay Duyên. Tôi nhìn kỹ mặt Duyên. Nàng sợ
quá, khuôn mặt xác sơ, không còn một chút sinh khí.
Tôi nghĩ đến cảnh ghe bị đụng đá ngầm. Sức va chạm mạnh quá, lườn
ghe bung ra bể thành lổ hổng lớn. Nước bên ngoài ùa vào, sóng vỗ tới tấp
ghe lắc qua lắc lại chừng vài lần là chìm lĩm. Phải làm sao đây, tôi và
Duyên đều không biết lội. Mà dầu cho biềt lội cũng không ăn thua gì.
Biển cả lại bao la. Bi còn quá nhỏ. Viễn ảnh nguy vong khiến tôi muốn
nghẹt thở. Trong phút chốc nỗi hối hận tràn ứ. Trời ơi! đoạn đường nguy
hiểm chết sống, tại sao lại đem vợ con theo. Trên ghe lại có biết bao
nhiêu anh em ruột thịt, bạn bè thân tình. Thương nhứt là Bi mới có mười
chín tháng, chưa tội tình gì mà phải chấp nhận gian lao. Ôi! nếu có bề
gì thì sao? Tôi ruột rối như tơ vò. Trong cái im lặng hãi hùng đó, từ
trong khoang ghe có tiếng đọc kinh rì rầm. Đủ giọng Nam, giọng Bắc,
nhiều nhứt là giọng mấy bà già Tàu lơ lớ. Tôi vụt tỉnh người. Tại sao
mình không cầu nguyện như họ. Nghĩ xong tôi ngồi im cầu nguyện Phật Bà
cứu độ. Trong lúc quính quáng sợ hãi, tôi cũng không biết phải cầu
nguyện ra sao nữa. Tuy rằng nhà tôi theo đạo Phật, ba má tôi thường đi
chùa nhưng thiệt tình mà nói tôi chở ông bà tới nơi, xong rồi đi chơi,
tới giờ lại rước về. Tôi hầu như ít khi bước vào trong một chốn tôn
nghiêm, dù là chùa hay nhà thờ, thánh thất. Có lẽ tôi sợ chốn tôn nghiêm
vì xét kỹ bản thân thấy còn nhiều trần tục. Bước vào đó sợ làm ô uế cửa
thiền chăng? Cho đến giờ phút nầy kề cận cái chết tôi vụt nghĩ đến cái
phao thiêng liêng. Tôi bèn quên hết mọi chuyện, mặc cho tiếng sóng gào
thét quay cuồng, mặc cho tiếng máy khục khặc, mặc cho cái ghe trôi nổi
lắc lư, mặc cho những cục đá trơ vơ trồi lên giữa biển, tôi nghĩ tới
bóng dáng Phật Bà Quan Âm mặt mày hiền từ nhân hậu đẹp đẽ, đứng trên
những hoa sen giữa biển khơi cầm cành dương rảy nước cam lồ để cứu vớt
chúng sinh. Tôi nhắm mắt lại nghĩ trong đầu những chữ… Nam Mô cứu khổ,
cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Không biết tôi cầu nguyện như vậy có đúng
không .. Nam Mô cứu khổ, cứu nạn…
Trong lúc tôi đang lâm râm cầu nguyện thì mũi ngửi thấy mùi khói
nồng. Ai đó đã đốt giấy tiền vàng bạc để cúng. Đã cầu nguyện khấn vái
rồi mà lại đốt thêm ba cái vụ nầy. Rủi cháy ghe thì sao? Bây giờ mấy bà
già Tàu đọc kinh ê a thật lớn, không còn e dè gì nữa. Họ đọc líu lo,
nhịp nhàng. Chắc là nước sắp tràn vô tới nơi rồi. Tôi còn quá trẻ. Duyên
trẻ hơn và Bi còn nhỏ xíu. Cả đời tôi chưa hề làm một điều gì xấu xa để
phải ân hận, lẽ nào trời đất không thương. Tôi đã sợ mà những người
xung quanh lại làm cho tôi sợ hơn. Tôi quýnh quá nghĩ tới Trời Phật,
Thánh Thần, Ông Bà Tổ Tiên, Thổ Địa, Hà Bá, Long Vương, ma quỷ… những vị
khuất mày khuất mặt, ước mong một vị nào đó động lòng nhơn từ dắt chiếc
ghe nầy tới chỗ yên ổn.
Trong cái nỗi sợ hãi tràn ngập đó tôi vụt trở nên tin tưởng. Không
tôi không thể chết trong chuyến vượt biên nầy. Tôi mở mắt ra, xoè bàn
tay mặt rồi bàn tay trái. Trong lòng bàn tay hai đường chỉ sanh đạo hiện
rõ nét dài ngoằn chạy sóng đôi, một đậm một lợt không gián đoạn. Đường
sanh mạng đôi tốt quá, làm sao có thể chết vào tuổi nầy được. Không tôi
không thể chết! Lời cụ Diễn năm nào, bây giờ lại văng vẳng bên tai… “
Đời ông có những lúc khó khăn, nhưng chuyện gì rồi cũng vượt qua. Không
phải do tài sức ông đâu, cứ bình thản đừng sợ hãi, tự nhiên khó khăn sẽ
tan.”
Lạy trời cho khoa chỉ tay đúng, lạy trời cho lời cụ Diễn đừng sai.
Tôi sợ quá thành ra đâm bám víu điều gì có thể bám víu được để hy vọng.
Đến khi tôi mở mắt ra thì Hốt đã cho ngừng ghe lại. Dân và Cường nhảy
xuống nước để coi lại chưn vịt cùng đáy ghe. Tôi nhìn lên mặt anh ta để
đoán coi anh có hốt hoảng hay không. Cái mặt nắng cháy đen thui, khó
đoán quá. Anh ít nói, ít cười, suốt ngày lầm lỳ. Tôi chờ nghe tiếng nước
chảy rịn, cái va chạm quá lớn, thế nào lườn ghe cũng bị nứt. Nhưng may
quá, đáy ghe chỉ bị trầy sơ. Hốt đứng nhìn xuống nước hồi lâu rồi quay
trở về phòng lái. Tiếng máy ghe đã nổ lại nhịp bình thường, ghe quay mũi
rồi trở về hướng cũ. Vùng đá ngầm càng lúc càng xa. Lườn ghe chưa nứt
nên nước chưa vô được trong khoang hầm. Tôi bình tâm lại nhìn xuống
nước. Nước biển đã xanh thẩm. Chỗ nầy biển sâu lắm rồi, không sợ mắc cạn
nữa đâu. Tạm thời yên tâm về mặt an toàn nhưng ghe lại trở về chốn cũ.
Trời! trở về chỗ hồi sáng nơi Chiêu và Hiếu bị đánh hay là về cái đảo
Dừa có bọn lính hung hãn? Chiếc BL 1648 hiện đang ở cảnh tiến thoái
lưỡng nan, đi tới thì e lạc đường, đảo Bidong ở đâu không thấy, về thì
không có chỗ dung thân. Làm sao bây giờ. Tình cảnh của chúng tôi bây giờ
lâm vào ngõ bí. Đi thì cũng dở, ở không xong.
Chèo ghe xuống biển bắt cua
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi
Trời càng lúc càng tối. Lác đác trên bầu trời đã có sao mọc. Cuối
cùng thì ghe cũng phải trở về hòn đảo Dừa ban trưa, đậu cặp cầu tàu. Bên
trong đảo thấv có nhà, đèn điện sáng, ý định của tài công là đậu tạm để
ngủ qua đêm, ngày mai sẽ khởi hành đi Singapore sớm. Mã Lai xấu quá,
không thể chơi được nữa rồi. Ghe tắt máy. Sóng đánh rập rình, nó lắc lư
mạnh hơn khi còn máy nổ. Tôi nhủ thầm “thôi kệ, được đậu cặp bến nầy dầu
sao cũng đỡ, có gì còn bám víu lội đại vô bờ, còn hơn chạy lang thang
suốt đêm ngoài khơi” Thừa lúc có người bên cạnh di chuyển, tôi lẹ làng
duỗi thẳng cái chưn ra cho đỡ mõi. Nếu có một người đi nữa thì có thể
nằm xuống được cho đỡ cái lưng. Tôi tưởng tượng nếu mà đêm nay có chỗ để
nằm ngủ thì chắc là sướng như tiên!
Trên cầu tàu, dọc hai bên có những ngọn đèn thật lớn chiếu cái ánh
sáng chấp chóa xuống mặt nước đen loang loáng. Chỗ ghe đậu khá xa nên
trong khoang ghe tối mù mù. Trong cái im lặng mênh mông của biển cả chợt
có tiếng nổ của động cơ một chiếc xuồng máy nhỏ lẫn trong tiếng sóng.
Tiếng động cơ càng lúc càng rõ dần. Trong đảo có người đi ca nô ra liên
lạc. Trời tối mờ mờ nên không nhìn rõ. Chiếc ca nô nổ máy inh ỏi trong
đêm khuya, chạy xẹt thật nhanh vòng qua cầu tàu rồi đậu cặp vô ghe. Trên
đó có ba người mặc thường phục nhưng có mang súng. Họ quát tháo um sùm
bằng tiếng Anh. Chị Thuần ra liên lạc. Thiệt là chán hết sức. Bây giờ
đậu tạm qua đêm mà cũng không cho! Tôi bực mình nên không thèm để ý nữa.
Cả ngày mệt mõi, tôi dựa lưng vô thùng nước mà nghỉ ngơi. Ngày mai nầy
ghe sẽ đi Tân Gia Ba, lo chi cho nhức đầu. Chỗ tôi ngồi khá xa nơi hai
bên đối đáp. Trên ghe mọi người đứng vây quanh để theo dõi. Bỗng dưng
nghe tiếng quát tháo thật lớn, rồi tiếng người rớt xuống nước. Có người
la lên “Chị Thuần bị tụi nó đánh rớt xuống biển rồi!” Trời ơi! Cái bọn
gì rừng rú quá, đánh luôn cả đàn bà con gái. Trên ghe rối rít Cương và
Dân quăng phao xuống để vớt chị lên. Cũng may chị biết lội giỏi, cả
người ướt như chuột lột, mặt tái xanh. Thái độ mấy người Mã trên đảo hầm
hừ dữ tợn. Sau cùng thì mới biết họ cho phép đổ bộ lên đảo theo lịnh
của họ. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn thắc mắc là cho phép đổ bộ hay là
bắt buộc đổ bộ? Vì tài công đã định là đậu tạm để ngày mai đi sớm, tại
sao bây giờ lại xuống đảo Dừa? Có thể là sự hiểu lầm giữa hai bên vì
ngôn ngữ bất đồng. Thôi vậy cũng được còn hơn là suốt đêm ngồi trên ghe
lắc lư nguy hểm. Tôi đã ngán cái cảnh sóng dập gíó dồi, nếu tiếp tục đêm
nay rồi ngày mai nữa… rồi có đi tới Singapore hay Indonésia không? Như
cái bong bóng xì hơi, tôi mệt mõi quá rồi, đã mấy ngày đêm ngồi bó gối,
phơi mình ngoài nắng gió, không cục cựa nhúc nhích, tiêu tiểu gì cũng
khó khăn hôi hám… Lên bờ đã, rồi sẽ tính sau, miễn là còn sống, đừng bị
sứt mẻ gì !
Mọi người chuẩn bị đồ đạc để đổ bộ trong cảnh tối đen. Trong lúc nửa mừng nửa lo có tiếng của bọn lính Mã hét vang rân:
-Đàn bà con nít thì đi lên ngả cầu tàu. Còn đàn ông con trai chỉ được mặc quần xà lỏn nhảy xuống biển để lội vô bờ!
Trời! nhảy xuống biển để lội vô bờ! Tôi điếng người không biết phải
phản ứng ra sao, từ đây vô bờ còn xa quá, không biết lội có nổi không?
Đã có tiếng người nhảy xuống đùng đùng ở mũi ghe, lẫn trong tiếng sóng
có tiếng la hét, quát tháo y như cảnh cai ngục đối xử với tội nhơn. Tiến
ngồi kế bên nghĩ như thế nào không biết, bỗng nói:
-Chết cha rồi, cả cái đảo dừa dầy đặc, nó bắt anh em mình leo lên
hái dừa, hoặc phát cho một người một cái búa lên rừng đốn củi, lao động
khổ sai trong rừng sâu. Cái điệu nầy, chịu sao cho nổi. Trốn Việt Cộng
lại gặp Mã Lai!
Tiến nói tới đâu tôi run tới đó. Tôi quính lên không còn toan tính
gì được nữa. Ở trên ghe, đàn ông con trai đã nhảy xuống biển gần hết.
Tôi lật đật cởi hai cái quần tây đang mặc cùng ba cái áo bỏ đại trên sàn
ghe. Trong bụng kể như mất hết, tụi Mã Lai ăn cướp điệu nầy thì làm sao
mà giấu. Trong số quần áo quăng lại đó có một ít tiền và vàng giấu bên
trong, tôi quên phứt không giao lại cho Duyên.
Trên người chỉ còn cái quần cụt mỏng manh, tôi đi lần ra sau lái để
kiếm chỗ nhảy xuống. Ở dưới, nhiều người đang lội lỏm bỏm vô bờ. Tiếng
nhảy đùng đùng, tiếng lội lỏm bỏm, tiếng sóng rào rào, tạo thành một thứ
âm thanh hồi hộp căng thẳng. Thấy có một anh bạn cầm phao đứng chờ, tôi
liều gan nhảy đại. Đã quá, đã quá, làn nước mát rượi mơn man da thịt.
Ba ngày ba đêm khổ sở trên ghe, nóng bức dơ dáy, nhớp nhúa, mình mẩy đầy
mồ hôi, mùi ói mửa, bây giờ được dầm mình trong nước biển mát lạnh ban
đêm, sảng khoái tận cùng trong kẻ tóc chưn lông. Tôi tỉnh táo hẳn ra.
Chỗ nầy nước cạn, vừa trầm mình xuống, chưn đã chạm mặt cát mịn, tôi lặn
hụp một hồi lâu để cho nước thấm vô tóc, vô da, rửa bớt đi lớp bụi bặm
mấy ngày qua. Những lớp bụi, bùn sình, cáu ghét Cà Mau bây giờ được nước
biển mặn chát ở đảo Dừa Mã Lai gột sạch. Gột thiệt sạch…
Tôi đi lần vào bờ, có một người lính Mã Lai đen thui tay cầm tiểu
liên xỉa ngay vô bụng. Tôi ngoan ngoản đưa hai tay lên trời, bụng rủa
thầm “Thôi mà bạn, lấy gì thì cứ lấy, cần gì phải súng ống, ghê quá!”
Hắn vuốt hai tay tìm đồng hồ, cà rá, rồi rờ cổ tìm dây chuyền. Không có
gì hết, hắn khoát tay ra dấu bảo lên bờ rồi xét người kế tiếp. Trên bờ,
trong bóng tối tù mù, một đám người đông đảo nói chuyện xì xào di động
như những bóng ma. Lần lần họ ngồi chùm nhum lại với nhau. Trời tối chập
choạng không thể phân biệt người nầy với người kia, Đã độ mười giờ
khuya, trời trong vắt đầy sao. Đằng kia, cầu tàu mở điện sáng trưng. Bên
trong đảo là rừng dừa âm u. Tôi chợt nhớ lại lời nói của Tiến mà ớn
xương sống -nó bắt tụi mình leo dừa hái trái cho nó, rồi phát mỗi người
một cây búa… dừa ở đây mọc hoang hàng muôn triệu cây, phải leo tới chừng
nào mới hái cho hết, thiệt tình tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Rừng Mã Lai
toàn là rừng già, dây leo chằng chịt, lao động làm sao cho nổi?
Trong các bụi rậm, thấp thoáng có lính Mã Lai mặc quân phục rằn ri
thủy quân lục chiến, súng ống hẵn hòi đứng gác. Một người lính gom các
tàu dừa khô rớt rải rác đó đây lại thành một đống. Chỉ trong vài phút
anh ta đã kéo được mấy chục tàu, nhiều quá. Lá dừa rụng vương vải đầy
khắp. Lá khô gặp lửa bốc cháy phừng phừng. Ánh sáng chập chờn chiếu mờ
mờ một góc đảo. Tụi tôi nhìn ra đựơc mặt nhau. Tô Tỷ, Út Trung, Sơn, Tư
Trần Hưng Đạo… mừng rỡ ríu rít. Sơn cười ngặt nghẽo:
-Thằng lính Mã nó rờ tìm nhẫn với cà rá. Sức mấy mà tìm cho ra, tôi đeo ở ngón chưn!
Trong khi đó Út Trung mặt chầm dầm:
-Gia tài có cái Seiko Five nó lột trụi lũi…
Cả bọn ở trần trùng trục, quần ngắn ướt mem lạnh run, được gần lửa
ấm mừng rỡ vây quanh để sưởi. Năm ba bẹ dừa khô cứng bắt lửa, nổ lách
tách, bắn những cái tàn lửa đỏ hồng văng ra xa. Thỉnh thoảng người lính
kéo vài tàu mới quăng vô thêm. Ngọn lửa bùng lên cao, tro than bay tứ
tung. Những tia lửa vàng của những mảnh than vụn xẹt như pháo bông.
Giống y như mỗi hè cùng học sinh đi cắm trại đốt lửa ở bãi sau Vũng Tàu,
chỉ thiếu cảnh nhảy múa, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng trống bập bùng…
Tôi lo lắng cho mẹ con Bi và mấy đứa em, đưa mắt tìm kiếm chiếc
ghe. Bây giờ thì nó được kéo về đậu cặp bên xà lan lớn sát cầu tàu. Vì ở
khá xa nên không phân biệt được từng người. Tôi rán nhìn để tìm Duyên
bồng con nhỏ. Thấy có một bà bồng con, tưởng là nàng. Nhè đâu sau đó có
tới ba bốn bà khác cũng bồng con, không biết được bà nào là vợ mình! Tư
Trần Hưng Đạo đứng cạnh bên cũng đang ngóng cổ mà nhìn. Phải cả giờ sau
toán đàn bà con nít mới đi tới gặp được toán đàn ông. Duyên gặp được
tôi, mừng rỡ nói huyên thiên. Tôi bồng lấy Bi, thằng nhỏ ngơ ngác ngó vô
lửa sáng coi bộ thích chí. Hai con mắt láo liêng như mắt thỏ. Duyên đưa
cho tôi hai cái áo và cái túi vật dụng tùy thân. Cứ tưởng đã mất hết,
nào ngờ nàng còn giữ được…
Quang cảnh bờ biển lúc nầy như đêm đốt lửa trại. Ở giữa là đống lửa
thiệt lớn cháy bập bùng, ngọn lửa hồng ấm áp. Xung quanh là đàn ông,
đàn bà, con nít, ríu rít, quây quần, líu lo, mừng rỡ, đông nghẹt cả một
vùng. Người ta kể lể, hỏi thăm, chạy kiếm nhau. Tôi gặp được lần lần các
em và người thân đông đủ, không thiếu một ai, mừng quá. Cả ghe đổ bộ,
tất cả đều an toàn. Tôi nhìn ra biển khơi, trời tối mịt. Trên bầu trời
thăm thẳm, những vì sao dầy đặc trên cao lấp lánh. Chắc trên đó có Phật
Bà Quan Âm nhìn xuống chúng tôi mỉm cười. Nụ cười thương yêu. Tự nhiên
tôi cảm thấy có cái gì linh thiêng mầu nhiệm gắn bó giữa con người với
con người, con người với thần thánh Trời Phật, với vũ trụ vô cùng. Cầu
trời cho tất cả đồng bào tỵ nạn lênh đênh nơi chưn trời góc biển, tất cả
đều gặp may mắn như mọi người trên ghe chúng tôi, đêm nay!
Bọn lính Mã Lai tách toán đàn bà con nít và toán đàn ông ra riêng.
Toàn đàn ông được dồn vào cuối bãi cát, tận cùng có vách đá chắn ngang.
Toán còn lại ở tại chỗ bị kiểm soát để kiếm vàng bạc châu báu. Chiếc ghe
được cột chắc vô cầu tàu, một dây nữa cột vô gốc dừa mọc nghiêng trên
mặt cát. Sóng đánh nó ngã qua ngã lại, đụng cái vỏ cứng vô xà lan sắt
nghe rầm rầm. Bây giờ nó có bị nứt ra từng mảng đi nữa, tôi cũng không
sợ. Tôi lắng nghe dòng máu trong người, mấy ngày nay hầu như nghẹt cứng
bây giờ được lưu thông điều hòa. Tôi đi tới đi lui cho giãn gân giãn
cốt. Trong người thiệt tỉnh táo khỏe khoắn. Một đống lửa mới to hơn đống
lửa cũ được đốt lên. Vách đá chập chùng, ánh lửa chiếu sáng lắt lay,
một đám người trần trụi bu quanh như trong hang động thời tiền sử. Nơi
nào có lửa là có sự sống, có hy vọng tin yêu. Tôi chọn một chỗ gần sát
lửa ấm, đặt thẳng cái lưng xuống làn cát phẳng phiu, nằm gối đầu trên
một bẹ dừa nhỏ, nhìn những tia lửa đỏ hồng nhảy múa chập chờn. Những
người khác, tất cả cùng nằm ngang nằm dọc xoay quanh đống lửa để ngủ đêm
nay. Bên trên là bầu trời đầy sao sáng. Ngoài kia là sóng biển vổ vào
ghềnh đá ầm ầm. Tôi ngủ mê man như chết đến nỗi không còn thấy được…
chiêm bao!
Võ Kỳ Điền
Trích Pulau Bidong Miền Đất Lạ. Chương 8
What's Related
PHỎNG VẤN DƯƠNG DANH DY VỀ BIỂN ĐÔNG
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Các nước lớn sẽ chặn TQ bành trướng Biển Đông vì lợi ích của chính họ
BienDong.Net: Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ sẽ can thiệp nếu Trung Quốc có những động thái leo thang quá mức. Các nước lớn sẽ can thiệp để bảo vệ lợi ích của chính họ ở Biển Đông chứ không phải vì ai khác, và chúng ta cần làm sao để phối hợp, hợp tác tốt với họ.
Sau phần chia sẻ về thủ đoạn mới, Trung Quốc có thể phái lính cải trang ngư dân đánh chiếm một số đảo, bãi đá của ta ở quần đảo Trường Sa cũng như một số đánh giá về phản ứng của Việt Nam, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy tiếp tục trao đổi và phân tích xung quanh vai trò của ASEAN cũng như các cường quốc trên thế giới tại Biển Đông, cụ thể là Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ.
TRUNG QUỐC LEO THANG GÂY CĂNG THẲNG BIỂN ĐÔNG
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy khẳng định, Biển Đông đang trở thành vấn đề cốt lõi phản ánh sự đoàn kết cũng như khả năng thống nhất nội khối ASEAN, các thành viên ngày càng tích cực “kéo” Trung Quốc vào bàn đàm phán. Với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, ông Dy nhận định các nước này sẽ ngăn chặn Trung Quốc bành trướng và độc chiếm Biển Đông vì chính lợi ích của họ, Việt Nam cần hợp tác và phối hợp chặt chẽ với ASEAN cũng như các nước lớn có lợi ích và quan tâm tới Biển Đông nhằm bảo vệ chủ quyền, lợi ích hợp pháp của ta tại đây.
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, Nguyên tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, TQ
- PV: Về mặt ngoại giao, ngoài việc kiên quyết phản đối các hành động leo thang gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, theo ông, ta nên tận dụng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là ASEAN như thế nào?
“Lính Trung Quốc có thể cải trang ngư dân chiếm đảo, đá ở Trường Sa”
NNC Dương Danh Dy: Tiếng nói của bạn bè quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn âm mưu, tham vọng bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là ASEAN và các nước lớn trên thế giới có lợi ích và quan tâm tới Biển Đông. Chúng ta hoàn toàn có thể và cần tận dụng tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để ngăn chặn âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Đối với ASEAN, đang trong xu thế hình thành một cộng đồng chung thống nhất thì vấn đề Biển Đông vừa trở thành điểm nóng, vừa là mối quan tâm hàng đầu của khu vực Đông Nam Á. ASEAN có trở thành một khối thống nhất và thịnh vượng hay không được phản ánh rất lớn qua cách ứng xử cũng như quan điểm của từng nước thành viên và toàn khối đối với vấn đề Biển Đông.
Thời gian vừa qua, ASEAN đã vượt qua nhiều trở ngại, rào cản và đạt được những nhận thức chung quan trọng trong vấn đề Biển Đông, trong đó đặc biệt đáng chú ý là những nỗ lực đưa Trung Quốc quay trở lại bàn đàm phán Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) có tính ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn. Đây là bước tiến mới quan trọng khi Brunei đảm nhiệm ghế Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2013.
- PV: Tuy nhiên, trong khối ASEAN có một số nước gần như không liên quan trực tiếp đến Biển Đông. Liệu chúng ta có tìm được sự đồng thuận từ những nước này không?
NNC Dương Danh Dy: Tôi thấy cần nhấn mạnh rằng, ASEAN là một tập thể 10 quốc gia thành viên có thể chế chính trị, trình độ phát triển, văn hóa, lịch sử khác nhau. Đặc biệt, mối liên hệ của mỗi quốc gia thành viên với vấn đề Biển Đông cũng khác nhau. Hiện tại ngoài Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, Đài Loan ở Biển Đông - Trường Sa, các nước còn lại hầu như không liên quan trực tiếp tới Biển Đông.
Vì vậy sự quan tâm của mỗi thành viên đến vấn đề Biển Đông cũng như quan điểm của họ có sự khác biệt. Đó là chưa kể đến những chiêu bài của Trung Quốc dùng tiền, dùng sức ép ngoại giao, chính trị nhằm tác động, ảnh hưởng, phân hóa các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Cho nên chúng ta không thể đòi hỏi một sự thống nhất tuyệt đối đối với tranh chấp Biển Đông của các quốc gia khác mà nên đặt mình vào vị trí của họ để lựa chọn cách ứng xử phù hợp. Không nên nghĩ ASEAN không đoàn kết, thống nhất trong vấn đề Biển Đông, mà nên tích cực khai thác những đồng thuận, những nhận thức chung của toàn khối như những gì đã đạt được trong thời gian vừa qua
Đoàn kết, thống nhất trong ASEAN nâng cao vai trò của ASEAN trong các vấn đề quốc tế. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
- PV: Hiện tại, ngoài ASEAN còn có nhiều cường quốc trên thế giới đặc
biệt quan tâm đến vấn đề Biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Nga.
Theo ông điều này sẽ tác động, ảnh hưởng như thế nào đến các nước cờ
tiếp theo của Trung Quốc?
NNC Dương Danh Dy: Đầu tiên phải khẳng định rằng, Biển Đông là nơi có tuyến hàng hải quan trọng, huyết mạch hàng đầu của thế giới, nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh kinh tế - thương mại của các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và nhiều nước khác.
Mặt khác, Việt Nam lại có vị trí địa chính trị cực kỳ quan trọng tại Biển Đông và Đông Nam Á. Biển Đông hiện đã trở thành nơi tìm kiếm, tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới, mà nổi bật là Trung Quốc Mỹ, Nhật Bản …, những nước công khai tuyên bố họ có lợi ích, lợi ích cốt lõi và mối quan tâm đặc biệt ở Biển Đông.
Đây là một thuận lợi cho ta trong việc tìm kiếm sức mạnh từ bên ngoài. Việc các cường quốc tham gia vào tiến trình giải quyết tranh chấp Biển Đông là hoàn toàn có thể, và họ sẽ can thiệp nếu Trung Quốc có những động thái leo thang quá mức. Các nước lớn sẽ can thiệp để bảo vệ lợi ích của chính họ ở Biển Đông chứ không phải vì ai khác, và chúng ta cần làm sao để phối hợp, hợp tác tốt với họ.
NNC Dương Danh Dy: Đầu tiên phải khẳng định rằng, Biển Đông là nơi có tuyến hàng hải quan trọng, huyết mạch hàng đầu của thế giới, nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh kinh tế - thương mại của các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và nhiều nước khác.
Mặt khác, Việt Nam lại có vị trí địa chính trị cực kỳ quan trọng tại Biển Đông và Đông Nam Á. Biển Đông hiện đã trở thành nơi tìm kiếm, tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới, mà nổi bật là Trung Quốc Mỹ, Nhật Bản …, những nước công khai tuyên bố họ có lợi ích, lợi ích cốt lõi và mối quan tâm đặc biệt ở Biển Đông.
Đây là một thuận lợi cho ta trong việc tìm kiếm sức mạnh từ bên ngoài. Việc các cường quốc tham gia vào tiến trình giải quyết tranh chấp Biển Đông là hoàn toàn có thể, và họ sẽ can thiệp nếu Trung Quốc có những động thái leo thang quá mức. Các nước lớn sẽ can thiệp để bảo vệ lợi ích của chính họ ở Biển Đông chứ không phải vì ai khác, và chúng ta cần làm sao để phối hợp, hợp tác tốt với họ.
Đội tàu đánh cá Đam Châu (tỉnh Hải Nam, Trung Quốc) gồm 32 chiếc xuất phát từ cảng cá Bạch Mã Tỉnh bắt đầu tiến ra ngư trường Trường Sa của Việt Nam để đánh bắt hải sản sáng 6/5
- PV: Thưa ông, ta có thể tận dụng lợi thế này ra sao trong việc đối phó, ngăn chặn âm mưu của Bắc Kinh hòng độc chiếm Biển Đông?
NNC Dương Danh Dy: Đối với Mỹ, Biển Đông hiện nay là tiêu điểm tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc ở Đông Nam Á, là trọng tâm trong hoạt động chiến lược Châu Á - Thái Bình Dương. Từ tháng 7/2010 Mỹ đã công khai khẳng định họ có lợi ích ở Biển Đông - đó là an ninh hàng hải, và điều đó cần hiểu là không phải Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Từ đó đến nay mặc dù Bắc Kinh luôn tỏ ra khó chịu, muốn Mỹ không "nhúng tay" vào Biển Đông, nhưng điều đó đã không hề xảy ra.
Đối với Nhật Bản và Hàn Quốc, Biển Đông là tuyến hàng hải huyết mạch của nền kinh tế, nơi rất nhiều hàng hóa xuất nhập khẩu của họ phải đi qua. An ninh Biển Đông tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh kinh tế - thương mại của hai quốc gia này.
Thời gian qua ta đã chứng kiến những hoạt động tăng cường hợp tác quan trọng giữa Nhật Bản với các nước thành viên ASEAN, đặc biệt là với Philippines và Việt Nam. Trung Quốc đã tỏ ra lo ngại về các hoạt động này và đang ra sức tuyên truyền rằng Nhật Bản "câu kết" với các nước ven Biển Đông để "bao vây Trung Quốc"?!
Đối với Ấn Độ, một khi Trung Quốc độc chiếm Biển Đông với cái gọi là 'đường lưỡi bò' phi pháp thì không sớm thì muộn, Bắc Kinh có thể sẽ còn tuyên bố chủ quyền với cả các vùng biển trên Ấn Độ Dương chỉ vì “đô đốc Trịnh Hòa của họ đã từng đi qua khu vực này”.
Mặt khác, Biển Đông là tuyến hàng hải huyết mạch thông Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, nơi Ấn Độ đang muốn tăng cường ảnh hưởng của mình như một cường quốc ở Châu Á, họ không thể bỏ qua. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang có những quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông khi cùng với Việt Nam hợp tác khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam. Việc Trung Quốc bành trướng trên Biển Đông với cái gọi là "đường lưỡi bò" sẽ uy hiếp trực tiếp lợi ích của Ấn Độ.
PV: Xin chân thành cảm ơn ông!
BDN (Theo GDVN)
Tuesday, May 28, 2013
THẤT LĨNH * VỀ VỚI NHÂN DÂN
Bỏ lề đảng, về phía lề dân
Thất Lĩnh (Danlambao) - Sự kiện blogger Trương Duy Nhất
bị bắt vì những bài viết khách quan vạch trần mặt trái tiêu cực của xã
hội, một lần nữa, chứng minh rằng làn sóng những người bỏ lề đảng về
phía lề dân đang ngày càng gia tăng.
Ông Trương Duy Nhất từng làm việc cho báo Công an Quảng Nam – Đà Nẵng,
sau này chuyển sang làm báo Đại Đoàn Kết. Nghe tên hai tờ báo này một
người bình thường cũng dễ dàng nhân ra đây là hai tờ báo quyết liệt bảo
vệ cho chủ trương chính sách nhà nước, hay nói khác hơn là công cụ để mị
dân, giữ vững quyền cai trị của đảng cộng sản. Nhưng một ngày đẹp trời,
ông Trương Duy Nhất đã quyết định bỏ viết báo chuyển sang viết blogg.
Slogan “một góc nhìn khác” đã chứng minh mạnh mẽ quan điểm của Trương
Duy Nhất sau khi bỏ báo lề đảng, đó là cái nhìn xoáy vào thực tế cuộc
sống chứ không phải múa bút theo chỉ thị của đảng cộng sản. Anh không
chấp nhận làm kẻ bồi bút cho nhà cầm quyền mà mạnh dạn đứng về phía
người dân đang thống khổ, mất quyền con người.
Những ai am hiểu đời sống chính trị Việt Nam sẽ nhận ra “phong trào” bỏ
lề đảng về phía lề dân không chỉ mới bắt đầu từ thời Trương Duy Nhất.
Nhiều trước đây, Nguyễn Vũ Bình, một đồng nghiệp của Trương Duy Nhất tại
báo Đại Đoàn Kết đã có nhiều bài viết cổ xúy cho dân chủ tự do và đa
nguyên đa đảng đã bị cộng sản tống giam. Nhưng giờ đây, anh vẫn kiên trì
đấu tranh mà không hề tỏ ra sợ hãi hay luyến tiếc.
Một nhân chứng sống động nữa là trường hợp của nhà báo Huy Đức. Trong
khoảng thời gian làm cho báo lề đảng, anh được đánh giá là một cây bút
sắc sảo, đầy nội lực. Dân trong nghề thường kháo nhau rằng, trong thời
gian anh viết cho báo Tuổi Trẻ, những cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô Sài
Gòn phải tránh mặt Huy Đức vì anh có những câu hỏi phỏng vấn quá khó trả
lời. Với tài năng và uy tín như thế, nếu chịu ngoan ngoãn theo lời
đảng, Huy Đức hoàn toàn có một vị trí xã hội cao. Nhưng rồi anh đã viết
nhiều bài “trái ý” đảng và nghiệp làm báo của anh bắt đầu gặp nhiều khó
khăn. Đến một ngày, khi quyển truyện Bên Thắng Cuộc ra mắt, người ta
hoàn toàn tin rằng Huy Đức đã đứng hẳn về phía lề dân.Blogger hay
facebook của anh được xếp hạng top đối với những ai quan tâm đến vấn đề
chính trị và xã hội Việt Nam.
Một nhân vật đình đám khác trong làng báo lề đảng phải nhắc đến là Huỳnh
Ngọc Chênh. Anh đã từng có một vị thế khá cao trong báo Thanh Niên. Rời
khỏi tờ báo này anh đã trở thành một blogger nổi tiếng với nhiều bài
viết hay về tình hình Việt Nam. Phải thừa nhận rằng từ khi chuyển sang
lề dân, anh nổi tiếng hơn hẳn thời còn làm báo lề đảng. Kết quả là giải
thưởng quốc tế mà anh nhận được cách đây chưa lâu.
Gần hơn nữa, một cái tên nhắc đến là mọi người lập tức ồ à thán phục đó
là nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên. Anh đã dũng cảm phản bác lại ý kiến phê
bình những người thẳng thắn góp ý trong đợt sửa đổi hiến pháp của ông
Nguyễn Phú Trọng, một người mà xét về tổng thể quyền lực ngang hàng với
vua tại Việt Nam. Nhà báo trẻ này không sợ bị kết tội“phạm úy” dám lên
tiếng để bảo vệ cho người dân thấp cổ bé miệng, tức giận nhưng sợ hãi
không dám bài tỏ chính kiến. Hành động can đảm của anh đã thực sự góp
phần thức tỉnh nhận thức về quyền con người.
Chắc chắn còn rất nhiều nhà báo lề đảng đã theo lề dân nhưng vì hiểu
biết giới hạn, và vì khuôn khổ của bài viết mà người viết chỉ nêu ra
những cái tên tiêu biểu kể trên. Do bài viết đề cập đến những nhà báo
nên cũng xin mạn phép không nhắc đến những nhà văn tên tuổi đã tự nguyện
từ bỏ đảng để viết những gì chân thật nhất về bản chất cộng sản. Vấn đề
chính mà người viết muốn nêu ra ở đây là vì sao ngày càng có nhiều nhà
báo bỏ đảng cộng sản?
Giống như ở bất cứ xã hội nào, những nhà báo ở Việt Nam vốn là những
người nắm bắt dòng thời sự, và chuyển biến xã hội nhanh hơn nhiều đối
tượng xã hội khác. Bản thân họ có nhiều cơ hội để biết và hiểu rõ những
gì đã và đang xảy ra trong môi trường xã hội họ đang sống. Lúc đầu, có
thể vì nỗi lo cơm áo, vì trách nhiệm họ đành chấp nhận giả điếc, giả mù
để tránh rắc rối. Nhưng rồi khi đã sống quá lâu với cái xấu, những người
có lương tri có cái dũng, đã cảm thấy mình cần phải làm điều gì đó để
giữ lại điều tốt đẹp cho cuộc đời. Thế là họ đã lên tiếng mà bất chấp sự
hiểm nguy sẽ đến với mình. Họ không thể im miệng mãi trước sự suy đồi
đến mức mục rũa của chế độ. Một cách rất tự nhiên, họ đứng vào lớp người
tiên phong chống lại sự cai trị độc tài, phi dân chủ và phi nhân quyền ở
đất nước Việt Nam thân yêu.
Điều này cho thấy quyền con người là một nhu cầu bức thiết, mà con người
dù sống trong hoàn cảnh nào, cũng phải đấu tranh để giành lấy cho bằng
được.
Vì vậy, tôi tin rằng sau Trương Duy Nhất sẽ còn nhiều nhà báo lề đảng sẽ
công khai đứng về phía người dân. Bởi vì, tầng lớp trí thức sẽ không
bao giờ chấp nhận khuất phục trước sự bá đạo, lừa dối và phi nhân của
đảng cộng sản.
NAM MINH * AI THẮNG AI?
Bắt Chiến Thuật”: Ai thắng ai?
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Nam MinhTrên trang Facebook của Hồ Hải có tấm hình chụp Trương Duy Nhất đang “hiên ngang” vào phi trường Đà nẵng để được đưa ra Hà Nội, có 2 nhân viên an ninh mặc thường phục áp tải.
Trương Duy Nhất hiên ngang trên đường vào sân bay Đà Nẵng ra Hà Nội để điều tra, nhưng những người áp giải Nhất lại cúi đầu. |
Phải chăng Trương Duy Nhất bị “bắt chiến thuật” –có nghĩa là bắt để ngăn chặn những tác hại cho phe bắt trong cuộc đấu đá nội bộ hiện nay giữa phe cải cách và phe bảo thủ trên tầng cấp lãnh đặo cao nhất của đảng CSVN.
Có thể thấy được cuộc tranh chấp này qua hai
vấn đề quan trọng đang đựợc đưa ra tại Quốc Hội. Vấn đề thứ nhất là bỏ
phiếu tín nhiệm nhân sự của chính phủ, và vấn đề thứ hai là thảo luận về
sửa đổi Hiến Pháp.
Chúng ta cần theo dõi xát việc bỏ phiếu tin
nhiệm để xem phe “ba Dũng” có tiệp tục trụ lại được không, sau khi đã
vượt qua được nhiều đợt bị phe NP Trọng tấn công tới tấp. Về việc sửa
đổi Hiến Pháp, bản dự thảo do NP Trọng đưa ra QH, làm thất vọng nhiều
người, có phải là bản mà HNTW7 đã thông qua không? Tại sao HNTW7 lại
không có Nghị Quyết, mà chỉ ra Thông báo? Có Nghị Quyết mà không công bố
hay không có Nghị Quyết? Việc không có NQ hay có nhưng không công bố là
điều bất thường.
Những gì đang diễn ra tại QH phản ánh những
tranh chấp trong ban lãnh đạo đảng CS hiện nay. Quốc hội sẽ theo phe
nào? Cải cách chính trị theo hướng dân chủ, hay “vũ như cẩn”. Chấp nhận
bản dự thảo do TBT NP Trọng đưa ra, theo thông lệ “đảng lãnh đạo, QH làm
theo”, hay sẽ biểu quyết chấp nhận những điều sửa đổi do chính phủ NT
Dũng đưa ra (9 điểm) và Chủ tịch TT Sang đưa ra. Hãy chờ xem.
Nam Minh
Hà Nội, 28.5.2013
CHUYỂN HÓA VIỆT NAM
TRẦN THÚC LÂN * CÁNH HẢI ÂU
Cánh Hải Âu
Hồi Ký – Trần Thúc Lân
Khoảng vài tuần trước ngày Quốc Hận thứ 38, tôi nhận được thư của anh Lê Minh bên Úc.
Anh Lê Minh một lần nữa lại ủng hộ Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (http://www.tnlt.net/) bằng cách đặt tranh tôi vẽ.
Tôi thật cảm kích với hảo tâm của anh ấy vì xung quỹ với tiền công làm việc cực nhọc ở cái tuổi mà thường tình người ta chỉ mong sớm được về hưu an nghỉ.
Nhưng lần này không như thường lệ, anh không đặt chân dung cho một người hùng Chiến Sĩ Tự Do nào, mà lại đặt chân dung của ‘chúng ta’, của Thuyền Nhân !!
Lẽ dĩ nhiên tôi rất hân hạnh được nhận vẽ, nhưng tôi không khỏi nôn nao bồi hồi, phần vì hăng hái trước một dự án đối với tôi ‘lớn lao’, phần thì lại lo lắng trước sự phức tạp của chủ đề khi sức tôi mỗi ngày một yếu…
Thế là kế tiếp những đêm mất ngủ băn khoăn suy nghĩ, những ngày tìm tòi tài liệu hình ảnh …Tôi tự hứa sẽ không mang hình ảnh đến từ trong ký ức và kinh nghiệm của bản thân vì không muốn hạn chế bức tranh với những kỷ niệm riêng tư của tôi.
Phần thì phải nói, gợi lại những hình ảnh hay nói đúng hơn những ám ảnh đó quá hãi hùng, quá đau đớn cho tôi… Tôi ước muốn vẽ cho mọi Thuyền Nhân chứ không chỉ vẽ về cuộc vượt biên của riêng tôi.
Phải chăng đó chỉ là một dụng cớ để tránh nhớ lại những gì tôi đã tự hứa khóa chặt trong tâm não ?...
Tôi chú tâm tìm đọc trên mạng thật nhiều chuyện thuật lại hành trình khốn khổ của biết bao Thuyền Nhân… Lẽ dĩ nhiên, tôi không còn cứng rắn đủ như xưa kia để cầm lại nước mắt, và tự nhủ, Quốc Hận năm nay, không những mình đã tưởng niệm mà lại còn có cảm tưởng như đã để tang thật kỹ thật nhiều …
Nội dung của bức tranh từ từ hiện lên trong đầu tôi... Cả lộ trình của biết bao nhiêu người thì làm sao vẽ trong một bức được…
Vì thế phải nhiều bức ráp lại với nhau như để biểu tượng những đoạn trường phải trải qua trên lộ trình vượt biên, hay để gợi lên những mảnh đời tan nát, chia lìa cũng như những cuộc hội ngộ, đoàn tụ sau bao tuyệt vọng, những câu chuyện riêng đã in hằn trong tâm ức chung của người Việt tỵ nạn…
Và để ráp những bức đủ cỡ đó lại với nhau, tôi cần tìm một yếu tố làm cái ‘fil conducteur’, một dây nối tượng hình để gắn liền các bức tranh lại với nhau…
Và tôi tìm đựơc nó khi hồi tưởng lại câu chuyện sau đây…
Mùa thu năm 1981, lúc ấy tôi mới sang tỵ nạn tại Paris chưa được 2 năm. Tôi đi chạy hầu bàn ở nhà hàng ĐV ở quận 5.
Một chiều tối, một cặp vợ chồng Tây đã đứng tuổi, rất sang trọng bước chân vào quán. Nghe họ nói chuyện với nhau tôi cứ tưởng họ người Gia-nã-đại.
Tôi mời chào và giải nghĩa thực đơn bằng tiếng Anh, và người đàn ông lớn tuổi hỏi tôi :
« Anh không nói giọng Mỹ như nhiều người Việt tôi từng gặp ! Sao lạ thế ? ».
Tôi cười xuề xòa :
Dạ thưa ông, không có giọng Mỹ, nhưng chắc chắn là có giọng Việt Nam chính cống ! Giọng của ông thì tôi đoan chắc là tiếng Anh của Nữ Hoàng (Queen’s english), nhưng bà nhà có phải là người Gia-nã-đại ? »
Ông ta tươi cười : « Anh chỉ đúng một nửa. Tôi là người Anh, vợ tôi đây người Bỉ. Tên tôi là Peter Townsend, tôi vừa hoàn tất một quyển sách về một hành trình của Thuyền Nhân, nên tôi đã gặp và phỏng vấn nhiều người Việt trong các trại tỵ nạn ở mọi nơi… »
Vì bàng hoàng, tôi hấp tấp hỏi ông một cách vụng về và vô duyên : «Thế thì ông có quen với Cha Hugo không ? »,
cứ như là hễ một người Anh nào mà quan tâm đến Thuyền Nhân đều phải biết linh mục này mà chính tôi lúc đó cũng chưa gặp mặt và cũng chẳng biết tên họ của linh mục này là gì.
Người ta vốn nói ‘Thánh nhân đãi kẻ khù khờ’, thì trước câu hỏi ngu ngơ của tôi ông Townsend trố mắt, ngạc nhiên đến ngớ ra :
« Làm thế nào anh biết cả con trai tôi à? ».
Đến phiên tôi giật mình và chống chế vội vã :
« Trời ơi ! Ông là bố của… Chả là con gái tôi đang đi học ở Luân-Đôn, nó thuộc về giáo sứ của Cha Hugo, và đã được Cha dẫn đến thăm trại tạm cư của các Thuyền Nhân, gần giáo sứ, ngay giữa lòng Luân-Đôn !...».
Ông Townsend gật gù và thoải mái hơn, nên đùa :
« Trong một khoảng khắc, tôi cứ tưởng là người Việt nào cũng thần giao cách cảm, đọc được trong đầu của người đối diện chứ ! »…
Sau bữa ăn, ông ta chìa cho tôi một tấm thiệp có tên tuổi và địa chỉ của ông và nói một cách rất chân tình :
« Khi nào anh có rảnh, gọi điện thoại số này cho tôi, rồi lên tôi dùng trà, tôi có một vài chuyện muốn hỏi anh để tìm hiểu thêm về Thuyền Nhân Việt Nam … ».
Tôi hân hạnh quá, được gặp rồi lại được mời đến nhà thân phụ của một linh mục Anh mà con gái tôi hết lời khen ngợi… Ngoài ra tôi không biết gì hơn về ông Peter Townsend cả, ngoài quyển sách ông vừa đề cập đến !
Thế rồi một ngày tôi lấy hết can đảm gọi điện thoại và may mắn được ông Townsend nhận ra và hẹn đến nhà ông. Tôi có cố ăn mặc chỉnh tề mà càng đến gần nhà ông lại càng cảm thấy mình như anh ngố mới ra tỉnh. Ông ở một căn lầu trong một biệt thự dưới chân tháp Eiffel lộng lẫy và khổng lồ. Tất cả trong nhà ông đều sang trọng, quý phái làm sao… Tôi tự hỏi, tại sao một người như ông ta, đáng tuổi cha, chú tôi lại muốn hỏi chuyện với một người tỵ nạn tầm thường như tôi ? Chắc cũng nhờ Cha Hugo, tôi nghĩ… Rồi trước lời chào đón vô cùng nồng nhiệt và bình dị, tôi bớt hết hồi hộp lo lắng…
Ông Townsend làm trà và mang rót cho tôi, lần đầu tiên tôi thấy sữa đổ vào tách trà. Rồi ông hỏi han về cuộc vượt biên của tôi. Tôi kể lại cho ông, đến những lúc tôi xúc động, cái tách trà cũng run lên lách cách trong tay tôi. Dù nước mắt tôi lưng tròng, tôi cũng thấy được lòng cảm thông trong ánh mắt long lanh của ông. Ông kể đã đi thăm rất nhiều trại tỵ nạn từ Mã-Lai đến Hồng-Kông, từ Thái-Lan sang Phi-Luật-Tân.
Nghe kể bao nhiêu chuyện qua lời thông dịch, không làm sao trung thực
hoàn toàn được nhưng cũng đủ cho ông thấu hiểu hoàn cành hãi hùng của
bao mạng người nhỏ bé giữa đại dương … « Chuyện người nào tôi biết đến
cũng thương tâm cả…Làm sao kể lại hết tất cả mọi chuyện… Cuối cùng tôi
phải chọn lựa kể lại một chuyện mà tôi cảm thấy là ‘kinh hoàng’
(terrifying) nhất và tôi theo dõi câu chuyện đó cho đến cùng. Đó là câu
chuyện của một cô bé gái đi vượt biên cùng người anh/em (brother) trên
một chiếc thuyền cọc cạch, không thể nào tồn tại giữa sóng gió biển cả.
Trên tàu nhiều người đã đuối sức chết vì đói khát, bệnh hoạn vì lênh
đênh quá lâu, cuối cùng tàu tạt vào một bãi san hô… Hai anh em cùng vài
người sống sót tập bắt chim hải âu, phơi khô để ăn…cho đến ngày chỉ còn
lại có cô bé gái, một mình giữa bao xác chết, chơ vơ trên một bãi san hô
mỏng manh giữa trời nước…
May mắn sao, vài ngày sau đó một tàu hàng hải đã cứu vớt. Tôi muốn tìm
hiểu thêm về nội tâm của cô bé cũng như sự tự tồn của một con người
trong một thảm cảnh như vậy. Tôi chỉ tiếc là khía cạnh tâm lý tôi không
tường thuật được đầy đủ vì ngôn ngữ và tuổi đời của cô bé không cho phép
diễn tả hết được. Tôi đã bao lần suýt chết trong Thế Chiến thứ 2, nhưng
tôi tự hỏi nếu tôi ở trong trường hợp cô bé gái ấy, liệu tôi có còn đủ
sáng suốt để kể lại không ? Tôi muốn thuật lại qua quyển sách này một
chuyện thật, để cho thế giới của tôi (my world) hiểu biết hơn về thảm
cảnh của Thuyền Nhân Việt Nam, hầu cưu mang họ… Anh đừng hiểu nhầm tôi,
không phải là sự tội nghiệp đã thúc đẩy tôi viết… họ khốn khó thật đấy,
nhưng họ rất kiêu hãnh, cái phẩm cách của những người đã đi qua địa ngục
và sống còn. Qua những ngày tháng đi tìm hiểu về họ, tôi thấy tôi cảm
phục họ, họ thu hút đầu óc (fascinate) tôi trên rất nhiều khía cạnh mà
tôi mong anh có thể giúp tôi hiểu rõ hơn. »
Tôi chỉ tạc ghi trong lòng từng lời ông Townsend nói, hình như tôi không còn nhớ những gì tôi đáp lại ông, như thể những câu trả lời ấy chẳng có ký-lô nào…Tôi chỉ nhớ là lúc đó tôi như mở cờ trong bụng là có những người ngoại quốc suy nghĩ như ông ta. Đây là những điều chính ông đã bày tỏ hôm đó :
. Grapevine/Truyền miệng : « Người Anh-quốc chúng tôi gọi hiện tượng này là ‘grapevine’, tin truyền miệng. Trong trường hợp của cô bé gái trong sách của tôi thì cái guồng máy ‘truyền miệng’ của cộng đồng tỵ nạn Việt Nam thật là kỳ diệu, phi thường ! Tôi theo dõi trường hợp cá nhân này và tôi phải nể phục, không thiếu phần bàng hoàng, băn khoăn tự hỏi : Họ làm cách nào hay vậy ? Một cô bé gái, một thân một minh đến trại ở một nơi xa lạ, không có một phương tiện truyền thông, truyền hình, giấy tờ hành chánh, hay bất cứ một hệ thống liên lạc tân tiến nào… thế mà chỉ qua người này nhắn đến tai người nọ mà tìm lại được cha mẹ (đi trong chuyến tàu khác, trôi dạt đến một nước khác) và cuối cùng gia đình được đoàn tụ và định cư ở Úc. Không chỉ riêng tôi, trong UNHCR (Cao ủy Tỵ Nạn LHQ) ai cũng đã một lần ngạc nhiên khi thấy cách liên lạc tìm kiếm thân nhân không cần sổ sách, giấy tờ (records) gì cả nhưng rất hữu hiệu, xuyên qua tất cả biên giới toàn cầu !?! »
. Chiến tranh, Hòa bình và Tự do : « Tôi đã từng chiến đấu để bảo vệ đất nước tôi. Và tôi đã viết sách tường thuật về mặt trận ‘Battle of Britain’ của không quân Vưong Quốc Anh (RAF) với không quân Đức Quốc Xã (Luftwaffe). Những gương can đảm tôi đã chứng kiến trong thời chiến, nhưng tôi phải nể sự can đảm của người Việt trong cuộc di dân có thể gọi là một biến cố lịch sử, nhất là khi chiến tranh đã chính thức chấm dứt! Cái gì thúc đẩy họ sẵn sàng bỏ đất nước, liều chết để ra đi ? Họ chạy trốn Cộng sản, nhưng khi hỏi thì họ đều nói họ đi tìm Tự do!
Tôi chỉ tạc ghi trong lòng từng lời ông Townsend nói, hình như tôi không còn nhớ những gì tôi đáp lại ông, như thể những câu trả lời ấy chẳng có ký-lô nào…Tôi chỉ nhớ là lúc đó tôi như mở cờ trong bụng là có những người ngoại quốc suy nghĩ như ông ta. Đây là những điều chính ông đã bày tỏ hôm đó :
. Grapevine/Truyền miệng : « Người Anh-quốc chúng tôi gọi hiện tượng này là ‘grapevine’, tin truyền miệng. Trong trường hợp của cô bé gái trong sách của tôi thì cái guồng máy ‘truyền miệng’ của cộng đồng tỵ nạn Việt Nam thật là kỳ diệu, phi thường ! Tôi theo dõi trường hợp cá nhân này và tôi phải nể phục, không thiếu phần bàng hoàng, băn khoăn tự hỏi : Họ làm cách nào hay vậy ? Một cô bé gái, một thân một minh đến trại ở một nơi xa lạ, không có một phương tiện truyền thông, truyền hình, giấy tờ hành chánh, hay bất cứ một hệ thống liên lạc tân tiến nào… thế mà chỉ qua người này nhắn đến tai người nọ mà tìm lại được cha mẹ (đi trong chuyến tàu khác, trôi dạt đến một nước khác) và cuối cùng gia đình được đoàn tụ và định cư ở Úc. Không chỉ riêng tôi, trong UNHCR (Cao ủy Tỵ Nạn LHQ) ai cũng đã một lần ngạc nhiên khi thấy cách liên lạc tìm kiếm thân nhân không cần sổ sách, giấy tờ (records) gì cả nhưng rất hữu hiệu, xuyên qua tất cả biên giới toàn cầu !?! »
. Chiến tranh, Hòa bình và Tự do : « Tôi đã từng chiến đấu để bảo vệ đất nước tôi. Và tôi đã viết sách tường thuật về mặt trận ‘Battle of Britain’ của không quân Vưong Quốc Anh (RAF) với không quân Đức Quốc Xã (Luftwaffe). Những gương can đảm tôi đã chứng kiến trong thời chiến, nhưng tôi phải nể sự can đảm của người Việt trong cuộc di dân có thể gọi là một biến cố lịch sử, nhất là khi chiến tranh đã chính thức chấm dứt! Cái gì thúc đẩy họ sẵn sàng bỏ đất nước, liều chết để ra đi ? Họ chạy trốn Cộng sản, nhưng khi hỏi thì họ đều nói họ đi tìm Tự do!
Tôi có cảm tưởng như họ hãy còn sợ là thế giới bên ngoài chưa lường được
đến mực nào ‘Cộng sản là đối tượng của Tự do’. Cái ý thức của họ về chữ
Tự do đó mới thật là chính đáng. Khi tôi nghĩ, nước tôi đã đẻ ra cái
phong trào Hippy, đưa đến phản chiến, vô tình đã đẩy đưa số phận dân
miền Nam Việt Nam vào đường cùng. Cái lũ hippies thời đó chúng xuống
đường đòi Tự do, chúng có hiểu Tự do là gì đâu, cái tự do của một lũ lớn
lên trong thời bình, chưa biết hy sinh một ngày cho đất nước, chưa biết
chiến tranh nhưng đòi hòa bình, sống với đầy đủ các quyền công dân
nhưng đòi tự do, cái tự do để yêu đương, để hút sách, để đồi trụy, để
hèn nhát, cái loại tự do rẻ tiền, ích kỷ, vô trách nhiệm đó có ngờ đâu
đã mang lại sự mất mát của chữ Tự do cao quý của bao nhiêu người ở bên
kia trái đất !
Tôi muốn gửi bọn chúng đi nghỉ hè bên kia Màn Sắt để học lại định nghĩa
của chữ Tự do. Anh biết không, có một Thuyền Nhân nói vói tôi mà tôi nhớ
mãi : ‘Khi nằm trên tàu trôi dạt, ai không mơ được bay lượn như cánh
hải âu… Ao ước Tự do của chúng tôi đấy !’. Theo tôi, nếu cánh bồ câu
tượng trưng cho hòa bình, thì hình ảnh đẹp nhất của Tự Do, phải là cánh
hải âu ! Lúc đầu tôi muốn đặt tên quyển sách là The White Seagull (Con
Hải Âu Trắng) nhưng sau với nhà xuất bản tôi phải đổi lại thành The Girl
In The White Ship (Bé Gái Trên Chiếc Thuyền Trắng), để không nhầm với
một tên sách khác đã ấn bản. »
Hơn hai mươi năm sau buổi chiều đó, giờ đây tôi có dịp cám ơn ông Townsend một lần nữa, lần này qua những giòng chữ này.
Ông đã nhắc nhở cho tôi hình ảnh Cánh Hải Âu trong bức tranh tôi đang phác họa.
Ông qua đời đã trên 15 năm rồi, và tôi cũng đã có dịp được hiểu biết tên tuổi lẫy lừng của ông, một anh hùng của Vương Quốc Anh trong Đệ Nhị Thế Chiến, người yêu oan trái của Công Chúa Margaret…Nhưng trong tôi, tôi sẽ giữ mãi hình ảnh của ông chiều hôm đó, một người quý phái nhưng bình dị, cao cả nhưng khiêm nhường, từng trải nhưng luôn băn khoăn, lạnh lùng kín đáo nhưng đầy tình cảm…và ông đã quan tâm đến Thuyền Nhân Việt Nam ! Cám ơn ông.
Hơn hai mươi năm sau buổi chiều đó, giờ đây tôi có dịp cám ơn ông Townsend một lần nữa, lần này qua những giòng chữ này.
Ông đã nhắc nhở cho tôi hình ảnh Cánh Hải Âu trong bức tranh tôi đang phác họa.
Ông qua đời đã trên 15 năm rồi, và tôi cũng đã có dịp được hiểu biết tên tuổi lẫy lừng của ông, một anh hùng của Vương Quốc Anh trong Đệ Nhị Thế Chiến, người yêu oan trái của Công Chúa Margaret…Nhưng trong tôi, tôi sẽ giữ mãi hình ảnh của ông chiều hôm đó, một người quý phái nhưng bình dị, cao cả nhưng khiêm nhường, từng trải nhưng luôn băn khoăn, lạnh lùng kín đáo nhưng đầy tình cảm…và ông đã quan tâm đến Thuyền Nhân Việt Nam ! Cám ơn ông.
__._,_.___
Monday, May 27, 2013
HỒ HỒNG TUYẾN * CHÍ PHÈO
TỪ “GIÂY LÁT VỚI CHÍ PHÈO” ĐẾN “NHÂN DÂN”
Posted on 01.01.2013 by nguyentrongtao
1
HỒ HỒNG TUYẾN
Gần đây, đọc bài thơ “Nhân Dân” của
Nguyễn Trọng Tạo, tôi bỗng nhớ lại bài thơ “Giây lát với Chí Phèo” của
Tùng Bách gần 20 năm trước. Hai bài thơ thế sự của hai nhà thơ xứ Nghệ
nổi tiếng, tuy cách xa nhau về thời gian, nhưng đã gặp nhau ở “ý tưởng
lớn” là đứng về phía “dân đen”.
Lê Tùng Bách (bút danh Tùng Bách) quê Hà
Tĩnh, tuổi Kỷ sửu (1949) là con trâu tự làm lấy mà ăn, vất vả, bươn
chải, đúng là số lận đận. Nhưng ở tuổi này có tài, bất chấp danh vọng,
sẵn sàng cởi áo từ quan để về quê đi cày. Xem ra Tùng Bách cũng đầy khí
phách Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Du ngoài đời gặp hoạn quan cũng
chào, nhưng trong thơ thì “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nguyễn
Công Trứ có một lần được các quan kính nể mời lên mâm trên ăn thịt chó,
tiên sinh nói “Trên chó, dưới chó, ngồi chỗ mô cũng chó”, khiến hết thảy
quan to tím mặt mà không làm gì được. Tùng Bách chưa làm quan bao giờ,
nhưng thơ anh đầy biến hóa, khinh thường thói đời hợm hĩnh. Tính từ lần
xuất bản đầu tiên (năm 1968) đến nay anh đã có 6 tập thơ. Thơ anh hóm,
sâu sắc, đầy trăn trở chuyện nhân tình thái thế và trĩu nặng những nỗi
niềm trắc ẩn. Tùng Bách nghèo về vật chất nhưng giàu về thơ. Thơ anh
phần nhiều viết về thân phận của thập loại chủng sinh, khúc triết từ
câu, tứ, đọc lên buồn cười mà chảy nước mắt. Phần lớn đã đi vào lòng bạn
đọc qua “nhà xuất bản mồm” chuyền từ người này qua người khác. Vì thơ
anh có một lối đi riêng không lẫn lộn vào ai.
Tôi thuộc bài thơ “Giây lát với Chí Phèo”
qua “xuất bản mồm” trong những cuộc giao lưu vỉa hè với bạn bè văn nghệ
sỹ xứ Nghệ. Ngay buổi đầu nghe nhà thơ Chu Vĩnh Phương, Trần Đức Thạch
đọc bài thơ trên của Tùng Bách tôi đã say mê mệt. Đêm về tôi đọc thơ cả
trong mơ… “Nhân dân không là Chí. Nhưng Chí là nhân dân. Chí- Phèo- Là-
Nhân – Dân- Làng- Vũ – Đại”. Vợ tôi cầm tóc giật “Ông ! Ông ! ăn nằm với
con mô mà dấu tôi”? Tôi tỉnh dậy ngơ ngác chưa biết mô tê gì thì ả tấn
công “Ông tưởng nói lái “Vũ Đại” là tôi không biết gì ạ!”. Thì ra thế.
Tôi phân trần cho ả nghe. Ả cười, tôi cười, cả hai nước mắt nhòe nhoẹt.
Cảm ơn “Giây lát với Chí Phèo” đã cho tôi một chút kỷ niệm suốt đời
không quên với bà vợ đã mất 2004. Không chỉ đọc trong mơ, ngay cả với
các quan trong những chuyến công tác, khi rượu “ngọt rồi” tôi cũng đưa
Chí Phèo ra đọc “Trên cao xanh, dưới đất dày, giữa nhí nhố một bầy. Dại gì không uống, tội gì không say”…
Làm các quan chạnh lòng, chuyển đề tài sang hát tình ca “Khúc hát sông
quê”, “Làng quan họ quê tôi” của nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo. Mạnh ai nấy
hát theo sở thích.
Mở đầu “Giây lát với Chí Phèo” nhà thơ
Tùng Bách không né tránh, cắc bụp ngay “Chí Phèo ạ! Chí Phèo chưởi không
sao. Tớ mà vậy e chừng vỡ mặt. Quan có tha thì nha cũng bắt. Kiện cáo
ư, ai đời cái kiến đi kiện củ khoai”. So với bài thơ “Nhân dân” của nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo thì Tùng Bách có một lối đi riêng, bắt đầu đưa cái
“tôi” cá thể để qua từng cung bậc nâng dần lên cái “ta”, ý tưởng lớn.
Đọc từng câu chữ “Chí… chưởi không sao, Tớ mà vậy…vỡ mặt, quan tha…nha bắt, Cái kiến…củ khoai”
nghe ra như một lát trải lòng, tâm sự, hóm mà đau, nhẹ mà trĩu buồn u
uất Thế đó, thời nào quan, dân, bất công, ức hiếp, cướp bóc cũng để lại
trong lòng nhà thơ bao trăn trở. Còn Nguyễn Trọng Tạo lại thẳng thừng
qua một triết lý và nghịch lý “Có thể thay quan, không thay được nhân
dân. Thay tên nước, không thể thay Tổ quốc. Nhưng sự thật khó tin mà có
thật. Không thể thay quan, dù quan đã thành sâu”. Trở lại “Anh Chí Phèo”
của Tùng Bách, khổ thơ tiếp theo “Trên cao xanh, dưới sâu dày. Giữa nhí
nhố một bầy. Tội gì mà không uống. Dại gì mà không say”. “Cao xanh” là
Trời, nghĩa bóng nữa thì tùy kẻ nào đó tự nhận lấy, nhưng “Dưới sâu dày”
(không phải đất dày) mới thật tuyệt. Thơ là thế, đọc cái này người ta
nghĩ đến cái kia. Chả thế mà Lê Qúy Đôn nói: Có ba loại người thẩm thấu
thơ, người ở bề da, người bề thịt, người ở xương cốt. Và xương cốt là
đỉnh cao của thi nhân. Thơ của Tùng Bách dần dần hiện lên ý tưởng, hồn
cốt, xương tủy “ Chí say, Chí chưởi tối ngày. Đau đầu Bá Hộ, rác tai xóm
làng. Chí chưởi ra rượu uống, cơm ăn, ra vườn cây ao cá. Muôn năm cái
nghề cạo mặt ăn vạ. Chỉ lo phí rượu, không lo phí đời”. “Chí Phèo làng
Vũ Đại” là tác phẩm lớn của nhà văn Nam Cao, đây là tác phẩm văn học
hiện thực phê phán một chế độ phong kiến thối nát, chỉ biết lo vun vén
cho đầy túi tham, đẩy người dân lành vào con đường khốn khổ, bần cùng.
Chí Phèo là hiện diện của tầng lớp đói khổ, cơ hàn, muốn lương thiện mà
không được, đành phải liều, phải khùng. Rùng rợn và đau xót quá khi Chí
phải mượn rượu, chọn nghề độc đắc vô nhị cạo mặt ăn vạ, để có cơm ăn, để
tồn tại như một bản năng. Rượu say Chí không biết đau khi rạch mặt, Chí
bất chấp cả cái chết nên các quan Bá Kiến, Bá Hộ phải sợ thằng khùng.
Để được tồn tại Chí phải trả giá quá lớn về thân xác, tinh thần. Nhưng
các quan tham giàu sụ lên, sống trong sơn hào hải vị, vợ bé vợ lớn, kẻ
ăn, kẻ ở đầy nhà lại không phải làm gì hết. Bài thơ “Giây lát với Chí
Phèo” qua từng cung bậc đã được đẩy lên một điểm cao mới, tầng tầng, lớp
lớp, với câu từ rất dân gian, nhưng đầy cảm xúc liên tưởng. “Tiên nhân cái thằng chỉ biết ăn xôi, không hề chịu đấm”.
Chí phèo chưởi thằng nào? hay nhà thơ chưởi, có thể cả hai, và cao hơn
nữa đó là nhân dân, tầng lớp bị áp bức, và thằng bị chưởi chắc chắn là
thằng quan. Mấy câu sau thật hay, hay vì lật ngược, lật xuôi đều đúng,
đều trúng “Nhân dân không là Chí. Nhưng Chí là nhân dân. Chí – Phèo- Là- Nhân- Dân- Làng- Vũ- Đại”.
Và rồi phần kết của bài thơ nghe đến gai góc, rờn rờn, nhưng nâng lên
một khái quát lớn tính nhân văn và trách nhiệm. Tuy vẫn giọng điệu của
anh Chí say nhè, nhưng nhà thơ rất tỉnh táo nâng tầm bài thơ cao hơn qua
mấy câu kết (không thể khác) dù sau này đã phải chữa lại cho nhẹ đi.
Qua điện thoại, Tùng Bách cũng nhận ra điều này, có chuyện là do bị sức
ép nào thì nhà thơ không nói.
“Đểu với đây thì đây đểu lại. Tưởng đây thích sống lắm à? Bao giờ dân nổi can qua…bao giờ?”
Nghe nói dạo còn làm biên tập ở Hội văn nghệ Vũng Tàu nhà thơ Tùng Bách
bị “đánh tơi tả” vì bài bài thơ này, ai đánh chắc không phải tìm hiểu
cũng biết, vì giới văn nghệ đều quí trọng nhà thơ xứ Nghệ này lắm, rất
nhiều bạn bè gọi anh là sư phụ thơ. Có lẽ đến chết tôi cũng không quên
được cái tài hoa có một không hai của ông Phan Sào Nam quê Nam Đàn. Giai
thoại kể rằng: Phan tiên sinh thi về bị trượt, không đi đường thẳng, mà
đi tắt qua mấy cánh đồng. Có mấy cô thôn nữ đang trỉa ngô, thấy tiên
sinh nho nhã liền ra câu đố trêu chọc: “Đưa chàng mấy hột ngô rang. Chàng đúc vô mô cho mọc, thiếp theo chàng từ đây”.
Vế ra đầy hóc búa có lẽ Trời cũng vái, vì ngô rang chín thì đúc làm sao
mọc cây được. Thấy đối phương vỗ trán, mặt nhăn nhó, mấy ả trỉa ngô bíu
nhau cười chờ Tiên sinh vái thua. Bất ngờ cụ Phan tìm thấy bí ẩn của từ
“đúc” (không phải trỉa) đầy nghịch ngợm, đến gần mấy ả chỉ chỉ xuống
mấn (váy) một cô đối ngay: “Nơi mô mà nắng không khô, mà mưa không tới, đúc vô mọc liền”.
Thật là tuyệt, tuyệt hơn cả Đế Thích giải nước cờ bí. Nhắc lại giai
thoại đó để nói rằng thơ của Tùng Bách cũng có những lúc biến hóa khôn
lường, làm người đọc từ nín thở rồi vỡ òa cười cùng nước mắt.
Khác với “Giây lát với Chí Phèo” của Tùng Bách, bài thơ “Nhân dân”
của Nguyễn Trọng Tạo, ngay sau khi tung lên mạng, hàng trăm vị đại biểu
Quốc hội xin in ra chuyền nhau đọc, mặc dù “Nhân dân” là bài thơ nhắm
thẳng vào các quan tham, rất oai hùng, không né tránh. Tác giả không
mượn nhân vật cụ thể nào để dẫn ý tưởng “những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi”… Mỗi câu từ của “Nhân dân” đều rất mãnh liệt “Ôi!
những ông quan không dân trên chót vót đỉnh trời. Có nghe tiếng tôi kêu
gào dưới đáy. Cả một tỷ tôi sao ông không nghe thấy. Vì tôi vẫn là
người, mà ông đã là sâu?”. Bốn câu kết này nhà thơ đã dùng chữ “tôi”
đại diện cho nhân dân, bằng nghệ thuật đối lập, không thể hòa nhập:
“Chót vót đỉnh trời – dưới đáy, người – sâu, tôi – ông quan”. Còn “ Giây
lát với Chí Phèo” của Tùng Bách tuy lấy Chí ra để trải lòng, trăn trở,
nhưng cả hai nhà thơ đều về tới đích: Vì nhân dân, vì sự công bằng dân
chủ. Đất nước đây đó đang xẩy ra nhiễu sự, quốc nạn tham nhũng len vào
từng ngõ ngách, nền kinh tế thâm thủng, biển Đông đang bị cướp, dân oan
đang “Đi lũ lượt, đi tràn ra đại lộ… Đi đòi lại những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi”…
Mỗi người dân Việt đều thể hiện lòng yêu nước bằng những hành động. Nhà thơ, nhà văn cũng biết xung phong: “Chở đạo bao nhiêu thuyền chẳng khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Thế sự nào thì thơ, văn vậy. Cả đời làm thơ, chỉ cần một bài, hoặc vài
ba câu neo lại cùng thời gian, sống mãi trong lòng bạn đọc đã là hạnh
phúc lắm. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và Tùng Bách đã có không ít những bài
thơ như thế.
12.2012
GIÂY LÁT VỚI CHÍ PHÈO
.
- Chí Phèo à! Chí Phèo chửi không sao
Tớ mà vậy e chừng vỡ mặt !
Quan có tha thì Nha cũng bắt
Kiện cáo ư ? Ai đời cái kiến đi kiện củ khoai !
- Cậu còn con còn vợ
Còn cái mà tương lai
Chứ ai coi thằng Chí ra gì mà thằng Chí phải coi ai ?
Trên cao xanh
Dưới sâu dày
Giữa nhí nhố một bầy
Tội gì mà không uống
Dại gì mà không say !
- Chí say Chí chửi tối ngày
Đau đầu bá hộ rác tai xóm làng
Chí chửi ra rượu uống , cơm ăn
Ra vườn cây , ao cá
Muôn năm cái nghề cào mặt ăn vạ
Chỉ lo phí rượu
Không lo phí đời !
-Tiên nhân những cái thằng chỉ biết ăn xôi
Không hề chịu đấm
Chí đâu phải thứ A Q vớ vẫn
Đây không quen xài món tinh thần
Nhân dân không là tớ
Nhưng tớ là nhân dân
Chí- Phèo- là- Nhân- dân-làng- Vũ- Đại
Đểu với đây thì đây đểu lại
Tưởng đây thích sống lắm à ?!
Thằng con nào rồi cũng ra ma
Cứ gì Chí Phèo ! Cứ gì Bá Kiến !
- Chí Phèo nhỉ
Giá ngày ấy cũng có thẩm mỹ viện
Chí Phèo đã là người lương thiện
Khỏi cần đến dao ?!
TÙNG BÁCH
About these ads
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 19
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 19
1. BẮC HÀN & TRUNG CỘNG
Tin vừa qua cho biết tàu Bắc Hàn bắt tàu đánh cá Trung Quốc và đòi tiền
chuộc. Quá quắt lắm rồi. Lần này không không phải là lần đầu. Bắc Hàn
chơi trò này đã vài lần như vậy rồi. Tục ngữ ta có câu " đánh chó phải ngó nhà chúa". Lẽ nào thằng đầy tớ lại dám đánh con chủ?
Mấy thằng du côn hùng hùng hổ hổ vậy chứ nhát lắm. Muốn xưng hùng xưng
bá, nó phải có người đỡ đầu. VIệt cộng oai hùng vì cậy thế Nga Tàu. Đến
lúc cơm không lành canh không ngon thì Lê Duẩn mới ký hiệp ước với Nga
rồi mới đem quân đánh Campuchia là thằng đầy tớ của Trung Cộng. Nga Tầu
đánh nhau, Việt Hoa giết nhau, Việt Nam xâm lăng Campuchia đâu có phải
là đấu tranh giai cấp. Ông Marx ơi, ông dậy mà nghe thiên hạ cười cợt
vào mặt ông!
A. Q. túm tóc Chí Phèo /để hai bác lính nhà nghèo cùng thua (Nguyễn Duy)
A. Q. túm tóc Chí Phèo /để hai bác lính nhà nghèo cùng thua (Nguyễn Duy)
Nay Bắc Hàn làm sao lại bắt tàu đánh cá Trung Quốc? Nó ăn mật gấu hay
uống lộn thuốc đây? Đấy cũng là trò bịp để cho thế giới biết là ta đây
độc lập, tự do, không phải là đầy tớ Trung Quốc! Thiêt là sai lầm. Bắc
Hàn đe dọa thì cho nó vài thoi chứ sao Mỹ, Nam Hàn cũng phải yêu cầu
Trung Quốc can thiệp? Bắc Hàn có phải con cháu, tôi tớ Trung Quốc đâu mà
hở một tí là thiên hạ mắng vốn Trung Quốc" Không biết dạy bảo con cái..."
Các ông có lầm không? Chúng nó là " một đồng một cốt" với nhau, kẻ tung
người hứng, kẻ đánh người xoa cho xôm trò. . Trung Cộng chơi trò ném đá
giấu tay. . Bắc Hàn láo xược là do Trung Cộng thúc đẩy sau lưng. Mai mốt
chiến tranh xảy ra cũng sẽ do Bắc Hàn làm đội quân Tiên phong còn ông
chủ Trung Quốc ung dung hầu non gái đẹp!.
2. ĐÀI LOAN & PHI LUẬT TÂN
Trung Cộng vẽ bản đồ lưỡi bò nhằm thôn tính thiên hạ. Đài loan cũng diễu
võ dương oai. Để rồi Đài Loan đánh giúp Trung Cộng hay cuối cùng Đài
Loan và Trung Cộng đánh nhau? Lẽ nào Đài Loan lại đánh Phi Luật Tân là
con nuôi của Mỹ, và như vậy là " gà nhà bôi mặt đá nhau" hay sao? Chúng ta chờ xem hồi sau phân giải.
3, NHẬT BẢN & CHÂU Á
Nếu Trung Cộng xuất binh, Mỹ có thể chần chừ nhưng Nhật Bản thì không.
Trung Cộng xâm lăng các đảo của Nhật thì Nhật sẽ trả đũa. Có lẽ Mỹ đã
mệt với vai trò "sen đầm quốc tế, " muốn về hưu non, Nhật sẽ thay Mỹ
làm cảnh sát Á Châu, bảo vệ Nhật Bản và hòa bình Á Châu. Thủ tướng Nhật
đã thăm Việt Nam, đã hứa hẹn giúp Miến Điện chống Trung Cộng xâm lược.
Nhật Bản đã giúp Phi Luật Tân mấy chục chiếc tàu. Đài RFI cho biết ngày
nay Ấn Độ và Nhật bắt tay trong chiến lược biển Đông.Anh Hai mệt thì có
anh Ba anh Tư hợp sức chiến đấu, thiên hạ đừng lo lắng làm gì! Riêng
anh Ba cũng đủ hạ Tàu Cộng đo ván. Thêm anh Tư thì sức mạnh của phe ta
nhất định thắng. (Ai theo Trung Cộng hay Trung lập thì cứ theo, tự do,
dân chủ mà, nhưng coi chừng vợ con, anh em nhà sẽ chửi cho, còn nhân
dân, nhất là ngư dân và dân oan sẽ cắt đầu các anh, kể cả các ông bên
Tây, bên Mỹ !)
4. VIỆT NAM & TRUNG CỘNG
Tuần vừa qua, tàu Trung Công lại đâm chìm tàu Việt Nam mà chẳng nghe quan chức Việt Nam lên tiếng.
Nó đâm một tàu chứ đâm chìm cả trăm tàu, chết hàng ngàn ngư dân, trung
ương vẫn bình chân như vại. Họ đang dự dại yến, họ đang tính toán cách
lầy thêm vài triệu, vài tỷ Mỹ Kim, còn mấy ngư dân thì có nghĩa lý gì?
Trung ương đang ăn nhậu, trung ương đang liên hoan, trung ương đang du
hí, trung ưong đang hoan lạc, thằng nào dám đến trước phòng trung ương,
bộ chính trị mà kêu réo om sòm?
Đúng là :"Sống chết mặc bay Tiền thầy bỏ túi"
Nhưng im lặng quá thì cũng kỳ. Đài RFI cho biết Ngày 27/05/2013, theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị, đại diện của Bộ Ngoại giao đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc trao công hàm phản đối vụ tàu Trung Quốc tấn công gây thiệt hại nặng cho tàu cá Việt Nam hồi tuần trước, trong khi con tàu này đang hoạt động tại vùng quần đảo Hoàng Sa, mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền
.http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130528-viet-nam-phan-doi-tau-trung-quoc-tan-cong-tau-ca-viet-nam
Đúng là :"Sống chết mặc bay Tiền thầy bỏ túi"
Nhưng im lặng quá thì cũng kỳ. Đài RFI cho biết Ngày 27/05/2013, theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị, đại diện của Bộ Ngoại giao đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc trao công hàm phản đối vụ tàu Trung Quốc tấn công gây thiệt hại nặng cho tàu cá Việt Nam hồi tuần trước, trong khi con tàu này đang hoạt động tại vùng quần đảo Hoàng Sa, mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền
.http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130528-viet-nam-phan-doi-tau-trung-quoc-tan-cong-tau-ca-viet-nam
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 263
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0263
No comments:
Post a Comment