SON TRUNG * CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN
CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN
Đinh Sơn quê ở ngoại thành Qui Nhơn. Thân phụ
ông làm lý trưởng, có một cái nhà ngói và vài mẫu ruộng. Khi Nguyễn
Nhạc khởi binh, bọn Lý Tài, Tập Đình cướp phá xóm làng, thân phụ của
Đinh Sơn không chịu cung ứng vàng bạc, lúa gạo cho bọn họ nên bị Lý Tài
kết tội là địa chủ, phong kiến, cường hào, ác bá rồi bắt giết. Đinh Sơn
sợ hãi, bỏ vợ con trốn vào Gia Định sinh sống qua ngày. Đinh Sơn không
được học hành nhiều cho nên vốn liếng chữ nghĩa cũng không là bao. Ông
theo một ông thầy bói ở Gia Định học nghề bói toán. Ít lâu sau, ông thầy
bói chết, Đinh Sơn nối nghiệp thầy mở một cửa hàng tướng số tại hương
lộ 18, sau trở thành tỉnh lộ, là con đường nối liền Gia Định và Tây
Ninh, và sau này thành khu Bà Quẹo, gần khu Bình Hưng Hòa.
Đinh Sơn làm ăn cũng khấm khá, mua được một căn nhà ngói ở mặt tiền,
và cũng đã lập một gia đình mới, gồm một vợ và ba con. Khu nhà Đinh Sơn
vốn xưa là một khu rừng. Sau khi chúa Nguyễn mở mang miền Nam, lập Gia
Định trấn, khu này trở thành khu tân lập, gồm những người Bắc, người
Thanh Nghệ theo Nguyễn Hoàng vào từ trước, và một số bà con người Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phan Rang vào sau. Những người này sinh sống
bằng nghề canh nông, một số đốn cây rừng từ Tây Ninh về cưa xẻ làm bàn
ghế đem về Gia Định , Đồng Nai bán. Một số chuyên buôn hàng từ biên giới
Miên Lào về Gia Định và chuyển hàng từ Gia Định đi Miên, Lào.
Khi quân Tây Sơn đánh thành Gia Định quân chúa Nguyễn thua
đậm. Chúa Nguyễn phải bỏ chạy ra ngoài. Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu tài
sản của những quan lại theo chúa Nguyễn, và những thương gia giàu có tại
miền Nam. Những tướng tá và binh lính chúa Nguyễn đều bị bắt giam trong
rừng sâu. Những thầy tu, thầy bói cũng bị giam giữ. Thậm chí có người
bị giết. Đinh Sơn cũng bị bắt giam một thời gian.
Bỉ
nhân cư ngụ tại Gia Định . Hôm hôm cưỡi ngựa đi thăm một người bạn ở
vùng này, nhân đi qua nhà nọ, thấy bảng hiệu “Đinh Sơn, chiêm tinh gia”
bèn xuống ngựa vào chơi. Vốn từ lâu, nghe danh Đinh Sơn nhưng chưa có
dịp gặp mặt. Nay qua đây, tôi muốn vào thăm. Đinh Sơn có nhà, ông vui vẻ
tiếp tôi. Trong khi ông xin phép vào nhà thay y phục, tôi nhìn xung
quanh thì thấy căn nhà cũng khá đầy đủ tiện nghi như bao gia đình bực
trung tại Gia Định lúc này, mặc dầu nền nhà có những vết cạy phá, chưa
kịp sửa sang. Đinh Sơn chuyên coi tử vi. Tại phòng khách , ông vẽ lên
tường một bản tử vi to bằng cái chiếu. Khi ông ra tiếp tôi, ông bưng ra
một khay trà mời khách. Chúng tôi cùng uống trà đàm đạo như hai người
bạn quen thân.
Ông bảo tôi viết tên tôi vào tay rồi nắm lại. Tôi che kín
tay và viết tên tôi, thế mà ông nói rõ tên tôi. Tôi hỏi ông lá số của
ai trên tường. Ông bảo đó là lá số của ông, rất giống lá số Nguyễn Nhạc,
là lá số làm giặc, làm vua. Nhưng ông không làm vua được, mà làm giặc,
làm kẻ chống đối bạo quyền, vì cung mệnh của ông có Sát, Phá tọa thủ.
Ông cho biết, ông làm nhiều nghề. Khách muốn trừ tà, xin bùa ngãi, ông
đều có. Ông bảo nhà ông có phủ thờ thần linh. Ông dẫn tôi lên xem. Trên
gác, ông có cả một phủ thờ gồm khoảng một trăm bát nhang. Ngày rằm ,
mồng một và mỗi đêm , ông đều cúng kiếng thờ phụng nghiêm chỉnh.
Ông là
một thầy bói và cũng là một thầy pháp. Ông kể chuyện khi quân Tây Sơn
vào, ông bị giam một năm. Nằm trong tù rất khổ sở, thân hình gầy ốm như
quỷ đói. Khi ông ra tù về nhà thì nhà cửa bị cướp phá. Bọn quan quân Tây
Sơn và bọn lưu manh lấy các cửa ngõ, dở gạch ngói nhà ông để xây nhà
chúng, hoặc bán chợ trời. Ông nói:
-Thưa ông, vài tháng
nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập
chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó
đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.
Ông bưng chén trà uống một hơi rồi nói tiếp:
-Chúng nói chống mê tín, dị đoan, nhưng sự thực là chúng
muốn độc quyền buôn thần bán thánh. chúng sợ các thầy bói cạnh tranh với
chúng, cướp nghề của chúng. Nguyễn Nhạc vốn làm nghề buôn lậu, ăn cướp.
Nguyễn Nhạc cho bộ hạ đốt lửa trên núi, giả làm thần linh, kêu Nguyễn
Nhạc lên nhận kiếm thần. Nguyễn Nhạc ghét thầy bói vì sợ dân nghe lời
thầy bói mà chống lại chúng. Ngày nay, có hai loại thầy bói. Một loại
không theo chúng thì bị chúng khủng bố và bắt giam.
Một số theo chúng
thì trong nhà đã có người của Tây Sơn phục sẵn. Ai có ý chống triều
đình, hớ hênh đến xem việc thành bại, hay chọn ngày hưng binh, hoặc tỏ ý
bất mãn, phê phán triều đình thì chết với chúng. Nếu thường dân đến xem
xuất hành cát hung thì thầy bói hỏi đi xa hay đi gần. Nếu đi xa thì bất
lợi, mà đi sông biển tất chết.
Ông kể chuyện nhà
của ông. Ông có hai đứa con trai với bà vợ trước ở ngoài Quy Nhơn. Chúng
hăng hái theo Nguyễn Nhạc. Sau khi quân Tây Sơn nhập thành Gia Định,
chúng tìm vào thăm ông. Chúng ở lại khoảng hai tháng thì về. Ngày chúng
về quê, ông mua vải vóc, sâm nhung , và cho chúng mỗi đứa vài lượng
vàng. Mấy ngày trước, chúng rất mềm mỏng, hiếu thảo, nhưng sau khi nhận
vàng, chúng trở mặt. Chúng chỉ mặt ông chửi mắng.
Thằng cả nói::
-Ông không phải là bố tôi. Ông là một thằng giặc. Ông bỏ quê
hương Quy Nhơn và Đại đế Nguyễn Nhạc, mà chạy vào Nam theo ngụy quyền
Nguyễn Ánh. Ông bỏ chính nghĩa theo giặc bán nước. Ông là đồ phản bội
dân tộc, phản bội tổ quốc.
Thằng hai tiếp theo:Vi ông mả chúng tôi khổ. Chúng tôi không ngửng đầu lên nổi. Chúng tôi bị lý lịch xấu, bị triều đình nghi kị, hành hạ vì có thân phụ bỏ vào Nam. Chúng tôi xấu hổ vì ông. Ông vào Nam theo giặc, ông còn làm nghề bói toán là nghề mê tín dị đoan, lừa dối và bóc lột nhân dân. Người như ông phải ngồi tù suốt đời mới cải tạo được tư tưởng đồi trụy và lạc hậu!
Cuộc gặp gỡ đó cho tôi một cảm giác buồn. It lâu sau, tôi có việc phải qua vùng này. Khi đi qua nhà Đinh Sơn thì thấy quanh cảnh quạnh hiu. Ngôi nhà có vết đạn và vết cháy xém. Tôi ghé một nhà cách nhà Đinh Sơn vài căn , vào xin bát nước lã. Tôi hỏi bà cụ chủ nhà:
-Thưa bà , tại sao ngôi nhà bên cạnh trông tiêu điều lại có vết đạn và vết cháy như thế? Chủ nhân ngôi nhà là ai?
Bà chủ nhà cho biết câu chuyện như sau:
-Đó là nhà của ông thầy bói Đinh Sơn. Ông có lệnh tập trung
cải tạo nhưng ông không chịu đi.. Ông cho vợ con đi ở chỗ khác. Huyện
phái hai tên lính Tây Sơn đến nhà bắt ông lên huyện trình diện. Ông cầm
dao đâm chết một tên. Tên thứ hai sợ hãi chạy ra ngoài. Giờ sau, lính
Tây Sơn kéo đến nhà ông vây chặt. Ông đóng cửa, đứng trên gác bắn súng
và cung tên sát hại vài tên. Hết tên, ông ném tạc đạn, và phóng lao.
Quân Tây Sơn bắn súng, bắn tên và phóng gươm giáo vào nhà ông. Hai bên
giao chiến một ngày. Thiên hạ kéo đến xem đông như ngày hội. Cuối cùng
ông mở tạc đạn tự sát.
Nghe tin ông mất trong một hoàn cảnh bi hùng như vậy, tôi rất buồn. Trong khi bao nhà khoa bảng và bao nhà tu hành bỏ nhân nghĩa, cúi đầu, khom lưng trước bạo quyền, Đinh Sơn là một kẻ thất phu, dám đem tính mạng tranh đấu cho tự do và chống lại kẻ ác. Riêng đối với tôi, tôi cũng vô cùng cảm kích vì tấm thịnh tình của ông. Thời buổi loạn ly, cha con không dám tin nhau, vợ chồng tố cáo nhau, bè bạn phản trắc, xóm giềng rình rập vu khống để tâng công, thế mà gặp tôi lần đầu, ông đã thật dạ tin tôi, coi như tri kỷ, kể hết chuyện lòng. Nghe đâu sau vụ Đinh Sơn tuẫn tiết, triều đình bỏ lệnh tập trung và cải tạo các thầy bói.
Nghe tin ông mất trong một hoàn cảnh bi hùng như vậy, tôi rất buồn. Trong khi bao nhà khoa bảng và bao nhà tu hành bỏ nhân nghĩa, cúi đầu, khom lưng trước bạo quyền, Đinh Sơn là một kẻ thất phu, dám đem tính mạng tranh đấu cho tự do và chống lại kẻ ác. Riêng đối với tôi, tôi cũng vô cùng cảm kích vì tấm thịnh tình của ông. Thời buổi loạn ly, cha con không dám tin nhau, vợ chồng tố cáo nhau, bè bạn phản trắc, xóm giềng rình rập vu khống để tâng công, thế mà gặp tôi lần đầu, ông đã thật dạ tin tôi, coi như tri kỷ, kể hết chuyện lòng. Nghe đâu sau vụ Đinh Sơn tuẫn tiết, triều đình bỏ lệnh tập trung và cải tạo các thầy bói.
Monday, August 12, 2013
NGUYỄN KHẮC XƯƠNG * TẢN ĐÀ
Thi sĩ Tản Đà
Tản Đà với công trình biên khảo Truyện Kiều – VHNA
24 Tháng 3 Nguyễn Khắc XươngSau khi Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời mà nguyên tác có tên là Đoạn trường tân thanh, đã có nhiều người khảo cứu biên soạn Kiều, từ đó mà có nhiều tập truyện Kiều với những tên gọi khác nhau, vấn đề ở đây là văn bản truyện Kiều để có thể đi tới một văn bản Kiều chính xác, gần hoặc đúng với nguyên tắc hơn cả.
Bản Nôm thuộc lớp đầu là Kim Vân Kiều tân truyện của Phạm Quý Thích cùng thời với Nguyễn Du in khắc vào năm 1830 nhưng đã thất lạc. Sau còn nhiều bản Kiều Nôm khác như Thanh tâm tài tử 1830 (có Tổng thuyết của vua Minh Mệnh), Đoạn trường tân thanh
1871 (có bài Tổng từ vua Tự Đức), bản này sau được gọi là bản Kinh gốc.
Các nhà sách ở Hà Nội như Liễu Văn Đường, Quan Văn Đường, Phúc Văn
Đường v.v… đều có in ấn những bản Kiều Nôm trong đó đáng chú ý có bản Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu (soạn theo bản Kinh), Quan Văn Đường in ấn (1902 – Thành Thái), bản Kim Vân kiều tân tập cũng Quan Văn Đường in (1906 – Thành Thái).
Bản Kiều Quốc ngữ đầu tiên có lẽ là bản Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký (1875), Nguyễn Văn Vĩnh biên soạn Kiều năm 1912, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim có Truyện Thúy Kiều, Vĩnh Hưng Long thư quán Hà Nội xuất bản (1927). Nói chung đã có tới trên 40 văn bản Truyện Kiều được phát hiện trong đó có nhiều học giả soạn Kiều bằng chữ Quốc ngữ như Bùi Khánh Diễn, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Kim Chỉ, Nguyễn Can Mộng, Hồ Đắc Hàm, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim v.v… (trước Cách mạng).
Về văn bản học, các nhà biên khảo đều mong khôi phục lại diện mạo
chân thực của tác phẩm, các phần hiệu đính và khảo dị chính là nhằm mục
đích đó. Đó là phương pháp so sánh để phân biệt đúng sai nhằm tìm ra
chân lý, đặt ra trước bạn đọc một bản Kiều mà nhà biên khảo cho là sát
hợp với nguyên tác hơn cả.
Quyển Vương Thúy Kiều của Tản Đà nguyên là một di cảo, sau
khi nhà thơ qua đời, gia đình tìm thấy bản thảo trong một chiếc bồ, mới
đưa cho ông Vũ Đình Long, chủ nhân Nhà xuất bản Tân Dân trong một buổi
ông tới thăm gia đình. Bản thảo này mất hẳn trang cuối, còn lại đều được
đầy đủ gồm có lời tựa, phần “Nguyễn Du tiên sinh tiểu truyện” và “Mấy
lời nói về thể lệ trong quyển” rồi đến phần soạn Kiều đề là Vương Thúy
Kiều chú giải tân truyện, nhà xuất bản Tân Dân in và phát hành vào năm
1941, tới 1952 Nhà xuất bản Hương Sơn đã in lại.
Cũng như các bản Kiều khác, bản Kiều của Tản Đà cũng có hiệu đính, có
chú giải, nhưng phần đặc sắc của bản Kiều Tản Đà chính là ở các lời
bình văn, bình luận về văn chương, về từ ngữ, giúp người đọc thưởng thức
sâu hơn về tác phẩm, nhận thức thâm thúy về giá trị văn học của Truyện
Kiều – Nguyễn Du.
Với câu “Phong tình có lục còn truyền sử xanh”, Tản Đà viết: “Phong tình có lục nghĩa là có cái bản truyện phong tình, chữ có (Bản Triều Nguyễn Thạch Giang (1973) viết là cổ, bản Bùi Khánh Diễn (1851- 1912) cũng chép là cổ).
Về câu “Ngày xuân con én đưa thoi”, Tản Đà chú: “Câu này
muốn nói ngày xuân đi nhanh thấm thoắt mà nhân cảnh xuân có những con én
bay đi bay lại, cho nên đặt như đây là lời văn tả cảnh. Có bản giảng vì
cái thoi dệt cửi làm như hình con chim én, nghĩa đó thực sai”.
Như vậy cau “phong tình có lục” là hiệu đính văn bản còn câu “Ngày
xuân con én” là đính chính chú giải của một số nhà biên khảo khác.
Có chỗ chú giải mà là hiệu đính, hiệu đính mà cũng bàn tới văn lý như câu:
Sắm sanh nếp tử xe châu
Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Câu này là ở đoạn có “người khách viễn phương” tìm đến với Đạm Tiên
thì nàng đã mất rồi. Khách “Khóc than khôn xiết sự tình” rồi đắp mộ cho
Đạm Tiên. Tản Đà viết ở chú: “Hai chữ “bụi hồng” đây chỉ là lời văn
lịch sự nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản đề là “vùi nông” thời
làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có
trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý”.
Đọc Kiều mà nhận thức câu, chữ như thế thật là sâu kỹ. Quả là khách
đã “khóc than khôn xiết”, đắp mộ cho Đạm Tiên hẳn là phải có tâm hồn
đồng điệu của nòi tình, làm sao lại có thể là “vùi nông” cho được.
Về câu:
Cửa sài vừa ngỏ then hoa
Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang.
Các bản Nôm cũng như Quốc ngữ đều chép “cửa sài” và chú “sài là sài
môn, xếp củi làm cửa”. Tản Đà sửa là: “Cửa ngoài…” và chú: “Cửa ngoài
tức là cửa ngăn. Chữ này có nhiều bản in là cửa sài là lầm. Vì cửa sài
là bởi chữ “sài môn” là cái cửa làm bằng củi hay nhánh tre, là cửa ngõ
của những nhà nghèo hay những người cao đạo ẩn dật chớ không phải là cái
thái độ(1) của nhà Ngô Việt thương gia”.
Về câu: “Đêm thâu khắc lậu canh tàn”, Tản Đà chú: “Câu này chữ vợi các bản đều để chữ lậu là lầm, mà chữ thâu thì có nhiều bản đề là thu.
Song cứ theo văn thế và tôi có được nghe thì chữ thâu, chữ vợi, chữ
tàn, ba chữ cùng nghĩa mà có hơi khác, nghĩa là đêm càng thâu, ngày càng
vợi, canh càng tàn. Câu đây và câu sau (Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương) thực là hai câu tả tình cảnh rất hay cho nên cần phải biện bạch. Một chữ trút ở câu dưới nghe cũng khác thường, đủ thấy chỗ dụng công của tác giả”.
Như vậy, Tản Đà vừa đính chính từ, vừa hiệu đính câu, mà cũng làm công việc bình văn luôn trong đó.
Các bản Kiều thường là chỉ làm công việc chú giải và hiệu đính mà
không có bình luận văn chương nhưng ở bản Kiều Tản Đà phần bình văn lại
là phần quan trọng với những nhận xét tinh tế, có những phát hiện độc
đáo. Một điểm đặc sắc trong các lời bình văn Kiều của Tản Đà là có lời
khen cũng có chê, không chỉ tán tụng một chiều, mà đi vào phân tích câu
và từ để có những nhận xét xác đáng. Tản Đà cho biết: “Phàm các việc
giảng giải trong bản đây cốt để tỏ cái hay khéo trong văn chương cho
được rõ chỗ tinh thần của tác giả, mà nếu có những chỗ đáng hồ nghi về
văn lý cũng xin chỉ rõ những chỗ hồ nghi ấy mong để độc giả cùng nhận
coi”.
Với lời Kiều sau khi thăm mộ Đạm Tiên:
Người mà đến thế thời thôi
Đời Phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tản Đà khen: “Mấy câu đây thật tài tình! Dùng hai chữ “người” mà
trên nói được ra Đạm Tiên, dưới nói được ra Kim Trọng, sự linh động ở
hai chữ khiến(2) là chữ “mà” và chữ “đâu”.
Về câu:
Vắng nhà được buổi hôm nay
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.
Tản Đà tán thưởng: Hai chữ “lòng” trong câu đây rất có màu nhiệm. Nguyên trên kia lời Kim Trọng: “Trách lòng hờ hững với lòng”,
cũng hai chữ “lòng” nói buông không mà một chữ trên nói Kiều, chữ dưới
thời nói vào mình. Cho nên trong câu đây hai chữ, chữ trên nói vào mình
mà chữ dưới nói chàng Kim, thực là giọng tri âm với nhau lắm”.
Câu:
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Tản Đà nhận xét: “Chữ gã đây thật mới mà nghĩ ra không thể có đặt chữ gì hơn. Tác giả thật cũng đã tốn công” – “chữ đứa cũng mới, đi theo với chữ gã, thật hay”.
Với câu “Mày ai trăng mới in ngần”, các bản Kiều có bản
chép “Mày ải” như bản Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Vĩnh, cũng có bản chép “Mày
xanh” như bản Bùi Kỷ. Tản Đà chép là “Mày ai” và chú: “chữ ai” trong câu
đây là nói về Kiều, trông thấy trăng đầu tháng in cái vệt cong mà tưởng
như lông mày của ai vậy.
Theo Nguyễn Văn Hoàn cho biết: “Trong báo Khuyến học số 4
(15-10-1935), Tản Đà giảng nghĩa câu thơ trên như sau: “Chữ ai trong câu
đây là chỉ vào Kiều. Thúc Sinh trông thấy “trăng mới in ngần” mà nghĩ
như cái lông mày của ai. Tứ văn giống như trong Trường hận ca, Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quý Phi có câu: “Phù dung như điện, liễu như mi”. Tiến lên một bước nữa, Tản Đà chê bản Kiều của Bùi Kỷ chép “Mày xanh” là vô vị”(3).
Không rõ cụ Nguyễn Du viết “Mày ai” hay “Mày xanh” nhưng xét về mặt
văn tự, “Mày ai” rõ ràng hơn “Mày xanh” vì “Mày xanh” chỉ tả được cái
hình dạng, còn “Mày ai” mới tả được tâm trạng của Thúc Sinh nhớ Kiều và
cũng gợi lên hình bóng một con người.
Đoạn tả cảnh Giác Duyên dựng lều bên sông Tiền Đường để đợi đón Thúy Kiều theo lời thần mộng có câu:
Đánh tranh lợp mái thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Tản Đà khen câu tám: “Câu này lời văn rất đẹp”.
Đoạn Kiều giãi bày tâm sự với Thúy Vân, kể từ câu:
Rằng lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong…
Cho tới câu:
Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tất cả là 19 câu lục bát, Tản Đà nhận xét: “Trong cả quyển Kiều,
văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây. Đoạn này thật lâm ly mà như
thế mới hết tình sự”.
Trong đoạn Thúy Kiều dựa thế Từ Hải báo ân báo oán có câu nói về
Kiều đón mụ quản gia nhà Hoạn Thư và sư Giác Duyên lên ngồi cạnh:
Dắt tay mở mặt cho nhìn
Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
Tản Đà có một câu nhận xét bất ngờ mà thú vị: “Xem hai chữ “mở mặt”
trong câu đây, có lẽ sự ăn mặc của Kiều trong lúc ấy có chàng mạng che ở
trước mặt chăng?”.
Có lẽ chưa có ai biên khảo và đọc Kiều lại chú ý chi tiết đến tỉ mỉ như vậy.
Tản Đà có những nhận xét đột ngột rất thú vị như với câu:
Lạy thôi nàng lại chưa tường
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
Tản Đà viết: “Hai chữ “nghĩa chàng” ngẫm rất buồn cười. Câu này, tác giả cũng vì cô Kiều được thế mà làm nũng”
Ý kiến Tản Đà và khái niệm “nghĩa chàng” ở đây có phần khó hiểu, tại sao lại “rất buồn cười” và “làm nũng”?
Trong những nhận xét về văn Kiều, Tản Đà không chỉ ca ngợi tán tụng
như số đông người viết về văn chương truyện Kiều, không chỉ dành cho
tác giả những dấu son khuyên đỏ thắm mà còn đặt ra những dấu hỏi, chỉ ra
những chỗ theo Tản Đà là yếu kém, là chưa hợp lý. Quả là Truyện Kiều
của Nguyễn Du cũng có những tình tiết bất hợp lý, người đọc cũng như nhà
biên khảo cứ xuôi theo mạch chuyện, dòng văn mà không để ý, nhưng Tản
Đà đã thấy và chỉ ra được. Chẳng hạn đoạn Kim Trọng thuê nhà trọ ở giáp
với nhà Thúy Kiều, Trọng lại là bạn của Vương Quan, ợ trọ đã được hai
tháng:
Nhận từ quán khách lân la
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Tản Đà nhận xét: “Nghĩa là gần hai tháng – Nhân câu này ngẫm ra
thấy có một tình sự đáng buồn cười. Kim Trọng với Vương Quan là chỗ bạn
học thân, mà Trọng đến trọ sau nhà Quan đã gầnhai tháng, hai người không
hề sang chơi nhau, mà Kim để ý ngấp nghé một sự khác. Chỗ đó nghĩ sao
cho hợp tình?”.
Quả “chỗ đó” cũng đáng cho chúng ta đặt một dấu hỏi.
Cũng một chỗ đáng hồ nghi khác, đoạn Kim Trọng tặng Kiều vài vật làm kỷ niệm:
Vội về thêm lấy của nhà
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Tản Đà đặt một dấu hỏi: “Câu này nghĩ đáng hồ nghi, vì lẽ Kim Trọng
trong chỗ du học làm gì có “xuyến vàng” đem theo? Mà cũng không phải là
cái vật của học trò con trai thường có”.
Đọc Kiều đến như thế, rõ ràng có một sự nghiền ngẫm sâu vào tinh thần nghiêm túc cao.
Tản Đà chê câu “Chày sương chưa nện cầu Lam” theo điển
tích Bùi Hàng – Vân Anh bên Trung Quốc: “Cứ điển tích của câu này như
thế mà đây đại ý chỉ là nói chưa thực lấy nhau. Vậy thời sáu chữ đây văn
quá cầu kỳ mà một chữ “nện” nghe thấy rất nặng nề, những chỗ như đó
tưởng người xem truyện cũng nên xét”.
Trong đoạn tả Từ Hải chia tay Thúy Kiều có câu:
Trông vời trời bể mênh mông
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Tản Đà có ý kiến: “Trong câu này hai chữ “thẳng giong” ngẫm ra chưa
được tinh tế, vì ở dưới còn có lời Kiều muốn theo. Nếu quả thật Từ đã
“lên đường thẳng giong” thời nàng còn nói sao được nữa. Cho nên như chữ
đó có thể gọi là vội lời”.
Trong các câu mà Tản Đà Phê, có một câu với một từ đã khiến Tản Đà chê trách nặng nề, đó là câu: “Xét mình công ít tội nhiều”,
lời Kiều nói về Hồ Tôn Hiến trong tiệc hạ công (mừng công) của họ Hồ.
Tản Đà phê: “Chữ “công” trong câu này nghe không được yên nghĩa; vì sự
giết Từ Hải; tự Kiều không nên nói là công”.
Ở một số Đông Pháp thời báo (Diệp Văn Kỳ – Sài Gòn), Tản
Đà viết: “Như quyển truyện Kiều của ông Nguyễn Du, sự hay không còn phải
nói nữa, song đến như câu: “Nghĩ mình công ít tội nhiều”, một
chữ “công” đó thật quá dốt! Là sao? Như Từ Hải mà chết là do nghe lời
Thúy Kiều khuyên, như Thúy Kiều mà khuyên chỉ là do cái bụng đàn bà nông
nổi. Nay đặt như câu đó thời ra Kiều lập chí lấy sự giết Từ Hải làm
công, thời Thúy Kiều không còn chút giá trị. Thúy Kiều đã không có giá
trị thời như quyển truyện Kiều đó còn hay với ai mà cảm khái với ai!
(ĐPTB số 638-1927).
Từ xưa tới nay, không một nhà bình luận văn học, biên khảo Truyện Kiều
nào đã hạ bút “phê” Kiều, chỉ ra những chỗ “yếu kém” hoặc chưa đạt
trong tác phẩm của Tiên Điền. Người đọc chỉ được thấy những lời ca tụng,
tán dương cái hay cái đẹp cái tài tình ở Kiều. Duy chỉ có một Tản Đà
đọc Kiều, biên khảo Kiều dám làm cái việc chưa ai dám làm ấy. Những ý
kiến của Tản Đà đã giúp cho người đọc có một nhận thức sâu sắc nhiều mặt
về Kiều chống lại sự sùng bái ca ngợi một chiều làm hẹp đi tầm nhận
thức và tư tưởng khi tiếp cận Kiều.
Tản Đà “phê” Kiều như ở đoạn chê chữ “công” trong câu: “Xét mình
công ít tội nhiều”, lời Kiều nói với Hồ Tôn Hiến như trích dẫn trên cũng
là biểu hiện, minh chứng cho quan điểm của Tản Đà trong thưởng thức văn
chương. Thực vậy, đây không chỉ là ý kiến của nhà thơ bất ngờ nảy sinh
khi đọc Kiều mà thuộc về quan điểm có tính lý luận, bảo đảm tinh thần
khách quan, khoa học và bảo đảm tự do tư tưởng trong thưởng thức văn
học.
Tản Đà viết về Người xem văn, nêu lên ý kiến: “…nên phải
có một cái bụng thực công bằng, nghĩa là chỉ cứ luận ở văn mà không nên
chú ý ở tên người tác giả; nếu một quyển sách, một bài văn mà tác giả là
cụ thượng, ông nghè hoặc danh nhân danh sĩ thời sẵn lòng cho là hay.
Cái tâm lý đó rất là nhu nhược mà tức là bị cái thế lực của người làm ăn
áp đảo được mình. Đã như thế thời xem đến một bài văn, quyển sách của
một người đơn thường có sẵn để một bụng coi thường. Vậy do cái bụng
không công bằng ấy mà thành ra mình tự lầm, vì có nhiều khi cái danh với
cái thực không đúng nhau mà thiên hạ kỳ văn thường ở những chỗ vô danh
vậy”. (ĐPTB).
Đoạn bình và phê từ “công” trong truyện Kiều chính là một đoạn tiếp
sau đoạn văn dẫn trên, Tản Đà “phê” Nguyễn Du cũng để minh chứng cho
quan điểm về người xem Văn của mình, đến như cụ Nguyễn Du với tác phẩm
Kiều mà còn có từ dùng chưa chính xác, còn chịu phê là “Thật quá dốt”
khi dùng từ “công” huống chi là những tác giả, tác phẩm khác.
Quan điểm thưởng thức văn chương mà Tản Đà nêu lên là khoa học và
đúng đắn, còn việc Tản Đà phê như vậy là đúng hay sai xin để các bạn đọc
Kiều cho ý kiến.
Biên khảo Truyện Kiều, Tản Đà đã tỏ ra có tâm huyết với cổ
văn, trân trọng với tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du, có như vậy mới dấn
mình vào một công cuộc khảo cứu đòi hỏi nhiều tâm và lực về một tác phẩm
văn học lớn. Tản Đà cũng cho thấy tất cả công phu, tinh thần nghiêm túc
và sự tinh thế, nhạy cảm thẩm mĩ khi biên soạn Kiều, đặc biệt là với
những câu xưa nay không ai có nhận xét gì. Tản Đà đã lật ra được những
điều cần lưu ý. Tập Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện của Tản Đà là một đóng góp có ý nghĩa vào kho tàng văn học truyền thống. Cũng qua Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện chúng ta hiểu Tản Đà hơn, thấy được ở Tản Đà một nhà Nho uyên bác và một nhà thơ đầy bản lĩnh.
Chú thích:
1. Từ “thái độ” có lẽ là lỗi in sai? Nên hiểu là phong thái hay phong độ.
2. Chữ “Khiến” ở đây cũng không có nghĩa. Không rõ có phải là lỗi in sai?
3. Theo Nguyễn Văn Hoàn trong Nghiên cứu văn học số 6-1962.
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1997 (tr.760-771)
Saturday, August 10, 2013
TIN THẾ GIỚI
Đảng lập 7 đoàn kiểm tra tham nhũng : Đấu đá nội bộ đang diễn ra tại Việt Nam?
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh chụp 19/01/2011 - Reuters
Bản tin Thông tấn xã Việt Nam đề ngày 08/08/2013 cho biết,
ngày 06/08 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương
về phòng chống tham nhũng đã ký quyết định thành lập 7 đoàn kiểm tra các
vụ tham nhũng nghiêm trọng. Các đoàn này sẽ hoạt động từ ngày 15/08 đến
ngày 30/09/2013.
Trong số các trưởng đoàn có đến hai ủy viên Bộ Chính trị là các
ông Ngô Văn Dụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, và ông Trần Đại
Quang, Bộ trưởng Bộ Công an. Ông Dụ sẽ làm việc với Thanh tra Chính phủ
và Thành phố Hồ Chí Minh, ông Quang đảm nhiệm Hà Nội, Hải Phòng. Các địa
phương khác được kiểm tra là Cần Thơ, Đồng Nai, Hải Dương, Hưng Yên,
Đắc Lắc, Bình Thuận, Cà Mau, An Giang.
Riêng ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương đồng thời là Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng làm trưởng đoàn số 3, sẽ kiểm tra Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Tòa án Nhân dân Tối cao. Ông Nguyễn Bá Thanh có vai trò quan trọng vì được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và tổng hợp kết quả kiểm tra để báo cáo Bộ Chính trị trước ngày 30/11/2013.
Được biết Ban Chỉ đạo về phòng chống tham nhũng trước đây thuộc Chính phủ, tức do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo. Sau Hội nghị Trung ương 6, cụ thể là từ ngày 01/02/2013, ban này trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng bí thư làm trưởng ban.
Đáng chú ý là trước đó vào đầu tháng Tám báo chí trong nước đưa tin, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với kết luận của Bộ Tài nguyên Môi trường và Thanh tra Chính phủ đối với các sai phạm về đất đai tại Đà Nẵng. Theo báo cáo của Thanh tra, thì thành phố Đà Nẵng đã vi phạm các quy định về quản lý sử dụng đất, gây thất thu ngân sách trên 3.434 tỉ đồng. Bộ Tài nguyên Môi trường nêu thêm một số vi phạm, và kiến nghị kiểm điểm các tập thể, cá nhân liên quan.
Ông Nguyễn Bá Thanh là cựu Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng, và trước đây cũng từng là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Ông Thanh cũng như tân Chủ tịch Đà Nẵng hiện nay đều bác bỏ thẳng thừng các cáo buộc của Thanh tra Chính phủ, và khẳng định Đà Nẵng không sai phạm trong quản lý đất đai.
Dư luận cũng chú ý đến thông tin mới đây về việc Bộ Chính trị bổ nhiệm ông Bùi Văn Nam, Bí thư Ninh Bình làm Thứ trưởng Bộ Công an. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị điều động một ủy viên trung ương vào bộ máy chính phủ, và lại đặt vào một Bộ quan trọng là Công an, trong khi lâu nay các chức vụ Thứ trưởng là do Thủ tướng bổ nhiệm.
Người ta đặt ra câu hỏi, liệu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang bị suy yếu, và cuộc tranh giành quyền lực giữa Đảng và Chính phủ ở Việt Nam lại bắt đầu gay cấn ?
Riêng ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương đồng thời là Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng làm trưởng đoàn số 3, sẽ kiểm tra Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Tòa án Nhân dân Tối cao. Ông Nguyễn Bá Thanh có vai trò quan trọng vì được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và tổng hợp kết quả kiểm tra để báo cáo Bộ Chính trị trước ngày 30/11/2013.
Được biết Ban Chỉ đạo về phòng chống tham nhũng trước đây thuộc Chính phủ, tức do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo. Sau Hội nghị Trung ương 6, cụ thể là từ ngày 01/02/2013, ban này trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng bí thư làm trưởng ban.
Đáng chú ý là trước đó vào đầu tháng Tám báo chí trong nước đưa tin, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với kết luận của Bộ Tài nguyên Môi trường và Thanh tra Chính phủ đối với các sai phạm về đất đai tại Đà Nẵng. Theo báo cáo của Thanh tra, thì thành phố Đà Nẵng đã vi phạm các quy định về quản lý sử dụng đất, gây thất thu ngân sách trên 3.434 tỉ đồng. Bộ Tài nguyên Môi trường nêu thêm một số vi phạm, và kiến nghị kiểm điểm các tập thể, cá nhân liên quan.
Ông Nguyễn Bá Thanh là cựu Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng, và trước đây cũng từng là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Ông Thanh cũng như tân Chủ tịch Đà Nẵng hiện nay đều bác bỏ thẳng thừng các cáo buộc của Thanh tra Chính phủ, và khẳng định Đà Nẵng không sai phạm trong quản lý đất đai.
Dư luận cũng chú ý đến thông tin mới đây về việc Bộ Chính trị bổ nhiệm ông Bùi Văn Nam, Bí thư Ninh Bình làm Thứ trưởng Bộ Công an. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị điều động một ủy viên trung ương vào bộ máy chính phủ, và lại đặt vào một Bộ quan trọng là Công an, trong khi lâu nay các chức vụ Thứ trưởng là do Thủ tướng bổ nhiệm.
Người ta đặt ra câu hỏi, liệu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang bị suy yếu, và cuộc tranh giành quyền lực giữa Đảng và Chính phủ ở Việt Nam lại bắt đầu gay cấn ?
Nhân quyền vẫn cản trở việc bán vũ khí Mỹ cho Việt Nam
David Shear, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam (princeton.edu)
Đại sứ quán Mỹ ngày 08/08/2013 vừa qua đã bác bỏ thông tin
đăng trên báo chí Việt Nam, theo đó, trong cuộc họp báo hôm 07/08 về
chuyến công du Hoa Kỳ mới đây của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và các
vấn đề liên quan đến quan hệ Việt-Mỹ, đại sứ David Shear đã tuyên bố
rằng nhân quyền tại Việt Nam « đã có những bước cải thiện đáng kể ».
Trao đổi với báo chí ngày 07/08/2013, Đại sứ David B. Shear cho rằng xung quanh vấn đề này từ đầu năm 2013 đến nay Việt Nam « đã có những bước cải thiện đáng kể »". Theo đại sứ quán Mỹ, nói đại sứ David Shear phát biểu nhân quyền Việt Nam "đã có những bước cải thiện đáng kể" là « sai sự thật ».
Ngay sau khi phát hiện thông tin sai sự thật nói trên, đại sứ quán Mỹ
đã yêu cầu các báo Việt Nam đính chính và đề nghị xin lỗi. Hôm qua,
Tiền Phong Online đã đính chính lại thông tin về cuộc họp báo của đại sứ
Mỹ, khẳng định, trong lĩnh vực nhân quyền, ông David Shear cho rằng
Việt Nam gần đây đã có "những bước đi tích cực".
Tờ Tiền Phong cũng nhắc lại rằng đại sứ Mỹ đã tuyên bố Hoa Kỳ «
nghiêm túc xem xét » việc bỏ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và
một trong những điều kiện là cải thiện vấn đề nhân quyền.
Không biết là đại sứ quán Mỹ có sẽ hài lòng với cách đính chính thông
tin của tờ Tiền Phong hay không, nhưng đúng là đại sứ David Shear đã
nhiều lần tuyên bố Hoa Kỳ sẽ không bán vũ khí sát thương cho Việt Nam
chừng nào Hà Nội chưa cải thiện nhân quyền. Thế mà, qua những phản ứng
gần đây của Mỹ, Washington rõ ràng là không hài lòng chút nào về tình
trạng nhân quyền của Việt Nam.
Gần đây nhất, đại sứ quán Hoa Kỳ đã bày tỏ « quan ngại sâu sắc » về
nghị định mới được ban hành và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/09/2013, cấm
các blogger và những người sử dụng các mạng xã hội « tổng hợp thông tin
từ các báo và các cơ quan Nhà nước », nói cách khác là không được đăng
lại và bình luận các bài báo trên mạng.
Đối với đại sứ quán Mỹ nghị định nói trên « trái với nghĩa vụ của
Việt Nam trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, cũng
như những cam kết của Việt Nam trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền.
»
Như vậy, vấn đề nhân quyền cho tới nay vẫn cản trở việc bán vũ khí
sát thương của Mỹ cho Việt Nam và không những thế, nó còn cản trở việc
nâng quan hệ Mỹ-Việt lên mức cao hơn.
Như nhận xét của chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer, đăng trên The
Wall Street Journal ngày 08/08/2013, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược với các thành viên thường trực khác của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc, như Trung Quốc, Nga và Anh Quốc, nhưng trong chuyến
viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không thể
nâng quan hệ Mỹ-Việt lên hàng đối tác chiến lược.
Ấy là chưa kể, theo nhận định của The Wall Street Journal, nghị định
mới về quản lý Internet có thể sẽ làm phức tạp hơn quan hệ thương mại
trong tương lai giữa Hà Nội và Washington, trong đó có việc Việt Nam
tham gia hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương ( TPP ).
Việt Nam sao nghèo mãi?
Trong buổi họp báo Chính phủ thường kỳ chiều 30.7.2013, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam phát biểu:“Chúng ta không thể nghèo mãi thế này được”.
Dư luận đánh giá phát biểu này mang tính tích cực, đồng thời là một tín
hiệu cho thấy sự thay đổi tư duy của cơ quan chính phủ, sau nhiều năm
thỏa mãn với thành tích Việt nam thoát khỏi ngưỡng nghèo.
Nhận xét về vấn đề này TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho rằng
“Đấy là một dấu hiệu đáng mừng, khi một ông có trách nhiệm đã thấy được vấn đề, nghĩa là không thể tiếp tục mãi như thế này được. Nếu đúng như thế thì tôi nghĩ rằng đó là một khi thay đổi tư duy, đã nhận ra được sai lầm đó và có một cái cách để sửa chữa các sai lầm đó để đi theo con đường đúng. Thì tôi nghĩ rằng có hy vọng lạc quan về triển vọng của nền kinh tế Việt nam”
Nhận xét về vấn đề này TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho rằng
“Đấy là một dấu hiệu đáng mừng, khi một ông có trách nhiệm đã thấy được vấn đề, nghĩa là không thể tiếp tục mãi như thế này được. Nếu đúng như thế thì tôi nghĩ rằng đó là một khi thay đổi tư duy, đã nhận ra được sai lầm đó và có một cái cách để sửa chữa các sai lầm đó để đi theo con đường đúng. Thì tôi nghĩ rằng có hy vọng lạc quan về triển vọng của nền kinh tế Việt nam”
... trên thực tế kể cả thu nhập lẫn tài sản thì bị tích tụ rất lớn trong tay một nhóm nhỏ người. Trong khi đông đảo người dân không được hưởng lợi ích tương ứng và vì vậy nó làm cho khoảng cách giàu nghèo ở Việt nam ngày một lớn hơn”
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
Nếu so sánh ngân sách chi tiêu năm 2012 của Việt Nam với Thái
Lan và Philippines (quy đổi ra VND) thì Thái Lan: 1,34 triệu tỷ, Việt
Nam: 1 triệu tỷ , Philippin: 0,6 triệu tỷ. Căn cứ vào số liệu trên,
Việt Nam không nghèo như chúng ta nghĩ. Cho dù nền kinh tế Việt nam tuy
đã có một thời gian dài đạt mức tăng trưởng khá cao, song hiệu quả không
thu được là mấy, một phần lớn là do sự sai lầm của các chính sách kinh
tế. Hơn thế nữa thu nhập lẫn tài sản thì bị tích tụ rất lớn trong tay
một nhóm nhỏ người, mà đông đảo người dân không được hưởng lợi ích tương
ứng.
Bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế, nguyên cố vấn Văn phòng Thủ tướng Việt Nam cho chúng tôi biết
“Trong quá trình tăng trưởng, thì Việt nam trở thành một đất nước
mà tăng trưởng dựa vào vốn, trong đó rất nhiều vốn từ bên ngoài chứ
không phải từ tiết kiệm trong nước. Mặt khác Việt nam tăng trưởng lại
dựa rất nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ và dựa quá
nhiều vào khu vực nhà nước; nhất là doanh nghiệp nhà nước, là khu vực
vốn dĩ kém hiệu quả . Thu nhập đầu người thì tăng lên như vậy, nhưng
trên thực tế kể cả thu nhập lẫn tài sản thì bị tích tụ rất lớn trong tay
một nhóm nhỏ người. Trong khi đông đảo người dân không được hưởng lợi
ích tương ứng và vì vậy nó làm cho khoảng cách giàu nghèo ở Việt nam
ngày một lớn hơn”
Chính phủ Việt nam gần đây luôn khẳng định, nếu không đổi mới, không
tái cơ cấu mạnh mẽ thì không thể vượt lên được. Nhưng họ đang hết sức
lúng túng trong việc giải bài toán về doanh nghiệp nhà nước, một khu vực
đã không đảm nhận được vai trò chủ đạo mà còn là ung nhọt của nền kinh
tế Việt nam. Mà cần thay bằng việc để cho kinh tế tư nhân đóng vai trò
chủ đạo và thu hẹp dần vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, trên cơ sở
phân bổ lại nguồn lực của xã hội cho những khu vực hoạt động hiệu quả
hơn.
TS. Nguyễn Quang A phát biểu:
“Cái quan trọng nhất bây giờ là phải có thay đổi tư duy về vấn đề
kinh tế, mà mấu chốt ở đây, khu vực kinh tế nhà nước, tôi nghĩ phải
(được) xóa bỏ, nó không giữ được vai trò chủ đạo, nó đã là vấn đề của
nền kinh tế. Để cho kinh tế tư nhân đóng vai trò mà nó đáng đóng và thu
hẹp dần cái vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, phân bổ lại nguồn lực
của xã hội cho những khu vực hoạt động hiệu quả nhất. Nếu có một thay
đổi tư duy như thế thì tôi hy vọng tương lai kinh tế của Việt nam sẽ lại
đi vào một giai đoạn phát triển mới”
Để Việt nam thoát nghèo thì sự đổi mới của đảng CSVN cũng không kém
phần quan trọng, đó là đảng cần làm rõ trách nhiệm của những người lãnh
đạo và đồng thời tôn trọng quyền giám sát quyền lực của người dân. Bà
Phạm Chi Lan cho rằng
“Bây giờ muốn cho Việt nam tiến lên được, muốn vượt lên thì bản
thân đảng phải thay đổi lại và làm thế nào để cho cái đóng góp của đảng
cho xã hội nó được tốt hơn; hoặc sự lãnh đạo của đảng không làm cho
chồng chéo với nhà nước trong việc quản lý của nhà nước. Làm rõ trách
nhiệm hơn của những người lãnh đạo dù là đảng hay chính quyền và tôn
trọng vai trò làm chủ của người dân ngày càng thực sự hơn. Tôi muốn nói
đến sự giám sát quyền lực của người dân và quyền làm chủ của người dân
trong các mặt đời số của họ ”
Nếu mà người ta có một cái tư duy kinh tế đúng, thì người tài ở Việt nam bây giờ cũng không thiếu. Họ sẽ xuất hiện nếu để cho khu vực kinh tế tư nhân đóng đúng cái vai trò lãnh đạo của nó ...
TS. Nguyễn Quang A
Việt nam là một quốc gia có nhiều ưu thế hơn hẳn các quốc gia trong
khu vực. Ví dụ như lĩnh vực lao động, là một lợi thế , đó cũng là thách
thức đối với các nhà làm chính sách, chứ không phải chỉ tận dụng những
cái hiện có. Về vấn đề này, TS. Nguyễn Quang A nói:
“Lao động của Việt nam là một lợi thế rất cần được tận dụng, với
một lực lượng lao động khá trẻ đang tăng tương đối nhanh mà người ta
đang nói rằng trạng thái Nhân khẩu học của Việt nam đang ở một trạng
thái tốt cho sự phát triển. Cái nguồn lao động đó nó là nguồn tạo ra sự
giàu có của quốc gia trong tương lai dài. Và như thế việc đầu tư vào
giáo dục, y tế và kỹ năng của người lao động là quan trọng nhất, chứ
không phải chỉ tận dụng nhũng cái hiện có mà không nghĩ đến tương lai”.
Có không ít người cho rằng lý do khiến Việt Nam nghèo là do thiếu
lãnh đạo có tài, và do lãnh đạo bất tài đã gây tổn thất cho đất nước về
nhiều mặt. Không hoàn toàn đồng quan điểm, mà cho rằng khi có một chính
sách để cho khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo, thì các nhân
tài sẽ xuất hiện, kể cả trong khu vực công. Trao đổi với chúng tôi, TS.
Nguyễn Quang A cho rằng
“Tôi nghĩ rằng cái đó cũng chỉ đúng một phần thôi, bởi vì người
lãnh đạo có tài thì tự nhiên sẽ xuất hiện nếu mà có những đường lối
đúng. Nếu mà người ta có một cái tư duy kinh tế đúng, thì người tài ở
Việt nam bây giờ cũng không thiếu. Họ sẽ xuất hiện nếu để cho khu vực
kinh tế tư nhân đóng đúng cái vai trò lãnh đạo của nó, thì những nhân
tài ở trong khu vực kinh tế tư nhân sẽ phát triển hết sức mạnh mẽ và sẽ
có các nhân tài xuất hiện để cho khu vực công. Tức là những vị lãnh đạo
mới của nhà nước cũng sẽ xuất hiện ”
Người phương Tây có câu "Giá trị của định chế không phụ thuộc vào định chế nhưng phụ thuộc vào người áp dụng định chế đó".
Thực tế đã chứng minh cho thấy sự thất bại của kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Vậy mà các nhà lãnh đạo Việt nam vẫn cứ khư khư tư duy
như thế, điều lẽ ra đã phải được tháo bỏ từ lâu để kinh tế Việt nam có
thể cất cánh.
Còn đâu nguyên khí quốc gia!
Trong lịch sử VN, tại Trấn Nghệ An ngày xưa có một danh tướng nhà
Hậu Trần và cũng là thi nhân tên Đặng Dung trung kiên phò Vua Trùng
Quang Đế, ra tay giúp nước, nhưng sa cơ lỡ vận, khiến lâm cảnh “Thù trả chưa xong đầu đã bạc, Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày”.
Bài tự sự “ Cảm Hoài” của thi nhân nói lên ý chí sắt đá của một anh
hùng sinh bất phùng thời, nhưng cũng thể hiện sự trách cứ về nhân tâm ly
tán qua những vần thơ, như:
(…)
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Có lẽ cảnh “ bần tiện gặp thời” và “anh hùng lỡ bước” ấy khiến
blogger Minh Văn không khỏi liên tưởng tới “Thế sự thời nay”, nhận xét
rằng trong một xã hội mà “Hiền Tài là nguyên khí quốc gia” thì bị nghi
kỵ, bị gạt ra ngoài lề xã hội, khi họ nói lên sự thật cho quê hương dân
tộc thì bị gán cho là “thế lực thù địch”, bị bỏ tù dài lâu trong khi
những kẻ thấp hèn, nịnh bợ lại “thành đạt làm quan”. Do đó, vẫn theo tác
giả, chính vì “cái lẽ ngược đời” đó mà xã hội ngày nay sống “không thật
lòng mình”, sự dối gian trở thành “cẩm nang ứng xử”, và “hiền tài đi
vắng đâu cả” rồi. Tác giả Minh Văn cũng cho rằng “nguyên nhân phát xuất
từ chế độ độc tài, nó bắt con người ta phải cúi đầu tuân phục lãnh tụ và
chủ nghĩa” khiến “giết chết đi cái tôi cá tính của mình”!
Nhắc tới “hiền tài” cùng “nguyên khí quốc gia” “đi vắng đâu cả” rồi
và “cái tôi cá tính của mình bị giết chết” có lẽ khiến người dân Việt
lại liên tưởng đến, cách nay hơn nửa thế kỷ, nhà ái quốc Phan Bội Châu,
qua “Lưu cầu huyết lệ tân thư”, cũng có lưu ý rằng “Dân khí nước ta bị
suy giảm quá tệ. Trước kia sống bình thường đã lâu. Khiếp sợ quen thói,
nghe và thấy chật hẹp, tai như điếc, mắt dường mù”.
Qua “Chuyện cướp bóc ở làng Vĩ Đại”, nhà văn Võ Thị Hảo từ Hà Nội
cũng có đề cập tới xã hội VN ngày nay, nơi “đa phần mọi người đều nói
rằng tìm người có dũng khí và trung thực bây giờ thật khó như mò kim đáy
biển”. Nhưng sau khi kể “Chuyện cướp bóc ở làng Vĩ Đại” với dân chúng
“dở sống dở chết, chẳng còn ai cứu giúp” vì họ chẳng dám “kêu lên”, “mặc
kệ ân nhân bị hành hạ”, “làm chứng dối”, “ném đá tiếp tay cho bọn cướp
hãm hại người lành”, nhà văn cảnh báo rằng “ Chính bởi thế, chúng ta là
số đông, gần cả trăm triệu người, nhưng lại bị gọi là một đám đông hèn
yếu, thậm chí còn không dám mở miệng cất lời bảo vệ chính mình, cam tâm
nô lệ, còn nói gì đến việc bảo vệ người khác! Đó là sự suy đồi của dân
khí”. Cho nên, nhà văn Võ Thị Hảo lưu ý, “mỗi công dân không thể không
nhìn lại trách nhiệm của mình trong việc đã để cho dân khí suy đồi”, và “
bất kỳ công dân nào cũng có trách nhiệm đương nhiên phải đấu tranh cho
tự do, nhân quyền và công lý cho mình và cho mọi người. Đó là khí chất
làm người, là dân khí, là nhân tố cốt lõi tạo nên nền công bằng và vững
mạnh cho một đất nước”. Nhà văn khẳng định:
" Vấn đề thịnh suy của một đất nước, đương nhiên ở trách nhiệm nhà
cầm quyền, nhưng không thể không tính đến nguyên nhân dân khí. Khí chất
và khí phách của người dân thể hiện trong tính cộng đồng, trách nhiệm
xã hội, trong sự lựa chọn, dám tôn vinh sự thật, biết tri ân những người
vì cộng đồng và công lý, dám chống lại bất công, bạo ngược. Dân khí
mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử đúng mực. Dân khí cũng khiến
mỗi người có được sức mạnh tinh thần để thoát vòng nô lệ luôn chờ chực
bủa vây."
Sau khi quả quyết rằng những tù nhân lương tâm ở VN là những “tráng
sĩ” vì đấu tranh cho quyền lợi chung mà phải bị giam cầm sau song sắt
thì “ lẽ nào ta không nợ họ?!”, nhà văn Võ Thị Hảo lưu ý rằng chỉ trong
vòng nửa năm nay, danh sách tù nhân VN “tăng theo mức độ đàn áp” khiến
khoảng 50 nhà bất đồng chính kiến, nhất là các bloggers, bị tù tội oan
sai, từ tội “trốn thuế” cho tới “lợi dụng tự do, dân chủ âm mưu lật độ
chính quyền”…; Rồi cảnh tù đày đã khiến những tù nhân lương tâm như Cù
Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Lê Quốc Quân…liên tiếp tuyệt thực để phản đối hành
động sai trái vô nhân của các cấp quản lý trại giam, tạo nên cuộc “nổi
dậy bất đắc dĩ” của tù nhân ở trại tù Z30A Xuân Lộc…Thực trạng đó, theo
nhà văn Võ Thị Hảo, khiến công luận nêu lên câu hỏi rằng giới cầm quyền
có khôn ngoan không khi “chọn cách giải quyết những vấn nạn chính trị -
kinh tế - xã hội bằng súng và xiềng xích, đe nẹt tự do ngôn luận thay vì
cải cách thể chế và cải cách kinh tế ?”, và họ “ Chỉ tìm cách đổ lỗi
cho các ‘thế lực thù địch diễn biến hòa bình’ bên ngoài chứ không cắt bỏ
khối ung bướu ngay trong thể chế…”.
Trong khi nhà văn Võ Thị Hảo cảnh báo giới cầm quyền “không cắt bỏ
khối ung bướu ngay trong thể chế” này, thì nhà văn Thuỳ Linh báo động về
nạn “dư luận viên”, hay nói cách khác là “tuyên truyền viên”, được giới
cầm quyền sử dụng để ra sức “định hướng dư luận đi theo chủ trương của
đảng và nhà nước”. Theo nhà văn Thuỳ Linh, trong khi các “dư luận viên
cấp thấp” chỉ biết “văn tục, chửi bới”, nói những câu thuộc lòng như
“thế lực thù địch”, “ bọn phản động, bán nước”, “kích động chống phá nhà
nước”, “diễn biến hoà bình”, “ăn bơ thừa sữa cặn”, “đảng quang vinh”,
“bác Hồ vĩ đại”.v.v…, thì những “dư luận viên cao cấp mới “thực sự đáng
sợ” khi họ có đủ khả năng sử dụng rất tốt những phương pháp tuyên
truyền, nhồi sọ và tẩy não được đúc kết từ các bậc “vĩ nhân” (của họ)
như Stalin, Mao Trạch Đông…; chẳng hạn những luận điểm thường thấy như
“yêu tổ quốc là yêu đảng, yêu CNXH”, “kiên định mục tiêu CNXH”, “nếu
không có đảng CS và bác Hồ thì không có đất nước ngày hôm nay”, “ Bỏ
điều 4 là tự sát”, “đa nguyên đa đảng thì đất nước sẽ loạn lạc”, “đất
nước ta dân chủ gấp vạn lần các nước tư bản”,“đất nước còn nghèo là do
chiến tranh, bị cấm vận, do thiên tai…” và nhất là “ do các thế lực thù
địch”…, hoặc “đất nước ta đã thoát nghèo”, đang “ tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên CNXH”, “nhờ công ơn của đảng quang vinh và bác Hồ vĩ
đại”.
Có lẽ “Đảng quang vinh” như vậy nên blogger Huỳnh Ngọc Chênh tâm sự
rằng “Tôi khát khao vào đảng”. Mở đầu tâm trạng “khát khao vào đảng” ấy,
nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh cho biết:
" Tôi vẫn hay nói đùa với bạn bè, 61 năm qua đời tôi không có
đảng. Nói đùa cho vui vậy nhưng trong lòng tôi chua xót lắm. Khi tôi
bước vào lứa tuổi hai mươi thì đất nước cũng vừa thống nhất, cả nước đặt
dưới quyền lãnh đạo của một đảng duy nhất đó là đảng CSVN. Tôi có điều
kiện và rất hăm hở tìm hiểu, nghiên cứu lý tưởng, chủ thuyết và đường
lối của đảng nầy. Sau một thời gian nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin cũng
như tiếp xúc với thực tế qua các đảng viên, tôi thấy rằng với quan điểm
sống và phương pháp tư duy của tôi, tôi không thích hợp với đảng nầy,
từ đó tôi từ bỏ ý định phấn đấu vào đảng…"
Như vậy là, theo nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, ông “phải cắn răng chấp
nhận cuộc sống không có đảng”, nghĩa là ông phải “lầm lũi cô độc sống
giữa cuộc đời. Và phải sống như thế qua gần 40 năm!”, luôn khát khao có
một tổ chức chính trị hợp pháp nào đó phù hợp với lý tưởng sống, với
phương pháp tư duy của ông để ông có thể gia nhập, để “có những người
đồng chí bên cạnh cùng nhau bàn bạc về lý tưởng, hỗ trợ nhau trong cuộc
sống, kề vai sát cánh với nhau trong hoạt động cộng đồng, giúp ích đất
nước…”. Nhưng rồi tác giả “đau xót lắm chứ, thiệt thòi lắm chứ”. Tại sao
? Tại vì, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh giải thích, “Làm sao mình bàn bạc lý
tưởng sống, chính kiến của mình với những người bạn ‘thời vụ’ như bạn
đồng nghiệp, bạn láng giềng, bạn nhậu, bạn bóng đá, bạn ăn chơi...?”.
Sau khi “than thân trách phận” như vậy, blogger Huỳnh Ngọc Chênh bày tỏ
âu lo rằng “những thế hệ tiếp sau, những bạn trẻ, những thế hệ tương lai
của đất nước thì sao? Chẳng lẽ vẫn cứ để họ tiếp tục sống đơn độc lầm
lũi cho đến hết cuộc đời khi họ không muốn vào tổ chức của đảng CSVN như
thế hệ chúng tôi hay sao?”. Tác giả tâm sự tiếp:
"Chúng ta đang đối mặt với nguy cơ xã hội càng lúc càng suy đồi,
càng bất an; chúng ta đang phiền trách giới trẻ càng ngày càng sống xa
rời lý tưởng. Nhưng thử hỏi đảng CSVN có lo được lý tưởng cho toàn bộ
giới trẻ? Thử hỏi chúng ta có chính đảng nào khác để góp phần lo cho
giới trẻ chưa có đảng? Làm sao trách họ sống sao lầm lạc, vô nghĩa...?"
Nhưng trong bối cảnh hiện nay, xem chừng như ngày càng có nhiều người trong giới trẻ không sống “lầm lạc, vô nghĩa” khi họ ngày càng quan tâm nhiều hơn cho quê hương, dân tộc, ý thức rõ hiểm hoạ phương Bắc, mà điển hình là Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, các thanh niên Công Giáo, Tin Lành…đang trong vòng lao lý. Thế hệ trẻ trong nước ngày nay cũng ý thức được sức mạnh của Internet, mạng xã hội cùng sự nguy hiểm của “kẻ thù của Internet” như nghị định 285, nghị định 72 mà giới cầm quyền đã áp dụng hay sắp sữa áp dụng để bỏ tù những người yêu nước, ngăn chận thông tin trên mạng. Do đó:
Nhưng trong bối cảnh hiện nay, xem chừng như ngày càng có nhiều người trong giới trẻ không sống “lầm lạc, vô nghĩa” khi họ ngày càng quan tâm nhiều hơn cho quê hương, dân tộc, ý thức rõ hiểm hoạ phương Bắc, mà điển hình là Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, các thanh niên Công Giáo, Tin Lành…đang trong vòng lao lý. Thế hệ trẻ trong nước ngày nay cũng ý thức được sức mạnh của Internet, mạng xã hội cùng sự nguy hiểm của “kẻ thù của Internet” như nghị định 285, nghị định 72 mà giới cầm quyền đã áp dụng hay sắp sữa áp dụng để bỏ tù những người yêu nước, ngăn chận thông tin trên mạng. Do đó:
" Ngày 31 tháng 7 một nhóm nam nữ thanh niên rất trẻ gồm Nguyễn
Thảo Chi, Phạm Đoan Trang (Hà Nội), Nguyễn Nữ Phương Dung (Sài Gòn),
Nguyễn Anh Tuấn (Đà Nẵng), Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội) đã sang Bangkok gặp
gỡ với cơ quan nhân quyền Liên Hiệp quốc và Human Rights Watch để trao
cho họ thông báo chống lại điều 258.
Một tuần lễ sau sự việc Bangkok, sáng ngày 7 tháng 8, năm blogger
khác đã có mặt trong Đại sứ quán Thụy Điển tại Hà Nội để trao cho Bà Phó
Đại sứ Elenore Kanter bản tuyên bố 258 và đồng thời chia sẻ với bà tất
cả những thông tin mà chính phủ đang cố thực hiện nhằm chống lại tự do
ngôn luận cũng như đàn áp nhân quyền tại Việt Nam. Năm bạn trẻ Nguyễn
Thu Trang, Nguyễn Đình Hà, Lê Hồng Phong, Nghiêm Ngọc Trai và Nguyễn Văn
Viên như những chú chim câu đã thành công trong việc mang những thông
tin cần thiết ra thế giới bên ngoài một cách thông minh và khôn khéo."
Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, khi nhà cầm quyền siết chặt quyền
kiểm soát mọi mặt xã hội, kể cả phương tiện Internet, đàn áp người yêu
nước chống phương Bắc xâm lược…, nhưng liệu họ có hoàn toàn làm im hơi
bặt tiếng được người dân, nhất là giới trẻ đang chiếm đa số ở VN, trong
thời đại bùng nổ thông tin này hay không ?
DÂN LÀM BÁO * CHẾ ĐỘ & CHIẾN TRANH
Đoan Trang & lỗ hổng xấu xí của chế độ
Tâm 8x (Danlambao)
- Mẹ nhà báo Đoan Trang, cụ Bùi Thị Thiện Căn, 73 tuổi vừa bị An ninh
sách nhiễu. Cùng vào thời điểm đó, Nguyễn Văn Thạnh cũng đã phải “làm
việc” với Công an về “giấy tờ tạm trú” nhưng nội dung lại không liên
quan đến điều đó, mà lại liên quan đến vấn đề “an ninh quốc gia”... Sự
sách nhiễu, đe dọa đó không khiến tôi cảm thấy ngạc nhiên, vì đây là cái
giá mà nhiều nhà đấu tranh cho “quyền được sống trong một xã hội con
người” phải đối mặt. Nó không làm ta quên được những “buổi làm việc” và
chìa khóa tù đày với An ninh của Mẹ Nấm, Nguyễn Hoàng Vi, Phạm Lê Vương
Các, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyễn Chí Đức, Đinh Nguyên Kha, Bùi Thị Minh
Hằng, Nguyễn Phương Uyên, Trần Thị Nga...
Cách mà An ninh làm việc đối với những con người ở “lề dân” là sự vận
động từ: (1) khuyên nhủ/ giáo dục sang (2) đe dọa/sách nhiễu đến (3) tù
đày. Sự vận động này không khác nhiều với cách mà Đảng cộng sản Việt Nam
đã làm từ khi thành lập chính quyền 1945 cho đến nay. Nói như thế, để
biết rằng, Đoan Trang và những người cùng chí hướng với mình sẵn sàng
bước qua 3 giai đoạn trên để đấu tranh cho một tương lai - chính quyền
thực sự về tay nhân dân. Và nói như thế để chúng ta biết được, bên cạnh
yếu tố tù đày thì tuyên truyền chính trị là một yếu tố sống còn của
chính đảng Cộng sản Việt Nam, ngay cả trong thời chiến lẫn thời bình. Do
đó, cái câu của viên an ninh nói với mẹ Đoan Trang “nếu bác còn mời bạn bè của Đoan Trang đến nữa chỉ làm khổ con bác thôi” hay câu của viên an ninh nói với Nguyễn Văn Thạnh “mày ghi âm để lột sao tao à” cũng chỉ là sự thể hiện về sự sống còn đó mà thôi.
Nhưng trên hết, một cánh cửa tù đày được mở rất rộng cho những ai dám
“chống đối Đảng, chính quyền nhân dân” cũng mang theo cả tương lai. Vì
cùng một cánh cửa, nó có thể quá rộng cho một vài cá nhân đơn lẻ, nhưng
sẽ trở nên chật chội và trở thành một môi trường phản tác dụng, thúc đẩy
nhanh cho sự sụp đổ chế độ khi càng nhiều người sẵn sàng bước bước qua
giai đoạn khuyên nhủ/giáo dục; đối mặt với giai đoạn đe dọa/sách nhiễu
và sẵn sàng bước vào cánh cửa đó. Bởi khi đó, niềm tin của sự đấu tranh,
và liên kết của những cá nhân đấu tranh đã thực sự lan tỏa. Điều này
đang dần được minh chứng rõ ràng trong thời gian qua.
Đó là khi sự đấu tranh đang ngày một lan tỏa nhanh và sâu hơn vào các tầng lớp xã hội, cái vũ khí hữu hiệu nhất gầy dựng và duy trì chế độ là “sự tuyên truyền” đang ngày càng mất tác dụng, chế độ dần chuyển mình thành một chế độ công an trị (giai đoạn gần như cuối cùng của chế độ Cộng sản). Điều này ngày càng được khẳng định với việc, chính quyền cho ra Nghị định số 87/2013/NĐ-CP quy định chế độ chính sách đối với gia đình, thân nhân hạ sĩ quan, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong Công an Nhân dân (có hiệu lực ngày 14/09/2013); tiếp đó Bộ Công An tiến hành gắn sao tướng cho 8 người (trong đó có ông Đỗ Hữu Ca, Giám Đốc Công An Hải Phòng).
Gần đây nhất là vào ngày 06/082013, ông trung tướng tình báo Bùi Văn Nam được điều động trở lại làm thứ trưởng ở Bộ Công an và mở đường trở thành Bộ trưởng Công an trong tương lai không xa đã khiến cho “khiên và kiếm” ngày càng gắn chặt về mặt quyền lợi với Đảng Cộng sản theo kiểu “cộng sinh”. Lớp người (Công an) ngày càng đặc quyền đặc lợi và làm mọi cách để gây dựng niềm tin người dân bằng cách cố gắng bịt lại những lỗ hổng to lớn về sự lụn bại kinh tế, sự đấu đá chính trị ở thượng tầng và một xã hội đang suy đồi bên cạnh chiêu bài đe dọa/cầm tù...
Đó là khi sự đấu tranh đang ngày một lan tỏa nhanh và sâu hơn vào các tầng lớp xã hội, cái vũ khí hữu hiệu nhất gầy dựng và duy trì chế độ là “sự tuyên truyền” đang ngày càng mất tác dụng, chế độ dần chuyển mình thành một chế độ công an trị (giai đoạn gần như cuối cùng của chế độ Cộng sản). Điều này ngày càng được khẳng định với việc, chính quyền cho ra Nghị định số 87/2013/NĐ-CP quy định chế độ chính sách đối với gia đình, thân nhân hạ sĩ quan, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong Công an Nhân dân (có hiệu lực ngày 14/09/2013); tiếp đó Bộ Công An tiến hành gắn sao tướng cho 8 người (trong đó có ông Đỗ Hữu Ca, Giám Đốc Công An Hải Phòng).
Gần đây nhất là vào ngày 06/082013, ông trung tướng tình báo Bùi Văn Nam được điều động trở lại làm thứ trưởng ở Bộ Công an và mở đường trở thành Bộ trưởng Công an trong tương lai không xa đã khiến cho “khiên và kiếm” ngày càng gắn chặt về mặt quyền lợi với Đảng Cộng sản theo kiểu “cộng sinh”. Lớp người (Công an) ngày càng đặc quyền đặc lợi và làm mọi cách để gây dựng niềm tin người dân bằng cách cố gắng bịt lại những lỗ hổng to lớn về sự lụn bại kinh tế, sự đấu đá chính trị ở thượng tầng và một xã hội đang suy đồi bên cạnh chiêu bài đe dọa/cầm tù...
Trong hoàn cảnh đó, sự ra đời của Mạng lưới Blogger Việt Nam chống lại
điều 258, và một quy trình đấu tranh sát với thực tiễn khi sự đấu tranh
đó gắn với sự tìm kiếm hỗ trợ từ bên ngoài của Đoan Trang, bạn bè và
những người khác đã đấu tranh chính trị một cách trực diện với nó. Điều
này khiến cho việc bưng bít những lỗ hổng xấu xí của chế độ trở nên hoài
công. Sự ra đời của Mạng lưới Blogger Việt Nam với Tuyên bố 258 cũng cho thấy điều kiện về sự đấu tranh vững chắc hơn đã xuất hiện trong thực tiễn như nhà báo Phạm Chí Dũng đã nhận nói: “Không
nên bị lệ thuộc vào bất cứ phe phái “nội bộ” nào, mà chỉ phản biện và
tranh đấu cho tất cả những gì thuộc về quyền lợi của nhân dân - dĩ nhiên
là nhân dân bao gồm người nghèo và theo nghĩa đa số.”
Nghĩa là, đã có một tiếng nói chung nhất (chống lại điều 258, giành lại quyền tự do, dân chủ thực sự), một sự đấu tranh có đường lối nhất (tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài), có tính liên kết cao nhất (chấp nhận sự tù đày). Tất cả là tranh đấu cho quyền lợi mà nhân dân Việt Nam đáng được hưởng trong tương lai.
Nghĩa là, đã có một tiếng nói chung nhất (chống lại điều 258, giành lại quyền tự do, dân chủ thực sự), một sự đấu tranh có đường lối nhất (tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài), có tính liên kết cao nhất (chấp nhận sự tù đày). Tất cả là tranh đấu cho quyền lợi mà nhân dân Việt Nam đáng được hưởng trong tương lai.
“Cây tự do được ươm mầm từ máu của người đấu tranh tự do & kẻ bạo tàn”.
Vì thế, xin thông báo với Bộ Công an và những quan chức cộng sản bất
lương tri đang dùng lời đe dọa/ sách nhiều và tù đày làm “tấm khiên chế
độ” rằng: “Chúng tôi sẽ đấu tranh trực diện tới cùng” - “Chúng tôi không đùa đâu!”.
Chia sẻ bài viết:
Có phải sấm Trạng Trình đang ứng nghiệm ?
Ngọc Ẩn (Danlambao)
“Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.”
Long vĩ (2012) xà đầu (2013) là cuối năm con rồng đầu năm con rắn
bắt đầu có chiến tranh ở khắp nơi. Hiện tại Bắc Hàn đe dọa tấn công Nam
Hàn và Hoa Kỳ. Ở trung đông, Syria đang có chiến tranh dữ dội giữa người
dân và kẻ cầm quyền, Iran và Palestine đe dọa tiêu diệt Do Thái. Do
Thái có lẽ sẽ đánh phủ đầu Iran trước khi Iran có võ khí nguyên tử trong
năm 2013. Ở Á châu Trung Quốc tranh chấp
hải phận với Nhật Bản và Philipines, TQ chiếm biển đảo của Việt Nam.
Chiến tranh giữa Nam và Bắc Hàn có thể xảy ra bất cứ lúc nào và sẽ kéo
theo TQ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Ấn Độ vào cuộc thì đúng là “can qua xứ xứ khổ đao binh”. “Mã đề dương cước anh hùng tận” đầu
năm con ngựa (2014) cho đến cuối năm con dê sẽ có nhiều người chết vì
chiến tranh. Chiến tranh nguyên tử có thể bùng nổ ở bán đảo Triều Tiên
và lây sang TQ.
TQ rất lo sợ là khi Bắc Hàn xử dụng võ khí nguyên tử thì
Nam Hàn và Mỹ sẽ trả đũa bằng bom nguyên tử. TQ có chung biên giới với
Bắc Hàn, TQ sẽ bị phóng xạ nguyên tử mà phải di cư nhiều chục triệu dân
khiến kinh tế TQ gặp khủng hoảng. TQ bênh vực Bắc Hàn mà vào cuộc chiến
thì Nhật Bản, Úc và Ấn Độ là đồng minh của Mỹ sẽ tấn công Bắc Hàn và TQ.
Chiến tranh sẽ kéo dài từ năm con ngựa (2014) cho đến hết năm con dê
(2015) với số người tử vong của các bên tham chiến rất cao. Bắt đầu năm
con khỉ (2016) cho đến con gà (2017) mới nhìn thấy thái bình.
Nghe thì có vẻ trớ trêu nhưng điều tốt đẹp cho dân tộc Bắc Hàn
chính là được Mỹ và Nam Hàn tấn công, chiếm đóng. Nếu Mỹ phải thả hai
quả bom nguyên tử vào Bắc Hàn để tiêu diệt những lãnh đạo độc tài thì
dân Bắc Hàn được thực sự giải phóng cho dù sẽ có một số dân chết lây
trong chiến tranh. Hai quả bom nguyên tử sẽ tàn phá Bắc Hàn ít hơn và
ngắn hạn hơn là sự tàn phá của đảng CS Bắc Hàn. Ban lãnh đạo Bắc Hàn như
căn nhà đã bị mối mọt ăn rỗng ruột. Cách tốt nhất là đốt căn nhà để
tiêu diệt toàn bộ mối mọt và xây cất lại nhà mới tốt đẹp hơn. Mỹ đã từng
chấm dứt chiến tranh với Nhật bằng hai quả bom nguyên tử và dẹp đi chế
độ độc tài phong kiến ở Nhật và giúp nước Nhật xây dựng lại như ngày hôm
nay. Nhật Hoàng ngày nay chỉ còn là biểu tượng chứ không trực tiếp điều
hành guồng máy quốc gia.
Cái may mắn của đất nước Đại Hàn là vẫn còn có
một nửa là Nam Hàn giàu mạnh, dân trí cao và được Mỹ giúp đỡ tận tình.
Khi Đại Hàn thống nhất và không còn bị độc tài cộng sản ngự trị thì đất
nước Đại Hàn sẽ có thêm tài nguyên và nhân lực xây dựng đất nước. Nam
Bắc Hàn sẽ thống nhất tương tự như Đông Đức và Tây Đức và trở thành
cường quốc thế giới. Dân tộc Việt Nam thì quá xui bị cộng sản độc tài
đang ngự trị trên quê hương sau khi đất nước thống nhất. Kết quả là VN
đứng gần hạng nhất vi phạm nhân quyền và tham nhũng và đứng gần hạng bét
tự do báo chí.
TQ đang rất lo sợ chiến tranh Triều Tiên bộc phát và tìm mọi cách
để ngăn cản tên đàn em đừng gây sự mà vạ lây đến đàn anh. Đảng CSVN cũng
mong muốn là chiến tranh Triều Tiên đừng xảy ra. Khi TQ bị lôi kéo vào
chiến tranh Triều Tiên thì tên tay sai CSVN mất chỗ dựa và dân tộc VN sẽ
đứng lên đòi nhân quyền và tự do dân chủ và chắc chắn đảng CSVN sẽ bị
lật đổ. Khi TQ vì sợ vạ lây khoanh tay đứng nhìn tên đàn em Bắc Hàn bị
Mỹ và Nam Hàn đánh bại thì đó cũng là dấu hiệu tốt cho toàn dân VN khởi
nghĩa. Khi Bắc Hàn bị tiêu diệt thì Mỹ và Nam Hàn tiếp cận biên giới TQ
và áp lực bao vây TQ rất khủng khiếp.
“Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng (năm con rắn 2014 hết sa tăng)
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng (năm con ngựa 2014 quỷ đỏ CS chết)
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời” (“Cha con dòng họ thầy tăng” có lẽ cụ Trạng ám chỉ sư quốc doanh đi tu vẫn lấy vợ.)
“Nói đến độ thầy tăng mở nước (có lẽ cụ Trạng muốn nói các tôn giáo nổi lên)
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu (đám quỷ cộng sản ăn nói, hành động xuôi ngược)
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào.” (dân không còn sợ CS)
“Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề (có phải cụ Trạng Trình ám chỉ Việt kiều khắp nơi?)
Có thầy Nhân Thập đi về (Việt kiều trở về giúp xây dựng đất nước sau khi CS từ trần)
Tả hữu phù trì cây cỏ thành binh.”
Có phải sấm ký của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đang ứng nghiệm?
DÂN LÀM BÁO * GIA ĐÌNH NGUYỄN BẮC TRUYỀN & CAC BOLOGGERS
Tin khẩn: CA khủng bố gia đình anh Nguyễn Bắc Truyển sau cuộc gặp với Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
CTV Danlambao
- Chiều nay, 10/8/2013, cơ quan CA TP.HCM đã huy động lực lượng kéo đến
bao vây và khủng bố gia đình anh Nguyễn Bắc Truyển tại Sài Gòn. Hành
động sách nhiễu của CA diễn ra ngay sau buổi làm việc giữa anh Nguyễn
Bắc Truyển và đại diện Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ vào chiều cùng
ngày.
Khi bản tin này đang được đưa lên, trước cửa nhà riêng của gia đình anh
Truyển (số 29, đường 42, quận 4, Sài Gòn) đã xuất hiện nhiều viên an
ninh thường phục chốt chặn. Tình hình đang hết sức căng thẳng, không
loại trừ khả năng CA sẽ ra tay ngay trong đêm nay.
Anh Nguyễn Bắc Truyển năm nay 45 tuổi, là một tù nhân lương tâm từng bị
kết án 3 năm rưỡi tù giam với cáo buộc 'tuyên truyền chống phá nhà nước
XHCN'. Anh Truyển cũng là tác giả của nhiều bài viết được đánh giá rất
cao trên Danlambao, nội dung kêu gọi dân chủ, nhân quyền và lên tiếng
cho các tù nhân lương tâm hiện đang bị giam giữ trong chế độ lao tù CS.
Trao đổi với CTV, anh Nguyễn Bắc Truyển cho biết: Theo lịch hẹn, lúc
14h30 chiều nay, 10/8/2013, anh Truyển có buổi gặp và làm việc với phái
đoàn thuộc Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ, gồm có:
- Ông Hunter M. Strupp, Chuyên gia phân tích Chính sách Châu Á, Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
- Bà Janice V. Kaguyatan, Tham mưu Trưởng cho Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
- Bà Joan O’Donnell Condon, Thành viên giúp việc cao cấp của Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
Và một số viên chức sứ quán Hoa Kỳ, tổng cộng phái đoàn gồm 6 người.
Buổi làm việc kéo dài hơn 2 tiếng, với nội dung rất rộng bao gồm các vấn
đề liên quan đến việc thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam. Đồng thời,
thông tin về việc nhà cầm quyền CS gia tăng đàn áp, bỏ tù các blogger,
vi phạm các quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận (nghị định 72) cũng đã
được mang ra bàn thảo.
Tường thuật buổi tiếp xúc với phái đoàn Hoa Kỳ, anh Nguyễn Bắc Truyển cho biết vắn tắt:
“Chúng ta không bao giờ tin nhà cầm quyền CS VN hứa hẹn bất cứ điều gì.
Trong buổi làm việc hôm nay với phái đoàn Hoa Kỳ, tôi đã khẳng định
rằng: một khi các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm còn bị giam giữ
thì tôi không bao giờ tin nhà cầm quyền sẽ cải thiện về vấn đề nhân
quyền.
Điều kiện tiên quyết là phía nhà cầm quyền phải thả tất cả các tù nhân
chính trị, tù nhân tôn giáo. Thứ hai là không được tiếp tục, sách nhiễu,
bắt bớ những người bất đồng chính kiến. Nếu thả một, hai người mà bắt
thêm chục người khác thì cũng vô nghĩa”.
Là một cựu tù nhân lương tâm, anh Nguyễn Bắc Truyển nói lên quan điểm
của mình: “Chúng tôi không bận tâm đến chuyện ra tù sớm, họ tuyên án bao
nhiêu thì chúng tôi sẽ ở bấy nhiêu. Nhà cầm quyền CS không được lấy
những người tù nhân lương tâm để mang ra thương thảo. Chúng tôi chấp
nhận sẽ ở tù đến những ngày cuối cùng”.
Buổi làm việc với phái đoàn Hoa Kỳ kết thúc lúc khoảng 5 giờ chiều cùng
ngày, khi anh Nguyễn Bắc Truyển chuẩn bị ra về thì phát hiện rất đông an
ninh thường phục đứng chờ sẵn bên ngoài điểm hẹn. Đồng thời, một chiếc
xe chờ sẵn nhằm phục vụ cho âm mưu bắt người, đứng bên cạnh là những
gương mặt ác ôn quen thuộc của cơ quan an ninh TP.HCM, có cả 'sếp lớn
lẫn sếp nhỏ'.
Ngay lập tức, anh Truyển đã cẩn thận quay vào thông báo với phái đoàn
Hoa Kỳ về những động thái mới xảy ra. Hai viên chức chính trị sứ quán
Hoa Kỳ liền gọi điện thoại đến các nơi để can thiệp. Hành động theo dõi,
đe dọa của cơ quan CA TP.HCM diễn ra ngay trước mắt đại diện phái đoàn
Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ.
Sau khi thông báo xong, anh Truyển lên taxi ra về, bất chấp vòng vây
theo dõi dày đặc của an ninh CS. Khi về đến nhà, trước cửa nhà mẹ ruột
của anh Truyển đã có đến 5 an ninh thường phục chờ sẵn để chốt chặn và
theo dõi. Tình hình có thể sẽ nghiêm trọng hơn trong tối nay.
Anh Nguyễn Bắc Truyển
danlambaovn.blogspot.com
Mạng lưới Blogger Việt Nam tiếp xúc với Tổ chức Front Line Defenders
Mạng lưới Blogger Việt Nam - Trong thời gian hơn 1 tuần qua, các đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam (MLBV) đã liên tục gặp gỡ, và trao Tuyên Ngôn 258
đến với đại diện Hội đồng Nhân quyền LHQ và các Tổ chức nhân quyền,
truyền thông quốc tế. Loạt bài sau đây, được đăng tải trong những ngày
sắp tới, tường thuật lại những buổi tiếp xúc này.
Buổi gặp gỡ với tổ chức Front Line Defenders
Vào lúc 4 giờ chiều ngày 1 tháng 8, tại Bangkok - Thái Lan, các đại diện của MLBV gồm có các blogger Phạm Đoan Trang (Hà Nội), Nguyễn Thảo Chi (Sài Gòn), Nguyễn Nữ Phương Dung (Sài Gòn), Nguyễn Anh Tuấn (Đà Nẵng), Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội) đã gặp gỡ với đại diện của Front Line Defenders (FLD) tại văn phòng của Prachathai - tờ báo đối lập hàng đầu ở Thái Lan.
Các blogger Việt Nam đã trình bày với tổ chức nhân quyền này tình hình
tự do thông tin ở trong nước, sự đàn áp leo thang đối với các blogger,
người viết - điển hình là việc bắt giam mới nhất đối với blogger Trương
Duy Nhất, Đinh Nhật Uy và nhà văn Phạm Viết Đào.
Nội dung trao đổi cũng xoay quanh Điều 258, những vi phạm nhân quyền
được biến thành luật định cũng như mục đích của cuộc vận động xóa bỏ
điều luật này của blogger Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đang xin được
là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc - nhiệm kỳ
2014-2016.
Blogger Nguyễn Lân Thắng và Đoan Trang |
Song song với việc trình bày Tuyên bố 258,
đại diện các blogger Việt Nam cũng đã thảo luận với FLD về sự hợp tác
lâu dài trong tương lai để cùng nhau cải thiện tình trạng nhân quyền tại
Việt Nam. Cụ thể là hỗ trợ blogger Việt Nam trình hồ sơ lên các quy chế
kiểm xét nhân quyền của LHQ và tổ chức các khóa đào tạo về an toàn
thông tin cho giới blogger Việt Nam.
Nhân dịp này đại diện của FLD cũng đã trình bày những hoạt động của FLD
trong thời gian qua liên quan đến Việt Nam. FLD cũng bày tỏ sự quan tâm
sâu sắc đến trường hợp của blogger Nguyễn Hoàng Vi, người đã bị đánh đập
vì tham gia Dã ngoại Nhân quyền và phổ biến Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền và hiện vừa mới nhập viện vì tình trạnh sức khỏe suy yếu do hậu
quả của những trấn áp vừa qua của công an.
Đại diện của FLD đã hứa sẽ chính thức đưa ra tuyên bố phản đối điều luật
258 và vận động các tổ chức nhân quyền quốc tế khác cùng lên tiếng.
Đồng thời FLD sẽ nghiên cứu và tổ chức những khóa học về an toàn thông
tin dành cho các blogger Việt Nam.
Front Line Defenders
là một tổ chức quốc tế được thành lập vào năm 2001 với mục tiêu chính
yếu là bảo vệ những người hoạt động, tranh đấu cho nhân quyền trên thế
giới đang gặp những đe dọa.
Trong thời gian qua, FLD đã hoạt động chặt chẽ với 1 số blogger Việt Nam
nhằm trao đổi thông tin, trình bày với thế giới những vi phạm nhân
quyền tại Việt Nam, và hỗ trợ một số blogger bị hành hung và gặp khó
khăn trong việc chữa trị.
Buổi trao đổi đã diễn ra trong không khí thân tình. Đại diện của FLD rất
vui mừng vì có cơ hội trực tiếp gặp gỡ blogger Việt Nam và ngược lại
các bạn trẻ cũng rất phấn khởi khi có cơ hội đại diện các bạn bè blogger
để nói lên tiếng nói chung. Qua cuộc gặp, hai bên nắm rõ tình hình hoạt
động của nhau, thống nhất với nhau về tình trạng vi phạm nhân quyền ở
VN, hứa giúp đỡ nhau để thúc đẩy, cải thiện tình hình nhân quyền cũng
như những hoạt động tranh đấu cho quyền tự do ngôn luận của blogger Việt
Nam.
Mạng lưới Blogger Việt Nam sẽ tiếp tục tường trình những buổi tiếp xúc vừa qua với các tổ chức quốc tế khác.
NHÀ SÀN INDONESIA
Trang Chủ
Bài viết mới nhất
Ngắm nhà sàn Indonesia giống hệt hình vẽ trên trống đồng Việt
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Đăng ngày Chủ nhật, 14 Tháng 7 2013 22:17
Một tộc người ở Indonesia vẫn duy trì kiểu nhà sàn giống hệt với những hình vẽ trên trống đồng Đông Sơn của Việt Nam.
Những hình khắc trên nhiều chiếc trống
đồng Đông Sơn của Việt Nam thể hiện hình ảnh của một loại nhà sàn có mái
cong vút lên như hai đầu mũi thuyền. Hai đầu nhà có hai cột chống và ở
giữa có kê thang để lên sàn. Các dữ liệu lịch sử về kiểu nhà sàn này ở
Việt Nam hầu như không có.
Tuy vậy, một tộc người ở Indonesia vẫn
duy trì kiểu nhà sàn giống hệt với những hình vẽ trên trống đồng Đông
Sơn. Đó là tộc người Toraja sống trên đảo Sulawesi của Indonesia.
Những chiếc nhà sàn hình thuyền của họ được gọi là tongkonan.
Tongkonan có vật liệu chính là gỗ, tre,
nứa, ghép vào nhau mà không cần đóng đinh. Phần thân nhà được dựng trên
các cột gỗ giống như nhà sàn của dân tộc thiểu số Việt Nam.
Điểm nổi bật của công trình này là hai đầu mái nhà kéo dài và cong lên, khiến ngôi nhà trông như một con thuyền.
Theo một truyền thuyết, tổ tiên người
Toraja đến đảo Sulawesi từ miền Bắc bằng thuyền gỗ. Do gặp bão lớn, họ
dừng chân ở vùng đất này và lấy con thuyền làm mái nhà trú ẩn. Đó là
nguồn gốc của những ngôi nhà tongkonan.
Tongkonan được xây dựng với ý nghĩa như
một ngôi nhà của dòng họ, tổ tiên, là nơi diễn ra các nghi lễ, hội họp
của người trong họ chứ không phải nơi ở. Người Toraja sinh sống trong
những ngôi đơn giản hơn gọi là banua, nằm không xa tongkonan.
Mặt Tây của Tongkonan là nơi chôn nhau những đứa trẻ sơ sinh của dòng họ.
Tongkonan được coi là tài sản thiêng liêng của dòng họ. Mọi người trong họ đều phải tham gia việc dựng nhà.
Tongkonan được chia ra các đẳng cấp khác
nhau, phụ thuộc vào địa vị của dòng họ. Các dòng họ quý tộc sẽ có
tongkonan bề thế, trong khi tongkonan của dòng họ bình dân sẽ khiêm
nhường hơn.
Mặt ngoài tongkonan được trang trí họa
tiết rất cầu kỳ với 4 màu trắng, đen, vàng, đỏ. Những họa tiết và màu
sắc này mang những sắc thái tâm linh riêng của người Toraja.
Quy mô và các họa tiết trang trí trên tongkonan được quy ước tương ứng với sự phân biệt đẳng cấp giữa các dòng họ.
Những chiếc đầu trâu là vật trang trí
không thể thiếu của các tongkonan. Việc treo đầu trâu vừa thể hiện sự
phú quý, vừa để ngăn ma quỷ vào nhà.
Vốn sinh sống bằng nghề trồng lúa, người Toraja coi trâu là linh vật, cũng là tài sản quý giá nhất trong gia đình.
Tongkonan của những dòng họ quyền thế sẽ
treo rất nhiều cặp sừng sâu phía ngoài. Đó là những cặp sừng để lại từ
nghi lễ giết trâu trong đám tang của người Toraja.
Con trâu được coi là phương tiện tiễn đưa
người chết về cõi bên kia, người càng có thể lực, số trâu bị giết trong
đám tang càng nhiều.
Những mô hình thu nhỏ của tongkonan cũng
được đặt tại nghĩa trang của người Toraja theo văn hóa truyền thống của
bộ tộc này. Quan tài của người Toraja được táng trong những huyệt mộ
khoét sâu vào đá.
Nền văn hóa độc đáo cùng sự cuốn hút của
những chiếc nhà sàn hình thuyền tongkonan đã khiến vùng đất của người
Toraja trở thành một điểm đến thu hút khách du lịch quốc tế.
Tuy vậy, sự hội nhập với thế giới cũng
khiến nhiều ngôi nhà tongkonan bị biến dạng so với truyền thống. Nhiều
tongkonan sử dụng mái tôn thay cho vật liệu thiên nhiên.
Nhiều tongkonan khác đã bị bê tông hóa và không còn giữ được kết cấu nhà sàn nguyên bản.
Theo KIẾN THỨC
*****
Nguồn:
http://kienthuc.net.vn/di-san/hot-nha-san-indonesia-giong-het-hinh-ve-trong-dong-viet-nam-244271.html
Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân của tỉnh Tây Sumatra.
About these ads
Bài Viết
Hậu duệ của Hai Bà Trưng đang sống ở Indonesia?
Theo TS. Nguyễn Văn Vịnh
Có một sắc dân tại Indonesia chính là hậu duệ của các nghĩa quân Hai Bà Trưng.
-
Theo giả thuyết nhà nghiên cứu độc lập Trương Thái Du đưa ra, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, vào cuối năm 43 một bộ phận người Việt đã lên thuyền ra khơi và dạt vào Eo biển Malacca nhờ gió mùa Đông Bắc. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay. Ảnh: Cô dâu và chú rể người Minangkabau trong đám cưới.
Chúng ta không thể biết được, bởi vì giặc
giã đã huỷ diệt tất cả. May thay, có một sắc dân tại Indonesia chính là
hậu duệ của các nghĩa quân Hai Bà Trưng.
Theo các nhà sử học, mùa Xuân năm 43, một
số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng cùng những người không chịu khuất phục
giặc phương Bắc, đã chạy về phương Nam và cuối năm đó họ tiếp tục lên
thuyền ra biển.
Những đợt gió mùa Đông Bắc đã đẩy thuyền của họ dạt vào Eo biển
Malacca. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra
(Indonesia) và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay.Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Indonesia cho rằng người Minangkabau có nguồn gốc từ người Việt và hiện chiếm tới 80% trong tổng số 4,5 triệu dân của tỉnh Tây Sumatra.
Phát hiện hậu duệ Hai Bà Trưng ở Indonesia?
Theo các nhà khoa học, hậu duệ của Hai Bà
Trưng hiện nay là tộc người Minangkabau, đang sống ở Tây đảo Sumatra.
Những ngôi nhà có mái cong vút hình chim Lạc và họ của họ là Turun Nyi,
hơi giống hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị.
|
Dân tộc này hiện còn duy trì chế độ mẫu
hệ, trong gia đình, phụ nữ nắm quyền kinh tế. Trong mỗi dòng họ của
người Minangkabau, người phụ nữ giữ quyền thừa kế được gọi là Turun
Cicik, những người em gái trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi.
Những âm này, sau giai đoạn dài của lịch sử, đọc lên vẫn thấy hơi giống
âm gợi hai tên Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Người Minangkabau có tục lệ mời khách ăn
trầu và những ngôi nhà truyền thống của họ đều có mái cong như hình
chiếc sừng trâu, gợi hình ảnh những mái đình, chùa ở Việt Nam: Hai đầu
mái nhà cong và cao vút lên, y hệt hoạ tiết trên trống đồng Đông Sơn (có
vẽ 1 căn nhà, bên trong có 2 người, dưới sàn có 1 con , nóc nhà có 2
con chim, hai bên mái cũng vút cong lên).
Theo TS. Nguyễn Văn Vịnh/Đất Việt
*****
Nguồn:
CHUYỂN HÓA
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
LÊ HIẾU ĐẰNG* “SUY NGHĨ TRONG NHỮNG NGÀY NẰM BỊNH
LÊ HIẾU ĐẰNG* “SUY NGHĨ TRONG NHỮNG NGÀY NẰM BỊNH
“SUY NGHĨ TRONG NHỮNG NGÀY NẰM BỊNH…”
(LÊ HIẾU ĐẰNG)
Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam,
với 45 tuổi Đảng, những trãi nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong
phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng thôi thúc tôi phải “thanh
toán”, “tính sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển “Chuyện nghề của
Thủy” của đạo diễn Trần Văn Thủy, các truyện của các nhà văn quân đội như
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi
thăm Mỹ của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh
Hùng thăm Hàn Quốc, Myanma
(Miến Điện)lại càng giục giã tôi viết những dòng này. Các nhà văn đã cho tôi
thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc,
một xã hội không có bóng người. Chuyến đi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang
không có những nghi thức cao nhất của một nguyên thủ quốc gia hay chuyến đi
thăm Hàn Quốc , Myanma của chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh
các chuyến đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Một
bên thì khô cứng, lạnh lùng của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không
khí cởi mở, vui vẻ bình đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với
lòng tự trọng dân tộc có “mở
mắt” thấy điều đó không?.
Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công
bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất
nhất.
Tất cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở
nước ngoài làm tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi
một điều: con đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường
tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân
chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ
người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ
“GIẢI PHÓNG” không
có nghĩa như ngày nay người ta thường dùngmà là sự thoát xác thật sự làm người tự do ,
dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều đau khổ, bi thảm nhất là hệ thống cai trị
chính là người của dân tộc đó, là Việt Nam, là Trung Quốc, v.v. Nếu hiểu từ giải phóng
theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng tình với nhận xét của nhiều nhà
báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn “Bên
thắng cuộc” mới đây. Thật
sự là Miền Nam đã giái phóng Miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực nhất là kinh tế,
văn hóa tư tưởng…Vì những lẽ trên tôi
xin “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng
viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, song phẳng để
từ đây thanh thản dấn
thân vô cuộc chiến mới.
1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?
2.
Vào thế kỉ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết
bao trí thức, văn nghệ sĩ ở các nước,
nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh
sáng với các tên tuổi như Montesquieux, Voltaire, Jean Jacquess Rousseaux
v.v…với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ nghĩa Marx,
CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê của nhiều thế hệ trí thức phương
Tây thì ở Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như
Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ
v.v…hay những tri thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh
Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà họ đi vào
chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra sao nhưng họ
hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ
xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946 ông
HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân trước Ba Đình lịch sử. Lòng yêu nước,
lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng 8 và sau
đó đi kháng chiến.
Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng thôi thúc bởi những tình cảm
đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ
quốc để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân,
người lao động, những người hi sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường. tôi vào Đảng cũng rất đơn giản: năm
1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp
nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là 3-2) để sinh hoạt. Ahh Nguyễn
Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c Bắc Sơn (bí danh của tôi lúc đó) đ/c từ
nay là Đảng viên Đảng nhân dân cách mạng (thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ ra tôi đưa điều lệ để đồng chí nghiên
cứu nhưng đ/c là người hoạt động công khai trong Ban chấp hành Tổng hội sinh
viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến một số điều trong
điều lệ để đ/c biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả.
Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là người lớn
lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng Bảo Quốc.
Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi đã từng tham gia
phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ nhất
Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện
Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ
tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có
một kỉ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú
tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin
cho hai chúng tôi ra thi. Thế
mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày
nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều
sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí
Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô
Hoàng Yên v.v…, kể cả quyển sách viết về Niejche của Nguyễn Đồng Thi Hiền còn
trai trẻ trước 1945 nên gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều đậu hạng thứ
dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. Những
ngày ba tôi đến đón tôi ra thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong những ngày
giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất
nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành
pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện
nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không? Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm
văn nghệ, tôi thường hát bài “Tình quê hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ,
lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn.
Gia đình của người phụ trách lao Thừa Phủ
đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng
mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy
đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày
rồi đó”. Về anh Nguyễn Ngọc Phương người phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã
hi sinh trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi
lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của
Hoàng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao
thích bài hát ước át quá vậy?”.
Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét
đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao
mình không thích được!”. Nghe anh tôi càng cảm phục người đ/c phụ trách tôi và
hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau đó, chị Cao
Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
3. Vấn đề đa nguyên, đa đảng
4.
Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ
nghĩa xã hội khoa học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài Gòn-Gia
Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều
cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế v.v…) như thế nào
thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp
nhân dân Việt Nam từ Bắc đến chí Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi
ngược lại tất cả qui luật tự nhiên, cóp pi mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng
sản 100%.
Dân chúng đói kém rên xiết. các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan
nát biết bao gia đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều, và biết bao
gia đình phải chết tức tưởi trên biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu
Luật, người đã cùng tôi vào chiến khu và đã hi sinh vào ngày 11.10.1968. tại
căn cứ Ban tuyên huấn T.Ư cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang
Long sau trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm nhục trước mặt
chồng con. Có thể nói tất
cả điều đó là tội ác của Đảng và Nhà nước Việt Nam, không thể nói khác được. Trước sự rên xiết của
người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương phải
đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó
có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế
khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu
họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là qui luật tất
yếu, vì vậy không
thể không đa nguyên đa đảng
được, và như vậy điều
4 Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa. Trước sau gì các vị lãnh đạo của ĐCS phải chấp nhận thách thức
này : các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng
với ĐCS trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay Campuchia đã làm.Tôi thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư, trong ban Tuyên huấn của Đảng mà đứng đầu là
ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung
ương trả lời luôn một cách công khai, minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn
mà không chơi trò “bỏ bóng đá người” như đã từng thường sử dụng hiện nay. Thực
tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ
trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7
điểm và dự thảo hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam
Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các giáo sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy
Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc đại sứ nhiều thời kỳ như ông
Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung v.v…Các nhà kinh tế có uy tín lớn
như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí thức kỳ cựu như Hồ
Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Quốc Thái, và
các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy lừng trong phong trào
đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975 như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê
Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập và
biết bao con người tâm huyết mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những
người là giàu có nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của
đời sống đã vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận mọi rủi ro, nguy
hiểm cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình để dấn thân vào cuộc chiến đấu
mới để tiếp tục thực hiện lý
tưởng thời trai trẻ mà hiện nay đã bị phản bội, chà đạp những lời hứa năm nào
trong kháng chiến. Ngoài ra còn cả một
lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những blogers, những sinh viên đang có
những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác. Tình hình trên
cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc
không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng
ta,- hàng trăm đảng viên không tuyên
bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mớichẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng
đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán. Tại
sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương
không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp
lý nào cấm điều này. Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng
ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.
Không thể
rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội
dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá
vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà
nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm
công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh
động, bạo lực khiêu khích gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại
khái trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành
động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.
3. Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc
-Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp,
đoàn kết thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hi sinh biết bao xương
máu, nay Đảng và Nhà nước Việt Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng
Trung Quốc, -những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta ,và vào năm 1979 họ đã xua
quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc
xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học. Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền
nhân thời xa xưa trước đã cho họ nhiều bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò
Đống Đa v.v… Không biết tập đoàn Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó
không? Riêng các vị lãnh đạo ĐCS và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của
dân tộc Việt nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân”
(chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn tốt ,mười sáu
chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô
nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trong ngư trường truyền thống của
mình, hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm dò dầu khí của chúng ta. Thế mà phản
ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại
nghe quá nhàm tai và khó chịu của người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi,
có những vụ việc lớn, càng không
dám thực hiện những việc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập đại sứ
Trung Quốc ở Hà Nội đến để trao công hàm phản đối, chứ không chỉ là tự mình
phải mang công hàm đến toà đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì?
Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước nầy
chống các nước khác, nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta
liên kết với các nước để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông. Tôi rất mừng
nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-la chống lại nền
chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả
lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là
nước nào ai cũng biết !. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc
Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý
kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không
có sự chỉ đạo nào của Bộ chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài
viết về vấn đề nầy đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.
-Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong
thời kì kháng chiến hoặc trước 1975, ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành
quyền sống. Đây là vấn đề về con người.
+Về dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước
độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập
pháp, hiến pháp, tư pháp, riêng biệt và độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham
nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó
bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử bình đẳng mà trở thành người lãnh
đạo. Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ là một lực lượng chính trị mà
không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần
tự tin điều đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm
vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực
lượng đối lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị,chỉ có chờ chết mà thôi.
+Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính
của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ
của giáo sư toán học Ngô Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa học,
văn học, nghệ thuật, báo chí…thật sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những
quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây,chế độ toàn trị đã phản bội tước
đoạt tất cả các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn
cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng.
Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản
và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế kỷ đầy máu và nước mắt mới
có được. Trong cuốn “Đi tìm cái tôi đã mất” của đại tá nhà văn Nguyễn Khải đã
nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mill thì vỡ ra nhiều vấn đề”. Vì vậy
anh Nguyễn Khãi đã nhìn lại những gì mà anh đã trãi nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn nhẹ
nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu vào tim óc
của chế độ mà không thấy các vị “phê bình điểm chỉ” (cách gọi mới đây của nhà
văn Phạm Xuân Nguyên, chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội đối với tên Nguyễn Lưu cùng
với một số người trong việc “bề hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về
nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán, chửi rủa. Các vị lãnh đạo ĐCS tại sao không
suy nghĩ trong
chế độ thuộc Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho
đến nay chưa có thời kì nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp
vạn lần” như bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàn hồ, thiếu
suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho
thiên hạ. Báo chí thì nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam Phong, Phong hóa
ngày nay…với những Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi…Văn học nghệ thuật
thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên,
Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài thơ bất hủ mà đến
nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất
Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa
khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng v.v…Với Thanh
Tịnh tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học” trong tập “Quê mẹ” của ông. “Hằng năm cứ vào
cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc,
lòng tôi lại nao nức với những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên
thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như những đóa
hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy
sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm đắt tay tôi trên con đường làng dài và
hẹp. Con đường nầy tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần nầy bỗng nhiên thấy
lạ vì hôm nay tôi đi học.” Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các
tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn,
Lê Thương, Nguyễn Văn Thương…Thế mà Thanh Tịnh và những nhà văn, nhà thơ, nhạc
sĩ nói trên dưới chế độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm nào ra hồn.
Cũng may ra sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày
đầu đã tạo nên trào lưu hứng khởi để nhạc sĩ VĂN CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên”với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng
“Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết
quê người…” thế mà bài ca này cũng bị cấm hát hết mấy năm. Những năm sau, khi vào chơi với Trịnh Công
Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam,ông Văn Cao đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa,
vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm
ông buồn bực và tiếp tục uống rượu.
Chỉ có một điều an ủi
của ông là vào Nam, vào Sài Gòn, ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa
xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”v.v…của
ông. Vấn đề là:- ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn
Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu v.v…là việc làm thiếu suy nghĩ,
nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy
không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào
Cần Vương, Duy Tân.
Ngay trong lĩnh vực
báo chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh Niên, báo của tổ chức CS làm ngày
báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia
Định báo năm 1914 làm ngày báo chí VN. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi
sẽ tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS và các tổ chức của mình cứ
lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy làm. Thế
thôi.
Tại Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa bình mới lập lại (1954), các
văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu
biểu là Trần Dân, Phùng Quán, Hoàng Cầm…đã gây chấn động trong vụ Nhân văn giai phẩm. Có
lẽ vì họ là những người trực tiếp chiến đấu, từng chứng kiến cảnh chết chóc của
nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một
chế độ tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí
thức, văn nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng để đòi hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị
không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ. Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe dọa
của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương tay. Người
bị tù với vụ án ngụy tạo như công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc
lập năm 1946. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết
về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Ba mẹ vợ anh, trong cải cách ruộng đất, đã bị chôn sống để trâu bò bừa lên đầu, lên cổ cho
đến chết. Một Nguyên Hồng
khảng khái bỏ về quê nuôi heo để kiếm sống.
Trần Hữu Đang sống những ngày tủi
nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ
chung quanh kiếm cho. Năm 1989, tôi gặp thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp ,
người đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc
đó, bị cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quí để
sống qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo , khi tôi còn làm Phó chủ tịch
thường trực MTTQ TP.HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên
liền, xem có công an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất
vọng vô cùng về ông.
Tôi còn có những kỉ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ
thống chính trị của nhà nước toàn trị. Lúc còn là phó CT/TT MTTQ TP.HCM và là
đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ĐCS VN ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên
là “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như HĐND
TP thế mà chẳng
thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to, chần dần “ĐCS VN quang vinh muôn
năm”. Một số đại biểu trong HĐND trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt
nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong HĐND khóa 5,
khi lên phát biểu ở Hội trường tôi trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại
diện cho nhân dân TP., nhưng tôi không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có
ĐCS muôn năm thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ
quốc, nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết vì vậy
tôi đề nghị thây đổi khẩu hiệu này bằng câu CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im
phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+Tôi là trưởng ban VHXH HĐND TP khóa 5. Trong các kỳ họp HĐND
TP, các ban có bài thẩm dịnh khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các
ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua Trưởng ban là người quyết định cuối
cùng. Tôi nhớ trong một kì họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để
phát biểu trước HĐND. Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị phó CT
nào dự, kể cả phó CT phụ trách VNXH. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông
Huỳnh Đảm, lúc đó là CT HĐND, cho các thư kí, trợ lý điện gấp cho các phó CT,
nhất là các phó CT phụ trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định chuẩn bị công phu để
phân tích những vấn đề, nhất là vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác. Những vấn đề có
liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân TP. Khi thầy các phó CT lục tục về
họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu tiên các phóng viên
báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kì hôp nào các PCT UBND cũng đều có
mặt trừ một số PCT có lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng , Thành ủy,
xem thường HĐND đã vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+Việc thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của
chủ tịch UBND TP Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay
không? Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng
thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là
chuyện mà tôi và anh sẽ nói trong Đảng còn đây là HĐND. Giữa lúc có nhiều đại
biểu đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, ủy viên TVTU, phó giám đốc Công
an TP, Phạm Phương Thảo, Ủy viên TVTU, phó CT phụ trách VHXH UBND TP thì chủ
tọa kỳ họp lại được tin ban TVTU họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP.. Tôi cương
quyết đề nghị có Nghị quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ
ở HĐND TP.
Tuy đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi
vẫn tôn trọng tính trung thực, quyết đoán của anh. Lúc đó tôi với tư cách đại
biểu HĐND TP có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường TP
để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương lúc đó. Phối hợp cuộc đấu tranh này có anh
Nguyễn Văn Thắng, ủy viên TV Quận ủy Q.6, Trưởng ban tuyên huấn Q.6. Thắng cũng
là dân phong trào SV. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12
người gọi là điệp báo của Cục tình báo TƯ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7.
Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm phó bí thư thường trực của TƯ. Tôi gặp
anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề thì anh đề nghị tôi không
can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình báo TƯ của Mỹ. Trước đó
có người biết chuyện ngụy tạo danh sách nầy và nói danh sách láo được đánh trên
giấy Bãi Bằng là giấy chỉ Cộng sản sau 1975. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận
nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6 tính lấy lại nhà
của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị
anh xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện
chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không
ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Q.6 như
cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao anh
không đi học cử nhân, tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam bộ:
“Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự,
không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”.
Từ đó quan hệ giữa anh
và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa
Nguyễn Huệ. Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển “Bên thắng
cuộc” nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung
thực mà chỉ dành cho những người nói láo, tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó
đi để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu
Trinh: Khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh.
Cuối cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh
toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những nợ còn lại để gửi các vị lãnh
đạo Đảng CSVN, để mong các vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho
dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã
sụp đổ tan tành ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền,
dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người,
vì con người chống lại các thế lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá
hoại môi trường vì những lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lũng đoạn nhà
nước.
Tôi không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và
Nhà nước sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của
Đất nước, Tổ quốc lên trên hết cần có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và
sự tồn tại của Đảng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại
hiện nay. Tôi quan niệm rằng,nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cương quyết đấu
tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng, thực hiện những
lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước VN hòa bình, độc lập,
tiến bộ xã hội, văn minh và giàu mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân
mạnh lên, xã hội sẽ có đủ sức kiềm hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một
nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải
“chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù
đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài viết nầy cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những
nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ, các bạn TNSVHS mà tôi đã quen hoặc mới quen,
để khẳng định một điều: -với
lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động. Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự
đúng, sai khi chọn lựa đứng bên nầy hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài
người trong đó có người VN khát khao với một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái
ác, cái xấu nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN và CNXH. Vấn đề là
trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề
sống còn của đất nước; Nhưng hiện nay tình hình trong nước thế giới đã thay
đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước đây. Nhận thức lại
và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới.Đừng loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu
sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch
sử. Còn chúng ta, trước mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này, tôi nói một lần, rồi thôi…
Viết trong những ngày
nằm bịnh ( 8-2013 ).
Lê Hiếu Đằng
-Nguyên phó TTK Ủy ban TƯ LM các lực lượng Dân
tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
-Nguyên phó CT Ủy ban MTTQ VN TP.HCM (từ
1989-2009)
-Đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN -
Wednesday, August 17, 2016
VĨNH KHANH * TRUYỆN TÙ CỘNG SẢN
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Lời nói đầu:
– “Lý do gì anh đã trốn thoát ra ở bên ngoài 11 năm rồi, bây giờ mới trở vào tự thú?”
Mgười Mỹ đen phỏng vấn Phạm Văn Thức nói thẳng với anh:
Lời nói đầu:
Ngày 15 tháng 12 năm 2007 vừa qua, sau
hơn 30 năm lưu lạc sống rãi rác khắp nơi, nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc
mới có cơ hội qui tụ về thành phố Houston tham dự buổi họp mặt lần đầu
tiên. Tôi không phải là thành viên trong nhóm, nhưng hân hạnh được tham
dự buổi họp mặt cảm động và tràn đầy tình huynh đệ này. Tôi gặp lại một
số bạn cũ cũng như được biết thêm nhiều anh em mới trong dịp này mà tên
mỗi người đều kèm theo một biệt danh dí dỏm như: Hoàng “xà lim”, Hối
“Hilton”, Dũng “Sún”, Hải “Vờ”, Toàn “chí chóe”… Đặc biệt hơn hết trong
số người tôi được giới thiệu ngày hôm đó là anh Phạm Văn Thức. Sau đó
được nghe chính anh và những bạn bè trong nhóm kể lại câu chuyện độc đáo
có một không hai của anh. Thú thật tôi bị cuốn hút vào câu chuyện hấp
dẫn này ngay từ đầu nên đã xin phép anh Phạm Văn Thức được viết lại nó.
Mời quý vị theo dõi câu chuyện độc đáo sau đây của người tù cải tạo nhóm
520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức mà các bạn tù đã thân thương đặt cho
anh cái biệt danh là: Thức ” trốn trại”.
Kể từ sau ngày trình diện tập trung cải tạo, các sĩ quan chế độc cũ đã
phải trãi qua nhiều trại tập trung khác nhau như Trảng Lớn, Đồng Pan, Cà
Tum, Long Thành, Suối Máu …v…v… nhưng đến năm 1979, một đợt chuyển trại
nữa lại xảy ra. Trong đợt này có 520 sĩ quan cấp úy QLVNCH bị chuyển về
trại Xuyên Mộc thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu. Trại Xuyên Mộc này từ trước chỉ
nhốt tù hình sự, nên nhóm tù sĩ quan cải tạo bị chuyển về đây cũng phải
chịu chung sự quản chế rất khắc khe, tàn ác giống như qui chế dành cho
các tội phạm hình sự. Mọi qui chế ở trại Xuyên Mộc này đều khó khăn hơn
nhiều so với các trại cải tạo mà họ đã ở qua trước đây. Bọn Công An quản
giáo trại vì quen thói đánh đập tù hình sự, nên cũng đánh đập tù sĩ
quan cải tạo rất dã man mỗi khi có ai phạm vào nội qui của trại, dù là
những lỗi rất nhỏ. Những hình phạt khắc nghiệt như cùm giò, nhốt xà lim
bỏ đói cả tháng trời… hoặc hình ảnh cả đám cán bộ quản giáo xúm lại đánh
hội đồng một anh tù cải tạo vô phúc nào đó là hình ảnh xảy ra hàng
ngày… Chính những điều này đã dấy lên sự bất mãn trong nhóm tù cải tạo
520 Xuyên Mộc và càng làm rõ nét thêm sự gian trá láo khoét của cái
chính sách gọi là “Khoan Hồng, Nhân Đạo” mà chính quyền cộng sản lúc nào
cũng rêu rao.
Một số tù bắt đầu tổ chức trốn trại. Khoảng giữa năm 1979, một vụ tổ
chức cướp súng trốn trại nổi tiếng xảy ra ở trại Xuyên Mộc. Tham gia
trong kế hoạch cướp súng trốn trại này gồm có 5 người là: Thiên, Tài,
Thịnh, Đức và Khanh, trong đó người chỉ huy là Thiên, một sĩ quan Trinh
Sát Dù. Sau nhiều lần bàn bạc cũng như theo dõi những thói quen của các
vệ binh, cán bộ mỗi ngày khi ra lao động bên ngoài. Tổ chức này quyết
định sẽ hành động vào lúc hết giờ lao động trong một ngày đã định sẵn,
khi các tù cải tạo sắp xếp chuẩn bị trở về trại. Nhiệm vụ được phân công
rõ ràng cho từng người, ai có nhiệm vụ nấy. Nhưng đúng là “Người tính
không bằng Trời tính”. Câu nói đó xem ra không phải là một câu nói vô
duyên cớ…
Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương.
Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương.
Tài ở gần đó bỏ chạy cũng bị bắn chết luôn sau đó. Ba người còn lại
trong tổ chức là Thịnh, Đức và Khanh lúc bấy giờ đang ở phía sau hoàn
toàn không chuẩn bị gì cho việc này cả, nên không ai trở tay kịp hoặc
giúp gì được cho Thiên và Tài. Lúc đó anh nào cũng đang mang trong người
một ruột tượng đựng cơm phơi khô, bất thình lình thấy Thiên ra tay hành
động… rồi súng nổ… rồi Thiên và Tài bị bắn ngã… sự việc xảy ra nhanh
quá! Nghĩ là mọi việc đã bị đổ bể, ở lại thế nào cũng sẽ bị xét bắt nên
ba người cũng vội bung ra chạy… Quân vệ binh cộng sản truy lùng ngay sau
đó… Kết quả Thịnh và Đức bị bắt lại và bị đánh thê thảm. Chỉ có Khanh
may mắn chạy thoát được. Vụ trốn trại này không những làm xôn xao tất cả
đám tù cải tạo còn lại, mà cả ban chỉ huy trại và quản giáo cũng xôn
xao, rúng động không kém. Ngay sau đó, hệ thống quản lý tù càng siết
chặt chẻ hơn… nội qui trại đưa ra càng khó khăn hơn và kỷ luật mới được
ban hành để đối phó với bất cứ ai phạm nội qui lại càng tàn bạo hơn
trước nhiều…. Tuy thế cũng không làm cho các tù nhân cải tạo sợ hải. Ít
ra là đối với một người: Đó là anh Phạm Văn Thức.
Anh Phạm Văn Thức trước đây là Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đơn vị đóng
tại tỉnh Long An. Anh là người miền Bắc di cư, hiền lành, ít nói và là
một tín đồ Công Giáo rất ngoan đạo. Nhưng không ai ngờ rằng với bề ngoài
hiền lành, ít nói của anh lại ẩn tàng một ý chí sắt đá với những quyết
định táo bạo khó có ai bì được. Sau khi từ trại Suối Máu bị chuyển về
Xuyên Mộc, dưới sự quản thúc tàn bạo của đám Công An đã đối xử với anh
và các bạn tù cải tạo như thú vật… thì anh đã nảy ra ý định trốn trại.
Tuy nhiên anh chưa kịp thực hiện kế hoạch của mình thì đã xảy ra vụ tổ
chức 5 người kể trên cướp súng vượt trại thất bại trước rồi. Việc này
xảy ra bắt buộc anh phải tạm thời đình hoãn kế hoạch của mình lại, chờ
mọi việc yên ổn, lắng dịu xuống hết rồi mới tính được.
Qua năm 1980, chuyện 5 người âm mưu cướp súng trốn trại tương đối đã êm.
Mọi sinh hoạt trại trở lại bình thường. Lúc bấy giờ vào mùa thu hoạch
bắp nên tất cả công tác lao động của trại chủ yếu là làm việc trên những
rẫy bắp nên các vệ binh đi theo canh gác tù chỉ tập trung ở những rẫy
bắp. Lợi dụng cơ hội này, Phạm Văn Thức quyết định thực hiện ý định của
mình. Anh nhận thấy nếu việc trốn trại có nhiều người tham dự sẽ không
được an toàn cho lắm. Tuy rằng với có nhiều người thì sẽ có sự giúp đỡ
lẩn nhau trong khi hành động cũng như trên bước đường trốn tránh trong
rừng, nhưng đồng thời kế hoạch cũng dễ bị vỡ nếu mọi việc không hoàn
toàn ăn khớp với nhau, như trường hợp của 5 người bạn tù trước đây. Do
đó Phạm Văn Thức quyết định thực hiện việc đào thoát một mình và không
bàn với ai về ý định của mình cả. Theo như sự tính toán của anh, trường
hợp nếu bị bắt lại thì không còn gì để nói, phải chấp nhận mọi hậu quả
thôi.
Còn nếu trốn thoát được thì chỉ cần vài ba ngày lội trong rừng là có thể
thoát ra được do thế việc chuẩn bị lương thực, nước uống không cần
thiết lắm. Vấn đề mưu sinh thoát hiểm trong rừng 2, 3 ngày không phải là
một điều khó khăn lắm đối với một sĩ quan, nhất là điều này anh đã được
huấn luyện từ trước. Kinh nghiệm anh đã thấy qua từ vài âm mưu trốn
trại bị lộ trước đây ở các trại khác cũng chỉ vì bị cán bộ quản giáo
phát giác ra việc dự trử cơm phơi khô để dành… Nên anh quyết định không
chuẩn bị gì cả cho phần lương thực. Mỗi buổi sáng đi ra lao động, chỉ
cần chút ít thức ăn mang theo trong ngày, bình nước nhỏ và con dao được
phát cho việc lao động là đủ. Với tư thế lúc nào cũng sẵn sàng như thế
anh kiên nhẩn chờ đợi thời cơ, ngày này không được thì chờ qua ngày
khác… Mọi sinh hoạt trong trại vẫn đều đều như bình thường, không ai mảy
may nghi ngờ gì đến anh cả.
Cuối cùng rồi thời cơ cũng đến. Ba ngày trước, lúc được giao công tác
thu hoạch trên rẫy bắp. Mọi người ai nấy đều lui cui bận rộn với công
việc, 2 tên vệ binh đi theo canh giữ thì đang ngồi tán gẫu với một tên
vệ binh khác ở phía xa. Thừa lúc không ai chú ý tới, Phạm Văn Thức lợi
dụng địa thế rậm rạp và thân cây bắp cao che khuất lủi nhanh vào sâu bên
trong và biến mất ngay.
Sau khi băng qua mấy rẫy bắp và vào được trong rừng, Phạm Văn Thức cố
gắng đi càng xa càng tốt khỏi vùng ảnh hưởng của trại Xuyên Mộc. Sau đó
anh nhắm hướng đi theo kế hoạch đã tính từ trước. Anh không đi về hướng
Bà Rịa, Vũng Tàu mặc dù từ trại Xuyên Mộc đi về Bà Rịa gần hơn; ngược
lại anh đã quyết định chọn con đường về hướng Gia Kiệm, Đồng Nai xa hơn
để đi. Có hai lý do khiến anh chọn con đường dài hơn, đồng nghĩa với khó
khăn hơn vì: Thứ nhất anh có thể đánh lạc hướng truy đuổi của các cán
bộ vệ binh Cộng Sản, ít ai ngờ anh sẽ chọn con đường xa hơn sau khi trốn
trại. Thứ hai ở Bà Rịa,Vũng Tàu anh không có ai là thân nhân quen biết
để có thể giúp đỡ. Còn nếu đến được Gia Kiệm, thì anh có ông anh đang ở
đó, sẽ nhờ ông anh này giúp đỡ cho bước kế tiếp…
Đã quyết định như thế từ trước, nên anh cứ căn cứ vào điểm chuẩn của núi
Chứa Chan từ xa lầm lủi đi. Ban ngày thì cứ nhắm hướng mà đi. Đêm đến
thì anh tìm cách leo lên một nhánh cây lớn để tránh thú dữ, ngủ chút
đỉnh lấy sức chờ trời vừa sáng lại leo xuống tiếp tục cuộc hành trình
đào thoát… Một ít lương thực mang theo cho ngày lao động hôm trước và
mấy trái bắp bẻ lúc còn trong rẫy cũng giúp anh thoát được cơn đói hành
hạ. Tuy nhiên đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, mệt đến lã người nhưng anh
không dám nghỉ ngơi lâu vì chỉ sợ mệt quá ngủ quên luôn… Chỉ khi nào
mệt lắm anh mới dám tìm bụi rậm ngồi nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức,
còn lại thì anh cứ bươn bả đi miết. Vừa đi anh vừa cầu nguyện và tự nhắc
nhở để cổ vũ tinh thần: “Phạm Văn Thức ơi! Mày phải cố gắng lên. Không
được nghỉ… Mày đã trốn thì phải trốn cho thoát, thà là chết trong rừng,
đừng để bị bắt lại, chúng nó sẽ hành hạ mày thê thảm còn hơn chết nữa….
Chúng nó đang đuổi theo phía sau đó.
Không được nghỉ… Cố gắng lên… Cố gắng lên. Qua khỏi khu rừng này là an
toàn rồi…” Cứ thế anh vừa len lỏi đi, vừa tự nhắc nhở, khuyến khích mình
như thế. Gặp khu gai góc thì dùng dao phát quang xuyên qua hoặc tìm
cách né tránh rồi cố gắng giữ theo hướng cũ để khỏi bị lệch quá xa. Một
đôi khi gặp suối thì dò tìm chỗ cạn để vượt qua, rửa vội mặt mày cho
tỉnh người lại rồi cứ thế vượt suối đi tiếp… cuối cùng sau 3 ngày 2 đêm
thì anh đã sắp ra khỏi rừng, gặp đường quốc lộ rồi.
Núp vào một bụi cây rậm rạp, Phạm văn Thức hướng mắt về phía bìa rừng,
cẩn thận quan sát kỷ động tịnh chung quanh. Từ nơi đây, thỉnh thoảng anh
đã có thể nghe tiếng xe cộ chạy ngang qua nên đoán chắc phía trước là
quốc lộ. Theo như vị trí hiện tại chỗ anh đang đứng so sánh với bóng
dáng của núi Chứa Chan ở phía trước mặt, thì anh đoán mình còn cách Gia
Kiệm, điểm anh muốn đến, không bao xa. Nghe tiếng xe cộ thỉnh thoảng
vọng lại từ phía ngoài bìa rừng lòng anh mừng khấp khởi, tuy nhiên anh
không dám mạo hiểm đi ra quốc lộ vào lúc này. Trời hãy còn sáng lắm.
Nhìn lại quần áo trên người đầy bụi bậm, một vài nơi bị gai góc, cây cỏ
móc rách nát te tua lòi cả da thịt bên trong, anh nhủ thầm: “Với bộ dạng
thê thảm như vậy, rủi có ai bắt gặp cũng dễ bị nghi ngờ!”. Anh kiên
nhẩn ngồi dựa người vào trong một góc khuất của bụi rậm nghỉ ngơi chờ
mặt trời lặn. Ý nghĩ sắp gặp được người thân và thoát khỏi cảnh tù đày
làm anh nôn nao trong dạ, chỉ thầm mong cho mặt trời lặn thật sớm để
tiếp tục đi.
******
Khi Phạm Văn Thức lần mò tìm được tới nhà người anh ở Gia Kiệm thì trời
đã khuya rồi. Trên đường đi, anh tránh né hết những bóng dáng người di
động từ xa nên không ai phát giác ra anh cả. Khỏi phải diễn tả, chúng ta
cũng có thể đoán được là ông anh của Phạm Văn Thức sửng sốt như thế nào
khi biết được em mình trốn trại trở về. Sau khi trao đổi với nhau vài
câu, Phạm Văn Thức cho biết là không thể ở lại đây vì không an toàn. Anh
nhờ ông anh cấp tốc chở về Hố Nai nơi anh có một bà cô đang sống. Ở đó
an toàn hơn vì ở Hố Nai không ai biết gì về anh trước đây hết. Thế là
sau khi tắm rửa, thay quần áo, ăn uống qua loa lấy lại sức, hai anh em
chở nhau trên một chiếc Honda lên đường đi ngay trong đêm khuya về Hố
Nai.
Như chúng ta đã biết, Hố Nai là một xứ đạo được lập ra sau khi phong
trào di cư từ miền Bắc vào Nam năm 1954. Cư dân ở đây hầu hết theo đạo
Công Giáo, rất sùng đạo và đặc biệt có tinh thần đoàn kết rất cao. Ngay
cả sau năm 1975, khi cộng sản nắm chính quyền cũng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc cai quản và áp đặt chính sách lên xứ đạo nổi tiếng này.
Chính nhờ thế ở tại nhà bà cô, Phạm Văn Thức cảm thấy rất an toàn. Không
một ai thắc mắc, để ý gì đến anh hết. Lúc bấy giờ vợ con của anh vẫn
còn ở với gia đình bên vợ tại Long An. Anh dặn người anh và bà cô tạm
thời không cho vợ con anh biết tin, vì chắc chắn sau khi phát giác anh
trốn trại, họ sẽ báo về địa phương truy lùng anh. Cứ kiên nhẩn đợi mọi
chuyện lắng dịu đâu đó rồi sẽ cho gia đình biết sau cũng không muộn.
Phạm Văn Thức ở nhà bà cô được hơn 2 tháng, mọi việc vẫn yên ắng, thuận
lợi. Lúc đó anh mới nhờ người báo tin cho vợ con ở Long An lên Hố Nai
gặp mặt.
Vào thời điểm này phong trào vượt biên đã rầm rộ lắm rồi. Gia đình bàn
với nhau là trường hợp của anh không thể ở lại VN được, bằng mọi cách
phải cho anh vượt biên ra khỏi VN. Nhưng trong khi chờ đợi tìm được
đường dây tổ chức vượt biên thì cũng phải kiếm việc gì làm để sống chứ
đâu thể ở mãi nhà bà cô được. Cũng may lúc đó có một gia đình người quen
đang làm rẫy ở khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom. Gia đình này sẵn
lòng giúp đỡ và khuyên anh nên về ở chung với họ làm rẫy trong khi tìm
đường vượt biên. Vùng Cây Gáo lúc bấy giờ là một vùng mới khai phá, cư
dân hầu như từ khắp nơi đổ về đây lập nghiệp, sống chủ yếu bằng nghề làm
rẫy. Không ai biết quá khứ của ai và cũng chẳng ai thắc mắc gì ai cả.
Ngay chính quyền địa phương cũng rất dễ dãi với mọi người vì họ đang có
chiến dịch khuyến khích người dân về vùng này khai phá, trồng trọt tăng
gia sản xuất thêm…
Nơi đây đúng là một nơi lý tưởng để Phạm Văn Thức ẩn thân trong khi chờ
đợi vượt biên. Thế là anh bảo vợ con tạm thời ở lại Long An, còn một
mình anh đi lên khu kinh tế mới Cây Gáo tá túc ở nhà người quen tốt bụng
này, ngày ngày vác cuốc ra rẫy làm lụng che mắt thiên hạ. Trong khoảng
thời gian này, anh dò tìm mua được một giấy “Chứng Minh Nhân Dân” giả
với một tên họ khác. Nhớ thế chính quyền địa phương ở Cây Gáo, Trảng Bom
cũng không thắc mắc gì về anh, mọi sự đi lại của anh nhờ thế cũng dễ
dàng.
Kéo dài như thế cũng hơn năm trời, anh vừa tiếp tục làm rẫy vừa để ý tìm
kiếm đường dây vượt biên. Cuối cùng có người giới thiệu anh với một chủ
ghe và cũng là người tổ chức. Sau nhiều lần đi lại tìm hiểu kế hoạch…
anh đóng tiền cho chủ ghe và chờ đợi ngày xuất phát. Tuy nhiên chuyến
này anh đã bị gạt! Đến ngày xuất phát, chủ ghe âm thầm ra đi bỏ anh lại
không thông báo tiếng nào cả. Trời bất dung gian, chuyến vượt biên đó
cuối cùng bị đổ bể. Người chủ ghe bị Công An bắn chết còn tất cả những
người tham gia đều bị bắt lại hết… cũng may, nếu anh tham dự trong
chuyến này thì cũng bị bắt luôn rồi. Thật đúng là số Trời! Không ai có
thể nói trước được. Sau lần bị gạt này, tiền bạc mất hết, Phạm Văn Thức
không còn đủ khả năng tham gia vào một chuyến vượt biên nào nữa.
Anh đành bàn với vợ con gom góp mọi thứ lên khu kinh tế mới Cây Gáo,
Trảng Bom an phận làm ăn sinh sống. Gia đình anh tiếp tục làm rẫy thêm
một thời gian nữa, sau đó tìm được một việc khác tương đối đỡ hơn: Đó là
nghề đi bán và bỏ mối nước mắm lẻ. Tuy nghề này cũng vất vả, chủ yếu
chỉ lấy công làm lời, nhưng nhờ tính cần cù nhẫn nại, chịu khó chìu
khách hàng… nên mối quen càng ngày càng đông, gia đình anh nhờ thế cũng
đỡ vất vả hơn trước.
Năm 1989, chính quyền địa phương Cây Gáo, Trảng Bom có chính sánh cứu
xét cho những người địa phương ở “lậu” vào hộ khẩu thường trú. Nhưng
muốn được cứu xét người đó phải chứng minh được là mình thuộc diện lao
động sản xuất… Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì lúc đó gia đình anh
không còn làm rẫy nữa mà chuyên hẳn về nghề bán nước mắm lẻ. Công việc
này chính quyền địa phương coi như không hợp lệ trong việc cứu xét vào
hộ khẩu? Nhưng có lẽ nhờ gia đình anh thường ngày đối xử với bà con xóm
giềng rất tốt nên ai nấy đều thương mến. Biết được chuyện khó của anh,
một người láng giềng tên Long trước đây là Thượng Sĩ QLVNCH thuộc sư
đoàn 5 bộ binh đã giúp cho anh đứng tên đất rẫy của mình để anh có thể
chứng minh được với chính quyền địa phương gia đình anh là một gia đình
thuộc diện lao động sản xuất… Nhờ thế gia đình anh mới được cho vào hộ
khẩu. Mãi tới bây giờ Pham Văn Thức vẫn nhớ tới cái ơn giúp đỡ của ông
Thượng Sĩ Long tốt bụng này. (Như chúng đã biết, sau 1975, chính quyền
cộng sản áp đặt ra chế độ hộ khẩu như một hình thức kiểm soát người dân
về nhiều mặt. Những người không có hộ khẩu thường trú sẽ gặp rất nhiều
khó khăn đối với chính quyền địa phương. Ở vào trường hợp những người
như anh Phạm Văn Thức, việc vào được hộ khẩu thường trú, cũng đồng nghĩa
với việc sống một cách an toàn, hợp pháp, khó có ai có thể truy lùng ra
gốc tích trốn trại của anh ngày trước). Từ đó anh và gia đình cứ an
phận ngày ngày tiếp tục chở nước mắm đi bỏ mối nuôi sống gia đình…
Nếu câu chuyện của anh Phạm Văn Thức chỉ có thế thì cũng chẳng có gì quá
đặc biệt. Chúng ta xem như anh đã thành công trong việc trốn trại, sử
dụng giấy tờ giả, tên giả và cuối cùng an phận sinh sống với gia đình ở
một địa phương khác không ai hay biết gì hết… Nếu chỉ có thế thì chúng
ta có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên câu chuyện của anh còn nhiều điều ly
kỳ và phần kế tiếp mới chính là phần độc đáo, có một không hai trong
cuộc đời của người tù nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức này. Mời
quý vị theo dõi tiếp…
******
Năm 1990 khi chương trình định cư nhân đạo HO của chính phủ Mỹ đưa ra,
Phạm Văn Thức lúc đó đang ngày ngày chở nước mắm bỏ mối ở vùng kinh tế
mới Cây Gáo, Trảng Bom nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Đến khi một
người bạn thân của anh thời còn học trung học là Nguyễn Anh Tuấn (hiện
đang định cư tại Lafayette, Louisiana) nhắn tin lên báo cho anh biết về
chương trình này… Nguyễn Anh Tuấn cũng cho biết là mình đã nộp đơn xong
và đang chờ phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Anh bạn này thúc dục Phạm Văn Thức
nên lo thủ tục cần thiết và nộp đơn sớm để được phỏng vấn sớm…
Tuy nhiên sau khi xem kỹ điều kiện thì Phạm Văn Thức không khỏi thất
vọng, vì điều kiện hợp lệ tiên quyết để được nhận đơn phỏng vấn cho
những cựu quân nhân, cán chính thuộc QLVNCH là phải chứng minh được mình
đã từng bị tù cải tạo trên 3 năm. Oái ăm thay trường hợp Phạm Văn Thức
hiện nay lại không có giấy tờ gì chứng minh được điều này, mặc dù anh đã
từng ở tù hơn 5 năm và qua mấy trại khác nhau trước khi trốn thoát khỏi
trại Xuyên Mộc! Ngoài ra tên và giấy tờ của anh hiện này đang xài là
tên giả! Anh không còn giấy tờ gì chứng minh được tên thật của mình.
Tuy thất vọng nhưng anh cũng cố điền đơn cầu may và khai thật hết tất cả
mọi việc trong phần khai lý lịch….Kết quả đơn của anh đưa vào không
được chấp nhận vì thiếu giấy tờ hợp lệ: Giấy ra trại chứng minh đã ở tù
cải tạo trên 3 năm! Nhìn bạn bè và người quen lần lượt được nhận đơn và
chờ gọi tên phỏng vấn làm anh càng nôn nóng và tuyệt vọng hơn. Đây là cơ
hội cuối cùng ngoài ra không còn cơ hội nào khác có thể cứu vớt anh và
gia đình thoát ra khỏi chế độ cộng sản hiện tại cả! Anh nản chí đến độ
không còn thiết gì đến làm ăn nữa. Mọi việc nhà đều giao phó cho vợ con
lo, còn anh thì cứ đi lên Saigon nghe ngóng tin tức, hy vọng có một cách
nào khác để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Người ta bảo anh về trại cũ
xin giấy chứng nhận, nhưng đối với những người được thả về mà bị mất
giấy ra trại thì còn làm cách này được. Còn trường hợp trốn trại như anh
thì ai mà chứng nhận cho. Vả lại trở về trại cũ thì chẳng khác nào mang
thân vào miệng cọp, nguy hiểm quá…
Sau nhiều tháng đi lại, tốn kém đủ thứ mà không được gì cả. Phạm Văn
Thức buồn rầu lắm và càng đau lòng hơn khi nhìn thấy vợ con sống lam lũ ở
khu kinh tế mới. Nhận thấy mình cũng đã từng ở tù cải tạo 5 năm, chịu
biết bao nhiêu đắng cay cực khổ. Chỉ vì bất mãn chế độ đối xử hà khắc
của bọn công an trại… và vì muốn sống Tự Do nên anh mới phải trốn trại.
Để rồi hậu quả bây giờ không có gì chứng minh được là anh đã ở tù đủ
thời hạn yêu cầu để được cứu xét thì đau quá!! Không lẽ vợ con anh phải
suốt đời chịu sống lây lất ở khu kinh tế mới Cây Gáo này hoài sao? Rõ
ràng anh đã liên lụy đến gia đình, nếu không thì vợ con anh chắc cũng
được đi định cư ở Mỹ như những gia đình sĩ quan khác…Càng nghĩ Phạm Văn
Thức càng đau lòng thêm. Sau nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh
quyết định trở lại trại cũ Xuyên Mộc trình diện và xin được ở tù lại.
Hy vọng sau khi hết hạn sẽ được thả về với một giấy chứng nhận ra trại.
Vì tương lai của gia đình vợ con, vì khát vọng được sống trong một xứ Tự
Do, thoát khỏi chế độ kềm kẹp của chế độ cộng sản hiện tại… anh đành đi
nước bài liều này, chấp nhận hết mọi hậu quả. Anh biết rằng đi nộp mạng
như thế, có thể họ sẽ bắt giữ anh lại nhốt triền miên không có ngày ra,
có thể bị gông cùm đánh đập và thậm chí có thể mất cả mạng nữa cũng
không biết chừng… Tuy nhiên thà là liều như vậy còn hy vọng có được một
tương lai sáng sủa cho gia đình, còn hơn là cứ sống lây lất mãi ở khu
kinh tế mới Cây Gáo này suốt đời! Anh tự an ủi miễn còn sống thì họ nhốt
mãi cũng phải có ngày ra. Lúc đó anh sẽ hợp lệ nộp đơn xin cứu xét đi
định cư theo diện HO. Viễn ảnh của một ngày mai tươi sáng nơi xứ Tự Do
làm anh quyết tâm hơn!
Tuy đã có quyết tâm như vậy nhưng Phạm Văn Thức không dám bàn với vợ con
về ý định của mình vì sợ bị ngăn cản. Anh âm thầm tìm đến một người bạn
tù trong nhóm 520 Xuyên Mộc trước đây là anh Nguyễn Văn Vượng (Hiện
đang định cư tại California), nói ý định của mình cho Nguyễn Văn Vượng
biết và nhờ anh bạn này chở dùm anh lên trại Xuyên Mộc, sau đó trở về
báo cho gia đình vợ con anh biết sau.
Nguyễn Văn Vượng cũng kinh ngạc trước quyết định của bạn, lên tiếng
khuyên cản anh nên suy nghĩ lại vì ý định này quả thật quá nguy hiểm.
Nhưng ý Phạm Văn Thức đã cương quyết như vậy rồi nên người bạn này cũng
đành chịu. Sau khi bàn bạc cặn kẻ và chuẩn bị tinh thần cho mọi tình
huống xấu nhất có thể xảy ra, hai người bạn chở nhau trên một chiếc
Honda đi thẳng lên Xuyên Mộc. Lúc đó là năm 1991, nếu tính từ khi trốn
trại ra năm 1980 thì anh Phạm Văn Thức đã ở bên ngoài đúng 11 năm rồi.
Trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ hầu như đã thay đổi hết. Nơi đây không còn
nhốt tù cải tạo sĩ quan chế độ cũ nữa, mà chỉ còn là trại tù dành cho
tội phạm hình sự mà thôi. Kể cả ban chỉ huy trại, công an quản giáo và
các vệ binh cũ cũng không còn ở đó nữa. Mấy cán bộ công an mới không
biết gì về vấn đề tù sĩ quan cải tạo trước đây. Khi Phạm Văn Thức cho
biết mình đã trốn khỏi trại này 11 năm trước, bây giờ vào trình diện để
xin được ở tù trở lại, thì tất cả cán bộ công an trại ngẩn người ra nhìn
anh như nhìn một người điên. Họ ngạc nhiên cũng phải, vì trước đây đâu
bao giờ có trường hợp nào xảy ra như thế này? Họ hỏi anh:
Phạm Văn Thức trả lời:
– “Đời sống bên ngoài càng ngày càng khó khăn đối với một người sống
không giấy tờ như anh. Vả lại anh còn có vợ con nên càng gặp khó khăn
nhiều hơn. Cuối cùng chịu đựng hết nỗi nên anh quyết định chọn con đường
tự thú để hy vọng sau khi ở tù xong, ít nhất sẽ được trại cấp một giấy
chứng nhận và sau khi về cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, không phải trốn chui
trốn nhủi nữa…”
Họ còn hỏi anh nhiều điều nữa và bắt anh làm bản tự khai. Anh cứ một mực
khai sau khi trốn trại về sống vất vưởng ở nhiều nơi khác nhau không
giấy tờ gì cả, nên không ai chứng thật được lời khai của anh.
Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì ban chỉ huy trại Xuyên Mộc lúc bấy
giờ không quyết định được trường hợp của anh nên giữ anh ở lại đó và
điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị. Một lúc lâu sau, bọn công an trại quay
lại nói ngay với anh:
– “Anh mà có tinh thần tự giác trở lại thành thật khai báo cái gì? Nói
thật đi. Mục đích của anh đến đây chỉ vì muốn xin giấy chứng nhận để
được cứu xét đi Mỹ thôi. Có phải thế không??”
Cả bọn xúm lại hỏi anh câu này xong cứ chỉ trỏ cười hoài. Anh cũng cười
giả lả trả lời cho qua chuyện với bọn chúng. Anh đoán sau khi điện về Bộ
Nội Vụ xin chỉ thị, chắc có lẽ trên Bộ Nội Vụ có nói gì đó về chương
trình HO, nên đám công an mới biết được mục đích của anh, chứ trước đó
chúng còn ngơ ngác không biết gì cả.
Cuối cùng họ giam Phạm Văn Thức ở chung một buồng với đám tù hình sự.
Ban ngày anh không phải làm việc gì hết, ban đêm công an giao cho anh
nhiệm vụ “trưởng buồng”, điểm danh và trông chừng tù hình sự tìm cách
trốn. Anh cười thầm trong bụng:
– “Mình là thằng trốn trại ngày trước, bây giờ lại làm nhiệm vụ canh chừng tù trốn trại. Đúng là khôi hài thật!”.
Làm “trưởng buồng” được mấy hôm cứ ở mãi một chỗ tù túng quá, anh xin
được ra ngoài lao động. Họ cho anh ra trông coi mấy mẫu điều mới trồng,
hàng ngày theo dõi xem có bị hư hại gì không?? Công việc cũng không có
gì nặng nhọc và điều đáng nói là không ai cai quản anh cả. Anh muốn đi
đâu thì đi, muốn làm gì thì làm miễn ở trong phạm vi đó thôi. Trong
khoảng thời gian ở tù lần này, gia đình vợ con anh được phép lên thăm
viếng đều đặn thoải mái lắm. Nói chung họ đối với anh lần này rất dễ
dãi, ngoài sự tưởng tượng của anh. Cứ như thế Phạm Văn Thức ở gần đúng
một năm thì một hôm được gọi về buồng giam nhốt lại, không cho ra ngoài
lao động nữa.
Ở trong buồng giam khoảng 3 tuần thì anh được gọi lên thả về. Họ cấp cho
anh một giấy ra trại chứng nhận từ ngày đầu tiên anh trình diện tập
trung cải tạo 28 tháng 6 năm 1975 đến khi thả vào tháng 6 năm 1992
(không nhớ rõ ngày). Như vậy là họ đã chứng nhận anh ở tù liên tục 17
năm không gián đoạn, xem như anh chưa hề trốn trại ra ngoài bao giờ. Anh
cũng ngạc nhiên về điều này tuy nhiên cũng chẳng thắc mắc gì cả vì đã
đạt được kết quả mong muốn. Phạm Văn Thức cầm tờ giấy ra trại với tên
thật của mình trên đó mà lòng vui mừng vô hạn. Lần này thì chắc chắn anh
đủ điều kiện nộp đơn theo diện HO rồi. Tuy nhiên anh không ngờ rằng
việc chứng nhận anh đã ở tù liên tục 17 năm vô tình lại đưa anh vào một
rắc rối khác!
*****
Sau khi về nhà không bao lâu, Phạm Văn Thức xúc tiến ngay việc nộp đơn
xin đi theo chương trình HO. Lần này đơn của anh được nhận ngay. Anh vui
mừng trở về nhà yên tâm chờ đợi. Cuối năm 1994 anh nhận được giấy mời
đi phỏng vấn. Khỏi nói cũng biết là anh và gia đình vui mừng biết chừng
nào. Đúng ngày hẹn, hai vợ chồng anh lên Saigon gặp phái đoàn Mỹ. Sau
đây là tóm tắt những điểm trong buổi phỏng vấn ngắn ngủi với phái đoàn
Mỹ:
Theo đúng thủ tuc, Họ yêu cầu anh giơ tay tuyên thệ những lời khai trong
cuộc phỏng vấn là hoàn toàn sự thật. Nếu gian dối thì sẽ chịu mọi trách
nhiệm… và hồ sơ sẽ không được cứu xét nữa. Sau đó họ hỏi ngay anh:
– “Xin ông cho biết tên thật của ông là gì? Gia cảnh của ông hiện nay như thế nào?”
Anh trả lời:
– “Tôi tên Phạm Văn Thức. Tôi có vợ và 3 con.”
– “Ngoài tên này ra, ông còn sử dụng tên nào khác nữa không?”
– “Có! Sau khi trốn trại về, để tránh tai mắt địa phương và dễ dàng
trong việc đi lại, tôi có xài tên giả. Tôi đã có khai chuyện này trong
phần tờ khai lý lịch trong hồ sơ…”
– “Hiện ông có đang sống cùng với vợ con của ông không? và đang làm nghề gì?”
– “Vâng, tôi đang sống cùng với vợ và 3 con của tôi ở Cây Gáo, Trảng Bom. Chúng tôi hiện đang sống bằng nghề bán nước mắm”
– “Trước năm 1975, cấp bậc chức vụ của ông là gì? Đơn vị ở đâu?”
– “Trước 1975 cấp bậc của tôi là Thiếu úy. Chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, đơn vị ở tại tỉnh Long An”
Người Mỹ trong phái đoàn phỏng vấn nhìn vào hồ sơ của anh một lúc rồi hỏi:
– “Cấp bậc của ông là Thiếu Úy, chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, nhưng tại
sao ông đi học tập cải tạo đến 17 năm? Ngay cả cấp Tướng trước đây đi
học tập cải tạo cũng không lâu đến như vậy? Có gì đặc biệt trong việc
ông đi cải tạo trước đây không?”
– “Tôi đã trình bày rất rõ trong phần khai lý lịch là sự thật thời gian ở
tù cải tạo của tôi hai lần tổng cộng 6 năm, 3 ngày: Lần thứ nhất hơn 5
năm, sau đó tôi trốn trại ra ngoài ở hết 11 năm. Lần thứ hai họ bắt giữ
tôi lại khoảng gần đúng 1 năm ”
– “Nhưng tại sao trong giấy ra trại ghi rõ thời gian tính từ ngày ông đi
trình diện là 28 tháng 6 năm 1975 cho đến ngày ông được thả ra năm
1992. Như vậy không phải là tổng cộng thời gian đã ở trong trại là 17
năm hay sao?”
– “Mong ông phải khai rõ hơn về chuyện này vì chúng tôi nhận thấy có
điều gì đó không ổn trong tờ giấy ra trại này và lời khai của ông?? Có
phải giấy ra trại này giả không?”
Đến đây thì Phạm Văn Thức cảm thấy bất an lắm:
– “Giấy ra trại đó dĩ nhiên là thật! Tôi cũng không biết tại sao họ lại
chứng nhận trong giấy ra trại như vậy? Lời khai của tôi hoàn toàn là sự
thật. Ông có thể liên lạc kiểm chứng với họ”
Người Mỹ đen đóng tập hồ sơ của Phạm Văn Thức lại một cách lạnh lùng:
– “Thời gian trốn trại ở bên ngoài 11 năm của ông nếu là sự thật thì tại
sao họ lại không tính đến? Rất tiếc chúng tôi không có nhiệm vụ tìm
hiểu tại sao cho vấn đề mâu thuẩn này của ông?”
Rồi không đợi Phạm Văn Thức có dịp trình bày thêm, người Mỹ này tiếp luôn:
– “Rất tiếc chúng tôi từ chối cứu xét hồ sơ này của ông vì những lời
khai và giấy tờ của ông đã không chứng minh được rõ ràng và ăn khớp với
nhau. Bây giờ xin mời ông bà về và chúc may mắn.”
Bước ra khỏi phòng phỏng vấn, phải nói là tinh thần Phạm Văn Thức xuống
thê thảm. Mọi hy vọng tan biến hết! Rốt cuộc sau bao nhiêu cố gắng, chịu
đựng, liều lĩnh đi trình diện xin ở tù lại lần thứ hai với hy vọng có
được giấy ra trại để được phái đoàn Mỹ nhận đơn cứu xét… để rồi kết quả
cũng chính tờ giấy ra trại này hại anh… Càng suy nghĩ Phạm Văn Thức càng
thấy chán nãn! Đám đông đang đứng tụ tập ở phía trước cửa chờ đến phiên
mình được gọi vào phỏng vấn, thấy vợ chồng Pham Văn Thức buồn rầu đi ra
thì xúm lại hỏi thăm. Sau khi biết chuyện hồ sơ của anh bị phái đoàn Mỹ
từ chối vì không chứng minh được rõ ràng thời gian trốn trại và thời
gian anh đã ở tù trước đây…., một người trong đám đông góp ý khuyên anh
nên tìm lại những bạn tù biết về chuyện trốn trại của anh và nhờ họ làm
đơn xác nhận dùm rồi gởi qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok xin tái cứu xét
lại hồ sơ… chuyện này cũng chỉ là hy vọng thôi, tuy nhiên còn nước thì
còn tát…
Phạm Văn Thức cũng muốn nghe theo lời khuyên đó lắm, nhưng bây giờ biết
đi đâu mà tìm gặp bạn tù cũ nhờ giúp xác nhận dùm việc anh đã trốn
trại…? Thời điểm lúc đó là cuối năm 1994 các bạn tù của anh đã đi định
cư theo những diện HO trước đó hết rồi!! Số của anh đúng là xui tận
mạng! Chẳng lẽ Thượng Đế cố tình thử thách sự chịu đựng của gia đình anh
hay sao? Bao nhiêu sức lực ý chí của anh gần như kiệt quệ hết. Vợ chồng
anh chỉ còn biết đêm ngày cầu nguyện xin Thượng Đế, Ơn Trên ban phép
màu ra tay cứu giúp mà thôi!!
Có lẽ lời cầu nguyện đầy thành tâm của vợ chồng Phạm Văn Thức cuối cùng
đã thấu đến tai Thượng Đế và khiến Ngài cảm động nên đã lóe lên cho anh
một tia hy vọng mới: Trong khi dò tìm cầu may tin tức những người bạn tù
cũ, thì anh nghe nói có một người tên là Đào Văn Long, trước đây cũng
là là tù cải tạo ở trại Xuyên Mộc, lẽ ra đã đi định cư theo diện HO lâu
rồi, nhưng vì anh này bị bệnh phổi nên phải ở lại uống thuốc chữa trị
khi nào hết mới được đi. Tuy thế không ai biết rõ anh Đào Văn Long hiện
nay đang ở đâu?
Nhận được tin này Phạm Văn Thức mừng quá. Tưởng ai chứ Đào Văn Long thì
anh rất thân, từ lúc hai người còn ở trại Suối Máu. Anh còn nhớ lúc
chuyển từ trại Suối Máu về Xuyên Mộc, anh và Đào Văn Long ngồi kế bên
nhau trên cùng một chiếc xe. Khi đi ngang qua Bà Rịa Vũng Tàu, anh nhớ
Đào Văn Long có kể cho anh nghe rằng nhà ba anh ta ở Bà Rịa, Vũng Tàu từ
nhiều đời trước. Gần như những ai ở lâu vùng này đều biết đến ba anh
Đào Văn Long cả. Cứ đến đó hỏi tên ông Ba Quạ là sẽ có người chỉ đến
ngay. Lúc bấy giờ ngồi trên xe, Đào Văn Long kể cho anh nghe chuyện này
cũng chỉ là vô tình khi xe đi ngang qua vùng này vậy thôi chứ không có ý
gì khác. Tuy nhìên vì tên thường gọi của ba anh Đào Văn Long là “Ba
Quạ” khá đặc biệt nên khiến Phạm Văn Thức còn nhớ tới bây giờ.
Thế là Phạm Văn Thức lên đường đi Bà Rịa, Vũng Tàu hỏi thăm nhà ông Ba
Quạ ngay, hy vọng từ đó sẽ biết được tin tức người bạn Đào Văn Long. Sau
khi đến nơi hỏi thăm nhiều người, cuối cùng anh được một anh lái xe
Honda ôm cho biết ông Ba Quạ đã chết lâu rồi. Nghe tin này Phạm Văn Thức
chới với, tuy nhiên anh cũng cố hỏi tiếp:
– “Thế anh có biết con cái của ông Ba Quạ còn những ai và ở đâu không?”
Anh tài xế xe ôm trả lời:
– “Ông ta có người con gái đang mở quán bán hủ tiếu gần đây thôi.”
Mừng quá, thế là sẵn xe Honda ôm, Phạm Văn Thức nhảy lên nhờ chở ngay
tới chỗ cô con gái ông Ba Quạ. Té ra đây chính là cô em của Đào Văn
Long, người bạn tù mà anh muốn tìm. Nhờ cô này chỉ dẫn, sau đó anh đã
tìm gặp Đào Văn Long. Cũng may là anh này vẫn còn đang uống thuốc điều
trị bệnh phổi nên Phạm Văn Thức mới có cơ hội gặp được, nếu không thì
chắc anh ta cũng đã đi Mỹ lâu rồi. Sau khi biết rõ câu chuyện, Đào Văn
Long đưa cho Phạm Văn Thức địa chỉ của một người bạn tù khác cũng rất
thân với cả hai người từ lúc còn ở trại Suối Máu. Đó là anh Nguyễn Đức
Dũng, biệt danh Dũng “Sún”, đã đi định cư diện HO và hiện đang sống ở
Washington DC. Đào Văn Long khuyên anh nên gởi thơ liên lạc và nói rõ ý
định của mình cho Dũng “Sún” biết. Chắc chắc Dũng “Sún” sẽ liên lạc thêm
được nhiều anh em khác làm đơn xác nhận cho anh để bổ túc hồ sơ.
Lập tức Phạm Văn Thức gởi ngay một lá thơ qua Mỹ cho Nguyễn Đức Dũng kể
rõ mọi chuyện và nhờ anh này giúp đở. Đến đây thì hình như những đại
nạn, rủi ro của gia đình anh đã thực sự chấm dứt. Mọi chuyện sau đó xảy
ra thật nhịp nhàng, ăn khớp với nhau một cách tuyệt diệu. Sau khi nhận
được thơ của bạn, Nguyễn Đức Dũng đã liên lạc được 8 bạn tù cải tạo khác
cũng ở cùng trại Xuyên Mộc với nhau trước đây, cùng làm ngay một tờ đơn
xác nhận rằng có quen biết với Phạm Văn Thức từ lúc còn ở trại cũ Suối
Máu và cùng chuyển sang trại Xuyên Mộc vào năm 1979… tất cả khai biết rõ
chuyện trốn trại năm 1980 của anh như thế nào… sau đó mang đi thị thực
chữ ký và gởi bản chính qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok, Thailand và một
bản sao về cho anh. Năm 1997, phái đoàn Mỹ mở lại hồ sơ Pham Văn Thức,
gởi giấy mời vợ chồng anh trở lại tái phỏng vấn và tuyên bố chấp nhận
gia đình anh được định cư ở Mỹ theo diện nhận đạo HO 40. Gia đình anh
lên đường đi định cư không bao lâu sau đó, chấm dứt một quảng đời dài
lận đận tưởng như không bao giờ thoát ra được. Hiện anh Phạm Văn Thức
đang sống an lành cùng gia đình tại thành phố Philadelphia, tiểu bang
Pennsylvania, Hoa kỳ.
Câu chuyện của anh Phạm Văn Thức, một người tù cải tạo trong nhóm 520
Xuyên Mộc kể trên, là một điển hình đáng cho chúng ta suy gẩm về ý chí
kiên cường, quyết không chấp nhận sống dưới sự kềm kẹp của chế độ cộng
sản… cũng như tinh thần nhẫn nại, sự chịu đựng bền bỉ, sẵn sàng hy sinh
và bất chấp mọi hậu quả của anh để đánh đổi lấy cuộc sống TỰ DO mà anh
hằng khao khát.
Vĩnh Khanh
Phố Đá Tròn, những ngày cuối năm 2007
http://www.vietnhim.com/dongnhim/showthread.php?t=21381Wednesday, August 14, 2013
KIM OANH * VƯỢT BIỂN ĐÔNG
Tôi cố vùng dậy thì thoáng nghe tiếng nói: "Tên tôi là.....( xin cho tôi được giấu tên) tôi chết vì tội vượt biên ở Kiên Lương, Rạch Giá, tôi sẽ phù hộ cô suốt cuộc đời " và bóng hình ấy biến mất. Khi choàng tỉnh, tôi rất lo âu, sợ sệt. Nơi đây tôi quen chị Ánh, Chị rất thương tôi vì chị thấy tôi thường hay khóc một mình. Tôi đem giấc mơ kể chị nghe, chị cho biết, cách nay vài tháng có một chuyến tàu của sinh viên, giả dạng là một đoàn văn công đi trình diển văn nghệ, bị bại lộ. Cả đoàn cùng nhau đốt tàu và tự thiêu ngoài khơi, chị ức đoán cách ăn mặc của người trong giấc mơ là người trong chuyến hải hành này. Chị khuyên tôi, đừng lo sợ, mỗi khi ăn cơm hãy gọi tên người ấy và lập lại lời người nói, mời người về dùng cơm và cầu nguyện những gì tôi ước muốn.
Thế là từ đó tôi luôn cầu, khấn nguyện cho anh em tôi được ra khỏi phòng tối. Một tuần lễ sau anh
và em tôi được ra ở hội trường.Tôi vô cùng mừng rỡ. Lại tiếp tục khấn cầu.Tuy là hy vọng rất mong manh nhưng tôi vẫn khấn nguyện cho chúng tôi được sớm thả ra. Ồ điều ấy khó lắm! Vì chúng tôi đang trong lứa tuổi lao động nên trước khi được tha, bắt buộc phải đi lao động ở U Minh ít nhất một năm. Sau 2 tháng 10 ngày bị giam, nhóm tôi được gọi tên tập họp. Lòng nghĩ thầm đi U Minh thôi!. Nhưng một phép nhiệm mầu, mười bảy người trong nhóm được "khoan hồng". Thật tôi không ngờ là điều này có thể xãy ra .
Nghe audio trọn bài văn qua giọng đọc của Hồng Ánh & Hoàng Phố
(Xướng ngôn viên đài Phát Thanh Radio "Tiếng Nước Tôi" , San Jose, California)
Sau đó, gia đình tôi vẫn lần lượt ra đi. Tôi lại tiếp tục cầu nguyện cho anh chi em tôi ra đi thành công tôi sẽ ở lại với Ba Má, được thế tôi mãn nguyện lắm rồi. Thế là mỗi chuyến anh, chị, em của tôi đều đến nơi bình an. Duy chỉ có tôi thất bại, lầm lũi trở về. Rồi chờ đêm thật khuya mới dám vào nhà. Má tôi bảo: mỗi lần nghe tiếng gỏ cửa trong đêm, lòng Má đau như cắt vì biết rằng con đi không thành. Ba Má đã đổ không biết bao công lao, khó nhọc, vơ vét những gì có thể bán đổi lấy vàng để lo cho tôi, thất bại là mất tiền. Với năm lần thất bại. Ba Má phải vay mượn, nhất quyết cho tôi ra đi.
Một hôm Má tôi hỏi:
- Con đã cầu nguyện như thế nào? nói cho Má nghe?
- Con cầu cho tất cả anh chị em ra đi được bình an con ở lại với Ba Má.
Má tôi không nói lời nào, Má nấu một mâm cơm chay và khấn Người đã phù hộ cho tôi xin lỗi người khuất mặt mà tôi đã gặp trong giấc mơ. Má xin được lấy lại lời tôi khấn. Mong Người giúp tôi ra đi được bình an, nếu có thương tôi người hãy giúp cho con tôi được hạnh phúc về sau. Và Má tôi bảo :
- Từ nay con đừng cầu xin người ấy nữa, hãy để cho Người ra đi thanh thản.
Vào một mùa thu 1979, trời chưa kịp sáng tôi một lần nữa rời gia đình. Có người hướng dẫn tôi đến bến đò Rạch Sỏi. Một chiếc đò nhỏ, tất cả mười ba người.Tôi cảm thấy lo với con số 13.Thật vậy, đò vừa ra khỏi vùng khám xét, bỗng nhiên tắt máy và trôi theo con nước, tất cả lo âu, hồi hộp. Chúng tôi bắt buộc phải nằm dài xuống lòng đò, một tấm bạt được phủ lên che kín. Hai người trong nhóm thay phiên nhau sửa máy. Tôi cầu nguyện Trời Phật Ông Bà che chở cho chúng tôi.
Tiếng máy nổ, có lẽ không lớn bằng mười ba tiếng thở phào nhẹ nhỏm. Đò tiếp tục chạy, từ từ thấy biển khơi. Một chiếc tàu thật dài khoảng mười mét hiện ra trước mắt. Chúng tôi lên tàu cả gia đình chủ tàu, tài công đều là anh em ruột. Trong nhóm người đi đa số là họ hàng gần trừ ra hai gia đình còn lại, và tôi không có họ hàng với chủ ghe. Như vậy trong tàu này tôi là người đơn độc. Hoà, cậu thanh niên đưa chúng tôi đến ghe lớn, vội vàng bỏ chiếc đò nhỏ xin chủ ghe đi theo.Tổng cộng bốn mươi hai người.
Vừa vui lại vừa khóc! Lần này là vĩnh viễn xa… xa tất cả những người thương, xa quê hương và biết đến bao giờ mới có ngày trở lại? Sau đó nỗi lo ngại lại xâm chiếm lòng. Rồi đây chúng tôi sẽ đi đâu và về đâu?
Nhưng tôi đã từng suy nghĩ ra đi là tìm cái sống trong cái chết, vì vậy sẵn sàng chấp nhận một bị bắt hoặc tệ hại hơn là bỏ mình ngoài biển khơi. Nghĩ như thế mới mong có đủ can đảm và cương quyết ra đi.
Chiếc tàu tôi vừa lên, đã đi đánh cá lâu ngày trên biển nên trên tàu có sẵn rất nhiều thực phẩm. Mấy hầm tôm, cá, mực tươi. Mực khô, tép khô, gạo nước đều đầy ấp. Chủ tàu họ lo cơm nước rất chu đáo cho những người trong chuyến đi này. Riêng tôi không ăn được vì bị say sóng.
Ngày đầu ra khơi, lo lắng, bồn chồn lẫn háo hức, không ai ngủ được, khi đêm đến tất cả lên boong tàu trò chuyện và tôi được dịp làm quen những người đồng hành. Gia đình anh Hai, anh Ba, gia đình anh Tư, anh Năm, vợ chồng anh tài công (anh Mài và chị Ánh), gia đình chú Tuấn, vợ chồng anh Phỡ, vợ chồng Dũng Thắm, còn lại tất cả còn độc thân là chú Tuấn, Anh Cường, Thường, Diếng, Giỏi, Hòa, Hùng, Liêm, bốn đứa con gái ,Hà , Nguyên, Hồng và tôi.
Lúc biển yên gió lặng, cùng nhau phân công, ai bíết nói tiếng Anh để có thể giúp mọi người khi đến nơi. Trong nhóm có anh Dũng nhận trách nhiệm này, anh Ba ,anh Cường là người Hoa có thể nói tiếng Quang Thoại, tiếng Quảng Đông. Anh Ba rất vui tính, anh trò chuyện để trấn an mọi người, anh kể sự tích chiếc tàu, rất linh thiêng, con gái của bà chủ tàu trước đó đã chết ngay cột tàu. Khi gia đình anh mua về họ luôn luôn khấn cô gái ấy.Trên tàu có một tượng Phật Bà thật cao, được thờ trước đầu tàu để độ hộ cho gia đình anh mỗi chuyến ra khơi. Ngoài ra anh con một lọ nước làm phép. Anh bảo khi gặp nguy cơ chỉ cần thoa lên tóc thì nói đối phương sẽ nghe. Cho nên anh rất có niềm tin. Đêm đó nhìn dáng của mọi người cùng hướng mắt ra vùng biển bao la, lòng tôi như chỉ rối, lắc đầu xua đi khối nặng đang đè trong não tôi cố gắng dỗ giấc ngủ, ngủ bình yên sau một ngày hoang mang sợ hãi.
Ngày sau, tàu vẫn êm đềm lướt sóng, hai bên hong tàu có hai đàn cá đi theo…xa khơi bắt đầu thấy những mảnh ván đồ đạc nổi trôi. Một nỗi lo sợ bao trùm. Có lẽ một chiếc tàu nào đã đắm gần đây. Khoảng xế chiều, tàu đi cũng khá xa hướng về Malaysia. Thình lình anh tài công bỏ ống nhìn , thông báo có hai chiếc tàu thật lớn từ xa tiến đến vơí tốc độ rất nhanh, anh sợ với tốc độ này đụng phải, tàu sẽ bị vỡ tan.
Tất cả anh em chủ tàu chuẩn bị chống trả vì họ có mang theo rất nhiều súng đạn.Theo kinh nghiệm đi biển họ biết đó là hải tặc. Nhưng các bà vợ của họ khóc xin năn nỉ chồng đừng chống trả . E rằng hải tặc có súng lớn hơn bắn lại, sẽ chết hết. Các bà khóc quá nên các ông buông tay.
Tôi thật nhanh, nhảy vội xuống hầm tàu lấy dầu nhớt bôi vào mặt mình cho xấu xí đi vì hai chị tôi đi trước viết thư về căn dặn khi gặp hải tặc một là làm đàn bà có con nhỏ, hai là làm một đứa con nít, thấy ai có con thì bế đại như thế mới mong thoát thân.
Trời ơi! Khi hai chiếc tàu cập vào chúng tôi như người đã chết rồi. Tất cả đứng im như pho tượng. Bọn chúng chỉ có cái khố che thân, mặt mày dữ dằn, tay cấm búa, dao, mã tấu, thật kinh khiếp vô cùng.Tôi thấy chị Tư có hai đứa con nhỏ, tôi vội vàng bế đứa nhỏ nhất của chị, vừa lúc ấy chúng đã tràn ngập lên tàu. Chúng chia chúng tôi ra làm ba nhóm: đàn bà con nít, đàn ông con trai và con gái.
Tôi bế đứa nhỏ, nên chúng đẩy tôi vào nhóm đàn bà. Chúng thay nhau lục soát khắp tàu, khắp nơi trên cơ thể của từng người, chúng vơ vét vàng bạc, nhưng có lẽ điều chúng mừng nhất là những khẩu súng đạn và thực phẩm tươi dưới hầm. Bọn họ quên chúng tôi trong giây phút, chỉ lo vơ vét hết thực phẩm tươi về tàu . Thời gian sợ hải và kinh hoàng kéo dài rất lâu.
Bỗng nhiên chúng ra dấu mang nhóm con gái sang tàu chúng. Khiếp đảm và vô cùng tuyệt vọng! …Lúc này tôi chỉ biết cầu nguyện mà thôi và tôi quên đi những gì Má tôi dặn dò, tôi cầu xin linh hồn Người đã phù hộ cho tôi dạo trước. Xin người thứ lỗi cho tôi, ra đi mà không dám nói, giờ nếu thương tôi xin giúp tất cả mọi người thoát nạn và những người con gái kia không bị làm ô nhục, tôi rất cám ơn. Và từ xa xuất hiện thêm chiếc tàu thứ ba, đang tiến dần đến.Tôi biết là khó sống hôm nay. Tôi khấn nguyện xin Đức Mẹ, Ông Bà, Người phù hộ, nếu chết thì cho tôi được chết trên bờ, để Ba Má tôi còn biết con mình bỏ xác nơi đâu, cầu cho những người con gái kia được thả về tàu của mình, đừng bắt họ đi và được bình an. Tôi nguyện thề sau này tôi sẽ vào đạo.Thế rồi tôi ngất đi không còn biết gì nữa.
Khi tỉnh lại, tôi cảm nhận có mùi dầu Nhị Thiên Đường ở mũi. Cạnh tôi là một người đàn ông trung niên ăn mặc bình thường. Ông nhanh tay vúi vào tay tôi một cuộn giấy tròn nhỏ, linh cảm đây là người tốt, tôi vội giấu vào trong búi tóc tôi. Ông ta hỏi tôi có biết tiếng Anh không, tôi gật đầu, ông ta vội nói: "Tôi là môt thương buôn ở Singapore có hai con. Sau này cần gì tôi giúp."
Người thương buôn đưa cho tôi một thau cháo, tôi không dám ăn, tôi sợ có thuốc mê, không còn nói được chỉ biết lắc đầu kinh hãi. Nhìn chung quanh các bạn gái đã về lại tàu, Tất cả đều bình an. Bọn hải tặc chỉ còn lãng vãng vài tên, lo vơ vét đồ đạt còn sót.
Ông cho người đem sửa đặc, dầu Nhị Thiên Đường, cá mòi hộp cho chúng tôi. Nói bằng tiếng Quảng Đông, chỉ đường đi đến Kuala Lumpur.
Sau khi hai chiếc tàu hải tặc đi xa rồi, tàu ông mới rời chúng tôi. Ông chỉ xin tượng hình Phật Bà nơi đầu tàu. Chúng tôi cùng ôm nhau khóc vì nỗi kinh hoàng đã qua đi. Kể từ giây phút đó tất cả đã thành một đại gia đình, đùm bọc chở che cho nhau.
Định thần lại, tôi xem cuộn giấy nhỏ của người thương buôn đưa, chính là địa chỉ của ông ở Singapore. Chiếc tàu thứ ba chính là chiếc tàu ân nhân của chúng tôi. Xin cám ơn một tấm lòng nhân đạo, xin ơn trên che chở cho gia đình người ân nhân này luôn an lành, hạnh phúc..Đúng là một phép nhiệm mầu mà ơn trên đã ban cho chúng tôi thoát nạn hôm nay.
Đêm thứ nhì, để tránh gặp nguy một lần nữa, đèn tàu tắt hết đêm nay không một ai dám ngủ mặc dù đã mệt lã người.Thình lình một tia sáng loé lên từ xa, tàu hướng theo tia sáng ấy mà chạy. Chúng tôi reo mừng, một dãy nhà đèn sáng choang, và môt bến cảng trãi dài.Tàu cập vào cảng Hải Quân ở Trenganu. Hôm nay là ngày 12- 5- 1979.
Nhưng chưa kịp vui, một người lính Hải Quân nhảy thẳng xuống boong tàu, bắn một phát súng chỉ thiên. Than ơi! Đại họa đã giáng lần thứ hai sao? Chúng tôi khiếp cả hồn vía, con nít khóc vang, tất cả dồn vào góc tàu, nép sát bên nhau run rẩy, người lính kia thì quát tháo om sòm. Tôi chợt nghe loáng thoáng tiếng Anh thì phải ? Tôi vội trấn tỉnh để lắng nghe.
Thôi đúng rồi! Tôi nhìn anh Dũng, anh ngồi bất động và đang cố gắng che chở cho Thắm vợ anh.
- Ai có thể nói được tiếng Anh?
Hắn lập đi lập lại nhiều lần. Hồn viá đâu trả lời. Một nỗi kinh hoàng trước họng súng hướng về chúng tôi.
- Không ai trả lời tôi sẽ bắn.
Tôi chỉ nghe có thế chân tay rời rã. Nhưng nghĩ đến "chết" làm tôi nhớ Má tôi, bà thường đem chuyện đời xưa kể cho con cháu nghe về kinh nghiệm sống trong chiến tranh .Thời chạy loạn giặc Tây, Má tôi nhờ có chút vốn liếng tiếng Pháp, Má cũng từng giúp được cho bản thân mình và những người phụ nữ cùng làng thóat cảnh bị Tây hảm hiếp.Tôi như cái lò xo bật dậy, với vốn liếng Anh ngữ ít ỏi, tôi trả lời:
- Tôi biết nói tiếng Anh chút ít.
Và lạ thay người lính đó nhỏ giọng xuống, tôi cảm thấy tinh thần mình bớt căng thẳng, tôi cố gắng tập trung nhiều hơn.
- Có bao nhiêu người trên tàu? Hắn hỏi
- Có bốn mươi hai người trên tàu.Tôi trả lời
- Tôi đếm không đúng bốn mươi hai người thì tôi bắn. Hắn chỉa súng vào ngay tôi.
Tôi không còn tinh thần nữa, tôi khóc và quỳ xuống van lạy.Cả tàu thấy tôi quỳ lạy tất cả đều làm theo. Ngay khi ấy hơn chục người lính khác kéo đến. Họ mặc đồng phục Hải Quân.Họ ra lệnh tôi là người rời tàu trước tiên, đứng sang một bên, không bị khám xét và tất cả lần lượt rời tàu, những người còn lại bị khám xét toàn thân nhưng không sàm sở như bọn hải tặc dã man. Cũng nhờ tôi không bị xét nên lúc đi ngang tôi, Nguyên vội nhét vào tay tôi một sợi dây chuyền, tôi vội giấu vào trong búi tóc.
Màn đêm buông xuống rất nhanh tôi đoán gần 12giờ đêm. Những người lính Hải Quân cho chúng tôi ăn tạm bánh mì ngọt vài trái bôm. Chúng tôi đã từ từ bình tỉnh lại.
Họ hỏi chúng tôi từ đâu tới, đi có bị hải tặc không? Họ cho biết chúng tôi sẽ phải rời nơi này trong vài hôm. Họ sẽ cấp xăng, thực phẩm và tiếp tục ra đi. Những ngày lế tiếp anh Ba anh Cường có thể nói tiếng Quảng với họ, anh Dũng và tôi cùng họp tác trả lời bằng tiếng Anh. Ba đêm liền chúng tôi ngủ ngoài trời trên nền xi măng cảng nóng bức. Mỗi đêm thao thức vì có những người muốn giở trò tồi bại với con gái, các anh họ của Nguyên, Hồng luôn nằm cạnh hai cô che chở còn tôi không có người thân nên được nằm giữa Nguyên và Hồng. Rất cảm ơn hai cô bạn đã cho tôi môt nơi nương tựa, một tình tương thân tương ái.
Đêm thứ tư chúng tôi được vào môt căn nhà bằng gỗ hai tầng ở tạm. Khi vào nơi ấy chúng tôi nhận được những dòng chữ để lại từ những người đến trước, trên tảng đá để làm bếp nấu nướng và vết tích để lại là những nhúm tro tàn. " Nơi đây không an toàn có thể bị kéo ra khơi. " Dòng nhắn tin này làm chúng tôi rất lo sợ, thì ra tai họa vẫn luôn chực chờ bất cứ lúc nào, nhưng lời nhắn đó là những chân tình quý báu đối với chúng tôi.
Lo lắng chưa biết phải đối phó như thế nào thì một đêm có chiếc tàu cập vào cảng để lấy nước và xăng dầu. Một người đàn ông bảo rằng tàu còn tốt sẽ bị ra khơi trở lại. Đến nửa khuya ông khách lạ trở lại cùng các anh trong tàu đục thủng cho tàu chìm. Người ân nhân đó một lần nữa đã đến với chúng tôi trong việc làm vô cùng thánh thiện, người ấy không ai khác hơn chính là người Singapore đã giúp chúng tôi khi hải tặc cướp tàu. Xin muôn vạn lời cám ơn, tấm lòng nhân hậu, một lần nữa xin gửi đến ân lòng biết ơn và lời nguyện cầu mọi điều may lành đến với ông và gia đình .
Thế là thoát nạn! Sáng hôm sau tàu chìm, bắt đầu có cảnh sát đến canh giữ chúng tôi. Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ họ thay ca trực, mỗi ca là hai người cảnh sát, nhờ có canh gác và có nhiều phòng, từng gia đình ngủ riêng, tôi cùng ba chị em của Nguyên chung phòng, con trai ngủ dọc theo hành lang để bảo vệ cho con gái.
Chiều đến, có tàu của lính commando cặp vào cảng lấy nhiên liệu. Họ vào trò chuyện với anh Ba và anh Cường. Nhưng đêm đến đang yên giấc, vài lính commando thực hiện những hành động xấu xa. Trãi qua bao lo âu mệt mỏi, mấy anh ngủ say không hay lính đã vào phòng chúng tôi. Hốt hoảng vì họ pha đèn vào mặt , tôi bật ngồi dậy và la to: "Chú Tuấn ơi cứu tụi con."
Tất cả con trai chạy sang. Chú Tuấn đã bị họ đánh báng súng vào đầu. Chúng chưa kịp giở trò, thì vội chạy nhanh vì một chiếc xe cảnh sát khác đến thay ca trực. Thì ra hai người cảnh sát trước đã toa rập với họ thực hiện điều xấu xa. Cám ơn Phật Trời đã che chở những đứa con gái này thoát nạn đêm nay. Anh Dũng đã thuật lại cho hai người cảnh sát vừa đến thay ca trực, họ lập biên bản và kể từ sau hôm ấy chúng tôi mới được yên thân. Từ đó, đêm đến các anh trong tàu đem chúng tôi giấu dưới lường môt chiếc xe hư lánh nạn.
Hai tuần lễ trôi qua, họ đưa chúng tôi rời Cảng bằng xe cam nhông nhưng không biết đi đâu và đến nơi nào. Xe được che kín mít, cố vén tấm bạt xem. Ôi! Toàn là rừng rậm lại một phen lo âu hoảng hốt. Sau một đoạn đường dài ngoằn ngoèo và nhấp nhô, bất chợt xe dừng lại. Xuống xe, nhìn thấy phiá bên trong hàng rào dây kẻm gai toàn là người.
Mừng quá! Mừng quá người Việt Nam. Những người đồng hương chào hỏi, tiếp đón ân cần, được đưa vào trại tỵ nạn.Chúng tôi, người về từ cõi chết!
Sau khi tạm ổn định, mới vỡ lẽ đây là môt trại tập trung tổng cộng hơn ba ngàn người Việt tỵ nạn. Người ta gọi nơi đây là Rừng Dương vì chung quanh toàn là cây Dương. Không có Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cũng không có Hồng Thập Tự đến, hầu như phải tự túc. Không biết bao giờ được vào trại chính thức. Gần hơn năm nay chưa ai được ra khỏi nơi này. chỉ biết đợi chờ.... những gia đình ở khá lâu họ trồng trọt, những vườn rau xanh biếc, chăn nuôi gà để sinh sống. Họ cho biết trước đó nhiều tàu được gọi ra đi nhưng không rõ được vào trại hay đã bị đưa ra khơi, hoàn toàn bặt tin.
Nơi Rừng Dương, ai có tiền muốn gì cũng có, người bản xứ họ mang lương thực nước uống bán lấy vàng hay tiền đô Mỹ, chúng tôi nhờ vào gạo, cá khô còn sót lại, cùng chia nhau ăn. Gạo đã vơi đi dần, chúng tôi phải nấu cháo. Khi hết hẳn lương thực, mạnh ai nấy lo thân. Tôi đã cùng ba chị em Nguyên thành một gia đình, các anh cùng tàu trốn trại vào rừng đốn lá và lợp cho một mái nhà để trú mưa. Thức ăn dần dần hết, người ta lẻn vào rừng tìm rau cỏ ăn, tôi là thân con gái không dám đi, lính Mã Lai bắt được trốn trại họ đánh nhừ tử. Tôi chờ cho mọi người ăn hết đọt rau cỏ non, bỏ phần già, tôi nhặt lại ăn cho qua ngày. Một hôm giặt đồ tôi phát giác ra một sơị dây chuyền còn sót lại, Má tôi đã cẩn thận may vào cạp quần, mừng quá ,nhờ người đổi ra tiền Mã.
Sau khi có tiền việc đầu tiên tôi nhờ mấy người trốn trại mua dùm vật dụng cần thiết nhất, thế là đã mất đi hơn hai phần ba số tiền. Phần còn lại tôi mua đường để đủ sức chịu đựng khi đói, mì gói bốn đứa chia nhau làm canh ăn đở dạ. Sợi dây chuyền tôi giấu được cho Nguyên cũng dành để chi vào những nhu yếu phẩm cần thiết nhất cho ba chi em cô. Rất vất vã và thiếu thốn mọi phương tiện, chúng tôi cũng gặp những người muốn giúp đở, che chở. Nhưng ở đời có ai học được chữ ngờ. Nghĩ vậy nên ba đứa con gái chúng tôi không dám nhận. Tôi luôn tự nhủ lòng "Trời sanh voi sanh cỏ".Thôi thì "Hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai". Ráng cố gắng chiụ đựng một thời gian xem sao!
Sinh hoạt ở đây, chiều khoảng 3 giờ đến 8 giờ tối, những người kiểm soát trại, mở hàng rào kẻm gai, gọi số tàu xuống biển tắm theo nhóm.Thời gian trôi qua cũng được hơn hai tháng. Một chiều xuống biển tắm, loa phóng thanh gọi số tàu tập họp. Trong đó có tàu của chúng tôi " VNKG 0249”.Vội vã chạy về lều, được biết hôm nay có tất cả bốn chiếc tàu được ra khỏi trại Rừng Dương. Đây là diểm phúc hay điều bất hạnh?
Tất cả mọi người đều hoang mang không hiểu tai sao chúng tôi đến sau lại được đi trước? Khi chiếc xe cam nhông đến, người lớn tuổi bàn với nhau, chuyến xe đầu nếu đến được trại chính thức thì đánh lên thành xe dấu thập, còn nếu bị ra khơi thì đánh dấu trừ, để cho những người sau biết đường mà lo liệu. Nhóm chúng tôi đi sau cùng. Khi xe đầu trở về đón tiếp, tất cả hò reo mừng rỡ, vì chữ thập đã được ghi lại thành xe. Bắt tay từ giã những người bạn thân quen, tuy ở ngắn ngũi nhưng chúng tôi rất bùi ngùi xúc động vì cùng chung cảnh ngộ. Hy vọng một ngày gần tất cả sẽ được thoát khỏi nơi này. Các chú bác còn ở lại căn dặn khi gặp Cao Ủy Tỵ Nạn nhớ cho họ biết, còn rất nhiều người tỵ nạn bị lãng quên nơi Rừng Dương.
Đến trại vào buổi chiều. Nơi đây có phái đòan Mã Lai, trưởng trại, thông dịch viên tiếp đón, được biết đây là Trại Tỵ Nạn Cherating. Tất cả sẽ được cấp lều cho tạm trú, thực phẩm khô do Hội Hồng Thập Tự tiếp tế, mỗi tháng được thêm một phần thịt, rau tươi. Sẽ có các Phái đoàn từ các quốc gia trên thế giới đến mở hồ sơ, phỏng vấn và cho định cư ở nước thứ ba. Tôi như người đi trên mây, chỉ biết khóc… khóc vì sung sướng, khóc vì biết mình đã được TỰ DO.
Trại Cherating là một xã hội mới. Một xã hội thu nhỏ trong cộng đồng người Việt ly hương. Cũng bon chen cũng cạm bẫy, cám dỗ. Tuy nhiên bên cạnh những người xấu, cũng có những người với tấm lòng nhân hậu vị tha. Chợ nhóm buổi sáng, ban đêm có quán café ca nhạc, có trường học dạy sinh ngữ.
Trường học được lập ra cho mọi người. Ai muốn có chút vốn liếng ngoại ngữ để định cư ở nước thứ ba. Học cũng để quên đi thời gian, quên đi nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương.
Công lao này do các anh sinh viên học sinh xuất thân từ trường Pétrusky,Taberd, Phú Thọ. Họ xin Cao Ủy Tỵ Nạn các dụng cụ học đường như sách, tập viết, phấn và bảng đen.Các anh dựng lớp, đóng bàn học và thay phiên nhau dạy các lớp buổi sáng, các lớp buổi tối, miễn phí. Việc làm thiện nguyện của các anh thật cao quý.
Lều chúng tôi được dựng trên môt nơi trước kia là bãi rác, nằm cạnh bìa rừng, chung quanh trại rào dây kẻm gai. Có những đêm đang ngủ, tiếng la thất thanh “Có rắn!” bọn tôi nằm bất động, rắn bò ngang mình từng đứa, toát mồ hôi hột, thế là thức trắng đêm vì sợ. Có lần bị rết kẹp nhức nhối, may có các cụ người Hoa tốt bụng dùng tỏi vắt đắp cho tôi qua cơn đau. Đêm nào mưa thì như đêm âý ngủ ngồi, nước ngập từ bãi rác xông lên nồng nặc mùi hôi thối. Dần dần có thêm điều kiện các anh trong tàu đóng sạp cao để tránh rắn rết.
Trãi qua những ngày dài buồn khổ vì nhớ nhà, nhớ cha mẹ còn kẹt lại ỏ Việt Nam. Không sao nhắn được tin tức cho gia đình là tôi đã bình yên. Khi có người ra đi định cư nước thứ ba, tôi cũng như bao người vội vã viết vài lời nhắn gữi cho thân nhân. Nhưng rồi cũng vô vọng. Nguyên, Hồng, Liêm ba chị em được phái đoàn Canada nhanh chóng chấp nhận, vì Ba Nguyên làm hảng viết chì Pacific ở Biên Hòa. Ba chi em từ giã tôi đi Canada rất nhanh. Còn lại một mình tôi đã cố gắng sống, sống trong buồn bã đơn độc. Cuộc sống khó khăn, sống thật bơ vơ, tôi phải chống chỏi với đời bằng đôi tay nhỏ bé và yếu đuối của mình. Tuy khổ nhưng lúc nào tôi cũng cố giữ lòng trong sáng, tôi tự nhắc nhở với chính mình. Khổ đã quá nhiều, tại sao chỉ còn gang tấc mà không vượt qua được hay sao?!
Sau khi ba chị em Nguyên ra đi, tôi xin các anh đóng cái sạp riêng cho tôi vì hai cô bạn đi rồi không còn ai nằm hai bên che chở cho tôi. Thế là tôi có một gian san riêng, bề ngang nửa mét, bề dài một mét rưởi. Mỗi buổi sáng tôi thức thật sớm xuống gần bờ biển tập thể dục. Các bác người Hoa dạy tập Tài Chi, trưa thì cùng các tổ đi làm vệ sinh phòng tắm nữ, thời gian bạn bè bên nhau trong trại Cherating, hàng ngày được nghe, và nhắc nhở đến những kỷ niệm nơi quê nhà dấu yêu. Tất cả những kỷ niệm ấy lúc nào cũng đẹp. Những câu chuyện hay những kỷ niệm đẹp đều bắt đầu bằng hai chữ “Ngày xưa” đã được nhắc đến một cách thiết tha và u hòai không ai có thể quên. Vì những nhớ nhung ấy những người đến trước đặt tên trong trại ty nạn Cherating, những khu vực là Sàigòn, Chợ Lớn, và tên những con đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi ...
Chương trình dạy anh văn được rút ngắn. Mỗi tối tan học về, cùng các bạn nghe ké Radio, tin tức đài BBC hay đài VOA . Tôi thường ngồi khóc một mình, khi nghe được tiếng hát Khánh ly, Lệ Thu, Elvis Phương… những bài hát nghe nhớ nhà "đứt ruột". Đó là hai chữ mà ngày xưa tôi thường nghe Ba Má tôi nói. Tôi không hiểu thế nào, nhưng giờ đây tôi đã hiểu thấu thế nào là "đứt ruột".
Một sáng tinh sương, khí trời dịu mát, sau khi đi tập thể dục xong, tôi lang thang đến văn phòng thông tin, cũng như bao người có mặt nơi đây dò xem danh sách những người có thân nhân đi tìm. Tôi không tin vào mắt mình tên tôi rõ ràng từng nét ngày sanh, số tàu “có thư bảo đảm”. Tôi như người điên la thật to và nhảy tung tăng mừng rỡ khi bình tỉnh lại, chung quanh mọi người đều cười về sự vui mừng trông thật ngây ngô của tôi. Họ đã đồng cảm chia sẻ với niềm vui mà tôi đang có.
Đó là lần đầu tiên, nhận thư từ Úc của hai chi tôi gửi sang kèm cái cheque một trăm đô. Tạm thời chưa sử dụng được vì không có nơi đề đổi tiền. Nhưng điều quan trọng vào lúc này, lá thư của hai chị. Nó có ý nghĩa như lá bùa hộ mạng, để chứng minh khi tôi gặp phái đòan Úc sau này.
Thời gian chờ đợi chậm chạp trôi qua.Tôi được phái đòan Mỹ và phái đòan Pháp phỏng vấn nhưng tôi không khai có anh ở Mỹ và có cô ở Pháp. Tôi muốn đi Úc vì đa số anh chị đều ở Úc .Theo qui định của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc dạo ấy. Ai muốn chờ quốc gia mình muốn đến” bóc đi” (định cư) thì ít nhất phải có hai quốc gia khác đóng “dấu bác”( khước từ) vào hồ sơ, tôi đã có đủ điều kiện vì phái đòan Mỹ và phái đoàn Pháp đóng dấu khước từ .
Hai tuần sau phái đoàn Úc đến trại phỏng vấn. Tôi không có tên trong danh sách phỏng vấn vì thứ tự hồ sơ chưa đến. Phái đòan sẽ làm việc bốn ngày, và ba tháng sau họ mới trở lại trại lần nữa. Những người có kinh nghiệm cho biết, nếu phỏng vấn nhanh, đôi khi họ bổ túc thêm danh sách.Với ý chí cương quyết và tinh thần nhẫn nại tôi không đầu hàng số phận Tự nghĩ mình phải làm sao và như thế nào để được vào phỏng vấn? Thế là mổi buổi sáng, tôi đều đứng chờ ngoài văn phòng phỏng vấn. Trưa đến giờ nghĩ, tôi vội chạy về lều ăn qua loa, rồi đến văn phòng tiếp tục chờ. Trên tay tôi luôn có “ lá bùa hộ mệnh” . hồi hộp và chờ đợi...Nhưng nghĩ lại.Tôi chờ ai đây,và chờ điều gì? Trong khi tên tôi chưa được niêm yết. Tôi chỉ biết cầu Phật Trời và Ông Bà, ban một phép nhiệm mầu cho tôi.
Ba ngày trôi qua, hết giờ làm việc tôi buồn thiu, lặng lẽ ra về ...mấy đứa cùng chuyến tàu cứ chọc “Đừng lo nữa chị ơi, chờ đi theo diện “hốt rác” với tụi em cho vui...”
Đến ngày thứ tư, tôi cảm thấy tuyệt vọng, danh sách ngồi chờ phỏng vấn vẫn còn.Tuy nhiên lòng tôi vẫn cương quyết không bỏ cuộc. Tôi khấn nguyện ơn trên giúp tôi có niềm tin và hy vọng...cho đến giây phút cuối cùng cuộc phỏng vấn kỳ này.
Bỗng một trận mưa thật lớn trút xuống, mọi người chạy tán loạn. Riêng tôi vẫn đứng im chờ đợi, bị ướt cả người, vốn mãnh mai yếu đuối. Tôi đã tự hỏi “không biết điều gì đã thúc đẩy tôi có một sức chịu đựng thế này ?” Có lẽ đó là niềm tin mãnh liệt trong tôi, được đức tin này là nhờ Ba Má tôi từng kể lại những tháng năm dài chạy loạn, từ thời Pháp thuộc cho đến trận Mậu Thân, và biến cố năm 1975. Ba Má tôi đã chịu đựng không biết bao gian khổ, khó khăn để cho mười đứa con được thành người, và tương lai tốt đẹp.
Năm 1976 vừa xong bậc trung học tôi rời Vĩnh Long, lần đầu tiên ba anh em chúng tôi vượt biên cùng với mười bảy người bạn chí thân. Vừa xuống tàu lớn chúng tôi đã bị bắt và đưa về nhà lao Rạch Giá trong nỗi lo âu sợ hãi.
Trong nhà giam, mọi vấn đề về vệ sinh đối với phụ nữ đỡ hơn nam giới. Buổi chiều, phụ nữ được thả ra sân chơi, nhìn qua bên phía nhà của nam giới, tôi nhận diện được anh và em tôi qua ô cửa sổ nhỏ. Chúng tôi trao đổi bằng cách ra dấu và biểu hiện bằng ánh mắt.
Đêm đêm tôi cầu nguyện Đất Trời, Ông Bà đã qua đời, phù hộ cho anh em tôi được thoát tai nạn này. Một buổi trưa đang mơ màng ngủ trong cơn nửa mê nửa tỉnh, những người cùng phòng đánh bài, trò chuyện lao xao, tôi cố giương đôi mắt nhưng không thể được. Bỗng một hình ảnh lung linh ở khung cửa sổ, trên nóc phòng giam. Hình bóng người thanh niên,vận áo dài khăn đóng, gương mặt thanh tú và hiền từ.
Công ơn dưỡng dục sinh thành của Ba Má vẫn luôn là một nét son đẹp nhất
trong đời. Đây là tấm gương sáng mà Người đã dành cho con cháu đời sau
noi theo, hình ảnh này mãi mãi không phai nhòa. Bên cạnh đó trong tôi
còn có một tinh thần của một Hướng Đạo sinh Việt Nam. Chúng tôi luôn
tươi cừơi và hát khi gặp khó khăn hoặc hiểm nguy "Hướng Đạo Việt Nam khó
khăn coi thường, Hướng Đạo Việt Nam đuốc thiên soi đường, luôn luôn ta
bền gan rèn tâm hồn trong sáng...".Vâng, tôi sẽ và rất kiên cường vượt
qua mọi thử thách đã và đang chờ. Xin biết ơn những huynh trưởng trong
Hướng Đạo đã rèn luyện cho tôi một tinh thần phấn đấu và niềm hy vọng để
sinh tồn.
Người được phỏng vấn đứng lên từ chiếc ghế trước mặt người tùy viên di trú Úc, anh trật tự gọi tiếp danh sách nhưng vắng mặt. Bây giờ chỉ còn phái đòan Úc và bác thông dịch viên. Như một điều kỳ diệu, tôi không tin vào mắt mình tôi vuốt nước mưa trên mặt, người tùy viên Úc vẫy tay gọi tôi vào, tôi đứng như pho tượng, không nhấc nổi đôi chân. Bác thông dịch gọi tôi.
- Cháu vào đây...
Bừng tĩnh, mừng khôn xiết! Tôi chạy nhanh vào văn phòng. Họ mời ngồi và tự giới thiệu tên .Tôi biết được người thông dịch viên tên Đào( tôi không rõ là họ hay tên)
Thế là cuộc phỏng vấn bắt đầu.
Bác Đào bảo:
- Cháu có biết tiếng Anh không?
- Thưa bác cháu biết ít thôi, cháu sợ quá!
- Chaú biết gì cứ trả lời, vì sẽ được nhiều ưu điểm, lúc nào không biết Bác sẽ giúp cháu. Bác rất ân cần và nhiệt tình, lời nói rất nhỏ nhẹ nên làm tôi hết lo sợ. Bác Đào thông dịch :
- Tại sao chaú đứng trong mưa, tại sao ngày nào ông ta cũng thấy cháu đứng trước cửa văn phòng, chờ đợi điều gì và chờ ai? cháu muốn đi đâu?
Tôi như người từ trên trời rơi xuống, chưa được hoàn hồn.Bác Đào tiếp:
- Cháu trả lời đi.
Bác Đào đánh thức cơn mộng của tôi.
- Dạ Cháu chờ đợi vì cháu không có tên trong danh sách phỏng vấn đợt này, cháu muốn đi Úc, cháu có hai người chị ở đó đang làm bảo lảnh cho cháu.
- Hai chị làm nghề gì, ở Tiểu Bang nào, có giấy làm bảo lảnh chưa? Có bằng chứng gì không?
Tôi vội đưa lá thư hai chị tôi viết bằng anh ngữ, hai chị biết sẽ dễ dàng khi tôi gặp phái đòan Úc sang phỏng vấn. Sau khi đọc xong lá thư. Họ bắt đầu phỏng vấn rất chi tiết lý lịch cá nhân và cả gia đình. Thình lình một chiếc máy bay đang bay trên bầu trời, người tùy viên Úc chỉ lên trời hỏi tôi.
- Đó là gì ?
Đồng thời ông hỏi những vật dựng trên bàn.Tôi phải tự trả lời bằng tiếng Anh. Sau vài giây hồi hôp, ông nói với Bác Đào, bác nhìn tôi mĩm cười:
- Phái đoàn Úc đã nhận cháu rồi.
Tôi lặng người và nước mắt rơi, một giấc mơ tôi chưa bao giờ nghĩ đến.Tôi thật không ngờ đời mình được diễm phúc như hôm nay.Tôi vừa khóc vừa cười vì sung sướng.Tôi đứng lên cám ơn Bác Đào và phái đoàn.
Ra về, suốt con đường về lều vừa đi vừa cười như một người điên..và cảm thấy chưa có ngày nào đẹp như hôm nay, kể từ lúc tôi vấn thân vào cuộc đời ly hương.
Chiều nay, tôi âm thầm khui mấy hộp đậu đây là thức ăn được tiếp tế, ngày nào cũng ăn nên chỉ cần ngữi mùi làm ai cũng phải sợ. Rửa sạch và nấu một nồi chè đãi các bạn, báo tin vui. Do tâm lý ai nấy đều công nhận nồi chè đậu hôm nay vừa ngon lại vừa thơm. Không ai tin phái đoàn Úc nhận tôi đi định cư là sự thật.
Hai tuần sau nhân viên văn phòng Ban đại diện gọi danh sách những người được nhận làm thủ tục khám sức khỏe, trả lều lại cho Ban nhà đất. Đúng một tháng tôi được chuyển trại để chờ chuyến bay. Trại chuyển tiếp chúng tôi đến là trại Sungei Besi. Nơi đây vừa mới xây loại nhà tiền chế, phòng bốn người ở, thức ăn được nấu sẳn, đến giờ mang dụng cụ lãnh thức ăn, giữa trại có một Tivi chiếu phim cho xem. Chúng tôi được xe bus đưa ra Kuala Lumpur để khám sức khoẻ và được hướng dẩn đi ngân hàng đổi cheque.
Ai cũng bảo sung sướng quá ! Nhưng càng sung sướng thì lòng tôi càng nhớ nhà, càng đau lòng nhiều hơn...Giờ đây tôi hiểu thật đầy đủ ý nghĩa lời của Ba Má tôi nói: “Ở đời các con hãy nhớ, được như hôm nay đó là do phước đức ông bà để lại. Vậy theo đó mà noi gương".Vâng, tôi là người hưởng rất nhiều phước đức của Ông Bà Cha Mẹ. Đời đời không bao giờ quên lời dạy quý báu của Ba Má tôi.
Tháng 12 tôi có chuyến bay đi Úc. Tại phi trường Malaysia còn sớm, chúng tôi được đi xem các cửa hàng.Tôi không quên người ân nhân Singapore ngày nào đã cứu mạng, tôi mua một post card gửi đến ông, viết lời cám ơn và từ giã, tôi rời Mã Lai đi đinh cư ở Úc.
Ngày 6- 12- 1979 chuyến bay boeing rời Mã Lai đến Melbourne vào lúc 6 giờ sáng. Chuyến xe bus đưa chúng tôi về Altona Migrant Hostel người ta bảo đây là mùa ấm thế mà chúng tôi lạnh run.Trời còn hơi sương và một buổi sáng thật yên tịnh, một thành phố trong lành, người Úc niềm nở hiếu khách thật dễ thương. Có thông dịch viên tiếp đón và ân cần cho biết sơ về nơi đây. Còn quá sớm nên chúng tôi được đưa về phòng ngủ, trưa sẽ trở lại văn phòng họp để nghe điều lệ và thủ tục định cư.
Hostel này ngày xưa là một trại lính gần bờ biển Williamstown. Sáu đứa con gái độc thân ở một căn, gồm ba phòng ngủ, một phòng khách, tiện nghi không thiếu, ngày ba buổi ăn trong canteen có nhân viên quét dọn phòng, trải thay drap giường. Điều quan trọng là họ đã tổ chức lớp học anh văn, không những thế mà họ còn
dạy cho chúng tôi biết thế nào là lịch sự văn minh của người tây phương, hướng dẩn từ cách ăn cách nói để hòa nhập vào phong tục và tập quán của người Úc.
Chúng tôi không có khóa học tại Hostel nên sáng xe bus đưa chúng tôi đến trung tâm sinh ngữ ở Collingwood học. Ăn sáng xong, mỗi đứa nhận một bọc thức ăn cho phần ăn trưa, đã đặt chiều qua. Đây là thời gian hiếm nhất để chúng tôi nhanh chóng hoàn tất khóa học tòan thời Gia đình được ở trong Hostel một năm, riêng độc thân thì sáu tháng. Sau khi trừ tiền ăn ở trong Hostel, chúng tôi được lảnh một cái cheque 23 đô la mỗi hai tuần. Thật sự tôi chưa bao giờ ngờ rằng cuộc đời mình quá may mắn như thế, người dân Úc thật tốt, họ mang mình đến đây, lo từ vật chất đến tinh thần .
Càng nghĩ tôi càng cố gắng vươn lên cố gắng làm một người công dân tốt hầu đáp lại tấm chân tình họ đã cưu mang tôi và cả gia đình tôi.
Năm 1981 vì lời nguyện cầu cho chuyến vượt biển bình an và cho cả tàu thoát hiểm tôi đã xin được rửa tội vào đạo trong mùa Phục Sinh.Sau một năm học anh văn tôi ghi danh vào đại học RMIT vì muốn có một nghề vững chắc hơn. Một mặt bảo lảnh Ba Má tôi. Nhưng vào lúc ấy Bộ Di Trú cần điều kiện phải có việc làm, vội vã đi tìm việc làm ngay, tôi đã gác việc học lại.
Ba Má được ra đi đó là điều tôi hằng ao ước, được báo đáp tình thương mà Ba Má tôi đã hy sinh cho anh chị em chúng tôi. Tôi làm ca đêm cho một hảng Kotex Mills ở vùng Brunswick dệt vớ phụ nữ , không ngại gian khó chỉ mong sao Ba Má được an hưởng tuổi già. Sau đó tôi xin làm một hảng khác ca ngày, cố làm hết sức mình cùng các anh chị lo cho gia đình, ngoài ra phải trả lại số nợ Ba Má đã vay cho tôi ra đi lần cuối cùng.
Năm 1982 tôi lập gia đình, 1983 chúng tôi được một trai và 1989 có thêm một gái.
Mùa Phục sinh năm 1984 Ba Má tôi đã được đến Úc theo diện đòan tụ gia đình. Đó là niềm hạnh phúc nhất đời của anh chị em chúng tôi. Ước mơ của tôi đã thành sự thật. Xin tạ ơn Đất Trời đã ban Hồng Ân đến cho đời tôi.
Cùng năm này may mắn được trúng tuyển trong kỳ thi do Bưu điện tổ chức, công việc đã cho gia đình tôi một cuộc sống ổn định trên bước đường lưu vong. Món quà quý nhất trong xã hội mới mẽ này.
Ba Má tôi thường bảo: “Đất nước này, người dân này tốt quá họ đã đem lòng nhân đạo để cưu mang chúng ta, Ba Má già rồi không làm được gì nữa. Bổn phận các con hãy ráng làm để trả ơn dùm Ba Má, và dạy dỗ con cái của mình trở thành người hữu dụng mai sau cho nước Úc và đẹp mặt cho người Việt Nam của mình nữa nhe con.”
Lời nhắc nhở này chúng tôi luôn ghi nhớ và cố gắng sống sao cho đáng làm người, tôi không làm được gì hơn là hết lòng dạy dỗ các con phải lấy Nhân, Lễ Nghiã, Trí,Tín làm nền tảng cho cuộc sống. Và tôi luôn hy vọng mai sau chúng là người có đức, có tài cùng góp một bàn tay giúp xây dựng đất nước này, và mãi mãi không quên mình là người Việt Nam kiên cường bất khuất!
Kim Oanh
Mùa Phục Sinh 2004
Người được phỏng vấn đứng lên từ chiếc ghế trước mặt người tùy viên di trú Úc, anh trật tự gọi tiếp danh sách nhưng vắng mặt. Bây giờ chỉ còn phái đòan Úc và bác thông dịch viên. Như một điều kỳ diệu, tôi không tin vào mắt mình tôi vuốt nước mưa trên mặt, người tùy viên Úc vẫy tay gọi tôi vào, tôi đứng như pho tượng, không nhấc nổi đôi chân. Bác thông dịch gọi tôi.
- Cháu vào đây...
Bừng tĩnh, mừng khôn xiết! Tôi chạy nhanh vào văn phòng. Họ mời ngồi và tự giới thiệu tên .Tôi biết được người thông dịch viên tên Đào( tôi không rõ là họ hay tên)
Thế là cuộc phỏng vấn bắt đầu.
Bác Đào bảo:
- Cháu có biết tiếng Anh không?
- Thưa bác cháu biết ít thôi, cháu sợ quá!
- Chaú biết gì cứ trả lời, vì sẽ được nhiều ưu điểm, lúc nào không biết Bác sẽ giúp cháu. Bác rất ân cần và nhiệt tình, lời nói rất nhỏ nhẹ nên làm tôi hết lo sợ. Bác Đào thông dịch :
- Tại sao chaú đứng trong mưa, tại sao ngày nào ông ta cũng thấy cháu đứng trước cửa văn phòng, chờ đợi điều gì và chờ ai? cháu muốn đi đâu?
Tôi như người từ trên trời rơi xuống, chưa được hoàn hồn.Bác Đào tiếp:
- Cháu trả lời đi.
Bác Đào đánh thức cơn mộng của tôi.
- Dạ Cháu chờ đợi vì cháu không có tên trong danh sách phỏng vấn đợt này, cháu muốn đi Úc, cháu có hai người chị ở đó đang làm bảo lảnh cho cháu.
- Hai chị làm nghề gì, ở Tiểu Bang nào, có giấy làm bảo lảnh chưa? Có bằng chứng gì không?
Tôi vội đưa lá thư hai chị tôi viết bằng anh ngữ, hai chị biết sẽ dễ dàng khi tôi gặp phái đòan Úc sang phỏng vấn. Sau khi đọc xong lá thư. Họ bắt đầu phỏng vấn rất chi tiết lý lịch cá nhân và cả gia đình. Thình lình một chiếc máy bay đang bay trên bầu trời, người tùy viên Úc chỉ lên trời hỏi tôi.
- Đó là gì ?
Đồng thời ông hỏi những vật dựng trên bàn.Tôi phải tự trả lời bằng tiếng Anh. Sau vài giây hồi hôp, ông nói với Bác Đào, bác nhìn tôi mĩm cười:
- Phái đoàn Úc đã nhận cháu rồi.
Tôi lặng người và nước mắt rơi, một giấc mơ tôi chưa bao giờ nghĩ đến.Tôi thật không ngờ đời mình được diễm phúc như hôm nay.Tôi vừa khóc vừa cười vì sung sướng.Tôi đứng lên cám ơn Bác Đào và phái đoàn.
Ra về, suốt con đường về lều vừa đi vừa cười như một người điên..và cảm thấy chưa có ngày nào đẹp như hôm nay, kể từ lúc tôi vấn thân vào cuộc đời ly hương.
Chiều nay, tôi âm thầm khui mấy hộp đậu đây là thức ăn được tiếp tế, ngày nào cũng ăn nên chỉ cần ngữi mùi làm ai cũng phải sợ. Rửa sạch và nấu một nồi chè đãi các bạn, báo tin vui. Do tâm lý ai nấy đều công nhận nồi chè đậu hôm nay vừa ngon lại vừa thơm. Không ai tin phái đoàn Úc nhận tôi đi định cư là sự thật.
Hai tuần sau nhân viên văn phòng Ban đại diện gọi danh sách những người được nhận làm thủ tục khám sức khỏe, trả lều lại cho Ban nhà đất. Đúng một tháng tôi được chuyển trại để chờ chuyến bay. Trại chuyển tiếp chúng tôi đến là trại Sungei Besi. Nơi đây vừa mới xây loại nhà tiền chế, phòng bốn người ở, thức ăn được nấu sẳn, đến giờ mang dụng cụ lãnh thức ăn, giữa trại có một Tivi chiếu phim cho xem. Chúng tôi được xe bus đưa ra Kuala Lumpur để khám sức khoẻ và được hướng dẩn đi ngân hàng đổi cheque.
Ai cũng bảo sung sướng quá ! Nhưng càng sung sướng thì lòng tôi càng nhớ nhà, càng đau lòng nhiều hơn...Giờ đây tôi hiểu thật đầy đủ ý nghĩa lời của Ba Má tôi nói: “Ở đời các con hãy nhớ, được như hôm nay đó là do phước đức ông bà để lại. Vậy theo đó mà noi gương".Vâng, tôi là người hưởng rất nhiều phước đức của Ông Bà Cha Mẹ. Đời đời không bao giờ quên lời dạy quý báu của Ba Má tôi.
Tháng 12 tôi có chuyến bay đi Úc. Tại phi trường Malaysia còn sớm, chúng tôi được đi xem các cửa hàng.Tôi không quên người ân nhân Singapore ngày nào đã cứu mạng, tôi mua một post card gửi đến ông, viết lời cám ơn và từ giã, tôi rời Mã Lai đi đinh cư ở Úc.
Ngày 6- 12- 1979 chuyến bay boeing rời Mã Lai đến Melbourne vào lúc 6 giờ sáng. Chuyến xe bus đưa chúng tôi về Altona Migrant Hostel người ta bảo đây là mùa ấm thế mà chúng tôi lạnh run.Trời còn hơi sương và một buổi sáng thật yên tịnh, một thành phố trong lành, người Úc niềm nở hiếu khách thật dễ thương. Có thông dịch viên tiếp đón và ân cần cho biết sơ về nơi đây. Còn quá sớm nên chúng tôi được đưa về phòng ngủ, trưa sẽ trở lại văn phòng họp để nghe điều lệ và thủ tục định cư.
Hostel này ngày xưa là một trại lính gần bờ biển Williamstown. Sáu đứa con gái độc thân ở một căn, gồm ba phòng ngủ, một phòng khách, tiện nghi không thiếu, ngày ba buổi ăn trong canteen có nhân viên quét dọn phòng, trải thay drap giường. Điều quan trọng là họ đã tổ chức lớp học anh văn, không những thế mà họ còn
dạy cho chúng tôi biết thế nào là lịch sự văn minh của người tây phương, hướng dẩn từ cách ăn cách nói để hòa nhập vào phong tục và tập quán của người Úc.
Chúng tôi không có khóa học tại Hostel nên sáng xe bus đưa chúng tôi đến trung tâm sinh ngữ ở Collingwood học. Ăn sáng xong, mỗi đứa nhận một bọc thức ăn cho phần ăn trưa, đã đặt chiều qua. Đây là thời gian hiếm nhất để chúng tôi nhanh chóng hoàn tất khóa học tòan thời Gia đình được ở trong Hostel một năm, riêng độc thân thì sáu tháng. Sau khi trừ tiền ăn ở trong Hostel, chúng tôi được lảnh một cái cheque 23 đô la mỗi hai tuần. Thật sự tôi chưa bao giờ ngờ rằng cuộc đời mình quá may mắn như thế, người dân Úc thật tốt, họ mang mình đến đây, lo từ vật chất đến tinh thần .
Càng nghĩ tôi càng cố gắng vươn lên cố gắng làm một người công dân tốt hầu đáp lại tấm chân tình họ đã cưu mang tôi và cả gia đình tôi.
Năm 1981 vì lời nguyện cầu cho chuyến vượt biển bình an và cho cả tàu thoát hiểm tôi đã xin được rửa tội vào đạo trong mùa Phục Sinh.Sau một năm học anh văn tôi ghi danh vào đại học RMIT vì muốn có một nghề vững chắc hơn. Một mặt bảo lảnh Ba Má tôi. Nhưng vào lúc ấy Bộ Di Trú cần điều kiện phải có việc làm, vội vã đi tìm việc làm ngay, tôi đã gác việc học lại.
Ba Má được ra đi đó là điều tôi hằng ao ước, được báo đáp tình thương mà Ba Má tôi đã hy sinh cho anh chị em chúng tôi. Tôi làm ca đêm cho một hảng Kotex Mills ở vùng Brunswick dệt vớ phụ nữ , không ngại gian khó chỉ mong sao Ba Má được an hưởng tuổi già. Sau đó tôi xin làm một hảng khác ca ngày, cố làm hết sức mình cùng các anh chị lo cho gia đình, ngoài ra phải trả lại số nợ Ba Má đã vay cho tôi ra đi lần cuối cùng.
Năm 1982 tôi lập gia đình, 1983 chúng tôi được một trai và 1989 có thêm một gái.
Mùa Phục sinh năm 1984 Ba Má tôi đã được đến Úc theo diện đòan tụ gia đình. Đó là niềm hạnh phúc nhất đời của anh chị em chúng tôi. Ước mơ của tôi đã thành sự thật. Xin tạ ơn Đất Trời đã ban Hồng Ân đến cho đời tôi.
Cùng năm này may mắn được trúng tuyển trong kỳ thi do Bưu điện tổ chức, công việc đã cho gia đình tôi một cuộc sống ổn định trên bước đường lưu vong. Món quà quý nhất trong xã hội mới mẽ này.
Ba Má tôi thường bảo: “Đất nước này, người dân này tốt quá họ đã đem lòng nhân đạo để cưu mang chúng ta, Ba Má già rồi không làm được gì nữa. Bổn phận các con hãy ráng làm để trả ơn dùm Ba Má, và dạy dỗ con cái của mình trở thành người hữu dụng mai sau cho nước Úc và đẹp mặt cho người Việt Nam của mình nữa nhe con.”
Lời nhắc nhở này chúng tôi luôn ghi nhớ và cố gắng sống sao cho đáng làm người, tôi không làm được gì hơn là hết lòng dạy dỗ các con phải lấy Nhân, Lễ Nghiã, Trí,Tín làm nền tảng cho cuộc sống. Và tôi luôn hy vọng mai sau chúng là người có đức, có tài cùng góp một bàn tay giúp xây dựng đất nước này, và mãi mãi không quên mình là người Việt Nam kiên cường bất khuất!
Kim Oanh
Mùa Phục Sinh 2004
CHẾ VĂN THỨC * CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
-
Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) non trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh. Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đã có một nhận định cho rằng: sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.
Nhưng không, rút kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề. Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.
Bài viết sau đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề tài khô khan, mong người đọc thông cảm.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU, Biên Hòa.
Phản Kháng Của Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978.
Sau ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối dãy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lý từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nay vì nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào cuối năm 1978, bộ đội đã chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Hòa, giao qua ngành công an quản lý.
Tùy tình thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào, hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng 7 giờ tối, từng toán công an võ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi chuyện gì mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra rão quanh một vòng rồi trở ra ngoài.
Đến 8 giờ tối, hầu hết các K vang lên tiếng cười cùng tiếng vỗ tay. Khu K1 nơi giam tù sĩ quan cấp Thiếu và Trung úy, tuổi chừng 20 đến 30 rất trẻ, còn tràn đầy sinh khí, ồn ào náo động nhất, họ hát Thánh ca, tình ca với những chiếc đàn guitar tự chế.
Các toán công an võ trang trở vào, ra lệnh “cải tạo viên “ giải tán vào bên trong láng (nhà). Chưa đến 10 giờ đêm, giờ ngủ theo quy định của trại, họ cưỡng lệnh không chịu vào. Có tiếng súng nổ, công an võ trang bắt đi ba người tù đem ra ngoài khu giam.
Lập tức, toàn thể tù nhân khu K1 gọi nhau tập trung ở sân trước đối diện với cửa ra vào Ban giám thị trại. Họ dùng tay làm loa che miệng, đồng thanh kêu gọi Giám thị trại thả người trở vào, cũng hướng về các khu K2 giam tù cấp Tá, khu K3 cấp Đại úy để thông báo tình hình và xin tiếp tay yểm trợ, bằng cách tất cả tù nhân ra khỏi láng, làm theo những gì bạn tù K1 yêu cầu với Giám thị trại.
Bên ngoài, Giám thị trại vẫn im lìm, bên trong âm thanh hò reo của tù nhân vang dội toàn khu trại tù Suối Máu. Ngay lúc này, tại K2 các bạn tù cấp Tá, nhanh chóng thành lập Ủy Ban Hành Động (UBHĐ). Thiếu tá Không Quân Lê Thanh Hồng Vân vóc người to cao, làm Trưởng UBHĐ (hiện nay anh đang định cư tại Florida). Thiếu tá Pháo binh Lê Văn Sanh làm Phó Trưởng Ban (nay anh định cư tại Texas) và nhiều thành viên cho từng bộ phận, như bộ phận Hành Động, bộ phận An Ninh, bộ phận Kế Hoạch. Một số thành viên trong UBHĐ chui hàng rào kẻm gai, sang K1 hổ trợ và bàn kế hoạch. Hàng rào kẽm gai ngăn giữa các K trước đấy rất kiên cố, nhưng sau ba năm do bộ đội quản lý, cán binh bộ đội nhổ bớt cọc sắt ấp chiến lược và tháo lấy kẽm gai để làm việc riêng tư, nên nay hàng rào thưa trống, người chui qua lại rất dễ dàng.
Đã giữa khuya, Giám thị trại vẫn không động tỉnh. Bước đầu UBHĐ kêu gọi nhau hát các bản Thánh ca, trong đó bản HANG BELEM :
Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trong hang bê-lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng . . .
là bản nhạc dễ hát nhất, hầu như ai cũng hát được, không phân biệt tôn giáo, các bạn tù Ki Tô Hữu hát lớn mọi người cùng hát theo, lặp đi lặp lại liên hồi, chen lẫn với tiếng vổ tay, tiếng kêu gọi thả tù. Trời về khuya tỉnh mịch, âm thanh vang dội đến tận vùng dân cư nhà thờ Hố Nai, Biên Hòa.
Có tiếng động cộc cạch từ những loa phóng thanh đặt sẳn trong các K giam tù, để Giám thị trại thông báo chỉ thị, mở đài (radio) phát thanh Hà Nội, đài Saigòn giải phóng cho tù nhân nghe tin tức vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Giám thị trại lên tiếng:
"Yêu cầu tất cả “trại viên cải tạo” trong các K giải tán trở vào láng để ngủ, sau đó Ban giám thị sẽ cho ba trại viên trở vào."
Không ai bảo ai mọi người đồng loạt trả lời:
“ Phải thả người vào trước đã”.
Hai bên, lời qua tiếng lại giằng co mãi, lồng trong tiếng hát Thánh ca mỗi lúc một vang dội hơn, mặc dù đêm đông giá lạnh nhưng mọi người vẫn kiên trì ngồi dưới sương khuya.
Từ xa vọng lại tiếng động cơ nổ rầm rì, rồi dần dần nghe rõ tiếng xích sắt của xe tăng nghiền trên mặt đường nhựa, từ hướng nhà thờ Hố Nai tiến về trại tù Suối Máu. Bọn cai tù lượng định tình thế, kéo dài thời gian xin chỉ thị cấp trên, điều động xe tăng đến mặt trước của trại tù để thị oai. Không nao núng, UBHĐ đưa ra quyết định, gọi lớn ra bên ngoài:
” Nếu ban giám thị trại không thả người vào, đêm nay tất cả trại viên cải tạo sẽ không vào ngủ”.
Tiếng gầm gừ của máy nổ, tiếng xích sắt của tăng nghiền trên mặt đường mỗi lúc nghe ác liệt hơn, rồi từng loạt đại liên trên tăng thay nhau nổ dòn, đạn hú xé không gian, xẹt ánh lửa vèo vèo ngang qua các nóc nhà trại giam.
Trước tình huống đã cởi lưng cọp không thể lùi, UBHĐ họp bàn quyết định, thông báo cho Giám thị trại:
”Ngày mai toàn thể trại viên cải tạo sẽ TUYỆT THỰC nếu trại không thả người vào”.
Đồng thời loan báo đến các K:
“Yêu cầu tất cả các toán anh nuôi, sáng ngày mai KHÔNG ĐƯỢC RA BỘ CHỈ HUY LÃNH GẠO VÀ THỰC PHÂM, cho đến khi Ban giám thị trại thả người vào.”
Tiếng hát Thánh ca tiếng vỗ tay, tiếng gọi thả tù vẫn tiếp tục vang vang trong đêm khuya. UBHĐ kêu gọi các bạn tù lớn tuổi vào láng để nghỉ trước, nhưng không một ai chịu rời chỗ. Biện pháp TUYỆT THỰC của tù nhân là sự việc bất ngờ đối với Giám thị trại. Phần chủ động của quyết định này thuộc về phía tù nhân. Không một toán anh nuôi nào có thể cưởng lại, không chấp hành, nếu họ muốn sống còn.
Thấy tình thế không thuyết phục được đám tù nhân nếu không thả tù.
Giám thị trại Bằng lên tiếng yêu cầu toàn thể trại viên cải tạo giải tán vào ngủ. Ba trại viên sẽ trở vào khi làm xong kiểm điểm trong một thời gian ngắn.
Cùng lúc ấy tiếng máy nổ của xe tăng xa dần khu trại tù Suối Máu.
Khuya lắm rôi, tù nhân vẫn ngồi hát Thánh ca. Bổng có tiếng dây xích sắt lỏn cỏn va chạm vào trụ cổng K1, của mở ba bạn tù bước vào bên trong. Tiêng hoan hô, reo hò gọi tên ba bạn tù. UBHĐ thông báo đến mọi người trở vào láng và bỏ lệnh tuyệt thực, để ngày mai các toán anh nuôi tiếp tục làm nhiệm vụ cơm nước.
ĐƯỜNG VÀO ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Noel, 24 tháng 12 năm 1978, đã là ngày 25 tháng 11 năm Mậu Ngọ, chỉ còn đúng một tháng đến tết Kỷ Mùi 1979. Thời gian này, nước lớn đàn anh Trung Cộng dạy cho bọn đàn em CSVN một bài học ở địa đầu giới tuyến. Không khí trong trại tù sôi sục về thời sự nghe được qua loa phóng thanh của trại.
Sau đêm tù cải tạo phản kháng, chúng tôi nghĩ sẽ có sự trừng phạt đến với một số người. Nhưng không, Giám thị trại, những con cáo già không biểu lộ một thái độ hằn học nào. Ngược lại cục trại giam đưa cán bộ tuyên huấn đến trại nói chuyện về tình hình biên giới Việt Trung, tuyên truyền, đề cao bộ đội cộng sản ở tuyến đầu chống trả quân bành trướng Trung Quốc v.v…
Giám thị trưởng trại tỏ ra thân thiện vui vẽ, liên tiếp vào trại tập họp “trại viên cải tạo” nói chuyện về chánh sách cải tạo khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân . . . Ngoài ra, giám thị trại bàn đến ngày tết truyền thống, tết Kỷ Mùi, đề ra kế hoạch thi đua, mừng đón Xuân. Mục đích đánh lạc hướng kế hoạch đòn thù mà chúng sẽ áp dụng.
Sau những ngày tết Kỷ Mùi, đầu tháng 2-1979, bửa cơm chiều vừa xong, tù nhân cấp Tá ở K2 chúng tôi, có lệnh tập trung lên hội trường làm việc. Lệnh tập họp bất thường vào chiều tối, mọi người đã đoán có điều bất thường sẽ đến. Quanh hội trường công an võ trang canh gác. Trên bục, giám thị trưởng đọc “lệnh chuyễn trại”.
Trong đời người tù cải tạo, chuyễn trại là cả một cực hình, một nỗi kinh hoàng không kể xiết. Danh sách đen, hơn 350 tù cấp Thiếu, Trung và Đại tá chúng tôi, lần lược được gọi tên, tách riêng, ra sân xếp thành từng đội 30 người. Lệnh cho chúng tôi trở về láng thu xếp tù trang rồi đi ngủ.
Khi có lệnh tất cả tập họp lên sân trại. Chúng tôi được phát một khúc bánh mì bột bo bo kẹp chút thịt heo mỡ. Đúng 4 giờ sáng tiếng ì ầm của đoàn xe Molotova tiến vào trước cổng trại.
Đoàn xe tù lên đường còn trong đếm tối, mãi đến lúc bình minh ló dạng, chúng tôi mới biết đoàn xe đang chạy trên Quốc lộ I, đi về hướng Bắc. Mỗi xe tù có một công an võ trang đi theo, nhưng họ ngôi cùng tài xế ở trước xe, do vậy ở phía sau chúng tôi bàn tán với nhau, đoán già đoán non đủ thứ. Đến trưa đoàn xe tù vào thành phố Phan Rang, đoàn xe ngừng lại ở đầu thành phố. Tài xế vào phố ăn trưa, mỗi chúng tôi cầm khúc bánh mì bo bo ngao ngán.
Người bán hàng rong trong phố, thấy có đoàn xe vừa dừng ở bên ngoài, họ kéo nhau chạy ra, phụ nữ già trẻ có, các cháu nam nữ tuổi rất nhỏ, quần áo bạc màu, rạn rách. Trên tay mỗi người một cái mẹt, một chiếc rổ rá đựng ít củ khoai lan, củ mì (sắn) luộc, mớ trái cây, các loại bánh gói lá chuối. Ra đến nơi, ban đầu họ không biết xe chở khách gì, họ chạy ùa đến rao bán mớ hàng trên tay. Có sự đồng ý của công an võ trang, một số anh em tù chúng tôi đứng lên trong xe, chìa tiền mua thức ăn. Bất chợt một phụ nữ lớn tuổi trong nhóm, nhìn thấy chữ CẢI TẠO thật to, dấu đóng trên lưng áo, trên quần tù nhân. Bà ta la lớn lên gần như gào thét:
“Các chú CẢI TẠO tụi bay ơi, các chú cải tạo tụi bay ơi, đưa lên cho các chú đi đừng lấy tiền của các chú, đưa lẹ lên ”.
Cả nhóm nghe theo lời bà. Chúng tôi cầm tiền, cúi gập người xuống năn nĩ các cháu nhỏ lấy tiền, nhưng chúng lắt đầu lia lịa, chúng chia nhau chạy khắp đoàn xe tù, ném đồ ăn lên xe. Một vài cháu lớn tuổi khỏe hơn, chạy thật nhanh vào trong phố gọi thêm các bạn mang hàng ra cho, ra đến nơi đoàn xe tù đã nổ máy chuyễn đi, họ ném theo lên xe tù những gì họ có trên rổ rá và đứng nhìn theo cho đến khi đoàn xe khuất xa – Mắt tôi cay cay nhỏ lệ, không phải chỉ lúc đó mà chính lúc này, tôi đang kể lại ký ức khó quên trong đời tù cải tạo, sau 30 tháng Tư-1975 – Xin nói rõ, trong giai đoạn đầu vào trại tù, bộ đội quản lý, không thu giữ tiền bạc và đồng hồ, nhẩn vàng.
Đoàn xe tù tiếp tục lăn bánh về hướng bắc Quốc lộ I, chúng tôi không đoán được sẽ đi về đâu. Khoảng 4 giờ chiều đoàn xe qua cầu đập Đồng Cam, rồi qua khỏi thị xã Tuy Hòa, Phú Yên đến quận Tuy An, đoàn xe rẽ trái, băng qua thiết lộ hỏa xa, dẫn vào quận Đồng Xuân. Lúc này tôi nhận ra địa danh vì tôi đã từng hành quân trên Khu 22 Chiến Thuật này gồm ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên và Phú Bổn.
Trồi lên hụp xuống trên một độc đạo tung bụi đỏ mịt mù, đoàn xe mang chúng tôi vào một thung lũng rọ heo xa hun hút, dưới khí trời vàng vàng mờ ảo trong ánh nắng chiều. Đoàn xe dừng lại trước cổng một trại giam, tứ bề vòng rào lưới B40 và kẽm gai kiên cố. Trại cải tạo XUÂN PHƯỚC quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trại tù mang bí số A20. Những trại tù có mang bí số, trực thuộc Cục Quản Lý Trại Giam Trung Ương điều hành, là những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt đối với tù nhân
CẢNH ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Trước khi vào đến trại giam A20, đoàn xe vượt qua một đoạn đường, bên phải là sườn đồi đất đỏ sỏi đá, bên trái là một cánh đông đất sét với những thửa rộng lúa cháy vàng bởi nắng hạn. Một cảnh tượng hải hung, thoạt đầu chúng tôi không ai hiểu nổi là hình ảnh gì, mặc dù chúng tôi cũng trong thân phận người tù!
Trên những thửa ruộng khô, đất đai nứt nẻ, lố nhố những toán người không áo không mũ nón, vỏn vẹn chỉ chiếc quần cụt, để lộ đôi ống xương chân khẳng khiu, thân hình da bọc xương với chiếc đầu lâu sậm màu! Hình ảnh ma quái này, ngày nay nếu sống ở Mỹ chúng ta có thể tưởng tượng được. Vào dịp lễ Halloween 31 tháng 10 mỗi năm, trong các của tiệm bán đồ trang trí lễ ma, chưng bày những bộ xương người, đầu lâu trắng hếu, trông ghê rợn, thì cảnh tượng trên cánh đồng khô, người tù đang lao động giống y chang như vậy. Ở đây những bộ xương ma quái kia biết cử động, đôi tay xương xẩu, nặng nề mệt nhọc nâng cây cuốc đưa lên thả xuống, đang đào xới thửa ruộng đất khô cằn chai cứng!
Trước cổng trại, chúng tôi được lùa xuống sắp hàng trên một sân gạch rộng lớn. Trời đã chiều, từ nhiều hướng các đội tù lao động lần lượt kéo về, sắp hàng chờ khám xét nhập trại. Chúng tôi sửng sờ, tận mắt nhìn rõ những bộ áo quần tù, xám tro bạc màu, rách tả tơi, bay phất phơ trên những bộ xương với có chiếc đầu lâu mà chúng tôi đã nhìn thấy trên cánh đồng trước đó. Những người tù đã cởi bỏ áo quần để không cho thấm ướt mồ hôi, hầu giữ ấm được thân thể khi về trại.
Thành phần tù gì? Họ là ai? Họ là tù hình sự. Phần lớn là con cháu của quân nhân, công chức VNCH. Tuổi chừng 15 đến 30, vào tù cải tạo vì không chịu thi hành nghĩa vụ quân sự, không muốn đem thân bỏ mạng nơi chiến trường Cambodia. Không thi hành nghĩa vụ lao động, theo chính sách cưỡng bức lao động cá nhân, hay buộc phải đi lao động thay thế cho thân nhân già yếu trong gia đình. Công tác lao động thường là công trình thủy lợi, đào kênh dẫn nước, vào núi chẻ đá, khuân vác đất đá, đốn gỗ, xây đập ngăn nước. Một thành phần nữa, là con cháu các gia đình “ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân” bị chính quyền địa phương đẩy đi vùng “kinh tế mới”, cuộc sống thiếu thốn quá khổ, bỏ trốn về các thành phố, mua lén bán chui, kiếm sống, giúp đở mẹ, anh em, trong khi ông, cha đang trong tù cải tạo! Chỉ có dưới chế độ cộng sản, mới có chuyện ba thế hệ gặp nhau trong nhà TÙ!
Chúng tôi tù chính trị, được nhốt chung với tù hình sự trong trại giam Xuân Phước, nhưng ở riêng một khu, cách nhau một sân rộng và nhà hội trường. Trại cấm chúng tôi “liên hệ” với tù hình sự, nhưng rồi đó đây chúng tôi cũng tiếp xúc được.
Dãy nhà tôi ở mang số 8, gọi là láng 8, dài chừng 50 met, nơi tôi ở, sát cạnh một “trạm xá”, ngôi nhà nhỏ diện tích độ 10 x 5 mét, mái tranh vách đất, chỉ một cửa nhỏ ra vào . Nói là trạm xá nhưng nhiều ngày, chẳng thấy y tá hay y sĩ vãng lai, cũng không thấy khám bệnh. Thì ra nơi đó, các cháu bị bệnh lao phổi đến thời kỳ quá nặng, cán bộ trại đưa vào cách ly, nằm chờ chết. Tiếng ho sùng sục bên trong liên hồi vọng ra.
Những cháu còn chút sức, lê thân ra ngoài hóng nắng, mở nút áo để lộ thân hình da bọc xương, đầu trọc không còn chút tóc, người co quắp, thở hỗn hễn, đứt đoạn từng hơi! Dãy nhà 8 nằm cuối cùng, sát hàng rào trại, nên họ ngăn một đoạn ngay đầu nhà, chừng 5 met làm thành một phòng nhỏ, phòng xác! Do vậy, bọn tù ở láng 8 chúng tôi, nhìn qua khe cửa, mỗi ngày chứng kiến ít nhất có từ 2 đến 3 xác chết, quấn bằng manh chiếu hay mền. Trên đầu chiếc giường tre, ngọn đèn dầu leo lắc, một chén cơm có cắm đôi đủa. Họ đưa xác vào đó ban đêm sau 7 giờ tối, khi chúng tôi đã vào bên trong láng ngủ và cửa khóa chặt. Ngày hôm sau, lúc chúng tôi xuất trại đi lao động bên ngoài, cán bộ trại cho đội tù hình sự, có tên Đội Tự Giác, dùng xe cải tiến, loại xe thùng có 2 bánh sắt, chở xác chết ra chôn ở một ven rừng đất đỏ, nghĩa địa của trại.
Những lần đi lao động ngang qua đây, chúng tôi đã thấy nhiều nấm mộ lắm rồi.
Tù cải tạo thuộc diện tù chính trị như chúng tôi, thời kỳ do bộ đội quản lý, mặc dù lao động khổ sai trong vùng rừng núi Trường Sơn, nhưng khi làm lao động có thể đi lại đó đây, tìm kiếm rau lá, bẩy chuột, bắt rắn cóc nhái . . . cải thiện bửa ăn, phụ thêm mớ thực phẫm, do vợ con thân nhân, cực khổ gồng gánh, vượt vạn dặm thăm nuôi. Thân xác chúng tôi cũng đã kiệt quệ, nhưng chưa đến nổi nào.
Đến lúc vào tay ngành công an quản lý, tại trại tù A20 này, quy chế đời sống chúng tôi không khác gì so với các cháu tù hình sự. Phần ăn mỗi bửa đều giống nhau. Nấu bếp làm cơm do tù hình sự phụ trách. Bửa ăn sáng trước giờ đi đồng lao động, mỗi phần ăn độ 4, 5 lát “sâm”. gọi là sâm cho vui, cũng để đánh lừa cái miệng, thực ra nó là những lát mì (củ sắn).
Mì do tù nhân trồng trọt, đến mùa thu hoach (bới lấy củ), cán bộ trại bắt tù nhân ngồi giữa đồi trọc, mỗi người một khúc gỗ, một con dao lớn, chặt củ sắn thành nhiều lát, có bề dày bằng nữa đầu lóng tay, những lát mì tung ra phơi nắng ngay tại chỗ, trên nền đất cát đỏ, qua nhiều ngày đêm, bất kể nắng mưa sương gió, cát bụi bám đầy. Đến lúc lát mì khô đã đổi sang màu sậm, được đưa vào các kho chứa, bao bọc bởi những mành tre thưa mỏng, không đủ sức che mưa gió. Những lát mì đóng lại thành cục, lên men trắng, men vàng rồi men đỏ, lát mì không còn lên men được nữa, trở thành những lát Sâm Cao Ly màu đen lánh!
Phần cơm trưa và cơm chiều giống nhau. Chén cơm chỉ là một chén sâm, cỏng lưa thưa một vài hạt cơm! Thức ăn là tô canh rau xanh, rau do tù trồng, được bón loại phân XANH, tức phân người trộn với lá cây xanh, phân lấy từ cầu tiêu nổi có thùng chứa. Những lúc trời nắng hạn, không sản xuất đủ rau xanh, thay canh bằng lưng nửa chén mắm thối!. Cai tù thầu mua tất cả các loại cá do ngư dân đánh bắt, không đủ phương tiện ướp lạnh, không đủ muối ướp mặn, đã ươn sình, thối rữa. Lâu lâu, xe tải chở cá vào trại, đã nghe mùi hôi tanh. Chúng đổ cá vào hồ làm mắm, hồ xây bằng xi măng rất lớn, tường cao 2 mét, chia thành bốn ngăn khoản 3x2 mét, mặt trên bịt kín, chừa một nắp đậy vuông.
Cá không ăn muối cá ươn, ở đây cá đã ươn sình, đưa vào hồ làm mắn, đổ thêm nước lã, lại không bỏ đủ muối, cá lên men mục nát rất nhanh, trở thành nước mắn. Màu nước mắm đen ngồm, tựa nước ống cống chợ cầu ông Lãnh, Saigon! Những khi toán anh nuôi mở nắp hầm lấy mắm, mùi thối xông lên nồng nặc, tỏa đi khắp khu trại giam, đến nín thở. Cầm chén mắm, không cách nào tôi đưa chén mắm lên miệng được, cho dù dùng mấy ngón tay cố bóp kín lỗ mũi. Tôi không ăn được mắm thối, nhưng cũng không đổ bỏ đi. Đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái cựu Chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Hòa Saigon, khuyên tôi:
“Anh không ăn được anh cho người khác, tuy mắm thối nhưng nó có chất đạm, rất cần cho cơ thể hiện nay”.
Tôi đã đưa mắm cho người bạn, Đại tá Nguyễn Văn Luật, cùng đội lao động với tôi.
Người tù chính trị trong ngục tù cải tạo, có được sự sống còn, phải nhắc đến công lao vô bờ bến của những người vợ. Mãi mãi tôi ghi nhớ công ơn vợ tôi. Nhờ vợ, hơn một năm tôi thoát khỏi cảnh ăn mắm thối. Trước tết Kỹ Mùi-1979, từ Đà Nẵng vợ tôi lặn lội vào trại tù Suối Máu, Biên Hòa thăm nuôi. Khi ngang qua vùng Nha Trang, vợ tôi mua được 12 con mực khô lớn, loại xuất khẩu, họ đem bán chui.
Ngày đầu mới chuyễn đến trại tù A20 này, công an cán bộ khám xét tù trang, tất cả thức ăn do gia đình tiếp tế đều bị tịch thu, tiền bạc đồng hồ, nhẫn vàng bị thu giữ. May mắn cho tôi, tên công an cán bộ lo xốc xáo quần áo, chăm chú lục tìm những thứ mà chúng có thể bỏ túi luôn được.
Chiếc bao cát tôi đựng mấy con mực và gói muối bột, rơi ra một bên nằm cạnh chân tôi. Lẹ chân tôi hất nhẹ vào đống đồ đã khám xong, nhờ vậy tôi giữ được bao thức ăn vợ tôi vừa tiếp tế. Hàng tuần, trại cho tù xuống bếp hâm đồ ăn một lần vào buổi trưa. Tôi cắt một đoạn mực, chừng một lóng tay, xé thật nhỏ cho vào lon ghi-gô thêm chút muối bột, đun sôi làm thành nước mắm, ăn tằn tiện thoát nổi khổ húp mắn thối mỗi bửa!
CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO.Từ môi trường sống đó, ngoài bệnh lao như đã kể trên, hầu hết là ở các cháu tù hình sự. Nhiều thứ bệnh khác thi nhau hoành hành trên thân xác người tù, nhất là bệnh kiết lỵ, loại bệnh dễ lây lan, nguy hiễm, tử vong cao.
Người bệnh, bụng đau nhói ruột co thắt, hậu môn luôn bị thúc dục đi tiêu liên tục, nhưng rất khó khăn, chỉ tiêu ra chút ít đờm giãi lẫn lộn máu tươi. Không thuốc men chửa trị, nhiều bệnh nhân kiệt sức không lê ra được khỏi nơi nằm, tiểu tiện tại chỗ, mùi hôi tanh xông lên, từng đàn ruồi nhặng vù vù bay lượn, trông phát khiếp!
Địa ngục trần gian, đại học máu, những ngôn từ dành để chỉ “ Trại Cải Tạo” dưới chế độ cộng sản, không sai chút nào! Cộng sản Bắc Việt cưởng chiếm được Miền Nam, chia người dân Miền Nam ra ba thành phần: Ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, điều tôi không bịa đặt, mà lời nói ra từ cửa miệng bọn cán bộ tuyên huấn, trong những lần tiếp xúc với tù nhân.
Một trong những đòn phép tàn độc cộng sản Hà Nội dùng để trả thù nhân dân Miền Nam là: chính sách Bao Tử. Dùng bao tử để hành hạ thân xác con người, bỏ ĐÓI con người, làm cho con người mất hết lý trí, tiêu tan ý chí kháng cự. Nhưng chúng đã lầm!
Nói đến đói trong trại tù cải tạo, thú thật, tôi viết lên điều này, xin người đọc đừng cho tôi chê trách ai đó. Nếu ai chưa chịu đựng qua cái đói trong ngục tù cải tạo, khi nghe nói đến đói, không thể có cảm nhận như người tù cải tạo đã ĐÓI! họ đơn thuần thấy cái bao tử thiếu thiếu vì lỡ một bửa cơm, hay một vài ngày phải nhịn ăn để trị bệnh. Đói trong trại cải tạo là một đòn thù ác nghiệt, có tính toán của cộng sản.
Bao tử người tù cải tạo, lúc nào cũng trống trơn, cơ trắng bao tử chà xát vào nhau, một cảm giác đau đớn không biết diễn tả thế nào cho đúng. Ăn rồi cũng như chưa ăn!, khổ cho cái bao tử cứ bị đánh lừa triền miên. Sau bửa cơm, tôi buồn tình dùng đũa, gõ vào miệng chén, ngâm nga:
Mình ngỡ những chưa ăn
ai ngờ đã ăn rồi.
Mình ngỡ những chưa ăn,
ai ngời đã ăn xong!
Ôi tấm thân tù tội ...
Khi viết bài này tôi mới biết, vô tình tôi đã đổi lời một đoạn ngắn trong bản nhạc của một nhạc sĩ ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, nhạc sĩ Trịnh CS, bài “ Tình Nhớ “ (Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng...). Lời tôi đổi, nói lên được tính dã man của con người cộng sản, mà Trịnh CS là một.
Các cháu tù hình sự, không còn lối thoát với cơn đói hoành hành thân xác. Trong những giờ làm lao động bên ngoài, các cháu vớ được bất cứ con trùng gì, như dế, châu chấu, cào cào, bọ ngựa hay cả con trùn, các cháu chỉ cần ngắt chân, lặt cánh, phủi phủi rồi đưa vào miệng ăn sống ngon lành! Gặp bửa, có cháu bắt được nhiều mồi hơn ăn tại chỗ không hết, dấu cán bộ, nhắt vào lai ống quần, tay áo, đem về trại đến đêm lén lút ăn tiếp. Ăn để mà sống qua ngày, đa số ngả bịnh, chết lai rai mỗi ngày.
Trại có một đội lao động gọi là Đội tự giác, nhân số khoảng 40, tất cả đều là các cháu tù hình sự. Được tuyển chọn từ những cháu học tập cải tạo “có tiến bộ”, sinh hoạt “có thành tích”!
Đội tự giác xử dụng khoảng 20 chiếc xe cải tiến, xe thùng có hai bánh niềng sắt. Nhận công việc làm từ cán bộ trại và được tự do ra vào trại để thi hành công tác, có công an Quản giáo giám thị, nhưng không có công an võ trang theo canh giữ. Sức khỏe các cháu Đội tự giác có phần khá hơn, nhờ những lúc chuyên chở thực phẩm từ Bộ chỉ huy trại vào khu giam tù, các cháu có cơ hội bòn tỉa được vài chút thức ăn, tuy vậy cũng không thấm đủ vào đâu, đói vẫn hoàn đói!
Những ngày không có công tác chuyên chở, đội tự giác cũng phải lao động cuốc đất trên các ruộng rẫy, nhưng các cháu Đội tự giác được đi lại dễ dãi hơn. Từ đó các cháu cử hai người đi tìm các loại rau cỏ có thể ăn được, dùng chiếc thùng lớn nấu nước để uống trong lúc làm lao động. Gần cuối giờ, cho rau vào thùng nấu chín, mang về trại chia nhau ăn, phụ thêm cho bửa cơm tù chẳng đủ vào đâu!
Mùa hè, miền rừng núi nắng cháy, rau cỏ dại không còn. Lâu lâu, gặp một vài cơn mưa giông, các vườn trồng cây mì (sắn) được bón phân xanh, gặp mưa rào đâm chồi nhanh hơn loại cây cỏ khác. Các cháu Đội tự giác vào vườn mì, hái đọt mì cho vào thùng nấu làm canh. Khoảng giữa tháng 5 năm 1981, đêm khuya đang ngủ, cửa nhà giam số 8 của chúng tôi có tiếng động mở khóa, cán bộ trực trại rọi đèn pin, bước vào gọi lớn: “Anh Khái, anh Nhu, mau theo tôi “ (tức đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái và đại tá bác sĩ Phạm Văn Nhu )
Cán bộ trực trại dẫn 2 bác sĩ qua khu tù hình sự. Chừng 15 phút sau, hai vị bác sĩ quay trở về nhà giam số 8, vào trong cửa nói lớn:
"Các cháu Đội tự giác ăn canh đọt mì, trúng độc tình trạng rất nguy kịch, xin các bạn ai còn đường, còn đậu xanh, vui lòng nhín cho một ít để chúng tôi cấp tốc cứu các cháu"
Gom góp được một ít đường đậu, hai bác sĩ vội vã quay nhanh trở lại khu giam tù hình sự. Hơn một tiếng đồng hồ sau, hai bác sĩ trở về láng, trầm buồn nói nho nhỏ:
“Cả đội tự giác chết hết rồi ! cháu Sơn ( đội trưởng) to khỏe như vậy cũng đã chết ngay, may ra còn sống được hai em, nhờ đương bị bịnh, ăn ít hơn!”
Đây đó có tiếng sụt sùi vì qúa xúc động, cảm thương cho các cháu! Tôi thực sự lại khóc khi viết đến đây.
Thật vô nhân, tàn ác, giam tù bỏ đói, bệnh hoạn không thuốc men. Gặp lúc nguy ngập như vầy, không phương tiện cứu chữa. Bác sĩ “ngụy quân” đem giam tù đã 6 năm, hai bàn tay trắng, tài nào cứu được mạng người sắp chết. Vậy mà bọn chúng cũng trơ mặt, há mồm lên tiếng kêu, cứu người.
Xế chiều ngày hôm sau, đội tù chúng tôi đang cuốc đất trên thửa ruộng cạnh ven rừng. Xa xa về hướng trại giam, chúng tôi thấy một đoàn xe cải tiến chừng hơn 15 chiếc, các cháu tù hình sự, một đứa kéo, hai đứa đẩy phía sau xe, hì hục kéo qua con đường đất đỏ dưới chân đồi. Chúng tôi đoán biết đó là đoàn xe chở thi hài 37 cháu trong Đội tự giác đã chết tối hôm qua,
Khi đoàn xe gần đến sau lưng chúng tôi, không ai bảo ai, chúng tôi tự động quay mặt về đoàn xe chở xác, bỏ cuốc xẽm xuống đất, tay dở nón mũ áp vào ngực, đứng cúi đầu. Hai công an võ trang canh gác, đứng trên bờ ruộng, ngạc nhiên hét lớn:
- Các anh làm gì vậy, làm gì vậy, tất cả làm việc đi, làm việc đi.
Mặc cho tên công an võ trang quát tháo, chúng tôi cứ tiếp tục đứng im, chờ cho đoàn xe đưa ma qua hết, chúng tôi mới trở lại làm việc. Không có lấy một chiếc quan tài, thi hài của các cháu được bó trong những chiếc chiếu, chăn mền mà các cháu đã dùng để ngủ! Hai ba thi hài chất lên một xe, đưa ra chôn ở một triền đồi, nơi đã có nhiều mộ của các cháu tù hình sự chết lai rai trước đó, tù nhân chính trị chúng tôi cũng đã có người vĩnh viễn nằm đó.
Đến nay, nghĩa địa này đã nằm sâu dưới đáy đập nước thủy điện Xuân Phước, Phú Yên!
Viết để Tưởng Niệm các bạn tù chính trị, các cháu tù hình sự đã bỏ mình trong ngục tù Xuân Phước. Chắc các bạn, các cháu đã siêu thoát về một thế giới Vĩnh Hằng. Cầu xin các bạn, các cháu hộ trì lại cho Đất Nước Việt, Dân Tộc Việt sớm thoát khỏi chế độ cộng sản tàn bạo, vô nhân!
California, Tháng Tư Đen 2012
CHS/PCT/ĐN5460
Cựu TNCT Chế Văn Thức
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
No comments:
Post a Comment