Thursday, June 6, 2013
NGUYỄN THIÊN -THỤ * CỘNG SẢN LÀ MỘT CHỦ NGHĨA THÂT BẠI
CỘNG SẢN LÀ MỘT
CHỦ NGHĨA THẤT BẠI
Cuối thế kỷ XX, nhân loại mới thấy sai lầm đổ vỡ của chủ nghĩa cộng sản, nhưng từ thời cổ, các triết gia đã nhận thức về sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản thất bại vì nhiều nguyên nhân:
1. Cộng sản là không tưởng, xa thực tế
Trong TNCS, Marx đã mơ xóa tan giai cấp, rồi tiến lên xóa tan biên cương quốc gia và quốc gia trở thành vô chánh phủ. Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo (TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN II , 5 ).
Trong quyển Hệ Tư Tưởng Đức (1845), Marx đã mơ mộng:
“Trong xã hội cộng sản, nơi không có ai bị giới hạn lĩnh vực hoạt động nhất định… xã hội điều tiết toàn bộ quá trình sản xuất và vì vậy sẽ tạo điều kiện cho tôi hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, sáng đi săn, giữa trưa đi câu cá, chiều chăn gia súc, sau bữa ăn tối thì làm phê bình - tuỳ thích – và không vì thế mà biến tôi thành thợ săn, ngư dân, người chăn nuôi hay nhà phê bình.” (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN I , 5, [1]
George Lukacs cũng theo Marx mà mộng tưởng:
Vì vậy việc loại bỏ tư hữu chính là điều kiện cần thiết của tự do chân chính. Phải giải thoát khỏi sự phụ thuộc đó thì nhân loại mới đạt đến sự tự thể hiện hoàn toàn. Phân công lao động sẽ biến mất và người ta có thể tự do chuyển từ công việc này sang công việc khác. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN I , 5, [1]
Cũng như Marx , sau này Lenin nói về sự tiêu vong của nhà nước. Milovan Djilas nhận định về quan niệm nhà nước tiêu vong của cộng sản như sau:
Điều đặc biệt là ngược lại với lí luận về sự “tiêu vong”, chức năng của nhà nước ngày càng mở rộng và phân nhánh cùng với số người tham gia vào bộ máy ngày một đông hơn. Nhận thức được rằng vai trò của bộ máy nhà nước sẽ ngày càng mở rộng và phức tạp thêm (dù xã hội đã chuyển sang giai đoạn “phi giai cấp”, giai đoạn “cộng sản), Stalin quyết định rằng nhà nước sẽ tiêu vong khi tất cả các công dân đều sẵn sàng nhận những công việc của ông ta, đạt đến trình độ của ông ta. Lenin cũng từng nói tới giai đoạn khi một bà nấu bếp cũng đảm đương vai trò quản lí nhà nước. Như chúng ta đã thấy các lí thuyết tương tự như của Stalin từng hiện diện tại Nam Tư. Nhưng không lí thuyết nào có thể san bằng được cách biệt giữa giáo điều cộng sản về nhà nước, nghĩa là sự “tiêu vong” các giai cấp và “tiêu vong” của nhà nước trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” của họ với chế độ đảng trị-toàn trị trên thực tế (GIAI CẤP MỚI IV, 16)
Nguyễn Kiến Giang đã phê bình bệnh không tưởng của cộng sản:
Hậu quả của các dự án xã hội không tưởng là rất nguy hại, nhất là khi chúng được coi là duy nhất khoa học có thể có, nghĩa là khi chúng biến thành những tín điều. [. .]. Những dự án xã hội không tưởng còn mang lại một hậu quả khác, cũng không kém nghiêm trọng: nhân danh tương lai để bắt buộc con người hy sinh hiện tại. Và khi cuộc sống hiện tại của con người bị hy sinh cho tương lai, thì chính cái tương lai ấy sẽ không bao giờ tới. Thay thế cho cái hiện tại bị hy sinh, cái tương lai không bao giờ tới là cái quá khứ mà con người muốn từ bỏ nhưng bây giờ lại chìm sâu vào đó (Suy tư 90, IX).
Người ta tưởng rằng với chủ nghĩa xã hội, tất cả những tật bệnh xã hội phát sinh dưới chủ nghĩa tư bản sẽ được khắc phục, nhất là chế độ người bóc lột người. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều tuyên bố xóa bỏ xong các giai cấp bóc lột. Nhưng kết quả là thế nào? Kết quả là chủ nghĩa xã hội vẫn không tỏ rõ được ưu thế của nó đối với chủ nghĩa tư bản. (SUY TƯ 90 * III, 3).
Những điều mà Karl Marx viết nếu không là mơ mộng thì là lừa dối. Boris Yelsin viết: "Thôi đừng nói về cộng sản nữa. Cộng sản chỉ là một ý tưởng, một cái bánh ở trên trời".brainyquote
Tổng thống Ronald Reagan nói:"Chủ nghĩa cộng sản chỉ thành công ở hai nơi: Trên thiên đàng thì không cần nó, còn địa ngục thì đã có sẵn en.wikiquote.
2. Chủ nghĩa cộng sản trái với nhân tâm.
Những khẩu hiệu của cộng sản nào là tự do, dân chủ, bình đẳng, vì dân, vì giai cấp vô sản chỉ là những lời lừa đảo. Ban đầu, một số dân chúng tin lầm, nhưng sau nhận thấy bộ mặt thật của cộng sản, họ sẽ không còn hợp tác với cộng sản nữa Nông dân thì chỉ cày cấy đủ ăn, công nhân thì lảng công, đình công. Do đó sản xuất tụt dốc. Kinh tế phải suy đồi. Không ai tích cực làm việc khi bụng đói. Không ai hăng hái làm việc cho bọn cộng sản sống phủ phê.
Chủ nghĩa cộng sản chân thực cần có ba điểm: nhân đạo, dân chủ và xã hội.
Muốn thi hành cộng sản chủ nghĩa nhân đạo thì trước htế người lãnh đạo phải có lòng nhân đức, bác ái, còn vô sản chuyên chính, sát hại hay đánh đổ tư bản và cấm tư hữu là tàn ác. Có nhân đạo thì mới có tự do và dân chủ. Độc tài hay toàn trị, độc đảng hay chuyên chính là phi dân chủ. Dưới chế độ quân chủ, người dân cũng được tôn trọng trong khi một số chế độ mang nhãn hiệu dân chủ thì độc tài, phản dân hại nước.
Còn tính xã hội là phải chú trọng nâng đỡ người nghèo, san bớt hố cách biệt xã hội. Từ đầu, cộng sản đã phi dân chủ vì cộng sản loơi dụng gia cấp đấu tranh để lợi dụng giai cấp vô sản mà chiếm quyền và hưởng lợi. Sau đó, cộng sản hành hạ, bóc lột nhân dân là đã mất tính chất xã hội chứ không cần đến khi cộng sản bỏ "bao cấp", thực hiện "tư hữu hóa". Lúc này là cộng sản trở thành giai cấp mới, giai cấp tư bản đỏ một cách công khai. Chúng cướp tài sản công và tư, chúng làm cho quốc khố cạn kiệt, kinh tế quốc gia sụp đổ vì túi tham của chúng.
Có hai bộ mặt cộng sản. Khi chưa nắm quyền thì cộng sản nhũn nhặn, lịch sự, nhưng một khi cộng sản nắm quyền thì họ trở mặt, họ công khai tàn ác bất nhân như cướp tài sản nhân dân, công khai tàn bạo như vụ Hồ Chí Minh giết bà Nguyễn Thị Năm, vụ bịt miệng linh mục Lý trước tòa, công khai đạp mặt đánh vào đầu dân chúng biểu tình chống Trung Cộng, thản nhiên hống hách và coi khinh nhân dân. Vì phản dân chủ, cộng sản đã tạo ra và để lại tham quan nhũng lại và nạn quan liêu.
Ernest Renan đã nhận định về chủ nghĩa cộng sản:"Cộng sản là trái với nhân tính"(brainyquote.com )
3.Cộng sản coi khinh trí thức.
(1). Trí thức là kẻ thù
Trên lý thuyết, cộng sản tôn trọng giai cấp vô sản, nhưng thực tế cộng sản chỉ yêu bản thân chúng, chúng không quan tâm đến quốc gia, dân tộc và giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản chỉ là cái bung xung của cộng sản, họ lợi dụng vô sản để đánh tư bản, để cướp của nhà giàu.Họ dùng danh từ vô sản vì trong thế giới dân nghèo đông hơn nhà giàu. Họ lừa bịp khi dùng danh từ vô sản vì ai cũng tưởng mình vô sản. Marx cho rằng chỉ có thợ thuyền có tay nghề gỉỏi, làm việc trong các hãng xưởng tư bản mới là công nhân ( như Đỗ Mười, Võ Chí Công) (phụ bếp như bác là không phải vô sản). Còn nông dân, trí thức, lao động cá thể, các giai cấp trung lưu đều là thành phần nếu không lưng chừng thì cũng là phản động.
Vì vậy mà thất bại kinh tế, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông đổ tội cho nông dân, trí thức, tín đồ các tôn giáo là phản động nên đã giết hại, bỏ tù họ. Lenin, Stalin, Mao ,Hồ đã đánh đuổi trí thức, và đưa nông dân và các đảng viên không kiến thức vào các chức vụ từ địa phương đến trung ương. Đây là một chính sách chung của các đảng cộng sản, và cũng là một điểm cốt yếu làm cho cộng sản thất bại. Từ khởi thủy cho đến nay, các chế độ đều coi tổ quốc là của chung mọi người, ai tài giỏi đều được tin dùng, không kỳ thị.
Chế độ quân chủ tôn trọng trí thức nên đã đưa đến cuộc cách mạng kỹ nghệ ở thế kỷ XVII-XVIII, và cách mạng kỹ nghệ đã đưa chế độ quân chủ chuyển sang tư bản, chính Marx trong Tuyên Ngôn Cộng sản đã ca ngợi thành công của tư bản. Trái lại, cộng sản thi hành chính sách Tần Thủy hoàng, đốt sách, chôn học trò thì làm sao khoa học phát triển?
Cộng sản coi khinh trí thức và tôn giáo cho nên những trí thức và nhà tu hành đi theo cộng sản là những người dại dột. Họ chài mồi trí thức và nhà tu là để tuyên truyền, lợi dụng. Những Trần Đức Thảo , Nguyễn Mạnh Tường chỉ dùng dạy học, những con tướng tá VNCH du học ở Pháp sau theo Việt Cộng về Hà Nội trong khoảng 1960-70 thì chỉ đứng ngồi chầu rìa trong ban Việt kiều.
Sau này, nhận thức tai hại này, Stalin đã phải thuê chuyên viên các nước tư bản xây dựng lại nông nghiệp, công nghiệp cho nên khoa học Liên Xô mới tiến triển. Tại Việt Nam, sau 1975, cộng sản cũng đánh đuổi, bỏ tù trí thức, họ đưa các ông trung tá, đại tá Cộng sản i tờ về làm giám đốc các ngân hàng, xí nghiệp, công ty. Họ đưa cô gái bán cà phê về thôn quê vùng kinh tế mới, và đưa cô gái quê vào thành thị làm cán bộ cửa hàng. Họ làm thế vì họ theo Nga, Tàu, và làm thế để vỗ về giai cấp vô sản, và đem lợi lộc cho những kẻ theo họ. Họ theo đường lối "hồng hơn chuyên", họ theo khẩu hiệu"muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải dùng người chủ nghĩa xã hội", là dùng người thân, người của đảng chứ không dùng người gỉỏi, cho nên thất bại là việc đương nhiên. Hơn nữa, chiếm miền Nam là chiếm một kho tàng, họ phải đuổi người Nam kỳ, cả người Nam kỳ tập kết cũng chung số phận để giành công ăn việc làm cho miền Bắc khốn khổ. Oc địa phương của người cộng sản lớn như vậy mà làm sao xây dựng một xã hội không giai cấp, một thế giới không biên cương quốc và không hận thù?
Sau 1917, Lenin thất bại kinh tế và bi dân chúng chống đối, Lenin nổi điên bắt giam, đánh đuổi nông dân ( ông gọi là kulak nghĩa là gán cho họ là nhà giàu) , và trí thức. Vì vậy nông nghiệp và công nghiệp thất bại trầm trọng, phải thuê mướn chuyên viên ngoại quốc với giá đắt, và phải nhập hàng ngoại quốc. Chuyên gia nổi tiếng là Albert Kahn người Đức đã xây dựng khoảng 521 nhà máy từ 1930-1932. Viên chức Sô Viêt ước tính sản phẩm hàng năm gia tăng 13, 9% nhưng chuyên gia Tây phương cho rằng chỉ là 5,8% hay 2,9%. Chỉ sau khi Stalin chết, kinh tế có tiến chút đỉnh. (http://en.wikipedia.org/wiki/Joseph_Stalin)
Tình trạng Việt Nam sau 1975 cũng vậy. Họ đánh đuổi kỹ sư Việt Nam Cộng hòa để giành quyền quản lý cho cán bộ đảng i, tờ như tại nhà máy thủy điện Danhim, cuối cùng phải sang nhờ Nhật Bản, Nhật Bản phải mời kỹ sư người Việt Nam trở lại Danhim.Trần Độ là cộng sản nhưng ông phản đối cái lối vô sản chuyên chính, là cách dùng người dốt cai trị người trí thức:
Nhưng rõ ràng có nhiều hiện tượng người dốt người kém lại cai trị, điều khiển người có tri thức; người không biết chuyên môn lại có quyền sai bảo dạy dỗ người có chuyên môn; người có trình độ rất thấp lại đi dạy dỗ chỉ đạo khắp nơi khắp chốn. Những hiện tượng đó là có thật, có thật rõ ràng, ai ai cũng thấy, ai ai cũng biết. TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I
(2).Tính giai cấp và tính đảng
Trong mọi hành xử, người cộng sản đều theo tính giai cấp và tính đảng. Tính đảng cao hơn tính giai cấp. Thí dụ có ba anh ăn trộm, anh cộng sản thì không bị tội hoặc chỉ xử lý nội bộ. anh con nhà quan lại thì bị án 10 năm, còn anh nông dân chỉ bị một năm. Tại Thanh Hóa thời 1945-54, bọn cộng sản cấm các bác sĩ săn sóc cho phản động, phong kiến và tư sản, vì vậy một số bác sĩ đã bỏ về thành.
4. Giáo dục thất bại
Mục đích giáo dục của thời quân chủ và tư bản là đào tạo người tài đức để phục vụ quốc gia. Còn giáo dục cộng sản thì chọn thầy giáo theo tính đảng và tính giai cấp, nghĩa là chọn thầy giáo theo lý lịch, là chọn thầy dốt, trò dốt cho nên cũng chọn chương trình kém cho hợp với thầy và học trò. Sự giáo dục này làm thoái hóa dân tộc, kìm hãm sự tiến bộ quốc gia, đồng thời tạo bất công xã hội. Nhất là thi cử khi con đảng viên một hai điểm thì được vào đại học, con em "ngụy quân ngụy quyền " và thường dân phải có điểm từ 12 đến 16 mới vào được đại học.Vào đại học nhưng khi ra trường lý lịch kém, không thân thế thì cũng như khôngChủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa thành phần là trái nguyên tắc dân tộc, dân chủ và bình đẳng, nó làm tiêu hao tiềm năng và trí tuệ dân tộc vì cộng sản loại trừ những người ưu tú của đất nước mà dùng bọn ngu dốt nịnh hót và tham tàn..
Trần Độ đã chỉ trích chủ nghĩa lý lịch, chủ nghĩa thành phần của cộng sản.
. Chương trình giáo dục thời trước là nâng cao trình độ kiến thức còn giáo dục cộng sản chỉ tạo ra những con vẹt, những người kém. Ngày nay cộng sản thấy xấu hổ khi các chính tri gia quốc tế ai cũng tiến sĩ, họ bèn cấp tốc đào tạo hàng ngàn tiến sĩ nhưng trong đó số lớn là tiến sĩ ma, tiến sĩ giấy.
Các chế độ đều có nền giáo dục nghiêm minh, các sinh viên, học sinh phải học hành thi cử khó khăn mới ra làm việc, còn cộng sản số lớn không học mà làm quan cho nên con cái họ cũng theo lối làm quan không cần học, nhưng vẫn cần danh nên học dốt vẫn lên lớp, vẫn đậu cao. Nạn quay cóp, thả phao trong phòng thi, nạn mua bán trong giáo dục đã trở thành nghiêm trọng.Một nền giáo dục như thế làm sao tạo nên một hàng ngũ trí thức tài giỏi để đưa đất nước cường thịnh?
Hậu quả của các dự án xã hội không tưởng là rất nguy hại, nhất là khi chúng được coi là duy nhất khoa học có thể có, nghĩa là khi chúng biến thành những tín điều. [. .]. Những dự án xã hội không tưởng còn mang lại một hậu quả khác, cũng không kém nghiêm trọng: nhân danh tương lai để bắt buộc con người hy sinh hiện tại. Và khi cuộc sống hiện tại của con người bị hy sinh cho tương lai, thì chính cái tương lai ấy sẽ không bao giờ tới. Thay thế cho cái hiện tại bị hy sinh, cái tương lai không bao giờ tới là cái quá khứ mà con người muốn từ bỏ nhưng bây giờ lại chìm sâu vào đó (Suy tư 90, IX).
Người ta tưởng rằng với chủ nghĩa xã hội, tất cả những tật bệnh xã hội phát sinh dưới chủ nghĩa tư bản sẽ được khắc phục, nhất là chế độ người bóc lột người. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều tuyên bố xóa bỏ xong các giai cấp bóc lột. Nhưng kết quả là thế nào? Kết quả là chủ nghĩa xã hội vẫn không tỏ rõ được ưu thế của nó đối với chủ nghĩa tư bản. (SUY TƯ 90 * III, 3).
Những điều mà Karl Marx viết nếu không là mơ mộng thì là lừa dối. Boris Yelsin viết: "Thôi đừng nói về cộng sản nữa. Cộng sản chỉ là một ý tưởng, một cái bánh ở trên trời".brainyquote
Tổng thống Ronald Reagan nói:"Chủ nghĩa cộng sản chỉ thành công ở hai nơi: Trên thiên đàng thì không cần nó, còn địa ngục thì đã có sẵn en.wikiquote.
2. Chủ nghĩa cộng sản trái với nhân tâm.
Những khẩu hiệu của cộng sản nào là tự do, dân chủ, bình đẳng, vì dân, vì giai cấp vô sản chỉ là những lời lừa đảo. Ban đầu, một số dân chúng tin lầm, nhưng sau nhận thấy bộ mặt thật của cộng sản, họ sẽ không còn hợp tác với cộng sản nữa Nông dân thì chỉ cày cấy đủ ăn, công nhân thì lảng công, đình công. Do đó sản xuất tụt dốc. Kinh tế phải suy đồi. Không ai tích cực làm việc khi bụng đói. Không ai hăng hái làm việc cho bọn cộng sản sống phủ phê.
Chủ nghĩa cộng sản chân thực cần có ba điểm: nhân đạo, dân chủ và xã hội.
Muốn thi hành cộng sản chủ nghĩa nhân đạo thì trước htế người lãnh đạo phải có lòng nhân đức, bác ái, còn vô sản chuyên chính, sát hại hay đánh đổ tư bản và cấm tư hữu là tàn ác. Có nhân đạo thì mới có tự do và dân chủ. Độc tài hay toàn trị, độc đảng hay chuyên chính là phi dân chủ. Dưới chế độ quân chủ, người dân cũng được tôn trọng trong khi một số chế độ mang nhãn hiệu dân chủ thì độc tài, phản dân hại nước.
Còn tính xã hội là phải chú trọng nâng đỡ người nghèo, san bớt hố cách biệt xã hội. Từ đầu, cộng sản đã phi dân chủ vì cộng sản loơi dụng gia cấp đấu tranh để lợi dụng giai cấp vô sản mà chiếm quyền và hưởng lợi. Sau đó, cộng sản hành hạ, bóc lột nhân dân là đã mất tính chất xã hội chứ không cần đến khi cộng sản bỏ "bao cấp", thực hiện "tư hữu hóa". Lúc này là cộng sản trở thành giai cấp mới, giai cấp tư bản đỏ một cách công khai. Chúng cướp tài sản công và tư, chúng làm cho quốc khố cạn kiệt, kinh tế quốc gia sụp đổ vì túi tham của chúng.
Có hai bộ mặt cộng sản. Khi chưa nắm quyền thì cộng sản nhũn nhặn, lịch sự, nhưng một khi cộng sản nắm quyền thì họ trở mặt, họ công khai tàn ác bất nhân như cướp tài sản nhân dân, công khai tàn bạo như vụ Hồ Chí Minh giết bà Nguyễn Thị Năm, vụ bịt miệng linh mục Lý trước tòa, công khai đạp mặt đánh vào đầu dân chúng biểu tình chống Trung Cộng, thản nhiên hống hách và coi khinh nhân dân. Vì phản dân chủ, cộng sản đã tạo ra và để lại tham quan nhũng lại và nạn quan liêu.
Trần Độ viết: "Đảng cộng sản từ một Đảng
người-giải-phóng đã trở thành một Đảng cai trị, thực hiện một nền thống trị
không dân chủ và phản dân chủ. Đảng thực hiện độc tài và toàn trị.
Hàng trăm ngàn người không
công nhận chế độ chính trị xã hội và cả đời sống nghèo khổ đã bỏ đất nước ra
đi. Đó là một hiện tượng xã hội cần được xem xét khách quan, không thể quy hết
vào âm mưu phá hoại của địch và là hành động của những phần tử phản động.
TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN II
Xu hướng quan liêu hoá, vốn là bản chất của các chế độ cộng sản, cũng là nguyên nhân dẫn tới các thất bại trong lĩnh vực kinh tế, giúp cho chế độ mau sụp đổ hoặc buộc họ chỉ giữ được cái vỏ cộng sản nhưng phải chia tay với tất cả những gì mà cái vỏ đó che đậy. Quốc hữu hoá các phương tiện sản xuất chỉ dẫn đến kết quả là đã chuyển quyền quản lí tất cả các phương tiện đó vào tay các quan chức, những người không có kiến thức quản lí và cũng chẳng có nhu cầu quản lí cho có hiệu quả. Hậu quả tất yếu sẽ là: năng suất lao động giảm.(Pipes, 156)Ernest Renan đã nhận định về chủ nghĩa cộng sản:"Cộng sản là trái với nhân tính"(brainyquote.com )
3.Cộng sản coi khinh trí thức.
(1). Trí thức là kẻ thù
Trên lý thuyết, cộng sản tôn trọng giai cấp vô sản, nhưng thực tế cộng sản chỉ yêu bản thân chúng, chúng không quan tâm đến quốc gia, dân tộc và giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản chỉ là cái bung xung của cộng sản, họ lợi dụng vô sản để đánh tư bản, để cướp của nhà giàu.Họ dùng danh từ vô sản vì trong thế giới dân nghèo đông hơn nhà giàu. Họ lừa bịp khi dùng danh từ vô sản vì ai cũng tưởng mình vô sản. Marx cho rằng chỉ có thợ thuyền có tay nghề gỉỏi, làm việc trong các hãng xưởng tư bản mới là công nhân ( như Đỗ Mười, Võ Chí Công) (phụ bếp như bác là không phải vô sản). Còn nông dân, trí thức, lao động cá thể, các giai cấp trung lưu đều là thành phần nếu không lưng chừng thì cũng là phản động.
Vì vậy mà thất bại kinh tế, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông đổ tội cho nông dân, trí thức, tín đồ các tôn giáo là phản động nên đã giết hại, bỏ tù họ. Lenin, Stalin, Mao ,Hồ đã đánh đuổi trí thức, và đưa nông dân và các đảng viên không kiến thức vào các chức vụ từ địa phương đến trung ương. Đây là một chính sách chung của các đảng cộng sản, và cũng là một điểm cốt yếu làm cho cộng sản thất bại. Từ khởi thủy cho đến nay, các chế độ đều coi tổ quốc là của chung mọi người, ai tài giỏi đều được tin dùng, không kỳ thị.
Chế độ quân chủ tôn trọng trí thức nên đã đưa đến cuộc cách mạng kỹ nghệ ở thế kỷ XVII-XVIII, và cách mạng kỹ nghệ đã đưa chế độ quân chủ chuyển sang tư bản, chính Marx trong Tuyên Ngôn Cộng sản đã ca ngợi thành công của tư bản. Trái lại, cộng sản thi hành chính sách Tần Thủy hoàng, đốt sách, chôn học trò thì làm sao khoa học phát triển?
Cộng sản coi khinh trí thức và tôn giáo cho nên những trí thức và nhà tu hành đi theo cộng sản là những người dại dột. Họ chài mồi trí thức và nhà tu là để tuyên truyền, lợi dụng. Những Trần Đức Thảo , Nguyễn Mạnh Tường chỉ dùng dạy học, những con tướng tá VNCH du học ở Pháp sau theo Việt Cộng về Hà Nội trong khoảng 1960-70 thì chỉ đứng ngồi chầu rìa trong ban Việt kiều.
Sau này, nhận thức tai hại này, Stalin đã phải thuê chuyên viên các nước tư bản xây dựng lại nông nghiệp, công nghiệp cho nên khoa học Liên Xô mới tiến triển. Tại Việt Nam, sau 1975, cộng sản cũng đánh đuổi, bỏ tù trí thức, họ đưa các ông trung tá, đại tá Cộng sản i tờ về làm giám đốc các ngân hàng, xí nghiệp, công ty. Họ đưa cô gái bán cà phê về thôn quê vùng kinh tế mới, và đưa cô gái quê vào thành thị làm cán bộ cửa hàng. Họ làm thế vì họ theo Nga, Tàu, và làm thế để vỗ về giai cấp vô sản, và đem lợi lộc cho những kẻ theo họ. Họ theo đường lối "hồng hơn chuyên", họ theo khẩu hiệu"muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải dùng người chủ nghĩa xã hội", là dùng người thân, người của đảng chứ không dùng người gỉỏi, cho nên thất bại là việc đương nhiên. Hơn nữa, chiếm miền Nam là chiếm một kho tàng, họ phải đuổi người Nam kỳ, cả người Nam kỳ tập kết cũng chung số phận để giành công ăn việc làm cho miền Bắc khốn khổ. Oc địa phương của người cộng sản lớn như vậy mà làm sao xây dựng một xã hội không giai cấp, một thế giới không biên cương quốc và không hận thù?
Sau 1917, Lenin thất bại kinh tế và bi dân chúng chống đối, Lenin nổi điên bắt giam, đánh đuổi nông dân ( ông gọi là kulak nghĩa là gán cho họ là nhà giàu) , và trí thức. Vì vậy nông nghiệp và công nghiệp thất bại trầm trọng, phải thuê mướn chuyên viên ngoại quốc với giá đắt, và phải nhập hàng ngoại quốc. Chuyên gia nổi tiếng là Albert Kahn người Đức đã xây dựng khoảng 521 nhà máy từ 1930-1932. Viên chức Sô Viêt ước tính sản phẩm hàng năm gia tăng 13, 9% nhưng chuyên gia Tây phương cho rằng chỉ là 5,8% hay 2,9%. Chỉ sau khi Stalin chết, kinh tế có tiến chút đỉnh. (http://en.wikipedia.org/wiki/Joseph_Stalin)
Tình trạng Việt Nam sau 1975 cũng vậy. Họ đánh đuổi kỹ sư Việt Nam Cộng hòa để giành quyền quản lý cho cán bộ đảng i, tờ như tại nhà máy thủy điện Danhim, cuối cùng phải sang nhờ Nhật Bản, Nhật Bản phải mời kỹ sư người Việt Nam trở lại Danhim.Trần Độ là cộng sản nhưng ông phản đối cái lối vô sản chuyên chính, là cách dùng người dốt cai trị người trí thức:
Nhưng rõ ràng có nhiều hiện tượng người dốt người kém lại cai trị, điều khiển người có tri thức; người không biết chuyên môn lại có quyền sai bảo dạy dỗ người có chuyên môn; người có trình độ rất thấp lại đi dạy dỗ chỉ đạo khắp nơi khắp chốn. Những hiện tượng đó là có thật, có thật rõ ràng, ai ai cũng thấy, ai ai cũng biết. TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I
(2).Tính giai cấp và tính đảng
Trong mọi hành xử, người cộng sản đều theo tính giai cấp và tính đảng. Tính đảng cao hơn tính giai cấp. Thí dụ có ba anh ăn trộm, anh cộng sản thì không bị tội hoặc chỉ xử lý nội bộ. anh con nhà quan lại thì bị án 10 năm, còn anh nông dân chỉ bị một năm. Tại Thanh Hóa thời 1945-54, bọn cộng sản cấm các bác sĩ săn sóc cho phản động, phong kiến và tư sản, vì vậy một số bác sĩ đã bỏ về thành.
4. Giáo dục thất bại
Mục đích giáo dục của thời quân chủ và tư bản là đào tạo người tài đức để phục vụ quốc gia. Còn giáo dục cộng sản thì chọn thầy giáo theo tính đảng và tính giai cấp, nghĩa là chọn thầy giáo theo lý lịch, là chọn thầy dốt, trò dốt cho nên cũng chọn chương trình kém cho hợp với thầy và học trò. Sự giáo dục này làm thoái hóa dân tộc, kìm hãm sự tiến bộ quốc gia, đồng thời tạo bất công xã hội. Nhất là thi cử khi con đảng viên một hai điểm thì được vào đại học, con em "ngụy quân ngụy quyền " và thường dân phải có điểm từ 12 đến 16 mới vào được đại học.Vào đại học nhưng khi ra trường lý lịch kém, không thân thế thì cũng như khôngChủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa thành phần là trái nguyên tắc dân tộc, dân chủ và bình đẳng, nó làm tiêu hao tiềm năng và trí tuệ dân tộc vì cộng sản loại trừ những người ưu tú của đất nước mà dùng bọn ngu dốt nịnh hót và tham tàn..
Trần Độ đã chỉ trích chủ nghĩa lý lịch, chủ nghĩa thành phần của cộng sản.
Rõ nhất là học thuyết về đấu
tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Học thuyết này được người vận dụng nó
đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng như “chủ nghĩa thành phần”, “chủ nghĩa công
nông”, “chủ nghĩa lý lịch” … Các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết giai cấp bị
méo mó thành bất nhân bất nghĩa. TRẦN
ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN III
. Chương trình giáo dục thời trước là nâng cao trình độ kiến thức còn giáo dục cộng sản chỉ tạo ra những con vẹt, những người kém. Ngày nay cộng sản thấy xấu hổ khi các chính tri gia quốc tế ai cũng tiến sĩ, họ bèn cấp tốc đào tạo hàng ngàn tiến sĩ nhưng trong đó số lớn là tiến sĩ ma, tiến sĩ giấy.
Các chế độ đều có nền giáo dục nghiêm minh, các sinh viên, học sinh phải học hành thi cử khó khăn mới ra làm việc, còn cộng sản số lớn không học mà làm quan cho nên con cái họ cũng theo lối làm quan không cần học, nhưng vẫn cần danh nên học dốt vẫn lên lớp, vẫn đậu cao. Nạn quay cóp, thả phao trong phòng thi, nạn mua bán trong giáo dục đã trở thành nghiêm trọng.Một nền giáo dục như thế làm sao tạo nên một hàng ngũ trí thức tài giỏi để đưa đất nước cường thịnh?
Richard Pipes viết về trình độ học vấn của đảng Cộng sản thời Lenin như sau:
Cuộc khảo
sát được thực hiện ở Liên Xô vào năm 1922 cho thấy chỉ có 0,6 phần trăm đảng
viên có bằng tốt nghiệp đại học và 6,4 phần trăm có bằng tốt nghiệp trung học.
Trên cơ sở các số liệu đó, một nhà sử học Nga đã đưa ra kết luận là 92,7 phần
trăm đảng viên không đủ kiến thức ngõ hầu thực hiện các nhiệm vụ mà đảng giao
phó (4,7 phần trăm đảng viên là người mù chữ).
Lenin đã phải cay đắng công nhận sự thật này vào năm 1921, khi ông ta hạ
lệnh tiến hành “làm trong sạch” để loại bỏ những kẻ “ăn bám”.(Pipes, 156)
Nguyễn Kiến Giang nhận định về giáo dục Việt Nam:
... do những nhiễu loạn về tâm lý xã hội trước những biến đổi lớn về định hướng nhân cách, do "thị trường hóa", "thương mại hóa" nhà trường một cách ồ ạt và những nguyên nhân khác nữa, chúng ta đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng giáo dục thật sự, khiến mọi người rất lo ngại. Người ta kiếm tiền vô tội vạ trên lưng những gia đình có con em đi học. Người ta nhồi nhét đủ thứ cần và không cần cho học sinh.
Người ta buôn bán "bằng rởm", gieo rắc thói giả dối và cả thói hối lộ vào những tâm hồn non nớt. Những chương trình học quá tải đang hành hạ trẻ em chúng ta, và đó cũng là một nguyên nhân chính đưa tới việc kiếm tiền kèm theo sự trù úm của một số không ít giáo viên bằng "học thêm, dạy thêm" với những tác hại không thể lường được.
SUY TƯ 5 * QUAN NIỆM HIỆN ĐẠI 2
Thật vậy, sau một thời gian tự hào về vô học, vô sản, khinh miệt trí thức, nay có tiền, người ta cũng cần có danh vì vậy Việt Nam trong vài năm đã có hàng chục ngàn tiến sĩ ma.
5. Thất bại kinh tế, chính trị
Cộng sản thất bại rõ rệt về kinh tế. Trong các chương trước, chúng tôi đã nói về sự thất bại kinh tế của Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông đã làm thiệt hại hàng chục triệu người ở Liên Xô và Trung Quốc. Vì thất bại kinh tế cho nên Đặng Tiểu Bình phải từ bỏ kinh tế chỉ huy mà quay sang kinh tế thị trường. Theo Richard Pipes, so sánh Nam Hàn với Bắc Hàn ta thấy Bắc Hàn lợi tức tính theo đầu người là $900 trong khi Nam Hàn là $13.000
( Pipes, 152)
Trần Độ so sánh kinh tế VNCH và kinh tế cộng sản, ông cho rằng kinh tế cộng sản là một thất bại:
Nguyễn Kiến Giang viết về kinh tế Việt Nam và thế giới:
Ông viết về sự nghèo khổ của nhân dân Việt Nam dưới chế độ cộng sản sau ngày hòa bình:"Một số người ăn tiêu xả láng, phè phỡn trên những đống của kiếm được bằng ăn cắp. Còn đại đa số dân ta, những người lao động lương thiện, ngày càng khốn khổ. Tiền lương thực tế không đủ nuôi bản thân. Hàng chục vạn vạn người “dư dôi”, thực chất là thất nghiệp. Nông dân đã kiệt quệ trong những năm “hợp tác” trước đây, tuy có khá hơn sau khi thực hiện “khoán 10”, vẫn sống nheo nhóc vì bị ăn chặn ở các khâu bán ra, mua vào (cả tư thương lẫn quốc doanh) và vì đóng góp quá sức. Trí thức không sống được bằng “chất xám”, bằng năng lực và tài năng, phải kiếm ăn bằng “tay trái”, phải “xuất khẩu lao động” để tự cứu.
SUY TƯ 3 * TIẾP CÂN THẾ GIỚI
Nguyễn Kiến Giang nhận định về kinh tế Việt cộng như sau: "Mấy chục năm noi theo “mô hình Xô Viết” kiểu Stalin (có cải biên sau đó ít nhiều), đất nước không những không tiến gần tới những lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà còn xa rời hơn. Sản xuất không hiện đại hóa được, các hoạt động kinh tế không có hiệu quả, mức sống của đại đa số dân chúng sa sút, công thêm đời sống tư tưởng và chính trị ngày càng bị siết chặt, những bất mãn xã hội ngày càng tăng, các tệ hại xã hội xảy ra sâu hơn và rộng hơn (như có người nhận xét: còn hơn cả dưới các chế độ cũ). Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện từ cuối những năm 70. SUY TƯ 31* CHỦ NGHĨA MAC LÊ 2
Nguyễn Kiến Giang nhận định về giáo dục Việt Nam:
... do những nhiễu loạn về tâm lý xã hội trước những biến đổi lớn về định hướng nhân cách, do "thị trường hóa", "thương mại hóa" nhà trường một cách ồ ạt và những nguyên nhân khác nữa, chúng ta đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng giáo dục thật sự, khiến mọi người rất lo ngại. Người ta kiếm tiền vô tội vạ trên lưng những gia đình có con em đi học. Người ta nhồi nhét đủ thứ cần và không cần cho học sinh.
Người ta buôn bán "bằng rởm", gieo rắc thói giả dối và cả thói hối lộ vào những tâm hồn non nớt. Những chương trình học quá tải đang hành hạ trẻ em chúng ta, và đó cũng là một nguyên nhân chính đưa tới việc kiếm tiền kèm theo sự trù úm của một số không ít giáo viên bằng "học thêm, dạy thêm" với những tác hại không thể lường được.
SUY TƯ 5 * QUAN NIỆM HIỆN ĐẠI 2
Thật vậy, sau một thời gian tự hào về vô học, vô sản, khinh miệt trí thức, nay có tiền, người ta cũng cần có danh vì vậy Việt Nam trong vài năm đã có hàng chục ngàn tiến sĩ ma.
5. Thất bại kinh tế, chính trị
Cộng sản thất bại rõ rệt về kinh tế. Trong các chương trước, chúng tôi đã nói về sự thất bại kinh tế của Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông đã làm thiệt hại hàng chục triệu người ở Liên Xô và Trung Quốc. Vì thất bại kinh tế cho nên Đặng Tiểu Bình phải từ bỏ kinh tế chỉ huy mà quay sang kinh tế thị trường. Theo Richard Pipes, so sánh Nam Hàn với Bắc Hàn ta thấy Bắc Hàn lợi tức tính theo đầu người là $900 trong khi Nam Hàn là $13.000
( Pipes, 152)
Trần Độ so sánh kinh tế VNCH và kinh tế cộng sản, ông cho rằng kinh tế cộng sản là một thất bại:
Hãy
nhìn lại xem: từ năm 1975 đến 1985, mười năm xây dựng xã hội chủ nghĩa trong cả
nước và nước có tên là: “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa” thì đất nước ra thế nào ?
Có phải suýt chết đói, suýt rơi xuống vực thẳm rồi không ? Thắng lợi 1975, ta
đã thu lại một nửa nước no đủ và đầy hàng hoá, thế mà ta đã phát huy thắng lợi
đó ra sao, mà đến những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước đói nghèo, ngắc ngoải. TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I
Nguyễn Kiến Giang viết về kinh tế Việt Nam và thế giới:
"Hầu hết các nước
xã hội chủ nghĩa đều tuyên bố xóa bỏ xong các giai cấp bóc lột. Nhưng kết quả
là thế nào? Kết quả là chủ nghĩa xã hội vẫn không tỏ rõ được ưu thế của nó đối
với chủ nghĩa tư bản.
SUY TƯ 3 * TIẾP CÂN THẾ GIỚIÔng viết về sự nghèo khổ của nhân dân Việt Nam dưới chế độ cộng sản sau ngày hòa bình:"Một số người ăn tiêu xả láng, phè phỡn trên những đống của kiếm được bằng ăn cắp. Còn đại đa số dân ta, những người lao động lương thiện, ngày càng khốn khổ. Tiền lương thực tế không đủ nuôi bản thân. Hàng chục vạn vạn người “dư dôi”, thực chất là thất nghiệp. Nông dân đã kiệt quệ trong những năm “hợp tác” trước đây, tuy có khá hơn sau khi thực hiện “khoán 10”, vẫn sống nheo nhóc vì bị ăn chặn ở các khâu bán ra, mua vào (cả tư thương lẫn quốc doanh) và vì đóng góp quá sức. Trí thức không sống được bằng “chất xám”, bằng năng lực và tài năng, phải kiếm ăn bằng “tay trái”, phải “xuất khẩu lao động” để tự cứu.
SUY TƯ 3 * TIẾP CÂN THẾ GIỚI
Nguyễn Kiến Giang nhận định về kinh tế Việt cộng như sau: "Mấy chục năm noi theo “mô hình Xô Viết” kiểu Stalin (có cải biên sau đó ít nhiều), đất nước không những không tiến gần tới những lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà còn xa rời hơn. Sản xuất không hiện đại hóa được, các hoạt động kinh tế không có hiệu quả, mức sống của đại đa số dân chúng sa sút, công thêm đời sống tư tưởng và chính trị ngày càng bị siết chặt, những bất mãn xã hội ngày càng tăng, các tệ hại xã hội xảy ra sâu hơn và rộng hơn (như có người nhận xét: còn hơn cả dưới các chế độ cũ). Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện từ cuối những năm 70. SUY TƯ 31* CHỦ NGHĨA MAC LÊ 2
Nguyên nhân là một xã hội tham nhũng, bất công, giai cấp mới lạm dụng quyền uy giao tài sản quốc gia cho gia đình và thủ hạ thân tín. Bọn này mặc sức lừa đảo, gian dối để cướp hàng trăm triệu, hàng tỷ đô la tiền bạc quốc gia. Vinashin, Vinalines , PMU18, Petrolimex là những bức họa đen tối của kinh tế, chính trị Việt Nam.
Nguyễn Kiến Giang viết:
"Bởi vì, ai có thể tin được những lời "giáo huấn" của những kẻ lợi dụng chức quyền để làm giàu vô tội vạ, ngồi trên những đống tài sản công khai và ngầm ẩn có thể nuôi tới mấy đời, với những khoản tiền gửi ở ngân hàng nước ngoài, những biệt thự mua sắm cũng ở nước ngoài. Tâm lý hãnh tiến, giả dối, lừa bịp, ở một mức độ nhất định, chính là bắt nguồn từ đó. Làm gì và làm thế nào để thu hẹp và xóa bỏ những bất công xã hội lồ lộ trước mắt mọi người ấy?SUY TƯ 5 * QUAN NIỆM HIỆN ĐẠI 2
Hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng được ném vào hàng loạt nhà máy xi măng "lò đứng" vừa lạc hậu vừa làm ô nhiễm môi trường. Hàng loạt nhà máy đường, nhà máy bia... không tìm được thị trường tiêu thụ. Ta chưa làm một tổng kết đầy đủ xem nền kinh tế còn yếu kém của nước ta phải gánh chịu những tổn thất ấy đến mức nào. Cách giải quyết thật dễ dãi: rút kinh nghiệm và đình chỉ.
Một vấn đề nữa cũng rất đáng quan tâm: việc mua thiết bị kỹ thuật và công nghệ nước ngoài. Theo tính toán, những thiết bị mua về phần lớn (khoảng 70%) là lạc hậu, và trong nhiều trường hợp giá mua lại rất đắt. Những hoạt động trục lợi bên trong cũng như bên ngoài (thường là có sự móc ngoặc của hai phía) đã bắt nền kinh tế nước ta, mà xét đến cùng là bắt mọi người dân phải trả. Chúng ta bị thiệt hại chung về mặt này đến mức nào, cho đến nay vẫn chưa có cơ quan nào trả lời. Đây là một lỗ hổng rất lớn của nền kinh tế quốc dân, nếu không sớm lấp đi, thì việc chuyển giao công nghệ không những không giúp ta rút ngắn được tiến trình công nghiệp hóa mà còn kéo dài tiến trình này. SUY TƯ 5 * QUAN NIỆM HIỆN ĐẠI 2
Bên cạnh những thiệt hại sinh mạng, thiệt hại về kinh tế, chủ nghĩa cộng sản còn di họa cho đời sau về tinh thần. Richard Pipes nhận xét về nước Nga như sau:
Nga là nước bị chế độ cộng sản cai trị lâu nhất và một trong những hậu
quả của nó là nhân dân mất hết lòng tin vào năng lực của chính mình. Vì
dưới chính quyền Xôviết mọi hoạt động đều phải được cấp trên chuẩn y,
còn sáng kiến thì bị coi là tội lỗi cho nên dân chúng đã đánh mất khả
năng tự quyết định, dù là việc lớn hay việc nhỏ (trừ việc phạm pháp);
người ta luôn sống trong tình trạng chờ đợi mệnh lệnh. Sau giai đoạn hồ
hởi chào đón tiến trình dân chủ hoá, người ta lại cảm thấy thiếu một bàn
tay sắt. Nhân dân không có khả năng mà cũng chẳng có ước muốn được đứng
trên hai chân của chính mình và tự quyết định lấy số phận của mình. Và
đây là thiệt hại không nhỏ mà chủ nghĩa cộng sản đã gây ra cho nhân dân
Nga cũng nhân dân các nước đã bị chế độ cộng sản thôi miên trong một
thời gian dài. Nó cũng giết chết cả sự tôn trọng đối với lao động và
tinh thần trách nhiệm trước xã hội của các công dân.(Pipes, 159)
Trích NGUYỄN THIÊN THỤ * CỘNG SẢN LUẬN
Cộng sản điên rồ mù quáng và tàn ác khi cho rằng các thuyết xã hội là tiêu cực, chỉ có Marxist là tích cực và hữu hiệu, nhưng than ôi nó đã tạo nên bao sông máu núi xương. Mikhail Gorbachev đã nhìn thấy quá khứ đau thương của nước Nga và nhân loại: Tôi sẽ là người
ngây thơ khi nghĩ rằng vấn đề gây đau khổ cho nhân loại ngày nay có thể giải
quyết bằng những phương tiện và phương pháp mà người ta đã áp dụng trong quá khứ
và tưởng là hữu hiệu. (brainyquote.com)
Chủ nghĩa cộng sản chỉ mang lại chiến tranh, đau khổ và làm cho hàng trăm triệu người chết và một xã hội điêu tàn. Đúng như thủ tướng Churchill đã nhận định:"Chủ nghĩa xã hội là một triết lý thất bại, là một tín điều ngu dốt, và là phúc âm đố kị, bản chât của nó là chia đều đau khổ(brainyquote.com )Trích NGUYỄN THIÊN THỤ * CỘNG SẢN LUẬN
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0265
GS. TƯƠNG LAI - VIỆT CỘNG, TRUNG CỘNG
S. TƯONG LAI * VIỆT NAM ! VIỆT NAM!
Bản tiếng Việt "Những Bàn Chân Nổi Giận" của GS Tương Lai trên tờ New York Times
CỠ CHỮ
07.06.2013
Nhật báo hàng đầu của Mỹ New York Times hôm 6/6 cho đăng bài xã
luận với tiêu đề "Vietnam's Angry Feet" do giáo sư Tương Lai, một giáo
sư ngành xã hội học từng làm cố vấn cho 2 thủ tướng Việt Nam từ năm 1991
đến năm 2006, viết. Xin giới thiệu đến độc giả bản tiếng Việt của bài
viết do giáo sư cung cấp.
Những Bàn Chân Nổi Giận
TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tháng trước, Tòa Án tỉnh Long An Việt Nam đã kết án nặng nề hai sinh viên yêu nước ở độ tuổi 20. Trong những tội danh bị áp đặt có tội "nói xấu Trung Quốc". Những cáo buộc này đã chạm vào điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế người Việt Nam là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Người ta phẫn nộ vì như thế là ai đó đã hợp đồng với Trung Quốc xâm lược để quay lại đàn áp người yêu nước. Bi kịch lớn nhất của một số người lãnh đạo Việt Nam là sự ám ảnh về cái gọi là "cùng chung một ý thức hệ xã hội chủ nghĩa" nên đã không quyết liệt đáp trả những thủ đoạn bành trướng nham hiểm và những hành động xâm lược ngang ngươc của Trung Quốc. Họ lại quyết liệt đàn áp những người yêu nước, bóp nghẹt dân chủ, bưng bít thông tin và khủng bố tư tưởng công dân mình. Đầu tuần này, công an Hà Nội đã đàn áp một cuộc biểu tình chống Trung Quốc và bắt nhiều người, hành hung, đánh đập họ, trong đó có cả phụ nữ.
Dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về truyền thống bất khuất, quật cường của mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước trong vị thế oái ăm, sát cạnh một láng giềng khổng lồ chưa bao giờ từ bỏ giấc mộng bành trướng nhằm nuốt chửng Việt Nam. Đất nước này đã từng chìm đắm cả nghìn năm Bắc thuộc. Trong cái đêm dài đau đớn ấy, kẻ thù luôn tìm cách đồng hóa dân tộc Việt. Và chúng đã thất bại.
Việt Nam đã từng đánh bại đế quốc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII và những kẻ xâm lược khác trong thế kỷ XV, XVIII và XX. Bản lĩnh dân tộc Việt đã được hun đúc qua những cuộc chiến tranh khốc liệt chống ngoại xâm. Nhưng hôm nay, bất chấp luật pháp quốc tế và chà đạp trên nguyên tắc và đạo lý, Trung Quốc đã ngang nhiên thực hiện mộng bành trướng trên Biển Đông, cái "lưỡi bò" ham hố và bẩn thỉu đang thè ra chực nuốt cả vùng biển rộng lớn, nơi có trữ lượng dầu mỏ đủ đáp ứng cơn khát nguyên liệu của một nền kinh tế đang cố ngoi lên vị thế siêu cường. Nơi đây cũng là con đường huyết mạch trên biển để Trung Quốc thực hiện tham vọng của họ.
Vì thế, những “bàn chân nổi giận” đã rầm rập xuống đường biểu tình chông Trung Quốc xâm lược. Cùng với những cuộc biểu tình ấy, những khiếu kiện tập thể của nông dân cũng dồn dập bùng lên. Sự nối kết giữa tầng lớp trí thức với giới trẻ ở đô thị và nông dân – những người bị đẩy vào cuộc sống đói nghèo vì mất đất sản xuất khi người ta nhân danh "sở hữu toàn dân" để tước đoạt quyền sở hữu mảnh đất cha ông họ để lại mà không được đền bù thỏa đáng. Cùng với điều đó, mạng lưới thông tin qua Internet đã trỗi lên như nấm sau cơn mưa biểu thị tinh thần yêu nước bất chấp mọi đàn áp đang đang mở ra một cục diện mới.
Sự nổi giận của người Việt Nam lại càng tăng lên khi một số những người lãnh đạo lùi bước trước những hành động tội ác của Trung Quốc xâm lược Việt Nam nhưng lại quyết liệt đàn áp người yêu nước đấu tranh đòi dân chủ và tự do. "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa " là một khái niệm rất mơ hồ, những người lãnh đạo lại dùng nó để duy trì một hệ thống chính trị đã quá lỗi thời.
Nếu không có những đổi mới ở thập niên 80, nền kinh tế tập trung có lẽ đã đưa Việt Nam đi đến bờ vực sụp đổ. Tuy nhiên, những cải cách kinh tế đó đã bị đình trệ vì không có cải cách chính trị song hành. Tuy nói rất nhiều về một nhà nước "của dân do dân và vì dân" nhưng người ta chưa bao giờ muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền và một xã hội dân sự đúng với ý nghĩa đích thực của nó.
Với cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Việt Nam đã nhận được sự đồng cảm, lòng tôn trọng và ngưỡng mộ của nhiều người yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Đáng tiếc là từ đỉnh cao của chiến thắng, người ta lại duy trì một hệ thống chính trị lạc hậu và một hệ tư tưởng giáo điều nên nền kinh tế Việt Nam đã không thể phát triển mạnh mẽ như nó cần làm và có đủ điều kiện để làm. Để rồi họ trở thành thành mục tiêu phê phán của cộng đồng quốc tế về đàn áp dân chủ và vi phạm nhân quyền.
Chính vì một số nhà lãnh đạo Việt Nam bị "cái mũ kim cô" của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán siết chặt nên đã đẩy đất nước ra khỏi quỹ đạo dân chủ để gánh chịu lạc hậu và lạc điệu so với thế giới văn minh, một thế giới mà Việt Nam đang rất cần hòa nhập để đất nước có điều kiện phát triển.
Ấy thế mà từ lâu, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội để thay thế bằng một "Chủ nghĩa tư bản mang màu sắc Trung Quốc" man rợ nhằm nuôi dưỡng mộng bành trướng của cha ông họ mà họ chưa bao giờ từ bỏ. Cho nên, cái gọi là "cùng chung thức hệ" mà ai đó đưa ra chỉ là cái bình phong che đậy cho tham vọng quyền lực, nhằm giữ bằng được cái ghế mà họ đang ngồi. Những ngôn từ đạo đức giả được đưa ra, rồi mười sáu chữ bịp bợm về "láng giềng hữu nghị" được tung hứng chỉ là trò khôi hài.
Nhằm bảo vệ cái ghế quyền lực của một số người đang giành được những vị thế quan trọng, để củng cố và mở rộng những lợi ích béo bở của mình, người ta đang quay lưng lại với nhân dân. Một số trí thức và nhân sĩ, trong đó có người viết bài này, đã đưa ra hàng loạt kiến nghị về thực thi dân chủ và nhân quyền trong Hiến pháp nhằm hướng tới việc tạo ra một hệ thống chính trị thực sự dân chủ. Tuy nhiên, đề xuất của chúng tôi đã gặp phải những lời lăng mạ và vu khống trên các tờ báo chính thống được chỉ đạo sát sao.
Người ta đã không thấy được rằng, một khi phong trào yêu nước chống ngoại xâm gắn kết được với cuộc đấu tranh dân chủ và thực hiện quyền con người đã được ghi vào trong Hiến pháp, sẽ đẩy tới những bước hợp trội trong sự phát triển, tạo ta những đột phá không lường trước được, hình thành một cục diện mới, đưa đât nước đi lên.
Cho nên, càng sử dụng bạo lực và đàn áp, càng cho thấy sự phi dân chủ, vô nhân tính của những người sử dụng nó.
Người lãnh đạo nắm bắt được cục diện mới, nhanh nhạy đáp ứng được lợi ích dân tộc, đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết và trước hết, sẽ nhận được hậu thuẫn mạnh mẽ của dân và sự đồng tình của bạn bè quốc tế.
Ngược lại, nếu tiếp tục quay lưng lại với dân, nấp dưới chiêu bài ý thức hệ đã lỗi thời, bám chặt mô hình toàn trị phản dân chủ, chỉ cốt giữ cho được cái ghế quyền lực đã rệu rã và đưa đất nước vào ngõ cụt không lối thoát, thì sự cáo chung là điều không thể tránh khỏi.
Giáo sư Tương Lai: Lãnh đạo Việt Nam quá quỳ lụy Trung Quốc
07.06.2013
Chúng tôi là những người yêu nước. Chúng tôi thấy hành động gây
hấn, khiêu khích của nhà cầm quyền Trung Quốc là một nguy cơ lớn đối với
nền độc lập dân tộc vì chủ quyền lãnh thổ-lãnh hải quốc gia đang bị đe
dọa nghiêm trọng. Là một người yêu nước không thể nào ngồi yên trước
hành động xâm lược của Trung Quốc...
Giáo sự Tương Lai
Một chuyên gia cố vấn cho hai đời Thủ tướng tại Việt Nam nhận định
giới lãnh đạo Việt Nam đã trở nên quá quỳ lụy Trung Quốc, rơi ra khỏi
quỹ đạo dân chủ và tụt hậu sau lưng các nước còn lại trên thế giới, một
thế giới mà Việt Nam hiện đang rất cần phải hội nhập để có thể tăng
trưởng và phát triển.
Trong bài bình luận đăng trên nhật báo The New York Times của Mỹ ngày
7/6, Giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương), một nhà nghiên cứu xã hội
học-văn hóa được nhiều người biết đến, đã mạnh mẽ phê phán nhà cầm quyền
Việt Nam đàn áp dân chúng trong các cuộc biểu tình yêu nước và nhu
nhược trước sự xâm lấn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bấm vào đây để nghe bài tường trình
Tác giả bài viết, người từng cố vấn cho cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, nói rằng bi kịch lớn nhất của Việt Nam chính là ảo tưởng về một hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thường được nhà nước viện cớ để dung chấp chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc, để trấn áp dân chủ, kiểm duyệt - bịt chặn thông tin, và khủng bố tinh thần của người dân.
Theo giáo sư Tương Lai, các bản án nặng nề dành cho hai sinh viên yêu nước Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên hồi tháng trước với các cáo buộc tội “nói xấu Trung Quốc” đã chạm tới tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc của người dân Việt Nam và phơi bày sự thông đồng mờ ám của chính quyền với những kẻ ngoại bang xâm lược.
Bài bình luận viết rằng trước âm mưu nuốt chửng Biển Đông bằng bản đồ đường lưỡi bò đầy tham vọng của Trung Quốc, các bước chân nổi giận của người dân Việt Nam đã bất chấp sự đàn áp, cùng nhau xuống đường bày tỏ lòng yêu nước trong các cuộc tuần hành quy tụ từ giới trí thức, giới trẻ thành thị đến những người dân oan, những người nông dân bị bần cùng hóa bởi chính sách nhà nước tịch thu đất đai mà không đền bù thỏa đáng.
Tác giả nói sự căm phẫn của người dân trỗi dậy giữa lúc các nhà lãnh đạo Việt Nam đang tự phơi bày sự nhút nhát, yếu hèn trước Trung Quốc xâm lược.
Trong một cuộc phỏng vấn trước đây với VOA Việt ngữ, giáo sư Tương Lai nhấn mạnh:
“Chúng tôi là những người yêu nước. Chúng tôi thấy hành động gây hấn, khiêu khích của nhà cầm quyền Trung Quốc là một nguy cơ lớn đối với nền độc lập dân tộc vì chủ quyền lãnh thổ-lãnh hải quốc gia đang bị đe dọa nghiêm trọng. Là một người yêu nước không thể nào ngồi yên trước hành động xâm lược của Trung Quốc. Cho nên, chúng tôi phải lên tiếng.”
Giáo sư Tương Lai cho rằng cải cách kinh tế của Việt Nam bị ngăn trở bởi không đi kèm với cải cách chính trị. Theo ông, các lãnh đạo Việt Nam chưa bao giờ xây dựng được một nhà nước pháp quyền và một xã hội dân sự thực thụ.
Vẫn theo nhà nghiên cứu này, vì cố duy trì một hệ thống chính trị suy tàn và một hệ tư tưởng giáo điều, vận mệnh kinh tế của Việt Nam bị suy sụp và chính phủ Việt Nam tự biến mình thành mục tiêu bị quốc tế chỉ trích vì đàn áp dân chủ và các vi phạm về nhân quyền.
Tác giả tố cáo giới lãnh đạo Việt Nam đã quay lưng lại với nhân dân Việt Nam. Giáo sư Tương Lai nói ông cùng với một số trí thức đã từng đệ trình rất nhiều thỉnh nguyện thư kêu gọi bảo vệ nhân quyền và dân chủ, nhưng các đề nghị đó đều bị đáp trả bằng sự thóa mạ, phỉ báng từ truyền thông của nhà nước.
Nhà xã hội học Tương Lai kêu gọi lãnh đạo Việt Nam cần phải công nhận sức mạnh hợp quần của các cuộc biểu tình yêu nước trước sự xâm lấn của ngoại bang và rằng nhu cầu về dân chủ và nhân quyền sẽ dẫn tới những thay đổi ngoạn mục, khó lường trước được.
Ông khuyến cáo rằng nhà nước Việt Nam càng sử dụng bạo lực và đàn áp bao nhiêu thì càng phơi bày sự tàn bạo của chính họ bấy nhiêu.
Bài báo đăng trên nhật báo The New York Times
Giáo sư Tương Lai khẳng định:
“Chúng tôi làm tất cả những việc này là để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh
ngoại giao mà nhà nước đang tiến hành. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng
không có lý do nào để nhà cầm quyền bất bình với việc làm hết sức quan
minh, chính đại và chính đáng của chúng tôi. Đáng lý chính quyền, trong
khi phản đối hành vi ngang ngược của Trung Quốc qua đường ngoại giao,
phải rất tán thành hành vi phản đối quyết liệt từ dân. Bởi vì tin vào
dân, dựa vào dân mới có sức mạnh để đấu tranh với những hành động ngang
ngược, hiếu chiến ấy chứ!”
Giáo sư Tương Lai nói một người lãnh đạo hiểu thấu đáo việc này, nhanh
chóng hồi đáp nguyện vọng của người dân, và đặt lợi ích quốc gia lên
trên tất cả sẽ được sự ủng hộ của quần chúng và sự đồng cảm của bạn bè
quốc tế.
Bài viết của giáo sư Tương Lai trên nhật báo The New York Times kết thúc
bằng lời cảnh báo rằng sự suy tàn của nhà cầm quyền Việt Nam là điều
khó tránh khỏi nếu họ quay lưng lại với người dân, cố chấp duy trì mô
thức quản trị phản dân chủ, và đưa đất nước vào con đường tăm tối không
lối thoát
TIN TỨC XA GẦN
Sỹ quan cốt cán VN sang TQ tập huấn
Cập nhật: 05:40 GMT - thứ sáu, 7 tháng 6, 2013
Tin cho hay 22 cán bộ
chính trị cao cấp thuộc diện cốt cán của quân đội Việt Nam
vừa lên đường sang tập huấn nửa tháng ở Trung Quốc.
Báo Quân đội Nhân dân nói số cán bộ này
bao gồm các "tướng lĩnh, sỹ quan cấp cao là cán bộ chủ trì công tác
Đảng, công tác chính trị tại các đơn vị cấp chiến lược, chiến dịch toàn
quân".Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Nói ngắn gọn, đây là đại diện cho cấp lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tương lai gần.
Theo báo quân đội, đoàn cán bộ này rời
Hà Nội hôm 6/6 và sẽ tập huấn ở Học viện Chính trị Tây An,
Trung Quốc, trong 15 ngày theo khuôn khổ Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung
ương và thỏa thuận hợp tác quốc phòng giữa hai nước.
Từ năm 2009 đến nay, đây là đoàn cán bộ quân đội thứ sáu được cử sang tập huấn tại Trung Quốc.
Được biết, các cán bộ chính trị này sẽ tập
trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác Đảng và
công tác chính trị của quân đội Trung Quốc.
Gìn giữ hòa bình
Một đoàn cao cấp khác của quân đội Việt Nam, do Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng, dẩn đầu cũng vừa kết thúc chuyến thăm Trung Quốc.Ông Vịnh đồng chủ trì cuộc đối thoại chiến lược quốc phòng Việt-Trung lần thứ tư với Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Thích Kiến Quốc.
Trung tướng Thích Kiến Quốc là cựu chiến binh cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, mới được bổ nhiệm chức phó tổng tham mưu trưởng hồi tháng 10/2012.
Sáng thứ Năm 6/6, ông Nguyễn Chí Vịnh đã tới chào xã giao Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn.
Trong cuộc gặp, ông Vịnh đã bày tỏ quan
tâm của phía Việt Nam tới hoạt động gìn giữ hòa bình của quân
đội Trung Quốc.
Đoàn đại biểu quốc phòng Việt Nam cũng đã đi thăm Trung tâm Gìn giữ Hòa bình thuộc Bộ quốc phòng Trung Quốc hôm 5/6.
Việt Nam đang chuẩn bị tham gia lực lượng gìn
giữ hòa bình của LHQ lần đầu tiên, chủ yếu trong lĩnh vực quân y
và công binh, hậu cần.
Trong khi đó Trung Quốc đã tham gia lực lượng
gìn giữ hòa bình LHQ từ đầu thập niên 1990 với tổng cộng 23.000 lượt
quân có mặt trong các hoạt động ở nước ngoài.
Nước này hiện đang có hơn 1.700 quân tham gia gìn giữ hòa bình ở các nơi trên thế giới.
Tập Cận Bình còn gặp Obama nhiều
Cập nhật: 16:17 GMT - thứ sáu, 7 tháng 6, 2013
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Đây vẫn chỉ là những ngày đầu trong nhiệm kỳ mới của ông Tập, và các lãnh đạo Trung Quốc vẫn nổi tiếng là khó đoán. Dù beef ngoài có vẻ dễ ưa, ông Tập cho thấy đoán ra ý các lãnh đạo Trung Quốc là chuyện hết sức khó khăn.
Dù có vẻ dễ gần, ông Tập đã cho thấy xu hướng dễ gây căng thẳng và để cho căng thẳng tiếp tục với các nước láng giềng trong vùng biển Nam Trung Hoa.
Tuy thế, Lord Powell (nhà ngoại giao kỳ cựu thời Thatcher) đã gặp ông Tập nói ông là một nhà lãnh đạo chân thực:
"Điều gây ra ấn tượng ngay là sự tự tin cao của ông ta. Ông ta giống mẫu người như Đặng Tiểu Bình hơn là Hồ Cẩm Đào, mà lại không có tính lập dị kiểu như Giang Trạch Dân. Ông ra có khiếu lãnh đạo và uy tín tự nhiên."
...Hai nhà lãnh đạo đều đang phải chịu sức ép lớn từ trong nước: Ông Tập phải tỏ ra là ông sẽ không chịu để Hoa Kỳ kiềm chế Trung Quốc, hay coi một công dân hạng hai. Ông Obama thì phải tỏ ra là ông tấn công Trung Quốc mạnh mẽ về chuyện tội phạm trên mạng và bệnh bảo hộ mậu dịch.
Christopher K. Johnsontừ Viện nghiên cứu CSIS:
Chủ tịch Tập vì còn phải xác định vị thế lãnh đạo nên đang gặp rủi ro chính trị nhiều hơn. Ông ta củng cố quyền lực nhanh hơn dự đoán của nhiều nhà quan sát nhưng cũng vì thế, ông lại càng phải tỏ ra rằng ông là người cầm lái chắc tay cho Trung Quốc trong quan hệ song phương với Hoa Kỳ.
"Ông Tập Cận Bình thoải mái hơn người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào vốn không mấy khi cười. Giới ngoại giao Mỹ nói ông Hồ đã từ chối lời mời của ông George W Bush đến thăm trang trại gia đình ông ở Texas, mà chỉ muốn đến gặp một cách chính thức tại Tòa Bạch Ốc."
Phóng viên BBC ở Bắc Kinh, Celia Harton
Phóng viên BBC Celia Hatton từ Bắc Kinh:
Ông Tập Cận Bình thoải mái hơn người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào vốn không mấy khi cười. Giới ngoại giao Mỹ nói ông Hồ đã từ chối lời mời của ông George W Bush đến thăm trang trại gia đình ông ở Texas, mà chỉ muốn đến gặp một cách chính thức tại Tòa Bạch Ốc.”
Trái lại, trong một số cuộc gặp với quan chức cao cấp của Hoa Kỳ, ông Tập đã bỏ luôn cả nghị trình dựng sẵn của cố vấn để nói chuyện trực tiếp.
Trại Rancho Mirage được chọn chính là vì nó phù hợp cho dạng gặp gỡ này. Hai ông Tập Cận Bình và Obama sẽ có nhiều cơ hội nhìn lại các khác biệt chính trị khi gặp nhau trong các nhóm nhỏ lúc ăn tối hoặc khi đi dạo trong khu vực 200 hectare.
Hai nhà lãnh đạo có nhiều lý do để lập ra mối giao hảo. Hai ông Tập Cận Bình và Obama đã có lịch gặp nhau thêm ba lần nữa chỉ trong năm 2013.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/06/130607_obama_xi_jinping_meeting.shtml
Giấc mơ Trung Hoa của ông Tập Cận Bình
Martin Patience
Phóng viên BBC ở Bắc Kinh
Cập nhật: 08:42 GMT - thứ năm, 6 tháng 6, 2013
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trong những tháng gần đây, truyền thông chính phủ Trung Quốc đã tiến hành một loạt đợt tuyên truyền tán dương khẩu hiệu của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Khẩu hiệu này không khi nào vắng mặt trên báo chí.
Các 'bức tường mơ ước' được dựng lên ở một số trường, đại học, và sinh viên được khuyến khích viết lên ước mơ của mình.
Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc - cơ quan nghiên cứu hàng đầu ở nước này, cũng đã đề xuất việc nghiên cứu giấc mơ Trung Quốc.
Khẩu hiệu này cũng đã khơi nguồn cảm hứng cho một bài hát có vị trí cao trên bảng xếp hạng.
Trong thế giới bí ẩn của chính trị Trung Quốc, những câu khẩu hiệu đóng vai trò quan trọng. Chúng là những từ ngữ thể hiện cách nhìn của một nhà lãnh đạo về tương lai đất nước.
Khi chúng ta so sánh 'Trung Quốc Mộng' của ông Tập với các khẩu hiệu của những người tiền nhiệm như thuyết 'Ba Đại diện', rõ ràng là khẩu hiệu của ông này nghe lôi cuốn hơn.
Trẻ hóa
Tuy nhiên, Trung Quốc Mộng thực sự có nghĩa là gì? Ông Tập đã nhắc đến điều này lần đầu tiên hồi tháng 11 năm 2012, khi ông được đề cử vào vị trí cao nhất trong Đảng Cộng sản.Trận chiến tuyên truyền bắt đầu chính thức từ khi ông trở thành Chủ tịch nước vào năm 2013. Ông Tập đã sử dụng thuật ngữ này nhiều lần trong bài diễn văn trước toàn quốc với tư cách nguyên thủ quốc gia vào ngày 17 tháng Ba.
"Giấc mơ của Chủ tịch Tập Cận Bình là một quốc gia mạnh mẽ hơn với quân đội hùng mạnh."
Lưu Minh Phúc, cựu đại tá quân đội Trung Quốc
"Để thực hiện được giấc mơ Trung Hoa, chúng ta phải cổ súy tinh thần Trung Quốc, vốn lấy sự kết hợp tinh thần dân tộc với lòng yêu nước; tinh thần của thời đại với cải cách và sự sáng tạo làm gốc" ông nói.
Tuy nhiên ông không nói rõ cụ thể làm sao để đạt được giấc mơ này.
Lưu Minh Phúc, một cựu đại tá quân đội Trung Quốc, tin rằng ông biết làm sao để thực hiện ý tưởng của ông Tập tốt hơn cả.
Ông Lưu đã cho ra một cuốn sách với tên gọi: "Trung Quốc Mộng: Tư duy đại cường quốc và vị thế chiến lược trong thời đại hậu Mỹ" hồi năm 2010.
Kể từ khi ông Tập bắt đầu dùng khẩu hiệu này, sách của ông Lưu bắt đầu bán đắt như tôm tươi. Ông không cho biết cụ thể đã bán được bao nhiêu sách, nhưng chỉ cần nhìn nụ cười trên khuôn mặt ông này cũng biết sách đang bán khá tốt.
Tác giả cuốn sách tin rằng vị lãnh đạo mới của Trung Quốc chia sẻ giấc mơ của ông - biến Trung Quốc thành cường quốc đứng đầu thế giới.
"Kể từ thế kỷ 19, Trung Quốc đã bắt đầu tụt lùi trên trường quốc tế," ông Lưu nói.
"Giấc mơ của Chủ tịch Tập Cận Bình là về một quốc gia mạnh mẽ hơn với quân đội hùng mạnh."
Và thật khó để mà bỏ mặc ý nghĩa tượng trưng của nơi mà ông Tập chọn để nói lên khẩu hiệu này lần đầu tiên.
Ông dùng buổi triễn lãm "Đường tới phục hưng" ở Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc để nhắn gửi thông điệp của mình tới các lãnh đạo cao cấp.
Buổi triễn lãm là nơi trưng bày về nỗi đau của người Trung Quốc trong thời kỳ bị cai trị bởi các cường quốc phương Tây vào thế kỷ 19 và 20 cũng như tiến trình phục hồi của nước này dưới sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản.
Năm ngoái, Trung Quốc đã cho ra đời hàng không mẫu hạm đầu tiên - biểu tượng cho nguyện vọng vươn lên của nước này. Tuy nhiên sự phát triển quân sự của Trung Quốc cũng đang khiến các nước láng giềng lo ngại.
Trung Quốc hiện đang dính líu đến nhiều vụ tranh chấp chủ quyền lãnh hải trong khu vực.
Thu hút số đông
Điều này có vẻ như có thể thấy được trong một chuyến thăm trường cũ của ông Tập, Đại học Thanh Hoa danh giá.
"Đối với sinh viên, Trung Quốc Mộng có lẽ là học hành chăm chỉ," một sinh viên ngành khoa học tại đây nói.
"Tuy nhiên tôi nghĩ là bản chất giấc mơ là giống
nhau: Mỗi người Trung Quốc phải làm một điều gì đó cho đất nước mình.
Tôi muốn là một giáo sư trong tương lai. Tôi muốn cống hiến cho ngành
giáo dục."
Những người khác thì tỏ vẻ kém lạc quan hơn về
Trung Quốc Mộng. Họ xem đây là chiến dịch tuyên truyền của Đảng Cộng sản
nhằm chiếm được cảm tình của công chúng. Rõ ràng điều này diễn ra trong
lúc khó khăn ngày càng chồng chất đối với tầng lớp lãnh đạo.
Nền kinh tế đang đình trệ và ngày càng có nhiều
sinh viên tốt nghiệp đại học không kiếm được việc làm. Hiện cũng ngày
càng có nhiều phẫn uất trước vấn đề tham nhũng và ô nhiễm môi trường.
Mặc dù Trung Quốc Mộng không được định nghĩa rõ ràng, những người nắm quyền lực biết rõ những gì mà nó loại trừ, không bao gồm.
Vào đầu năm nay, những cuộc biểu tình hiếm hoi
đã xảy ra tại một trong những tờ báo có tầm ảnh hưởng lớn nhất Trung
Quốc sau khi chính quyền kiểm duyệt bài viết trên trang nhất của tờ báo
về Trung Quốc Mộng, trong đó có đoạn kêu gọi thực thi quy tắc pháp luật.
Một trong những cây bút và blogger nổi tiếng
nhất của Trung Quốc, ông Lý Thành Bành nói vấn đề của Trung Quốc Mộng,
đó là nó không đề cập đến những vấn đề chính đang tồn tại.
"Chúng tôi không thể để cập đến những giá trị
phổ thông hay hệ thống tư pháp độc lập," ông nói. "Chúng tôi không thể
nói về hệ thống dân chủ đa đảng. Những gì chúng tôi cần không phải là
một giấc mơ thần kỳ, mà là những chính trị gia tài giỏi."
Điều này cho chúng ta thấy thách thức mà Đảng
Cộng sản đang phải đối mặt. Sử dụng chủ nghĩa dân tộc, tất nhiên là một
công cụ hữu hiệu nhất nhằm mang lại sự thống nhất trong toàn dân.
Tuy nhiên Trung Quốc Mộng hoàn toàn có thể là dấu hiệu cho thấy ông Tập lo rằng thời kỳ khó khăn đang chờ đợi phía trước.
- Google+
- http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/06/130606_xi_jiping_china_dream.shtml
Đường Lưỡi Bò: Mưu toan chiếm đoạt lãnh thổ lớn nhất từ khi thế chiến thứ 2 chấm dứt
Tin liên hệ
07.06.2013
Một nhật báo lớn ở Mỹ mới đây cho biết cơ quan ấn loát bản đồ Trung
Quốc đã in một bản đồ mới, trong đó 80% diện tích Biển Đông được vẽ là
lãnh thổ của Trung Quốc. Các nhà quan sát cho rằng đây là bước đi mới
trong kế hoạch thôn tính Biển Đông của nhà cầm quyền ở Bắc Kinh mà họ
gọi là “mưu toan chiếm đoạt lãnh thổ lơn nhất kể từ khi thế chiến thứ
hai chấm dứt.”
Trong bài tường thuật hôm mồng một tháng 6 về những phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel tại hội nghị Shangri-La ở Singapore, phóng viên Jane Perlez của tờ New York Times cho biết nhiều nhà ngoại giao của các nước đồng minh của Mỹ ở Á châu đã bày tỏ sự quan tâm đối với một tấm bản đồ mới về Biển Đông mà cơ quan ấn loát bản đồ của Trung Quốc đã in hồi gần đây.
Theo các nhà ngoại giao đã xem tấm bản đồ mới của Nhà Xuất bản Địa đồ Trung Quốc, đường 9 chín đoạn đứt khúc, thường được gọi là đường lưỡi bò, đã được chính phủ Trung Quốc xác định lại là đường ranh giới quốc gia.
Đường lưỡi bò, bao phủ khoảng 80% diện tích Biển Đông, được chính phủ Trung Quốc vẽ ra lần đầu tiên vào năm 1947 trước khi phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch bỏ chạy sang Đài Loan năm 1949 sau khi bị phe Cộng Sản của Mao Trạch Đông đánh bại.
Tuy đường ranh trên biển này không được một nước nào khác trên thế giới công nhận, cả hai chính phủ hiện nay ở Bắc Kinh và Đài Bắc đều cho rằng những hòn đảo nhỏ và những bãi cạn bên trong đường ranh này là thuộc về Trung Quốc.
Trong bài tường thuật hôm mồng một tháng 6 về những phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel tại hội nghị Shangri-La ở Singapore, phóng viên Jane Perlez của tờ New York Times cho biết nhiều nhà ngoại giao của các nước đồng minh của Mỹ ở Á châu đã bày tỏ sự quan tâm đối với một tấm bản đồ mới về Biển Đông mà cơ quan ấn loát bản đồ của Trung Quốc đã in hồi gần đây.
Theo các nhà ngoại giao đã xem tấm bản đồ mới của Nhà Xuất bản Địa đồ Trung Quốc, đường 9 chín đoạn đứt khúc, thường được gọi là đường lưỡi bò, đã được chính phủ Trung Quốc xác định lại là đường ranh giới quốc gia.
Đường lưỡi bò, bao phủ khoảng 80% diện tích Biển Đông, được chính phủ Trung Quốc vẽ ra lần đầu tiên vào năm 1947 trước khi phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch bỏ chạy sang Đài Loan năm 1949 sau khi bị phe Cộng Sản của Mao Trạch Đông đánh bại.
Tuy đường ranh trên biển này không được một nước nào khác trên thế giới công nhận, cả hai chính phủ hiện nay ở Bắc Kinh và Đài Bắc đều cho rằng những hòn đảo nhỏ và những bãi cạn bên trong đường ranh này là thuộc về Trung Quốc.
Trong bản phúc trình nộp cho quốc hội hồi tháng 5 vừa qua, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nói rằng những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc không phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây là công ước mà Trung Quốc đã ký kết năm 1996.
Theo bài báo của tờ New York Times, các nhà ngoại giao Á châu cho biết
bản đồ mới đã in xong hồi cuối năm 2012 nhưng việc công bố đã được hoãn
lại để chờ sự phê duyệt chính thức của các nhà lãnh đạo cấp cao.
Bài báo cũng trích lời ông Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam hải của Trung Quốc, nói rằng bản đồ mới không có mục đích chứng tỏ ranh giới quốc gia mà chỉ thể hiện những đường cơ sở mới xung quanh những hòn đảo mà Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản ở Biển Đông Trung Hoa.
Ông Ngô nói thêm rằng cần có bản đồ mới vì trong 20 năm nay không có một bản đồ chính thức nào về Biển Nam Trung Hoa và Biển Đông Trung Hoa.
Các nhà quan sát cho rằng việc in bản đồ mới với đường lưỡi bò là ranh giới quốc gia, sau khi đã cho in đường này trong hộ chiếu hồi năm ngoái, là một bước tiến khác nữa trong mưu toan của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông.
Trong bài viết đăng hôm mồng 4 tháng 6 trên trang mạng Forbes.com, ông Trương Gia Đôn (Gordon Chang), một nhà phân tích tình hình Trung Quốc, nói rằng đây là âm mưu chiếm đoạt lãnh thổ lớn nhất kể từ thế chiến thứ hai.
Tác giả cuốn “Sự Sụp Đổ Sắp Diễn Ra Của Trung Quốc” (The Coming Collapse of China) nói, “… Bản đồ mới của Bắc Kinh loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào về việc chuyển đổi những đường đứt khúc này thành một đường ranh giới quốc gia. Tất cả những hòn đảo và những vùng biển bên trong lằn ranh, vì thế, là thuộc về Trung Quốc, ít nhất là theo quan điểm của Trung Quốc.”
Ông Trương Gia Đôn cho rằng tuy yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển bên trong đường lưỡi bò không nhất thiết có nghĩa là họ sẽ ngăn cấm hoạt động thương mại quốc tế ở Biển Đông, nhưng đó sẽ là bước kế tiếp.
Ông nói thêm rằng vì Trung Quốc có quan điểm cực kỳ rộng rãi về quyền quản lý lưu thông ven biển, nên chắc chắn là họ sẽ đưa ra một định nghĩa hạn hẹp về khái niệm “quyền qua lại vô hại” (innocent passage) và sẽ đòi hỏi tàu thuyền đi vào vùng biển này phải xin phép trước và sẽ có đòi hỏi tương tự đối với các máy bay bay ngang qua.
Trong khi đó, báo chí do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam tiếp tục lên tiếng đả kích điều mà họ cho là tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, mặc dù hôm chủ nhật vừa qua chính quyền đã bắt giữ mấy mươi người tham gia cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội.
http://www.voatiengviet.com/content/duong-luoi-bo-muu-toan-chiem-doat-lanh-tho/1677551.htmlBài báo cũng trích lời ông Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam hải của Trung Quốc, nói rằng bản đồ mới không có mục đích chứng tỏ ranh giới quốc gia mà chỉ thể hiện những đường cơ sở mới xung quanh những hòn đảo mà Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản ở Biển Đông Trung Hoa.
Ông Ngô nói thêm rằng cần có bản đồ mới vì trong 20 năm nay không có một bản đồ chính thức nào về Biển Nam Trung Hoa và Biển Đông Trung Hoa.
Các nhà quan sát cho rằng việc in bản đồ mới với đường lưỡi bò là ranh giới quốc gia, sau khi đã cho in đường này trong hộ chiếu hồi năm ngoái, là một bước tiến khác nữa trong mưu toan của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông.
Trong bài viết đăng hôm mồng 4 tháng 6 trên trang mạng Forbes.com, ông Trương Gia Đôn (Gordon Chang), một nhà phân tích tình hình Trung Quốc, nói rằng đây là âm mưu chiếm đoạt lãnh thổ lớn nhất kể từ thế chiến thứ hai.
Tác giả cuốn “Sự Sụp Đổ Sắp Diễn Ra Của Trung Quốc” (The Coming Collapse of China) nói, “… Bản đồ mới của Bắc Kinh loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào về việc chuyển đổi những đường đứt khúc này thành một đường ranh giới quốc gia. Tất cả những hòn đảo và những vùng biển bên trong lằn ranh, vì thế, là thuộc về Trung Quốc, ít nhất là theo quan điểm của Trung Quốc.”
Ông Trương Gia Đôn cho rằng tuy yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển bên trong đường lưỡi bò không nhất thiết có nghĩa là họ sẽ ngăn cấm hoạt động thương mại quốc tế ở Biển Đông, nhưng đó sẽ là bước kế tiếp.
Ông nói thêm rằng vì Trung Quốc có quan điểm cực kỳ rộng rãi về quyền quản lý lưu thông ven biển, nên chắc chắn là họ sẽ đưa ra một định nghĩa hạn hẹp về khái niệm “quyền qua lại vô hại” (innocent passage) và sẽ đòi hỏi tàu thuyền đi vào vùng biển này phải xin phép trước và sẽ có đòi hỏi tương tự đối với các máy bay bay ngang qua.
Trong khi đó, báo chí do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam tiếp tục lên tiếng đả kích điều mà họ cho là tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, mặc dù hôm chủ nhật vừa qua chính quyền đã bắt giữ mấy mươi người tham gia cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội.
Hôm thứ 6 (ngày 7 tháng 6), tờ Thanh Niên cho đăng bài phỏng vấn Tiến sĩ
Chu Hồi, trong đó người từng giữ chức Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển
và hải đảo Việt Nam nói rằng “Trung Quốc đang thực thi các gói kịch bản
trong ý đồ độc chiếm Biển Đông để đạt ‘giấc mơ Trung Quốc’ mà hậu nhiệm
đã hứa với tiền nhiệm.”
Ông Chu Hồi cho biết sau khi đưa ra công bố pháp lý về điều mà ông gọi là “yêu sách phi lý về cái gọi là đường lưỡi bò đứt khúc 9 đoạn', Trung Quốc đang chuyển sang giai đoạn chứng minh năng lực kiểm soát thực tế vùng biển chủ quyền phi lý mà họ tuyên bố.
Ông nói thêm rằng “từ xâm lấn vùng biển của các nước quanh khu vực biển Đông ‘trên giấy’ đến xâm chiếm theo kiểu “gặm nhấm” kết hợp với đe dọa sử dụng vũ lực trên biển, Trung Quốc đã không thể biện minh cho những hành động sai trái của mình dù có đưa ra những lời lẽ bóng bẩy ngụy biện.
Trong cùng ngày thứ 6, báo chí Trung Quốc trích lời Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh nói rằng đôi bên đã đồng ý thiết lập một đường giây nóng giữa hải quân hai nước để giảm bớt căng thẳng.
Trong cuộc tiếp xúc với báo chí ở Bắc Kinh nhân dịp tham dự hội nghị tham vấn an ninh quốc phòng Việt-Trung, ông Nguyễn Chí Vịnh cũng bác bỏ những nhận định cho rằng Việt Nam đang liên minh với nhiều nước khác để chống lại Trung Quốc. Ông nói rằng liên minh với một nước nhỏ để chống lại một nước lớn là tự sát.
Ông Chu Hồi cho biết sau khi đưa ra công bố pháp lý về điều mà ông gọi là “yêu sách phi lý về cái gọi là đường lưỡi bò đứt khúc 9 đoạn', Trung Quốc đang chuyển sang giai đoạn chứng minh năng lực kiểm soát thực tế vùng biển chủ quyền phi lý mà họ tuyên bố.
Ông nói thêm rằng “từ xâm lấn vùng biển của các nước quanh khu vực biển Đông ‘trên giấy’ đến xâm chiếm theo kiểu “gặm nhấm” kết hợp với đe dọa sử dụng vũ lực trên biển, Trung Quốc đã không thể biện minh cho những hành động sai trái của mình dù có đưa ra những lời lẽ bóng bẩy ngụy biện.
Trong cùng ngày thứ 6, báo chí Trung Quốc trích lời Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh nói rằng đôi bên đã đồng ý thiết lập một đường giây nóng giữa hải quân hai nước để giảm bớt căng thẳng.
Trong cuộc tiếp xúc với báo chí ở Bắc Kinh nhân dịp tham dự hội nghị tham vấn an ninh quốc phòng Việt-Trung, ông Nguyễn Chí Vịnh cũng bác bỏ những nhận định cho rằng Việt Nam đang liên minh với nhiều nước khác để chống lại Trung Quốc. Ông nói rằng liên minh với một nước nhỏ để chống lại một nước lớn là tự sát.
Thursday, June 6, 2013
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 20
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 20
I. HOA MỸ
Đầu năm 2013, Tập Cận Bình đi Nga rồi đi Châu Phi. Thế là đường lối chính trị và chiến lược Trung Quốc đã rõ như ban ngày. Một mặt Trung Quốc liên kết với Nga, một một tấn công châu Phi. Vừa rồi, Trung Cộng loan tin gửi 500 lính qua châu Phi. Báo nói 500 biết đâu là 50 ngàn hay 100 ngàn lính (1). Sau cơn bão Hoa Lài, Trung Cộng và Nga lỡ nước cờ. Không lẽ lên tiếng ủng hộ độc tài, phi dân chủ, nhưng cũng không dám ủng hộ phe nổi dậy. Vì ngập ngừng nên bao lãnh thổ châu Phi đã vuột khỏi tầm tay Trung Cộng. Nay Tập Cận Bình phải tái chiếm châu Phi. Nga đã ủng hộ Syria chống quân nổi dậy, như vậy là Nga Tàu liên thủ chiếm châu Phi.
Tuần này Tập Cận Bình gặp Obama. Ngày 7/6, Tổng thống Mỹ Barack Obama và tân chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ gặp nhau tại một khu nghỉ dưỡng ở Palm Springs, Nam California, nằm cách xa thủ đô Washington để “hai bên có điều kiện tìm hiểu lẫn nhau”. (2). Thế là ông Tàu chưa tấn công Mỹ vào lúc này. Đấu tranh vũ lực là cần, nhưng đấu tranh chính trị, ngoại giao cũng cần thiết. Trước khi ra tay, cũng nên thảo luận với đối phương xem sao. Và cũng cần soát lại quân lính và vũ khí có đủ hay không rồi sẽ tính chứ không nên chơi đòn liều kiểu Mao Trạch Đông đánh Nga.
Cũng có thể trong cuộc hội đàm Hoa Mỹ, Tập Cận Bình sẽ hỏi Obama:
"Ta và Putin liên thủ, nị có sợ không?"
Cũng có thể trong cuộc hội đàm này, Obama bảo thẳng Tập Cận Bình" : Các ông nên chấm dưt buôn bán gian lận, các ông đừng ăn cắp công trình trí tuệ của chúng tôi, các ông đừng xâm chiếm biển Đông, biển Đông là của chung, các ông mà ra tay thì chúng tôi sẽ nện cho các ông một trận..."
Chúng ta không nghe được Obama và Tập Cận Bình nói gì hay mắng chửi nhau, nhưng ta cũng thấy được bầu không khí nặng nề bao phủ hai người và hai nước.
Thứ nhất, trước đó Mỹ Nhật tập trận, Trung Quốc yêu cầu hủy bỏ cuộc tập trận đã bị Nhật-Mỹ bỏ ngoài tai. Thứ hai, tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhắc lại quan điểm của Washington là quần đảo Điếu Ngư nằm trong phạm vi của Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật Bản. Theo hiệp ước này, Washington phải bảo vệ nước đồng minh trong trường hợp xung đột vũ trang.
Thứ ba, Obama tiếp Tập Cận Bình ở một nhà nghỉ, nghĩa là khách đến nhà, chủ nhà không mời vào phòng khách, mà chỉ dứng nói chuyện ở ngoài cổng.
Dầu hai bên dòm sắc mặt nhau, dò xem tình ý đối phương, hay nắn gân, chúng ta cũng biết rằng trong tuần này , hai bên chưa động thủ. Ta cứ ung dung chơi bài, nhậu la de củ kiệu, và tán dóc cho đã đời. Mai mốt họ đánh nhau thì mình cũng phải xì tóp các món ăn chơi một thời gian!.
II.HOA VIỆT
Tại Việt Nam, phe tay sai Trung Cộng thua phe chống Trung Cộng cho nên Trung Cộng tức giận, gọi cả lũ sang để mắng chửi! Vì vậy cả lũ vội sang triều bái Trung Quốc để nghe chủ chửi, chủ răn dạy và truyền kế hoạch mới.
Theo Kiến Thức, 22 tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao Việt Nam sang Trung Quốc học tập.
Hôm 5/6/2013, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cùng đoàn quan chức cao cấp bộ quốc phòng Việt Nam đã sang Trung Quốc tham dự cuộc ‘Đối thoại chiến lược quốc phòng Việt Nam-Trung Quốc’. Buổi ‘đối thoại’ diễn ra sau đúng 3 ngày xảy ra sự kiện nhà cầm quyền CSVN đàn áp man rợ cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược của nhân dân yêu nước (2/6/2013)....
Nước ta nhược tiểu, thời quân chủ mỗi năm ta phải sang thiên triều tiến cống, Và cũng mỗi năm ta phải tiếp đón phái đoàn sứ thần Trung Quốc sang hoạnh hoẹ đủ điều. Nhưng chưa bao giờ Việt Nam phải nhục nhã như từ thời cậu Ba bồi tàu sang Nga làm nô lệ, rồi bọn Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,Trần Văn Giàu... sang Nga học dối trá, học ám sát, ném lưu đạn, phá cầu, đào đường. Rồi Hồ Chí Minh làm chủ tịch lại phải bao lần sang Nga Tàu triều bái.
Cái lần triều bái đậm nét nhất là khi ông ta sang Nga năm 1952 nhận lệnh Stalin và Mao Trạch Đông về giết nhân dân (CCRD). Theo chân ông Hồ, hàng mấy trăm cán bộ cũng sang Trung Quốc học tập kỹ thuật giết dân. Hồ Chí Minh chết đi, năm 1990, Nguyễn Văn Linh sang Thành Đô lạy lục xin Việt Nam làm châu quận Trung Quốc để chúng nó được mãi mãi cướp phá đất nước và bóc lột nhân dân Việt Nam. Sau Nông Đức Mạnh, bọn cộng sản Việt Nam phải sang Tàu nhận mệnh lệnh. Nay, tháng 6-2013, cả lũ chúng nó rất đông đảo lại sang Trung quốc nhận mệnh lệnh. Ấy thế mà trước đây cho đến nay, chúng cứ to mồm chửi rủa, mạ lỵ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và chúng ta làm tay sai Pháp , Mỹ...
Có lẽ sắp đến, một là phe tay sai Trung Cộng sẽ làm binh biến, ra tay giết những ai không theo Trung Cộng , hoặc là quân Trung Cộng sẽ sang tiếp cứu thể theo yêu cầu của chủ tịch nước và tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Việc này đã xảy ra năm 1956 quân Nga tràn sang chiếm Đông Âu vì thấy bên đó phe cách mạng Hungary khí thế hùng mạnh. Và việc này cũng đã xảy ra khi Lê Chiêu Thống sang cầu cứu Mãn Thanh.
Cuộc chiến tranh giữa hai phe đã xảy ra ba, bốn lần rồi:
+ Lần thứ nhất là Tổng Cục 2- , T4
Sau đây là 2 bức thư của Tướng Võ Nguyên Giáp gởi các quan chức CSVN kêu gọi đối phó với "tình hình cực kỳ nghiêm trọng" tại Tổng Cục II, như tố cáo trong thư của Trung Tá Vũ Minh Trí - một cán bộ đang làm việc tại cơ quan này. Các thư của ông Võ Nguyên Giáp đề ngày 8/6 và 10/6/2009. (5)
Thư thứ nhất của Tướng Võ Nguyên Giáp:
Anh Phiêu, anh Mười, và các anh nguyên Bộ chính trị.
Tôi đã nhận được thư tố cáo của đ/c Vũ Minh Trí. Tôi cho đây là một tình hình cực kỳ nghiêm trọng. Các anh cần góp ý kiến với Bộ chính trị, Trung ương - Kiểm tra, thanh tra làm rõ tình hình và có chủ trương giải quyết triệt để. Xem xét, xác định đúng đắn tổ chức và nhiệm vụ Tổng Cục II.
Các anh phải thống nhất độ quan trọng của vấn đề và góp phần cùng BCT, TƯ giải quyết bằng được.
Thân
Văn
8/6/2009
Thư thứ hai của Tướng Võ Nguyên Giáp:
Kính gửi: Các đồng chí trong Bộ Chính Trị và Ban Bí thư,
Tôi đã nhận được thư của đồng chí Trung tá Vũ Minh Trí một cán bộ, đảng viên hiện đang công tác ở Tổng Cục II tố cáo Nguyễn Chí Vịnh đã lũng đoạn “phá hoại Tổng Cục II toàn diện”. Đồng chí ấy cho rằng: “Thực trạng Tổng Cục II cho thấy Quân đội ta, Đảng ta, Nhà nước ta đang gặp phải một hiểm hoạ vô cùng to lớn, ngay từ bên trong, ngay ở bên trên.”
Qua thư của đồng chí Vũ Minh Trí, tôi thấy đây là sự tố cáo của một cán bộ, một đảng viên có trình độ và có trách nhiệm cao, dũng cảm, dám tố cáo những hành động mà mình cho là sai trái đang gây nguy hại đến Đảng, đến Quân đội. Đây là sự tố cáo những hành động mà mình cho là sai trái đang gây nguy hại đến Đảng, đến Quân đội. Đây là sự tố cáo theo đúng điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước của một Cán bộ, đảng viên đương chức, của người trong cuộc, không phải là một thư nặc danh, thư của người ngoài cuộc. Nếu đúng như đơn tố cáo thì đây là một tình hình cực kỳ nghiêm trọng.
Tôi không hiểu vì sao Nguyễn Chí Vịnh trước có những khuyết điểm, khi đó đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nói với tôi là không thể lên Trung tướng và chưa biết đưa đi đâu để rèn luyện, nhưng thực tế lại không làm như vậy mà tiếp tục thăng quân hàm và giao trọng trách Tổng Cục trưởng, hiện nay vừa đề bạt là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm cho ai cũng ngạc nhiên, lo lắng và nếu không làm rõ thì chắc sẽ còn lên nữa.
Như thư tố cáo thì Tổng Cục II tiếp tục hoạt động sai chức năng, nhiệm vụ và đang bị biến chất, tình hình đang cực kỳ nguy hiểm đối với Quân đội, đối với Đảng. Vì vậy, tôi đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần thấy cho hết sự nghiêm trọng của vấn đề, không thể giao cho cấp dưới kiểm tra rồi báo cáo mà cần tổ chức một bộ phận gồm những cán bộ có phẩm chất và năng lực, có đủ quyền hạn của các ngành liên quan do đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì tiến hành một cuộc kiểm tra, thanh tra đặc biệt, thật nghiêm túc theo đúng điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước, để làm rõ những vấn đề tố cáo và có chủ trương giải quyết những sai trái một cách kiên quyết, triệt để, đúng nguyên tắc để bảo vệ quân đội, bảo vệ Đảng, bảo vệ độc lập tự chủ của đất nước. Cần chú ý bảo về người tố cáo.
Tôi có trao đổi với một số đồng chí nguyên là Tổng Bí thư, nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị và đề nghị các đồng chí ấy hãy góp sức cùng các đồng chí đương chức giải quyết bằng được vấn đề này, để tránh cho Đảng một hiểm hoạ. Tôi cho đây là hệ quả của vụ T4 không được giải quyết nghiêm minh. Tôi hết sức lo lắng cho Đảng, cho Quân đội, cho đất nước trước tình hình này nên gửi thư đến các đồng chí, mong các đồng chí góp phần lãnh đạo giải quyết cho được vấn đề này.
Xin chúc các đồng chí mạnh khoẻ.
Chào thân ái,
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2009
(ký tên)
Võ Nguyên Giáp
Theo RFA và Bùi Tín:
Còn vụ T4? Ông Bùi Tín kể tiếp: Vụ T4 là vụ Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu Tổng cục 2 bịa đặt rằng họ đã đặt được một gián điệp của Việt Nam vào cơ quan CIA và điệp viên đó có bí danh là T4. T4 thông báo danh sách những người đã cộng tác với CIA, đã tiếp xúc với CIA, đã làm tay sai cho CIA. Danh sách đó dài lắm. Nó lên tới hơn 20 người. Trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà rồi những người lúc bấy giờ đang còn tại chức như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,.. Mục đích của họ là gì? Mục đích của họ là bôi nhọ những người đó, rồi Tổng cục 2 cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười được nước láng giềng lớn giúp đỡ làm một cuộc đảo chính, lật đổ hết và dựng lên một chính quyền mới, một Bộ Chính trị mới, một Ban Chấp hành Trung ương hoàn toàn mới và hoàn toàn là tay sai của Bắc Kinh. Đó là mưu đồ của T4 và cũng đã bị ông Giáp tố cáo, yêu cầu phải giải quyết một cách triệt để. (6)
+ Vụ thứ hai: cuộc Hội nghị BCH TW 6 - Khóa 11 tháng 10.2012, phe Sang Trọng đã thất bại.
+Vụ thứ ba, cuộc hội nghị TW 7 ngày 4-5-2013. Sang Trọng gặp phải thất bại.
Vậy thì vụ sang triều cống Trung cộng chính là nhận lệnh mới, quyết tâm tàn sát những ai có ý hướng chống Trung Cộng. Có thể mấy thằng ăn hại đái nát chẳng làm nên trò trống gì, phen này đại quân và thiên tướng sẽ ra tay! Và bọn Sang Trọng, Vịnh sẽ làm nội ứng. Việt Nam là địa điểm chiến lược, phía tây bắc là bàn đạp cho Trung Cộng tiến đánh Ấn Độ, phía tây nam là chiếm Nam Á, châu Phi và khóa eo biển Malacca
Như vụ Tổng cục 2, bọn tay sai Trung Cộng sẽ vu vạ cho những ai chống Trung Cộng, là CIA, tay sai Mỹ, nhận tiền Mỹ, và họ nêu lý tưởng cao cả của họ làm nô lệ Tàu là bảo vệ đảng, bảo vệ Mác Lê mặc dầu Trung Cộng và Việt Cộng đã đem Tuyển Tâp Mác, Tuyển Tập Lênin vào nhà xí.
Quá tam ba bận. Không biết lần thứ tư ra sao? Que sera? Que sera? Bao lần thất bại, Trung Cộng sẽ nổi điên. Họ sẽ tấn công mạnh bằng quân sự: giết hết, bắt hết, nhốt hết.. Thời giờ cấp bách lắm rồi. Đi Mỹ là Tập Cận Bình giả làm nai nhưng trong bụng ông là cọp đói đang tính vồ mồi. .Phe chống Trung Cộng sẽ tháo chạy, hoặc ngồi im chịu chết hay sẽ chống cự nhưng chống cự bằng cách nào?
Sơn Trung
_____
(1).* .http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/05/130523_china_peacekeepers_africa.shtml* http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130523-trung-quoc-de-nghi-goi-500-quan-tham-gia-luc-luong-hoa-binh-lien-hiep-quoc-tai-mali
(2)*. http://www.voatiengviet.com/content/us-china-02-15-2012-139349228/915114.html
* http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130521-barack-obama-se-gap-tap-can-binh-dau-thang-sau
(3) .http://kienthuc.net.vn/quan-doi/201306/22-tuong-linh-si-quan-cap-cao-Viet-Nam-sang-Trung-Quoc-hoc-tap-909923/
(4). http://danlambaovn.blogspot.ca/2013/06/tuong-vinh-sang-tau-mang-qua-chau-bac.html#.UbFjB5ytmeU
(5). http://thongtinberlin.de/thoisu/thucuavonguyengiapgoibochinhtricsvn.htm
(6)..http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/How-scandals-involving-Vietnam-military-intelligence-agency-has-been-solved-part-1-04062010074819.html
Đầu năm 2013, Tập Cận Bình đi Nga rồi đi Châu Phi. Thế là đường lối chính trị và chiến lược Trung Quốc đã rõ như ban ngày. Một mặt Trung Quốc liên kết với Nga, một một tấn công châu Phi. Vừa rồi, Trung Cộng loan tin gửi 500 lính qua châu Phi. Báo nói 500 biết đâu là 50 ngàn hay 100 ngàn lính (1). Sau cơn bão Hoa Lài, Trung Cộng và Nga lỡ nước cờ. Không lẽ lên tiếng ủng hộ độc tài, phi dân chủ, nhưng cũng không dám ủng hộ phe nổi dậy. Vì ngập ngừng nên bao lãnh thổ châu Phi đã vuột khỏi tầm tay Trung Cộng. Nay Tập Cận Bình phải tái chiếm châu Phi. Nga đã ủng hộ Syria chống quân nổi dậy, như vậy là Nga Tàu liên thủ chiếm châu Phi.
Tuần này Tập Cận Bình gặp Obama. Ngày 7/6, Tổng thống Mỹ Barack Obama và tân chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ gặp nhau tại một khu nghỉ dưỡng ở Palm Springs, Nam California, nằm cách xa thủ đô Washington để “hai bên có điều kiện tìm hiểu lẫn nhau”. (2). Thế là ông Tàu chưa tấn công Mỹ vào lúc này. Đấu tranh vũ lực là cần, nhưng đấu tranh chính trị, ngoại giao cũng cần thiết. Trước khi ra tay, cũng nên thảo luận với đối phương xem sao. Và cũng cần soát lại quân lính và vũ khí có đủ hay không rồi sẽ tính chứ không nên chơi đòn liều kiểu Mao Trạch Đông đánh Nga.
Cũng có thể trong cuộc hội đàm Hoa Mỹ, Tập Cận Bình sẽ hỏi Obama:
"Ta và Putin liên thủ, nị có sợ không?"
Cũng có thể trong cuộc hội đàm này, Obama bảo thẳng Tập Cận Bình" : Các ông nên chấm dưt buôn bán gian lận, các ông đừng ăn cắp công trình trí tuệ của chúng tôi, các ông đừng xâm chiếm biển Đông, biển Đông là của chung, các ông mà ra tay thì chúng tôi sẽ nện cho các ông một trận..."
Chúng ta không nghe được Obama và Tập Cận Bình nói gì hay mắng chửi nhau, nhưng ta cũng thấy được bầu không khí nặng nề bao phủ hai người và hai nước.
Thứ nhất, trước đó Mỹ Nhật tập trận, Trung Quốc yêu cầu hủy bỏ cuộc tập trận đã bị Nhật-Mỹ bỏ ngoài tai. Thứ hai, tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhắc lại quan điểm của Washington là quần đảo Điếu Ngư nằm trong phạm vi của Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật Bản. Theo hiệp ước này, Washington phải bảo vệ nước đồng minh trong trường hợp xung đột vũ trang.
Thứ ba, Obama tiếp Tập Cận Bình ở một nhà nghỉ, nghĩa là khách đến nhà, chủ nhà không mời vào phòng khách, mà chỉ dứng nói chuyện ở ngoài cổng.
Dầu hai bên dòm sắc mặt nhau, dò xem tình ý đối phương, hay nắn gân, chúng ta cũng biết rằng trong tuần này , hai bên chưa động thủ. Ta cứ ung dung chơi bài, nhậu la de củ kiệu, và tán dóc cho đã đời. Mai mốt họ đánh nhau thì mình cũng phải xì tóp các món ăn chơi một thời gian!.
II.HOA VIỆT
Tại Việt Nam, phe tay sai Trung Cộng thua phe chống Trung Cộng cho nên Trung Cộng tức giận, gọi cả lũ sang để mắng chửi! Vì vậy cả lũ vội sang triều bái Trung Quốc để nghe chủ chửi, chủ răn dạy và truyền kế hoạch mới.
Ngày 6/6, Đoàn cán bộ chính trị cao cấp của Quân đội Nhân dân Việt Nam
sẽ lên đường sang Trung Quốc tham gia khóa học ngắn hạn (15 ngày). (3)
Theo Dân Làm Báo, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Chí Vịnh và 22 tướng Việt Cộng
sắp sửa sang Trung Quốc nhận lệnh. Không cần sờ mu rùa, ai cũng biết là
phe Trung Cộng sẽ quyết tâm tiêu diệt phe chống Trung Cộng.Hôm 5/6/2013, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cùng đoàn quan chức cao cấp bộ quốc phòng Việt Nam đã sang Trung Quốc tham dự cuộc ‘Đối thoại chiến lược quốc phòng Việt Nam-Trung Quốc’. Buổi ‘đối thoại’ diễn ra sau đúng 3 ngày xảy ra sự kiện nhà cầm quyền CSVN đàn áp man rợ cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược của nhân dân yêu nước (2/6/2013)....
Theo Thông Tấn Xã Việt Nam, Thứ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí
Vịnh đã có buổi ‘đối thoại’ với người đồng nhiệm phía TQ là Trung tướng
Thích Kiến Quốc, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân
Trung Quốc.
Cũng cần nhắc lại, tại buổi ‘đối thoại’ diễn ra vào tháng 8/2011, chính
thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã khẳng định với phía TQ về "chủ trương
kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam". Khi ấy, tướng
Vịnh đã cam kết sẽ "không tái diễn" những cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam.
Với hành vi trấn áp khốc liệt cuộc biểu tình yêu nước tại Hà Nội hôm
2/6, đây sẽ là một món quà thể hiện sự thần phục của đảng cộng sản Việt
Nam trong chuyến đi yết kiến thiên triều của Nguyễn Chí Vịnh. Tại buổi
‘đối thoại chiến lược quốc phòng’ hôm 5/6/2013, tướng Vịnh nói
rằng việc hợp tác giữa quân đội Việt Nam – Trung Quốc sẽ ‘có tác dụng
rất lớn trong việc định hướng dư luận hai nước’Liên quan đến vấn đề Biển
Đông, trích lời tướng Vịnh, bản tin của TTXVN có sử dụng các cụm từ khá
đặc biệt và gây chú ý như: “hiệp thương hữu nghị, xuất phát từ “tầm cao chiến lược,” “đại cục” trong quan hệ song phương”…
Người đồng nhiệm phía TQ là trung tướng Thích Kiến Quốc cho biết: Trong
năm 2013, TQ đang sửa đổi thỏa thuận về hợp tác biên phòng, “cố gắng ký trong chuyến thăm Trung Quốc sắp tới của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang”.. (4)
Nước ta nhược tiểu, thời quân chủ mỗi năm ta phải sang thiên triều tiến cống, Và cũng mỗi năm ta phải tiếp đón phái đoàn sứ thần Trung Quốc sang hoạnh hoẹ đủ điều. Nhưng chưa bao giờ Việt Nam phải nhục nhã như từ thời cậu Ba bồi tàu sang Nga làm nô lệ, rồi bọn Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,Trần Văn Giàu... sang Nga học dối trá, học ám sát, ném lưu đạn, phá cầu, đào đường. Rồi Hồ Chí Minh làm chủ tịch lại phải bao lần sang Nga Tàu triều bái.
Cái lần triều bái đậm nét nhất là khi ông ta sang Nga năm 1952 nhận lệnh Stalin và Mao Trạch Đông về giết nhân dân (CCRD). Theo chân ông Hồ, hàng mấy trăm cán bộ cũng sang Trung Quốc học tập kỹ thuật giết dân. Hồ Chí Minh chết đi, năm 1990, Nguyễn Văn Linh sang Thành Đô lạy lục xin Việt Nam làm châu quận Trung Quốc để chúng nó được mãi mãi cướp phá đất nước và bóc lột nhân dân Việt Nam. Sau Nông Đức Mạnh, bọn cộng sản Việt Nam phải sang Tàu nhận mệnh lệnh. Nay, tháng 6-2013, cả lũ chúng nó rất đông đảo lại sang Trung quốc nhận mệnh lệnh. Ấy thế mà trước đây cho đến nay, chúng cứ to mồm chửi rủa, mạ lỵ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và chúng ta làm tay sai Pháp , Mỹ...
Có lẽ sắp đến, một là phe tay sai Trung Cộng sẽ làm binh biến, ra tay giết những ai không theo Trung Cộng , hoặc là quân Trung Cộng sẽ sang tiếp cứu thể theo yêu cầu của chủ tịch nước và tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Việc này đã xảy ra năm 1956 quân Nga tràn sang chiếm Đông Âu vì thấy bên đó phe cách mạng Hungary khí thế hùng mạnh. Và việc này cũng đã xảy ra khi Lê Chiêu Thống sang cầu cứu Mãn Thanh.
Cuộc chiến tranh giữa hai phe đã xảy ra ba, bốn lần rồi:
+ Lần thứ nhất là Tổng Cục 2- , T4
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cam tâm làm thằng hèn đã mấy
chục năm, nay trước lưỡi gươm của anh em đồng chí Nguyễn Chí Vịnh kề vào
cổ ông phải lên tiếng.
Sau đây là 2 bức thư của Tướng Võ Nguyên Giáp gởi các quan chức CSVN kêu gọi đối phó với "tình hình cực kỳ nghiêm trọng" tại Tổng Cục II, như tố cáo trong thư của Trung Tá Vũ Minh Trí - một cán bộ đang làm việc tại cơ quan này. Các thư của ông Võ Nguyên Giáp đề ngày 8/6 và 10/6/2009. (5)
Thư thứ nhất của Tướng Võ Nguyên Giáp:
Anh Phiêu, anh Mười, và các anh nguyên Bộ chính trị.
Tôi đã nhận được thư tố cáo của đ/c Vũ Minh Trí. Tôi cho đây là một tình hình cực kỳ nghiêm trọng. Các anh cần góp ý kiến với Bộ chính trị, Trung ương - Kiểm tra, thanh tra làm rõ tình hình và có chủ trương giải quyết triệt để. Xem xét, xác định đúng đắn tổ chức và nhiệm vụ Tổng Cục II.
Các anh phải thống nhất độ quan trọng của vấn đề và góp phần cùng BCT, TƯ giải quyết bằng được.
Thân
Văn
8/6/2009
Thư thứ hai của Tướng Võ Nguyên Giáp:
Kính gửi: Các đồng chí trong Bộ Chính Trị và Ban Bí thư,
Tôi đã nhận được thư của đồng chí Trung tá Vũ Minh Trí một cán bộ, đảng viên hiện đang công tác ở Tổng Cục II tố cáo Nguyễn Chí Vịnh đã lũng đoạn “phá hoại Tổng Cục II toàn diện”. Đồng chí ấy cho rằng: “Thực trạng Tổng Cục II cho thấy Quân đội ta, Đảng ta, Nhà nước ta đang gặp phải một hiểm hoạ vô cùng to lớn, ngay từ bên trong, ngay ở bên trên.”
Qua thư của đồng chí Vũ Minh Trí, tôi thấy đây là sự tố cáo của một cán bộ, một đảng viên có trình độ và có trách nhiệm cao, dũng cảm, dám tố cáo những hành động mà mình cho là sai trái đang gây nguy hại đến Đảng, đến Quân đội. Đây là sự tố cáo những hành động mà mình cho là sai trái đang gây nguy hại đến Đảng, đến Quân đội. Đây là sự tố cáo theo đúng điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước của một Cán bộ, đảng viên đương chức, của người trong cuộc, không phải là một thư nặc danh, thư của người ngoài cuộc. Nếu đúng như đơn tố cáo thì đây là một tình hình cực kỳ nghiêm trọng.
Tôi không hiểu vì sao Nguyễn Chí Vịnh trước có những khuyết điểm, khi đó đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nói với tôi là không thể lên Trung tướng và chưa biết đưa đi đâu để rèn luyện, nhưng thực tế lại không làm như vậy mà tiếp tục thăng quân hàm và giao trọng trách Tổng Cục trưởng, hiện nay vừa đề bạt là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm cho ai cũng ngạc nhiên, lo lắng và nếu không làm rõ thì chắc sẽ còn lên nữa.
Như thư tố cáo thì Tổng Cục II tiếp tục hoạt động sai chức năng, nhiệm vụ và đang bị biến chất, tình hình đang cực kỳ nguy hiểm đối với Quân đội, đối với Đảng. Vì vậy, tôi đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần thấy cho hết sự nghiêm trọng của vấn đề, không thể giao cho cấp dưới kiểm tra rồi báo cáo mà cần tổ chức một bộ phận gồm những cán bộ có phẩm chất và năng lực, có đủ quyền hạn của các ngành liên quan do đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì tiến hành một cuộc kiểm tra, thanh tra đặc biệt, thật nghiêm túc theo đúng điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước, để làm rõ những vấn đề tố cáo và có chủ trương giải quyết những sai trái một cách kiên quyết, triệt để, đúng nguyên tắc để bảo vệ quân đội, bảo vệ Đảng, bảo vệ độc lập tự chủ của đất nước. Cần chú ý bảo về người tố cáo.
Tôi có trao đổi với một số đồng chí nguyên là Tổng Bí thư, nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị và đề nghị các đồng chí ấy hãy góp sức cùng các đồng chí đương chức giải quyết bằng được vấn đề này, để tránh cho Đảng một hiểm hoạ. Tôi cho đây là hệ quả của vụ T4 không được giải quyết nghiêm minh. Tôi hết sức lo lắng cho Đảng, cho Quân đội, cho đất nước trước tình hình này nên gửi thư đến các đồng chí, mong các đồng chí góp phần lãnh đạo giải quyết cho được vấn đề này.
Xin chúc các đồng chí mạnh khoẻ.
Chào thân ái,
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2009
(ký tên)
Võ Nguyên Giáp
Đại Tá Bùi Tín cũng nói rõ vụ này.
Theo RFA và Bùi Tín:
Còn vụ T4? Ông Bùi Tín kể tiếp: Vụ T4 là vụ Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu Tổng cục 2 bịa đặt rằng họ đã đặt được một gián điệp của Việt Nam vào cơ quan CIA và điệp viên đó có bí danh là T4. T4 thông báo danh sách những người đã cộng tác với CIA, đã tiếp xúc với CIA, đã làm tay sai cho CIA. Danh sách đó dài lắm. Nó lên tới hơn 20 người. Trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà rồi những người lúc bấy giờ đang còn tại chức như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,.. Mục đích của họ là gì? Mục đích của họ là bôi nhọ những người đó, rồi Tổng cục 2 cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười được nước láng giềng lớn giúp đỡ làm một cuộc đảo chính, lật đổ hết và dựng lên một chính quyền mới, một Bộ Chính trị mới, một Ban Chấp hành Trung ương hoàn toàn mới và hoàn toàn là tay sai của Bắc Kinh. Đó là mưu đồ của T4 và cũng đã bị ông Giáp tố cáo, yêu cầu phải giải quyết một cách triệt để. (6)
+ Vụ thứ hai: cuộc Hội nghị BCH TW 6 - Khóa 11 tháng 10.2012, phe Sang Trọng đã thất bại.
+Vụ thứ ba, cuộc hội nghị TW 7 ngày 4-5-2013. Sang Trọng gặp phải thất bại.
Vậy thì vụ sang triều cống Trung cộng chính là nhận lệnh mới, quyết tâm tàn sát những ai có ý hướng chống Trung Cộng. Có thể mấy thằng ăn hại đái nát chẳng làm nên trò trống gì, phen này đại quân và thiên tướng sẽ ra tay! Và bọn Sang Trọng, Vịnh sẽ làm nội ứng. Việt Nam là địa điểm chiến lược, phía tây bắc là bàn đạp cho Trung Cộng tiến đánh Ấn Độ, phía tây nam là chiếm Nam Á, châu Phi và khóa eo biển Malacca
Như vụ Tổng cục 2, bọn tay sai Trung Cộng sẽ vu vạ cho những ai chống Trung Cộng, là CIA, tay sai Mỹ, nhận tiền Mỹ, và họ nêu lý tưởng cao cả của họ làm nô lệ Tàu là bảo vệ đảng, bảo vệ Mác Lê mặc dầu Trung Cộng và Việt Cộng đã đem Tuyển Tâp Mác, Tuyển Tập Lênin vào nhà xí.
Quá tam ba bận. Không biết lần thứ tư ra sao? Que sera? Que sera? Bao lần thất bại, Trung Cộng sẽ nổi điên. Họ sẽ tấn công mạnh bằng quân sự: giết hết, bắt hết, nhốt hết.. Thời giờ cấp bách lắm rồi. Đi Mỹ là Tập Cận Bình giả làm nai nhưng trong bụng ông là cọp đói đang tính vồ mồi. .Phe chống Trung Cộng sẽ tháo chạy, hoặc ngồi im chịu chết hay sẽ chống cự nhưng chống cự bằng cách nào?
Sơn Trung
_____
(1).* .http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/05/130523_china_peacekeepers_africa.shtml* http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130523-trung-quoc-de-nghi-goi-500-quan-tham-gia-luc-luong-hoa-binh-lien-hiep-quoc-tai-mali
(2)*. http://www.voatiengviet.com/content/us-china-02-15-2012-139349228/915114.html
* http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130521-barack-obama-se-gap-tap-can-binh-dau-thang-sau
(3) .http://kienthuc.net.vn/quan-doi/201306/22-tuong-linh-si-quan-cap-cao-Viet-Nam-sang-Trung-Quoc-hoc-tap-909923/
(4). http://danlambaovn.blogspot.ca/2013/06/tuong-vinh-sang-tau-mang-qua-chau-bac.html#.UbFjB5ytmeU
(5). http://thongtinberlin.de/thoisu/thucuavonguyengiapgoibochinhtricsvn.htm
(6)..http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/How-scandals-involving-Vietnam-military-intelligence-agency-has-been-solved-part-1-04062010074819.html
TRẦN KHẢI THANH THỦY * CÙ HUY HÀ VŨ
Nhớ Cù Huy Hà Vũ
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Trần Khải Thanh Thủy
Kỷ niệm giữa tôi và anh không nhiều nhưng đậm đà và sâu sắc. Anh đã
ấn tôi thành… tượng trước màn hình vi tính khi đọc được lá đơn kiện “tên
bọ xít” Nguyễn Tấn Dũng vì vụ bô- xít Tây Nguyên. Lá đơn không có chân
mà nhảy tưng tưng khắp các trang mạng toàn cầu. Thực sự là một quả bom
ngôn luận, làm “nổ” tung cả màn hình internet, khiến những cư dân mạng
được một phen khoái tỷ. Nhiều người gọi điện thoại chia xẻ với tôi,
giọng vui vẻ phấn khích cao độ:
- Hành xử như thế mới gọi là người chứ.
- Cả nước chỉ cần 100 Cù Huy Hà Vũ thôi là đủ “cù” bọn lãnh đạo nhà nước này … lăn quay ra rồi,
- ….
Cũng có người lại bảo:
- Sau này, người dân Việt Nam sẽ xóa tên thằng bố đi để đưa tên ông
con vào. Không phải đường Cù Huy Cận nữa mà là đường Cù Huy Hà Vũ.
Nói xong, sợ tôi hiểu lầm, người “cựu chán binh” này còn cẩn thận “chua” thêm một câu:
- Xin lỗi, tôi không ưa bố cậu ta, nhưng tôi ủng hộ quan điểm, tư
tưởng lập trường của cậu ta. Giá như năm 2006, cậu ta tự ứng cử chức bộ
trưởng văn hóa mà được, thì bầu khí quyển cũng như môi trường văn hóa ở
Việt Nam không đến mức ô nhiễm như thế này. Nhà nước cũng không thành
nhà nát và bọn tàu khựa cũng không dám tụt quần nhau chạy lông nhông
giữa thị xã Ninh Bình rồi cười hô hố với nhau như giữa chỗ không người.
Chúng càng không dám cất tiếng “tỉu hà ma nị”* với người Việt Nam chúng
ta. Chỉ vì cái lũ lãnh đạo bọ xít, đứng đầu là thằng Nguyễn Tấn Dũng mà
đất đai hương hỏa của tổ tiên biến thành cục phân trong mắt bọn Trung
Hoa khốn kiếp, bị hành hạ, giày xéo đủ kiểu.
Theo số điện thoại ghi trên đơn kiện, tôi gọi đến anh. Lập tức, một
kẻ “bất mãn, khoác áo dân chủ” cũng là “kẻ suy đồi đạo đức làm tay sai
cho các thế lực phản động ở nước ngoài” ** như tôi được anh nồng hậu
tiếp đón. Anh em chúng tôi trở thành thân thiết từ ấy. Hầu như ngày nào
cũng phải gọi điện thoại cho nhau “buôn” đủ các thứ chuyện, từ văn hóa,
chính trị, đến văn học nghệ thuật, dân chủ, tự do, v.v. Thường tôi lặng
yên nghe anh nói. Nơi anh, cả một suối nguồn hào phóng tri thức ào ra,
không thể nào nói hết độ miên man sâu thẳm trong trái tim anh. Nếu nói
như câu danh ngôn của nước ngoài nhận định: “Nói là gieo, nghe là gặt”
thì tôi gặt được từ cánh đồng tri thức của anh khá nhiều. Không những
thế, tôi còn được các “ thế lực thù đich” với nhà nước CHXHCNVN (viết
tắt của cụm từ “chẳng hề xấu hổ chút nào vì ngu) tin cậy nhờ làm bà mối
để se duyên giữa anh và họ. Bao giờ cũng thế, dù là 5 giờ sáng hay 11
giờ đêm, anh vẫn vui vẻ nhận lời tiếp chuyện. Sau đó lại gọi điện thoại
“khoe” với tôi :
- Ôi anh trả lời khô cả cổ. 4 tiếng đồng hồ trên diễn đàn paltalk em biết không? Mọi người thay nhau đặt câu hỏi. Rất nhiều người hỏi anh rằng làm đơn kiện thủ tướng như thế có sợ không.
Và anh cười một tràng cười hồn hậu, sảng khoái rất hiếm thấy ở trí thức Việt Nam, rồi tự trả lời :
- Nếu biết sợ thì việc gì anh phải túm cổ áo lôi nó ra công đường kia chứ? Nó là cái thá gì, văn dốt võ dát, chỉ giỏi buôn lậu với bán tài nguyên thiên nhiên đất nước, có dám làm đối thủ với anh một cách đàng hoàng, chính đáng không? Hay lại phải chạy làng?
Không lâu sau đó tôi bị bắt. Tất nhiên người đầu tiên trong nước tôi gọi điện thoại tới là anh. Vì cú điện thoại này mà bọn “chó ác” phường Trung Phụng tịch thu điện thoại. Chúng sợ lộ kịch bản cũng như trò hề qúa lố của cái gọi là “công an …ăn dân” hoặc “đảng cộng sản Việt Ngu”; sợ chưa bày trò đã lộ vở.
Lại những ngày dài chờ đợi đến nén căng lồng ngực. Nỗi bồn chồn thảng thốt, sự hốt hoảng trước tương lai kéo đến làm nổ bùng cả thân xác. Giọng lưỡi cộng sản bủa vây và dồn ép tứ phía, đến mức quanh tôi toàn là những lời mơn trớn thô kệch, những thủ đoạn trắng trợn, bạo tàn :
- Chị cứ nhận đại là chị nóng tính đánh người đi. Đằng nào gia đình người ta cũng có đơn kiện rồi. Nếu chị tỏ ra biết điều chúng tôi sẽ cho chị về hòa giải dân sự. Chỉ đền tiền là xong!
Thật là miệng lưỡi cộng sản, đổi trắng thay đen đến thế là cùng. Cho dù con người đạo đức nổi loạn, nhưng cơ bắp yếu, thì tôi có thể làm gì nổi hai thằng côn đồ vừa nặng vừa trẻ, khỏe, cao to hơn hẳn tôi kia chứ? Sự thực ở đâu? Lô gíc ở đâu? Hay cái gọi là lô gíc, sự thực ở xã hội này đã bị sự dối trá, mị dân của ông Hồ tiêu diệt hết từ ngày 19-8-1945 rồi? Nếu có mảy may sống sót thì cũng bị âm binh của cái bọn “còn đảng còn mình” tiêu diệt nốt trong suốt những ngày dài còn lại?
Có cậu “chó ác” còn dạy bảo tôi:
- Chị cũng là người. Người ta cũng là người. Sao chị không gọi là anh ta, anh ấy cho tình cảm mà phải dùng từ côn đồ ở đây?
Chao ôi là đạo đức công an, đạo đức cách mạng! Chính chúng cố tình
sai bọn nợ án đến “áp đáo tại gia”, giờ lại còn lên mặt dạy đời?! Có
khác gì ăn cướp trắng trợn của các nhà “tư sản mại bản” Việt Nam sau
1954 (Miền Bắc) và 1975 (Miền Nam) lại gọi đó là “trưng thu dài hạn”
không? Đã là dân Việt Nam, ngay cả các bà đội thúng bán bưng, có ai
thoát khỏi sự “trưng thu” của lũ cướp ngày này không? Tuy thế, vẫn phải
nể, phải sợ chúng nó. Dù có thấy tận mắt, nghe tận tai những việc làm
đồi bại, ô trọc, đê tiện, bẩn thỉu của chúng nó, người ta vẫn phải quay
mặt đi, không được gọi đúng tên sự vật.
Trong những tháng ngày dằng dặc uất hận, đau đớn đó, chính anh đã làm
dịu bớt “hỏa diệm sơn” trong đầu tôi. Giữa tôi và anh, tuy không thật
giàu kỷ niệm, nhưng kỷ niệm đã có thì bám rất sâu vào trí nhớ. Lần tôi
đến nhà anh bị bọn cớm chìm, cớm nổi dàn quân theo dõi. Có tên đeo cả
máy bộ đàm đứng chình ình ngay cửa văn phòng luật sư của vợ chồng anh ở
24 Điện Biên Phủ. khiến chị Hà lo sợ cuống cuồng, phải vội vã bắt taxi
để tôi ra về, để lại tất cả bút bi, điện thoại, máy ảnh, túi đựng tài
liệu, bài viết, xe máy v.v .
Có lần tôi được mọi người tin cậy gửi giấy mời anh đi Thái Lan để báo
cáo về tình hình môi trường Việt Nam, được bao ăn bao ở, tham quan du
lịch để mở rộng tầm mắt trong một tuần, vậy mà chỉ vừa đưa ra ý định anh
đã lẳng lặng chối từ với lý do: “Anh đang rất bận, biết bao vụ án đang
chờ anh, anh không thể phụ lòng tin của mọi người để bỏ đi, dù chỉ là
một tuần”.
Thực sự người dân Việt Nam sau bao nhiêu năm sống đời cực nhọc, bị
đảng hắt hủi, đã cạn kiệt niềm tin vào pháp luật Việt Nam. Kể từ vụ anh
ngăn chặn bàn tay lông lá, thô bạo của chính quyền thành phố Huế trong
việc lấy đất trên đồi Vọng Cảnh làm khách sạn, giữ lại nơi ở cho hàng
nghìn anh em binh sĩ tại đài âm hồn, người dân đã bắt đầu coi anh như
một vị Bao Công ở Việt Nam. Văn phòng luật sư của vợ chồng anh nườm nượp
kẻ ra người vào nhờ giúp kêu oan. Dù vậy anh vẫn không quên mục đích
lớn lao của mình là dùng kiến thức khoa học và luật bảo vệ môi trường để
phản bác lại mọi lập luận cũ rích, nguy hiểm chết người của bọn người
dốt nát, cố đấm ăn xôi đứng đầu nhà nước, cũng là phòng ngừa mọi tai họa
do khai thác Bô xít tại Tây Nguyên gây ra. Chính vì thế, anh đã tự
nguyện làm một người lính đi đầu, tràn đầy sinh lực và ý chí khi nộp đơn
kiện tên bọ xít Nguyễn Tấn Dũng dốt nát, tham, hèn…
Trên cơ sở đó, những bài viết của tôi về anh ra đời. Thật là những
giây phút đẹp, cả tôi và anh cùng sáng tạo ra nhau, đồng điệu hòa hợp
với nhau trong từng câu chữ, cũng là cùng nhịp điệu đấu tranh cho công
cuộc dân chủ hóa ở Việt Nam. Vì vậy, vào trong lao rồi, trong tôi luôn
khắc khoải niềm tự tin dân dã : “Anh sẽ không bỏ mặc tôi, sẽ chủ động
làm một số việc để giúp tôi, từ việc thuê luật sư để bảo vệ tôi trước
tòa, cũng như viết bài bênh vực tôi, lật tẩy trò ngụy tạo dối trá mà lũ
chó cắn càn vu khống, đến nhà an ủi mẹ tôi- một nạn nhân điển hình của
chế độ cộng sản Việt Nam, cùng con gái thứ hai của tôi nữa …
Cháu bé mới
11 tuổi đầu, bao nhiêu lần phải khóc lặng người vì chứng kiến cảnh bố
mẹ bị cả đại đội chó ác đến nhà “mời” đi…và giam cầm một cách vô cớ. Một
mình cháu trong căn nhà rộng rênh hoang vắng, sợ người của đảng và nhà
nát xã hội chủ nghĩa hơn sợ ma. Căn nhà đã trở thành “điểm đen”, bị đôi
mắt cú vọ của tất cả hệ thống chính quyền phường Trung Phụng, từ công
an, bảo vệ, dân phòng nhòm ngó, khiến ai cũng ngán. Chỉ có anh mới dám
làm cá kình giỡn sóng, mãnh hổ đi ngược chiều, đại bàng bay ngược gió,
bay qua mặt chó ác và giặc đảng, tìm đến an ủi, động viên mẹ già và con
dại của tôi.
Đầu tháng 11-2010, tôi nhận tin anh bị bắt. Vừa kịp nghe chồng tôi
thông báo: “Anh Vũ bị bắt rồi” tôi đứng đờ người. Sự kiện xảy ra ngoài
tất cả những điều tôi có thể hình dung. Mặt tôi tái nhợt, hai mắt tối
sầm, tôi vội vàng bíu chặt lấy mép bàn gần đó để khỏi khuỵu ngã. Thế là
lại thêm một con người dũng cảm nữa phải tiếp nhận đòn thù của đảng. Quả
là trong xã hội đảng trị này, cuộc sống của mỗi người không bao giờ hết
tai nạn, nhất là những người đồng lòng, đồng tâm chống lại cái ác, cái
xấu do đảng đẻ ra.
Nguyễn Tấn Dũng, một kẻ khốn nạn nhất trên thế giới này, phạm tội
buôn lậu và biển thủ công quỹ, đi đêm với tàu cộng, càng leo cao càng lộ
nguyên vẹn thói đam mê quyền lực, sẵn sàng tiêu hủy nốt chút lương tâm
cuối cùng, quyết ra lệnh bắt anh bằng được: “Mày cậy hiểu biết có chữ,
cậy cái bóng của người cha “khai quốc công thần” mà kiện tao à? Luật của
mày là luật của các nước dân chủ, tiến bộ, không thích hợp với luật
rừng của Việt Nam con ạ. Ở nước nào thì phải chịu ăn mắm ngóe của nước
đó . Dù nó có tanh lộn mửa cũng phải bịt mũi khen thơm. Mày lại dám nho
nhoe, chê mắm thối, đòi ăn các loại mắm dân chủ ngon lành, thơm tho à?
Tao sẽ cho mày chết sặc trong hũ mắm thối đó. Xem tao sẽ tiêu diệt phẩm
giá, nhân cách, danh dự, lòng tự hào của mày trong ngục tù ra sao? Còn
tao, một kẻ đốn mạt, háo sắc, nhưng khôn ngoan, biết dùng tiền buôn lậu
để kê chỗ đứng, cũng như lợi dụng mọi kẽ hở của lề luật để ngoi lên,
dùng mọi thủ đoạn để tiếm chức, đoạt quyền, đã tiến đến chức vị này rồi,
thì không có tai họa nào chạm vào tao được, nghe chưa? Đó gọi là chân
lý, là nguyên tắc bất biến trong thời đảng trị này. Chân lý thuộc về kẻ
mạnh, văn hóa thuộc về kẻ yếu. Đảng là ai, đảng là tao nè… Tao tuy là Ba
Dũng nhưng rất thuộc bài từ hồi chú Sáu Búa*** để lại. Mày lại định làm
Hoàng Minh Chính thứ hai hay sao?”
Trở lại trại giam, nơi tôi đang phải chống trả quyết liệt với căn
bệnh mất ngủ, nay lại phải cắn răng ức chế cảm xúc của mình. Trong ánh
sáng lờ mờ của ngọn đèn huỳnh quang treo tít nơi trần nhà, gương mặt
anh, cương nghị, linh hoạt, dữ dằn hiện ra, ám ảnh tôi suốt những tháng
ngày dài bị giam hãm… Từ nét vẽ tài hoa của anh về người vợ hiền Dương
thị Hà, đến nét vẽ xuất thần về đại tướng Võ Nguyên Giáp – thần tượng
một thời của anh…; Bao nhiêu việc anh làm, từ ứng cử đại biểu quốc hội,
đến bộ trưởng bộ văn hóa thông tin…; Việc anh cương quyết không làm đơn
xin vào đảng lần thứ hai (vì quyết tâm bảo vệ lẽ phải và sự hiểu biết
của mình), cũng như không cho phép thành phố được tự tiện biến nhà anh
thành nhà lưu niệm Xuân Diệu khi không hỏi ý kiến anh và mẹ anh, … Bao
nhiêu kỷ niệm thiêu đốt, không chỉ trong những ngày tù dằng dặc mà cả
thời gian tôi được xổ lồng tung cánh, bay đến miền đất hứa, tự do, dân
chủ ngập tràn.
Qua theo dõi các câu chuyện kể của chị Hà mỗi lần vào thăm anh tại
trại 5 Thanh Hóa, cũng là nơi đã giam tôi 14 tháng trời, tôi biết anh
không được khỏe. Vào tù cộng sản, nơi sự thiếu thốn, ô nhiễm, nghèo, đói
hiện lên trong từng chi tiết nhỏ mọn của cuộc sống, với áp lực của tuổi
53, anh đau yếu luôn, nhưng về bản chất, tôi biết anh không bao giờ là
một kẻ yếu hèn. Lấy kinh nghiệm từ bản thân, tôi tin anh sẽ có một kết
cục tốt đẹp, đó là sau những mất mát nặng nề, cuộc sống sẽ được tổ chức
lại. Những người quả cảm như anh sẽ không bao giờ đơn độc, đã có cả hàng
rào nhân ái khắp trong và ngoài nước bao bọc quanh anh, các tổ chức
nhân quyền trên thế giới vẫn nhắc về anh, tôn vinh và ca ngợi lòng quả
cảm của anh. Từ Human Rights Watch đến Ký giả không biên giới, mạng lưới
nhân quyền Việt Nam v.v.
Bao nhiêu bài viết về anh được tung lên mạng, cũng bao nhiêu bài hát
vang lên ca ngợi người con ưu tú của Tổ Quốc. Ngay cả Giáo Sư Ngô Bảo
Châu, một người tốt nghiệp Đại học tại Pháp như anh, cũng từng khẳng
định “anh là người không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như
Turnus người Rutuli hay như Kinh Kha người nước Vệ”. Giáo sư Châu còn
viết: “Ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số phận của mình mà
ngược lại, đã làm mọi thứ để được đối mặt với số phận, để hoàn thành sứ
mệnh của mình trong cuộc đời này”.
Sứ mệnh của anh là dám vượt lên những cám dỗ tầm thường của cuộc
sống, bỏ qua cả sự ham muốn sống để đi đến cùng những giá trị tinh thần
của mình.
Ngày 1-11-2011, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Trung tâm Luật
bảo vệ môi trường đã cho phổ biến đến tất cả các đại biểu của 196 nước
thành viên, một thông cáo báo chí : “Ủy ban Giám sát việc bắt giữ vô căn
cứ của Liên Hiệp Quốc đã phát hiện việc bắt giam nhà hoạt động xã hội-
Tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ là vô căn cứ, vi phạm Điều 9 và Điều 19 của
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, mà Việt Nam là một
thành viên. Ủy ban yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do cho ông Cù Huy
Hà Vũ và cho ông quyền được hưởng bồi thường”.
Tin vui trên đến với toàn thể người dân Việt Nam giữa những ngày bà
con giáo xứ Thái Hà xuống đường. Nhân Thiên hợp nhất( Người với Trời sắp
hợp làm một ) sớm muộn gì chúng cũng sẽ phải thả anh ra thôi . Cho dù
cố tình đeo mặt nạ, đẽo lưỡi gỗ, làm ngơ trước mọi cáo buộc thì Trung
tâm Luật bảo vệ môi trường (Environmental Defender Law Center) và Ủy ban
Giám sát việc bắt giữ vô căn cứ (Working Group on Arbitrary Detention)
của Liên Hiệp Quốc sẽ lột mặt nạ và kéo lưỡi gỗ của chúng ra trước hàng
tỷ cặp mắt của 195 quốc gia khác. Phen này chúng có chạy đằng trời.
Hãy tin ở luật nhân quả anh nhé!
Sacramento đêm 22/11/2011
TKTT
Nguồn: FB TKTT————————————-
* “Tỉu hà ma nị” là câu chửi tương đương với “Đ. mẹ mày” .
** Tên những bài báo trên lề đảng mà cộng sản vu khống trước ngày tác giả bị bắt (21-4-2007) .
*** Sáu Búa là biệt danh của Lê Đức Thọ
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
TIN TỨC -TRUYỆN KÝ
Saturday, June 8, 2013
TIN TỨC GẦN XA
Hiệp định TPP và Thượng đỉnh Hoa Kỳ - Trung Quốc
Nguyên thủ của Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ hội họp hai ngày tại một trang
trại ở California. Nghị trình thảo luận giữa lãnh đạo của hai nền kinh
tế đứng đầu thế giới tất nhiên bao gồm hồ sơ kinh tế và cả Hiệp định
Xuyên Thái Bình Dương TPP. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu riêng về hồ sơ
đó qua phần trao đổi do Việt Long thực hiện với chuyên gia kinh tế
Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Việt-Long: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông,
Hiệp định Hợp tác Kinh tế và Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương, mà người
ta gọi tắt là TPP, có nằm trong nghị trình làm việc của Tổng thống
Barack Obama với Chủ tịch Tập Cận Bình nhân cuộc gặp gỡ cuối tuần này
tại California hay không? Chúng tôi nêu câu hỏi đó và đề nghị ông trình
bày về bối cảnh của thượng đỉnh này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Về bối cảnh chung, kinh tế thế giới chưa ra
khỏi năm năm đình trệ, bên trong lại có quan hệ thiếu cân xứng giữa hai
nền kinh tế đứng đầu thế giới là Mỹ và Trung Quốc. Vì vậy, tôi thiển
nghĩ rằng ưu tiên thảo luận vẫn xoay về kinh tế là hồ sơ có ảnh hưởng
chính trị rất cao trong nội tình của từng nước.
Ngoài ra, hai nước còn có nhiều mâu thuẫn khác thuộc lĩnh vực an
ninh. Như sự bành trướng quân sự của Trung Quốc tại miền Tây Thái Bình
Dương khi Hoa Kỳ chủ trương "chuyển trục" về Đông Á. Hoặc khi "hắc
khách", hay "hackers", xuất phát từ Trung Quốc lại đột nhập và ăn cắp
thông tin lẫn kỹ thuật của doanh nghiệp hay cơ quan dân sự và quân sự
của Mỹ. Mâu thuẫn ấy lại lồng trong bối cảnh quốc tế là sự bành trướng
của Trung Quốc khiến nhiều xứ lân bang ưu lo và quan tâm đến phản ứng
của Hoa Kỳ. Họ muốn biết Hoa Kỳ ứng xử ra sao với Trung Quốc và cân nhắc
thế nào ưu tiên về kinh tế và an ninh của nước Mỹ trong khung cảnh
chung của cả khu vực Đông Á hay Tây Thái Bình Dương. Chính là hai khía
cạnh kinh tế và an ninh mới phần nào kết tụ vào một hồ sơ là Hiệp định
TPP mà ông nêu ra.
Nếu Trung Quốc muốn trở thành cường quốc có trách nhiệm và trao đổi tự do với các nước thì việc tham gia vào một hiệp định chiến lược về kinh tế và về nhiều mặt khác là điều có lợi cho mọi người.Việt-Long: Vẫn nói về bối cảnh, thưa ông, những người vừa lên lãnh đạo Trung Quốc kể từ Đại hội 18 vào Tháng 11 năm ngoái sẽ phải cải cách kinh tế từ cơ cấu. Đây là một ưu tiên của Trung Quốc để tránh động loạn ở bên trong như lãnh đạo Bắc Kinh đã nói ra từ nhiều năm nay. Liệu Hiệp định TPP có là cơ hội cải tổ không, nếu cho rằng Hoa Kỳ sẽ mời Trung Quốc gia nhập vòng đàm phán với các nước khác?
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Câu hỏi của ông nêu ra một vấn đề lý thú mà người ta có thể hiểu ra khi rà soát lại hiện tình kinh tế của Trung Quốc.
Sau 30 năm đạt tốc độ tăng trưởng cao nhờ Đặng Tiểu Bình cải cách từ
năm 1979, Trung Quốc đã bước qua hình thái kinh tế khác và không thể
tiếp tục tăng trưởng trên 8% hay 9-10% như xưa. Vì vậy, yêu cầu chuyển
hướng từ lượng qua phẩm với đà tăng trưởng thấp hơn là một đòi hỏi khách
quan được đặt ra từ hơn năm năm trước mà vẫn chưa thể tiến hành và nay
là trách nhiệm của thế hệ lãnh đạo mới.
Khi có mức tăng trưởng kinh tế cao, Trung Quốc đã có thêm phương tiện
đầu tư vào quân sự và trở thành một cường quốc quân sự gây e ngại cho
các lân bang đang có tranh chấp về chủ quyền. Ngày nay, lãnh đạo của họ
đang bị lỡ trớn vì gặp nhiều bài toán nan giải.
Việt-Long: Ông nói về các bài toán nan giải của Trung Quốc, thưa ông đấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất là kinh tế bên trong có nhiều
nhược điểm phải cải sửa vì thiếu cân đối, bất công và không ổn định nên
chẳng vững bền. Điều này, giới lãnh đạo đã công nhận nên họ mới nói đến
yêu cầu chuyển hướng, nếu không thì xứ này sẽ bị nội loạn. Chúng ta đã
có nhiều chương trình đề cập đến chuyện đó nên tôi xin khỏi nhắc lại ở
đây.
Thứ hai, nếu phải giảm tốc độ tăng trưởng và tìm lực đẩy ở tiêu thụ
nội địa hơn là xuất khẩu và đầu tư, trong khi hệ thống ngân hàng và các
địa phương mắc nợ quá nhiều mà chẳng ai biết nổi là bao nhiêu, thì Trung
Quốc có thể nào gia tăng ngân sách quốc phòng như xưa hay không?
Thứ ba, nói về phẩm hơn lượng, nếu phải dồn tiền giải quyết các vấn
đề chồng chất, từ xã hội đến môi sinh, thì liệu quân sự sẽ ưu tiên tới
mức nào? Một thí dụ là xứ này thiếu nước ngọt, nhiều mạch nước ngầm bị ô
nhiễm sau mấy chục năm khai thác một cách cẩu thả và vô ý thức và các
dự án thủy lợi hay thủy điện vĩ đại của họ là những quả bom nổ chậm. Cụ
thể là thành phố Thiên Tân có 13 triệu dân đã phải lọc nước biển thành
nước uống và năm 2011 đã mua một nhà máy của Israel với cái giá là bốn
tỷ đô la để có nước ngọt với giá thành cao gấp đôi giá bán mà họ vẫn
thiếu nước. Thành phố này cần một hệ thống lọc nước tốn đến 20 tỷ đô la.
Nếu kể thêm nhu cầu của nhiều thành phố lớn như Bắc Kinh hay Thượng Hải, ta có thể suy ra số đầu tư cần thiết cho môi sinh. Khi ấy, Trung Quốc có còn dồn tiền vào chiến cụ hay quân đội chăng? Tôi nghĩ rằng nhiều phần thì họ sẽ tiếp tục như vậy và gây ra hai vấn đề song hành là khó khăn bên trong và sự nghi ngại của các nước ở bên ngoài. Nói đến bên ngoài, ta trở lại chuyện TPP.
Bài toán của TQ
Việt-Long: Trở lại hồ sơ Xuyên Thái Bình Dương,
chúng ta biết là có bốn nước nguyên thủy là Brunei, Chile, New Zealand;
rồi thêm Hoa Kỳ, Úc, Peru, Việt Nam từ năm 2008; sau đó có Malaysia,
Mexico và Canada rồi mới đến Nhật và sau này sẽ còn vài xứ Thái Bình
Dương khác. Nhưng cho đến nay, Trung Quốc chưa được mời tham gia. Liệu
trong thượng đỉnh lần này giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, đôi bên có thể thỏa
thuận về việc đó không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta không quên là cũng như Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO, xứ nào tham dự Hiệp định TPP đều phải có sự
đồng ý của từng thành viên, chứ không riêng gì Hoa Kỳ. Nước Mỹ có sức
nặng kinh tế và thị trường tiêu thụ lớn nhất nên sự đồng ý tất nhiên là
có ảnh hưởng tới quan điểm của các nước khác, nhưng các nước kia cũng có
yêu cầu của họ. Thí dụ là trước khi đặt chân tới Hoa Kỳ, ông Tập Cận
Bình đã tới Mexico để chủ yếu thảo luận việc khai thông ách tắc về ngoại
thương và đầu tư giữa hai nước. Trong đề mục thảo luận hôm Thứ Ba vừa
qua cũng có nạn Trung Quốc vi phạm luật lệ về quyền sở hữu trí tuệ khi
Mexico ra khỏi chiến lược xuất khẩu năng lượng mà trở thành một trung
tâm chế biến có thể cạnh tranh với Trung Quốc không chỉ nhờ nhân công rẻ
mà còn vì năng suất cao và lại tiếp cận với hai thị trường lớn ở Bắc
Mỹ. Các thành viên khác cũng thế, họ đều có vấn đề với lề lối làm ăn của
Trung Quốc và sẽ đòi hỏi nhiều điều kiện cải sửa khá gắt gao thì mới
đồng ý.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy và đấy mới là điều kẹt cho lãnh đạo Bắc Kinh!
Chúng ta hãy nhìn sự thể như thế này, Hiệp định TPP sẽ kết hợp các
nước Á Châu với các nước Nam Bắc Mỹ ở bên kia biển Thái Bình. Riêng khu
vực Á Châu Thái Bình Dương đã quy tụ 60% sản lượng kinh tế và phân nửa
số giao dịch ngoại thương của toàn cầu nên là thị trường rất lớn mà
Trung Quốc không thể vắng mặt, nhất là khi đã có hai nền kinh tế hạng
nhất và hạng ba là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Nhưng Hiệp định này dự trù xoá bỏ
đến cả vạn điều khoản về thuế quan và gần ba chục chương trình cải cách
đang được các nước liên tục đàm phán. Trong số này có vai trò của khu
vực kinh tế nhà nước, có quy chế lao động và bảo vệ môi sinh hay quyền
sở hữu trí tuệ, là loại vấn đề thật ra là sinh tử cho Trung Quốc vì đụng
chạm vào quyền lợi của các nhóm lợi ích bên trong hệ thống kinh tế
chính trị của họ. Một thí dụ khác là chế độ kiểm soát ngoại hối của Bắc
Kinh với cách duy trì đồng Nguyên quá thấp nhờ ràng giá vào đô la Mỹ.
Nếu Trung Quốc muốn trở thành cường quốc có trách nhiệm và trao đổi
tự do với các nước thì việc tham gia vào một hiệp định chiến lược về
kinh tế và về nhiều mặt khác là điều có lợi cho mọi người. Nhưng nếu
tham gia thì phải cải cách mạnh hơn và đấy mới là vấn đề cho Bắc Kinh.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta không quên rằng sáng kiến này xuất phát
từ bốn nước nhỏ tại vành cung Thái Bình Dương và chỉ có sự tham dự của
nước Mỹ từ năm 2008 với tầm ảnh hưởng mở rộng hơn một thỏa thuận về mậu
dịch. Sau đó, các nước khác như Canada, Mexico hay Nhật Bản mới cân nhắc
lợi hại, là muốn có lợi thì phải cải cách và ra khỏi lối suy tính bảo
hộ ở bên trong.
Ban đầu thì lãnh đạo Bắc Kinh có thể bị tự kỷ ám thị và bệnh "tự bế"
hay "autistic" vì cái nhìn thiên lệch về thế giới bên ngoài nên cho rằng
đó là âm mưu be bờ hay vây hãm của Hoa Kỳ. Họ không thấy là chính sự
bành trướng ảnh hưởng quân sự và uy hiếp xứ khác mới gây phản ứng ngược
từ một chuỗi quốc gia lân bang, khi Hoa Kỳ còn bận tâm về chuyện khủng
bố. Ngày nay, khi nước Mỹ cố rút chân khỏi hậu quả đắt đỏ của cuộc chiến
chống khủng bố và chú ý hơn đến Á Châu thì đã có sự hưởng ứng và kêu
gọi của các quốc gia nói trên, từ Nhật Bản qua nhiều nước ASEAN đến Úc
và Ấn Độ. Sự hưởng ứng này đến từ các nước chứ không do Hoa Kỳ vận động.
Trong khung cảnh đó, Hiệp định TPP là một mặt thiết thực của quan hệ
quốc tế dựa trên quyền lợi kinh tế và nếu thấy có lợi thì tham gia mà
muốn tham gia thì phải cải cách.
Việt-Long: Kết luận của ông về hồ sơ TPP này là gì đặt trong mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi trộm nghĩ là Bắc Kinh mắc bẫy do chính họ giăng ra cho các nước.
Dù bên trong gặp nhiều trở lực khi cần tái cơ cấu kinh tế, lãnh đạo
của họ vẫn cứ tuyên truyền về thiện chí hợp tác kinh tế một cách hòa
bình tử tế với các nước. Bây giờ, hiệp định TPP là cơ hội chứng tỏ sự
thành tâm cải cách và làm ăn tử tế với các nước. Hoa Kỳ có thể lờ hẳn
các vụ hăm dọa hay ăn cắp kỹ thuật mà nhũn nhặn đề nghị tham dự kế hoạch
TPP khiến Trung Quốc thay đổi mà khỏi bị mang tiếng có ý đồ bao vây hay
có âm mưu gọi là "diễn biến hòa bình". Ta nên theo dõi chuyện đó mà suy
ngẫm về cách hành xử của Việt Nam.
Việt-Long: Chúng tôi cũng mong bàn luận về Việt Nam
trong bối cảnhi tương tự trong một kỳ phát thanh sau này. Xin cảm tạ ông
Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.
Nữ công nhân Việt Nam ở Đài Loan bị bóc lột sức lao động
Nghe bài này
Thành phố Đào Viên, cách thủ đô Đài Bắc khoảng một trăm kilômét, là nơi mà từ khi có làn sóng nam nữ công nhân Việt sang Đài Loan lao động hoặc những cô dâu trẻ Việt theo chồng về nước, thì cũng đã có sự hiện diện của Văn Phòng Hỗ Trợ Pháp Lý Cho Công Nhân Và Cô Dâu Việt Nam.
Bên cạnh đó, mỗi công nhân phải thay phiên nhau nấu cơm trong viện dưỡng lão, ít thì 130 người và nhiều là 150 miệng ăn:
Cần nhắc khi ký hợp đồng sang Đài Loan thì công việc của các chị được ghi rõ là giúp đỡ người già yếu trong viện dưỡng lão, tức là không kiêm những việc về chăm sóc sức khỏe như y tá. Tuy nhiên, vẫn lời chị công nhân ở Hải Dương, viện dưỡng lão này chỉ có bốn y tá nhưng họ chỉ làm việc ban ngày chứ không ở lại trực đêm:
Quê của em ở Thanh Hóa, em qua làm việc ở viện dưỡng lão đó gần hai năm rồi. Thì bọn em có biết đâu, sang đây đóng mất bao nhiêu là tiền. Kiếm tiền thì sợ chủ họ đe ép, sợ kiểu họ nói nếu không ngoan thì họ cho về nước, thế là bọn em sợ.
Không biết làm cách nào, chị đã nhờ đến công ty môi giới, tức những người đưa công nhân từ Việt Nam sang rồi giao cho chủ sử dụng lao động ở Đài Loan:
Thanh Trúc kính chào. Xin hẹn quý vị thứ Năm tuần tới.
Liên lạc với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-lab-in-hk-abus-06052013133616.html
Trước đây đảng CS Thái Lan là đảng CS lớn thứ nhì tại Đông Nam Á, chỉ đứng sau đảng CS Việt Nam. Cho đến nay đảng CS Thái Lan còn hay mất và sự ta rã của đảng CS Thái Lan đã diễn ra thế nào?
Lúc này dân chúng và học sinh sinh viên theo CS Thái rất đông,
nhất là sau hai vụ bạo động của sinh viên ở thủ đô Bangkok vào các ngày 14.10.1976 và 6.10.1979, khi chính quyền Thái Lan phải thẳng tay trấn áp đẫm máu.
Hậu quả của vấn đề này một GS. hiện là chuyên gia đặc biệt của Viện nghiên cứu thuộc trường Đại học Rachphat Ubonrachthani xin dấu tên cho biết:
“Những người theo CS là những người chịu hậu quả của thể chế chính trị lúc đó, khiến cho họ không thể tồn tại trong đời sống xã hội như người bình thường. Để tồn tại, thì họ chỉ còn cách bỏ vào rừng và cầm súng chống lại để chứng tỏ họ không chấp nhận chính quyền. Cũng như không chấp nhận chính quyền thì bỏ vào rừng là lựa chọn duy nhất. Quan trọng là lý thuyết cộng sản lúc đó lại là lời giải và lối thoát đối với họ…”
Tại thời điểm năm 1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã chính thức xây dựng Liên minh các tổ chức đấu tranh cho dân chủ và tự do của Thái Lan, với Quân đội giải phóng nhân dân Thái Lan là chủ lực.
Thời điểm này số đảng viên cộng sản và phiến quân của đảng Cộng sản Thái Lan ước chừng gần một vạn người, và khoảng một triệu người ủng hộ. Đặc biệt trong giai đoạn này một nửa các thành phố Thái Lan đã bị cộng sản xâm nhập. Việc này đã khiến cả phía chính quyền và Hoàng gia Thái Lan đã thực sự lo ngại.
Thành phố Đào Viên, cách thủ đô Đài Bắc khoảng một trăm kilômét, là nơi mà từ khi có làn sóng nam nữ công nhân Việt sang Đài Loan lao động hoặc những cô dâu trẻ Việt theo chồng về nước, thì cũng đã có sự hiện diện của Văn Phòng Hỗ Trợ Pháp Lý Cho Công Nhân Và Cô Dâu Việt Nam.
Làm việc từ 12 đến 14 tiếng một ngày
Hơn một thập niên qua, Văn Phòng Hỗ Trợ Pháp Lý cho Công Nhân Và Cô
Dâu Việt Nam được đánh giá thành công trong việc giúp đỡ và bảo vệ quyền
lợi cho rất nhiều người từ trong nước sang Đài Loan tìm kế sinh nhai mà
chẳng may bị bóc lột sức lao động hay gặp những hoàn cảnh trớ trêu
khác.
Tuần qua, vào khi báo chí ở Đào Viên đồng loạt đưa tin về một trường
hợp vi phạm luật lao động nghiêm trọng tại Viện Dưỡng Lão Thần Quang
trong thành phố này, thì giám đốc Văn Phòng Hỗ Trợ Pháp Lý Cho Công Nhân
Và Cô Dâu Việt, linh mục Nguyễn Văn Hùng, cũng đã tiếp nhận một lúc
mười hai công nhân gồm mười người Việt, một người Indonesia và một người
Philippines. Những công nhân này đến xin tá túc và nhờ văn phòng can
thiệp giúp đỡ về mặt pháp lý. Trên các mặt báo phát hành tại Đào Viên,
người ta đọc thấy tên giám đốc Viện Dưỡng Lão Thần Quang, người đã buộc
công nhân làm việc từ 5 giờ sáng đến 10 giờ tối mỗi ngày, là bà Dương
Mẫu Chân, với sự hợp lực của con trai bà ta là Hứa Chí Dương.
Viện dưỡng lão Thần Quang luôn có trên một trăm người già bệnh tật và
đau ốm, được Sở Xã Hội Đào Viên gởi tới để được chăm sóc. Mặt khác, đây
cũng không phải là một cơ sở miễn phí vì mỗi người già tới ở đó đều
phải trả mỗi tháng hai mươi tám hoặc ba chục nghìn Đài tệ, tương đương
một nghìn đô la Mỹ. Lời linh mục Nguyễn Văn Hùng:
Tôi và những bạn cùng làm việc với tôi phải lao động rất cực nhọc. Thoạt đầu tôi hoảng kinh khi nhận ra một người phải chăm một lúc cả ba chục ông bà lão. Chủ nhân đối xử với chúng tôi không tốt, làm việc thì mười hai đến mười bốn tiếng mỗi ngày, thức ăn không có, không có ngày nghỉ
người công nhân Philippines
Những người công nhân Việt Nam đã liên lạc với văn phòng, sau đó
chúng tôi tìm hiểu và biết thêm sự nghiêm trọng của vấn đề. Đó là việc
này xảy ra cũng khá lâu nhưng không có sự giúp đỡ đến nơi đến chốn.
Chúng tôi đã sử dụng luật chống bóc lột sức lao động của con người và đã
liên lạc với bên cảnh sát để báo cho họ biết. Hiện cảnh sát và tòa án
đã tới viện dưỡng lão này và đã cứu tổng cộng mười hai công nhân nước
ngoài đang làm việc ở đó. Hiện họ đã cho những công nhân này tạm trú ở
nơi an toàn. Cảnh sát đã lấy lời khai của các nạn nhân , họ đã tiến hành
thủ tục pháp lý để đưa lên tòa án sự việc này.
Theo quan sát của tôi, về sự can đảm và theo đuổi công bằng, thì
có lẽ người Việt Nam là mạnh mẽ nhất ở Đài Loan này. Và bởi vì họ mạnh
mẽ cho nên họ cũng bị chủ có những biện pháp đối xử cũng khác với những
người thuộc các sắc tộc khác. Còn liên quan đến bóc lột thì cả người
nước ngoài, gồm người Indonesia và người Philippines, tôi thấy họ cũng
bị bóc lột như nhau.
Sự lạm dụng và mức độ bóc lột tại viện dưỡng lão Thân Quang được
người công nhân Philippines, vừa nhận việc hồi cuối tháng trước, mô tả:
Tôi và những bạn cùng làm việc với tôi phải lao động rất cực nhọc.
Thoạt đầu tôi hoảng kinh khi nhận ra một người phải chăm một lúc cả ba
chục ông bà lão. Chủ nhân đối xử với chúng tôi không tốt, làm việc thì
mười hai đến mười bốn tiếng mỗi ngày, thức ăn không có, không có ngày
nghỉ, đã vậy còn phải lau chùi dọn dẹp, làm đủ thứ việc hết…
Làm y tá bất đắc dĩ
Cũng từ văn phòng của linh mục Nguyễn Văn Hùng, một chị công nhân quê
ở Hải Dương, qua Đài Loan làm công việc chăm sóc đỡ đần người già trong
viện dưỡng lão Thần Quang hơn một năm nay, xác nhận:
Chúng em làm một ngày mười hai đến mười bốn tiếng, nếu mà ca đêm
thì một người chăm khoảng tầm 70 người, còn nếu ca ngày thì một người
chăm khoảng tầm 20 người. Nhưng mà 20 người đấy chúng em không thể chăm
tất. Thí dụ một tầng 45 người thì hai người chăm nhưng mà một người phải
đi làm ngoài, đến giờ về cho các cụ ăn thôi, chứ không phải 2 người
chăm 45 người mà ở chăm các cụ suốt, nghĩa là còn phải đi ra ngoài làm
việc cho nhà chủ, nhổ cỏ hay dọn nhà cho nhà chủ ở bên ngoài.
Bên cạnh đó, mỗi công nhân phải thay phiên nhau nấu cơm trong viện dưỡng lão, ít thì 130 người và nhiều là 150 miệng ăn:
Vì ca đêm không có y tá, tất cả các việc công việc chúng em phải làm hết, thí dụ như chích thuốc hoặc là cắm ống tiểu với lại cắm ống đường mũi ăn là chúng em đều phải làm hết. Tiêm chích cho các cụ, tức là chích thuốc, chúng em đều phải làm hếtPhải nhanh thôi, chạy suốt, không được nghỉ ngơi một tí nào, phải làm thật nhanh.
chị công nhân quê ở Hải Dương
Cần nhắc khi ký hợp đồng sang Đài Loan thì công việc của các chị được ghi rõ là giúp đỡ người già yếu trong viện dưỡng lão, tức là không kiêm những việc về chăm sóc sức khỏe như y tá. Tuy nhiên, vẫn lời chị công nhân ở Hải Dương, viện dưỡng lão này chỉ có bốn y tá nhưng họ chỉ làm việc ban ngày chứ không ở lại trực đêm:
Vì ca đêm không có y tá, tất cả các việc công việc chúng em phải
làm hết, thí dụ như chích thuốc hoặc là cắm ống tiểu với lại cắm ống
đường mũi ăn là chúng em đều phải làm hết. Tiêm chích cho các cụ, tức là
chích thuốc, chúng em đều phải làm hết.
Để công nhân có thể làm được những việc mà đáng lý y tá phải làm, bà giám đốc Dương Mẫu Chân bắt y tá dạy cho các chị.
Chứ không bày thì chúng em làm sao biết mà làm, chúng em phải làm hết.
Cơm thừa canh cặn
Làm việc quá giờ với đồng lương không biết đường nào mà tính, chị kể tiếp, tiền tăng ca cũng không được thanh toán sòng phẳng:
Đến mùng 5 hàng tháng là chúng em lãnh lương, họ không hứa như thế
nào cả. Chúng em cũng không biết họ tính làm sao, nhưng mà đến tháng
lương thì bình quân người nào cũng có tăng một ngày hai tiếng, nhưng
người ta chỉ trả lương tăng ca có một tiếng. Nhưng mà chúng em tính ra
là một tháng chúng em không nghỉ ngày nào và tính bình quân tăng ca là
60 tiếng.
Còn buổi trưa ăn cơm mười lăm, hai mươi phút xong không được về
phòng nghỉ, giờ đấy đánh thẻ nghỉ chúng em cũng không được nghỉ mà phải
trông các cụ và chúng em không có tiền.
Công nhân làm ca đêm trong viện dưỡng lão Thần Quang không được cung
cấp thức ăn tối. Buổi sáng, những món điểm tâm của họ đơn giản chỉ là:
Nếu như bà ấy đi ra ngoài...thừa thịt gà, thừa cổ cánh hoặc là người ta gặm còn thừa còn cái xương không thì bà cũng mang về rồi dặn “ hôm nay có đồ ăn rồi không phải nấu nữa”. Nếu người nào ăn sớm thì còn được cái cánh gà, người nào ăn sau thì phải gặm lại cái mà người ta ở nhà hàng người ta đã gặm rồiMột công nhân
Có hôm được hai quả cam bằng đầu ngón chân cái, lắm hôm được hai
cây kẹo, lắm hôm là một gói bin bin, nghĩa là vài cái phổng của trẻ con
nó ăn . Đấy là đồ ăn sáng của chúng em. Còn buổi ăn trưa với buổi ăn tối
người ta chỉ cho một món rau, có gà thì một miếng thịt gà, có trứng thì
một quả trứng. Nếu bữa nay là một miếng thịt gà thì bữa sau là một quả
trứng, cứ thế thay đổi, không có món gì khác.
Nhưng nếu vì ăn uống không đủ mà phải mua thức ăn ở ngoài thì mọi
người bị bà Dương Mẫu Chân mắng mỏ . Bà chủ này thậm chí cấm công nhân
đi ra ngoài:
Nếu chúng em mua đồ ăn ngoài mà bà ấy nhìn thấy mua nhiều là bà
cũng mắng chúng em đấy. Vì là chúng em không được đi ra ngoài mà chỉ có
gởi bộ đội hoặc y tá họ đi ăn cơm trưa họ mua cho. Chúng em toàn phải ăn
như thế, còn nếu như bà ấy đi ra ngoài, đi ăn nhà hàng về thí dụ thừa
thịt gà, thừa cổ cánh hoặc là người ta gặm còn thừa còn cái xương không
thì bà cũng mang về rồi dặn “ hôm nay có đồ ăn rồi không phải nấu nữa” .
Nếu người nào ăn sớm thì còn được cái cánh gà, người nào ăn sau thì
phải gặm lại cái mà người ta ở nhà hàng người ta đã gặm rồi.
Ngoài vấn đề tiền lương trả không đúng mức, lao động quá giờ qui
định, ăn uống thiếu thốn, có lẽ thói keo kiệt bủn xỉn và thiếu tình
người của bà Dương Mẫu Chân khiến các công nhân Việt lẫn ngoại quốc ở
Viện Dưỡng Lão Thần Quang bất mãn, chán ghét, dẫn tới quyết định bỏ đi
và tìm tới Văn Phòng Hỗ Trợ Pháp Lý của linh mục Nguyễn Văn Hùng:
Còn như là đồ ăn của nhà bà ấy ăn xong, ba bốn bữa là nó thiu, nó
chua nó chảy ra thì bà cho chúng em ăn. Nếu chúng em không ăn được nữa
thì bà bảo người nấu cơm là đổ vào rau nấu cho các cụ. Đấy là em nói
thực tế, không sai một tí nào.
Vì chúng em đã điện đến Bộ Lao Động lần thứ hai thứ ba rồi, giải
quyết không được nữa. Nhờ bạn bè thì bạn bè mach đến chỗ cha Hùng nhờ
cha giúp. Mười hai người chúng em theo tất bên cha Hùng. Đã thoát ra
được thì làm sao mà chúng em dám về đấy nữa, bà ấy ăn ở như thế làm sao
chúng em sống nỗi. Trước mắt thì không biết có bệnh hay không nhưng mà
ăn uống như thế chúng em sẽ sinh bệnh.
Như vậy, ngoài hai người Đài Loan ra, còn lại một người Indonesia,
một người Philippines mới qua tháng trước, cộng thêm mười nữ công nhân
Việt Nam, thì tất cả đã bị bà giám đốc Dương Mẫu Chân, đồng lõa cùng con
trai Hứa Chí Dương, bóc lột từ miếng ăn cho tới sức lao động một cách
nghiêm trọng từng ngày như chị công nhân thứ hai kể lại:Quê của em ở Thanh Hóa, em qua làm việc ở viện dưỡng lão đó gần hai năm rồi. Thì bọn em có biết đâu, sang đây đóng mất bao nhiêu là tiền. Kiếm tiền thì sợ chủ họ đe ép, sợ kiểu họ nói nếu không ngoan thì họ cho về nước, thế là bọn em sợ.
Không biết làm cách nào, chị đã nhờ đến công ty môi giới, tức những người đưa công nhân từ Việt Nam sang rồi giao cho chủ sử dụng lao động ở Đài Loan:
Còn như là đồ ăn của nhà bà ấy ăn xong, ba bốn bữa là nó thiu, nó chua nó chảy ra thì bà cho chúng em ăn. Nếu chúng em không ăn được nữa thì bà bảo người nấu cơm là đổ vào rau nấu cho các cụ. Đấy là em nói thực tế, không sai một tí nào
Một chị công nhân
Em có nhờ công ty môi giới nói nhưng họ cũng chẳng giải quyết được
gì, họ nói nếu không chịu được thì chỉ có đổi chủ thôi. Em nói em không
muốn đổi chủ, chỉ nhờ công ty môi giới nói hộ với bà chủ là cải đi một
tí cho bọn em đỡ khổ với ăn uống như thế bọn em không có sức để làm. Bọn
em nhờ công ty môi giới bảo bà chủ để đồ ăn ban đêm cho bọn em ăn mới
có sức để làm nhưng nói xong rồi vẫn chẳng giải quyết được gì.
Tiền lương cơ bản thì họ trả đủ nhưng tiền tăng ca hàng ngày họ trả cho bọn em ít lắm, trả thấp lắm ấy.
Hiện tại, kế hoạch hỗ trợ pháp lý mà linh mục Nguyễn Văn Hùng hướng
tới là trước hết phải truy tố bà giám đốc Dương Mẫu Chân vi phạm Luật
Lao Động của Đài Loan, tiếp đến là đòi bồi thường cho các công nhân Việt
Nam, Indonesia và Philippines bị chủ buộc làm việc quá tải, ăn uống thì
hạn chế, quá nhiều giờ tăng ca không giải quyết. Tắt một lời, nói theo
luật, cả người có bổn phận chăm sóc và những người già được chăm sóc đều
là nạn nhân của một vụ bóc lột lao động:
Rất nhiều đài truyền hình và báo chí đã đưa tin về sự kiện bóc lột
sức lao động của con người. Trong buổi phỏng vấn của tôi với đài truyền
hình thì tôi đã đề nghị chính phủ Đài Loan nên quan tâm và phải có biện
pháp điều tra đến nơi đến chốn. Bởi vì nếu những người chăm sóc mà
không có sức khỏe và bị bóc lột thì làm sao họ có thể chăm sóc những
bệnh nhân. Vì vậy cho nên cả người chăm sóc và người được chăm sóc đều
là nạn nhân của một vụ vi phạm nhân quyền ở bên đây.
Điều thứ hai chúng tôi cũng nhấn mạnh là đã có những cuộc tiếp xúc
liên quan tại địa phương nhưng chuyện vẫn không được đưa ra để giải
quyết đến nơi đến chốn. Tôi muốn hỏi tại sao có những chuyện như vậy, có
phải là vì đằng sau lưng có những lợi ích hoặc là những cái lực nào đó
có thể bao che cho những việc làm sai trái này. Tôi nghĩ sự kiện này đã
thu hút khá nhiều sự quan tâm của dư luận Đài Loan.
Với những nạn nhân như thế mà thông tin lớn như vậy ở đây, chúng
tôi vẫn chưa nhận được liên lạc nào của bên Phòng Văn Hóa Kinh Tế Việt
Nam mà quan tâm đến những người bị bóc lột như vậy cả. Theo tôi được
biết một người công nhân Việt Nam muốn qua đây làm trong viện dưỡng lão
phải trả một số tiền từ năm ngàn rưỡi cho đến sáu ngàn đô la. Với số
tiến lớn như vậy thì khi qua bên này mà bị làm việc ở những nơi vi phạm
luật pháp như vậy thì họ không dám lên tiếng. Họ không dám nói vì sợ
không có công ăn việc làm để kiếm tiền gởi về Việt Nam trả cái nợ trước
khi rời khỏi Việt Nam.
Câu chuyện Viện Dưỡng Lão Thần Quang ở Đào Viên, liên quan đến các nữ
công nhân Việt Nam tại Đài Loan, mà nội vụ đang đươc quan tâm điều tra,
tạm ngừng ở đây. Thanh Trúc sẽ tiếp tục theo dõi để cập nhật thông tin
mới nhất đến quí thính giả.Thanh Trúc kính chào. Xin hẹn quý vị thứ Năm tuần tới.
Liên lạc với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-lab-in-hk-abus-06052013133616.html
Đảng Cộng sản Thái Lan đã tan rã như thế nào?
Trước đây đảng CS Thái Lan là đảng CS lớn thứ nhì tại Đông Nam Á, chỉ đứng sau đảng CS Việt Nam. Cho đến nay đảng CS Thái Lan còn hay mất và sự ta rã của đảng CS Thái Lan đã diễn ra thế nào?
Mục tiêu lật đổ Hoàng gia
Đảng CS Thái Lan, một đảng chính trị bất hợp pháp thành
lập ngày 1.12.1942, nhưng tiền thân của nó là đảng Cộng sản Xiêm. Đảng
này do ông Hồ Chí Minh, vào năm 1929 đã hợp nhất hai tổ chức cộng sản
của người Hoa và người Việt đã có từ trước đó trên đất Thái Lan. Với chủ
trương lật đổ Hoàng gia Thái bằng bạo lực.
Cũng như các đảng cộng sản khác ở Á châu bấy giờ, đảng
CS Thái Lan theo đuổi chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Với lực lượng là thành phần nông dân và dân nghèo.
Đảng CS Thái Lan lúc đầu dưới sự yểm trợ bằng tiền của quốc tế cộng sản, sau này là bằng cả tiền và vũ khí của cộng sản Trung quốc và Việt nam, thông qua các đảng CS từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia...
Đảng CS Thái Lan lúc đầu dưới sự yểm trợ bằng tiền của quốc tế cộng sản, sau này là bằng cả tiền và vũ khí của cộng sản Trung quốc và Việt nam, thông qua các đảng CS từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia...
Nguyên nhân của việc dân chúng theo CS, một cựu thành viên đảng CS
Thái Lan, hiện là một học giả nghiên cứu tự do xin không tiết lộ danh
tính cho biết:
“Sự ra đời của đảng CS Thái với mục đích đấu tranh
cho bình đẳng giai cấp không là mấy, mà mục tiêu cơ bản nhất của họ là
lật đổ Hoàng gia Thái Lan. Nhưng các lãnh tụ CS Thái Lan đã thông qua
việc lợi dụng lòng ham muốn vật chất của dân nghèo. Mà theo họ, đã có sự
bất công, thiếu công bằng trong việc sử dụng nguồn lợi giữa các nhóm
người trong xã hội, việc này cần phải được bình đẳng hơn thông qua một
cuộc cách mạng…”
Sự ra đời của đảng CS Thái với mục đích đấu tranh cho bình đẳng giai cấp không là mấy, mà mục tiêu cơ bản nhất của họ là lật đổ Hoàng gia Thái Lan.-Cựu thành viên đảng CS Thái
Sau khi đảng CS Xiêm ra đời, đảng này đã phát triển nhanh chóng và
lôi kéo được thành phần dân nghèo. Song trước sự khủng bố và đàn áp gắt
gao của chính quyền, phong trào đã nhiều lúc tưởng chừng bị tan rã. Để
đối phó, lãnh đạo đảng CS Xiêm đã chọn lựa, đào tạo một thế hệ lãnh đạo
mới, chuẩn bị cho sự ra đời của đảng CS Thái Lan vào ngày 1.12.1942
Năm 1948 theo tài liệu lưu trữ, đảng CS Thái có khoảng 3.000 đảng viên và được sự ủng hộ lớn của nông dân và dân nghèo. Thời kỳ này, đảng Cộng sản Thái Lan hoạt động âm thầm trong bí mật, không có gì nổi trội. Tuy nhiên họ cũng chịu sự khủng bố gắt gao từ phía chính quyền Thái Lan.
Năm 1948 theo tài liệu lưu trữ, đảng CS Thái có khoảng 3.000 đảng viên và được sự ủng hộ lớn của nông dân và dân nghèo. Thời kỳ này, đảng Cộng sản Thái Lan hoạt động âm thầm trong bí mật, không có gì nổi trội. Tuy nhiên họ cũng chịu sự khủng bố gắt gao từ phía chính quyền Thái Lan.
Đảng Cộng sản Thái Lan đã tham dự đại hội toàn quốc lần hai của đảng
CS Việt Nam và tham gia cuộc họp Quốc tế của các đảng cộng sản và công
nhân quốc tế vào năm 1960 tại Moscow. Tại hội nghị này, khi xảy ra mâu
thuẫn giữa Liên xô và Trung quốc thì đảng CS Thái Lan đã ngả theo Trung
quốc.
Số lượng đảng viên và quần chúng ủng hộ của đảng CS Thái Lan lúc đó tương đối lớn, các tổ chức của đảng này đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thuộc miền Bắc, Đông Bắc và miền Nam Thái Lan, kể cả thủ đô Bangkok.
Kể từ năm 1965, khi Quân đội giải phóng nhân dân Thái Lan được thành lập, thì việc sử dụng vũ trang trở thành phương cách đấu tranh chính thức.
Từ đó với sự yểm trợ của các nước cộng sản trong khu vực, thế và lực
của đảng Cộng sản Thái Lan đã trở nên rất mạnh, đặc biệt kể từ năm 1969
đảng này đã thành lập Mặt trận yêu nước Thái Lan.Số lượng đảng viên và quần chúng ủng hộ của đảng CS Thái Lan lúc đó tương đối lớn, các tổ chức của đảng này đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thuộc miền Bắc, Đông Bắc và miền Nam Thái Lan, kể cả thủ đô Bangkok.
Kể từ năm 1965, khi Quân đội giải phóng nhân dân Thái Lan được thành lập, thì việc sử dụng vũ trang trở thành phương cách đấu tranh chính thức.
Lúc này dân chúng và học sinh sinh viên theo CS Thái rất đông,
nhất là sau hai vụ bạo động của sinh viên ở thủ đô Bangkok vào các ngày 14.10.1976 và 6.10.1979, khi chính quyền Thái Lan phải thẳng tay trấn áp đẫm máu.
Hậu quả của vấn đề này một GS. hiện là chuyên gia đặc biệt của Viện nghiên cứu thuộc trường Đại học Rachphat Ubonrachthani xin dấu tên cho biết:
“Những người theo CS là những người chịu hậu quả của thể chế chính trị lúc đó, khiến cho họ không thể tồn tại trong đời sống xã hội như người bình thường. Để tồn tại, thì họ chỉ còn cách bỏ vào rừng và cầm súng chống lại để chứng tỏ họ không chấp nhận chính quyền. Cũng như không chấp nhận chính quyền thì bỏ vào rừng là lựa chọn duy nhất. Quan trọng là lý thuyết cộng sản lúc đó lại là lời giải và lối thoát đối với họ…”
Tại thời điểm năm 1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã chính thức xây dựng Liên minh các tổ chức đấu tranh cho dân chủ và tự do của Thái Lan, với Quân đội giải phóng nhân dân Thái Lan là chủ lực.
Thời điểm này số đảng viên cộng sản và phiến quân của đảng Cộng sản Thái Lan ước chừng gần một vạn người, và khoảng một triệu người ủng hộ. Đặc biệt trong giai đoạn này một nửa các thành phố Thái Lan đã bị cộng sản xâm nhập. Việc này đã khiến cả phía chính quyền và Hoàng gia Thái Lan đã thực sự lo ngại.
Chính thức tan rã
Bước ngoặt dẫn tới sự phân rã của đảng Cộng sản Thái Lan
là từ khi Việt nam đưa quân sang xâm lược Campuchia năm 1979. Hoàn cảnh
quốc tế đã thay đổi, buộc chính quyền CS Lào phải cấm đảng CS Thái Lan
sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ kháng chiến như trước đây. Đồng
thời quan hệ ngoại giao, thương mại giữa Thái Lan - Trung Quốc được tái
lập.
Năm 1980 chính phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên CS Thái Lan về chiêu hồi.
Năm 1980 chính phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên CS Thái Lan về chiêu hồi.
Những người theo CS là những người chịu hậu quả của thể chế chính trị lúc đó, khiến cho họ không thể tồn tại trong đời sống xã hội như người bình thường.
-Một Giáo sư dấu tên
Tháng 4/1981 lãnh đạo cộng sản Thái Lan đề nghị được đàm
phán hòa bình với chính quyền và chấp nhận yêu cầu bỏ vũ khí trước khi
khởi sự việc đàm phán. Tháng 10.1981, tướng Chawalit Yongchaiyud tuyên
bố cuộc chiến chống các lực lượng CS Thái Lan đã kết thúc.
Đến năm 1982, Thủ tướng Prem Tinsulanonda đã ký ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các phiến quân CS Thái Lan còn lại. Kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái Lan suy sụp nhanh chóng.
Cũng trong thời gian này hai thủ lãnh cao cấp của CS Thái Lan đã bị quân đội chính phủ bắt giữ. Tổ chức đảng CS Thái Lan chính thức tan rã, tuy nhiên ý thức hệ cộng sản chưa mất hẳn. Tới nay vẫn còn lẩn quất trong suy nghĩ của một nhóm người ở nông thôn vùng Đông Bắc, nơi được coi là lãnh địa của lực lượng Áo đỏ.
Đến năm 1982, Thủ tướng Prem Tinsulanonda đã ký ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các phiến quân CS Thái Lan còn lại. Kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái Lan suy sụp nhanh chóng.
Cũng trong thời gian này hai thủ lãnh cao cấp của CS Thái Lan đã bị quân đội chính phủ bắt giữ. Tổ chức đảng CS Thái Lan chính thức tan rã, tuy nhiên ý thức hệ cộng sản chưa mất hẳn. Tới nay vẫn còn lẩn quất trong suy nghĩ của một nhóm người ở nông thôn vùng Đông Bắc, nơi được coi là lãnh địa của lực lượng Áo đỏ.
Các thành viên CS đã ra chiêu hồi đến nay vẫn hoạt động
trong tổ chức "Chung tay xây dựng và phát triển dân tộc Thái", một tổ
chức quần chúng hoạt động hợp pháp ở Thái Lan. Hiện có nhiều người đang
tham gia các đảng chính trị và là Dân biểu Quốc hội.
Sự tan rã của đảng Cộng sản Thái Lan một phần do tác
động của các yếu tố quốc tế mang lại. Song về cơ bản yếu tố quyết định
là các chính sách hợp lòng người của chính quyền Thái Lan, đã đánh trúng
mong muốn của những thành viên phiến quân cộng sản ở mọi cấp.
Một khi con người ta được đánh đổi lại bằng một cuộc
sống bình thường, của một con người tự do thì mọi lý tưởng cũng chỉ là
thứ xa hoa và phù phiếm.
(Đây là một vấn đề nhạy cảm ở Thái Lan, vì có phần
nào liên quan đến Hoàng gia Thái Lan nên các nhân chứng đề nghị được
giấu tên)
Mỹ Trung tìm mô hình quan hệ mới, tuy còn nhiều bất đồng
Tổng thống Mỹ Barack Obama và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp nhau tại Rancho Mirage, California (REUTERS /K. Lamarque)
Tổng thống Mỹ Barack Obama và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình gặp nhau trong hai ngày 07/06 và 08/06/2013 tại California. Cuộc
thảo luận trong ngày đầu tiên được mô tả là « thân thiện ». Washington
hy vọng sẽ cùng Bắc Kinh thiết lập quan hệ « tin cậy lẫn nhau », nhưng
lãnh đạo Trung Quốc vẫn cố thủ trong lập trường chính thức : Bắc Kinh
không đứng đằng sau các vụ tấn công tin học.
Tại California, hàng ngàn người chống Trung Quốc xâm lược và vi
phạm nhân quyền đã tập họp biểu tình gần nơi tổ chức hội nghị.
Đón tiếp chủ tịch Trung Quốc tại Rancho Mirage, bang California
trong một cuộc gặp gỡ bán chính thức và cởi mở, tổng thống Mỹ Barack
Obama hy vọng thuyết phục lãnh đạo Bắc Kinh cùng xây dựng một « mô hình
hợp tác mới ».
Tuy nhiên, trong ngày đầu tiên 07/06/2013 tổng thống Mỹ đề cập ngay
một số vấn đề mà công luận Mỹ và Tây phương rất bất bình Trung Quốc : đó
là nạn tin tặc và hồ sơ nhân quyền. Thông tín viên Jean- Louis
Pourtet tường thuật :
"Nguyên thủ hai nước không mang cà-vạt trong buổi tiếp xúc đầu
tiên. Tổng thống Mỹ muốn tổ chức hai ngày thảo luận không chính thức để
tìm hiểu thêm về nhân vật lãnh đạo mới của đối thủ Trung Quốc. Trái
với phong cách gò bó và kiểu cách của Hồ Cầm Đào, ông Tập Cận Bình
chấp nhận được đón tiếp một cách đơn sơ.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên có vẻ nồng nhiệt, hai nhà lãnh đạo cam kết
xây dựng quan hệ tốt đẹp mà theo tổng thống Obama sẽ « quan trọng cho
toàn cầu ». Ông Tập Cận Bình thì so sánh hội nghị California hôm nay
với chuyến viếng thăm « lịch sử » của cố tổng thống Richard Nixon vào
đầu thập niên 1970 tại Bắc Kinh và thẩm định quan hệ Mỹ -Trung đạt đến
một « khởi điểm mới ».
Tuy nhiên, đằng sau những lời hoa mỹ này là nhiều vấn đề xung
khắc : Tổng thống Obama đã liệt kê ra trước các nhà báo : những hồ sơ
gây bất đồng giữa hai nước chẳng hạn như nạn tin tặc, trao đổi thương
mại, vi phạm nhân quyền … Hoa Kỳ cũng muốn Bắc Kinh thuyết phục Bình
Nhưỡng từ bỏ tham vọng vũ khí hạt nhân.
Trong bối cảnh Washington quyết định tập trung chính sách đối
ngoại vào châu Á - Thái Bình dương , tổng thống Mỹ cũng phải trấn an
khách mời rằng chiến lược tái phối trí lực lượng không phải là mối đe
dọa cho Trung Quốc.
Tuy sẽ không có những kết quả ngoạn mục nào sau hai ngày đối
thoại nhưng Hoa Kỳ hy vọng nắng ấm ở Rancho Mirage sẽ giúp tạo ra bầu
không khí « tin cậy » hơn giữa hai bên".
Theo AFP, tổng thống Mỹ có cơ hội giải thích với lãnh đạo Trung Quốc
là cần phải tôn trọng nhân quyền vì đó là « chiếc chìa khóa của thành
công, phồn thịnh và công lý ».
Về phần lãnh đạo Trung Quốc, khi bị một phóng viên chất vấn phải
chăng Trung Quốc là thủ phạm tấn công đánh cấp tại liệu trên đất Mỹ, ông
Tập Cận Bình từ chối trả lời.
Bên ngoài địa điểm họp thượng đỉnh Sunnylands, hàng ngàn người biểu
tình chống Tập Cận Bình gồm các tổ chức nhân quyền, thành viên Pháp
Luân Công, phong trào tranh đấu đòi độc lập cho Tây Tạng ... Trong khi
nhiệt độ bên ngoài lên tới hơn 44°C, cộng đồng Philippines và người Việt
hải ngoại tham gia đông đảo với biểu ngữ lên án « Trung Hoa đỏ xâm lược
biển Đông ».
tags: Châu Á - Hoa Kỳ - Quốc tế - Trung Quốc
Trung Quốc lo ngại nguy cơ chiến tranh thương mại với châu Âu
Thị truờng Trung Quốc chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu rượu vang của Pháp (Tim Graham / Gettyimages)
Ngày 04/06/2013 vừa qua, Ủy ban châu Âu đã quyết định tạm
thời tái lập mức thuế 11,8% đối với mặt hàng pin điện mặt trời của Trung
Quốc bị coi là bán phá giá do có trợ cấp của Nhà nước. Đồng thời,
Bruxelles cảnh báo là từ nay đến tháng Tám, nếu không đạt được thỏa
thuận với Bắc Kinh về hồ sơ này, thì mức thuế sẽ tăng lên đến 47,6%.
Ngay hôm sau, để trả đũa, bộ Thương mại Trung Quốc thông báo mở
điều tra về rượu vang của châu Âu. Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận
của đảng Cộng sản Trung Quốc còn tuyên bố : « Chúng ta sẵn sàng đàm
phán, nhưng chúng ta luôn luôn có nhiều lá bài trong tay » và « Trung
Quốc không muốn chiến tranh thương mại, nhưng chính sách bảo hộ mậu dịch
đương nhiên dẫn đến các biện pháp phản công ». Tờ báo còn chỉ trích
châu Âu có thái độ cao ngạo, không ý thức được rằng uy tín của châu lục
này đã bị suy giảm trên thế giới.
Những tuyên bố hùng hồn như vậy cho thấy là Trung Quốc rất khó chịu
trước quyết định của châu
Âu. Từ vài năm qua, ngành công nghiệp sản xuất
pin điện mặt trời tại Trung Quốc gặp nhiều khó khăn. Đầu năm nay, sự
phá sản của tập đoàn khổng lồ Suntech Trung Quốc gây chấn động. Chính
điều này làm cho giới phân tích Trung Quốc lo ngại. Giáo sư kinh tế Lâm
Bá Cường (Lin Bo Qiang) thuộc đại học Hạ Môn Phúc Kiến, phân tích :
« Chính phủ Trung Quốc không có lựa chọn nào khác. Hoặc là họ phải
phân phát trợ cấp, hoặc là họ phải trả giá cho sự phá sản của các doanh
nghiệp Trung Quốc sản xuất tấm pin điện mặt trời. Trên thực tế, đa số
các doanh nghiệp này đã vay tiền của các ngân hàng thuộc Nhà nước. Như
vậy, rốt cuộc, Nhà nước Trung Quốc sẽ phải hứng chịu các khoản nợ này.
Từ hai năm nay, các doanh nghiệp Trung Quốc trong lĩnh vực này đã gặp
rất nhiều khó khăn, họ không thể cầm cự lâu hơn nữa, nếu châu Âu quyết
định duy trì các biện pháp chống bán phá giá. Mọi người hy vọng là từ
nay đến mồng 6 tháng Tám, Bắc Kinh và Bruxelles sẽ đạt được đồng thuận.
Bởi vì, nếu không, thì khó tránh khỏi một cuộc chiến tranh thương mại.
Thị trường châu Âu có vị trí rất quan trọng đối với các doanh nghiệp
Trung Quốc ».
Theo cơ quan chuyên về tài chính năng lượng mới của Bloomberg
(Bloomberg New Energy Finance – BNEF), trong năm 2012, 71% sản lượng pin
điện mặt trời trên thế giới được sản xuất tại Trung Quốc, thay vì chỉ
có 34% trong năm 2007. Tại châu Âu, Đức chiếm 7% tổng sản lượng thế
giới, các nước châu Âu khác có tỷ lệ không đáng kể, dưới 1%. Điều này
thể hiện rõ qua việc 6 tập đoàn Trung Quốc năm trong số 10 doanh nghiệp
đứng đầu thế giới. Tập đoàn Anh Lợi của Trung Quốc giữ vị trí số một thế
giới.
Quyết định của Bruxelles nâng mức thuế đối với pin điện mặt trời
Trung Quốc gây chia rẽ trong nội bộ Liên Hiệp Châu Âu. Chính quyền Đức
lấy làm tiếc về quyết định của Ủy ban châu Âu.
Đòn phản công của Trung Quốc nhắm vào rượu vang của châu Âu cũng gây
tác động mạnh, vì biện pháp chủ yếu nhắm vào Pháp. Thị truờng Trung Quốc
chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu rượu vang Bordeaux của Pháp. Năm
ngoái, Pháp đã bán 140 triệu lít rượu vang, với tổng giá trị lên tới
khoảng 800 triệu đô la.
Hồ sơ pin điện mặt trời Trung Quốc là vụ xung đột thương mại nghiêm
trọng nhất mà châu Âu chưa bao giờ phải đối mặt và đây cũng là một trắc
nghiệm về khả năng đoàn kết của các nước trong Liên Hiệp Châu Âu trước
những vấn đề nẩy sinh trong thương mại quốc tế. Chính vì thế, tổng thống
Pháp François Hollande đã kêu gọi 27 thành viên Liên Hiệp Châu Âu vượt
lên mọi chia rẽ và đề nghị châu Âu bàn về hồ sơ này trong cuộc họp
thượng đỉnh sắp tới.
Hiện nay, Liên Hiệp Châu Âu là đối tác thương mại số một của Trung
Quốc, còn đối với châu Âu, Trung Quốc là đối tác đứng hàng thứ hai, sau
Hoa Kỳ. Năm 2012, tổng xuất khẩu của Trung Quốc sang Liên Hiệp Châu Âu
là 290 tỷ euro, trong khi chiều ngược lại chỉ đạt mức 144 tỷ euro.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130608-trung-quoc-lo-ngai-nguy-co-chien-tranh-thuong-mai-voi-chau-auLÊ THĂNG LONG * CÔNG AN TRỊ
Ra đi và trở về
Posted by chuyenhoavietnam ⋅ ⋅ Để lại phản hồi
RA ĐI
Ngày 4/6/2009, không hiểu sao do một sự sắp đặt ngẫu nhiên nào mà một
người bạn lại rủ tôi uống cà phê ở quán Rita đường Nguyễn Văn Cừ ngay
đối diện xéo với khu bộ công an. Trong đó có trại tạm giam an ninh điều
tra B34 của bộ Công an, mà sau này tôi mới biết tên và đó cũng chính là
trại giam của phủ đặc ủy trung ương tình báo chế độ Sài Gòn trước đây.
Trong đó có người bạn thân, người đồng chí, người lãnh đạo hàng đầu của
phong trào dân chủ, nhân quyền Việt Nam – Trần Huỳnh Duy Thức đang bị
giam giữ. Khi uống cà phê, chúng tôi nói nhiều về người bạn mình bị giam
đâu đó trong kia, không biết bao giờ mới được thả.
Khoảng sau 5 giờ chiều tôi đi về nhà bằng xe máy. Vừa đi được một
quãng ngắn, qua khỏi ngã tư Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Trãi đột ngột xuấn
hiện hai thanh niên thường phục lực lưỡng trên một xe mô tô ép tôi vào
sát lề và gằn giọng nói: anh có phải là Lê Thăng Long? Yêu cầu anh lên
xe về cơ quan an ninh! Ngay lúc đó, một xe ô tô bảy chỗ trờ tới và họ
đẩy tôi lên xe đã có sẵn mấy an ninh. Tôi bị đe dọa và khống chế ngay
lập tức. Xe quay đầu lại chạy về khu an ninh điều tra, bộ công an ngay
gần đó, gần đối diện với chỗ tôi vừa uống café. Tại đó, mấy chục an ninh
thường phục và quân phục đang đứng chờ và nhìn tôi soi mói. Một sỹ quan
an ninh nói: may quá, anh uống cà phê ngay đây, anh làm chúng tôi đỡ
phải huy động người đi bắt anh ở xa!
Họ tiến hành đọc lệnh bắt khẩn cấp và sau đó đưa tôi về công an
phường nơi tôi ở. Họ kêu công an phường, tổ trưởng dân phố và đưa tôi về
nhà để khám xét và xác nhận với gia đình và địa phương việc bắt giữ.
Má tôi và ba tôi đã đau xót chứng kiến cảnh bắt giữ tôi ở nhà. Ông bà
hoàn toàn sốc và bất ngờ. Tôi bình tĩnh động viên ba má mình. Trong lúc
đó, bên an ninh đi kèm theo mấy người cả quân phục và thường phục. Họ
dùng máy quay phim và chụp ảnh ghi lại từng chi tiết quá trình bắt giữ,
khám xét với thái độ đầy đe dọa. Má tôi gom vội cho tôi mấy thứ đồ dung
cá nhân. Chắc mọi người không ngờ tôi sẽ chỉ được gặp lại gia đình mãi 3
tháng sau đó và ở tù luôn đến đúng 3 năm mới trở về nhà. Đêm đó, những
nhân viên an ninh đã quần tôi để lấy những lời khai đầu tiên tới gần
sáng.
TẠM BIỆT
Trước hai ngày khi tôi được trả về nhà, chiều 02/06/2012 tôi được
thông báo sẽ được trả về nhà vào ngày 04/06/2012. Đúng ba năm kể từ khi
bị bắt.
Ngày hôm sau, tôi làm các việc chia tay với các anh em bạn tù. Tìm đủ
mọi cách, tôi đã xuống được khu giam riêng chúng tôi và anh Thức trước
đây để chia tay anh Thức. Bây giờ quay lại đây là một điều cực kỳ khó.
Cách đây 2 tháng, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và tôi đã được chuyển lên ở
chung với khu tù hình sự. Bây giờ dưới khu giam giữ đặc biệt này chỉ còn
lại hai người là anh Thức và anh Trịnh Ngọc Thái – một cựu đảng viên
cộng sản bị buộc tội điều 88. Sau này tôi mới hiểu là họ muốn cho tôi
nếm trải cuộc sống của tù hình sự trước khi trở về, nhưng muốn giữ bí
mật không cho tôi biết điều đó. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng về sau lại được
chuyển xuống ở chung với khu giam riêng với anh Thức, cùng với nhạc sỹ
Việt Khang vừa chuyển về.
Trong không khí xúc động, anh Thức dặn dò tôi lần cuối những gì cần
phải làm. Tôi biết rằng tôi đang nhận một trọng trách rất lớn với anh và
với mọi người. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau và cố nén lòng để không khóc.
Không biết bao giờ tôi sẽ gặp lại anh, người bạn thân, người đồng
nghiệp và người đồng đội của mình! Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau để
truyền cho nhau niềm tin và nghị lực. Anh hướng mắt nhìn theo mãi cho
đến khi tôi đi khuất!
Thời gian 2 tháng cũng giúp tôi hiểu thêm nhiều điều về mặt sau của
cuộc sống những người tù hình sự và nguyên nhân nào khiến họ bị đẩy vào
con đường tù tội và tại sao tù hình sự ngày càng nhiều đến thế trên đất
nước Việt Nam. Tôi được đưa vào ở chung trong phòng có 50-60 tù hình sự
thuộc loại dữ dằn nhất của phân trại 1, trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai. Đa
số họ bị tù chung thân, án vài chục năm, hoặc bị đi tù 2-3 lần. Tiếng
lóng trong tù gọi là 2-3 “khóa”.
Đồ dùng cá nhân tôi chia lại hết cho các anh em tù ở lại. Họ rất trân
trọng những người tù chính trị, tù nhân lương tâm như chúng tôi. Trong
suốt 2 tháng, tôi đã kịp tìm hiểu và chia sẻ với nhiều anh em ở đây. Mỗi
người một hoàn cảnh, từ các em vị thành niên đến những người già trên
60 tuổi; từ giết người, cướp của, trộm cắp đến buôn ma túy, lừa đảo …
Một mặt họ rất dữ dội mang phần “con”, một mặt họ đầy yêu thương của
phần “người”. Họ chia sẻ với tôi, đặt niềm hy vọng ở những người như tôi
để có thể giúp họ có tiếng nói ra bên ngoài và có một sự thay đổi nào
đó tốt đẹp hơn trong tương lai. Tôi hiểu rằng, nếu được sống trong tình
yêu thương, quan tâm lẫn nhau thực sự thì đa số họ sẽ không phải vào đây
và họ sẽ trở thành những người hữu ích cho cộng đồng.
TRỞ VỀ
Sáng sớm 4/6: khoảng 6 giờ tôi đã được gọi ra ngoài cổng trại. Tôi
yêu cầu được xuống chia tay với anh Thức nhưng công an dứt khoát không
cho. Tôi kịp vẫy tay chào chú Năm Thơ, đạo Hòa Hảo – một tù nhân lương
tâm. Tôi gặp lại viên trung tá công an phụ trách an ninh phân trại 1.
Ông nói giọng thiếu thiện cảm về anh Thức rằng: Nếu như anh Thức không
“biết điều” thì sẽ ở tù đến hết án. Tôi biết đây là một lời đe dọa và
thực sự ông ta nghĩ như vậy. Nhưng tôi vững tin rằng mọi sự sẽ thay đổi
rất nhanh và ông ta sẽ hiểu ra nhiều điều không lâu nữa.
Xe trại giam đưa tôi về đến Công an Quận 1, Sài Gòn. Từ đó họ đưa tôi
về phường Nguyễn Thái Bình để làm thủ tục bàn giao quản chế tôi tiếp 3
năm với chính quyền địa phương. Tới trưa tôi mới được chở về tới nhà.
Nhà trống vắng! Bà ngoại tôi đang nằm trên giường một mình, bà năm nay
97 tuổi, vẫn còn nhận ra tôi tuy đã già yếu lắm. Má tôi đang bệnh nặng
và nằm trong bệnh viện. Ba tôi đang vào thăm và chăm sóc má. Vợ con tôi
vẫn ở Hà Nội. Tôi điện thoại ngay cho má, bà mừng quá bật khóc!
Một giai đoạn mới bắt đầu. Tôi lại tiếp tục con đường mà chúng tôi đã
chuẩn bị và sẽ khởi xướng trong mấy ngày tới: Phong trào Con đường Việt
Nam. Con đường trung đạo, yêu thương và trung dung nhằm mục tiêu bảo
vệ quyền làm người trên hết và bình đẳng tại Việt Nam. Con đường mà cả
ba anh em Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định và tôi cùng mọi người đã và
đang ấp ủ cho dân tộc Việt Nam để vượt qua bao gian khổ, đắng cay đến
bến bờ tự do và hạnh phúc.
Sài Gòn, 04/06/2013,
Lê Thăng Long
NHỮNG BÀI THƠ NÃO LÒNG
Tôi không biết ông Thiệu,
Yêu mến lại càng không,
Nhưng buộc phải thừa nhận
Một thực tế đau lòng,
Rằng ông ấy nói đúng,
Thời còn ở Miền Nam:
“Đừng nghe cộng sản nói.
Hãy xem cộng sản làm!”
Tôi sống ở Miền Bắc
Sáu mươi lăm năm nay,
Và buộc phải thừa nhận
Một thực tế thế này:
Rằng ta, đảng, chính phủ,
Thường hay nói một đàng
Mà lại làm một nẻo.
Nhiều khi không đàng hoàng.
Đảng, chính phủ luôn nói,
Mà nói hay, nói nhiều,
Rằng sẵn sàng chấp nhận
Những ý kiến trái chiều.
Vậy mà một nhà báo,
Nói ý kiến của mình,
Nói đàng hoàng, chững chạc,
Có lý và có tình,
Liền bị buộc thôi việc.
Ai cũng hiểu vì sao.
Không khéo lại tù tội.
Như thế là thế nào?
Như thế là các vị
Mặc nhiên thừa nhận mình
Không làm như đã nói,
Gây bức xúc dân tình.
Là một người yêu nước
Là công dân Việt Nam,
Tôi mong đảng đã nói,
Là nhất thiết phải làm.
Vì đó là danh dự,
Niềm tin và tương lai.
Hãy chứng minh ông Thiệu
Nói như thế là sai.
PS
Tôi không biết ông Trọng,
Yêu mến lại càng không,
Nhưng là chỗ người lớn,
Tôi thành thật khuyên ông
Rút cái giấy sa thải
Một nhà báo công minh.
Phần ông, nếu phục thiện,
Cũng nên xem lại mình.
Tôi nhận hưu nhà nước
Cũng đã mấy năm nay.
Hy vọng còn được nhận
Sau bài thơ ngắn này.
409
Đảng lãnh đạo sáng suốt,
Lịch sử thì vẻ vang,
Dân anh hùng, vĩ đại,
Biển bạc và rừng vàng.
Thế mà ta, thật tội,
Chẳng dám mơ cao xa
Thành bác Mỹ, bác Nhật
Bác EU, bác Nga.
Cái dân ta mơ ước,
Ngẫm mà thấy đau lòng,
Mơ được như Miến Điện,
Mà rồi cũng chẳng xong.
Tội mấy bác lãnh đạo,
Nói gì cũng toàn sai,
Bị dân tình la ó,
Nhiều lúc đến khôi hài.
Là vì danh không chính,
Ngôn không thuận được đâu.
Cố mấy cũng không đúng,
Khi đã sai từ đầu====================================================: Bài thơ đã làm bao người đọc xót xa cho VN !!!
THIS IS THE LITTLE YOUNG GIRL LIVING IN THE V.N. COMMUNIST REGIMEBài thơ đã làm bao người đọc xót xa cho VN !!Từ ngày Bác vô đâyEver since you came
Bài thơ đầy nước mắt của một cô gái đang sống dật dờ tại thị xã Cần Thơ:
Lúc mà các bác chưa có vô đây
Cháu chưa có mặt trên đất nước này
Má cháu còn đi đến trường mỗi sáng
Đúng tuổi trăng tròn, đôi má hây hây.
Kể từ sau ngày các bác vô đây
Ông Ngoại bỗng nhiên bị bắt, tù đày
Bà Ngoại nhớ chồng rưng rưng mỗi tối
Má cháu ưu sầu đánh mất thơ ngây.
Hai năm sau ngày các bác vô đây
Một sáng mùa Đông sương trắng giăng đầy
Các bác đến nhà, lưng đeo súng đạn
Bắt Má đi làm thủy lợi miền Tây.
Một tháng đi làm thủy lợi miền Tây
Má về ốm o, thân xác hao gầy
Má ôm Ngoại khóc, thì thầm kể lể:
Cán bộ hiếp con, có lúc cả bầy!
Rồi cháu ra đời không Ba, có Má
Ngoại vừa nằm xuống nên Má trắng tay
Bán buôn tảo tần Má nuôi cháu lớn
Dù không biết rằng Ba cháu là ai!
Mười tám năm sau ngày bác vô đây
Tài sản, cửa nhà không cánh mà bay
Má cháu qua đời sau cơn bạo bệnh
Còn gì bán nữa? – Ngoài thân cháu đây?
Gần hai mươi năm sau ngày bác vô
Cháu mười sáu tuổi thân xác héo khô
Vậy mà phải bán, lấy tiền mua gạo
Tính ra sáng chiều – chỉ khoảng một tô!Nguyễn Thành Bửu "You " means Ho Chi Minh.Ever Since You Came(Translated by Anne)Before you guys arrived in here
I was not even born yet
Mom walked to school each morning
Rosy cheeks, a sweet sixteen
After you came, suddenly one day
Grandpa was persecuted and imprisoned
Every night Grandma shed mournful tears
Mom felt sullen -- her innocence was lost
Two years passed from the day you came
On a wintry morning which shrouded in mist
Armed with guns, you came knocking at our door
And whisked Mom away to a labor camp
After one month, Mom returned home
Nothing but skin and bones
Embracing Grandma, she wept:
They raped me, Ma, gang-raped and all!
And so I was born, a fatherless child
Grandma passed away, leaving Mom penniless
Mom scraped a living to support me
Dad was all the while anybody's guess!
Eighteen years after you came
We went totally broke
Mom died of a terminal illness
Now then, what's left but my own body to trade?
Almost twenty years after you came
At sixteen, my body withered -- hardly a dish
I toiled from dawn to dusk
In return just for a loaf of bread!
Translated by Anne
Go to group website
Remove me from the group mailing list__._,_.___
Friday, June 7, 2013
ĐẶNG CHÍ HÙNG * LÊ DUẨN
Những sự thật cần phải biết (phần 7): Lê Duẩn và sự tàn ác với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
- Quá khứ đã trôi qua gần 40 năm , tuy nhiên quá khứ đó vẫn là nỗi đau
với nhân dân Việt Nam nói chung và quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa
nói riêng. Vết thương không thể lành lặn nếu đảng cộng sản vẫn tiếp tục
xúc phạm danh dự của quân dân Việt Nam Cộng Hòa và đàn áp nhân dân Việt
Nam. Tôi viết bài này chỉ xin góp một tiếng nói chân thật của lịch sử
nhằm phanh phui tội ác của Lê Duẩn và cộng sản Việt Nam, để như một nén
hương với người đã khuất trong lao tù cộng sản hay tri ân những ai đã vì
tự do mà phải chịu đọa đày trong ngục tù cộng sản.
Như trong “Những sự thật cần phải biết 6”, bài Lê Duẩn: Kẻ đồng mưu với Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân Mậu Thân 1968,
tôi đã trình bày với bạn đọc tội ác của Lê Duẩn trong việc đồng mưu
cùng Hồ Chí Minh tàn sát hàng nghìn người dân Huế vô tội tết mậu thân
68. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin trình bày về tội ác tiếp theo của
Lê Duẩn trong việc trả thù tàn bạo đối với quân dân cán chính Việt Nam
Cộng Hòa sau năm 1975. Đây là một trong những tội ác không thể bỏ qua vì
nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The
Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The
International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Trên thực tế , những ai là quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa sau khi
bị bị cộng sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài ra, gia đình họ bị
cộng sản bức hại đi lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lý lịch xấu, nhà
của bị tịch thu là những nỗi thống khổ của những quân dân cán chính
VNCH. Trong khuôn khổ bài viết này, tội ác của Lê Duẩn và đảng cộng sản
đối với quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa trong lao tù của cộng sản.
I. Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ :
Thứ nhất, ngày Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The Wall Street
Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của
nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập
cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng: "Ngay sau khi xâm chiếm
VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời
hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù
được thiết lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả những nơi rừng
thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại
đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người
đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho
mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.”
Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử của đảng cộng sản cộng sản
và những người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng được được đưa vào
cáo trạng mà chúng tôi đang thực hiện nhằm đưa tội ác của Hồ Chí Minh và
đảng cộng sản ra trước ánh sáng công lý.
Cũng theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ mỗi ba gia đình tại
Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một
triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn,
đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị,
bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị
Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện
nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn
giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác
chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ
phạm là Lê Duẩn…”.
Thứ hai, trong tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14 được lưu chiểu
ngày 14/02/1977 tại cục lưu trữ Bộ Quốc Phòng Cộng sản ghi rõ như sau
tại trang số 6: "Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở
thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người.
Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với
gia đình , bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản lý là 1.236.569
người".
Qua tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản nói lên điều gì? Đó là họ đã
coi những quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa là những “Tù nhân”. Trên
thực tế, họ không phải là tù nhân vì theo như cộng sản tuyên truyền họ
chỉ đi học tập chủ trương đường lối của “cách mạng”. Nhưng chính tài
liệu của cộng sản đã coi họ là tù nhân.
Ngoài ra con số người mà đảng cộng sản cho biết chính là con số nói lên
thực tế về trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê Duẩn bày ra nhằm trả thù
quân dân cán chính VNCH.
Thứ ba, theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo thực sự đều là tù chính trị như sau: “Năm
1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng
9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ . Binh sĩ
VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975.AFP/Getty Images – Cấp
Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80
tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Ðại tá có 600, bị tù
366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500.
– Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân
cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Ðây là con số ghi
nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các
trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù
cải tạo bị chết trong khi giam cầm”.
Như vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền Nam, cộng với những thống kê
những người chết do cộng sản đạo đày trong tù thì những con số mà Viện
Bảo tàng cũng cho thấy cộng sản đã biến cả nước Việt Nam thành một địa
ngục tù ngục trong chính sách trả thù man rợ của mình đối với những ai
liên quan đến VNCH.
Thứ tư, để thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân dân cán chính
VNCH, cũng cần phải nhắc lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương theo chủ
nghĩa cộng sản độc tài của Liên Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem
chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3
(Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ" phần 4,10,11,12)
và làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô. Những tư tưởng của Lê Nin đã
được Hồ Chí Minh truyền thụ cho đàn em của mình trong việc trả thù những
ai bất đồng chính kiến, trong trường hợp này là quân dân quán chính
VNCH. Vì vậy nhìn lại Việt Nam sau năm 1975 như một trại tù khổng lồ của
cộng sản không có gì là điều lạ lùng . Hãy đọc cuốn “Lê Nin và Xã hội chủ nghĩa" xuất bản tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có viết:
"Chiếm được một tỉnh, giải phóng được một nước thì dễ nhưng giữ yên
được đất nước, địa phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau khi chiếm được
lãnh thổ, trước hết phải tập trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành
phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ khi nào ổn định được xã hội, nắm vững
tình hình an ninh nội chính mới thả chúng về”.
Và cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê Duẩn sau này không quên nói thêm: "Bọn
này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh
rất nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản vì dễ bị
bọn phản động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ”(Trích cuốn “Lê Nin tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh.).
Qua đây chúng ta có thể thấy, việc cộng sản Việt Nam học tập tư tưởng
của Lê Nin nhằm trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa cũng
là điều hết sức thường tình đối với bản chất của cộng sản.
Thứ năm, trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”).
Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng
sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một
sự đối nghịch đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 202 của cuốn sách in
năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau: “Sau ngày 30/4/1975, tư
tưởng của Mác, Lê Nin đã hoàn toàn làm chủ cả Việt Nam. Hàng triệu người
theo chế độ cũ do người Mỹ giúp đỡ đã phải vào tù theo lệnh cải tạo của
nhà nước Việt Nam”.
Cuốn sách này cho thấy người cộng sản Pháp đã phải công nhận có hàng
triệu người quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa bị cộng sản đẩy vào tù
để phục vụ cho mục đích trả thù những ai không theo cộng sản độc tài.
II. Trả thù man rợ :
Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản Việt Nam, đã thi hành chính
sách bắt những người là quân dân cán chính đi cải tại các trại tập
trung. Thực chất là đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô thân. Rồi
chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải
vượt biên... Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven
biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của… Những thương
phế binh VNCH thì bị đẩy ra lề đường.
Để nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng sản đã phải thừa nhận sự
thật này . Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần Vietnamnet: "Anh
tên Ngô Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, đi lính
cho chế độ Sài Gòn năm 1970… So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi
còn may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương
binh phía Bắc còn có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần
quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc của gia đình anh Vò chủ yếu làm
ruộng, và ai thuê gì làm nấy. Công việc khá thường xuyên của anh là lấy
đất thải san ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả bom mìn còn sót lại
trong vùng đem bán. Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng tiệm cuộc
sống”. (Links của bài báo : http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).
Còn đối với những người bị giam trong tù thì ra sao? Xin điểm lại một số
chứng cứ để thấy cộng sản đã đối xử với quân dân cán chính Việt Nam
cộng hòa như thế nào.
Trên thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa được thông báo: "Công
chức trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới
Tổng thống; sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng
phái, nhân viên tình báo ra trình diện học tập tại trường Gia Long…,
mang theo quần áo, lương thực.. đủ dùng trong một tháng”.
Khoảng hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra
Chính sách 12 điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do
Công an quản lý, đối xử hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này
cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều
người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời,
Thanh Hóa, Hà Nam Ninh…
Những người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ vì có gia đình thăm nuôi
vả lại miền nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê
thảm, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết
bỏ xác miền Bắc hoặc hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những
người quá trình nhẹ hoặc có thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều
được về trong vòng ba năm, cấp trung úy hoặc ty sở trưởng, những người
có liên hệ an ninh tình báo thường là được về sau 5 hay 6 năm... Trong
thời gian đó, cộng sản hành hạ quân dân cán chính VNCH hết sức tàn tệ:
Thứ nhất, sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn
sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng
cộng sản đã nghĩ ra một giải pháp thâm độc và tránh được sự lên án của
Quốc tế đó là giam cầm và hành hạ quân dân cán chính VNCH. Quân cán
chính Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ trình diện để “học tập” ngắn
hạn. Gọi là “tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba
năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai
chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy
hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải
gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai
cũng rùng mình.
“Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường
khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra,
đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, (Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 152.).
Người tù bất khuất Tạ Tỵ đã mô tả cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản
hết sức kinh khủng vì có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế,
kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành
xác này.
“Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao
động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai
chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi
sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối,
không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc
hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí
lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được
ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.).
Thứ hai, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những người đã chứng
kiến cảnh tượng đó. Và ông đã mô tả chân thực cuộc sống của nhà tù cộng
sản giành cho quân dân cán chính VNCH. Chật chội, ngột ngạt hơi người,
mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm.
Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước, nhiều khi có
chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào
các dẫy hố đào trên mặt đất…
“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa
bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào
cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng
cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều.
Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi
ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải
mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt
cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do
Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai
tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường
thì phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Ðầu Địa Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ.).
Và cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều quan trọng đối với tôi là cái
đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi
lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần
thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon
làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ
hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố
học”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.).
Cùng đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:
“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên
tắc mà tù nhân bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ
tù. Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải
đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn đá
bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm
răng. Trường hợp nặng hơn thì “lấy cấp pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “
xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối
phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn hữu Lễ.)
Thứ ba, cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của Hà Thúc
Sinh để thấy sự tàn tệ của nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính
VNCH như thế nào. Hình ảnh cánh binh cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy”
được mô tả như sau: “Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười
thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt
chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai
chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng
một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng
quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116).
Tác giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả tình trạng thiếu thuốc men và y tế của cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH: "Mặt
đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì
bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp
hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí
chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.).
Thứ tư, cũng có rất nhiều tác giả khác đã từng ngồi tù cộng sản
bằng mỹ từ “học tập cải tạo” đã viết lên những khốn khổ trong tù cộng
sản mà trong khuôn khổ bài này tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một
số điểm chính để bạn đọc thấy rõ bản chất tàn bạo của cộng sản.
Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền
VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường Saint Cyr
(Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học Luật khoa Sài
Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt
(1966-1968), Cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo
Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù cải tạo
(1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990.
Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn,
nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, nguyên Chủ
Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết nhiều bài
khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi có viết:
"Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở
trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường,
chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về
vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4 chén
cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không
đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm
nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì
hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên hồi hoặc đục
đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô
mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể
nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.Sức
người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh
những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống
đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện
những cái chết vì đói, vì thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc
anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có
một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành
quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây súc động. Tù nhân chờ
đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát”.
(Links:
Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn “trại kiên giam “ nổi tiếng của mình thì viết: "Tiêu
chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước
muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp
nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai
cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai
thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật
hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu
đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày
mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để
ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày
đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”. (Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35).
Hoặc: “Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị
đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ
cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng
lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau
buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc
cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ
một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng
ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị
lắc còng điểm danh”, (Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí Thiện, tr 473).
Thứ năm, trên thực tế còn rất nhiều bằng chứng từ chính những
người bị cộng sản trả thù man rợ. Nhưng còn phe cộng sản nói gì về điều
này? Xin giới thiệu cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã được giải mật năm 2008 (Đã giới thiệu ở “Những sự thật cần phải biết” phần 5) cho biết tại trang 75 như sau: "Những
hình phạt của đảng cộng sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài Gòn
đã cho thấy những người anh em của chúng ta đã không quên phương pháp mà
Xtalin áp dụng...”.
Cuốn sách này còn nói thêm tại trang 82: "Trong một điều kiện khó
khăn và kỷ luật hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam thống nhất đã
thanh lọc rất tốt tư tưởng của những người đi theo Mỹ…”.
Như vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đã chỉ rõ cộng sản Việt Nam học
tập phương pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng loạt đó Xtalin. Và cuốn
sách nhắc đến cum từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản chất bạo tàn của
cộng sản trong đó có cộng sản Việt Nam áp dụng đối với quân dân cán
chính VNCH.
III. Lê Duẩn là đầu xỏ :
Việc trả thù quân dân cán chính VNCH do chủ trương của đảng cộng sản gây
ra. Những người trực tiếp thực hiện đó là Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà,
Cao Đăng Chiếm… Nhưng chủ trương và phương án này chính là do Lê Duẩn
cầm đầu.
Thứ nhất, Lê Duẩn chính là một người tuy thích thân Liên Xô hơn
Tầu nhưng Duẩn cũng học tập chính sách của Hồ Chí Minh trong cải cách
ruộng đất. Và chính đảng cộng sản Việt Nam đã thừa nhận điều này: "Cố
Tổng Bí thư Lê Duẩn là “người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, người cống hiến trọn đời cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã
hội…” (Trích: Thông cáo đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 11/7/1986).
Và tại thời điểm sau năm 1975, Duẩn với cương vị đứng đầu của nhà nước
cũng như đảng cộng sản (Lúc đó có tên là đảng lao động) chính là kẻ đã
chỉ đạo và quyết định việc đối xử tàn tệ với quân dân cán chính VNCH.Là
kẻ đứng đầu đảng và nhà nước, đương nhiên Duẩn biết điều này và không
thể đổ lỗi cho bất kỳ ai: "Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng
hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư
thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm
tình hình, gồm cả tình hình kinh tế.”
Và: "Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu
lại và Ban Chấp hành Trung ương vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.Tại Đại hội lần thứ IV Đảng (năm
1976) và lần thứ V của Đảng (năm 1982), đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng".(Trích bài phát biểu của Nông Đức Mạnh: Báo Điện tử đảng cộng sản Việt Nam 6/4/2007 )
Thứ hai, trong cuốn “Lê Duẩn, Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, xuất bản lần 1 tại trang 482 có viết: "Sức
mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam được tích luỹ qua gần nửa thế kỷ
đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, kết
tinh cả truyền thống chiến đấu và tài thao lược của tổ tiên ta. Bằng ý
chí của chúng ta, những kẻ một thời lầm đường lạc lối theo Mỹ - Ngụy đã
được lao động cải tạo để trở thành những công dân có ích cho xã hội
mới..”.
Bỏ qua những từ ngữ huyênh hoang quen thuộc của cộng sản để tự lăng xê
chính mình. Bỏ qua những mỹ từ “Cải tạo, lao động” thì chúng ta thấy Lê
Duẩn đã rất tâm đắc với chủ trương của mình trong việc hành hạ những
người là quân dân cán chính VNCH.
Thứ ba, cũng vẫn cuốn sách: “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã giới thiệu ở phần trên cũng viết tại trang 83: "Đồng
Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung
ương đảng đã tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày
30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người
lính chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra
trong một cuộc họp của bộ chính trị…”.
Qua đây có thể thấy, đảng cộng sản mà đứng đầu là Lê Duẩn đã vạch ra kế
hoạch “hà khắc” đối với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa. Những hành
động đầy tội ác mà tôi đã nêu ra ở phần hai chính là do Lê Duẩn – một
đồ tể tay chân của Hồ Chí Minh gây ra.
Thứ tư, ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng dẫn đầu một phái
đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp
ước “hợp tác và hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về
chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Ðiều 6 của hiệp ước này nói rõ là nếu
một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp
thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho Việt Nam. Số
tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để
cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Ðà Nẵng làm đầu cầu
quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ
trong vùng Thái Bình Dương. Trong cuộc găp với Brezhnev, ngoài báo cáo
tình hính quan hệ với Trung cộng, CamPuchia thì Lê Duẩn đã báo cáo: “Cơ
bản tình hình trong nước chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí
trong bộ chính trị không để cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên
bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ
lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng bố…”( Trích: "Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang 422”).
Vậy không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính VNCH vào lao tù khắc nghiệt.
IV. Kết Luận :
Qua những hành động trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa
của cộng sản nói chung và Lê Duẩn nói riêng cho thấy bản chất của cộng
sản là không thay đổi qua các thê hệ từ sau Hồ Chí Minh. Tội ác đó vi
phạm công ước về tù binh chiến tranh cũng như luật nhân đạo. Sau nhiều
chục năm bị bưng bít bởi chế độ cộng sản toàn trị, đã đến lúc chúng ta
cần cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ thấy được bản chất tàn bạo của
cộng sản.
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, chưa bao giờ dân tộc
Việt Nam lại rơi vào thảm cảnh như ngày hôm nay do bàn tay độc ác của
cộng sản. Chúng ta cần phải đoàn kết lại để lên án và lật đổ chế độ bán
nước hại dân cộng sản Việt Nam. Xin trả lại sự thật lịch sử và danh dự
cho những người quân dân cán chính VNCH để tôn vinh họ - Những người anh
hùng không chịu khuất phục lao tù cộng sản.
6/6/2013
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
PHAN BỘI CHÂU
Saturday, June 8, 2013
PHAN BỘI CHÂU * CAO ĐẲNG QUỐC DÂN
Phan Bội Châu
Phan B¶i Châu trܧc
tên là Phan Væn San, hiŒu Sào Nam, Häi Thu, ThÎ Hán, ñ¶c Tïnh Tº, Hãn Mån Tº,
quê làng ñan NhiÍm, huyŒn Nam ñàn, tÌnh NghŒ An. Næm 1900 LJ giäi nguyên trÜ©ng
thi NghŒ An. Sau khi thi LJ, ông vào nam ra b¡c vÆn Ƕng chÓng Pháp. Næm 1904,
ông thành lÆp h¶I Duy Tân, næm sau, ông cùng Tæng Båt H° sang Trung quÓc rÒi
NhÆt Bän gây d¿ng phong trào ñông Du.Næm 1908, ông bi trøc xuÃt khÕi NhÆt Bän,
ông sang Trung quÓc và Thái Lan xây d¿ng cÖ sª.
Næm 1911, sau cách mång tân h®i, ông
thành lÆp ViŒt Nam Quang Phøc h¶i. Næm
1922, Ç°I Viêt Nam Quang Phøc h¶i thành ViŒt Nam QuÓc Dân Çäng. Næm 1925, ông
bÎ HÒ Chí Minh báo Pháp b¡t ông ª ThÜ®ng Häi, giäi vŠ nܧc. Dân chúng phän ÇÓi,
Pháp không dám gi‰t ông, chúng giam lÕng
ông ª B‰n Ng¿ Hu‰. Tác phÄm T¿ Phán, LÜu Càu Huy‰t LŒ Tân ThÜ, Häi Ngoåi
Huy‰t ThÜ, Giác QuÀn ThÜ, Chu DÎch QÓc Âm Chú Giäi, Phan Sào Nam Tiên Sinh QuÓc
Væn Thi TÆp, ViŒt Nam QuÓc Sº Khäo, Nam QuÓc Dân Tu Tri, N» QuÓc Dân Tu Tri,
Kh°ng H†c ñæng, Sào Nam Thi TÆp....
Cao
Đẳng Quốc Dân
Dẫn ngôn
Nước ta bây giờ đang cần có sách ho.c. Học sách Tàu\? Hán văn đã không còn
thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây\? Pháp văn còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy
người mình đọc tiếng mình, thì sách nước mình ở lúc bây giờ không gì hơn làm
bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch
sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước mình ngày nay, trông các
gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở tương lai, nghĩ thế
nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho nhân tâm thế đạo, có thế sách mới
có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở,
đúng không, hoặc có công hiệu gì không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử
nói:"Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội ngã giả, kỳ duy Xuân thu
hồ" , nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng
ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết đây cũng nói như vậy.
Sào Nam,
1927
1. Chương thứ nhất Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể vua, thứ nửa quan,
còn dân không bao giờ kể đến. nhưng đời bây giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ
cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không nói đến nước thì thôi, thoạt nói
đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc
dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ
mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là
người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ mà hai chữ quốc dân mới phãng
phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân
là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân" vì
sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất phải theo lịch sử.
Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt thường", đời nhà
Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới có hai chữ "Yên
Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã có gì nên nước đâu, núi rậm
rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu vượn hót, một vùng nước bạc
đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa
nên gì, huống gì là nước\? Vì ai gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ
lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa nên thôn cử đồng hoang gây
nên thành thị\? Đó chẳng phải ngìn vạn ức những người tổ tiên cao tằng ta làm
nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của
ta đâu\? Vẫn có người mà người gì của nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành, nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa dắt đoàn kéo
đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi
bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như
sau này, chúng ta làm sao trông thấy được\?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta, dân là ông chủ tiên
chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư" mà ông Lê
Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn ức triệu người chung hiê.p. "Gầy
dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta, của dân ta "Dân là dân
nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa "Quốc dân"
cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao
nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho nước đó, có một giọt nào là không
phải của dân ta đâủ Biết bao lũ trước đàn sau, dắt díu nhau kinh dinh cho nước
đó, có người nào không phải dân ta đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai làm nên nước\?
Nếu không nước thời còn quý gì dân\? Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân đó! Khu
xác dân ở đâu, hẳn là nước đó! Quốc tức dân, dân tức Quốc, hai chữ "Quốc
dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc dân" là thế.
2. Chương thứ hai Quốc dân với gia nô
Đau đớn thay!
Thãm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào được chịu cái ơn
giáo dục cho làm quốc dân; thân phận mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào
được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.
Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại có câu thường nói:
"Dân như gổ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp Đông Tây không một dân
nước nào như dân nước ta cã. Vì sao\? Hay là trời cách chức quốc dân của nước
mình rồi chăng\? Hay là người nước mình không đang nổi cái chức quốc dân chăng\?
Hai lẽ tất có một . Đạo trời rất công, lòng trời rất nhân ái, người nước nào
cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình đẵng, trời có thương riêng gì dân
nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật Bản\? Có ghét riêng gì nước ta\? Cái
chức Quốc dân này, có lẽ nào trời cho ở họ mà cướp mất ở ta\? Vậy thời cái chức
làm Quốc dân vẫn là trời thưỡng cho ta đó, nhưng tội tình thay! Trời vẫn ban
cho ta mà ta không biết vâng chịu! Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn ba
nghìn năm chỉ có gia nô mà không quốc dân thâ.t. Quyền vua quá nặng, nặng không
biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền vua mà tầng tầng áp chế, từ
cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng đến dân là vô phẩm,
thân giá lại còn gì. Thằng này là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc cương
vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm nô với
Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê Lý thời làm nô với Lê Lý, phận con
hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời đã lấy làm hớn hở vinh quang,
tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt đêm ngồi trên bàn khung cửi, mới
có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra thời chỉ nói rằng "cơm vua áo
chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ hôi lẫn nước mắt mà cày cấy mở mang,
nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giử chặt một câu hoạt kê vô lý. Than
ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại
cho chúng ta, bắt ta phãi gông đầu khóa miệng, xiềng tay xích chưn, mà chịu
gánh gia nô cho già đời mãn kiếp! Đau đớn thật! Thãm hại thật! Anh em ôi!
"Dân vi quý" là câu nói của ông Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban
bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ hai người đó có phải nói lừa ta đâi\?
Ta ngu, ta ngẫn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng
khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm gì anh em
ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa
dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời một đồng tiền
của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của
nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi
gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua nhà Lý thời đã không đáng
một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó
đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại
phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một
trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó,
từ đây nên sám hối là phải.
3. Chương thứ ba Quốc dân nên tự lập
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! tủi thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao
giờ là thôỉ Câu hỏi đó là một câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời
rằng:"Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh chức quốc dân mới là".
Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty
tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt còn chưa mù, miệng còn nói được
thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện. Ham cao quý mà chê ty
tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ Người xưa có câu
rằng:"Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là dầu ông vua cũng phải xem
dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc
dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột, bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn
khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta phải gấp lo thế nào mới được.
Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ xin xõ với ai mà được rủ Xin với
trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ Sách Tây có câu: mình
hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho (aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách
Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều gì, trời vẫn nghe theo điều ấy".
Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới
đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà ta lấy chức quốc dân quốc
dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức khắc phải giải phóng cho ta
ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay hung tàn
họ lấy gì sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào đài, nào vợ đẹp hầu non, nào
của ngon vật lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được đó, lấy gì như ý sở cầủ
Ta một ngày thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền phú quý, nếu ta rày xin
may xõ, lưỡi rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng cho ta chỉ qua "ngọn
roi" và "ngòi bút", có đời nào mà chúng nó đem chức quốc dân cho
ta đâụ Huống hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta lấy lại thời còn,
ta bỏ đi thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái chúc đó là chức rất cao quý của chúng ta, vẫn
không ai cách được, mà cũng không ai cho được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta
gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm tòi, quyết lấy được mà thôị
Thiệt là : "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai có nghiêng vai đỡ
cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự lập.
4. Chương thứ tư Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của quốc dân ta những
điều gì. Có biết tệ
bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày ra phương tự lập được. Bây
giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lạị
2. Lòng giả dốị
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh nguyênmà trị cho đến gốc. tôi
xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng haỵ
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự do" không kỳnhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào càng chắc càng haỵ
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại
một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể, dùng làm thuốc tự lập, chắc là không bài
nào hơn.Anh em ta muốn biết cái ý dụng được, tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy
như sau:
5. Chương thứ năm Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng , tôi đã nói như bài trên kia mà thăm xét
cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng gọi rằng "ỷ lại
tính".
Ỷ lại tính như thế nàỏ Tục ngữ có câu rằng " Tháp đổ có Ngô xây, việc gìvợ
góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực đáng nực cười! Tháp đó là tháp
của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ trông ngóng vào Ngô, nếu
Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Kìa người vợ
góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm, vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị
những món bàng quan kia mỉa mai chê trách, thế thời những người đứng xung quanh
tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên
là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ làm saỏ
Thời chỉ ỷ lại mà thôị Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ đúng tâm tính của người nước tạ
Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân mày mặt, nếu ai
cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thời có gánh gì không cất nổỉ
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỹ lại: anh
Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có
anh Cột cô Hường rồị Rày lần mai lửa, tháng đợi năm chờ, kết cục không một
người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ
thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch, còn mong có nòi giống ta
nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần phải dùng một vị rất quý
trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như thần. Tên vị thuốc này
gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó không phải vay mượn cùa ai
đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một vừng chính khí. Xưa
thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại, chí cường", bốn chử đó tức là
khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7 thước, đã mang tiếng ở trong
trời đất, phải có danh gì với núi sông. Ta chẳng phải là người hay saỏ Cớ gì
người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta nhục? Người chủ nhân mà ta nô lệ? Ta
chẳng oan uỗng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự khí, ta quyết rửa
sạch cái vết nhơ này mới thôị
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho chúng mày biết. Xin các anh
em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán vai nong cánh, đồng
một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông mình, tháp mình mình xâỵ Khí tự
cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại còn dám dùng dằng nữa đâủ
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng khí tự cường nặng vô số
ki-lô-gờ-ram.
6. Chương thứ sáu Chữa bệnh "giả dối"
Bởi vì có tính ỹ lại mới nảy ra các chứng bệnh nữa: một chứng là hay giả dốị
Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín bất lập" nghĩa là người không có
thành tín thời không có thể nào đứng nổị Sách Tây có câu: "Tin thực là một
cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời không có gì quí trọng hơn tin thực.
Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!
Tục ngử có câu "Trăm voi không được bát nước xáo" lại có câu
"Mười thóc không được một gạo" Xem đó mới biết tính chất người nước
ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối thời tìm tòi đạo
lý, không cậy óc mình mà cậy tai; nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa,
không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối thời phấn sức lừa đời mà không cầu
thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả lợi tọ Thậm chí
mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi
câu lợi mà xức mật ở đầu môị Chẵng những ngoài đối với xả hội, trên đối với
quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục đổ, bức thành muôn dặm
đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với một nhà, dưới đối với
một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao hoang, khoét vào cốt tủỵ
Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy bụng, mặc áo giấy mà đi với
ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối đó mà không chừa, còn mong gì
nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên khuôn, đồng tốt mới vắt nên
tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà lòng tin thực đó là chất rất tốt
của con ngườị Lời tục ngữ có câu: " ngay thật mọi tật mọi khỏi".
Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể người; nếu người không có xương
sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ nào được? Vậy nên muốn làm người
tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói một tiếng tất thành thực, dầu ngoài
muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không bao giờ phai; làm một việc tất thành
thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ dời đổị Mình đã dốc
một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình càng ngày càng chắc, thanh giá
mình càng ngày càng cao, ngưòi ta tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực
mình lớn thời có việc gì không làm nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự
lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc này: "Lòng
thành thực" mười phân già.
7. Chương thứ bảy Chữa chứng bệnh nhút nhát
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có một chúng bệnh nữa là thói nhút
nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời người mạnh hóa người hèn, người khôn
hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người mà mình cam chịu về đường
liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không dám hở môi, biết đường nên đi mà một
bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa, thiệt là những bọn anh hùng hào
kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê hèn hạ đó còn maong gì với
chúng nó bàn việc to lớn được?
Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn có nói: "Trong pho tự
điển của người giỏi không bao giờ viết chử khó." Người anh hùng nước Pháp
là ông Nã Phá Luân có nói: "Kìa chử khó đó chỉ thấy trong pho tự điển của
người ngu mà thôi". Tục ngử ta cũng có câu: "Có gan thời chọi với trời",
lại có câu hát: " Đố ai lượm đá quăng trời, đan gàu tát bể, mới người khôn
ngoan". Xem mấy câu nói đó thời thiên hạ có việc gì khó đâủ Mà thế thật.
Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải sợ ta; ta có gan vào rừng thời hùm
beo phải kiêng tạ
Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người nhát gan mà thôị Bây giờ
người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rỡn ốc, chưa nghe tiếng hùm beo mà
đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay saỏ Rụt rụt rè rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì là tư
cách con người nữa rủ Bệnh nhút nhát còn đeo lấy một ngày, thời công việc tự
lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải
dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.
Xưa nay những người can đãm cũng phải luyện tập mới nên, mà khi đầu luyện tập
thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời chớ thấy núi mà gớm cao;
toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê sông rô.ng.
Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao nhiêu khó khăn ta kể cho là
sự rất dể. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả quyết đó làm roi ngựa,
máy xe, dầu chông gai mà quản gì. Đã có tay chân ta đó, nhứt chết nhì sống, còn
mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ gì mà nhút nhát? Vậy nên trong bài
thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan quả quyết"
hai lá rất lớn.
8. Chương thứ tám Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng"
Lại có chứng bệnh nữa là chứng bệnh "Tham lợi riêng".
Chứng bệnh ấy, người các nước tuy có ít nhiều, nhưng người nước ta tất cả 25 triệu
người, ai nấy cũng trúng bệnh ấy đó. Tục ngữ có câu "cơm ai đầy nồi
ấy", lại có câu "Thử thân bất độ, độ hà thân", lại có câu rằng
" con vua, con dấu, con chậu chậu yêu". Đọc bấy nhiêu lời thời biết
rằng: trong ruột người nước ta, viết dọc viết ngang, vạch xuôi vạch ngược, chỉ
một chử "tham" mà ở trong chử "tham" chỉ có vài nét
"Lợi riêng" là vừa hết bút mực. Xưa cụ Uy Viễn có câu rằng:
"Tiền tài hai chủ son khuyên ngược,"
"Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi"
Mười bốn chủ đó, thật là
vẽ đúng tâm tính người nước tạ Than ôi! cái lòng tham dục mà muốn cho như ý,
mới nảy ra kế mưu, vì kế mưu mà muốn cho thành công, mới nảy ra sự nghiệp. Tục
ngữ có câu: "muốn ăn hoét phải đào trùn", nhất thiết việc đời đều ở
lòng tham dục, bảo cấm tham tuyệt dục không có lẽ thiệt! Ôi! Các anh em! Các
chị em! Tôi vẫn không cho các ngài biết tham biết dục. Thà không tham, nếu tham
thời tham cho lớn; thà không dục, nếu dục thời dục cho hàọ Xưa ông Đế Nghêu
muốn thiên hạ làm của chung mà bỏ ngôi vua của mình, vì vậy nước Trung Hoa bây
giờ xưng ông Nghêu là đại thánh. Ông Hoa Thịnh Đốn muốn nước Hoa Kỳ thành một
nước dân chủ, mà bỏ ngôi phú quý của mình, vì vậy nước Hoa Kỳ bây giờ còn gọi
ông Hoa Thịnh Đốn là "Quốc Phụ". Kìa hai ông đó há phải không tham
đâu, nhưng tham dục về cái lợi chung của ức muôn người, thời tham dục càng to,
làm lợi ích cho loài người càng lớn, nhờ tham dục của một người đó mà gió xuân
mưa hạ tràn trề khắp bốn bể năm châu, đội đức mang ơn dài đặc đến thiên thu vạn
thế. Tham dục mà được như những bậc người ấy, ai bảo rằng tham dục là dở đâủ
Đau đớn thay cho những người nước ta, trước mắt không bao giờ thấy lợi chung,
trong óc không bao giờ có tư tưởng cao thượng, túi chất đầy tham, mà tham tột
mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng, hối vẫn đầy dục, mà dục kỳ cùng, chẳng qua
là hầu xác thịt, kết quả đến nổi hy sinh hết lương tâm thiên lý mà làm nô lệ
cho những món tư tình; vì lo sung sướng cho vợ, vì lo sung suớng cho con, vì lo
sung sướng cho thân mình, suốt đêm suốt ngày hết khôn hết khéo, nhưng chắc rằng
núi đồng không bao giờ lở, cây tiền không bao giờ lá rụng hoa rơị Nào hay
"Nhứt đán vô thường vạn sự hưu", của cải tiền tài không thể nào vào
tay người chêt; vợ vì sẳn của mà vợ hóa nên vợ hèn, con vì sẳn của mà con hóa
nên con dại, tiền bạc hóa ra của phá nhà, ruộng vườn hóa ra mồ chôn sống, chẳng
những nhân quần xã hội không lợi ích một tí gì, mà chính giữ thân với gia cũng
lợi chưa xong mà hại đã tớị Ấy là tử chứng của những người tham lợi riêng đã
rành rành rồi đó. Người ta mắc bệnh đó gần đây càng ngày càng nặng thêm, nếu
không gấp chữa cho mau thì nòi tuyệt giống mòn, không thể nào cứu được. Tôi xin
vì đồng bào dâng một vị thuốc này gọi rằng "Lòng công ích".
"Lòng công ích" là cầu sự lợi ích chung cho xã hội, mà cầu lợi chung
xã hội tức là lợi ích cho mình. Đạo lý đó chẳng phải nói không đâụ Những người
có tai mắt, có ruột gan chắc cũng hiểụ Bao bọc chung quanh mình là xã hội, nhờ
ơn xã hội mới có thân mình, mình ăn thóc thời nhờ có người cầy, mình mặc áo
thời có người dệt, mình cần có công dùng thời phải nhờ người người thợ thuyền,
mình cần có giao thông thời phải nhờ người buôn bán; nếu một ngày không xã hội
tức một ngày đó không thân mình. Vun trồng cho xã hội sung sướng vẻ vang thời
chẳng những một thân mình đã hưỡng hạnh phúc chung, mà con cháu mình sau cũng
sung sướng chung mãi mãị Vậy thời cái lòng công ích đó, thật là một phương
thuốc trường xuân bất lão cho người tạ Vậy nên trong bài thuốc tự lập, phải có
một vị nầy: "Lòng công ích" một tấm rất dàỵ
9. Chương thứ chín Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Còn một chúng bệnh nữa là chứng bệnh người ta hay đua đuổi theo cái hư danh vô
vi..
Muốn chữa cái chứng bệnh đó thời trước phải giải quyết một số vấn đề như sau
này: Lòng tham người ta chỉ có hai hạng: một là lợi, hai là danh.
Danh nên tham hay không? Bảo rằng không nên tham thời từ xưa đến nay không
người thánh hiền hào kiệt nào mà không thành danh cả. Sách truyện có câu:
"Đạo đức giả tất tất đắc kỳ danh", nghĩa là những người đạo đức lớn,
nhứt định được cái danh dư.. Thế thời danh có phải không nên tham đâu! Bảo rằng
nên tham ử Thời từ xưa đến nay, những người phấn sức hư danh, kết quả hữu danh
nhi vô thực, chẳng những không lợi ích gì cho xã hội, mà cũng không thêm được
giá trị cho mình tạ Thế thời danh có gì đáng tham. Nói cho đúng lẽ, danh vẫn
đáng tham, mà cũng không đáng tham. Cớ sao thế? Bởi vì danh có nhỏ, có lón,
danh có gần có xa, danh nhỏ và gần, như lữa lốm đốm đầu hôm, tiếng ve ve khi
mùa hạ, vẫn cũng lập lòe chòe choẹt ở trong một lúc, nhưng chẳng bao lâu thời
tắt ngay; danh lớn và xa thời như sấm mùa xuân, nhu bóng thái dương mùa hạ,
vang một tiếng mà lừng lẫy cả năm châu, dọi môt tia mà chói chang khắp bốn bể.
Người ta thử cân nhắc hai đường danh đó thời danh gì đáng tham, danh gì không
đáng tham. Không cần phải nói nữa.
Bây giờ tôi chỉ bệnh người nước tạ Tục ngữ có câu: "Tiếng lành đồn xa,
tiếng dữ đồn ba ngày đường" lại có câu rằng: "Cọp chết để da, người
ta chết để tiếng". Xem những câu đó thời danh vẫn nên quý, người ta cũng
biết dư rồị Nhưng tội tình thay! Óc tí ti như óc dơi, mắt ti hí như mắt muỗi,
ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì là nước non, trừ sọ bò đầu lợn không
biết gì là rồng rắn, mà huống gì vết xấu trong gia đình, thói hư ở xã hội gắn
sâu buộc chặc, trải mấy ngàn năm ông Nghè ông Cử đã tràn đất chó rơm, mà ông
Đốc ông Tham lại đầy phên rồng vẽ. Đoàn thanh niên cho đến phường tân tấn, đua
danh cạnh giá, chẳng cu li thượng đẵng, thời nô lệ tối ưu, ức chưa rời nôi mà
đã ưu mề đay, kim khánh, mệng chưa ráo sữa mà đã lóc lẽm những thẽ bạc ngà. Ôi!
thế là vinh danh, đáng quý hóa hay sao?
Anh chị em sao không nghĩ, đội mảo mo cho khỉ, mặc áo giấy cho ma, những giống
ấy là rặc giống của người phỉnh phờ ta, chẳng những không vinh gì, mà thật là
một cái gương sỉ nhục. Anh gì mà danh như thế, còn gì đáng quý nữa đâu . Gông
đầu khóa cổ, núi sông đã mãn kiếp ngựa trâu, mỏi gối chân chồn, cây cỏ cũng
chán vai tôi tớ, thế mà còn bằng sắc, sắc bằng gì? Thế mà còn hàm, thế mà còn
phẩm, phẩm hàm gì? Người ta bỏ đi mà ta lượm lấy, người xem làm rẽ rúng mà ta
xem làm vinh hoa! Óc khôn ngoan ta đi đâủ Chí khí ta ở đâủ Xin các anh chị em,
chứng bệnh đua hư danh đó, ta phải gấp chữa lành mới được.
Muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải có một vị thuốc rằng "vai thực
nghiệp".
Thực nghiệp là những giống gì? Là nghiệp nông, nghiệp công, nghiệp thương,
nghiệp sâm lâm, nghiệp lục súc, nghiệp ngư diêm, nói tóm lại là nghiệp lao
đô.ng.
Lao động về nông, nông siêng thời gạo thóc đầy đủ; lao động về việc công thời
công siêng mà nghề nghiệp mở mang; lao động về việc thương, thời thương siêng
mà giao thông phát đạt, còn ra các việc hể lao động hết bổn phận thời việc nào
việc ấy chắc cũng được thành công. Các nước Âu Mỹ bây giờ, những người quý
trọng là rặt những người rất cần khổ, đắp nền danh giá, tất lấy thực nghiệp làm
gốc, mở bể phú cường, tất lấy thực nghiệp làm nguồn. Thủ xem nước Hoa Kỳ mới
đây, những người rất hữu danh rặt là nhà thực nghiệp; ông Hỏa du đại vương, ông
Thiết lộ đại vương, ông Ngân hàng đại dương, những người đó là nhà thực nghiệp
lớn. Vì thực nghiệp lớn nên tư bản nhiều, vì tư bản nhiều nên cất nổi những
việc công ích lớn. Vì vậy mang ơn đội đức, khắp cả muôn người, trổi tiếng vang
tăm nghe khắp cà vạn quốc.
Lời cổ ngử có câu rằng "Hữu thực dã danh tất qui chi" nghĩa là những
người có việc thực thời danh tất đến chọ Người ta nếu biết thấu đạo lý ấy, thời
hư danh còn đua đuổi làm gì! Bắt cân công lý mà cân, một li thực nghiệp quí
trọng hơn một đồng hư danh, người ta xưa nay quen thói dã man, đua tuồng huyền
ảo, giấc chiêm bao lợi lộc, ngày tháng say mê tuồng trò rối hư vinh, trẻ già
hớn hở, những mua chuốc hư danh đó, hao biết bao nhiêu tiền của, những trau
chuốc cái hư danh đó, tốn bao nhiêu thời giờ, mà hư danh càng ngày càng múa
men, thời tướng thực nghiệp không bao giờ xuất thế. Kết quả dân ngày càng
nghèo, nước càng ngày yếu, nòi giống mình càng ngày càng đê tiện, mà giá trị
người mình cân đi nhắc lại chỉ có "thân bồi phận bếp" mà thôi, việc
đáng khóc đáng than, không gì hơn thế! Anh chị em ta, nếu một mai tỉnh giấc mê,
thay lốt cổ, những tiền của mua hư danh đó, xây nền thực nghệp, những thời giờ
đuổi hư danh đó dùng vào trường thực nghiệp, thực nghiệp đã phát đạt thời nền
móng phú cường đã vững bền; giá trị người lao động nước ta chắc cũng có một
ngày lừng lẫy tiếng tăm cùng thế giớị
Tục ngữ có câu rằng: "Trăm năm bia đá vẫn mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Người nước ta nếu biết tham danh thời không gì đáng tham hơn thế
nữạ vậy nên bài thuốc "Tự Lập" lại phải gia vào một vị như sau này:
"vai thực nghiệp" một gánh càng nặng càng hay.
10. Chương thứ mười Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chứng bệnh hay giả dối là chúng bệnh chung của người nước ta, mà ở trong chứng
bệnh đó lại có một chứng đặc biệt là ái quốc giả.
Gần mấy năm nay, cuộc Âu chiến cũ vừa xong, mà cuộc "thế giới đại
chiến" mới đã toan gây núi, chủ nghĩa quốc gia bành trướng cực điểm, người
nước ta bây giờ, ngoài thời bị làn sóng thế giới xô đẩy, ngủ không thể nào yên
trong thòi bị dây sắt cường quyền trói đau, mà sống không thể nào khõẹ Lúc bấy
giờ những bạn thiếu niên với phường học mới, cho đến những người ngủ say quá độ
mớI đánh thót ở trong giấc chiêm bao; thấy con em mà đau đớn cho kiếp ngựa thân
trâu, trông non sông mà ngậm ngùi những ngày mưa sầu gió thảm.
Tiếng hai chử "Ái quốc" mới văng vẳng ở bên tai người ta, hồn ái quốc
tuy còn dở tỉnh dở say, mà bóng ái quốc đã nửa mờ nửa tỏ, nào là đám truy điệu,
nào là tiệc hoan nghinh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ,
chuông dồn trống dục, nam bắc hát hò, xem ở trong một đám rần rần rực rực, cũng
đã có mấy phần người biết quyền nước mất. Biết quyền nước mất thời tính mạng
không còn, hồn nước có về thời giang sơn mới sống. Ngòi bút ái quốc cũng đã có
một đôi kẻ múa men, trên tờ giấy nhật trình cũng đã tô vẻ một vài câu thương
nòi thương nước.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó thật thà chắc chắn, thời giống Tiên Rồng, giống
Hồng Lạc chẳng hạnh phúc lắm saỏ Nhưng tội tình thay! Người ưu thời mẫn thế
chẳng bao lăm, mà người bán tiếng mua danh thời đầy đường chật ngõ; giọt nước
mắt khóc vẫn đêm ngày chan chúa, mà xem cho kỷ thời rặt là nuớc mắt gừng, tiếng
chuông trống kêu hồn, vẫn trong ngoài dóng dã, mà nghe cho tới nơi thời rặt là
tiếng chuông trống trò bội; ngoài miệng thời ái quốc mà trong bụng vẫn là ái
kim khánh mề đay, khi trước mặt người vẫn ái quốc, mà đến đêm thời tính toan
những việc chó săn chim mồị
Chao ôi! Trời ôi! Ái quốc thế ru?
Treo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ nhân dân, một mặt thời ôm chặt lấy lốt ông Tham bà Đốc. Ôi! Các anh em!
Ôi các chị em! người Âu châu Nhật Bản, ai ái quốc nhu thế, thà không ái quốc
còn hơn, chá vàng ngoài mặt làm tai vạ cho những kẻ chuộng vàng, xức mật đầu
môi, làm khổ cực cho những người say mật, vì đã vũ phu mà oan đến ngọc, vì
tròng mắt cá mà họa đến châụ
Ôi! Chứng bệnh ái quốc giả kia, chết nước chết nòi vì chứng bệnh đó, chứng bệnh
đó nếu không trừ khỏi 25 triệu dân tộc chắc chôn sống ở rày maị Tôi ngồi sâu
nghỉ lặng, khấn nguyện chín phương trời, ước ao thần hộ phật phù, cứu khổ cứu
nạn cấp cho tôi vị thuốc để chữa chứng bệnh đó cho người ta, mới được vị thuốc
này: "Bụng nhiệt thành".
Bụng nhiệt thành đó là gốc ở một tấm lòng đỏ của loài ngườị Khi mẹ mới hoài
thai thời đã đúc sẵn một hòn máu nóng, đến khi sinh thành trưỡng đại, thời hòn
máu đó càng nuôi nấng càng lớn lao, càng nấu nung càng tươi thắm, giọt máu đó
xối vào sắt, sắt phải tan, giọt máu đó rưới vào ma, ma phải tránh. Người Nhật
Bản có câu rằng "Tinh thành sở chí kim thạch năng khai" nghĩa là khi
tinh thành đã tới nơi, dầu đá vàng cũng nức nở. Ông Khổng Tử có câu: "Thất
phu bất khả đạt chí", nghĩa là chí vững bền của một người không ai cướp
được. Những câu nói đó, đều là vẽ cả nết nhiệt thành người ta, có đầy đủ một
tấm nhiệt thành mới trọn vẹn mười phần ái quốc, thành mà không nhiệt thời kém
phần nóng sốt, mà cái thành đó dễ nguội, nhiệt mà không thành kém sức vững bền,
mà cái nhiệt đó dễ lạnh, đã thành lại nhiệt, đã nhiệt lại thành thời thần quỷ
phải kinh, gió mưa chông gai cũng phải dẹp, chỉ có ai sợ ta, mà ta không phải
sợ ai, chỉ có ai ỷ lại vào ta, mà ta không ỷ lại vào aị
Đã biết nước là mẹ ta, thời dầu hy sinh ta với nước mà ta không quản, trong óc
chỉ có nước, ngoài việc nước ta không màng gì lợi, ta không thiết gì danh;
nhiệt thành thế này mới là ái quốc, ái quốc thế này mới hay cứu quốc.
Ruột tằm máu quốc thề sống thác với non sông, dạ sắt lòng son chẳng lụt sờn vì
mưa nắng, nhiệt thành như vậy, người nước ta có khó gì tự lập đâụ Vậy nên trong
bài tự lập lại cần nhất là vị thuốc này: "Bụng nhiệt thành" 10 phân
luyện chín.
11. Chương thứ mười một Chữa chứng bệnh "không
biết hợp quần"
Các chứng bệnh như trên kia là các chứng bệnh cá nhân. Bây giờ lại kể một chúng
bệnh như sau này là bệnh chung về đoàn thể. Người ngoại quốc thường khinh bỉ
người nước ta, có một câu rằng: "Không có một đoàn thể nào từ ba người trở
lên". Câu nói đó, thoạt mới nghe, tưỡng chừng là quá đáng, nhưng xét cho
đến tình hình xả hội nưóc ta, tinh thần người dân nước ta, tan tan, tác tác,
rạc rạc, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo thân nấy, bảo rằng không đoàn thể từ ba
người trở lên, vẫn có thể thật.
Suy cho đến nguyên cớ bởi vì sau đây, thời chỉ vì không biết nghĩa hợp quần mà
thôị Hợp quần là saỏ Là hợp cả một bầy lại cho thành một đoản thể. Ví như tay
chơn tai mắt có hợp mới thành được một thân; cột kèo rui mèn có hợp mới thành
được một nhà; từ việc nhỏ đến việc to, muốn nên một việc, tất phải có một bầy;
muốn nên một bầy, tất phải có cách hợp. Thuở xưa giao thông chật hẹp, núi bể
chia lìa, mưa gió riêng trời mình, bờ cỏi riêng đất mình, người mình đua đuổi
với người mình, dầu kém dầu hơn, dầu thua dầu được, cũng chẳng qua là nhà mình
mình ở, của mình mình ăn, nếu không biết hợp quần cũng chưa lấy gì làm tai hại
lắm. Thử xem đời bây giờ có thể được ử Bể Đông Tây chung nhau làm một vũng câu;
châu Âu Á chung nhau làm một rừng bắn, người đem cả trăm chân nghìn tay, trăm
khôn nghìn khéo dắt đoàn kéo lủ mà áp đến nhà mình, xô cửa phá buồng, bửa rương
móc túi, bầy người càng đông thời thế người càng mạnh, bầy mình càng ít thời
thế mình càng cô, lửa đốt nhà đã tận nóc, nước nuốt thuyền đã tận mui, mà bà
con trong nhà, trong thuyền đây hãy còn anh với em cắp dao trỏ nhau, lái với
bạn trừng mắt dòm nhau, kể việc rất ngu ở trong loài người có ai hơn thế nữa!
Than ôi! Thịt nát thì xương cũng tan, môi mất thì răng cũng la.nh. Nghĩa hợp
quần đó còn mờ mịt thêm một ngày thời họa diệt chủng càng câp bách thêm một
ngàỵ Ôi! Các anh chị em! Cái chứng bệnh không biết nghĩa hợp quần đó không biết
chữa mau, còn chờ gặp ma Chiêm Thành mà gục đầu thú tội saỏ Thấy tình cảnh các
anh chị em mà óc tôi nhức, máu tôi sôi, tay chân tôi nổi gai gốc. Tổ tiên ta
nếu còn thiêng, nòi giống ta nếu còn phúc thời chứng bệnh ly quần đó chắc được
một vị thuốc sẽ chũa lành ngaỵ Tôi nghĩ đi nghĩ lại, suốt mấy đêm ngày mới được
một vị thuốc là giãi "Đồng tâm". Đồng tâm nghĩa là người nào người
nấy đồng một lòng: giãi đồng tâm nghĩa là ức muôn triệu người kết hợp nhau làm
một dây, thân thể tuy khác nhau, mà tinh thần in nhau như hệt. Xưa ông Trụ có
ức muôn người, hưng cũng ức muôn bụng: vua tôi Võ Vương có mười người, kết quả
thời vua Võ Vương được mà ông Trụ thuạ Đó mới biết rằng tâm đồng nhau thời
nhược hóa nên cường, tâm chẳng đồng thời cường hóa nên nhược, Vì sao thế? Lòng
khác nhau thời rẽ bầy, rẽ bầy thời mạnh hóa nên hèn; lòng đồng nhau thời chung
bầy, chung bầy thời hèn hóa nên ma.nh. Vậy nên hai chử "Đồng tâm" là
phương thuốc hiệp quần rất thiêng liêng, rất ứng nghiệm.
Tuy nhiên có kẻ nói rằng: "đông ngưòi thời tất phải nhiều bụng, nhiều bụng
thời không thể nào đồng lòng. Cái sự đồng tâm đó thật là khó khăn lắm".
Ôi! Các anh chị em! Câu nói đó thật quá ngu! Xưa nay đồng lòng, không đồng lòng
chỉ vì có một cớ: chủng tộc không đồng, ngôn ngữ không đồng, tập tục không
đồng, thế mà muốn đồng lòng vẫn khó lắm. Đến như người nước ta, nòi giống vẫn
đồng với nhau, ngôn ngữ vẫn đồng với nhau, tập tục vẫn đồng với nhau, mà huống
gì lối tử sinh đường vinh nhục lại đồng với nhau; chim ở chung một rừng, cá ở
chung một bể, nếu chẳng may bể khô rừng cháy thời một lồng, một tấm vãy còn
mong sống sót được saỏ May gặp lúc bây giờ rừng hãy còn cây, bể hãy còn nước,
kết hợp cả bầy, đồng một lòng, chung một dạ, tính đường đi đứng, lựa bước lên
lui, dắt nhau ra khỏi ngục trầm luân, kéo nhau thoát khỏi vùng đồ thán, xoay
họa xưa làm phúc, rửa vết dơ trong pho sử củ, thay lấy vẻ vinh quang biết bao
nhiêu công nghiệp lớn lao chỉ ở trong một gốc lòng anh chị em mà nên tất cả.
Vậy thời giãi đồng tâm đó thật là phương thuốc khỡi tử hồi sinh của món ta
không còn gì hơn nữạ Vậy nên trong bài thuốc "Tự Lập" có một vị thuốc
như sau này: "Giãi đồng tâm" một dây càng kiên thực càng tốt.
12. Chương thứ mười hai Chữa chứng bệnh "mê tín
hủ tục"
Nưóc ta kể người có 25 triệu, kể đất có 70 vạn ngàn thước vuông tây, nếu làm
một nước tự lập chắc không khó gì! Cớ sao mà hèn hạ suy đồỉ Thuở xưa còn làm
một nước phụ dung, tới bây giờ lại trụt xuống làm một nước nô lê.. Ôi! Nước ta
không phải một nước hay saỏ Người nước ta không phải là người hay saỏ
Không phải, nước ta vẫn là một nước, người nước ta vẫn là người, nhưng chỉ vì
dân không có quyền, nên mỗi bước không tự lập. Dân vì sao mà không có quyền?
Thời vì dân không trí; dân không có trí; nên mới mê tín quá nhiềụ Bệnh mê tín
rất nặng là mê tín quyền vua; vì mê tín quyền vua, nên mê tín quyền quan, mà
quyền vua quyền quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháọ Ba quyền đó một ngày
một nặng, thời quyền dân không còn một tí gì; quyền dân đã không còn, thời dân
dại, dân yếu đuối hư hèn, muôn việc chỉ trông mong vào vua với quan. Vua với
quan không làm xong, thời trông mong vào thần; đến thần cũng không làm xong,
thời bó tay chịu chết. Mấy ngàn năm trở lại triều đình là bồi bếp của một nhà,
nhân dân là ngựa trâu của một họ; mấy mươi triệu đầu đen máu đỏ, còn gì là tư
cách người; rặt là mù mà người mù có mắt; rặt là điếc, mà người đếc có tai; rặt
là câm; mà người câm có miệng, rặt là què mà người què mà ngưới què có chân
tay; cái việc lạ lùng quái gở ở thế gian, không ai như người nước ta nữạ Thăm cho
đến gốc bệnh, chỉ vì mê tín những tục hủ cổ mà thôị Mê tín vua, mê tín quan,
chưa lấ gì làm kỳ, kỳ thứ nhất là mê tín thần; vì mê tín thần đó mà sinh ra vô
số việc nực cười; ngày giờ nào cũng là trời bày định, mà bảo rằng có ngày dử
ngày lành; núi sông nào cũng là đất tự nhiên, mà bảo rằng có đất tốt đất xấu;
vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng ông thần táo; vì che mưa gió mới có nhà; mà
bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa, thần đường, thần cầu tài, thần cầu
tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả thời thần chẳng thấy đâu,
chỉ thấy cửa nát nhà tan, của mòn người hết.
Tin thần bao nhiêu thời tai họa bấy nhiêụ Kìa xem như đạo Thiên Chúa chỉ sùng
phụng một vị Đức Chúa Trời ngoài ra không thần gì cả, nhưng nuớc vẫn mạnh, nhà
vẫn giàu, người họ vẫn sung suớng, họ chỉ thua ta một việc: thần đã không tế
thời xôi không, thịt không, heo bò cũng không, mà phần kỉnh phần biếu đều không
tất cả; nhưng họ vì đó mà của hao thời ít, của nở thời nhiều, tốn phí vô ích
bớt một phân. Ấy mới biết rằng mê tín thần quyền là tục ngu hủ của người ta,
thật rõ ràng rồi đó. Tục ngu hủ đó không quét sạch thời nền phú cường kia không
bao giờ dựng nên. Nhân vì ngu mà sinh ra hủ, nhân vì hủ lại thêm ngu, mắt người
bị người bịt, mà lại bảo rằng trước mí mắt không nước non; tai bị người bưng mà
lại bảo rằng bên lổ tai không gió sấm; tay chân bị người người xiềng khóa mà
lại bảo rằng tay chân mình đáng số cu li! "Chúng tôi dại dột", câu
nói ấy giắt chặc ở bên lưng. Quỳ lạy trước tượng đất hình bùn mà xem làm quốc
túy; giữ gìn lấy áo hôi mũ thúi mà bảo rằng gia truyền! Ngẫn ngơ, ngơ ngẫn đến
thế thời thôi! Trông người lại gẫm đến ta, thiệt cười dở mà khóc cũng dở.
Than ôi! Xưa nay chứng bệnh mê tín hủ tục kia phải gấp chữa mau mới có lẽ sống.
Tuy nhiên, muốn chữa chúng bệnh đó, phải thế nàỏ Xưa nay, những tập tục hủ bại
vì có hai lẽ; một thời vì cơ quan giáo dục chẳng hoàn toàn, một thời vì trí
khôn người ta chưa phát đạt.
Từ thế kỹ 19 trở lại đây, khoa học các nước cảng ngày càng phát sinh, trí não
các nước càng ngày càng nẫy nở. Thử xem điện học phát minh mà ông "thần
lôi" đã không dám hống hách; địa học phát minh mà nhà phong thủy long hổ
đã không dám múa men; sinh lý học phát minh mà thần rắn quỷ trâu đã cùng đường
trốn tránh; huống gì học thuyết Lư thoa đã xuất hiện thời quyền dân với quyền
lao động đã vùn vùn vụt vụt như gió thổi, như thủy triều lên, dầu ai muốn ngăn
mà ngăn sao đặng? muốn cấm mà sao cấm đặng? Ngọn cờ thần quyền chắc rày mai
cũng bị trận gió văn minh kia đánh đổ, mà vách tường hủ tục cũ chắc cũng bị làn
sóng văn minh kia đánh tan.
Thế thời muốn chữa bệnh mê tín ngưới nước ta, không thuốc gì hơn trí thức mới
nữạ Trí thức đó, nếu tìm tòi suy xét thăm cho tận gốc, dò cho tận nguồn biết
tính người là thiêng hơn vạn vật thời không thần gì hơn thần ở tâm; biết nhơn
dân là quí trọng hơn vua với quan, thời không quyền gì hơn quyền lao đô.ng. Có
óc thời ta dùng sức nghĩ, có tai thời ta dùng sức nghe, có mắt thời ta dùng sức
thấy, có tay chân thời ta dùng sức hoạt động, đua khôn đấu mạnh cùng dân các
nước đời nay, 20 triệu con Lạc cháu Hổng bỗng chốc mà tỏ ra giòng thần giống
thánh.
Người nước ta có khó gì tự lập đâủ Vậy nên dùng bài thuốc tự lập, phải có một
vị dầy "Trí thức mới" 10 phân, trộn vào "hoa tự do" không
kỳ nhiều ít.
13. Chương thứ mười ba Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế"
Nếu có ai hỏi rằng: nước vì sao mà mạnh, dân vì sao mà giàủ Thời tôi xin trả
lời rằng: "Nguồn bể phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế." Người ta nghe
hai chử "kinh tế", chưa hiểu nghĩa ra làm sao, huống gì là đường kinh
tế. Xưa truyện Đại học có câu rằng: "Sinh chi giả chúng, thực chi giả quả,
vi chi giả tật, dụng chi giả thư", nghĩa là của sinh nở ra thời nhiều, của
ăn tiêu đi thời ít, người làm của thời cần kíp, người dùng của thời dè dặt. Sách
Tây cũng có câu: "Những hạng người sinh ra lợi thời nhiều, những hạng
người chia mất lợi thời ít", Góp hai câu nói đó thời cách đường kinh tế,
dầu đông tây cũng chẳng khác gì. Nói tóm lại, chỉ có một cách sinh nở thời
thường vô cùng, mà tiêu hao thời thường phải hạn, của trời đất sinh ra thời
biết đường lợi dụng, của nhân lực làm ra thời biết đường mở mang, có thế mới
gọi là "Kinh Tế". Người nuớc ta thời thế nàỏ Việc tiêu dùng thời
không biết đường hạn chế, cách làm ăn thời không biết đường cải lương, sự
nghiệp dân sinh trong một nước chỉ nhờ cậy về nông, chân lấm tay bồng, kẻ làm
khôn hết mực, cày sâu cuốc bẩm, xem làm khéo cùng kỳ. Ngoài mấy đám đồng cạn
ruộng sâu, nào khoáng sản, nào sơn lâm, nào công trình nào thủy lợi chẳng biết
một tí gì. Người ngoại quốc lấy máy móc đở tay chân tay, mà mình thời không
biết đua, của sinh sản ngày không một hào một li, mà của tiêu xài ngày có hàng
nghìn hàng vạn; thấy người ta sang trọng, ta cũng sang trọng, nhưng cái đồ sang
trọng đó rặt là cắt thịt nhà để vá cánh giặc; thấy người ta sung sướng, ta cũng
sung sướng nhưng cái mồi sung sướng đó, rặt là nặn sữa mẹ để nuôi người dưng.
Bao nhiêu vật lạ của ngon, nào rượụ nào thuốc, nào trà, nào vải bông, gấm vóc,
không một thức gì là tay chân mình chế tạo, mà cũng không một đồng tiền nào
không phải máu mủ mình ép ra; tiền của người không một đồng nào vào tay mình,
mà máu mủ mình thời trót tháng quanh năm chỉ những trét miệng hùm, no bụng sấụ
Trí khôn người ta như thế, còn nói "Kinh Tế" được đâu! Than ôi! Thiên
thời ta vẫn tốt, địa lợi ta vẫn giàu, mà tay mắt tay chân ta vẫn không kém gì
ai cả! thuốc ta, rượu ta, trà ta, vải vóc ta, không dùng được hay saỏ
Không chế tạo được hay saỏ Cớ sao thợ thuyền buôn bán thời không thấy tới, mà
chỉ thấy lui; xài phí ăn tiêu thời chỉ thấy thêm mà không thấy bớt, đã một mặt
thời quen nết tham thanh chuộng lạ, một mặt thời giử nết ở nể ăn không; bể toan
khô nước mà ngồi đợi trời mưa, đèn toan hết dầu mà nằm chờ trăng mọc.
Người ngu ngẩn đến thế, không chết rày thời chết mai, chỉ e mấy tấm ván hòm
chưa dự bị bao giờ đă.ng. Tôi nghỉ đến nông nổi thế mà khóc than cho vận mệnh
người nước ta, chúng bệnh về đường kinh tế nếu không lo chạy chữa cho mau thời
nòi giống chúng ta chẳng tuyệt diệt về thủy hỏa, binh đao, mà tuyệt diệt về đồ
ăn thức mặc! Ai là người có tâm huyết, chắc cũng lấy lời nói làm đúng rồị Bây
giờ xin nghĩ một vị thuốc để chữa chứng bệnh nàỵ Vị thuốc ấy là giải đấỷ Là vị
"Nội Hóa" Trình độ dân ta còn thấp trí thức dân ta còn non, bảo nhờ
cậy việc công, việc thương, sẽ đấu mạnh đua giàu với các nước, cái hy vọng đó,
ở ngày nay thiệt chưa có được ngay, song e tục ngữ có câu rằng "Khéo ăn
thời no, khéo co thời ấm", đồng bào ta bây giờ mà muốn cho được điều no,
điều ấm thời phải có một cách khéo mà thôi.
Đường sanh lợi chưa có thể phát đạt được đến mười phân thời đường tiêu xài phải
dè dặt từ một li, một mảy cần thứ nhứt là dùng nội hóạ Đó thiệt là một vị cứu
cho chứng bệnh người tạ Đồ ăn ta; ta ăn, đồ mặc ta; ta mặc, đồ dùng ta; ta
dùng, dầu mỡ máu mủ ta, ta bồi bổ cho ta, bớt một li của ra tức là thêm một li
của vào, bớt một đồng tiền chết, tức là thêm một đồng tiền sống. Nội hóa tiêu
dùng ngày càng chảy, thời các món công thương nghề nghiệp cũng nhân đó mà cạnh
khéo đua khôn, đắp tư cơ sẽ tạo nên thời, đúc trí tuệ sẽ gây nên thế, họa may
bụng đà khỏi đói, mà óc cũng thêm no; dân sinh đã khỏi nỗi khốn cùng thời dân
trí cũng có cơ tấn bô.. Theo tạo nhân mà tìm đường kết quả, cái việc chấn hưng
nội hóa đó chẳng phải là gấp lắm saỏ Vậy nên trong bài thuốc tự lập phải có một
vị thuốc như sau này "Nội hóa" một vạn thức, kiêng ngoại hóạ
14. Chương thứ mười bốn "Chữa chứng bệnh" "không biết thương nòi giống"
Người ta còn một chứng bệnh rất to, là chứng bệnh "không biết thương nòi
giống ". Người ta mắc lấy chứng bệnh đó, chẳng những trái hẵn tính loài
người, mà với các giống vật có một điễm trí khôn cũng còn thua kém nữạ
Kể chứng bệnh ác độc thứ nhất, không gì hơn chứng bệnh này: Kìa con ong vẫn có
nọc, mà ong ở chung một ổ không bao giờ cắn nhau; cọp vẫn hay ăn thịt, mà cọp ở
chung một xứ không bao giờ ăn nhaụ Thường xem bầy kiến, nó vẫn là một loài vật
rất nhỏ nhen, mà cũng có một điễm tốt rất lạ: nó ở chung nhau một bộng, có hàng
trăm hàng ngàn con, một con đi ra thoạt thấy được mồi ăn, thời tức khắc chạy về
tin cho anh em mình cả; tha mồi thời khó nhọc chia với nhau, ăn mồi thời ngon
ngọt chung với nhau, không bao giờ được mồi mà ăn riêng cả; lại có khi tránh
mưa trốn gió, dắt đoàn kéo lũ đi chung, con nhỏ, con lớn, đoàn trước, đoàn sau,
dắt nhau đi không khác gì một đội quân lính; chẳng may giữa đường có con nào bị
tử thương thời chúng kiến xúm nhau cõng nó về hang, không bao giờ bỏ bạn chết
mà đi cả! Thế mới biết thương nòi giống, dầu loài vật cũng có tấm lòng thành,
chung một máu mủ thời họa phúc chia nhau, nghĩa đồng tO17; đồng sinh vẫn trước
sau một mực.
Vật còn như thế, người có lẽ thua nó hay saỏ Quái ngán thay! Lạ lùng thay! Đến
người nưóc ta thời khác hẵn! Tục ngữ có câu rằng: "Gà một chuồng bôi mặt
đá nhau!" lại có câu: "Kẻ chết đã xanh, người nhăn nanh mà
cười!" lại có câu: "Đi ra tưỡng bắt trâu cò, trâu cò không bắt, bắt
bò, bò ôi!", mấy câu thí dụ đó, ngẫm nghĩ cho kỹ thiệt là về nết xấu của
người nước ta quá đúng rồi đó.
Ôi! Các anh chị em! Máu in nhau giọt đỏ, da in nhau sắc vàng, đầu in nhau tóc
đen, mắt in nhau tròng mắt, giống
Tiên Rồng, nòi Hồng Lạc trãi qua mấy nghìn năm mới có bây giờ con một họ, cháu
một giòng, nếu cứ như lẽ thường chắc máu ai thấm thịt nấy, đánh đá thời đau đến
lòng gạch, chết thỏ thời sa nước mắt hồ; vẫn đạo trời có thế mới đương nhiên,
mà tính người cũng có thế mới chính đáng. Cớ sao mấy mươi năm gần đây tình hình
ở xã hội, cách hành động các anh chị em ta, thương nhau, bênh nhau, chẳng bao
lăm người, mà ghét nhau, hại nhau thời không xiết kê?? Rước voi dầy mồ ông vải,
cõng rắn về cắn gà nhà, việc đó thiệt bất nhân vô đạo đã quá chừng, mà người
mình trở lại nhận làm khôn làm khéo!
Xin ai thử nghĩ, mồ ông vải trúc, mà voi có ơn gì đến mình không? Một mai gió
mây biến hóa, dâu bể đổi dời, voi đã tan xương, rắn cũng đứt nọc, các ngài lúc
bấy giờ đêm khuya mò bụng hỏi bóng thăm hình, mồ tan hoang vì aỉ Gà nhao nhác
vì aỉ Mình còn mặt mũi nào thấy ông bà ở dưới đất, trông cô bác ở trên đờỉ Đau
đớn thay! Tội tình thay! Cái chút bệnh không biết thương nòi giống đó, hú ba
hồn chín vía các ngài, nên thang thuốc cho mau mới phải! Bây giờ tôi xin làm ơn
cho các ngài vị thuốc này: "Giống thân ái" đó, vào trong lòng ngườị
Người v ` có hột giống ấy mới khai nên hoa, mới kết nên quả, mà nòi giống người
mới sinh trưỡng vô cùng. Nếu lòng người mà không có hạt giống ấy thời gọi rằng
"Lòng chết" .
Ông Lão Tử có câu: "Ai mạc đại ư tâm tử", nghĩa là người ta lòng chết
không gì đau đớn hơn; nếu thiệt lòng người thời bao giờ chết đặng! Lòng mà đến
chết, vì không hột "giống thân ái" mà thôị
Đức Gia Tổ có câu: "Ái nhân như kỹ", nghĩa là thương yêu người như
thương yêu mình. Đức Phật Tổ có câu: "Nhất thiết từ bi", nghĩa là
không kể người không kể ta, nhứt nhứt luật thương yêu cả.
Đạo Nho cũng có hai chử "Khiêm ái". Nhà triết học Tây cũng chủ trương
hai chử "Bác ái". Xem chừng như những đạo lý các thánh hiền nói đó,
thời hể chung một loài người dầu ai cũng nên thân ái, huống gì chung một nòi
giống nữa ru! Nòi giống ta, ta thương yêu lấy nhau; có cơm ta no chung, có áo
ta ấm chung, có nhà cửa ta ở chung, gặp việc vui ta vui chung, vì hột giống
thân ái đó càng ngày càng nẩy nở, hoa tự do nhân đó mà muôn tía ngàn hồng, Nam
reo Bắc thổị Việc đồng tâm của 25 triệu nòi giống ta chắc cũng do ta rày mai mà
trông được hẳn! Vậy nên ở trong bài thuốc tự lập lại còn có một vị như sau này:
giống "thân ái". Hằng hà sa số hột, hột nào càng chắc càng hay!
15. Chương sau hết Bài tóm cách làm việc
Các chứng bịnh đã chữa lành rồi bây giờ mới tính cách làm việc.
Thứ nhất là phải có chủ nghĩa, thứ nhì là phải có chương trình, thứ ba là phải
có kế hoạch. Có đủ ba điều đó thời việc mới có thể làm nên.
Bây giờ xin giãi thích điều thứ nhất:
Hể phàm làm một việc, tất trước phải có chủ nghĩạ Chủ nghĩa có tốt có xấu, có
phải có chẳng, Khi ta bắt đầu sắp sửa làm việc thời ta phải hết sức kén chọn
Thấy chủ nghĩa gì đã tốt lại phải, thời ta phải giử chặc chủ nghĩa ấy mà làm;
ví như bắn bia phải nhìn các trung tâm bia cho chắc chắn; ví như vượt bể tất
phải dòm xét cái mũi châm phương hướng cho kỹ càng. Trung tâm bia đó đã nhìn
được chắc chắn bắn mới không sai, châm phương hướng đó xét được rành thời
thuyền đi mới không lỗị Người làm việc mà có chủ nghĩa, đó là vào trường bắn mà
xem thấu bia, vặn máy thuyền mà định chắc hướng, Vậy nên người làm việc, trước
hết phải kén chọn chủ nghĩa cho vững vàng. Bây giờ lại giãi thích điều thứ nhì:
Khi sắp sửa làm việc thời kén chọn chủ nghĩa vẫn cần lắm; nếu đã có chủ nghĩa
mà khi bắt tay vào làm mà không có chương trình, thời như người đánh cờ mà
không tính suốt cả bàn, vội vàng lụp chụp, thấy nước thời đi, nước sau đem lại
nước trước, nước trước đem lại nước sau, thời bàn cờ đó tất nhiên phải thuạ Vì
vậy, làm một việc gì, tất phải định một cái chương trình cho việc ấỵ Ví như
muốn đi một lối đường từ Huế ra Hà Nội, tất phải tính toan từ khi bước chân ra
đi, cho đến khi tới Hà Nội, tiền đi xe lửa tốn hết bao nhiêu, tiền đi ô tô hết
bao nhiêu, tiền đi xe tay và tổn phí ở trên xe hết bao nhiêu, lại phải nghĩ
trước cả mọi điều, như giấy thông hành, giấy căn cước, đồ hành trang, người đày
tớ, với giữa đường phải xuống ga nào; đến nơi thời trú những nhà nào; vả lại,
khi giữa đường hoặc khi đến nơi, có điều gì trở ngại hay không, thời phải tính
làm cách gì cho trơn chảỵ Lại như tiền tổn phí, tất phải phòng dự, chớ "đo
bò làm chuồng", lỡ khi thiếu thời dang dở; việc phòng bị tất phải sắp đặt
sẵn sàng, chớ "bắc nước đòi gà"; sợ khi gấp thời không xong.
Người trỏ lối đưa đường phải lựa cho thập phần chắc chắn, chớ có rước thầy mù
coi đất mà đến khi lỡ làng. Tính toán các điều ấy đủ rồi thời ta định sẵn một
cái chương trình, việc gì trước ta làm trước, việc gì sau ta làm sau, việc gì
lành ta theo, việc dữ thời ta tránh. Chương trình chắc chắn, noi đó mà đi, có
sợ gì đi không tới nơi đâủ Bây giờ lại giãi thích về điều ba: Hể phàm một chủ
nghĩa vẫn chính đáng, chương trình vẫn tinh tường, còn một điều đáng lo là còn
sợ kế hoạch không được hoàn thiện, vậy nên cần có kế hoa.ch. Ông Khổng tử có
câu rằng:
"Hiếu mưu nhi thành", nghĩa là làm việc phải có tìm mưu mẹo, mà mưu
mẹo phải tìm cho đến chốn đến nơị Sách Binh thư có câu: "Đa toán thắng,
thiểu toán bất thắng", nghĩa là tính toán được nhiều nước thời ăn hơn,
tính toán được ít nước thời phải thuạ Ví như hai người vật nhau một người sức
mạnh mà không có mẹo, một người sức yếu mà có nhiều mẹo, thời người sức yếu
chắc ăn hơn. Cái mẹo đó, tức là kế hoạch; mà trong khi tính toán kế hoạch, thời
phải đủ ba điều: một là cân nhắc về phần trí khôn; hai là cân nhắc về phần lực
lượng; ba là cân nhắc về phần thời thế. Lựa trong ba điều đó, mà tính toan bày
đặt cho đủ cả mọi đường, như làm một bài tính, không bỏ sót một con số nàọ Đó
là kế hoa.ch. Việc thiên hạ đầu nhỏ đầu to, nhưng mỗi một việc tất phải có một
kế hoạch; nếu kế hoạch được tinh tường chu đáo, thời có việc gì là chẳng nên?
Nói tóm lại, làm việc phải có chủ nghĩa, mà mình đối với chủ nghĩa tất phải hết
sức trung thành, thà là vì chủ nghĩa mà giết mình, chẳng nên vì mình mà giết
chủ nghĩa. Như ông Tôn Văn trót một đời người hết sức trung thành với "Tam
Dân chủ nghĩa", thật là gương cho ta đó. Còn ngoài ra như chương trình tất
phải châm chước cho kỹ càng, tổ chức cho hoàn thiện, mà lại phải có kế hoạch
cho kỹ càng thời chương trình mới thực hành được; nếu có chủ nghĩa mà không có
chương trình, thời chủ nghĩa không bao giờ thực hiện; nếu có chưong trình mà
không kế hoạch thời chương trình không bao giờ thành công. Vậy nên ở trong cách
làm việc phải cần có cả ba điều đó.
Lại còn có một lẽ người ta cần phải biết, biết không thấu thời làm không xong.
Ông Tôn Văn có câu nói rằng "Tri nan hành dị", nghĩa là biết được
rành thời khó; đã biết rồi mà làm thời dễ. Nếu anh em làm việc cần phải biết
cho rành. Lại còn một tệ bệnh, người ta càng nên biết lắm.
Thí dụ: Muốn lấy trộm một nhà ông giàu thời làm thế nàỏ những khi bình thường
phải giả ngẫn giả ngơ, giả khờ giả dại, chớ cho ông nhà giàu đó biêt mình là kẻ
trộm bợm. Vậy sau khi thực hành mới dễ được thành công. Ông Lão Tử có câu nói
rằng: "Đại trí nhược ngu", Nghĩa là những người khôn rất to thời phải
làm như hình người ngụ Lại có câu rằng: "Đại xảo nhược chuyết", nghĩa
là những người khéo rất to, thời phải làm như hình người vu.ng. Vậy nên những
người muốn làm việc, trước phải bồi dưỡng hai cái tinh thần:
1 Tinh thần nín nhịn;
2 Tinh thần tránh tiếng.
Hay nín nhịn thời chớ có giận vặt với hung hăng những thói vũ phu; hay tránh
tiếng thời chớ có bán tiếng mua danh, để cho những người tầm thường không kể
mình là giỏi mới là haỵ
Sách Binh Thư có câu rằng: "Tịnh như xử nử, động như thoát thố". Câu
trên nghĩa là: Khi ta hãy còn lặng lẽ, thời êm đềm kín đáo như chị con gái chưa
lấy chồng ở trong một chốn buồng sâu, vẫn mình là rất muốn lấy chồng, mà không
để cho ai biết". Câu nói đó là bày vẻ cách kế hoạch cho người ta làm việc.
Câu nói dưới nghĩa là: "Khi ta hành động tất phải nhìn theo thời thế mà
theo cho gấp, như con thỏ ở trong lồng mà được xổ ra, thời bổng chốc mà chạy
rất mau, dầu ai lanh đến mấy cũng không có thể bắt được nó". Câu nói đó là
bày vẻ cho cách người ta hành động. Cách làm việc nếu được như hai câu nói đó
thời việc gì cũng thành công; nếu không được như hai câu nói đó, thời việc gì
cũng thất bại.
Tuy nhiên, lại có một lẽ: Hể phàm tính việc thời tất muốn thành công, mà đã có
gan làm việc thời lại phảI không sợ thất bại; bởi vì, hể làm việc tất phải trải
qua một lối thất bại mới đến thành công.
Sách Tây có câu: "Thất bại là mẹ đẻ ra thành công". Tục ngữ ta có câu
rằng: "Đứt tay mới hay thuốc", Vây nên những việc thất bại, chính là
trường học thiên nhiên mà dạy bảo cho mình đến thành công. Người ta chỉ sợ mình
không có gan làm việc, còn thất bại thời không nên sợ gì; càng thất bại càng
làm, càng làm càng sinh ra khôn khéo; trải qua một phen thất bại thời thêm ra
được một mối thành công. Vậy mới biết: Thất bại là mẹ đẻ ra thành công, có thế
thật!
Chung
Cao
Đẳng Quốc Dân này.
Dẫn ngôn
Nước ta bây giờ đang cần có sách ho.c. Học sách Tàu\? Hán văn đã không còn
thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây\? Pháp văn còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy
người mình đọc tiếng mình, thì sách nước mình ở lúc bây giờ không gì hơn làm
bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch
sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước mình ngày nay, trông các
gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở tương lai, nghĩ thế
nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho nhân tâm thế đạo, có thế sách mới
có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở,
đúng không, hoặc có công hiệu gì không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử
nói:"Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội ngã giả, kỳ duy Xuân thu
hồ" , nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng
ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết đây cũng nói như vậy.
Sào Nam,
1927
1. Chương thứ nhất Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể vua, thứ nửa quan,
còn dân không bao giờ kể đến. nhưng đời bây giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ
cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không nói đến nước thì thôi, thoạt nói
đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc
dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ
mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là
người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ mà hai chữ quốc dân mới phãng
phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân
là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân" vì
sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất phải theo lịch sử.
Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt thường", đời nhà
Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới có hai chữ "Yên
Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã có gì nên nước đâu, núi rậm
rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu vượn hót, một vùng nước bạc
đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa
nên gì, huống gì là nước\? Vì ai gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ
lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa nên thôn cử đồng hoang gây
nên thành thị\? Đó chẳng phải ngìn vạn ức những người tổ tiên cao tằng ta làm
nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của
ta đâu\? Vẫn có người mà người gì của nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành, nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa dắt đoàn kéo
đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi
bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như
sau này, chúng ta làm sao trông thấy được\?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta, dân là ông chủ tiên
chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư" mà ông Lê
Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn ức triệu người chung hiê.p. "Gầy
dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta, của dân ta "Dân là dân
nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa "Quốc dân"
cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao
nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho nước đó, có một giọt nào là không
phải của dân ta đâủ Biết bao lũ trước đàn sau, dắt díu nhau kinh dinh cho nước
đó, có người nào không phải dân ta đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai làm nên
nước\? Nếu không nước thời còn quý gì dân\? Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân
đó! Khu xác dân ở đâu, hẳn là nước đó! Quốc tức dân, dân tức Quốc, hai chữ
"Quốc dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc
dân" là thế.
2. Chương thứ hai Quốc dân với gia nô
Đau đớn thay!
Thãm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào được chịu cái ơn
giáo dục cho làm quốc dân; thân phận mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào
được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.
Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại có câu thường nói:
"Dân như gổ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp Đông Tây không một dân
nước nào như dân nước ta cã. Vì sao\? Hay là trời cách chức quốc dân của nước
mình rồi chăng\? Hay là người nước mình không đang nổi cái chức quốc dân
chăng\? Hai lẽ tất có một . Đạo trời rất công, lòng trời rất nhân ái, người
nước nào cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình đẵng, trời có thương riêng
gì dân nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật Bản\? Có ghét riêng gì nước ta\?
Cái chức Quốc dân này, có lẽ nào trời cho ở họ mà cướp mất ở ta\? Vậy thời cái
chức làm Quốc dân vẫn là trời thưỡng cho ta đó, nhưng tội tình thay! Trời vẫn
ban cho ta mà ta không biết vâng chịu! Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn
ba nghìn năm chỉ có gia nô mà không quốc dân thâ.t. Quyền vua quá nặng, nặng
không biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền vua mà tầng tầng áp
chế, từ cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng đến dân là
vô phẩm, thân giá lại còn gì. Thằng này là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc
cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm
nô với Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê Lý thời làm nô với Lê Lý,
phận con hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời đã lấy làm hớn
hở vinh quang, tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt đêm ngồi trên bàn
khung cửi, mới có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra thời chỉ nói rằng "cơm
vua áo chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ hôi lẫn nước mắt mà cày cấy mở
mang, nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giử chặt một câu hoạt kê vô
lý. Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao
giờ để lại cho chúng ta, bắt ta phãi gông đầu khóa miệng, xiềng tay xích chưn,
mà chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp! Đau đớn thật! Thãm hại thật! Anh em
ôi! "Dân vi quý" là câu nói của ông Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban
bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ hai người đó có phải nói lừa ta đâi\?
Ta ngu, ta ngẫn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng
khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm gì anh em
ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa
dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời một đồng tiền
của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của
nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi
gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua nhà Lý thời đã không đáng
một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó
đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại
phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một
trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó,
từ đây nên sám hối là phải.
3. Chương thứ ba Quốc dân nên tự lập
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! tủi thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao
giờ là thôỉ Câu hỏi đó là một câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời
rằng:"Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh chức quốc dân mới là".
Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty
tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt còn chưa mù, miệng còn nói được
thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện. Ham cao quý mà chê ty
tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ Người xưa có câu
rằng:"Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là dầu ông vua cũng phải xem
dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc
dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột, bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn
khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta phải gấp lo thế nào mới được.
Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ xin xõ với ai mà được rủ Xin với
trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ Sách Tây có câu: mình
hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho (aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách
Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều gì, trời vẫn nghe theo điều ấy".
Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới
đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà ta lấy chức quốc dân quốc
dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức khắc phải giải phóng cho ta
ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay hung tàn
họ lấy gì sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào đài, nào vợ đẹp hầu non, nào
của ngon vật lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được đó, lấy gì như ý sở cầủ
Ta một ngày thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền phú quý, nếu ta rày xin
may xõ, lưỡi rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng cho ta chỉ qua "ngọn
roi" và "ngòi bút", có đời nào mà chúng nó đem chức quốc dân cho
ta đâụ Huống hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta lấy lại thời còn,
ta bỏ đi thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái chúc đó là chức rất cao quý của chúng ta, vẫn
không ai cách được, mà cũng không ai cho được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta
gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm tòi, quyết lấy được mà thôị
Thiệt là : "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai có nghiêng vai đỡ
cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự lập.
4. Chương thứ tư Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của quốc dân ta những
điều gì. Có biết tệ
bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày ra phương tự lập được. Bây
giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lạị
2. Lòng giả dốị
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh nguyênmà trị cho đến gốc. tôi
xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng haỵ
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự do" không kỳnhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào càng chắc càng haỵ
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại
một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể, dùng làm thuốc tự lập, chắc là không bài
nào hơn.Anh em ta muốn biết cái ý dụng được, tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy
như sau:
5. Chương thứ năm Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng , tôi đã nói như bài trên kia mà thăm xét
cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng gọi rằng "ỷ lại
tính".
Ỷ lại tính như thế nàỏ Tục ngữ có câu rằng " Tháp đổ có Ngô xây, việc gìvợ
góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực đáng nực cười! Tháp đó là tháp
của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ trông ngóng vào Ngô, nếu
Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Kìa người vợ
góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm, vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị
những món bàng quan kia mỉa mai chê trách, thế thời những người đứng xung quanh
tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên
là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ làm saỏ
Thời chỉ ỷ lại mà thôị Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ đúng tâm tính của người nước tạ
Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân mày mặt, nếu ai
cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thời có gánh gì không cất nổỉ
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỹ lại: anh
Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có
anh Cột cô Hường rồị Rày lần mai lửa, tháng đợi năm chờ, kết cục không một
người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ
thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch, còn mong có nòi giống ta
nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần phải dùng một vị rất quý
trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như thần. Tên vị thuốc này
gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó không phải vay mượn cùa ai
đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một vừng chính khí. Xưa
thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại, chí cường", bốn chử đó tức là
khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7 thước, đã mang tiếng ở
trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Ta chẳng phải là người hay saỏ Cớ
gì người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta nhục? Người chủ nhân mà ta nô lệ? Ta
chẳng oan uỗng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự khí, ta quyết rửa
sạch cái vết nhơ này mới thôị
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho chúng mày biết. Xin các anh
em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán vai nong cánh, đồng
một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông mình, tháp mình mình xâỵ Khí tự
cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại còn dám dùng dằng nữa đâủ
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng khí tự cường nặng vô số
ki-lô-gờ-ram.
6. Chương thứ sáu Chữa bệnh "giả dối"
Bởi vì có tính ỹ lại mới nảy ra các chứng bệnh nữa: một chứng là hay giả dốị
Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín bất lập" nghĩa là người không có
thành tín thời không có thể nào đứng nổị Sách Tây có câu: "Tin thực là một
cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời không có gì quí trọng hơn tin thực.
Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!
Tục ngử có câu "Trăm voi không được bát nước xáo" lại có câu
"Mười thóc không được một gạo" Xem đó mới biết tính chất người nước
ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối thời tìm tòi đạo
lý, không cậy óc mình mà cậy tai; nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa,
không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối thời phấn sức lừa đời mà không cầu
thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả lợi tọ Thậm chí
mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi
câu lợi mà xức mật ở đầu môị Chẵng những ngoài đối với xả hội, trên đối với
quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục đổ, bức thành muôn dặm
đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với một nhà, dưới đối với
một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao hoang, khoét vào cốt tủỵ
Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy bụng, mặc áo giấy mà đi với
ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối đó mà không chừa, còn mong gì
nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên khuôn, đồng tốt mới vắt nên
tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà lòng tin thực đó là chất rất tốt
của con ngườị Lời tục ngữ có câu: " ngay thật mọi tật mọi khỏi".
Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể người; nếu người không có xương
sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ nào được? Vậy nên muốn làm người
tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói một tiếng tất thành thực, dầu ngoài
muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không bao giờ phai; làm một việc tất thành
thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ dời đổị Mình đã dốc
một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình càng ngày càng chắc, thanh giá
mình càng ngày càng cao, ngưòi ta tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực
mình lớn thời có việc gì không làm nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự
lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc này: "Lòng
thành thực" mười phân già.
7. Chương thứ bảy Chữa chứng bệnh nhút nhát
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có một chúng bệnh nữa là thói nhút
nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời người mạnh hóa người hèn, người khôn
hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người mà mình cam chịu về đường
liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không dám hở môi, biết đường nên đi mà một
bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa, thiệt là những bọn anh hùng hào
kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê hèn hạ đó còn maong gì với
chúng nó bàn việc to lớn được?
Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn có nói: "Trong pho tự
điển của người giỏi không bao giờ viết chử khó." Người anh hùng nước Pháp
là ông Nã Phá Luân có nói: "Kìa chử khó đó chỉ thấy trong pho tự điển của
người ngu mà thôi". Tục ngử ta cũng có câu: "Có gan thời chọi với
trời", lại có câu hát: " Đố ai lượm đá quăng trời, đan gàu tát bể,
mới người khôn ngoan". Xem mấy câu nói đó thời thiên hạ có việc gì khó đâủ
Mà thế thật. Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải sợ ta; ta có gan vào
rừng thời hùm beo phải kiêng tạ
Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người nhát gan mà thôị Bây giờ
người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rỡn ốc, chưa nghe tiếng hùm beo mà
đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay saỏ Rụt rụt rè rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì là
tư cách con người nữa rủ Bệnh nhút nhát còn đeo lấy một ngày, thời công việc tự
lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải
dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.
Xưa nay những người can đãm cũng phải luyện tập mới nên, mà khi đầu luyện tập
thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời chớ thấy núi mà gớm cao;
toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê sông rô.ng.
Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao nhiêu khó khăn ta kể cho
là sự rất dể. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả quyết đó làm roi
ngựa, máy xe, dầu chông gai mà quản gì. Đã có tay chân ta đó, nhứt chết nhì
sống, còn mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ gì mà nhút nhát? Vậy nên
trong bài thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan quả
quyết" hai lá rất lớn.
8. Chương thứ tám Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng"
Lại có chứng bệnh nữa là chứng bệnh "Tham lợi riêng".
Chứng bệnh ấy, người các nước tuy có ít nhiều, nhưng người nước ta tất cả 25
triệu người, ai nấy cũng trúng bệnh ấy đó. Tục ngữ có câu "cơm ai đầy nồi
ấy", lại có câu "Thử thân bất độ, độ hà thân", lại có câu rằng
" con vua, con dấu, con chậu chậu yêu". Đọc bấy nhiêu lời thời biết
rằng: trong ruột người nước ta, viết dọc viết ngang, vạch xuôi vạch ngược, chỉ
một chử "tham" mà ở trong chử "tham" chỉ có vài nét
"Lợi riêng" là vừa hết bút mực. Xưa cụ Uy Viễn có câu rằng:
"Tiền tài hai chủ son khuyên ngược,"
"Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi"
Mười bốn chủ đó, thật là
vẽ đúng tâm tính người nước tạ Than ôi! cái lòng tham dục mà muốn cho như ý,
mới nảy ra kế mưu, vì kế mưu mà muốn cho thành công, mới nảy ra sự nghiệp. Tục
ngữ có câu: "muốn ăn hoét phải đào trùn", nhất thiết việc đời đều ở
lòng tham dục, bảo cấm tham tuyệt dục không có lẽ thiệt! Ôi! Các anh em! Các
chị em! Tôi vẫn không cho các ngài biết tham biết dục. Thà không tham, nếu tham
thời tham cho lớn; thà không dục, nếu dục thời dục cho hàọ Xưa ông Đế Nghêu
muốn thiên hạ làm của chung mà bỏ ngôi vua của mình, vì vậy nước Trung Hoa bây
giờ xưng ông Nghêu là đại thánh. Ông Hoa Thịnh Đốn muốn nước Hoa Kỳ thành một
nước dân chủ, mà bỏ ngôi phú quý của mình, vì vậy nước Hoa Kỳ bây giờ còn gọi
ông Hoa Thịnh Đốn là "Quốc Phụ". Kìa hai ông đó há phải không tham
đâu, nhưng tham dục về cái lợi chung của ức muôn người, thời tham dục càng to,
làm lợi ích cho loài người càng lớn, nhờ tham dục của một người đó mà gió xuân
mưa hạ tràn trề khắp bốn bể năm châu, đội đức mang ơn dài đặc đến thiên thu vạn
thế. Tham dục mà được như những bậc người ấy, ai bảo rằng tham dục là dở đâủ
Đau đớn thay cho những người nước ta, trước mắt không bao giờ thấy lợi chung,
trong óc không bao giờ có tư tưởng cao thượng, túi chất đầy tham, mà tham tột
mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng, hối vẫn đầy dục, mà dục kỳ cùng, chẳng qua
là hầu xác thịt, kết quả đến nổi hy sinh hết lương tâm thiên lý mà làm nô lệ
cho những món tư tình; vì lo sung sướng cho vợ, vì lo sung suớng cho con, vì lo
sung sướng cho thân mình, suốt đêm suốt ngày hết khôn hết khéo, nhưng chắc rằng
núi đồng không bao giờ lở, cây tiền không bao giờ lá rụng hoa rơị Nào hay
"Nhứt đán vô thường vạn sự hưu", của cải tiền tài không thể nào vào
tay người chêt; vợ vì sẳn của mà vợ hóa nên vợ hèn, con vì sẳn của mà con hóa
nên con dại, tiền bạc hóa ra của phá nhà, ruộng vườn hóa ra mồ chôn sống, chẳng
những nhân quần xã hội không lợi ích một tí gì, mà chính giữ thân với gia cũng
lợi chưa xong mà hại đã tớị Ấy là tử chứng của những người tham lợi riêng đã
rành rành rồi đó. Người ta mắc bệnh đó gần đây càng ngày càng nặng thêm, nếu
không gấp chữa cho mau thì nòi tuyệt giống mòn, không thể nào cứu được. Tôi xin
vì đồng bào dâng một vị thuốc này gọi rằng "Lòng công ích".
"Lòng công ích" là cầu sự lợi ích chung cho xã hội, mà cầu lợi chung
xã hội tức là lợi ích cho mình. Đạo lý đó chẳng phải nói không đâụ Những người
có tai mắt, có ruột gan chắc cũng hiểụ Bao bọc chung quanh mình là xã hội, nhờ
ơn xã hội mới có thân mình, mình ăn thóc thời nhờ có người cầy, mình mặc áo
thời có người dệt, mình cần có công dùng thời phải nhờ người người thợ thuyền, mình
cần có giao thông thời phải nhờ người buôn bán; nếu một ngày không xã hội tức
một ngày đó không thân mình. Vun trồng cho xã hội sung sướng vẻ vang thời chẳng
những một thân mình đã hưỡng hạnh phúc chung, mà con cháu mình sau cũng sung
sướng chung mãi mãị Vậy thời cái lòng công ích đó, thật là một phương thuốc
trường xuân bất lão cho người tạ Vậy nên trong bài thuốc tự lập, phải có một vị
nầy: "Lòng công ích" một tấm rất dàỵ
9. Chương thứ chín Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Còn một chúng bệnh nữa là chứng bệnh người ta hay đua đuổi theo cái hư danh vô
vi..
Muốn chữa cái chứng bệnh đó thời trước phải giải quyết một số vấn đề như sau
này: Lòng tham người ta chỉ có hai hạng: một là lợi, hai là danh.
Danh nên tham hay không? Bảo rằng không nên tham thời từ xưa đến nay không
người thánh hiền hào kiệt nào mà không thành danh cả. Sách truyện có câu:
"Đạo đức giả tất tất đắc kỳ danh", nghĩa là những người đạo đức lớn,
nhứt định được cái danh dư.. Thế thời danh có phải không nên tham đâu! Bảo rằng
nên tham ử Thời từ xưa đến nay, những người phấn sức hư danh, kết quả hữu danh
nhi vô thực, chẳng những không lợi ích gì cho xã hội, mà cũng không thêm được
giá trị cho mình tạ Thế thời danh có gì đáng tham. Nói cho đúng lẽ, danh vẫn
đáng tham, mà cũng không đáng tham. Cớ sao thế? Bởi vì danh có nhỏ, có lón,
danh có gần có xa, danh nhỏ và gần, như lữa lốm đốm đầu hôm, tiếng ve ve khi
mùa hạ, vẫn cũng lập lòe chòe choẹt ở trong một lúc, nhưng chẳng bao lâu thời
tắt ngay; danh lớn và xa thời như sấm mùa xuân, nhu bóng thái dương mùa hạ,
vang một tiếng mà lừng lẫy cả năm châu, dọi môt tia mà chói chang khắp bốn bể.
Người ta thử cân nhắc hai đường danh đó thời danh gì đáng tham, danh gì không
đáng tham. Không cần phải nói nữa.
Bây giờ tôi chỉ bệnh người nước tạ Tục ngữ có câu: "Tiếng lành đồn xa,
tiếng dữ đồn ba ngày đường" lại có câu rằng: "Cọp chết để da, người
ta chết để tiếng". Xem những câu đó thời danh vẫn nên quý, người ta cũng
biết dư rồị Nhưng tội tình thay! Óc tí ti như óc dơi, mắt ti hí như mắt muỗi,
ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì là nước non, trừ sọ bò đầu lợn không
biết gì là rồng rắn, mà huống gì vết xấu trong gia đình, thói hư ở xã hội gắn
sâu buộc chặc, trải mấy ngàn năm ông Nghè ông Cử đã tràn đất chó rơm, mà ông Đốc
ông Tham lại đầy phên rồng vẽ. Đoàn thanh niên cho đến phường tân tấn, đua danh
cạnh giá, chẳng cu li thượng đẵng, thời nô lệ tối ưu, ức chưa rời nôi mà đã ưu
mề đay, kim khánh, mệng chưa ráo sữa mà đã lóc lẽm những thẽ bạc ngà. Ôi! thế
là vinh danh, đáng quý hóa hay sao?
Anh chị em sao không nghĩ, đội mảo mo cho khỉ, mặc áo giấy cho ma, những giống
ấy là rặc giống của người phỉnh phờ ta, chẳng những không vinh gì, mà thật là
một cái gương sỉ nhục. Anh gì mà danh như thế, còn gì đáng quý nữa đâu . Gông
đầu khóa cổ, núi sông đã mãn kiếp ngựa trâu, mỏi gối chân chồn, cây cỏ cũng
chán vai tôi tớ, thế mà còn bằng sắc, sắc bằng gì? Thế mà còn hàm, thế mà còn
phẩm, phẩm hàm gì? Người ta bỏ đi mà ta lượm lấy, người xem làm rẽ rúng mà ta
xem làm vinh hoa! Óc khôn ngoan ta đi đâủ Chí khí ta ở đâủ Xin các anh chị em,
chứng bệnh đua hư danh đó, ta phải gấp chữa lành mới được.
Muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải có một vị thuốc rằng "vai thực
nghiệp".
Thực nghiệp là những giống gì? Là nghiệp nông, nghiệp công, nghiệp thương,
nghiệp sâm lâm, nghiệp lục súc, nghiệp ngư diêm, nói tóm lại là nghiệp lao
đô.ng.
Lao động về nông, nông siêng thời gạo thóc đầy đủ; lao động về việc công thời
công siêng mà nghề nghiệp mở mang; lao động về việc thương, thời thương siêng
mà giao thông phát đạt, còn ra các việc hể lao động hết bổn phận thời việc nào
việc ấy chắc cũng được thành công. Các nước Âu Mỹ bây giờ, những người quý
trọng là rặt những người rất cần khổ, đắp nền danh giá, tất lấy thực nghiệp làm
gốc, mở bể phú cường, tất lấy thực nghiệp làm nguồn. Thủ xem nước Hoa Kỳ mới
đây, những người rất hữu danh rặt là nhà thực nghiệp; ông Hỏa du đại vương, ông
Thiết lộ đại vương, ông Ngân hàng đại dương, những người đó là nhà thực nghiệp
lớn. Vì thực nghiệp lớn nên tư bản nhiều, vì tư bản nhiều nên cất nổi những
việc công ích lớn. Vì vậy mang ơn đội đức, khắp cả muôn người, trổi tiếng vang
tăm nghe khắp cà vạn quốc.
Lời cổ ngử có câu rằng "Hữu thực dã danh tất qui chi" nghĩa là những
người có việc thực thời danh tất đến chọ Người ta nếu biết thấu đạo lý ấy, thời
hư danh còn đua đuổi làm gì! Bắt cân công lý mà cân, một li thực nghiệp quí
trọng hơn một đồng hư danh, người ta xưa nay quen thói dã man, đua tuồng huyền
ảo, giấc chiêm bao lợi lộc, ngày tháng say mê tuồng trò rối hư vinh, trẻ già
hớn hở, những mua chuốc hư danh đó, hao biết bao nhiêu tiền của, những trau
chuốc cái hư danh đó, tốn bao nhiêu thời giờ, mà hư danh càng ngày càng múa
men, thời tướng thực nghiệp không bao giờ xuất thế. Kết quả dân ngày càng nghèo,
nước càng ngày yếu, nòi giống mình càng ngày càng đê tiện, mà giá trị người
mình cân đi nhắc lại chỉ có "thân bồi phận bếp" mà thôi, việc đáng
khóc đáng than, không gì hơn thế! Anh chị em ta, nếu một mai tỉnh giấc mê, thay
lốt cổ, những tiền của mua hư danh đó, xây nền thực nghệp, những thời giờ đuổi
hư danh đó dùng vào trường thực nghiệp, thực nghiệp đã phát đạt thời nền móng
phú cường đã vững bền; giá trị người lao động nước ta chắc cũng có một ngày
lừng lẫy tiếng tăm cùng thế giớị
Tục ngữ có câu rằng: "Trăm năm bia đá vẫn mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Người nước ta nếu biết tham danh thời không gì đáng tham hơn thế
nữạ vậy nên bài thuốc "Tự Lập" lại phải gia vào một vị như sau này:
"vai thực nghiệp" một gánh càng nặng càng hay.
10. Chương thứ mười Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chứng bệnh hay giả dối là chúng bệnh chung của người nước ta, mà ở trong chứng
bệnh đó lại có một chứng đặc biệt là ái quốc giả.
Gần mấy năm nay, cuộc Âu chiến cũ vừa xong, mà cuộc "thế giới đại
chiến" mới đã toan gây núi, chủ nghĩa quốc gia bành trướng cực điểm, người
nước ta bây giờ, ngoài thời bị làn sóng thế giới xô đẩy, ngủ không thể nào yên
trong thòi bị dây sắt cường quyền trói đau, mà sống không thể nào khõẹ Lúc bấy
giờ những bạn thiếu niên với phường học mới, cho đến những người ngủ say quá độ
mớI đánh thót ở trong giấc chiêm bao; thấy con em mà đau đớn cho kiếp ngựa thân
trâu, trông non sông mà ngậm ngùi những ngày mưa sầu gió thảm.
Tiếng hai chử "Ái quốc" mới văng vẳng ở bên tai người ta, hồn ái quốc
tuy còn dở tỉnh dở say, mà bóng ái quốc đã nửa mờ nửa tỏ, nào là đám truy điệu,
nào là tiệc hoan nghinh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ,
chuông dồn trống dục, nam bắc hát hò, xem ở trong một đám rần rần rực rực, cũng
đã có mấy phần người biết quyền nước mất. Biết quyền nước mất thời tính mạng
không còn, hồn nước có về thời giang sơn mới sống. Ngòi bút ái quốc cũng đã có
một đôi kẻ múa men, trên tờ giấy nhật trình cũng đã tô vẻ một vài câu thương
nòi thương nước.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó thật thà chắc chắn, thời giống Tiên Rồng, giống
Hồng Lạc chẳng hạnh phúc lắm saỏ Nhưng tội tình thay! Người ưu thời mẫn thế
chẳng bao lăm, mà người bán tiếng mua danh thời đầy đường chật ngõ; giọt nước
mắt khóc vẫn đêm ngày chan chúa, mà xem cho kỷ thời rặt là nuớc mắt gừng, tiếng
chuông trống kêu hồn, vẫn trong ngoài dóng dã, mà nghe cho tới nơi thời rặt là
tiếng chuông trống trò bội; ngoài miệng thời ái quốc mà trong bụng vẫn là ái
kim khánh mề đay, khi trước mặt người vẫn ái quốc, mà đến đêm thời tính toan
những việc chó săn chim mồị
Chao ôi! Trời ôi! Ái quốc thế ru?
Treo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ nhân dân, một mặt thời ôm chặt lấy lốt ông Tham bà Đốc. Ôi! Các anh em!
Ôi các chị em! người Âu châu Nhật Bản, ai ái quốc nhu thế, thà không ái quốc
còn hơn, chá vàng ngoài mặt làm tai vạ cho những kẻ chuộng vàng, xức mật đầu
môi, làm khổ cực cho những người say mật, vì đã vũ phu mà oan đến ngọc, vì
tròng mắt cá mà họa đến châụ
Ôi! Chứng bệnh ái quốc giả kia, chết nước chết nòi vì chứng bệnh đó, chứng bệnh
đó nếu không trừ khỏi 25 triệu dân tộc chắc chôn sống ở rày maị Tôi ngồi sâu
nghỉ lặng, khấn nguyện chín phương trời, ước ao thần hộ phật phù, cứu khổ cứu
nạn cấp cho tôi vị thuốc để chữa chứng bệnh đó cho người ta, mới được vị thuốc
này: "Bụng nhiệt thành".
Bụng nhiệt thành đó là gốc ở một tấm lòng đỏ của loài ngườị Khi mẹ mới hoài
thai thời đã đúc sẵn một hòn máu nóng, đến khi sinh thành trưỡng đại, thời hòn
máu đó càng nuôi nấng càng lớn lao, càng nấu nung càng tươi thắm, giọt máu đó
xối vào sắt, sắt phải tan, giọt máu đó rưới vào ma, ma phải tránh. Người Nhật
Bản có câu rằng "Tinh thành sở chí kim thạch năng khai" nghĩa là khi
tinh thành đã tới nơi, dầu đá vàng cũng nức nở. Ông Khổng Tử có câu: "Thất
phu bất khả đạt chí", nghĩa là chí vững bền của một người không ai cướp
được. Những câu nói đó, đều là vẽ cả nết nhiệt thành người ta, có đầy đủ một
tấm nhiệt thành mới trọn vẹn mười phần ái quốc, thành mà không nhiệt thời kém
phần nóng sốt, mà cái thành đó dễ nguội, nhiệt mà không thành kém sức vững bền,
mà cái nhiệt đó dễ lạnh, đã thành lại nhiệt, đã nhiệt lại thành thời thần quỷ
phải kinh, gió mưa chông gai cũng phải dẹp, chỉ có ai sợ ta, mà ta không phải
sợ ai, chỉ có ai ỷ lại vào ta, mà ta không ỷ lại vào aị
Đã biết nước là mẹ ta, thời dầu hy sinh ta với nước mà ta không quản, trong óc
chỉ có nước, ngoài việc nước ta không màng gì lợi, ta không thiết gì danh;
nhiệt thành thế này mới là ái quốc, ái quốc thế này mới hay cứu quốc.
Ruột tằm máu quốc thề sống thác với non sông, dạ sắt lòng son chẳng lụt sờn vì
mưa nắng, nhiệt thành như vậy, người nước ta có khó gì tự lập đâụ Vậy nên trong
bài tự lập lại cần nhất là vị thuốc này: "Bụng nhiệt thành" 10 phân
luyện chín.
11. Chương thứ mười một Chữa chứng bệnh "không
biết hợp quần"
Các chứng bệnh như trên kia là các chứng bệnh cá nhân. Bây giờ lại kể một chúng
bệnh như sau này là bệnh chung về đoàn thể. Người ngoại quốc thường khinh bỉ
người nước ta, có một câu rằng: "Không có một đoàn thể nào từ ba người trở
lên". Câu nói đó, thoạt mới nghe, tưỡng chừng là quá đáng, nhưng xét cho
đến tình hình xả hội nưóc ta, tinh thần người dân nước ta, tan tan, tác tác,
rạc rạc, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo thân nấy, bảo rằng không đoàn thể từ ba
người trở lên, vẫn có thể thật.
Suy cho đến nguyên cớ bởi vì sau đây, thời chỉ vì không biết nghĩa hợp quần mà
thôị Hợp quần là saỏ Là hợp cả một bầy lại cho thành một đoản thể. Ví như tay
chơn tai mắt có hợp mới thành được một thân; cột kèo rui mèn có hợp mới thành
được một nhà; từ việc nhỏ đến việc to, muốn nên một việc, tất phải có một bầy;
muốn nên một bầy, tất phải có cách hợp. Thuở xưa giao thông chật hẹp, núi bể
chia lìa, mưa gió riêng trời mình, bờ cỏi riêng đất mình, người mình đua đuổi
với người mình, dầu kém dầu hơn, dầu thua dầu được, cũng chẳng qua là nhà mình
mình ở, của mình mình ăn, nếu không biết hợp quần cũng chưa lấy gì làm tai hại
lắm. Thử xem đời bây giờ có thể được ử Bể Đông Tây chung nhau làm một vũng câu;
châu Âu Á chung nhau làm một rừng bắn, người đem cả trăm chân nghìn tay, trăm
khôn nghìn khéo dắt đoàn kéo lủ mà áp đến nhà mình, xô cửa phá buồng, bửa rương
móc túi, bầy người càng đông thời thế người càng mạnh, bầy mình càng ít thời
thế mình càng cô, lửa đốt nhà đã tận nóc, nước nuốt thuyền đã tận mui, mà bà
con trong nhà, trong thuyền đây hãy còn anh với em cắp dao trỏ nhau, lái với
bạn trừng mắt dòm nhau, kể việc rất ngu ở trong loài người có ai hơn thế nữa!
Than ôi! Thịt nát thì xương cũng tan, môi mất thì răng cũng la.nh. Nghĩa hợp
quần đó còn mờ mịt thêm một ngày thời họa diệt chủng càng câp bách thêm một
ngàỵ Ôi! Các anh chị em! Cái chứng bệnh không biết nghĩa hợp quần đó không biết
chữa mau, còn chờ gặp ma Chiêm Thành mà gục đầu thú tội saỏ Thấy tình cảnh các
anh chị em mà óc tôi nhức, máu tôi sôi, tay chân tôi nổi gai gốc. Tổ tiên ta
nếu còn thiêng, nòi giống ta nếu còn phúc thời chứng bệnh ly quần đó chắc được
một vị thuốc sẽ chũa lành ngaỵ Tôi nghĩ đi nghĩ lại, suốt mấy đêm ngày mới được
một vị thuốc là giãi "Đồng tâm". Đồng tâm nghĩa là người nào người
nấy đồng một lòng: giãi đồng tâm nghĩa là ức muôn triệu người kết hợp nhau làm
một dây, thân thể tuy khác nhau, mà tinh thần in nhau như hệt. Xưa ông Trụ có
ức muôn người, hưng cũng ức muôn bụng: vua tôi Võ Vương có mười người, kết quả
thời vua Võ Vương được mà ông Trụ thuạ Đó mới biết rằng tâm đồng nhau thời
nhược hóa nên cường, tâm chẳng đồng thời cường hóa nên nhược, Vì sao thế? Lòng
khác nhau thời rẽ bầy, rẽ bầy thời mạnh hóa nên hèn; lòng đồng nhau thời chung
bầy, chung bầy thời hèn hóa nên ma.nh. Vậy nên hai chử "Đồng tâm" là
phương thuốc hiệp quần rất thiêng liêng, rất ứng nghiệm.
Tuy nhiên có kẻ nói rằng: "đông ngưòi thời tất phải nhiều bụng, nhiều bụng
thời không thể nào đồng lòng. Cái sự đồng tâm đó thật là khó khăn lắm".
Ôi! Các anh chị em! Câu nói đó thật quá ngu! Xưa nay đồng lòng, không đồng lòng
chỉ vì có một cớ: chủng tộc không đồng, ngôn ngữ không đồng, tập tục không
đồng, thế mà muốn đồng lòng vẫn khó lắm. Đến như người nước ta, nòi giống vẫn
đồng với nhau, ngôn ngữ vẫn đồng với nhau, tập tục vẫn đồng với nhau, mà huống
gì lối tử sinh đường vinh nhục lại đồng với nhau; chim ở chung một rừng, cá ở
chung một bể, nếu chẳng may bể khô rừng cháy thời một lồng, một tấm vãy còn
mong sống sót được saỏ May gặp lúc bây giờ rừng hãy còn cây, bể hãy còn nước,
kết hợp cả bầy, đồng một lòng, chung một dạ, tính đường đi đứng, lựa bước lên
lui, dắt nhau ra khỏi ngục trầm luân, kéo nhau thoát khỏi vùng đồ thán, xoay
họa xưa làm phúc, rửa vết dơ trong pho sử củ, thay lấy vẻ vinh quang biết bao
nhiêu công nghiệp lớn lao chỉ ở trong một gốc lòng anh chị em mà nên tất cả.
Vậy thời giãi đồng tâm đó thật là phương thuốc khỡi tử hồi sinh của món ta
không còn gì hơn nữạ Vậy nên trong bài thuốc "Tự Lập" có một vị thuốc
như sau này: "Giãi đồng tâm" một dây càng kiên thực càng tốt.
12. Chương thứ mười hai Chữa chứng bệnh "mê tín
hủ tục"
Nưóc ta kể người có 25 triệu, kể đất có 70 vạn ngàn thước vuông tây, nếu làm
một nước tự lập chắc không khó gì! Cớ sao mà hèn hạ suy đồỉ Thuở xưa còn làm
một nước phụ dung, tới bây giờ lại trụt xuống làm một nước nô lê.. Ôi! Nước ta
không phải một nước hay saỏ Người nước ta không phải là người hay saỏ
Không phải, nước ta vẫn là một nước, người nước ta vẫn là người, nhưng chỉ vì
dân không có quyền, nên mỗi bước không tự lập. Dân vì sao mà không có quyền?
Thời vì dân không trí; dân không có trí; nên mới mê tín quá nhiềụ Bệnh mê tín
rất nặng là mê tín quyền vua; vì mê tín quyền vua, nên mê tín quyền quan, mà
quyền vua quyền quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháọ Ba quyền đó một ngày
một nặng, thời quyền dân không còn một tí gì; quyền dân đã không còn, thời dân
dại, dân yếu đuối hư hèn, muôn việc chỉ trông mong vào vua với quan. Vua với quan
không làm xong, thời trông mong vào thần; đến thần cũng không làm xong, thời bó
tay chịu chết. Mấy ngàn năm trở lại triều đình là bồi bếp của một nhà, nhân dân
là ngựa trâu của một họ; mấy mươi triệu đầu đen máu đỏ, còn gì là tư cách
người; rặt là mù mà người mù có mắt; rặt là điếc, mà người đếc có tai; rặt là
câm; mà người câm có miệng, rặt là què mà người què mà ngưới què có chân tay;
cái việc lạ lùng quái gở ở thế gian, không ai như người nước ta nữạ Thăm cho
đến gốc bệnh, chỉ vì mê tín những tục hủ cổ mà thôị Mê tín vua, mê tín quan,
chưa lấ gì làm kỳ, kỳ thứ nhất là mê tín thần; vì mê tín thần đó mà sinh ra vô
số việc nực cười; ngày giờ nào cũng là trời bày định, mà bảo rằng có ngày dử
ngày lành; núi sông nào cũng là đất tự nhiên, mà bảo rằng có đất tốt đất xấu;
vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng ông thần táo; vì che mưa gió mới có nhà; mà
bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa, thần đường, thần cầu tài, thần cầu
tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả thời thần chẳng thấy đâu,
chỉ thấy cửa nát nhà tan, của mòn người hết.
Tin thần bao nhiêu thời tai họa bấy nhiêụ Kìa xem như đạo Thiên Chúa chỉ sùng
phụng một vị Đức Chúa Trời ngoài ra không thần gì cả, nhưng nuớc vẫn mạnh, nhà
vẫn giàu, người họ vẫn sung suớng, họ chỉ thua ta một việc: thần đã không tế
thời xôi không, thịt không, heo bò cũng không, mà phần kỉnh phần biếu đều không
tất cả; nhưng họ vì đó mà của hao thời ít, của nở thời nhiều, tốn phí vô ích
bớt một phân. Ấy mới biết rằng mê tín thần quyền là tục ngu hủ của người ta, thật
rõ ràng rồi đó. Tục ngu hủ đó không quét sạch thời nền phú cường kia không bao
giờ dựng nên. Nhân vì ngu mà sinh ra hủ, nhân vì hủ lại thêm ngu, mắt người bị
người bịt, mà lại bảo rằng trước mí mắt không nước non; tai bị người bưng mà
lại bảo rằng bên lổ tai không gió sấm; tay chân bị người người xiềng khóa mà
lại bảo rằng tay chân mình đáng số cu li! "Chúng tôi dại dột", câu
nói ấy giắt chặc ở bên lưng. Quỳ lạy trước tượng đất hình bùn mà xem làm quốc
túy; giữ gìn lấy áo hôi mũ thúi mà bảo rằng gia truyền! Ngẫn ngơ, ngơ ngẫn đến
thế thời thôi! Trông người lại gẫm đến ta, thiệt cười dở mà khóc cũng dở.
Than ôi! Xưa nay chứng bệnh mê tín hủ tục kia phải gấp chữa mau mới có lẽ sống.
Tuy nhiên, muốn chữa chúng bệnh đó, phải thế nàỏ Xưa nay, những tập tục hủ bại
vì có hai lẽ; một thời vì cơ quan giáo dục chẳng hoàn toàn, một thời vì trí
khôn người ta chưa phát đạt.
Từ thế kỹ 19 trở lại đây, khoa học các nước cảng ngày càng phát sinh, trí não
các nước càng ngày càng nẫy nở. Thử xem điện học phát minh mà ông "thần
lôi" đã không dám hống hách; địa học phát minh mà nhà phong thủy long hổ
đã không dám múa men; sinh lý học phát minh mà thần rắn quỷ trâu đã cùng đường
trốn tránh; huống gì học thuyết Lư thoa đã xuất hiện thời quyền dân với quyền
lao động đã vùn vùn vụt vụt như gió thổi, như thủy triều lên, dầu ai muốn ngăn
mà ngăn sao đặng? muốn cấm mà sao cấm đặng? Ngọn cờ thần quyền chắc rày mai
cũng bị trận gió văn minh kia đánh đổ, mà vách tường hủ tục cũ chắc cũng bị làn
sóng văn minh kia đánh tan.
Thế thời muốn chữa bệnh mê tín ngưới nước ta, không thuốc gì hơn trí thức mới
nữạ Trí thức đó, nếu tìm tòi suy xét thăm cho tận gốc, dò cho tận nguồn biết
tính người là thiêng hơn vạn vật thời không thần gì hơn thần ở tâm; biết nhơn
dân là quí trọng hơn vua với quan, thời không quyền gì hơn quyền lao đô.ng. Có
óc thời ta dùng sức nghĩ, có tai thời ta dùng sức nghe, có mắt thời ta dùng sức
thấy, có tay chân thời ta dùng sức hoạt động, đua khôn đấu mạnh cùng dân các
nước đời nay, 20 triệu con Lạc cháu Hổng bỗng chốc mà tỏ ra giòng thần giống
thánh.
Người nước ta có khó gì tự lập đâủ Vậy nên dùng bài thuốc tự lập, phải có một
vị dầy "Trí thức mới" 10 phân, trộn vào "hoa tự do" không
kỳ nhiều ít.
13. Chương thứ mười ba Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế"
Nếu có ai hỏi rằng: nước vì sao mà mạnh, dân vì sao mà giàủ Thời tôi xin trả
lời rằng: "Nguồn bể phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế." Người ta nghe
hai chử "kinh tế", chưa hiểu nghĩa ra làm sao, huống gì là đường kinh
tế. Xưa truyện Đại học có câu rằng: "Sinh chi giả chúng, thực chi giả quả,
vi chi giả tật, dụng chi giả thư", nghĩa là của sinh nở ra thời nhiều, của
ăn tiêu đi thời ít, người làm của thời cần kíp, người dùng của thời dè dặt.
Sách Tây cũng có câu: "Những hạng người sinh ra lợi thời nhiều, những hạng
người chia mất lợi thời ít", Góp hai câu nói đó thời cách đường kinh tế,
dầu đông tây cũng chẳng khác gì. Nói tóm lại, chỉ có một cách sinh nở thời
thường vô cùng, mà tiêu hao thời thường phải hạn, của trời đất sinh ra thời biết
đường lợi dụng, của nhân lực làm ra thời biết đường mở mang, có thế mới gọi là
"Kinh Tế". Người nuớc ta thời thế nàỏ Việc tiêu dùng thời không biết
đường hạn chế, cách làm ăn thời không biết đường cải lương, sự nghiệp dân sinh
trong một nước chỉ nhờ cậy về nông, chân lấm tay bồng, kẻ làm khôn hết mực, cày
sâu cuốc bẩm, xem làm khéo cùng kỳ. Ngoài mấy đám đồng cạn ruộng sâu, nào
khoáng sản, nào sơn lâm, nào công trình nào thủy lợi chẳng biết một tí gì.
Người ngoại quốc lấy máy móc đở tay chân tay, mà mình thời không biết đua, của
sinh sản ngày không một hào một li, mà của tiêu xài ngày có hàng nghìn hàng
vạn; thấy người ta sang trọng, ta cũng sang trọng, nhưng cái đồ sang trọng đó
rặt là cắt thịt nhà để vá cánh giặc; thấy người ta sung sướng, ta cũng sung sướng
nhưng cái mồi sung sướng đó, rặt là nặn sữa mẹ để nuôi người dưng. Bao nhiêu
vật lạ của ngon, nào rượụ nào thuốc, nào trà, nào vải bông, gấm vóc, không một
thức gì là tay chân mình chế tạo, mà cũng không một đồng tiền nào không phải
máu mủ mình ép ra; tiền của người không một đồng nào vào tay mình, mà máu mủ
mình thời trót tháng quanh năm chỉ những trét miệng hùm, no bụng sấụ Trí khôn
người ta như thế, còn nói "Kinh Tế" được đâu! Than ôi! Thiên thời ta
vẫn tốt, địa lợi ta vẫn giàu, mà tay mắt tay chân ta vẫn không kém gì ai cả!
thuốc ta, rượu ta, trà ta, vải vóc ta, không dùng được hay saỏ
Không chế tạo được hay saỏ Cớ sao thợ thuyền buôn bán thời không thấy tới, mà
chỉ thấy lui; xài phí ăn tiêu thời chỉ thấy thêm mà không thấy bớt, đã một mặt
thời quen nết tham thanh chuộng lạ, một mặt thời giử nết ở nể ăn không; bể toan
khô nước mà ngồi đợi trời mưa, đèn toan hết dầu mà nằm chờ trăng mọc.
Người ngu ngẩn đến thế, không chết rày thời chết mai, chỉ e mấy tấm ván hòm
chưa dự bị bao giờ đă.ng. Tôi nghỉ đến nông nổi thế mà khóc than cho vận mệnh
người nước ta, chúng bệnh về đường kinh tế nếu không lo chạy chữa cho mau thời
nòi giống chúng ta chẳng tuyệt diệt về thủy hỏa, binh đao, mà tuyệt diệt về đồ
ăn thức mặc! Ai là người có tâm huyết, chắc cũng lấy lời nói làm đúng rồị Bây
giờ xin nghĩ một vị thuốc để chữa chứng bệnh nàỵ Vị thuốc ấy là giải đấỷ Là vị
"Nội Hóa" Trình độ dân ta còn thấp trí thức dân ta còn non, bảo nhờ
cậy việc công, việc thương, sẽ đấu mạnh đua giàu với các nước, cái hy vọng đó,
ở ngày nay thiệt chưa có được ngay, song e tục ngữ có câu rằng "Khéo ăn
thời no, khéo co thời ấm", đồng bào ta bây giờ mà muốn cho được điều no,
điều ấm thời phải có một cách khéo mà thôi.
Đường sanh lợi chưa có thể phát đạt được đến mười phân thời đường tiêu xài phải
dè dặt từ một li, một mảy cần thứ nhứt là dùng nội hóạ Đó thiệt là một vị cứu
cho chứng bệnh người tạ Đồ ăn ta; ta ăn, đồ mặc ta; ta mặc, đồ dùng ta; ta
dùng, dầu mỡ máu mủ ta, ta bồi bổ cho ta, bớt một li của ra tức là thêm một li
của vào, bớt một đồng tiền chết, tức là thêm một đồng tiền sống. Nội hóa tiêu
dùng ngày càng chảy, thời các món công thương nghề nghiệp cũng nhân đó mà cạnh
khéo đua khôn, đắp tư cơ sẽ tạo nên thời, đúc trí tuệ sẽ gây nên thế, họa may
bụng đà khỏi đói, mà óc cũng thêm no; dân sinh đã khỏi nỗi khốn cùng thời dân
trí cũng có cơ tấn bô.. Theo tạo nhân mà tìm đường kết quả, cái việc chấn hưng
nội hóa đó chẳng phải là gấp lắm saỏ Vậy nên trong bài thuốc tự lập phải có một
vị thuốc như sau này "Nội hóa" một vạn thức, kiêng ngoại hóạ
14. Chương thứ mười bốn "Chữa chứng bệnh" "không biết thương nòi giống"
Người ta còn một chứng bệnh rất to, là chứng bệnh "không biết thương nòi
giống ". Người ta mắc lấy chứng bệnh đó, chẳng những trái hẵn tính loài người,
mà với các giống vật có một điễm trí khôn cũng còn thua kém nữạ
Kể chứng bệnh ác độc thứ nhất, không gì hơn chứng bệnh này: Kìa con ong vẫn có
nọc, mà ong ở chung một ổ không bao giờ cắn nhau; cọp vẫn hay ăn thịt, mà cọp ở
chung một xứ không bao giờ ăn nhaụ Thường xem bầy kiến, nó vẫn là một loài vật
rất nhỏ nhen, mà cũng có một điễm tốt rất lạ: nó ở chung nhau một bộng, có hàng
trăm hàng ngàn con, một con đi ra thoạt thấy được mồi ăn, thời tức khắc chạy về
tin cho anh em mình cả; tha mồi thời khó nhọc chia với nhau, ăn mồi thời ngon
ngọt chung với nhau, không bao giờ được mồi mà ăn riêng cả; lại có khi tránh
mưa trốn gió, dắt đoàn kéo lũ đi chung, con nhỏ, con lớn, đoàn trước, đoàn sau,
dắt nhau đi không khác gì một đội quân lính; chẳng may giữa đường có con nào bị
tử thương thời chúng kiến xúm nhau cõng nó về hang, không bao giờ bỏ bạn chết
mà đi cả! Thế mới biết thương nòi giống, dầu loài vật cũng có tấm lòng thành,
chung một máu mủ thời họa phúc chia nhau, nghĩa đồng tO17; đồng sinh vẫn trước sau
một mực.
Vật còn như thế, người có lẽ thua nó hay saỏ Quái ngán thay! Lạ lùng thay! Đến
người nưóc ta thời khác hẵn! Tục ngữ có câu rằng: "Gà một chuồng bôi mặt
đá nhau!" lại có câu: "Kẻ chết đã xanh, người nhăn nanh mà
cười!" lại có câu: "Đi ra tưỡng bắt trâu cò, trâu cò không bắt, bắt
bò, bò ôi!", mấy câu thí dụ đó, ngẫm nghĩ cho kỹ thiệt là về nết xấu của
người nước ta quá đúng rồi đó.
Ôi! Các anh chị em! Máu in nhau giọt đỏ, da in nhau sắc vàng, đầu in nhau tóc
đen, mắt in nhau tròng mắt, giống
Tiên Rồng, nòi Hồng Lạc trãi qua mấy nghìn năm mới có bây giờ con một họ, cháu
một giòng, nếu cứ như lẽ thường chắc máu ai thấm thịt nấy, đánh đá thời đau đến
lòng gạch, chết thỏ thời sa nước mắt hồ; vẫn đạo trời có thế mới đương nhiên,
mà tính người cũng có thế mới chính đáng. Cớ sao mấy mươi năm gần đây tình hình
ở xã hội, cách hành động các anh chị em ta, thương nhau, bênh nhau, chẳng bao
lăm người, mà ghét nhau, hại nhau thời không xiết kê?? Rước voi dầy mồ ông vải,
cõng rắn về cắn gà nhà, việc đó thiệt bất nhân vô đạo đã quá chừng, mà người
mình trở lại nhận làm khôn làm khéo!
Xin ai thử nghĩ, mồ ông vải trúc, mà voi có ơn gì đến mình không? Một mai gió
mây biến hóa, dâu bể đổi dời, voi đã tan xương, rắn cũng đứt nọc, các ngài lúc
bấy giờ đêm khuya mò bụng hỏi bóng thăm hình, mồ tan hoang vì aỉ Gà nhao nhác
vì aỉ Mình còn mặt mũi nào thấy ông bà ở dưới đất, trông cô bác ở trên đờỉ Đau
đớn thay! Tội tình thay! Cái chút bệnh không biết thương nòi giống đó, hú ba
hồn chín vía các ngài, nên thang thuốc cho mau mới phải! Bây giờ tôi xin làm ơn
cho các ngài vị thuốc này: "Giống thân ái" đó, vào trong lòng ngườị
Người v ` có hột giống ấy mới khai nên hoa, mới kết nên quả, mà nòi giống người
mới sinh trưỡng vô cùng. Nếu lòng người mà không có hạt giống ấy thời gọi rằng
"Lòng chết" .
Ông Lão Tử có câu: "Ai mạc đại ư tâm tử", nghĩa là người ta lòng chết
không gì đau đớn hơn; nếu thiệt lòng người thời bao giờ chết đặng! Lòng mà đến
chết, vì không hột "giống thân ái" mà thôị
Đức Gia Tổ có câu: "Ái nhân như kỹ", nghĩa là thương yêu người như
thương yêu mình. Đức Phật Tổ có câu: "Nhất thiết từ bi", nghĩa là
không kể người không kể ta, nhứt nhứt luật thương yêu cả.
Đạo Nho cũng có hai chử "Khiêm ái". Nhà triết học Tây cũng chủ trương
hai chử "Bác ái". Xem chừng như những đạo lý các thánh hiền nói đó,
thời hể chung một loài người dầu ai cũng nên thân ái, huống gì chung một nòi
giống nữa ru! Nòi giống ta, ta thương yêu lấy nhau; có cơm ta no chung, có áo
ta ấm chung, có nhà cửa ta ở chung, gặp việc vui ta vui chung, vì hột giống
thân ái đó càng ngày càng nẩy nở, hoa tự do nhân đó mà muôn tía ngàn hồng, Nam
reo Bắc thổị Việc đồng tâm của 25 triệu nòi giống ta chắc cũng do ta rày mai mà
trông được hẳn! Vậy nên ở trong bài thuốc tự lập lại còn có một vị như sau này:
giống "thân ái". Hằng hà sa số hột, hột nào càng chắc càng hay!
15. Chương sau hết Bài tóm cách làm việc
Các chứng bịnh đã chữa lành rồi bây giờ mới tính cách làm việc.
Thứ nhất là phải có chủ nghĩa, thứ nhì là phải có chương trình, thứ ba là phải
có kế hoạch. Có đủ ba điều đó thời việc mới có thể làm nên.
Bây giờ xin giãi thích điều thứ nhất:
Hể phàm làm một việc, tất trước phải có chủ nghĩạ Chủ nghĩa có tốt có xấu, có
phải có chẳng, Khi ta bắt đầu sắp sửa làm việc thời ta phải hết sức kén chọn
Thấy chủ nghĩa gì đã tốt lại phải, thời ta phải giử chặc chủ nghĩa ấy mà làm;
ví như bắn bia phải nhìn các trung tâm bia cho chắc chắn; ví như vượt bể tất
phải dòm xét cái mũi châm phương hướng cho kỹ càng. Trung tâm bia đó đã nhìn
được chắc chắn bắn mới không sai, châm phương hướng đó xét được rành thời
thuyền đi mới không lỗị Người làm việc mà có chủ nghĩa, đó là vào trường bắn mà
xem thấu bia, vặn máy thuyền mà định chắc hướng, Vậy nên người làm việc, trước
hết phải kén chọn chủ nghĩa cho vững vàng. Bây giờ lại giãi thích điều thứ nhì:
Khi sắp sửa làm việc thời kén chọn chủ nghĩa vẫn cần lắm; nếu đã có chủ nghĩa
mà khi bắt tay vào làm mà không có chương trình, thời như người đánh cờ mà
không tính suốt cả bàn, vội vàng lụp chụp, thấy nước thời đi, nước sau đem lại
nước trước, nước trước đem lại nước sau, thời bàn cờ đó tất nhiên phải thuạ Vì
vậy, làm một việc gì, tất phải định một cái chương trình cho việc ấỵ Ví như
muốn đi một lối đường từ Huế ra Hà Nội, tất phải tính toan từ khi bước chân ra
đi, cho đến khi tới Hà Nội, tiền đi xe lửa tốn hết bao nhiêu, tiền đi ô tô hết
bao nhiêu, tiền đi xe tay và tổn phí ở trên xe hết bao nhiêu, lại phải nghĩ
trước cả mọi điều, như giấy thông hành, giấy căn cước, đồ hành trang, người đày
tớ, với giữa đường phải xuống ga nào; đến nơi thời trú những nhà nào; vả lại,
khi giữa đường hoặc khi đến nơi, có điều gì trở ngại hay không, thời phải tính
làm cách gì cho trơn chảỵ Lại như tiền tổn phí, tất phải phòng dự, chớ "đo
bò làm chuồng", lỡ khi thiếu thời dang dở; việc phòng bị tất phải sắp đặt
sẵn sàng, chớ "bắc nước đòi gà"; sợ khi gấp thời không xong.
Người trỏ lối đưa đường phải lựa cho thập phần chắc chắn, chớ có rước thầy mù
coi đất mà đến khi lỡ làng. Tính toán các điều ấy đủ rồi thời ta định sẵn một
cái chương trình, việc gì trước ta làm trước, việc gì sau ta làm sau, việc gì
lành ta theo, việc dữ thời ta tránh. Chương trình chắc chắn, noi đó mà đi, có
sợ gì đi không tới nơi đâủ Bây giờ lại giãi thích về điều ba: Hể phàm một chủ
nghĩa vẫn chính đáng, chương trình vẫn tinh tường, còn một điều đáng lo là còn
sợ kế hoạch không được hoàn thiện, vậy nên cần có kế hoa.ch. Ông Khổng tử có
câu rằng:
"Hiếu mưu nhi thành", nghĩa là làm việc phải có tìm mưu mẹo, mà mưu
mẹo phải tìm cho đến chốn đến nơị Sách Binh thư có câu: "Đa toán thắng,
thiểu toán bất thắng", nghĩa là tính toán được nhiều nước thời ăn hơn,
tính toán được ít nước thời phải thuạ Ví như hai người vật nhau một người sức
mạnh mà không có mẹo, một người sức yếu mà có nhiều mẹo, thời người sức yếu
chắc ăn hơn. Cái mẹo đó, tức là kế hoạch; mà trong khi tính toán kế hoạch, thời
phải đủ ba điều: một là cân nhắc về phần trí khôn; hai là cân nhắc về phần lực
lượng; ba là cân nhắc về phần thời thế. Lựa trong ba điều đó, mà tính toan bày
đặt cho đủ cả mọi đường, như làm một bài tính, không bỏ sót một con số nàọ Đó
là kế hoa.ch. Việc thiên hạ đầu nhỏ đầu to, nhưng mỗi một việc tất phải có một
kế hoạch; nếu kế hoạch được tinh tường chu đáo, thời có việc gì là chẳng nên?
Nói tóm lại, làm việc phải có chủ nghĩa, mà mình đối với chủ nghĩa tất phải hết
sức trung thành, thà là vì chủ nghĩa mà giết mình, chẳng nên vì mình mà giết
chủ nghĩa. Như ông Tôn Văn trót một đời người hết sức trung thành với "Tam
Dân chủ nghĩa", thật là gương cho ta đó. Còn ngoài ra như chương trình tất
phải châm chước cho kỹ càng, tổ chức cho hoàn thiện, mà lại phải có kế hoạch
cho kỹ càng thời chương trình mới thực hành được; nếu có chủ nghĩa mà không có
chương trình, thời chủ nghĩa không bao giờ thực hiện; nếu có chưong trình mà
không kế hoạch thời chương trình không bao giờ thành công. Vậy nên ở trong cách
làm việc phải cần có cả ba điều đó.
Lại còn có một lẽ người ta cần phải biết, biết không thấu thời làm không xong.
Ông Tôn Văn có câu nói rằng "Tri nan hành dị", nghĩa là biết được
rành thời khó; đã biết rồi mà làm thời dễ. Nếu anh em làm việc cần phải biết
cho rành. Lại còn một tệ bệnh, người ta càng nên biết lắm.
Thí dụ: Muốn lấy trộm một nhà ông giàu thời làm thế nàỏ những khi bình thường
phải giả ngẫn giả ngơ, giả khờ giả dại, chớ cho ông nhà giàu đó biêt mình là kẻ
trộm bợm. Vậy sau khi thực hành mới dễ được thành công. Ông Lão Tử có câu nói
rằng: "Đại trí nhược ngu", Nghĩa là những người khôn rất to thời phải
làm như hình người ngụ Lại có câu rằng: "Đại xảo nhược chuyết", nghĩa
là những người khéo rất to, thời phải làm như hình người vu.ng. Vậy nên những
người muốn làm việc, trước phải bồi dưỡng hai cái tinh thần:
1 Tinh thần nín nhịn;
2 Tinh thần tránh tiếng.
Hay nín nhịn thời chớ có giận vặt với hung hăng những thói vũ phu; hay tránh
tiếng thời chớ có bán tiếng mua danh, để cho những người tầm thường không kể
mình là giỏi mới là haỵ
Sách Binh Thư có câu rằng: "Tịnh như xử nử, động như thoát thố". Câu
trên nghĩa là: Khi ta hãy còn lặng lẽ, thời êm đềm kín đáo như chị con gái chưa
lấy chồng ở trong một chốn buồng sâu, vẫn mình là rất muốn lấy chồng, mà không
để cho ai biết". Câu nói đó là bày vẻ cách kế hoạch cho người ta làm việc.
Câu nói dưới nghĩa là: "Khi ta hành động tất phải nhìn theo thời thế mà
theo cho gấp, như con thỏ ở trong lồng mà được xổ ra, thời bổng chốc mà chạy
rất mau, dầu ai lanh đến mấy cũng không có thể bắt được nó". Câu nói đó là
bày vẻ cho cách người ta hành động. Cách làm việc nếu được như hai câu nói đó
thời việc gì cũng thành công; nếu không được như hai câu nói đó, thời việc gì
cũng thất bại.
Tuy nhiên, lại có một lẽ: Hể phàm tính việc thời tất muốn thành công, mà đã có
gan làm việc thời lại phảI không sợ thất bại; bởi vì, hể làm việc tất phải trải
qua một lối thất bại mới đến thành công.
Sách Tây có câu: "Thất bại là mẹ đẻ ra thành công". Tục ngữ ta có câu
rằng: "Đứt tay mới hay thuốc", Vây nên những việc thất bại, chính là
trường học thiên nhiên mà dạy bảo cho mình đến thành công. Người ta chỉ sợ mình
không có gan làm việc, còn thất bại thời không nên sợ gì; càng thất bại càng
làm, càng làm càng sinh ra khôn khéo; trải qua một phen thất bại thời thêm ra
được một mối thành công. Vậy mới biết: Thất bại là mẹ đẻ ra thành công, có thế
thật!
Chung
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
TẬP CẬN BÌNH - NHỮNG KIẾN TRUC VĨ ĐẠI
Monday, June 10, 2013
DƯƠNG DANH DY * TẬP CẬN BÌNH
Dương Danh Dy: Trung Quốc đòi sánh ngang với Mỹ?
Giai đoạn 2010 trở đi, trong nội bộ Trung Quốc xuất hiện một
xu thế cho rằng không cần cư xử với Mỹ như cũ nữa, mà cần phải “bằng vai
phải lứa”.
LTS: Chỉ còn mấy ngày tới là diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh thường niên giữa Mỹ và Trung Quốc, trong bối cảnh nước đầu tiên chào đón nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Barack Obama, còn nước thứ hai có một thế hệ lãnh đạo hoàn toàn mới.
Có những điều gì đặc biệt sẽ diễn ra trong cuộc gặp này, TuanVietNam xin được trao đổi với nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, một chuyên gia lão làng về Trung Quốc.
Thưa ông, cuộc gặp thượng đỉnh Trung – Mỹ năm nay so với các năm trước có gì đặc biệt hơn?
Thượng đỉnh Trung – Mỹ là để hai bên nêu ra những vấn đề cùng quan tâm mới, những va chạm mới… để tìm cách giải quyết, khỏi gây ra xung đột.
Nhưng năm nay, theo tôi nghĩ, sẽ có một vấn đề đặc biệt, ngoài chương trình nghị sự bình thường.
Đó là vấn đề gì, thưa ông?
Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta phải nhìn lại quan hệ hai nước, kể từ khi họ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, vào đầu năm 1979.
Giai đoạn thứ nhất, từ khi hai nước chính thức lập quan hệ ngoại
giao (1/1/1979) tính đến khi Liên Xô tan rã (cuối năm 1991). Đó là giai
đoạn đối chọi nhau. Điển hình là sự kiện Thiên An Môn năm 1989.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt, ở Trung Quốc vẫn có một số người muốn tiếp tục xu thế đó, nhưng Đặng Tiểu Bình đã khôn ngoan, dẹp ngay, đề ra chủ trương “giấu mình chờ thời, quyết không đi đầu”. Tức là Đặng muốn tránh cho Trung Quốc phải đứng ra thay thế Liên Xô, cầm đầu mấy nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phong trào cộng sản quốc tế.
Giai đoạn này kéo dài từ đó đến năm 2010, khi GDP Trung Quốc vượt Nhật Bản để vươn lên thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Trong giai đoạn này, Trung Quốc, tuy không nói ra, nhưng đã ngầm thừa nhận Mỹ là siêu cường, nói chung tránh không trực diện đối đầu với Mỹ. Khi hai bên có những va chạm, Trung Quốc đã chủ động ứng xử một cách nín nhịn.
Ví dụ?
Tôi xin lấy hai ví dụ điển hình nhất.
Một là vụ Mỹ bắn tên lửa vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư, khiến Tuỳ viên quân sự Trung Quốc tại đây chết. Nhưng Trung Quốc đã không làm to chuyện.
Hai là vụ máy bay Mỹ xâm phạm vùng trời của Trung Quốc ở đảo Hải Nam, năm 2001, đâm phải và làm rơi máy bay Trung Quốc, làm chết phi công Trung Quốc, còn máy bay của Mỹ buộc phải hạ cánh xuống sân bay Trung Quốc. Sau một thời gian đàm phán, Trung Quốc đã chấp nhận lời xin lỗi của phía Mỹ, để phi công Mỹ ra về, và sau đó trả máy bay cho Mỹ.
Vậy đến giai đoạn 2010 trở đi, khi GDP Trung Quốc đứng hàng thứ hai thế giới?
Vâng, ngoài GDP ra, Trung Quốc đã trở thành nước có dự trữ ngoài tệ lớn nhất thế giới và chủ nợ lớn nhất thế giới. Trong nội bộ Trung Quốc xuất hiện một xu thế coi “giấu mình chờ thời” không phải là “bách niên đại kế” (đại kế trăm năm), mà chỉ là “quyền nghi chi kế” (kế quyền nghi) mà thôi. Đã đến lúc Trung Quốc không cần cư xử với Mỹ như cũ nữa, mà cần phải “bằng vai phải lứa”.
Xu thế này dần phát triển, và định hình, vào cuối năm ngoái, khi Đại
hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 họp, và kết quả đại hội là một
thế hệ lãnh đạo mới và phương hướng phát triển mới.
Xin hỏi ông, ban lãnh đạo mới của Trung Quốc có vai trò như thế nào trong chuyện này?
Ban lãnh đạo mới của Trung Quốc, tuy mới lên, nhưng đã có một số hành động đáng chú ý.
Việc đầu tiên là họ nắm chặt quân đội hơn, thanh trừng hàng loạt các tướng lĩnh có ý muốn tách rời quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Năm ngoái, một thượng tướng đã bị mất chức vì có ý định này, và ngay trước Đại hội 18, họ đã thay ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Trang bị. Trừ đại hội 8 (năm 1958), tôi chưa vào ngành, còn 10 kỳ đại hội khác từ đó đến nay, tôi đều ít nhiều có theo dõi, và chưa bao giờ thấy hiện tượng trên.
Thứ hai là Tổng Bí thư Tập Cận Bình đi thăm Thâm Quyến ngay sau đại hội. Tại sao lại Thâm Quyến? Bởi vì sau Thâm Quyến là quân khu Quảng Châu – một quân khu rất quan trọng đối với Biển Đông. Ở đó, Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng quân đội phải chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sau đó, Tập Cận Bình tổ chức đợt học tập, rút kinh nghiệm bài học Liên Xô: cho rằng lý do chủ yếu khiến Liên Xô tan rã là do Đảng Cộng sản không nắm quân đội. Trong bài viết trên mạng của họ mà tôi đọc được nói rằng, trong 2 tháng rưỡi từ khi lên nắm quyền, Tập Cận Bình đã đi thăm hầu hết các quân binh chủng của quân đội Trung Quốc. Tôi nghĩ đến nay ban lãnh đạo mới của Trung Quốc đã tạm nắm được quân đội, và tạm dẹp được xu thế trung lập hoá quân đội.
Thứ ba là ban lãnh đạo mới này đã tỏ ra “nêu gương” trên một số mặt. Không biết bên trong thế nào, nhưng qua truyền thông thấy từ Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Tập Cận Bình đến Thủ tướng Lý Khắc Cường… đều tỏ ra “ cần, kiệm, liêm, chính.”
Ví dụ: Tập Cận Bình, từ khi lên nắm quyền, ra lệnh tiệc chiêu đãi chỉ gồm 4 món thức ăn và 1 món canh là 5 món, không được hơn, và cơm không có rượu. Đi đâu không có “tiền hô, hậu ủng”…
Hay, Lý Khắc Cường khi xe đi gặp đèn đỏ, đứng lại chờ đèn chuyển sang xanh mới đi tiếp…
Ban lãnh đạo này, so sánh với các ban lãnh đạo trước đây, có thêm những đặc điểm gì nổi bật?
Ngoài yếu tố khá trẻ, (như Tập Cận Bình 60 tuổi, hay Lý Khắc Cường 58 tuổi), có trình độ văn hoá cao (nhiều người là thạc sĩ, hay tiến sĩ), và được thử thách, rèn luyện tốt. Bọn họ đã “bò từ cơ sở lên chức vị hiện nay, chứ không làm quan tắt”.
Nhưng điều này mới là quan trọng: Đây là lớp người mà tuổi thiếu niên nhìn thấy tác hại của Cách mạng Văn hoá Trung quốc. Thậm chí, như Tập Cận Bình đã bị đấu tố, rồi phải “lên núi xuống làng”… Đến tuổi thanh niên thấy tận mắt thành công của cải cách mở cửa, thấy đất nước thay đổi đến chóng mặt.
Chính vì vậy, bây giờ ở vào cương bị lãnh đạo cao nhất, họ có ý chí rất mạnh, quyết tâm xây dựng Trung Quốc thành một siêu cường. Vì vậy, không phải tự nhiên mà “giấc mộng Trung Hoa” lại xuất hiện.
Những đặc điểm này tạo cho Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường … có sự khác biệt khá rõ với thế hệ lãnh đạo trước.
Vậy, xin quay trở lại đề tài chúng ta đề cập lúc đầu, tại thượng đỉnh Trung – Mỹ lần này, liệu Trung Quốc có đưa ra vấn đề về vị thế của Trung Quốc, và đòi hỏi đứng “ngang bằng” với Mỹ không?
Tôi nghĩ là có thể. Bởi để chuẩn bị cho đòi hỏi này, Trung Quốc đã làm mấy việc sau:
Thứ nhất, Tập Cận Bình chọn nước đầu tiên đi thăm là Nga. Nga là đối thủ của Mỹ, rõ ràng là Trung Quốc muốn cho Mỹ biết đã có sự liên kết Trung – Nga trong mối quan hệ với Mỹ.
Trong khi đó, Lý Khắc Cường đi thăm Ấn Độ và Pakistan. (Một số báo chí của ta chỉ tập trung đến chuyến thăm Ấn Độ, tạo cảm giác rằng Trung Quốc muốn thúc đẩy quan hệ với Ấn Độ theo chiều hướng tốt đẹp).
Nhưng, thực ra, Trung Quốc đã tỏ ra rất “cáo già”. Ai cũng biết Ấn Độ và Pakistan là hai nước có sự chống đối về lãnh thổ, dân tộc và tôn giáo, và đã từng xẩy ra chiến tranh. Trong khi đó, Pakistan lại là người bạn thân thiết nhất của Trung Quốc, Trung Quốc là nước viện trợ cho Pakistan nhiều nhất. Tức là Trung Quốc đâu chỉ có chơi với Ấn Độ, mà còn chơi với cả đối thủ của Ấn Độ nữa.
Rồi Ngoại trưởng Vương Nghị chọn 4 nước Đông Nam Á không có tranh chấp Biển Đông là Thái Lan, Indonesia, hay Singapore, hoặc tranh chấp không đáng kể (Brunei). Rõ ràng là họ định chia rẽ ASEAN, nhất là với hai nước Philippines và Việt Nam.
Rồi ngay trước khi đến Mỹ, ngày 31.5, Tập Cận Bình đã có chuyến thăm tới 3 nước Trung Mỹ và Caribe là Trinidad và Tobago, Costa Rica và Mexico, nhằm mục đích phát triển dầu khí và thương mại, ở mức độ cao hơn có thể nói đó là một sự xâm nhập vào sân sau của Mỹ. Hiện Trung Quốc đã vượt qua Liên minh châu Âu để trở thành bạn hàng lớn thứ hai của châu Mỹ La tinh.
Đòi hỏi đó, nếu diễn ra đúng như vậy, của Trung Quốc sẽ gặp phản ứng như thế nào từ Mỹ?
Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, với số nợ lên tới gần 2000 tỷ USD. Nhưng Trung Quốc cũng tự biết rằng không thể lợi dụng món nợ khổng lồ đó để “ăn thua” với Mỹ , vì Mỹ đang hưởng lợi khi họ ở thế vay trả – trả vay này, và đồng đô la Mỹ mất giá. Chính báo chí Trung Quốc đã viết rằng người dân Trung Quốc cần lao để cho người Mỹ tiêu xài.
Điều thứ hai là Mỹ thừa biết Trung Quốc đang bị tứ phương chống đối. Tại biển Hoa Đông là với Nhật, tại Biển Đông là với phân nửa Đông Nam Á.
Trong khi đó, với nước láng giềng Myanmar mà Trung Quốc khổ tâm “kinh doanh” trong bao nhiêu năm, đang tách khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc đi theo xu hướng dân chủ hoá…
Với Ấn Độ, từ 50 năm nay, đã tồn tại chuyện biên giới lãnh thổ. Ấn Độ không thể quên cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 do Trung Quốc bất ngờ phát động.
Còn với Nga, và mấy nước Trung Á, thì chỉ là hiện tượng “tạm yên”, bởi họ biết rõ “ông bạn Trung Hoa” lắm rồi. Mối quan hệ với Nga chỉ là để cùng “ứng xử” với Mỹ, và mang tính khi cùng lợi ích thì tạm “liên kết”.
Nội bộ Trung Quốc đang không ổn định, báo chí nói nhiều rồi, tôi không cần phải nhắc lại.
Và điều cuối cùng tôi muốn nói là cái “tử huyệt” của quân đội Trung Quốc. Đó là lính nghĩa vụ Trung Quốc bây giờ là “lính con một”, bởi 30 năm nay Trung Quốc thực hiện chế độ “đẻ một con”.
Anh thử tưởng tượng xem hai ông bà nội, hai ông bà ngoại, rồi hai bố mẹ, sáu người lớn mới có một đứa con, thì cậu bé ấy đúng là “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”.
Chính vì vậy, tôi nghĩ Mỹ sẽ không chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc. Mỹ sẽ vẫn ở vị trí thượng phong.
Nói về Mỹ, ở nhiệm kỳ thứ hai, ông Barack Obama đã giải quyết được những vấn đề gì đề có thế tập trung vào cái gọi là “xoay trục sang châu Á – Thái bình dương”?
Vị thế của Mỹ đang lên. Điều đó không phải bàn cãi.
Thứ nhất, kinh tế Mỹ đang phục hồi tốt. Tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Thứ hai là Mỹ mới trở lại châu Á – Thái bình dương một chút thôi mà được hoan nghênh.
Nhưng không chỉ những động thái ở Biển Đông như lệnh đơn phương cấm đánh bắt cá, bắn tàu ngư dân…, Trung Quốc còn gây hấn cả với Nhật ở vùng Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) bằng cách phải ngư dân ào ạt tiến vào đó, hay xúi giúc Đài Loan “chia lửa”. Họ muốn gây chiến với Nhật?
Không đời nào, đòn gió thôi. Bởi Nhật bản rất mạnh cả về kinh tế lẫn quốc phòng. Hơn nữa, chính Tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã lên tiếng rằng “Mỹ công nhận quần đảo đó nằm trong quyền kiểm soát của Nhật Bản và thuộc phạm vị điều chỉnh của Hiệp ước Anh ninh Mỹ – Nhật”.
Vậy ông tin chắc rằng Mỹ sẽ từ chối những đòi hỏi mà họ cho là “quá mức” của Trung Quốc?
Đúng. Trừ phi Trung Quốc cho Mỹ một món lợi nào đó lớn hơn lợi ích của Mỹ tại vùng châu Á Thái Bình Dương.
Nhưng, theo tôi, hiện nay Trung Quốc không có khả năng đó, và Mỹ cũng tỏ ra không cần.
———————
Nguồn: Vnn
LTS: Chỉ còn mấy ngày tới là diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh thường niên giữa Mỹ và Trung Quốc, trong bối cảnh nước đầu tiên chào đón nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Barack Obama, còn nước thứ hai có một thế hệ lãnh đạo hoàn toàn mới.
Có những điều gì đặc biệt sẽ diễn ra trong cuộc gặp này, TuanVietNam xin được trao đổi với nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, một chuyên gia lão làng về Trung Quốc.
Thưa ông, cuộc gặp thượng đỉnh Trung – Mỹ năm nay so với các năm trước có gì đặc biệt hơn?
Thượng đỉnh Trung – Mỹ là để hai bên nêu ra những vấn đề cùng quan tâm mới, những va chạm mới… để tìm cách giải quyết, khỏi gây ra xung đột.
Nhưng năm nay, theo tôi nghĩ, sẽ có một vấn đề đặc biệt, ngoài chương trình nghị sự bình thường.
Đó là vấn đề gì, thưa ông?
Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta phải nhìn lại quan hệ hai nước, kể từ khi họ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, vào đầu năm 1979.
Barack Obama gặp Tập Cận Bình hồi tháng 2 năm nay tại Nhà Trắng |
Sau khi Liên Xô sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt, ở Trung Quốc vẫn có một số người muốn tiếp tục xu thế đó, nhưng Đặng Tiểu Bình đã khôn ngoan, dẹp ngay, đề ra chủ trương “giấu mình chờ thời, quyết không đi đầu”. Tức là Đặng muốn tránh cho Trung Quốc phải đứng ra thay thế Liên Xô, cầm đầu mấy nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phong trào cộng sản quốc tế.
Giai đoạn này kéo dài từ đó đến năm 2010, khi GDP Trung Quốc vượt Nhật Bản để vươn lên thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Trong giai đoạn này, Trung Quốc, tuy không nói ra, nhưng đã ngầm thừa nhận Mỹ là siêu cường, nói chung tránh không trực diện đối đầu với Mỹ. Khi hai bên có những va chạm, Trung Quốc đã chủ động ứng xử một cách nín nhịn.
Ví dụ?
Tôi xin lấy hai ví dụ điển hình nhất.
Một là vụ Mỹ bắn tên lửa vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư, khiến Tuỳ viên quân sự Trung Quốc tại đây chết. Nhưng Trung Quốc đã không làm to chuyện.
Hai là vụ máy bay Mỹ xâm phạm vùng trời của Trung Quốc ở đảo Hải Nam, năm 2001, đâm phải và làm rơi máy bay Trung Quốc, làm chết phi công Trung Quốc, còn máy bay của Mỹ buộc phải hạ cánh xuống sân bay Trung Quốc. Sau một thời gian đàm phán, Trung Quốc đã chấp nhận lời xin lỗi của phía Mỹ, để phi công Mỹ ra về, và sau đó trả máy bay cho Mỹ.
Vậy đến giai đoạn 2010 trở đi, khi GDP Trung Quốc đứng hàng thứ hai thế giới?
Vâng, ngoài GDP ra, Trung Quốc đã trở thành nước có dự trữ ngoài tệ lớn nhất thế giới và chủ nợ lớn nhất thế giới. Trong nội bộ Trung Quốc xuất hiện một xu thế coi “giấu mình chờ thời” không phải là “bách niên đại kế” (đại kế trăm năm), mà chỉ là “quyền nghi chi kế” (kế quyền nghi) mà thôi. Đã đến lúc Trung Quốc không cần cư xử với Mỹ như cũ nữa, mà cần phải “bằng vai phải lứa”.
Học giả Dương Danh Dy tại hội thảo Biển Đông. Ảnh: Huỳnh Phan |
Xin hỏi ông, ban lãnh đạo mới của Trung Quốc có vai trò như thế nào trong chuyện này?
Ban lãnh đạo mới của Trung Quốc, tuy mới lên, nhưng đã có một số hành động đáng chú ý.
Việc đầu tiên là họ nắm chặt quân đội hơn, thanh trừng hàng loạt các tướng lĩnh có ý muốn tách rời quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Năm ngoái, một thượng tướng đã bị mất chức vì có ý định này, và ngay trước Đại hội 18, họ đã thay ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Trang bị. Trừ đại hội 8 (năm 1958), tôi chưa vào ngành, còn 10 kỳ đại hội khác từ đó đến nay, tôi đều ít nhiều có theo dõi, và chưa bao giờ thấy hiện tượng trên.
Thứ hai là Tổng Bí thư Tập Cận Bình đi thăm Thâm Quyến ngay sau đại hội. Tại sao lại Thâm Quyến? Bởi vì sau Thâm Quyến là quân khu Quảng Châu – một quân khu rất quan trọng đối với Biển Đông. Ở đó, Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng quân đội phải chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sau đó, Tập Cận Bình tổ chức đợt học tập, rút kinh nghiệm bài học Liên Xô: cho rằng lý do chủ yếu khiến Liên Xô tan rã là do Đảng Cộng sản không nắm quân đội. Trong bài viết trên mạng của họ mà tôi đọc được nói rằng, trong 2 tháng rưỡi từ khi lên nắm quyền, Tập Cận Bình đã đi thăm hầu hết các quân binh chủng của quân đội Trung Quốc. Tôi nghĩ đến nay ban lãnh đạo mới của Trung Quốc đã tạm nắm được quân đội, và tạm dẹp được xu thế trung lập hoá quân đội.
Thứ ba là ban lãnh đạo mới này đã tỏ ra “nêu gương” trên một số mặt. Không biết bên trong thế nào, nhưng qua truyền thông thấy từ Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Tập Cận Bình đến Thủ tướng Lý Khắc Cường… đều tỏ ra “ cần, kiệm, liêm, chính.”
Ví dụ: Tập Cận Bình, từ khi lên nắm quyền, ra lệnh tiệc chiêu đãi chỉ gồm 4 món thức ăn và 1 món canh là 5 món, không được hơn, và cơm không có rượu. Đi đâu không có “tiền hô, hậu ủng”…
Hay, Lý Khắc Cường khi xe đi gặp đèn đỏ, đứng lại chờ đèn chuyển sang xanh mới đi tiếp…
Ban lãnh đạo này, so sánh với các ban lãnh đạo trước đây, có thêm những đặc điểm gì nổi bật?
Ngoài yếu tố khá trẻ, (như Tập Cận Bình 60 tuổi, hay Lý Khắc Cường 58 tuổi), có trình độ văn hoá cao (nhiều người là thạc sĩ, hay tiến sĩ), và được thử thách, rèn luyện tốt. Bọn họ đã “bò từ cơ sở lên chức vị hiện nay, chứ không làm quan tắt”.
Nhưng điều này mới là quan trọng: Đây là lớp người mà tuổi thiếu niên nhìn thấy tác hại của Cách mạng Văn hoá Trung quốc. Thậm chí, như Tập Cận Bình đã bị đấu tố, rồi phải “lên núi xuống làng”… Đến tuổi thanh niên thấy tận mắt thành công của cải cách mở cửa, thấy đất nước thay đổi đến chóng mặt.
Chính vì vậy, bây giờ ở vào cương bị lãnh đạo cao nhất, họ có ý chí rất mạnh, quyết tâm xây dựng Trung Quốc thành một siêu cường. Vì vậy, không phải tự nhiên mà “giấc mộng Trung Hoa” lại xuất hiện.
Những đặc điểm này tạo cho Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường … có sự khác biệt khá rõ với thế hệ lãnh đạo trước.
Vậy, xin quay trở lại đề tài chúng ta đề cập lúc đầu, tại thượng đỉnh Trung – Mỹ lần này, liệu Trung Quốc có đưa ra vấn đề về vị thế của Trung Quốc, và đòi hỏi đứng “ngang bằng” với Mỹ không?
Tôi nghĩ là có thể. Bởi để chuẩn bị cho đòi hỏi này, Trung Quốc đã làm mấy việc sau:
Thứ nhất, Tập Cận Bình chọn nước đầu tiên đi thăm là Nga. Nga là đối thủ của Mỹ, rõ ràng là Trung Quốc muốn cho Mỹ biết đã có sự liên kết Trung – Nga trong mối quan hệ với Mỹ.
Trong khi đó, Lý Khắc Cường đi thăm Ấn Độ và Pakistan. (Một số báo chí của ta chỉ tập trung đến chuyến thăm Ấn Độ, tạo cảm giác rằng Trung Quốc muốn thúc đẩy quan hệ với Ấn Độ theo chiều hướng tốt đẹp).
Nhưng, thực ra, Trung Quốc đã tỏ ra rất “cáo già”. Ai cũng biết Ấn Độ và Pakistan là hai nước có sự chống đối về lãnh thổ, dân tộc và tôn giáo, và đã từng xẩy ra chiến tranh. Trong khi đó, Pakistan lại là người bạn thân thiết nhất của Trung Quốc, Trung Quốc là nước viện trợ cho Pakistan nhiều nhất. Tức là Trung Quốc đâu chỉ có chơi với Ấn Độ, mà còn chơi với cả đối thủ của Ấn Độ nữa.
Rồi Ngoại trưởng Vương Nghị chọn 4 nước Đông Nam Á không có tranh chấp Biển Đông là Thái Lan, Indonesia, hay Singapore, hoặc tranh chấp không đáng kể (Brunei). Rõ ràng là họ định chia rẽ ASEAN, nhất là với hai nước Philippines và Việt Nam.
Rồi ngay trước khi đến Mỹ, ngày 31.5, Tập Cận Bình đã có chuyến thăm tới 3 nước Trung Mỹ và Caribe là Trinidad và Tobago, Costa Rica và Mexico, nhằm mục đích phát triển dầu khí và thương mại, ở mức độ cao hơn có thể nói đó là một sự xâm nhập vào sân sau của Mỹ. Hiện Trung Quốc đã vượt qua Liên minh châu Âu để trở thành bạn hàng lớn thứ hai của châu Mỹ La tinh.
Đòi hỏi đó, nếu diễn ra đúng như vậy, của Trung Quốc sẽ gặp phản ứng như thế nào từ Mỹ?
Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, với số nợ lên tới gần 2000 tỷ USD. Nhưng Trung Quốc cũng tự biết rằng không thể lợi dụng món nợ khổng lồ đó để “ăn thua” với Mỹ , vì Mỹ đang hưởng lợi khi họ ở thế vay trả – trả vay này, và đồng đô la Mỹ mất giá. Chính báo chí Trung Quốc đã viết rằng người dân Trung Quốc cần lao để cho người Mỹ tiêu xài.
Điều thứ hai là Mỹ thừa biết Trung Quốc đang bị tứ phương chống đối. Tại biển Hoa Đông là với Nhật, tại Biển Đông là với phân nửa Đông Nam Á.
Trong khi đó, với nước láng giềng Myanmar mà Trung Quốc khổ tâm “kinh doanh” trong bao nhiêu năm, đang tách khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc đi theo xu hướng dân chủ hoá…
Với Ấn Độ, từ 50 năm nay, đã tồn tại chuyện biên giới lãnh thổ. Ấn Độ không thể quên cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 do Trung Quốc bất ngờ phát động.
Còn với Nga, và mấy nước Trung Á, thì chỉ là hiện tượng “tạm yên”, bởi họ biết rõ “ông bạn Trung Hoa” lắm rồi. Mối quan hệ với Nga chỉ là để cùng “ứng xử” với Mỹ, và mang tính khi cùng lợi ích thì tạm “liên kết”.
Nội bộ Trung Quốc đang không ổn định, báo chí nói nhiều rồi, tôi không cần phải nhắc lại.
Và điều cuối cùng tôi muốn nói là cái “tử huyệt” của quân đội Trung Quốc. Đó là lính nghĩa vụ Trung Quốc bây giờ là “lính con một”, bởi 30 năm nay Trung Quốc thực hiện chế độ “đẻ một con”.
Anh thử tưởng tượng xem hai ông bà nội, hai ông bà ngoại, rồi hai bố mẹ, sáu người lớn mới có một đứa con, thì cậu bé ấy đúng là “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”.
Chính vì vậy, tôi nghĩ Mỹ sẽ không chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc. Mỹ sẽ vẫn ở vị trí thượng phong.
Nói về Mỹ, ở nhiệm kỳ thứ hai, ông Barack Obama đã giải quyết được những vấn đề gì đề có thế tập trung vào cái gọi là “xoay trục sang châu Á – Thái bình dương”?
Vị thế của Mỹ đang lên. Điều đó không phải bàn cãi.
Thứ nhất, kinh tế Mỹ đang phục hồi tốt. Tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Thứ hai là Mỹ mới trở lại châu Á – Thái bình dương một chút thôi mà được hoan nghênh.
Nhưng không chỉ những động thái ở Biển Đông như lệnh đơn phương cấm đánh bắt cá, bắn tàu ngư dân…, Trung Quốc còn gây hấn cả với Nhật ở vùng Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) bằng cách phải ngư dân ào ạt tiến vào đó, hay xúi giúc Đài Loan “chia lửa”. Họ muốn gây chiến với Nhật?
Không đời nào, đòn gió thôi. Bởi Nhật bản rất mạnh cả về kinh tế lẫn quốc phòng. Hơn nữa, chính Tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã lên tiếng rằng “Mỹ công nhận quần đảo đó nằm trong quyền kiểm soát của Nhật Bản và thuộc phạm vị điều chỉnh của Hiệp ước Anh ninh Mỹ – Nhật”.
Vậy ông tin chắc rằng Mỹ sẽ từ chối những đòi hỏi mà họ cho là “quá mức” của Trung Quốc?
Đúng. Trừ phi Trung Quốc cho Mỹ một món lợi nào đó lớn hơn lợi ích của Mỹ tại vùng châu Á Thái Bình Dương.
Nhưng, theo tôi, hiện nay Trung Quốc không có khả năng đó, và Mỹ cũng tỏ ra không cần.
———————
Nguồn: Vnn
NHỮNG CÔNG TRÌNH KIẾN THIẾT VĨ ĐẠI
Vạn lý trường thành (Trung Quốc) dài hơn 20.000 km, được xây dựng trong hơn 1.000 năm và cần tới hàng triệu nhân công thực hiện.
Đại hý trường La Mã ở Rome (Ý) được hoàn tất năm 80, có sức chứa 50.000 khán giả, là nơi diễn ra những vở kịch lớn, những cuộc hành quyết, những trận chiến sinh tử giữa các võ sĩ giác đấu.
Chợ La Mã ở Rome (Ý) cách đây 1.200 năm là một quảng trường rộng lớn, vừa là nơi để người dân tới họp chợ, buôn bán, vừa là một trung tâm hội bàn chính trị của nhà nước.
Binh sĩ đất nung ở Tây An (Trung Quốc) gồm 700 bức tượng bằng đất nung có kích thước như người thật khắc họa tướng sĩ trong quân đội Trung Quốc khi xưa, được chôn theo hoàng đế Tần Thủy Hoàng.
Các kim tự tháp ở Giza (Ai Cập) là một trong 7 kỳ quan của thế giới và là biểu tượng của du lịch Ai Cập.
Thành phố cổ Pompoeii ở Ý đã tồn tại từ thế kỷ thứ I dưới thời đế chế La Mã. Pompeii đã bất ngờ bị chôn vùi dưới tàn tro khi ngọn núi Vesuvius bất ngờ phun trào năm 79.
Vệ thành Parthenon ở Athens (Hy Lạp) được xây trên đỉnh đồi Parthenon, là nơi làm nhiệm vụ quan sát, bảo vệ cả thành phố. Vệ thành trông giống một ngôi đền thờ với những bức tượng cổ bằng cẩm thạch có niên đại từ thế kỷ thứ V.
Thành phố cổ Ephesus ở Thổ Nhĩ Kỳ đã tồn tại từ hàng nghìn năm trước dưới thời đế chế La Mã. Hiện nay những thư viện, nhà hát và nhiều công trình khác đã được phục dựng lại để đưa du khách trở về với không gian của 2.000 năm trước.
Thành phố cổ Teotihuacán ở Mexico có kim tự tháp Mặt Trăng và Mặt Trời được xây dựng từ khoảng thế kỷ thứ I. Đây cũng là những kim tự tháp thuộc hàng lớn nhất thế giới.
Thành phố cổ Hierapolis ở Thổ Nhĩ Kỳ có những hồ bơi nước nóng khiến du khách liên tục tìm tới đây trong suốt hai thiên niên kỷ qua. Vì có những mạch suối nước nóng này mà thành phố Hierapolis được xây dựng để trở thành “thành phố nghỉ dưỡng”.
Quần thể động Ellora ở Ấn Độ gồm 34 đền thờ và tu viện thờ Đức Phật cùng các vị thần Hindu. Những công trình này được đúc từ một khối núi đá đồ sộ.
Bức tường Hadrian ở Anh được xây dựng từ thế kỷ thứ II với mục đích bảo vệ lãnh thổ.
Nhà tắm La Mã ở thành phố Bath (Anh) được xây dựng phổ biến vì nơi đây có những suối nước nóng. Bath trở thành thị trấn nghỉ dưỡng được yêu thích nhất dưới thời đế chế La Mã. Sau này, vào thế kỷ 18, nhiều công trình được xây mới với lối kiến trúc Tân cổ điển.
Hang động Long Môn ở Trung Quốc với những bức tượng Phật được chạm khắc tinh tế vào thành vách của 1.350 hang động. Công trình bắt đầu được tiến hành từ thế kỷ thứ V.
Vòng tròn đá Stonehenge ở Anh là một di tích bí ẩn từ thời tiền sử được dựng lên từ 6.000 năm trước. Các nhà khảo cổ tin rằng nó có liên hệ với những hiện tượng thiên văn.
Khu di tích khảo cổ Machu Picchu ở Peru là nơi lưu giữ những gì còn sót lại của đế chế Inca tồn tại vào khoảng thế kỷ 15.
Đền Angkor Wat ở Campuchia với những phế tích còn sót lại của ngôi đền cổ được xây dựng từ thế kỷ thứ 9. Nơi đây thờ các vị thần Hindu và từ lâu đã trở thành địa điểm hành hương của các tín đồ đạo Hindu và cả đạo Phật.
Quần thể 492 hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng (Trung Quốc) có tới hàng ngàn bức tượng Phật giáo. Quần thể động này nằm trên con đường tơ lụa, được các vị sư sãi kỳ công tạc nên từ các khối núi đá trong ròng rã 1.000 năm (từ thế kỷ 6-16) mới hoàn tất.
Cách đây khoảng 1.000 năm, thành phố cổ Petra ở Jordan từng là trung tâm của các cuộc giao thương, mua bán hương liệu, gia vị, tơ lụa… của người La Mã, Hy Lạp, Ả Rập, Ai Cập... Nơi đây có khoảng 500 ngôi đền, tượng đài, lăng mộ được tạc thẳng vào vách đá.
Theo Travel & Leisure
Sunday, June 9, 2013
HỒ VIỆT ĐỨC
Ông Hồ Đức Việt (ngoài cùng, bên phải)
Đánh giá ủy viên BCT quá cố Hồ Đức Việt
Quốc Phương
BBC Việt ngữ
Cập nhật: 16:26 GMT - thứ sáu, 7 tháng 6, 2013
Một tuần sau khi ông Hồ
Đức Việt (1947-2013), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam qua đời, nhiều ý kiến tiếp tục nhìn lại con
người cũng như những thăng trầm trong sự nghiệp chính trị của ông.
Hôm 6/6/2013, tờ báo mạng Infonet của Bộ Thông tin và Truyền thông dẫn lời của Giáo sư Bấm
Nguyễn Minh Thuyết nhận xét về phẩm chất của vị nguyên Truởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
"Anh Việt có tầm nhìn xa. Có lẽ tư
duy của một tiến sĩ Toán học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều năm hoạt
động chính trị đã tạo nên ở anh khả năng khái quát vấn đề nhanh và lối
diễn đạt hàm súc," cựu Đại biểu Quốc hội nói về thủ trưởng cũ của ông ở
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
"Hồ Đức Việt là một người hiểu biết rộng. Trong
thời gian làm việc, có nhiều dịp trao đổi, rồi cùng anh dự hội nghị, hội
thảo, thẩm tra luật, thực hiện các đợt giám sát về công nghệ cao, sở
hữu trí tuệ, thủy điện, khoáng sản, trồng rừng..., tôi thấy lĩnh vực nào
anh cũng hiểu biết rất sâu và chắc chắn," Giáo sư Thuyết nói tiếp.
Giáo sư Thuyết đánh giá cao ông Việt về khả năng
chủ trì, lãnh đạo với tư cách chính trị gia xuất thân từ một nhà khoa
học có học vị tiến sỹ ngành toán - lý.
"Đặc biệt, những ai từng tham dự các hội nghị, hội thảo do anh Việt chủ trì đều thích cách tổng kết hội nghị của anh.
"Anh tóm lược vấn đề rất sắc sảo, chuẩn xác và bao giờ cũng nêu lên những việc cần làm, kèm theo phân công cụ thể."
Giáo sư Thuyết cũng đưa ra nhận xét quan trọng về năng lực và phong cách lãnh đạo của ông Việt:
"Quan sát cách làm việc của anh Việt, tôi cứ
nghĩ khi người ta được giao một cương vị đúng tầm thì sẽ có phong cách
làm việc mới mẻ và khoáng đạt."
Tuy nhiên, trong trao đổi với BBC hôm 07/6, nhận xét về nhân cách và con đường chính trị của ông Việt, Tiến sỹ Bấm
Lê Đăng Doanh nói:
"Anh Việt có tầm nhìn xa. Có lẽ tư duy của một tiến sĩ Toán học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều năm hoạt động chính trị đã tạo nên ở anh khả năng khái quát vấn đề nhanh và lối diễn đạt hàm súc"
GS Nguyễn Minh Thuyết nói với tờ InfoNet
"Ông Hồ Đức Việt có một quá trình rất thuận lợi,
trong hoạt động công tác của mình, mà không phải người nào cũng có được
những điều kiện thuận lợi như vậy.
"Ông ấy được cử làm Bí thư Trung ương Đoàn, Chủ
tịch Hội Liên hiệp Thanh niên, Sinh viên, rồi đi làm bên Quốc Hội, làm
Bí thư (Tỉnh ủy) Quảng Ninh, Bí thư Thái Nguyên và sau đó làm Tổ chức,
Cán bộ
"Tôi không thấy ông ấy có một thể hiện nổi bật
nào trong hoạt động của mình, để thể hiện là ông có một đường hướng rõ
ràng, một quyết sách đổi mới rõ rệt
"Và những điều mà chúng ta đã biết là đến Đại
hội (Đảng lần thứ) XI, phương án tổ chức cán bộ của ông ấy đã không được
Đại hội chấp nhận và (Ban Chấp hành) Trung ương Đảng chấp nhận,
"Và việc bầu ông ấy, thì ông ấy cũng không được bầu lại."
'Bị ngựa hất xuống'
Sau khi ông Hồ Đức Việt qua đời, trên blog của mình, nhà văn Bấm
Nguyễn Trọng Tạo hé mở một số chi tiết đằng sau việc nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã bị mất chức ra sao.
Ông viết:
"Sự ra đi đột ngột của ông Hồ Đức Việt khiến
nhiều người luyến tiếc vì một câu chuyện không êm chèo mát mái xảy ra
trong phiên họp TW 15 – phiên họp cuối cùng trước đại hội đảng XI, khiến
ông đang là một nhân vật đầy kỳ vọng, có truyền thống, có học thức bị
bật khỏi guồng máy lãnh đạo của đảng.
"Tôi được ông Hồ Đức Việt kể lại thì sau hội
nghị TW 14, ông Việt lên báo cáo sớm về kết quả giới thiệu nhân sự vào
TW với cấp trên, liền có câu hỏi về một nhân sự mà ông Việt trả lời
là "phiếu bị thấp”.
"Thái độ phẫn nộ [sau câu trả lời đó] khiến
ông Việt vô cùng bất ngờ. Và hội nghị 15 đã diễn ra, mang hậu quả lớn
cho ông Việt.
"Tôi không thạo chuyện thâm cung, nhưng những
chuyện như thế, nghĩ rằng khối người đều biết. Nghe câu chuyện đó tôi
buồn mất mấy ngày, nhưng cũng chỉ an ủi ông Việt được vài lời, đại ý là
“cái nước mình nó thế”.
Và nhà văn, nhạc sỹ kiêm blogger này bình luận:
"Nhắc lại chuyện cũ để lần nữa chia sẻ với ông Hồ Đức Việt về chốn quan
trường sau khi ông nhắm mắt, khép lại thế giới tục trần mà ai cũng phải
trải qua."
Hôm thứ Sáu, 07/6, blogger Phạm Viết Đào bình luận với BBC:
"Tôi theo dõi mấy kỳ Đại hội Đảng thì tôi thấy
là bốn ông vào vị trí tứ trụ thường là mục tiêu của các đối thủ khác,
thì cái đó là chuyện muôn thuở của chính trị thôi.
"Không ông Việt thì ông khác trước ông ấy cũng
bị như vậy thôi. Có những ông sau đó bị cấp cứu, đi bệnh viện về những
cuộc đấu đá, như là ông Đào Duy Tùng, theo thông tin mà tôi biết được,
sau cuộc ông trượt Tổng Bí thư thì ông ấy cũng đột quỵ luôn.
"Hồ Đức Việt là người đưa ra sáng kiến bầu trực tiếp một số chức danh của đảng ở một số địa phương, đấy là một bước tập dượt dân chủ, tôi nghĩ việc ấy là việc đáng hoan nghênh, nhưng nó không được hưởng ứng của tất cả các cấp khác"
Blogger Phạm Viết Đào
"Chuyện ấy, chuyện chính trường là chuyện muôn
thuở. Một là anh phải giữ cương, anh cưỡi được ngựa, không thì ngựa nó
hất anh xuống. Chuyện ấy là chuyện bình thường thôi.
"Tức là anh Việt bị ngựa hất xuống, tức là anh
ấy không đủ chưởng lực, độ gân guốc với con ngựa bất kham ấy, anh phải
ngã ngựa thôi."
'Khiêm tốn, chưa thuyết phục'
Mặt khác, blogger này cho rằng ông Việt có thể đã bị thất thế do để xuất một chủ trương mới mà không được chấp nhận.
Ông Đào nói:
"Hồ Đức Việt là người đưa ra sáng kiến bầu trực
tiếp một số chức danh của Đảng ở một số địa phương, đấy là một bước tập
dượt dân chủ, tôi nghĩ việc ấy là việc đáng hoan nghênh, nhưng nó không
được hưởng ứng của tất cả các cấp khác,
"Ông Việt đưa ra cái này không được hưởng ứng
bởi vì nó đụng chạm tới quyền lợi của một số đông ở trong Đảng, và họ
vẫn muốn rằng đảng phải là những người nắm quyền lực, và họ muốn có
những vị thế này, vị thế kia, không muốn sự dân chủ diện rộng như là
sáng kiến của Hồ Đức Việt."
Hôm 05/6, trên truyền thông mạng xã hội xuất hiện Bấm
một ý kiến gợi ý rằng có thể ông Việt bị thất bại trước một
khuynh hướng được cho là bảo thủ hơn, và ý kiến này con so ông Việt với
một người có khuynh hướng cải cách của Đảng, cựu Ủy viên Bộ Chính trị
Trần Xuân Bách, người cũng đã bị 'thất sủng'.
Ý kiến này còn đưa ra một suy luận mang tính giả thuyết về dự định của ông Hồ Đức Việt:
"Trên cương vị Trưởng ban Tổ chức Trung ương,
ông cho phép một Đảng bộ tỉnh làm thí điểm đại hội Đảng: Bầu cử cấp ủy
trực tiếp theo mô hình các nước, các đảng phái chính trị ở các nước dân
chủ phát triển. Việc làm của ông nhằm ngầm nói với dư luận:
"
Những điều mà ông Tổng Bí thư đã làm là ông cố gắng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, khôi phục lại vị thế của Đảng, và muốn cải cách bằng những công cụ phê bình và tự phê bình, và cho tới nay, những kết quả ông làm được còn khiêm tốn và chưa thuyết phục được quần chúng"
TS Lê Đăng Doanh
"Nếu được làm Tổng Bí thư, ông sẽ cho thực hiện
nền dân chủ toàn diện, phổ quát mà lâu nay còn thiếu vắng trong Đảng ,
chưa hề có trong xã hội dân sự Việt Nam."
Nhiều nhà quan sát nhận thấy tại Đại hội Đảng
lần thứ XI, ứng cử viên cho ghế Tổng Bí thư của Đảng, ông Hồ Đức Việt đã
không chỉ không thành công trong bước đường quan lộ này, mà sau đó ông
còn không tiếp tục được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nhận xét:
"Tôi thấy là ông ấy còn tương đối trẻ và chính
ra việc ông ấy phải nghỉ hoàn toàn như vậy là một điều rất không bình
thường. Bởi vì một người ở vị trí của Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban
Tổ chức Trung ương như vậy thì hoàn toàn có thể tiếp tục hoạt động được ở
Quốc hội hay là ở Mặt trận Tổ quốc hay ở một chức vụ gì đó.
"Việc ông ấy nghỉ hưu hoàn toàn như vậy cũng là
một việc không hoàn toàn bình thường. Và từ điều không bình thường ấy,
có thể có người này, người kia có những sự suy luận khác nhau..."
Nhân dịp này, Tiến sỹ Doanh cũng bình luận về
người đã được bầu vào ghế lãnh đạo Đảng và là đương kim Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản hiện nay, ông Nguyễn Phú Trọng.
Nhìn lại những gì mà ông Trọng đã làm hoặc chưa
làm được cho tới nay từ góc nhìn của mình, nguyên Viện trưởng Viện Quản
lý Kinh tế Trung ương (CIEM) nói:
"Những điều mà ông Tổng Bí thư đã làm là ông cố
gắng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, khôi phục lại vị thế của Đảng, và
muốn cải cách bằng những công cụ phê bình và tự phê bình, và cho tới
nay, những kết quả ông làm được còn khiêm tốn và chưa thuyết phục được
quần chúng."
Trả lời câu hỏi ông Nguyễn Phú Trọng trên cương
vị nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng đã đang để lại dấu ấn gì về tầm tư
tưởng, Tiến sỹ Doanh quy về lĩnh vực kinh tế và cho hay:
"Tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay rất khó
khăn, nhưng tôi chưa thấy ông Tổng bí thư có quyết sách gì, hoặc là có
định hướng gì rõ rệt để giải quyết những khó khăn này của nền kinh tế
cả.
Tôi rất mong là ông sẽ có những quyết sách như vậy trong thời gian sắp tới đây," ông nói với BBC.
Tại sao ông Hồ Đức Việt 'phải chết'?
Phan Châu Thành
(Danlambao) - Ông Hồ Đức Việt, nguyên UV BCT, Trưởng Ban Tổ chức TW Đảng CSVN Khóa X, mới mất vào ngày cuối tháng 5 vừa qua, sau một thời gian “buồn phiền và ốm nặng” vì khi không được vào TW Khóa XI năm ngoái trong khi là ứng cử viên sáng giá “nhất” cho chức Tổng Bí thư Đảng Khóa XI. Và có vẻ báo chí lề phải cũng như lề trái đã lắng xuống về cái chết “tự nhiên” của ông sau hơn một tuần qua.
Với lề phải thì tôi không muốn nói gì nữa. Họ, những người cộng sản, vừa
giết đồng chí mình xong họ sẽ cử đoàn đại biểu “đông đảo và cao cấp”
mang vòng hoa đến viếng “đau xót” chia buồn với gia quyến nạn nhân. Với
ông Hồ Đức Việt, họ đã tổ tức tang lễ cấp nhà nước…
Nhưng tôi ngạc nhiên là trên các báo lề trái khá phong phú hiện nay tôi
cũng không thấy bài nào nói trúng được lý do tại sao ông Hồ Đức Việt
chết. Đó là lý do khiến tôi phải góp thêm một ý này.
Nói chung, báo lề trái có hai quan điểm chính, khá dễ dãi, về cái chết
của ông Việt, nhưng khác nhau. Cả hai quan điểm đều cho rằng cái chết
của ông HĐV là do buồn phiền rồi bị bệnh ung thư bùng phát sau khi mất
chức UV BCT, tức là trượt ở lại TW Khóa XI, như thông báo chính thức của
lề phải. Hai quan điểm này chỉ khác nhau trong cách giải thích tại sao
ông HĐV lại mất chức trong ĐH XI.
Quan điểm thứ nhất, gần như tin vào các thông tin chính thức của
đảng lề phải, cho rằng ông HĐV đã sai lầm trong công tác và đời tư, nên
bị đối thủ là đảng X khai thác, loại ra khỏi danh sách UV TW Khóa XI. Từ
đó mà ông buồn, ông bệnh, rồi mất, rất nhanh. Nhưng cụ thể “sai lầm trong công tác và đời tư”
là gì? Chả lẽ chỉ là vì có bà vợ mê tín hay lên chùa cầu cúng cho
“chồng thắng - địch thua”? Chả lẽ chỉ vì một lá thư nặc danh tố cáo ông
HĐV có quan hệ nam nữ không lành mạnh khi đi công tác ở “nước lạ”?
Nếu nói về hai điều: đạo đức và mê tín thần thánh thì các bộ CSVN hiện
nay tất tật đều bị nặng! Chính họ biết họ không tin gì vào chủ nghĩa Mác
Lê hay Tư tưởng HCM nên họ phải tìm nơi thần thánh để tin, và họ có
điều kiện để “tin” nhất. Nếu đã là UV TW thì bệnh càng nặng, càng thờ
cúng liên miên và càng nhất nhất theo thầy bà, đa số có nuôi thầy bà
riêng. Còn lối sống đạo đức cá nhân của họ thì… cứ nhìn từ anh Tô đến
anh Nông đức yếu là thấy, đó là các đồng chí đã bị lộ rõ. Còn 99% các
đồng chí “chưa bị lộ rõ” thì…tởm lợm hơn nhiều!
Quan điểm thứ hai, có thể đại diện là bài của tác giả Trần Gia
Lạc (TGL) trên blog Phạm Viết Đào, cho rằng ông Việt bị loại khỏi TW ĐCS
VN Khóa XI vì có tính thần cải cách dân chủ trong đảng. Tác giả bài
viết so sánh ông Hồ Đức Việt với ông Trần Xuân Bách cách đó 21 năm khi
ông Bách bị loại khỏi BCT vì các ý tưởng dân chủ cấp tiến thực sự, cho
rằng lịch sử đảng CSVN đã lặp lại với cá nhân ông HĐV như ông TXB.
Tôi không phản đối những đánh giá và tình cảm cá nhân đối với ông Hồ Đức
Việt của tác giả TGL hay những người có đồng quan điểm như thế. Tôi chỉ
biết rằng, điều đó – nói ông Hồ Đức Việt có tư tưởng cải cách dân chủ,
và vì thế ông “phải chết” - cũng không đúng. Việc so sánh ông Việt với
ông Bách là quá khập khiễng, không công bằng với tinh thần, tài năng và
thái độ dân chủ cũng như tư cách con người sáng chói của ông Trần Xuân
Bách.
Quan điểm thứ ba, của tôi và của rất nhiều người mà tôi biết xung
quanh trong XH Việt Nam hôm nay, trong đó có cả các UV TW, thì khác với
hai quan điểm trên về hai ý về: nguyên nhân mất chức TBTC TW của ông
HĐV tại ĐH XI và nguyên nhân cái chết của ông sau đó.
Trước khi nói về nguyên nhân mất chức TBTC TW, UV BCT cần nhắc lại vài nét đặc thù về con người và sự nghiệp của ông Hồ Đức Việt. Dù là con của ông Hồ Tùng Mậu, một người CS được coi là cùng thế hệ với HCM và “bạn chiến đấu” của HCM ở “nước lạ”, ông HĐV không có tố chất của người làm chính trị với nghĩa khách quan nhất. Được ưu tiên ăn học ở Nga về, ông HĐV là một số ít trí thức được đào tạo bài bản trong BCT Đảng CSVN (vốn đa số chỉ có đầy rẫy bằng cấp “tại chức” - tức là dùng chức lấy bằng, không cần học).
Bắt đầu với 5 năm dậy toán ở ĐH TH Hà Nội lên vèo từ tổ tưởng bộ môn đến chức Hiệu trưởng, rồi hàng chục năm cán bộ TW Đoàn – cũng lên vèo đến chức Bí thư TW Đoàn, rồi vào TW Đảng, về làm bí thư các tỉnh Quảng Nình, Thái Nguyên để vô sản hóa con người thư sinh học hành của ông, rồi về TW làm Phó ban rồi Trưởng ban này nọ trước khi vào chức TBTC, UV BCT, vốn luôn trong hàng tốp 5 quyền lực (thời Lê Duẩn là tốp 2! Chỉ sau Lê Duần và trên… HCM). Nói chung, con đường quan lộ của ông HĐV vô cùng hanh thông. Tại sao vậy, khi ta biết ông không có “tố chất = bon chen” chính trị, và đa số ai biết ông đều công nhận ông không có tài cán gì đặc biệt…?
Ông làm quan to trong đảng CSVN vì đảng này cần cái tên của cha ông –
ông là con trai Hồ Tùng Mậu là đủ, không cần biết là Hồ gì, như nó vẫn
đang nấp sau cái tên và “tư tưởng” HCM để mị dân hơn nửa thế kỷ nay vậy.
Nấp sau tên và tô điểm bằng tên HCM đó, nhưng đảng CSVN đối xử với cá
nhân HCM thật vô cùng bạc bẽo. Mấy chục năm qua họ cần cái mặt nạ HCM
và thế hệ HCM mà HTM cha ông là cái tên khá sáng giá, nên họ cần bố ông,
qua ông. Khi nào không cần là họ lột mặt nạ ra, cùng là lúc họ sẽ lột
ông xuống…
Là người “trí thức” tức là không thủ đoạn, ông không hiểu mình không có
thực tài làm chính trị. Không vậy cánh, cứ khơi khơi “lên như diều” chỉ
vì là CCCC, ông lại tưởng mình có tài làm chính trị như cha, ông mơ tới
chức TBT… Với đảng thì: OK, nếu ông chịu làm đồ trang trí cho những kẻ
gian hùng thứ thiệt, như Nông đức yếu đã chịu làm. Nông đức yếu thì vô
cùng ngu dốt. Nhưng…
Nhưng, ở Đại hội trù bị cho ĐH XI, khi dự kiến nhân sự mới đã thông qua,
khi tên ông đã được tín nhiệm hạng cao - trên 67%, trong khi chỉ cần
trên 50% là tái nhiệm, ông (và mọi người trong ĐH) đã tin chắc mình ở
lại BCT Khóa XI, ông lên đọc báo cáo cương lĩnh dự kiến cho ĐH XI mấy
ngày tới, ông đã vạch ra kế hoạch sắp tới cho Ban Tổ chức TW “của ông”
và hứa sẽ rà soát lại chất lượng cán bộ đảng (tức là rà soát lại bằng
cấp và lý lịch của các đồng chí cán bộ đảng cấp cao của ông!) từ TW trở
xuống, “để tăng cường và cúng cố sức mạnh của đảng”!
Vì ngây thơ chính trị, ông không biết trên 50% các đồng chí TW và địa
phương xài bằng cấp giả trong cái chế độ sính bằng cấp của đảng ông tạo
ra, không phải ai cũng được ăn học và không phải đi lính suốt mấy chục
năm chiến tranh như ông! Người đầu tiên phản đối ông công khai chính là
đồng chí X, người có bằng Cử nhân Luật hệ Chính qui của ĐH Luật HCM mà
chẳng đi học ngày nào. Đôngc hí X cũng có lý lịch không rõ ràng, không
biết con của tướng Thanh hay của “địa phương” Cà Mau…? Nói chung, về
lý lịch khai man thì các đồng chí của ông có gen truyền thống từ HCM
rồi, cũng “xài mượn” phổ biến, trên 50% khai man là cái chắc…, giống như
các đ/c CS GT cứ chặn cái xe tải nào cũng có thể bắt lỗi “vi phạm” do
thiết bị nào đó không an toàn, không đúng “luật”…
Ông HĐV đã ngây thơ không biết rằng chỉ có vài người trong TW CSVN là
có bằng cấp chuẩn và lý lịch chuẩn như ông? Chúng ta không biết. Chúng
ta chỉ biết, với lời hứa “làm vững mạnh đội ngũ cán bộ cao cấp của đảng”
như thế, ông đã đưa mình thành kẻ thù trực tiếp của đa số các đồng chí
trong TW của ông, vốn ở đó không phải để làm cho đảng vững mạnh. Ông HĐV
nghĩ rằng ĐH trù bị đã xong, mọi điều đã chắc chắn an bài, và ông chắc
chắn sẽ ở lại BCT để ghé chức TBT? Có lẽ thế. Nhưng ông HĐV đã không
hiểu luật chơi của đảng CSVN của ông đã thay đổi trong mấy năm gần đây.
Người ta đã và đang bỏ những bộ “mặt nạ” đạo đức với nhau và với dân mà
đưa quyền lực thật và đồng tiền ra là công cụ điều tiết chính mọi quan
hệ trong đảng cũng như toàn xã hội…
Vì thế, “Hồ Đức Việt phải chết!” để tuyệt trừ mọi hậu họa là
tuyên bố đã được đảng X – đảng trong đảng CSVN, đưa ra. Lúc đó đảng X
chưa có tên là X, mới là đảng $ của đ/c TT NTD thôi.
Thế là, dù chỉ còn 1 ngày là xong ĐH trù bị và sau đó chỉ còn là ĐH
chính thức để “biểu diễn lại” những gì đã trù bị, đảng X và đồng chí X
đã kịp xoay trở. Đầu tiên là cử người đi phao tin và lót đủ hàng trăm
“cục gạch” (mỗi “cục” là 1 triều đôla mỹ) cho các đ/c TW ủy viên trong
diện sẽ bị ông HĐV “rà soát lại” và “làm vững mạnh lên”… Sau đó là giao
đồng chí Tô Huy Rứa đang là Trưởng Ban Kiểm tra TW (vốn đã bị đồng chí X
mua đứt bằng 10 “cục gạch” trong vụ Vinashin để cứu đ/c X thoát
thân, nay đ/c X hứa thêm sẽ cho thay HĐV làm TBTC TW Khóa XI…) lên đọc
đơn tố cáo nặc danh ông Hồ Đức Việt có quan hệ nam nữ không lành mạnh
trong thời gian đi công tác “nước lạ” mới trước đó…
Tiếp theo là đích thân đ/c X lên phát biểu với đề nghị ngọt ngào vì dân chủ trong đảng: “Dù vẫn biết là kết quả ĐH Trù bị đã thành công nhất trí, danh dách TW khóa XI đã chốt, nhưng vì có lá đơn tố cáo nặc danh đích danh đ/c HĐV nên TW phải xử lý để cho nó chắc chắn, TW nên bỏ phiếu tín nhiệm lại đ/c HĐV, chỉ cho nó chắc chắn thôi, cho nó đảm bảo dân chủ trong đảng thôi…”. Và cuối cùng là, các đồng chí đã nhận “gạch” của đ/c X phải hô to màn đồng thanh ủng hộ dân chủ trong đảng: “Đồng ý lấy tín nhiệm lại cho chắc chắn và dân chủ!” Đồng ý! Đồng ý! Đồng ý... Thế là TW CSVN gần 200 kẻ nô bộc của X bầu “tín nhiệm lại” ông HĐV…
Tiếp theo là đích thân đ/c X lên phát biểu với đề nghị ngọt ngào vì dân chủ trong đảng: “Dù vẫn biết là kết quả ĐH Trù bị đã thành công nhất trí, danh dách TW khóa XI đã chốt, nhưng vì có lá đơn tố cáo nặc danh đích danh đ/c HĐV nên TW phải xử lý để cho nó chắc chắn, TW nên bỏ phiếu tín nhiệm lại đ/c HĐV, chỉ cho nó chắc chắn thôi, cho nó đảm bảo dân chủ trong đảng thôi…”. Và cuối cùng là, các đồng chí đã nhận “gạch” của đ/c X phải hô to màn đồng thanh ủng hộ dân chủ trong đảng: “Đồng ý lấy tín nhiệm lại cho chắc chắn và dân chủ!” Đồng ý! Đồng ý! Đồng ý... Thế là TW CSVN gần 200 kẻ nô bộc của X bầu “tín nhiệm lại” ông HĐV…
Kết quả là phiếu tín nhiệm của TW vào đống chí HĐV, con trai Hồ Tùng
Mậu, rớt xuống thê thảm chỉ còn gần 40%, không được ở lại TW XI. Vậy là
đ/c HĐV đã bị kết án và tuyên án “Phải chết!”, đó là cái “chết đứng"
chính trị do không hiểu chính trị của ông. Kết quả quay ngoắt 180 độ sau
có 1-2 ngày!
Đảng CSVN an toàn, được đảng X cứu khỏi nguy cơ… lòi đuôi gian dối lý lịch và bằng cấp có hệ thống!
Bản án “Phải chết!” với ông Hồ Đức Việt còn được CSVN tuyên và thi hành
ngay bởi đảng X trong cuộc sống của ông nữa, như CSVN thường làm gần đây
với các đ/c của họ như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nhiều cái chết bí ẩn
khác mà “an ninh” CSVN thực hiện. Những việc làm độc ác của CSVN với
chính họ như vậy sắp tới cũng sẽ được đưa ra ánh sáng, sớm thôi.
Điều tôi muốn nói qua bài này với quan điểm thứ ba về cái chết chính trị
và sinh mạng của ông Hồ Đức Việt, là đảng CSVN nay đã lộ bản chất là
đảng của những kẻ vô cùng độc ác, và họ đã thay đổi luật chơi hoàn toàn
rồi. Từ nay, đó là luật của quyền lực maphia X trong đó tiền bạc và bạo
lực tàn ác đi song hành. Như cách đ/c X tận diệt ông Hồ Đức Việt vậy.
Ông Hồ Đức Việt không phải đã chết tự nhiên, do bệnh tật, mà là đảng X
đã hại chết ông. Đó chỉ là thêm một trong rất nhiều nghi án của CSVN mà
lịch sử rồi sẽ phơi bày. Ông Hồ Đức Việt không có cơ hội được sống giam
lỏng những năm cuối đời như ông Trần Xuân Bách, chỉ vì ông vô tình hay
cố ý đe dọa đến an ninh của đảng X trong lời hứa tái đắc cử “Tôi sẽ…” mà
thôi. Tôi không tin ông có gan làm được điều ông nói. Vì nếu thế ông
phải biết điều ông nói là gì, ông sẽ phải động chạm đến ai…?
Lịch sử đảng CSVN đã sang trang đen tối nhất của nó rồi, trước khi nó
tan rã và làm thối rữa vào Lịch sử Việt nam. Đến UV BCT như Hồ Đức Việt
mà còn không nhận ra điều đó, thì còn hơn ba triệu đảng viên khác chắc
cũng “phải chết!” tức tưởi như thế mới nhận ra sao?
BS. NGUYỄN TÀI NGỌC * TÂM ĐỊA CỘNG SẢN
NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ CÁI BƯỚU NẶNG 90 KI LÔ
BS.NGUYỄN TÀI NGỌC
Bác sĩ McKay McKinnon và vợ chụp ở SG (tuoitrenews.vn)
Ba tuần trước vào một buổi tối tình cờ bật TV đài TLC, The Learning Center, tôi xem một phim tài liệu tựa đề: “The man with the 200-lb tumor- Người đàn ông có cái bướu nặng 90 kí-lô“. Người có cái bướu khổng lồ này là một anh Việt Nam tên là Nguyễn Duy Hải ở thành phố Đà Lạt, 32 tuổi. Lúc mới sinh ra anh ta bình thường nhưng khi lên bốn tuổi chân phải của anh to lớn khác thường so với chân trái.
Năm 1997, anh Hải đi nhà thương và nghe theo lời bác
sĩ, cắt chân phải để ngăn chận sự bành trướng. Thế nhưng sau khi cắt,
một cục u tiếp tục nẩy nở từ vết cắt, dần dần to lớn thành một cục bướu
nặng 90 kí-lô. Vì nó quá to lớn, nặng gấp hai lần trọng lượng thân
thể, anh Hải nằm trên giường trong suốt thời gian sáu năm. Qua một sự
tình cờ, thân nhân của anh Hải ở Florida biết được một bà Mỹ tên Amanda
Schumacher làm việc thiện nguyện. Bà này liên lạc với Bác Sĩ McKay
McKinnon.
Người đàn ông có cái bướu nặng 90 kí-lô
Bác sĩ McKay McKinnon ở Chicago, Hoa Kỳ, chuyên về phẫu thuật, nổi tiếng về giải phẫu cắt bỏ bướu khổng lồ của bệnh nhân khắp thế giới. Sau khi xem video của anh Hải qua iPad và bỏ thì giờ chẩn bệnh, bác sĩ McKinnon đồng ý tình nguyện thì giờ của mình bay sang SàiGòn vào ngày 16 tháng 11 -2012 giải phẫu miễn phí cắt bỏ cái bướu cho anh Hải.
Bác sĩ McKay McKinnon ở Chicago, Hoa Kỳ, chuyên về phẫu thuật, nổi tiếng về giải phẫu cắt bỏ bướu khổng lồ của bệnh nhân khắp thế giới. Sau khi xem video của anh Hải qua iPad và bỏ thì giờ chẩn bệnh, bác sĩ McKinnon đồng ý tình nguyện thì giờ của mình bay sang SàiGòn vào ngày 16 tháng 11 -2012 giải phẫu miễn phí cắt bỏ cái bướu cho anh Hải.
Xe cứu thương trước đó vài ngày đã chở anh Hải từ Đà Lạt vào SàiGòn đến Bệnh Viện Ung Bướu TP HCM để sẵn sàng cuộc giải phẫu.
Khi nhập viện, anh Hải than khó thở, bác sĩ Việt ở
Bệnh Viện Ung Bướu cho Bác Sĩ McKinnon biết nguyên do là anh Hải bị
nước vào phổi (pleural effusion), và lo ngại cho anh Hải nếu bị
mổ. Bác Sĩ McKinnon nói việc ấy không có gì quan trọng, bảo nhân viên
nhà thương chích rút nước ra. Bác sĩ McKinnon nghĩ rằng có lẽ anh Hải
đã nằm trong suốt thời gian tám tiếng vận chuyển từ Đà-Lạt, rồi vào nhà
thương cũng nằm nên nước vào phổi. Ông bảo nhân viên cho anh ta ngồi
dậy thay vì nằm để tránh tình trạng nước lại vào phổi. Sau khi rút
nước, anh Hải thở lại dễ dàng.
Ở bên Mỹ một khi bác sĩ quyết định giải phẫu thì bệnh
nhân đến nhà thương, có sẵn một đội y tá hay bác sĩ giúp bác sĩ trong
khi giải phẫu (nếu trường hợp hiểm nghèo, phức tạp như trường hợp này).
Bảo hiểm y tế của bệnh nhân sẽ trả tiền bác sĩ lẫn chi phí tiền nhà
thương, Giám Đốc nhà thương hoàn toàn không liên hệ gì đến trường hợp
mổ. Nhưng ở Việt Nam, dù rằng hội đoàn của bà Amanda Schumacher sẽ trả
tiền nhà thương, Bác sĩ McKinnon phải bỏ thì giờ giải thích cho nhà
thương lý do tại sao họ nên cho giải phẫu vì cần giấy phép chấp thuận
của Bệnh Viện Ung Bướu. Những người ở ngoại quốc như chúng ta xem video
phim tài liệu này sẽ thấy một chuyện không thể nào tin được: tuy rằng
không một ai ở Bệnh Viện Ung Bướu TP HCM giỏi hơn, và có kinh nghiệm
cắt bỏ ung bứu như bác sĩ McKinnon, ông ta phải giải thích cho khoảng
chừng 30, 40 bác sĩ (và y tá?) của nhà thương để mong cho họ chấp thuận
cho phép. Sau đó, ông ta về khách sạn đợi ba ngày để Bệnh Viện Ung
Bướu quyết định!
Khi trở lại Bệnh Viện Ung Bướu TP HCM vào ngày thứ ba,
người bác sĩ (?) Việt Nam có quyền quyết định mà bác sĩ McKinnon gặp
lại là một người lạ, không có mặt trong nhóm bác sĩ & y tá mà ông
trình bày ba ngày trước. Ông bác sĩ này viện lý do nước vào phổi
(pleural effusion), bệnh nhân yếu sức, từ chối không cho giải phẫu, và
cám ơn bác sĩ McKinnon đã bỏ thì giờ đến Việt Nam. Bác sĩ McKinnon trả
lời rằng nêu ra “nước vào phổi” để từ chối không cho mổ chỉ là lợi dụng
một lý do vô cớ. Việc quan trọng không phải là ông ta tình nguyện bỏ
thì giờ đến Việt Nam nhưng việc quan trọng là ông ta phải cay đắng nhìn
nhận là ông ta đã thất bại trong việc thuyết phục những người cùng
nghề nghiệp với ông (ở Việt Nam) là cuộc giải phẫu sẽ thành công. Ông ta
còn phải nói với bệnh nhân vì không được phép giải phẫu, anh Hải sẽ
không có một cơ hội cứu sống nào khác, chắc chắn sẽ chết trong vòng một
năm (tim không đủ sức nuôi cục bướu khổng lồ như vậy), tuy rằng chính
anh Hải mong muốn cho ông ta cắt cái bướu của mình, mặc dù anh biết cơ
hội chết trên bàn mổ có thể là 100%.
Bác sĩ McKinnon sau đó đến Bệnh Viện Ung Bướu để báo
tin buồn cho bệnh nhân là nhà thương không đồng ý cho ông ta giải phẫu.
Anh Hải biết là cơ hội cứu mạng sống anh ta từ Bác sĩ McKinnon bây giờ
như sao chổi sẽ biến mất tuyệt dạng, nói cảm ơn: “Em rất cảm ơn
tấm lòng của bác sĩ đã đến với em. Em sẽ nhớ mãi kỷ niệm em đã được gặp
bác. Em cầu mong ở một đất nước xa xôi nào đó có một bệnh nhân giống
em mà thể trạng của họ khỏe mạnh hơn em và chính tay của bác sĩ cầm con
dao phẫu thuật giải thoát cho họ khỏi được cuộc sống chập chờn. Phần
duyên số của em thì em chấp nhận như vậy, và em mong rằng một lúc nào
đó khi bác sĩ hồi tưởng về Việt Nam, bác sĩ sẽ nhớ một bệnh nhân như
em. Riêng em, em sẽ nhớ mãi được gặp bác sĩ. Thank you”.
* Với câu trả lời: “Anh là một gương sáng cho chúng tôi nêu theo. Tôi không biết nói gì hơn là xin lỗi”, bác sĩ McKinnon rời Việt Nam trở lại Chicago với sứ mạng cắt bướu cho bệnh nhân bất thành.
Câu chuyện tưởng đến đây là hết nhưng hai tháng sau,
sau khi liên lạc với nhiều người, bà Amanda Schumacher đã thuyết phục
được bác sĩ Jean-Marcel Guillon, Giám Đốc Bệnh viện Pháp Việt (FV
Hospital) TP HCM giúp Hải được giải phẫu.
Bệnh viện Pháp Việt (FV Hospital) TP HCM (nguồn: http://iims-asean-
Bệnh viện FV Hospital đài thọ một phần chi phí nhà thương, trả tiền máy bay và khách sạn, mời bác sĩ McKinnon trở lại SàiGòn làm phẫu thuật cho Hải với một đội bác sĩ y tá do Bệnh viện Pháp Việt cung ứng trong việc hỗ trợ giải phẫu.
Ngày Thứ Năm 5 Tháng Giêng, 2012, sau gần 13 tiếng
giải phẫu, bác sĩ McKinnon đã thành công cắt đứt cục bướu khỏi người
anh Hải.
Hải sau khi giải phẫu
* Khi còn ở Chicago, bác sĩ McKinnon đã đồng ý giải phẫu miễn phí thêm cho hai bệnh nhân Việt Nam khác bệnh tình trầm trọng như anh Hải nên sau khi nghỉ phục sức ngày Thứ Sáu, ngày Thứ Bẩy hôm sau ông đến
Bệnh Viện Chợ Rẫy cắt những cái bướu trên mặt của cô Kiều Thị Mỹ Dung,
Cô Mỹ Dung trước khi giải phẫu (nguồn: vnexpress)
Cô Mỹ Dung sau khi giải phẫu (nguồn: vietnamnet)
và Chủ Nhật, cắt một số bướu của cô Thạch Thị Sa Ly.
và Chủ Nhật, cắt một số bướu của cô Thạch Thị Sa Ly.
Bác sĩ McKinnon và cô Sa-Ly trước khi giải phẫu
Cô Sa-Ly trước, và sau khi giải phẫu (nguồn: vnexpress)
~~~~
~~~~
- Xem xong phim tài liệu này, nếu tôi là bác sĩ McKinnon, sau
khi nghe những người không giỏi bằng mình, không có kiến thức giải phẫu
như mình, không có kinh nghiệm phẫu thuật như mình kết luận họ giỏi hơn
mình, ngăn cấm sự giải phẫu cho bệnh nhân mà tôi đã tình nguyện bỏ mấy
ngày giải phẫu miễn phí, khi tôi trở về Mỹ, tôi sẽ không bao giờ quay
trở lại một lần nữa. * Thế mà chỉ hai tháng sau, sau khi bệnh viện Pháp
Việt mời ông ta trở lại giải phẫu ở nhà thương của họ, ông ta nhận
lời, và không những chỉ giải phẫu cho một người, mà cho đến ba người
trong ba ngày khác nhau, tất cả hoàn toàn miễn phí!
* Bệnh Viện Ung Thư TP HCM từ chối không giải phẫu cho một công
dân của chính nước Việt Nam của mình, nhưng một công dân của “đế quốc
Mỹ Ngụy” và một nhà thương của “thực dân Pháp”, hai từ ngữ xấu xa mà
đọc báo chí hay xem Internet lúc nào cũng thấy Việt Nam hiện thời còn
dùng để chỉ Hoa Kỳ và Pháp, đã không quản ngại tiền bạc và công sức để
cứu giúp một công dân của nước Việt Nam.
Ấy là chưa nói đến hai đồng minh vĩ đại của Việt
Nam, Trung Quốc và Nga-Sô, chẳng nghe nói năng gì về giúp đỡ bệnh nhân
Nguyễn Duy Hải.
* Tôi thật là may mắn được sống ở đất nước Hoa Kỳ,
một quốc gia không bao giờ dùng lời đay nghiến với một nước thù
nghịch, một quốc gia nơi có những người đầy lòng hảo tâm với tôn chỉ
giúp đỡ nhân loại mà không cần biết người đó đang sống ở bất cứ nơi
nào trên thế giới.
Nguyễn Tài Ngọc
March 2013
March 2013
BỆNH UNG THƯ
Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới đã thay
đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư
- Xuân Phong dịch từ bản tiếng Pháp
- Tài liệu thảo luận của CFQ (Cercle Francophone à Quinhon) ngày 21/3/2013- Tài liệu này có giá trị nên đọc đi đọc lại.
Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới thay đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư. Bệnh viện Johns Hopkins là một bệnh viện trường đại học nằm ở Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ.
Được thành lập nhờ tài trợ từ John Hopkins, ngày hôm nay nó là một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới và năm thứ 17 liên tiếp được phân loại ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ.
Sau nhiều năm nói với mọi người hóa trị liệu là cách duy nhất để điều trị và loại bỏ ung thư, Bệnh viện Johns Hopkins đã bắt đầu nói với mọi người rằng có những lựa chọn thay thế khác với hóa trị liệu: một cách hiệu quả để chống lại ung thư là không nuôi các tế bào ung thư với các chất dinh dưỡng cần thiết cho nó để nó không phát triển được.
THỨC ĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ
a. ĐƯỜNG là một loại thực phẩm của bệnh ung thư. Không tiêu thụ đường là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào ung thư. Có sản phẩm thay thế đường như saccharin, nhưng chúng được làm từ Aspartame và rất có hại. Tốt hơn nên thay thế đường bằng mật ong Manuka hay mật đường nhưng với số lượng nhỏ. Muối có chứa một hóa chất phụ gia để xuất hiện màu trắng. Một lựa chọn tốt hơn cho muối trắng là muối biển hoặc các loại muối thực vật.
b. SỮA làm cho cơ thể sản xuất chất nhầy, đặc biệt là trong đường ruột. Tế bào ung thư ăn chất nhầy. Loại bỏ sữa và thay thế bằng sữa đậu nành, các tế bào ung thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ chết.
c. Các tế bào ung thư trưởng thành trong môi trường axit. Một chế độ ăn uống là THịT Đỏ có tính axit, tốt nhất là ăn cá, và một chút thịt gà thay vì thịt bò hay thịt heo. Hơn nữa, thịt chứa kháng sinh, hormon và ký sinh trùng, rất có hại, đặc biệt đối với những người mắc bệnh ung thư. Protein thịt khó tiêu hóa và đòi hỏi nhiều enzym. Thịt không tiêu hóa ở lại và hư hỏng trong cơ thể dẫn tới tạo ra các độc tố nhiều hơn.
GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
a) Một chế độ ăn uống gồm 80% rau quả tươi và nước ép, ngũ cốc, hạt, các loại hạt quả, quả hạnh nhân và một ít loại trái cây đặt cơ thể trong môi trường kiềm. Chúng ta chỉ nên tiêu thụ 20% thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau tươi cung cấp cho cơ thể co-enzyme có thể dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào 15 phút sau khi được tiêu thụ để nuôi dưỡng và giúp định hình các tế bào khỏe mạnh. Để có được các enzyme sống, giúp xây dựng các tế bào khỏe mạnh, chúng ta phải cố gắng uống nước ép rau (tất cả, bao gồm cỏ linh thảo) và ăn nhiều rau quả tươi 2 hoặc 3 lần mỗi ngày.
b) Không nên dùng CÀ PHÊ, TRÀ và SÔ CÔ LA có chứa nhiều caffeine. TRÀ XANH là một lựa chọn tốt hơn vì có chất chống ung thư. Tốt nhất là uống nước tinh khiết hoặc nước lọc để tránh các chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Không uống nước cất vì nước này có chứa axit.
c) Các thành các tế bào ung thư được bao phủ bởi một loại protein rất cứng. Khi không ăn thịt, những thành tế bào phóng thích nhiều enzim hơn, tấn công các pro tê in của các tế bào ung thư và cho phép hệ thống miễn dịch tiêu diệt các tế bào ung thư.
d) Một số chất bổ sung giúp xây dựng lại hệ thống miễn dịch: Floressence, Essiac, chất chống oxy hóa, vitamin, khoáng chất, EPA, dầu cá … giúp các tế bào để chiến đấu và tiêu diệt các tế bào ung thư. Các chất bổ sung khác như vitamin E được biết đến bởi vì nó gây ra apoptose, cách bình thường của cơ thể để loại bỏ các tế bào vô dụng hoặc bị lỗi.
e) Ung thư là một căn bệnh của cơ thể, tâm trí và tinh thần. Một thái độ hoạt động và tích cực hơn sẽ giúp các bệnh nhân ung thư chiến đấu và sống còn. "Giận dữ và không hiểu biết, không tha thứ sẽ đặt cơ thể vào tình trạng căng thẳng và một môi trường axit".
Học để có tâm hồn khả ái và yêu thường với một thái độ sống tích cực là rất có lợi cho sức khỏe. Học thư giãn và tận hưởng cuộc sống.
f) Các tế bào ung thư không thể sống trong một môi trường dưỡng khí (oxygénée). Luyện tập thể dục hàng ngày, hít thở sâu giúp lấy thêm nhiều oxy vào các tế bào. Liệu pháp oxy là một yếu tố giúp tiêu diệt các tế bào ung thư.
1. Không để hộp nhựa trong lò vi sóng.
2. Không để chai nước trong tủ lạnh.
3. Không để tấm nhựa trong lò vi sóng.
g) Các hoá chất như dioxin gây ung thư, đặc biệt là ung thư vú. Dioxin rất có hại, đặc biệt là đối với các tế bào cơ thể.
Đừng để trong tủ lạnh chai nước nhựa bởi vì nhựa sẽ "đổ mồ hôi" dioxin và làm nhiễm độc nước uống.
Gần đây, Tiến sĩ Edward Fujimoto, Giám đốc chương trình Wellness ở bệnh viện Castle, xuất hiện trong một chương trình truyền hình giải thích sự nguy hiểm của dioxin.
Ông nói rằng chúng ta không nên đặt hộp nhựa trong lò vi sóng, đặc biệt là các loại thực phẩm có chứa chất béo. Ông nói rằng do sự kết hợp của chất béo và nhiệt lượng cao, nhựa sẽ truyền dioxin vào thực phẩm và do đó vào cơ thể chúng ta. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng thủy tinh như Pyrex hoặc gốm sứ để đun nấu.
"Hãy vui lòng chia sẻ bài viết này với tất cả bạn bè của bạn."
(Fw: luuvu44@yahoo.com, 4/9/2013, 12.09AM)
- Xuân Phong dịch từ bản tiếng Pháp
- Tài liệu thảo luận của CFQ (Cercle Francophone à Quinhon) ngày 21/3/2013- Tài liệu này có giá trị nên đọc đi đọc lại.
Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới thay đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư. Bệnh viện Johns Hopkins là một bệnh viện trường đại học nằm ở Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ.
Được thành lập nhờ tài trợ từ John Hopkins, ngày hôm nay nó là một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới và năm thứ 17 liên tiếp được phân loại ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ.
Sau nhiều năm nói với mọi người hóa trị liệu là cách duy nhất để điều trị và loại bỏ ung thư, Bệnh viện Johns Hopkins đã bắt đầu nói với mọi người rằng có những lựa chọn thay thế khác với hóa trị liệu: một cách hiệu quả để chống lại ung thư là không nuôi các tế bào ung thư với các chất dinh dưỡng cần thiết cho nó để nó không phát triển được.
THỨC ĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ
a. ĐƯỜNG là một loại thực phẩm của bệnh ung thư. Không tiêu thụ đường là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào ung thư. Có sản phẩm thay thế đường như saccharin, nhưng chúng được làm từ Aspartame và rất có hại. Tốt hơn nên thay thế đường bằng mật ong Manuka hay mật đường nhưng với số lượng nhỏ. Muối có chứa một hóa chất phụ gia để xuất hiện màu trắng. Một lựa chọn tốt hơn cho muối trắng là muối biển hoặc các loại muối thực vật.
b. SỮA làm cho cơ thể sản xuất chất nhầy, đặc biệt là trong đường ruột. Tế bào ung thư ăn chất nhầy. Loại bỏ sữa và thay thế bằng sữa đậu nành, các tế bào ung thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ chết.
c. Các tế bào ung thư trưởng thành trong môi trường axit. Một chế độ ăn uống là THịT Đỏ có tính axit, tốt nhất là ăn cá, và một chút thịt gà thay vì thịt bò hay thịt heo. Hơn nữa, thịt chứa kháng sinh, hormon và ký sinh trùng, rất có hại, đặc biệt đối với những người mắc bệnh ung thư. Protein thịt khó tiêu hóa và đòi hỏi nhiều enzym. Thịt không tiêu hóa ở lại và hư hỏng trong cơ thể dẫn tới tạo ra các độc tố nhiều hơn.
GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
a) Một chế độ ăn uống gồm 80% rau quả tươi và nước ép, ngũ cốc, hạt, các loại hạt quả, quả hạnh nhân và một ít loại trái cây đặt cơ thể trong môi trường kiềm. Chúng ta chỉ nên tiêu thụ 20% thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau tươi cung cấp cho cơ thể co-enzyme có thể dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào 15 phút sau khi được tiêu thụ để nuôi dưỡng và giúp định hình các tế bào khỏe mạnh. Để có được các enzyme sống, giúp xây dựng các tế bào khỏe mạnh, chúng ta phải cố gắng uống nước ép rau (tất cả, bao gồm cỏ linh thảo) và ăn nhiều rau quả tươi 2 hoặc 3 lần mỗi ngày.
b) Không nên dùng CÀ PHÊ, TRÀ và SÔ CÔ LA có chứa nhiều caffeine. TRÀ XANH là một lựa chọn tốt hơn vì có chất chống ung thư. Tốt nhất là uống nước tinh khiết hoặc nước lọc để tránh các chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Không uống nước cất vì nước này có chứa axit.
c) Các thành các tế bào ung thư được bao phủ bởi một loại protein rất cứng. Khi không ăn thịt, những thành tế bào phóng thích nhiều enzim hơn, tấn công các pro tê in của các tế bào ung thư và cho phép hệ thống miễn dịch tiêu diệt các tế bào ung thư.
d) Một số chất bổ sung giúp xây dựng lại hệ thống miễn dịch: Floressence, Essiac, chất chống oxy hóa, vitamin, khoáng chất, EPA, dầu cá … giúp các tế bào để chiến đấu và tiêu diệt các tế bào ung thư. Các chất bổ sung khác như vitamin E được biết đến bởi vì nó gây ra apoptose, cách bình thường của cơ thể để loại bỏ các tế bào vô dụng hoặc bị lỗi.
e) Ung thư là một căn bệnh của cơ thể, tâm trí và tinh thần. Một thái độ hoạt động và tích cực hơn sẽ giúp các bệnh nhân ung thư chiến đấu và sống còn. "Giận dữ và không hiểu biết, không tha thứ sẽ đặt cơ thể vào tình trạng căng thẳng và một môi trường axit".
Học để có tâm hồn khả ái và yêu thường với một thái độ sống tích cực là rất có lợi cho sức khỏe. Học thư giãn và tận hưởng cuộc sống.
f) Các tế bào ung thư không thể sống trong một môi trường dưỡng khí (oxygénée). Luyện tập thể dục hàng ngày, hít thở sâu giúp lấy thêm nhiều oxy vào các tế bào. Liệu pháp oxy là một yếu tố giúp tiêu diệt các tế bào ung thư.
1. Không để hộp nhựa trong lò vi sóng.
2. Không để chai nước trong tủ lạnh.
3. Không để tấm nhựa trong lò vi sóng.
g) Các hoá chất như dioxin gây ung thư, đặc biệt là ung thư vú. Dioxin rất có hại, đặc biệt là đối với các tế bào cơ thể.
Đừng để trong tủ lạnh chai nước nhựa bởi vì nhựa sẽ "đổ mồ hôi" dioxin và làm nhiễm độc nước uống.
Gần đây, Tiến sĩ Edward Fujimoto, Giám đốc chương trình Wellness ở bệnh viện Castle, xuất hiện trong một chương trình truyền hình giải thích sự nguy hiểm của dioxin.
Ông nói rằng chúng ta không nên đặt hộp nhựa trong lò vi sóng, đặc biệt là các loại thực phẩm có chứa chất béo. Ông nói rằng do sự kết hợp của chất béo và nhiệt lượng cao, nhựa sẽ truyền dioxin vào thực phẩm và do đó vào cơ thể chúng ta. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng thủy tinh như Pyrex hoặc gốm sứ để đun nấu.
"Hãy vui lòng chia sẻ bài viết này với tất cả bạn bè của bạn."
(Fw: luuvu44@yahoo.com, 4/9/2013, 12.09AM)
LÊ MỘNG NGUYÊN * MỘT GÓC HUẾ XƯA
Điểm Sách
4
Nhân đọc bài tùy bút « Một
Góc Huế Xưa » trên mạng của Thanh Vân về Quê Tôi
NS Lê Mộng
Nguyên
« Quê tôi chiều nắng
mong manh, có đồng lúa xanh mơ theo dòng nước
Hàng cây me ngày thơ ấu tôi leo cành lá mơ chim đàn chấp cánh bay
Quê tôi là Huế muôn đời, kinh thành tiếc nuối qua dòng sông biếc
Sau gót Phù- tang non nước ngùi ngậm, lời thề chưa trả non sông điêu tàn
Rồi một mùa gió heo may cách xa muôn trùng quê tôi
Ngày về còn ước mong ai, tóc em đã úa nắng phai
Lời thề nguyền với cố nhân bến sông Bình Lục, Phú Xuân
Chiều tàn Đập Đá sông Hương
Ai còn thầm nhớ thương hoài »(Nhạc và lời của Lê Mộng Nguyên)
Hàng cây me ngày thơ ấu tôi leo cành lá mơ chim đàn chấp cánh bay
Quê tôi là Huế muôn đời, kinh thành tiếc nuối qua dòng sông biếc
Sau gót Phù- tang non nước ngùi ngậm, lời thề chưa trả non sông điêu tàn
Rồi một mùa gió heo may cách xa muôn trùng quê tôi
Ngày về còn ước mong ai, tóc em đã úa nắng phai
Lời thề nguyền với cố nhân bến sông Bình Lục, Phú Xuân
Chiều tàn Đập Đá sông Hương
Ai còn thầm nhớ thương hoài »(Nhạc và lời của Lê Mộng Nguyên)
Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên hoài niệm (tiếp
theo *)
Về thời tiết ở Huế, ngoài ra vẻ đẹp của kinh thành nhà Nguyễn, Tùy bút Thanh Vân thở than… : « Còn cái mưa ở Huế thì Nguyễn Bính cũng phải thua :
Trời mưa ở Huế sao
buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Trời mờ ngao ngán một loài mây
………………………………………..
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy (Trời mưa ở Huế) »
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Trời mờ ngao ngán một loài mây
………………………………………..
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy (Trời mưa ở Huế) »
Trong bốn ngày từ Sài Gòn tôi trở lại quê hương
thăm gia đình ở Huế đường Gia Long, trời cũng mưa dầm dề như thường lệ. Tôi đã
diễn tả nỗi lòng ngày xưa trong nhạc phẩm tiền chiến « Mưa Huế », viết trong đêm
mồng 06 tháng 09 năm 1949… « Mưa Huế » với nhiều sáng tác khác của tôi trước
1954 (Hiệp định Genève-1954, chia đôi nước VN : « République démocratique du
Vietnam » (communiste) trên vĩ tuyến 17 và « République du Vietnam »
(nationaliste) dưới vĩ tuyến 17 (cựu kinh đô nhà Nguyễn thuộc lãnh thổ quốc gia)
:
Trời âm u mưa rơi, buồn ơi quá buồn
!
Đông sầu giăng khắp nơi ngoài hiên tối mờ
Ai là người gió sương ?
Dòng Hương trôi tâm tư, đời ta xế tà
Như thuyền mất bến xưa
lờ lững buông trôi theo tình đời úa phai
Đông sầu giăng khắp nơi ngoài hiên tối mờ
Ai là người gió sương ?
Dòng Hương trôi tâm tư, đời ta xế tà
Như thuyền mất bến xưa
lờ lững buông trôi theo tình đời úa phai
Trời mưa trên phố xưa dầm dề
Chiều nay ta một mình ước mơ
Mưa róc rách ngoài hiên
Mưa rơi trong lòng ta
Mưa trong tâm hồn ta
Sao người yêu thương ngàn dặm, sao người cứ đi ?
Chiều nay ta một mình ước mơ
Mưa róc rách ngoài hiên
Mưa rơi trong lòng ta
Mưa trong tâm hồn ta
Sao người yêu thương ngàn dặm, sao người cứ đi ?
Sấm sét bất chừng cho ta kinh
hoàng
Mưa rơi không ngừng
Xa xăm ngàn dặm lạnh giá
Gió reo rắt sầu, trên mi u hoài
Ai đi không về
Mây bay gieo sầu chờ mong…
Mưa rơi không ngừng
Xa xăm ngàn dặm lạnh giá
Gió reo rắt sầu, trên mi u hoài
Ai đi không về
Mây bay gieo sầu chờ mong…
(MƯA HUẾ - ST Lê Mộng Nguyên, CS Quốc Duy trình
bày với hòa âm Võ Công Diên trên Site http://ngocanchieu.net từ ngày thứ tư 17/04/2013 – 19:36) :
Trời mưa dầm dề không những ở Huế mà còn trong
những vùng lân cận. Chuyến đi máy bay từ Sài Gòn phải hạ xuống phi trường
Đà Nẳng (bởi vì phi trường Phú Bài-Huế có thể xem như không còn nữa, lý do
bị tàn phá bởi bom đạn Việt cộng bao vây. Hồng quân đã mấy lần nhắm bắn máy bay
thương mại từ kinh thành VNCH chở khách du lịch thăm viếng cố đô. Thành thử phi
cơ của chúng tôi phải ngưng lại ở Đà Nẳng (cựu Tourane). Tôi có ghi lại trong
hồi ký bằng Pháp ngữ như sau :
« … De Saigon à Da-Nang (d’après Petit
Robert 2, 1989 : V. et port du Vietnam (Sud), cap. de la province de Quang Nam,
au S. de la baie de Tourane – anc. nom de la V.), à 80 km au S.-E. de Hué…- La
ville fut le siège de combats entre Américains et Vietnamiens du Nord)…, le seul
avion qui reste de la Compagnie Air Vietnam (après l’attentat qui avait cỏté la
vie à 70 voyageurs civils) nous a transportés mon frère Lê Mộng Đào et moi, à
2000 mètres d’altitude au-dessus d’un pays dont les paysages restent d’une
beauté verdâtre en dépit de la guerre. Les forêts tropicales, les rivières, la
mer également ne cessent de défiler doucement sous nos yeux : aucune trace du
drame du moins apparemment, aucune bombe, aucune fumée ne vient perturber la
sérénité de ce beau pays, vu du ciel. Alors qu’il a fait chaud au moment de
notre départ de Tân Son Nhât, la frai^cheur puis le froid nous saisissent au fur
et à mesure que nous nous approchons de Da-Nang. Le ciel devient de plus en plus
gris, de plus en plus bas et la pluie depuis un certain temps a commencé de
fouetter les lucarnes de l’avion, du dehors.
Nous arrivons ainsi à Da-Nang après deux heures
de trajet environ. Il pleut à verse et dans l’autocar très inconfortable d’Air
Vietnam qui nous conduit vers la gare de taxis, j’ai pu pendant ce trajet,
contempler avec tristesse la ville noyée sous la pluie, la ville de couleur de
brique, noirâtre, mais qui continue d’être animée – dès 9 heures du matin déjà,
par les marchés tout au long des rues, sur les trottoirs et les grandes places
d’où notre voiture a eu beaucoup de difficultés à se frayer un
chemin.
Nous avons du^ attendre une heure environ avant
d’obtenir deux places dans la voiture-taxi qui va faire le trajet de Da-Nang à
Hué, sous la pluie et dans le brouillard. C’est une traction-avant Citroen,
vieille au moins de trente ans et qui marche – je ne sais – par quelle opération
du Saint-Esprit. Le taxi contient deux places à côté du chauffeur, la
banquette-arrière étant compartimentée en deux afin de pouvoir loger encore huit
personnes. Nous avons du^ louer toute une rangée de quatre places pour pouvoir
ranger nos sacs et valises (2400 piastres en tout). Après avoir parcouru une
région plate au travers de laquelle la route est bordée de restaurants, de camps
de réfugiés, de missions catholiques et protestantes, de pagodes, et encore de
marchés…, nous commençons notre ascension du terrible Col des Nuages la nuit.
La voiture-taxi s’est arrêtée à trois reprises,
deux fois pour une panne (il fallait s’y attendre), une fois pour être
ravitaillée d’eau puisée dans un petit étang artificiel situé en bordure
de la route. Il pleut sans arrêt, et plus on monte, plus le brouillard se fait
épais tandis que la route sinueuse devient invisible. Et pourtant le conducteur,
imperturbable, continue. J’ai l’impression qu’il connai^t tellement bien son
chemin qu’il peut diriger son engin les yeux fermés. Nous avons aussi les yeux
fermés, mais pour prier… Dans ces moments-là seuls, la prière pourrait apaiser
nos peurs et nos inquiétudes. Dire qu’il suffirait d’une seconde d’inattention
ou de maladresse du chauffeur-taxi pour que la voiture tombe du haut de la
falaise et nous connai^trions alors les apaisements du néant.
De temps à autre, nous sentions la route cahotante. On dirait que la voiture a rencontré des obstacles : des affaissements sur la voie provoqués sans doute dans la nuit par des tirs de roquette ? Nous n’avons rien vu, à part la brume. Une sensation à la fois désagréable et agréable, un certain flottement psychologique et mental se sont emparés de nos corps, de nos âmes… Dire que j’ai fait plus de 13 mille km pour venir m’échouer ici et mourir peut-être…
De temps à autre, nous sentions la route cahotante. On dirait que la voiture a rencontré des obstacles : des affaissements sur la voie provoqués sans doute dans la nuit par des tirs de roquette ? Nous n’avons rien vu, à part la brume. Une sensation à la fois désagréable et agréable, un certain flottement psychologique et mental se sont emparés de nos corps, de nos âmes… Dire que j’ai fait plus de 13 mille km pour venir m’échouer ici et mourir peut-être…
(còn tiếp số sau)
Nhạc Sĩ LÊ MỘNG
NGUYÊN
*X Đối Lực, No
143, trang 12-13 - Février 2013
KIÊM ĐẠT * THAT LUÔNG
|
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
No comments:
Post a Comment