Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday 21 November 2016

NGUYỄN THIÊN THU *NGUYỄN PHÚC LIÊN*

NGUYỄN THIÊN THU * CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH

                                  

CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH
I. LÝ LUẬN MARX-LENIN


 Các triết thuyết thường trình bày về vũ trụ quan, nhân sinh quan. Đa số tôn giáo đều nói đến từ bi, bác ái, hòa bình. Trái lại, cộng sản do Marx đưa ra thuyết "đấu tranh giai cấp " để gây nên một trường máu đổ, thịt rơi trên thế giới. Vì vậy, chúng ta có thể nói Cộng sản là một trường phái gây chiến.

Marx đã nhấn mạnh cuộc đấu tranh của cộng sản là bạo động, dùng vũ lực để cướp chính quyền.Những ai nói Hồ Chí Minh theo chủ trương bất bạo động của Gandhi là chẳng hiểu gì Hồ Chí Minh và Cộng sản. Marx cũng nói đến việc các đảng cộng sản liên hiêp với các đảng dân chủ tại các quốc gia như ở Pháp, những người cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa, ơ Thuỵ sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã coi cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc, ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế (TNCS III).

Đó là chiến thuật của cộng sản khi yếu thì họ liên thủ với các đảng phái quốc gia, sau khi mạnh thì họ lấn lướt, xâm nhập, xâm chiếm như họ đã xâm chiếm Việt Nam Độc lập Đồng minh hội của Hồ Học Lãm, phá hoại các tổ chức của Phan Bội Châu, và xâm nhập Tân Việt Cách mạng đảng của Đào Duy Anh. Cộng sản cũng đã thi hành gian kế như tại nhà Khám Lớn, tù nhân cộng sản it nên cộng sản chủ trương đoàn kết với các tù nhân quốc gia, nhưng tại Côn đảo, tù nhân cộng sản đông thì chúng thi hành các thủ đoạn tàn độc để giết hại và hành hạ các chiến sĩ quốc gia. Sau 1945, vì áp lực quốc tế, cộng sản phải liên hiệp với phe quốc gia nhưng chỉ một năm sau, Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp tàn sát phe quốc gia.

Khi nói đến liên hiệp, đoàn kết dân tộc thì các phe phải tôn trọng nhau, nhất là tôn trọng lập trường chính trị, nhưng Marx tỏ ra kiêu căng, khinh miệt, căm thù các triết gia, các đảng xã hội và cộng sản. Lenin cũng không châp nhận quan điểm hòa bình dân chủ của phe cộng sản Martov, của Karensky và đi đến một trường đấu tranh đẫm máu thì làm sao mà có liên hiệp? Stalin không chấp nhận quan điểm của Trotsky, và ông sát hại các tướng lãnh và đại biểu quốc hội là những nhân vật quan trọng của đảng Cộng sản Liên Xô thì làm sao ông chấp nhận các phe phái khác cộng tác?

 Quốc tế III, Stalin ra lệnh các nước nhỏ phải tuân lệnh Nga, phải loại trừ các phần tử tư sản, cải lương trong đảng và trong nước, thì làm sao có đất đứng cho các phe phái khác? Hơn nữa, vô sản chuyên chính của Marx đã nói rõ rằng cộng sản dùng vô sản cướp quyền, rồi độc chiếm quyền bính, không san sẻ quyền lợi cho phe phái nào. Thành thử những ai nói Hồ Chí Minh yêu nước là chẳng hiểu cộng sản là gì. Và ở Việt Nam hiện nay, một số trí thức và người yêu nước  đòi cộng sản thực thi đa nguyên là chuyện không thể được. Nếu Việt Cộng thực thi đa nguyên thì chỉ là dối trá như Hồ Chí Minh sai Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận lập đảng Dân chủ và Phan Tư Nguyễn, Nguyễn Xiển lập đảng Xã hội. Muốn có dân chủ, đa đảng phải tiêu diệt cộng sản.

Vì vậy, việc liên hiệp cộng sản và quốc gia chỉ là giả dối. Sau 1973, Mỹ chủ trưởng chính phủ ba thành phần tại miền Nam, chính phủ liên hiệp tại Cambodia chẳng qua là mưu kế tạm thời mặc cho các phe quốc gia chết trong bàn tay cộng sản.
Trước hết cộng sản mượn danh nghĩa giải phóng dân tộc để lợi dụng tinh thần yêu nước cuả các nước bị thực dân, đế quốc xâm lược. Sau khi đã tạo dựng được lực lượng khá mạnh, cộng sản công khai chường bộ mặt cộng sản ra. Đó là trường hợp Trung Quốc, Việt Nam. Marx cũng vạch ra một kế sách khác. Trước tiên họ cướp chính quyền tại một quốc gia, sau đó mở rộng chiến tranh ra các quốc gia khác và có thể thành thế chiến [1].

Như vậy là đường lối của Marx qua Lenin, Stalin là một chủ trương chiến tranh toàn cầu. Cộng sản chỉ ngừng chiến tranh khi họ toàn thắng. Còn các nước tư bản, còn các phe dân chủ, tự do trên hoàn cầu là cộng sản vẫn tiếp tục gây chiến.[2].

Tố Hữu quả là truyền nhân của Marx và Lenin khi ông viết:"
"Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin…bất diệt"

Cuộc đấu tranh là quyết liệt vì mục đích của cộng sản là cướp chính quyền bằng bạo lực, nghĩa là dùng biện pháp quân sự thẳng tay giết dân chúng và sẵn sàng gây chiến tranh [2b]. Và ông cũng đưa ra một hứa hẹn về thiên đường cộng sản là sau khi cướp chính quyền, diệt hết giai cấp tư sản, đảng cộng sản nắm quyền sẽ  đưa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản, là một  thiên  đường hoà bình ,thịnh vượng :
 "Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. ..Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo. (TNCS I)

"Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.  (TNCS II)
 
Marx dùng đường hòa bình bọc viên thuốc độc đấu tranh giai cấp và gây chiến, còn Lenin thì nói thẳng nhiều lần rằng cộng sản cần  chiến tranh vì đó là phương cách đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản[5].Trong bài Socialism and War (1915), Lenin đặc biệt nói về nhu cầu chiến tranh. Chiến tranh sẽ diễn ra mãi mãi cho đến khi cộng sản diệt hết tư sản và kẻ thù để xây dung một xã hội vô giai cấp [6]. Có lẽ căn cứ vào điểm này, một số nhà biên khảo  cho rằng sau 1945, Stalin có kế hoạch đánh chiếm Mỹ vả Tây Âu. May mắn thay, ông chết năm 1953, chứ không thì thế giới đã trải qua một cuộc thế chiến thứ ba.
Lenin tuyên bố dùng chiến tranh giải phóng thế giới, nhưng ông cũng như Marx, sau khi bắn súng ầm ầm, ông bèn thả một đàn bồ câu trắng lên trời, và hát bài ca hòa bình:
" Chúng tôi nói : mục đích của chúng tôi là đạt đến một hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa bằng cách xóa bỏ giai cấp trong loài người, xóa bỏ bóc lột giữa người và người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, và chắc chắn sẽ loại trừ khả năng rất chiến  tranh" [7]

II. NỘI CHIẾN

Nội chiến là nói về chiến tranh trong một nước, nhưng ở đây cũng nói đến một cuộc khủng bố, đàn áp, và tàn sát của cộng sản đối với nhân dân , đồng thời cũng đề cập đến cuộc chiến âm thầm trong nhân dân chống cộng sản độc tài, tàn ác.

1. CÁCH MẠNG NGA

Các sách cộng sản nịnh hót Lenin, Stalin nên nói không đúng sự thực. Họ nói cách mạng tháng Mười Nga tháng Mười Nga lật đổ chế độ Nga hoàng nhưng sự thực thì khác hẳn. Nước Nga là một đế quốc lớn. Trong nước thường có những cuộc bạo loạn. Các vị Nữ hoàng Anna, Elizaveta Petrovna và Ekaterina II đều lên ngôi với những cuộc đảo chính do Ngự Lâm quân hỗ trợ. Vì Nga là một đế quốc cho nên các nước lân cận như Vương quốc Thụy Điển và Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottomancũng tìm cách làm suy yếu nước Nga.

 Các triều đại nối tiếp nhau trong thế kỷ 19 đã đối phó với những áp lực đó bằng sự kết hợp giữa các cuộc cải cách miễn cưỡng và trấn áp. Năm 1861, Nicholas II bãi bỏ chế độ nô lệ. Năm 1894 Nicholas II thoái vị nhường lại cho phe cải cách lên cầm quyền, lập nên quốc hội Duma. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914, các cuộc cải cách Stolypin, hiến pháp 1906 và Duma quốc gia đã mang lại những thay đổi đáng kể cho nền kinh tế và chính trị Nga nhưng chiến tranh với nước Phổ đã làm Nga kiệt quệ.

Ban đầu, dân Nga theo đường lối vô chính phủ của Mikhail Aleksandrovich Bakunin xuất hiện như người cha của chủ nghĩa vô chính phủ. Ông đã rời Nga năm 1842 tới Tây Âu, nơi ông hoạt động tích cực trong phong trào xã hội. Sau khi tham gia vào cuộc Khởi nghĩa tháng Năm tại Dresden năm 1849, ông bị bỏ tù và bị đưa tới Siberi, nhưng cuối cùng ông đã trốn thoát và quay trở lại châu Âu. Tại đây ông đã hợp tác cùng Karl Marx, dù có những sự khác biệt ý thức hệ và chiến thuật lớn. Sau đó dân Nga chán chủ nghĩa vô chính phủ vì chủ trương này vô ich.Các học thuyết xã hội khác cũng được những người Nga cấp tiến đưa ra như Aleksandr Ivanovich Herzen và Pyotr Alekxeyevich Kropotkin.

Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản, nông dân, công nhân đều chịu ảnh hưởng tư tưởng của Voltaire, Montesquieu và Marx mà tập hợp thành tổ chức cách mạng chống Nga hoàng. Đại hội đầu tiên bí mật họp tại Minks năm 1898, thành lập đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga (The Russian Social Democratic Labor party), gồm đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga (Russian Social-Democratic Workers' Party ), và đảng Dân chủ Xã hội Nga ( the Russian Social-Democratic Party) , lấy chủ nghĩa Marx làm cơ sở.

Năm 1898, chín thành viên của tổ chức Lao động Xã hội Dân chủ Nga bị An ninh Hoàng gia Nga bắt giam.Thực ra trước đó, Tổ hợp Giải phóng Lao Động (Group for the Emancipation of Labour ) ra đời năm 1883 cũng theo chủ nghĩa Marx.Đại hội Lao động Xã hội Dân chủ Nga họp lần đầu năm 1901 tại Minks, đại hội hai tại họp tại Bỉ nhưng bị nhà cầm quyền Bỉ đuổi nên chuyển qua Luân Đôn năm 1903. Sau đó, năm 1903, Lenin và Martov mâu thuẫn, lực lượng cách mạng chia rẽ.

Các nhóm tự do bên trong các nhà tư bản công nghiệp và quý tộc, những người tin vào sự cải cách xã hội một cách hoà bình và một chế độ quân chủ lập hiến, đã thành lập Đảng Dân chủ Hiến pháp hay Kadets năm 1905. Những người theo phong trào "Dân ý" thành lập Đảng Xã hội Cách mạng Nga hay Esers năm 1901, ủng hộ việc phân chia đất đai cho  nông dân. Một nhóm thứ ba và có tính chất cấp tiến hơn lập ra Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga hay RDSLP năm 1898; đảng này là thành phần chủ yếu của Chủ nghĩa Mác tại Nga. Có được sự ủng hộ từ các trí thức cấp tiến và tầng lớp lao động đô thị, họ ủng hộ việc tiến hành cách mạng xã hội, kinh tế và chính trị.

Vào ngày 23 tháng 2 (8 tháng 3 theo lịch Gregory) năm 1917, Ngày Quốc tế Phụ nữ, hàng nghìn thợ dệt nữ ở Petrograd tuần hành bên ngoài nhà máy phản đối sự thiếu hụt lương thực và kêu gọi những người thợ khác cùng gia nhập. Nhà vua ra lính quân đội đàn áp nhưng quân đội ủng hộ phe biểu tình.


Ngày 2 tháng 3 (15 tháng 3), Nikolai II thoái vị. Để lấp khoảng trống quyền lực, Duma tuyên bố thành lập một Chính phủ Lâm thời, do công tước Lvov lãnh đạo. Tháng 7, sau một loạt vụ khủng hoảng khiến Chính phủ Lâm thời mất uy tín với nhân dân, lãnh đạo chính phủ từ chức và được kế tục bởi Aleksandr Kerensky, thuôc đảng Xã hội cách mạng Nga,người có tư tưởng tiến bộ hơn người tiền nhiệm   và phe Mensheviks . Nhưng tình trạng kinh tế suy đồi và cuộc chiến tranh tiếp diễn làm cho chính phủ Kerensky cũng bế tắc, lại bị phe Bolsheviks tấn công.

Hai nhóm này đều thuộc phe cách mạng xã hội chủ nghĩa, phe Bosheviks thuộc cánh tả là phe cực đoan, phe Mensheviks thuộc cánh hữu tức phe ôn hòa. Chính quyền Aleksandr Kerensky ra lệnh đàn áp nhóm Bolsheviks, nhóm Bolsheviks tấn công chính phủ, nhóm Melsheviks chống lại nhóm Bolcheviks và rút lui khỏi chính phủ. Tháng Mười 1917, Aleksandr Kerensky  bị nhóm Bolsheviks lật đổ trong cuộc đảo chánh tháng Mười Nga năm 1917. V. I. Lenin từ Thụy Sĩ, quay trở về nước Nga do  sự  giúp đỡ về tài chính từ đế chế Đức. Họ cho rằng Lenin đã nhận được tiền bạc từ tay một nhà tư sản Đức tên là Parvus.

2.  ĐỒNG CHÍ  VÀ NHÂN DÂN ĐỀU LÀ PHẢN ĐỘNG

Lenin không phải là người cộng sản đầu tiên của Nga. Trước Lenin đã có nhiều người theo Marx nhưng cộng sản Nga không hề nhắc nhở đến những người này, mà đảng Cộng sản Trung Quốc cũng không nói đến Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, và đảng Cộng sản Việt Nam cũng bỏ quên tên Ngô Gia Tự, Châu Văn Liêm, Đào Duy Anh. Nếu có nói đến họ thì coi như những người này là đàn em của Hồ Chí Minh chứ không phải là những người tiên phong lập đảng cộng sản.

Người đi tiên phong trong phong trào Marxism ở Nga là Georgi Valentinovich Plekhanov
(1857- 1918), lãnh tụ phong trào Dân chủ Xã hội Nga, là một người Marxist đầu tiên ở Nga, đã viết nhiều sách về chủ nghĩa Marx.Năm 1883 ở Switzerland, ông cùng Lev Deutsch và Vera Zasulich lập tổ chức Giải Phóng Lao Động (Emancipation of Labor) tuyên truyền chủ nghĩa Marx cho nhân dân Nga. Sau ông gia nhập đảng Dân chủ Xã hội Lao động Nga ( the Russian Social Democratic Labour Party) (RSDLP) và cộng tác với Lenin.

Tuy ông và Lenin cùng theo Marx, hai ông có tư tưởng khác nhau nên trở thành cừu địch. Trong đại hội đảng Dân chủ Xã hội Lao động Nga 1903, ông và Lenin tranh luận đi đến chia rẽ. Ông cho rằng nước Nga chưa có thể đưa vô sản lên nắm quyền mà phải trải qua giai đoạn xây dựng dân chủ. Ông có lòng yêu nước, kêu gọi dân chúng chống Đức xâm lược . Lenin viết Tiểu Luận Tháng Tư ( April Theses) gọi ông là bọn "xã hội Sô vanh" ( social chauvinism). Sau Cách mạng tháng 10, ông phải bỏ nước ra đi vì không chịu đựng nổi bọn Lenin.Ông chết tại Phần Lan vì bệnh lao.

Sau đó phong trào cách mạng Nga do Julius Martov hay L. Martov (1873-1923) lãnh đạo. Ông sinh tại Istanbul , lãnh tụ phái Mensheviks trong thế kỷ XX tại Nga. Ông bị Nga hoàng bắt lưu vong, ông gia nhập đảng Lao Động Dân Chủ Xã hội Nga (Russian Social Democratic Labour Party (RSDLP). Tại đại hội 1903, ông tranh luận với Lenin. Lenin muốn tổ chức đảng phải chặt chẽ, Martov chủ trương rộng rãi.Trong khi đại hội bỏ phiếu thì ý kiến của Martov được đa số phiếu. Lenin tức giận tổ chức một nhóm riêng và tự xưng là nhóm đa số (Bolsheviks), và gọi nhóm Martov là nhóm thiểu số
(Mensheviks).

Sự thực thì nhóm của Martov luôn chiếm đa số. Ông cùng các ông George Plekhanov, Fedor Dan, Irakli Tsereteli, Leon Trotsky trở thành lãnh tụ nhóm đối lập với Lenin. Trotsky sau lại theo Lenin. Năm 1911 ông viết quyển Cứu giúp hay Phá hoại? Ai Phá hoại đảng Lao Động Dân chủ Xã Hội Nga? Họ làm như thế nào? (Saviours or destroyers? Who destroyed the RSDLP and how) tố cáo nhóm Lenin phá hoại đảng Lao Động Dân Chủ Xã hội Nga. Tác phẩm này làm cho Lenin và Kautsky tức giận .

Sau khi cướp chính quyền trong tháng 10-1917, Lenin tự hào là cách mạng đã  thành công. Ông cho rằng cuộc bạo loan tháng 10-1917 của ông cũng thành công như cách mạng châu Âu. và ông cũng tự hào  đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng [8]. Nhưng liền sau đó những người ủng hộ đế chế Nga  đã chống Bolsheviks , tạo thành cuộc nội chiến từ ngày 7 tháng 11 (25 tháng 10) năm 1917 đến tháng 10 năm 1922 .Trong cộng đảng của Lenin cũng phân hóa thành nhiều hạng, một số chống đối Lenin.

Sau khi cướp chính quyền, Lenin ra sắc lệnh về hòa bình [16] để tỏ ra cộng sản yêu hòa bình. Cũng trong năm 1917, Lenin tuyên bố rằng chủ nghĩa cộng sản chủ trương gỉải trừ binh bị. Không có chiến tranh trong chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi chống đối dùng vũ khí. Chúng tôi chống đối  dùng bạo lực [9]

Thời trước, ông chỉ trích Nga hoàng dùng nhiều quân đội và lực lượng an ninh cho nên phải hủy bỏ" [10], nhưng khi ông vừa lên cầm quyền thì hô hào tổ chức quân đội [10b]. Ông tuyên bố Chủ nghĩa cộng sản không thể áp đặt bằng vũ lực"[11] nhưng sự thực ông đã áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên nước Nga và thế giới. Ông áp đặt bằng   lý luận khi ông cho rằng  loài người có thể tiến lên cộng sản chủ nghĩa mà bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Ông áp đặt bằng vũ lực khi ông chống đối phe Martov và tự vỗ ngực  xưng phe ông  là   phe đa số ( Bolshéviks). 

Ông ra lệnh bọn Cheka và Hồng quân tàn sát những ai chống đối ông trong đó có phe Martov, tôn giáo và nông dân. Lenin căm thù nhiều giai tầng xã hội, mà đứng đầu là phe Martov chủ trương dân chủ. Ông tàn sát họ nhưng năm 1917, ông vẫn tỏ ra nhân đạo, đoàn kết. Ông tuyên bố ông muốn họ hợp tác với ông, nhưng cũng trong bài đó, ông muốn họ phục tòng phe ông, đầu hàng ông [12].

Sau phe hữu của Martov, Lenin căm thù Kulaks, ra lệnh giết hại và đày ải  họ. Kulaks là  những  nông dân vùng Ukraine, Họ trở nên khá giả chút đỉnh nhờ cuộc cải cách  Stolypin năm  1906 . Sau khi Stalin ra lệnh tập thể hóa nông nghiệp và thu mua nông phẩm, những nông dân có từ hai con trâu, vài sào ruộng bị ghép là Kulaks tức là trung nông. Lenin cho rằng Nga có ba triệu trung nông, còn hai triệu Kulak là  nhà giàu và ra lệnh tàn sát, đày ải Kulaks. Họ bị coi là kẻ thù của bần nông, họ bị Lenin sỉ nhục bằng các tội danh danh từ như bọn hút máu, bọn ma cà rồng, bọn ăn bám, bọn lợi dụng nhân dân,  bọn gây ra nạn đói [13] .

 Tuy ra lệnh tàn sát, đày ải dân Kulaks, Lenin giả bộ nhân đạo, nói rằng  Kukaks là thiểu số nông dân nghèo, là tầng lớp trung đẳng, chính phủ cộng sản không kết tội họ, ai làm trái lệnh này sẽ bị trừng phạt [14] . Đúng là miệng lưỡi gian giảo, và điên cuồng, lúc thì gọi Kulaks là bọn nhà giàu, bóc lột, lúc thì gọi là bần nông, nhưng chính đó là trò giả dối.

Mở đầu cuộc tàn sát là việc cộng sản giết vua Nicholas II  và hoàng gia Nga vào năm 1918. Ấy thế mà cháu gái Lenin là  Olga Ulianova nói: “Bác Volodya làm cách mạng Bolshevic không phải để giết vua Nga. Lenin chỉ muốn thay thế hệ thống tư bản chủ nghĩa ở nước Nga bằng chế độ xã hội chủ nghĩa  [15].

Nhưng trước sự nổi dậy của các tầng lớp nhân dân Nga, Lenin hiện rõ là một hung thần. Ông nói và hành động rất hung bạo và hiếu chiến, không còn che đậy bằng giọng điệu nhân nghĩa, yêu hòa bình. Ông theo chính sách bá đạo, chính sách của Nicolas Machiavel. Ông tuyên bố làm chính trị thì không cần nhân nghĩa [16]
  
 Lenin đã tập hợp những kẻ ác ôn thành một tổ chức gọi là "tinh hoa gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp" [17] Nhóm này trở thành hệ thống Nomenklafura tức là nhóm đặc quyền đặc lợi trong đảng cộng sản Liên Xô  thuộc quyền sai sử của Lenin, Stalin. Nomenklafura  cũng có mặt kháp các đảng cộng sản quốc tế.

Lenin cũng bắt toàn dân, toàn đảng phải  theo cái  gọi là " dân chủ tập trung", nghiã là quyền dân chủ của dân được tập trung vào tay đảng còn dân thì không có quyền này. Trong năm 1917, Lenin lập đoàn công an Cheka, sau này thành KGB. Nhóm công an đặc biệt có nhiệm vụ tàn sát các lực lượng chống đối Lenin. Họ thẳng  thắn tuyên bố về chính sách khủng bố và tàn sát của họ:
“Chúng tôi hiện thân là sự khiếp sợ được tổ chức - điều này cần phải được nói rất rõ ràng - sự khiếp sợ như vậy là rất cần thiết trong điều kiện cuộc sống của chúng ta hiện nay trong thời gian cách mạng.”(Nội chiến Nga-Wikipedia).

Lenin cũng tuyên bố sẽ cấp tốc và bí mật gây khủng bố[18],và phải dùng khủng bố bắn tại chỗ bọn đầu cơ, bọn trộm cướp.. [18b]. Ông nói bắn bọn đầu cơ, bọn trộm cướp nhưng sự thực là ông bắn dân chúng,bắn các nhóm chống cộng sản như hành động của Võ Nguyên Giáp tại Ôn Như hầu, Hà nội. Tại Việt Nam, đội Vũ trang tuyên truyền của Võ Nguyên Giáp chính là hình thức của Cheka. Võ Nguyên Giáp đắc lực trong việc giết hại các thành phần quốc gia như vụ Ôn Như hầu nên được Hồ Chí Minh ban cho chức Đại tướng, trong khi Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn là binh gia chuyên nghiệp, có tài năng hơn Võ Nguyên Giáp.

Từ 1917, dân Nga đã ý thức về hiểm họa cộng sản nên họ đứng về phiá Nga hoàng, lập thành lực lượng Bạch Vệ. Lực lượng này khá đông đảo, gồm nhiều thành phần dân chúng.

(1).Những nhà quý tộc và sĩ quan Nga hoàng.
(2)..Giáo hội. Lenin cướp tài sản nhà thờ, lấy danh nghĩa bài tôn giáo, trừ mê tín, dị đoan.
(3). Phái Mensheviks .Phe Martov (Mensheviks) chống phe Lenin (Bolsheviks) mặc dù họ đều là cộng sản nhưng phe Marov chủ trương ôn hòa.
(4). Nông dân Nga.Nhiều nông dân Nga  như người Cossack mặc dù họ là dân nghèo
Đối tượng thứ tư đó là một bộ phận nông dân Nga, họ bị Hồng quân và Bolsheviks quay nhiễu.
(5). Các dân tộc bị áp bức .Sau khi Nga hoàng sụp đổ, họ muốn tư  trị nhưng bị Lenin chống đối.
(6). Ngoại quốc. Anh Pháp, Nhật, Mỹ,Đức muốn cộng sản suy yếu.
Những lực lượng chống đối Bolshevik, đa số tập trung dưới một ngọn cờ của quân "Bạch Vệ" (Nôi chiến Nga. Wikipedia).

Vì cộng sản phe Lenin đã dụ dỗ công nhân trong vai trò lãnh đạo, lừa đảo nông dân trong việc chia ruộng đất cho nên đông đảo công nông theo Lenin. Phe Lenin dùng mọi thủ đoạn tàn nhẫn khủng bố và tàn sát mọi người. Marx đã trao cho Lenin, Stalin một khẩu súng giết người, đó là đường lối vô sản chuyên chính. Lenin cho rằng đảng cộng sản có quyền chuyên chính nhân dân,kìm kẹp nhân, dân. Đảng cộng sản cầm quyền của quốc gia cho nên Lenin là quốc gia, đảng cộng sản là quốc gia. Chuyên chính vô sản có quyền vô hạn định không bị luật pháp nào ngăn cản [19]. 

Phe bạch vệ và phe Martov bị tiêu diệt vì phe Lenin huy động lực lượng đông đảo vượt trội và thi hành mọi thủ đoạn tàn độc. Có lẽ số phận của nhân loại phải trải qua một giai đoạn bi thảm dưới ách cộng sản ngoại trừ các nước tư bản Âu Mỹ, giai cấp vô sản sáng suốt, không bị cộng sản dụ dỗ và lợi dung.

III. ĐẠI KHỦNG BỐ

Đại khủng bố còn gọi là Đại thanh trừng là một loạt các biện pháp đàn áp tại Liên xô hồi cuối những năm 1930. Sự kiện này liên quan tới một cuộc thanh trừng trên diện rộng với Đảng Cộng sản Liên xô và các quan chức chính phủ, đàn áp các nông dân, các chỉ huy Hồng quân, và những người yêu nước và chính trực. Tính theo tỷ lệ, đa số nạn nhân cuộc Đại thanh trừng là những người Bolsheviks cũ.

Cuộc  đại khai sát giới này vang dội cả thế giới.Ở phương Tây, cuốn sách của Robert Conquest năm 1968 The Great Terror (Nỗi khiếp sợ lớn) đã khiến thuật ngữ này trở nên quen thuộc. Cái tên này lại có nguồn gốc từ giai đoạn khủng bố (tiếng Pháp: la Terreur) trong thời gian Cách mạng Pháp.

Nội chiến Nga là một màn mở đầu cho cuộc đại tàn sát do Lenin khởi xướng trong những năm đầu cuộc bạo loan cướp quyền 1917. Sau  đó khoảng mười năm, Stalin lại mở màn một cuộc tắm máu vĩ đại trong lịch sử nước Nga. Các sử gia quốc tế cũng gọi cuộc đại khủng bố này bằng danh từ "đàn áp"
để làm nhẹ tội ác của Stalin. Điều này cũng cho ta biết các bậc trí thức Âu Mỹ rất kính trọng tên đồ tể Stalin. Họ mà còn thế huống hồ  Hồ Chí Minh, Tố Hữu.  Stalin và đồng bọn thì kết tội các nạn nhân là những kẻ phản cách mạng và kẻ thù của nhân dân.

Cuộc tắm máu này xảy ra do nhiều nguyên nhân.
(1). Tính đa sát, tính ác của người cộng sản kể từ Marx đến Lenin, Stalin, sau truyền đến Mao, Hồ, Pol Pot.
(2).Tâm lý xấu hổ của Stalin.
Stalin được Lenin tin dùng nên cất nhắc làm Tổng bí thư, nhưng sau này Lenin tỉnh ngộ nhận thức được con người thâm hiểm, tàn độc của Stalin nhưng đã quá trễ. Lenin thì bệnh nằm một chỗ, còn Stalin thì  được một số đông trong đảng ủng hộ mặc dầu bọn thủ hạ này cũng bị Stalin thanh toán.
Di chúc của Lenin được vợ ông đọc trước đảng cũng chẳng có tác dung gì, nó chỉ làm cho Stalin xấu hổ trước đảng và nhân dân cho nên ông phải  tỏ ra oai phong, phải trấn áp sự sợ hãi, cơn xấu hổ, nhục nhã tràn ngập lòng ông. Ông nghĩ ông phải  giết người cho đỡ tức, nhất là những kẻ theo Lenin muốn hạ bệ ông.

(3). Thất bại  kinh tế.
Cũng như Mao thất bại kinh tế bị nhân dân oán than, đảng viên cao cấp phê bình, Stalin lấy làm nhục nhã cho nên ông phải ra oai để trừ diệt những kẻ chống đối, để củng cố quyền lực, chống lại phong trào ly khai và chống đối. Đối tượng là các đảng viên cao cấp là những người có thể cướp quyền của ông và các nhóm sắc tộc.

Hầu hết sự chú ý của công chúng tập trung vào cuộc thanh trừng giới lãnh đạo Đảng Cộng sản, cũng như các quan chức chính phủ và các chỉ huy các lực lượng vũ trang, hầu hết đều là các đảng viên cao cấp. Các chiến dịch cũng ảnh hưởng tới nhóm khác của xã hội: giới trí thức, nông dân, và đặc biệt là những người bị coi là "quá giàu với một nông dân" (kulak), và thợ chuyên nghiệp.. Một loạt các chiến dịch của NKVD (cảnh sát mật Liên xô) đã ảnh hưởng tới một số sắc tộc thiểu số, bị buộc tội là các cộng đồng "fifth column". Một số cuộc thanh trừng đã được giải thích chính thức là để loại bỏ những khả năng phá hoại và gián điệp, hầu hết bởi một "Tổ chức Quân đội Ba Lan" tưởng tượng và, sau đó, nhiều nạn nhân của cuộc thanh trừng là những công dân Liên xô gốc Ba Lan bình thường.
Theo bài phát biểu năm 1956 của Nikita Khrushchev, "Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó," và những phát hiện gần đây, một số lượng lớn những lời buộc tội, đáng chú ý nhất là những lời buộc tội tại Các phiên tòa trình diễn ở Moskva, đều dựa trên những lời khai cưỡng ép, thường có được nhờ tra tấn, và việc diễn giải không chính xác Điều 58 (Luật hình sự Liên xô), về những hình phạt dành cho các tội phản cách mạng. Quy trình pháp luật đúng đắn, theo như luật pháp Liên xô có hiệu lực ở thời điểm đó, thường bị thay thế phần lớn bằng những biên bản vắn tắt của các NKVD troika.
Hàng trăm nghìn nạn nhân đã bị buộc nhiều loại tội chính trị khác nhau (tình báo, phá hoại, có tình cảm chống Xô viết, âm mưu chuẩn bị nổi dậy và đảo chính); họ thường bị nhanh chóng hành quyết bằng xử bắn, hay bị gửi tới các trại lao động Gulag. Nhiều người chết trong các trại lao động khổ sai vì đói, bệnh tật, làm việc quá sức. Các biện pháp giết hại nạn nhân cũng được thử nghiệm như phun hơi độc.
Cuộc Đại thanh trừng đã bắt đầu dưới thời lãnh đạo NKVD là Genrikh Yagoda, nhưng đỉnh điểm của những chiến dịch đó diễn ra thời NKVD nằm dưới sự lãnh đạo của Nikolai Yezhov, từ tháng 9 năm 1936 tới tháng 8 năm 1938, vì thế nó có tên Yezhovshchina. Các chiến dịch được tiến hành theo chỉ thị, và thường là những mệnh lệnh trực tiếp, của Bộ chính trị dưới sự lãnh đạo của Stalin.
 Trong thời kỳ đó, việc thực hiện các cuộc bắt giữ hàng loạt, tra tấn và phạt tù hay hành quyết không cần tòa án, đối với bất kỳ kẻ tình nghi nào là chống đối chính quyền Stalin của cảnh sát mật trở thành chuyện thường tình. Chỉ riêng ước tính của NKVD, 681.692 người đã bị bắn chỉ riêng trong khoảng 1937-1938 (mặc dù nhiều nhà sử học nghĩ rằng con số này vẫn còn dưới mức sự thực), và hàng triệu người đã bị chuyển tới các trại lao động Gulag.
Theo các tài liệu Liên Xô được giải mật, trong khoảng thời gian từ năm 1937 tới năm 1938, tổ chức NKVD bắt giữ 1.548.367 nạn nhân, trong đó 681.692 bị xử bắn, trung bình 1.000 vụ hành quyết một ngày. Sử gia Michael Ellman cho rằng ước đoán chính xác nhất về số người chết do cuộc thanh trừng dưới chế độ Xô Viết trong khoảng hai năm đó là chừng 950.000 tới 1,2 triệu người, bao gồm cả những người chết trong trại giam và những người chết ít lâu sau khi được thả từ các trại giam Gulag. Ông cũng cho rằng đó là ước tính mà các sử gia và giáo viên sử học Nga nên sử dụng. Theo "Tổ chức Tưởng niệm"
Trong các cuộc điều tra do Bộ An Ninh NKVD (GUGB NKVD) có: Ít nhất 1.710.000 người bị bắt Ít nhất 1.440.000 người bị kết án Ít nhất 724.000 bị hành quyết, trong số đó: Ít nhất 436.000 người bị kết án tử hình bởi lực lượng troika thuộc NKVD, như một phần chiến dịch Kulak Ít nhất 247.000 người bị kết án tử hình bởi lực lượng Dvoikas thuộc NKVD và Lực lượng đặc nhiệm Troykas như một phần của chiến dịch sắc tộc Ít nhất 41.000 người bị kết án tử hình bởi Tòa án binh Trong số các vụ xử tháng 10 năm 1936 tới tháng 11 năm 1938: Ít nhất 400.000 người bị kết án khổ sai bởi lực lượng cảnh sát Troikas như những Thành phần tệ nạn xã hội (социально-вредный элемент, СВЭ).
Ít nhất 200.000 người bị đi đày hoặc bị trục xuất theo Thủ tục hành chính. Ít nhất 2 triệu người bị kết án bởi các tòa án do phạm các tội dân sự, trong số đó khoảng 800 ngàn người bị kết án vào các trại Gulag. (Đại thanh trừng. Wikipedia)
Đại khai sát giới tại Nga đã thành  đường cao tốc trong thế giới công sản. Mao đã giết may chuụ triệu nhân dân và đồng chí thân cân của Mao trong bước nhảy vọt và trong cuộc cách mạng vô văn hóa . Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ  đã mà sát hại các đồng chí và nhân dân. Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn , Lê Trọng Tấn..là đảng viên cao cấp  đã bị giết hại trong tranh giành ảnh hưởng Nga Hoa và đặc biệt là  chính sách xét lại của Liên Xô.
Qua lịch sử của đảng cộng sản Liên Xô và các nước Trung Quốc, Việt Nam ta thấy:
 +Mensheviks và Bolsheviks đều là Marxist, là cộng sản, nhưng Mensheviks chủ trương ôn hòa, muốn thực thi dân chủ, còn Bolcheviks thuộc phái cực đoan.
+ Lenin ban đầu cũng hoạt động trong Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP; РСДРП trong tiếng Nga). Đây là đảng chung của hai phe Mensheviks và Bolsheviks nhưng từ 1903, Boshevik lập đảng mới tức là Đảng Cộng sản Liên Xô.
+Phe Bolsheviks cướp chính quyền từ chính phủ dân chủ Aleksandr Kerensky  chứ không phải đã lật đổ đế chế Nga. Hồ Chí Minh cũng cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim , một chính phủ mới thành lâp chứ không phải cướp chính quyền từ tay Pháp, Nhật như họ tự quảng cáo.
+ Cùng theo Marx, cùng là cộng sản mà ý kiến khác nhau đi đến tiêu diệt nhau, như vậy chủ nghĩa Marx , cách mạng, lịch sử do ý thức con người chứ không phải do vật chật, kinh tế quyết định, như vậy cách mạng, lịch sử  không phải khách quan, khoa học, và duy vậy lịch sử không thể áp dụng cho khoa học tự nhiên và khoa học xã hội như  người cộng sản khoa trương.
+Chủ nghĩa Marx khởi đầu là chiến tranh nội bộ vì bản chất hung hăng, hiếu chiến của Marx, Lenin, Stalin...Đồng chí còn giết nhau huống hồ không phải là đồng chí.
Những vụ đấu tranh như thế khiến cho các triết gia sau Marx ắt phải thêm vào một cuộc đấu tranh khác là cuộc đấu tranh cùng giai cấp, cùng  đồng chí anh em!
 IV. CHIẾN TRANH

 Nhưng trong những năm cầm quyền, Lenin đã tuôn ra bao lời đe dọa chiến tranh. Ta có thể nói rang với cộng sản đấu tranh có nghĩa là chiến tranh, đi từ đấu tranh giai cấp, cướp chính quyền, gây nội chiến và xuất cảng chiến tranh khắp hoàn cầu.
 Ông quả quyết rằng cách mạng là phải tiêu diệt bọn phản động [20], phải giết hết không chút xót thương những kẻ thù của nhân dân, của xã hội chủ nghĩa, của giới lao động . Phải giết bọn nhà giàu, bọn trí thức trưởng giả, bọn lười biếng... [21].
 Ông nói: "Chúng ta không thể loại trừ khả năng chiến tranh cách mạng, tức là, chiến tranh phát sinh từ việc đấu tranh giai cấp, chiến tranh tiến hành bởi các lớp cách mạng, chiến tranh có ý nghĩa cách mạng trực tiếp và ngay lập tức." [22], cần nội chiến để lật đổ chính quyền [23], chuyển đổi chiến tranh đế quốc thành nội chiến [24].

Với những ý tưởng hiếu chiến, gây chiến tranh để cướp chính quyền, để thủ lợi, Lenin mạnh dạn phát động việc dùng chiến tranh để đàn áp nhân dân trong nước và xuất cảng chiến tranh ra khắp các nơi trên thế giới.

 Trước tiên, lực lượng Nga đã xâm lược các nước lân cận. Khởi đầu là thảm sát Katyn do Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), cảnh sát mật Liên xô, thực hiện vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940. Vụ thảm sát khởi đầu từ đề xuất của L. P. Beriya hành quyết tất cả các sỹ quan Ba Lan, ngày 5 tháng 3 năm 1940. Tài liệu chính thức này đã được Bộ Chính trị, gồm cả lãnh đạo I. V. Stalin, ký và đóng dấu. Số lượng nạn nhân được ước tính khoảng 22.000 người, với con số thấp là 21.768 người.[1]

Các nạn nhân bị giết hại tại Rừng Katyn Nga, các trại tù Kalinin và Kharkiv và những nơi khác. Trong tổng số người bị giết hại, khoảng 8.000 là các sỹ quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong cuộc xâm chiếm Ba Lan của Liên Xô năm 1939, 6.000 người khác là các sỹ quan cảnh sát, số còn lại là những người thuộc giới trí thức Ba Lan bị bắt giữ vì bị coi là các "nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sư, viên chức và thầy tu.
Stalin theo Marx bắt tay với Đức chống tư bản Mỹ trong khi Lenin cũng phục vụ Đức nhưng rồi ông lại tuyên bố  phát xít cũng là một hình thức tư bản. Trong đệ nhị thế chiến,  Stalin kết đồng minh với Đức nhưng bất ngờ bị Đức tấn công vào tháng 6-1941.

Hồng quân thường đã hỗ trợ cho  cảnh sát NKVD, trong việc đàn áp  chính trị quy mô lớn với "kẻ thù giai cấp". Hồng quân cùng NKVD đã canh gác nhà tù Gulag, và tham gia chiến tranh trong thế chiến II. Đối với các nước lân bang, Hồng quân và NKVD đã chiếm đóng và tàn sát nhân dân Đông Âu  chủ yếu là Ba Lan, các nước Baltic, Romania, Ukraine và các bộ phận khác của Liên Xô, Hồng quân sau đó rút lui trước cuộc xâm lược của Đức năm 1941 (Chiến dịch Barbarossa).
Có nhiều báo cáo về việc trả thù của các lực lượng vũ trang của Liên Xô, chống lại tù binh Đức và các binh sĩ không quân Đức từ đầu của chiến tranh, các tài liệu trong hàng ngàn tập tin của Cục tội phạm chiến tranh Wehrmacht, 1939-1945, một văn phòng được thành lập vào tháng Chín năm 1939 đến điều tra các hành vi vi phạm các Công ước Hague và Geneva bởi kẻ thù của Đức.  Các mục tiêu bao gồm các cộng tác viên với Đức và các thành viên của phong trào chống Cộng sản như nghĩa quân Ucraina (UPA) ở Ukraine, Forest Brothers ở Estonia, Latvia và Litva, Ba Lan Armia Krajowa.
Liên Xô triển khai bom khí mù tạt trong cuộc chiến chống Nhật tại vùng Nội Mông. Một số dân thường bị thiệt mạng do bom thông thường trong cuộc chiến tranh.

Sau 1945, Liên Xô xâm chiếm các nước Đông Âu, như đã đem xe tăng xâm chiếm  Hungary (1956)
Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc của Uỷ ban đặc biệt về các vấn đề của Hungary (1957):Xe tăng Liên Xô đã bắn bừa bãi vào mọi ngôi nhà trong tầm bắn.

Liên Xô xâm chiếm Afghanistan (1978–1992).Từ ngày 25 tháng 12 năm 1979 tới 15 tháng 2 năm 1989 tổng cộng 620.000 binh sĩ đã phục vụ trong các lực lượng tại Afghanistan (dù trong từng thời điểm chỉ có từ 80.000-104.000 người tại Afghanistan). Có 525.000 lính trong quân đội, 90.000 lính biên phòng và các đơn vị nhỏ của KGB, 5.000 người thuộc các đội MVD (Bộ nội vụ) và cảnh sát và 21.000 nhân viên khác hoạt động cùng quân đội Liên Xô trong thời gian đó với tư cách nhân viên cổ cồn trắng và phục vụ các công việc chân tay khác.

Tổng cộng số thiệt hại nhân mạng trong các lực lượng vũ trang Liên Xô, quân biên phòng và các lực lượng bộ nội vụ là 14.453 người. Quân đội Liên Xô, các đơn vị thuộc tổng hành dinh mất 13.833 người, các đơn vị nhỏ của KGB 572 người, các đơn vị MVD mất 28 người và các bộ, sở khác mất 20 người. Trong giai đoạn này 417 quân nhân đã mất tích trong khi làm nhiệm vụ hoặc bị bắt làm tù binh; 119 người sau này đã được trả tự do, trong số đó 97 người quay trở về nước, 22 người đi ra nước ngoài. Có 469.685 người ốm và bị thương, trong số đó 53.753 người hay 11,44%, bị thương tật hay chấn động tâm lý và 415.932 người (88,56%) bị ốm.

Lenin và người cộng sản luôn nói đến hòa bình và chống đế quốc xâm lược.Trong bài "
Socialism and War - The Attitude of the Russian Social-Democratic Labour Party Towards the War"[25]. In Reply To Questions Put By Karl Wiegan [26], Lenin công kích Pháp xâm lược Ba Lan, Lỗ Ma Ni và bọn đế quốc, ông tự hào về chính nghĩa của phe cộng sản.

Lenin đã hăng hái tuyên bố rằng người cộng sản luôn luôn kết án các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia, những cuộc chiến tranh man rợ và tàn bạo ,nhưng thực tế Liên Xô, Trung Quốc đã trở thành những đế quốc cộng sản, xâm lược các nước anh em trong hệ thống quốc tế cộng sản. Đệ tam quốc tế chính là tổ chức đầu não của đế quốc Liên Xô. Tổ chức này bắt các đảng cộng sản phải thủ tiêu tinh than quốc gia để trở thành một phần tử của quốc tế cộng sản. Các nhân viên quốc tế III đã nằm tại các quốc gia để chỉ đạo, kiểm soát các đảng như là những quan thái thú hay toàn quyền. Những bộ mặt chống thực dân đế quốc chỉ là mặt nạ bên ngoài nhưng trong đầu óc vẫn là tâm thực dân đế quốc.

Lập trường của ông cũng thay đổi. Tuy thích phát xít Đức, chống Mỹ, ông cũng nói rằng người cộng sản có thể liên minh với các phe khác [27].Sau này Stalin, Mao đều dựa vào Mỹ trong đệ nhị thế chiến.

Trong thế giới, cộng sản là phe hiếu chiến và gian dối. Hòa bình chỉ là tạm thời. Chính cộng sản lợi dung hòa bình để chiếm đất giành dân. Người Mỹ cũng hiểu thế nhưng họ cần một hiệp nghị hòa bình để rút binh, ngoài ra họ không cần quan tâm. Lẽ dĩ nhiên, trên bàn cờ , hy sinh xe mã là chuyện thường, và trên trận địa , hy sinh vài tiểu đoàn, trung đoàn cũng lả chuyện hàng ngày. Còn việc ký kết cũng chỉ là thủ đoạn, ký chưa ráo mực, cộng sản đã vi phạm hiệp định là chuyện đương nhiên trong chế ođ65 cộng sản vì nguyên tác và bản chất cộng sản là tráo trở, dối trá.[

Nói tóm lại, chủ nghĩa cộng sản đưa ra một chương trình vĩ đại về hòa bình, bình đẳng và thịnh vượng nhưng sư thực chủ nghĩa Marx là chủ nghĩa gây chiến tranh, một chủ nghĩa diệt chủng.
Người cộng sản nhân danh chống tư bản nhưng sự thực họ đã trở thành giai cấp mới, giai cấp tư sản đỏ, tham nhũng, gian trá và bóc lột trăm ngàn lần tư bản. Họ nhân danh xây dựng cộng sản chủ nghĩa, nhưng thực tế họ tàn sát nhân dân vô tội và những chiến sĩ dân chủ. Lenin tuyên bố rằng còn tư bản là còn chiến tranh  [28] mà tư bản cho đến nay và mai sau vẫn tồn tại và như vậy nghĩa là cộng sản không bao giờ dứt chiến tranh, dứt tội ác đối với loài người trừ khi nhân dân các nước đào mồ chôn sống cộng sản.

_____

CHÚ THÍCH

[1].  Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã. ..
Trong khi phác ra những nét lớn của các giai đoạn phát triển của giai cấp vô sản, chúng tôi đã nghiên cứu cuộc nội chiến ít nhiều mạng tính chất ngấm ngầm trong xã hội hiện nay cho đến khi cuộc nội chiến ấy nổ bung ra thành cách mạng công khai, mà giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản. (TNCS    I).
[2]. War cannot be abolished unless classes are abolished and Socialism is created.
Lenin, Socialism and War (1915)
 [2b].Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. (TNCS II )
[5]...we cannot rule out the possibility of revolutionary wars, i.e., wars arising from the class struggle, wars waged by revolutionary classes, wars which are of direct and immediate revolutionary significance.V. I.   LeninWar and Revolution. A LECTURE DELIVERED MAY 14 (27), 1917
[6].Convert the imperialist war into civil war.......War cannot be abolished unless classes are abolished and Socialism is created....We fully regard civil wars, i.e., wars waged by the oppressed class against the oppressing class, slaves against slave-owners, serfs against land-owners, and wage-workers against the bourgeoisie, as legitimate, progressive and necessary. Lenin, Socialism and War (1915) .http://marxists.anu.edu.au/archive/lenin/works/1915/s+w/index.htm.
[7]. We say: our aim is to achieve a socialist system of society, which, by eliminating the division of mankind into classes, by eliminating all exploitation of man by man and nation by nation, will inevitably eliminate the very possibility of war. Lenin, War and Revolution (1917)
http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/may/14.htm
[8].Lenin. Soviet power has been won in Russia. From the Central Committee of the Russian Social-Democratic Labour Party (Bolsheviks). To All Party Members And To All The Working Classes Of Russia .     https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/nov/06a.htm
The development, perfection, and strengthening of the bureaucratic and military apparatus proceeded during all the numerous bourgeois revolutions which Europe has witnessed since the fall of feudalism...... Consider what happened in Russia during the six months following February 27, 1917.... The six months between February 27 and August 27, 1917, can be summed up, objectively summed up beyond all dispute, as follows: reforms shelved, distribution of official jobs accomplished and “mistakes” in the distribution corrected by a few redistributions. Lenin. The State and revolution. The Eve of revolution.  http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/staterev/ch02.htm#s2
[9].Disarmament is the ideal of socialism. There will be no wars in socialist society; consequently, disarmament will be achieved. But whoever expects that socialism will be achieved without a social revolution and the dictatorship of the proletariat is not a socialist. Dictatorship is state power based directly on violence. And in the twentieth century — as in the age of civilisation generally — violence means neither a fist nor a club, but troops. To put “disarmament” in the programme is tantamount to making the general declaration: We are opposed to the use of arms. There is as little Marxism in this as there would be if we were to say: We are opposed to violence! "The “Disarmament” Slogan" (October 1916); Collected Works, Vol. 23, p.94-104.
https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1916/sep/00b.htm
[10].Abolition of the police, the army and the bureaucracy.  Vladimir Ilyich Lenin.The Tasks of the Proletariat in the Present Revolution. http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/apr/04.htm
[10b].A standing army and police are the chief instruments of state power. Lenin, State and Revolution (1917).
[11]. Communism cannot be imposed by force. Lenin. Collected Works, Vol. 29, pp. 141–225.Eighth Congress of the R.C.P.(B.) March 18-23, 1919. Report On The Party Programme.March 19.
http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1919/rcp8th/03.htm
[12].We have invited and continue to invite the Left Socialist-Revolutionaries to share power with us. It is not our fault that they have refused. ... We agreed, and still agree, to share power with the minority in the Soviets, provided that minority loyally and honestly undertake to submit to the majority and carry out the programme, approved by the whole Second All-Russia Congress of Soviets, for gradual, but firm and undeviating steps towards socialism.From the Central Committee of the Russian Social-Democratic Labour Party (Bolsheviks). To All Party Members And To All The Working Classes Of Russia .     https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/nov/06a.htm
[13]. Three million must be regarded as middle peasants, while barely two million consist of kulaks, rich peasants, grain profiteers... Ruthless war on the kulaks! Death to them! ... [Class struggle entails] ruthless suppression of the kulaks, those bloodsuckers, vampires, plunderers of the people and profiteers, who batten on famine. As quoted in Comrade Workers, Forward To The Last, Decisive Fight! Collected Works, Vol. 28, pages 53-7. http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1918/aug/x01.htm
[14].But between the kulaks, who are a small minority, and the poor or semi-proletarians there is the section of the middle peasants. The Soviet government has never declared or conducted any struggle against them. Any steps or measures to the contrary must be condemned most vigorously and stopped. The socialist government must pursue a policy of agreement with the middle peasants. "Draft of a Telegram to all Soviets of Deputies Concerning the Worker-Peasant Alliance" (16 August 1918); Collected Works, Vol. 28. http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1918/aug/16.htm
[15]. Marvin Perry, Myrna Chase, Margaret Jacob, James R. Jacob, Theodore H. Von Laue. Western Civilization: Ideas, Politics, and Society: From the 1600s. tr. 738-739. / Vladimir Ilyich Lenin. Wikipedia)
[16]. There are no morals in politics; the is only experience. A scoundrel may be of use because he is a scoundrel” ― Lenin .http://www.brainyquote.com/quotes/authors/v/vladimir_lenin.html
[17]. This struggle must be organised, according to “all the rules of the art”, by people who are professionally engaged in revolutionary activity....The struggle against the political police requires special qualities; it requires professional revolutionaries. And we must see to it, not only that the masses “advance” concrete demands, but that the masses of the workers “advance” an increasing number of such professional revolutionaries. Thus, we have reached the question of the relation between an organisation of professional revolutionaries and the labour movement pure and simple. ...This struggle must be organised, according to “all the rules of the art”, by people who are professionally engaged in revolutionary activity. ....and we will succeed in doing this, because the spontaneously awakening masses will also produce increasing, numbers of “professional revolutionaries” from their own ranks (that is, if we do not take it into our heads to advise the workers to keep on marking time).....a “secret” organisation of this kind, with its central group in each factory, makes it very easy for the gendarmes to carry out raids on a vast scale. . The more secret such an organisation is, the stronger and more widespread will be the confidence in the Party. As we know, in time of war, it is not only of the utmost importance to imbue one’s own army with confidence in its strength, but it is important also to convince the enemy and all neutral elements of this strength; friendly neutrality may sometimes decide the issue.What Is To Be Done?
 http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1901/witbd/iv.htm
[18]. Lenin: It is necessary — secretly and urgently to prepare the terror. And on Tuesday we will decide whether it will be through SNK or otherwise. Memorandum to Nikolay Nikolayevich Krestinsky (3 or 4 September 1918) while recovering from an assassination attempt by Socialist-Revolutionary Fanni Kaplan on 30 August 1918; published in The Mitrokhin Archive: The KGB in Europe and the West (1999) Christopher Andrew and Vasili Mitrokhin, p. 34.
[18b].We can't expect to get anywhere unless we resort to terrorism: speculators must be shot on the spot. Moreover, bandits must be dealt with just as resolutely: they must be shot on the spot. Meeting of the Presidium of the Petrograd Soviet With Delegates From the Food Supply Organisations" (27 January 1918) Collected Works, Vol. 26, p. 501 . http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1918/jan/14.htm
[19].Dictatorship is rule based directly upon force and unrestricted by any laws. The revolutionary dictatorship of the proletariat is rule won and maintained by the use of violence by the proletariat against the bourgeoisie, rule that is unrestricted by any laws.
The Proletarian Revolution and the Renegade Kautsky (1972),p. 11.
https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1918/prrk/common_liberal.htm
Nếu Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo đã đọc qua những lời tuyên bố của Lenin, Stalin về bắt người, giết người không bị pháp luật hạn chế, không cần bằng chứng, không cần xét xử, giết lầm hơn bỏ sót...thì sao họ lại theo cộng sản bất nhân, bạc ác? Nhất là luật sư Nguyễn Mạnh Tường một luật sư tài ba lại đi theo một bọn coi khinh luật pháp? Không lẽ cho đến CCRD 1954 ông mới biết cộng sản xài luật rừng ư?Ôi hai ông đại trí thức của ta thật là chậm hiểu. Nửa đời theo cộng sản, đọc làu thông vạn quyển thư đến 1956 mới mở mắt sao?
[20].A revolutionary class cannot but wish for the defeat of its government in a reactionary war.
Lenin, What Is To Be Done?, “The Primitiveness of the Economists and the Organization of the Revolutionaries” (1901)
[21].Lenin, Socialism and War (1915).No mercy for these enemies of the people, the enemies of socialism, the enemies of the working people! War to the death against the rich and their hangers-on, the bourgeois intellectuals; war on the rogues, the idlers and the rowdies! "How to Organise Competition?" (27 December 1917); Collected Works, Vol. 26, pp. 411, 414
[22]. We cannot rule out the possibility of revolutionary wars, i.e., wars arising from the class struggle, wars waged by revolutionary classes, wars which are of direct and immediate revolutionary significance.War and Revolution.A LECTURE DELIVERED MAY 14 (27), 1917. http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/may/14.htm
[23].In depicting the most general phases of the development of the proletariat, we traced the more or less veiled civil war, raging within existing society, up to the point where that war breaks out into open revolution, and where the violent overthrow of the bourgeoisie lays the foundation for the sway of the proletariat. The State and revolution.
[24].Convert the imperialist war into civil war. Lenin, Chapter I .The Principles of Socialism and the War of 1914–1915The Marxists’ Slogan is the Slogan of Revolutionary Social-Democracy. Socialism and War.http://marxists.anu.edu.au/archive/lenin/works/1915/s+w/ch01.htm#v21fl70h-299
[25].Socialists have always condemned war between nations as barbarous and brutal.... Socialists must explain to the masses that they have no other road of salvation except the revolutionary overthrow of “their” governments, and that advantage must be taken of these governments’ embarrassments in the present war precisely for this purpose. ... Socialists cannot achieve their great aim without fighting against all oppression of nations... The Socialists of oppressed nations must, in their turn, unfailingly fight for the complete (including organisational) unity of the workers of the oppressed and oppressing nationalities. Lenin, Socialism and War (1915)
https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1915/s+w/ch01.htm
we cannot rule out the possibility of revolutionary wars, i.e., wars arising from the class struggle, wars waged by revolutionary classes, wars which are of direct and immediate revolutionary significance.V. I. Lenin. War and Revolution. A LECTURE DELIVERED MAY 14 (27), 1917
 http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1917/staterev/ch02.htm.
[26].  It is very much to be regretted that the French capitalist government is instigating Poland (and presumably Rumania, too) to attack us. In Reply To Questions Put By Karl Wiegan. http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/feb/18a.htm
[27].We stand for an alliance with all countries without exception.
Interviewwith Karl Wiegand (18 February 1920); Collected Works, 4th English Edition, Vol. 3
http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/feb/18a.htm
[27b]. We shall not bind ourselves by treaties. We shall not allow ourselves to be entangled by treaties. We reject all clauses on plunder and violence, but we shall welcome all clauses containing provisions for good-neighbourly relations and all economic agreements; we cannot reject these. Concluding Speech Following the Discussion On the Report of Peace (8 November 1917); Collected Works, Vol. 26
[28].Socialists cannot achieve their great aim without fighting against all oppression of nations.
War cannot be abolished unless classes are abolished and Socialism is created.
Lenin, Socialism and War 1915). http://marxists.anu.edu.au/archive/lenin/works/1915/s+w/index.htm.


VIÊT DZŨNG = THƠ =NGUYỄN PHÚC LIÊN =NGUYỄN QUANG LẬP=PHIÊN TÒA XỬ NICOLAE & CEAUSESCU

XUÂN MAI * VIÊT DZŨNG


 
KHÔNG CÒN ĐÔI NẠNG GỖ
* Thương tiếc Việt Dzũng

Đường anh đi nhẹ tênh, không cần đôi nạng gỗ
Bao nhiêu niềm thương nhớ, bao ước vọng hoài mơ
Anh để lại nguồn thơ cho cuộc đời hiện thực
Trái tim hồng đỏ rực như ánh sáng mặt trời

Anh đi về biển khơi, không cần đôi nạng gỗ
Anh chèo mưa bão tố đi cứu vớt hình hài
Đại dương nào chờ ai? Anh là con sóng biển
Thuyền đi vào miên viễn, anh gọi tiếng bi ai

Cuộc đời bao chông gai, anh vượt qua khốn khó
Con tim buồn trăn trở, đôi nạng gỗ cưu mang
Anh hát lời ca vang, Khúc Da Vàng nhỏ lệ
Lời Kinh Đêm* của Mẹ xoa dịu vết đau thương

Tiếng hát vượt trùng dương trên bước đường hoạn lộ
Dòng đời trăm nhánh trổ nên nước mắt cạn nguồn
"Chút Quà Cho Quê Hương"* bao tình thương nỗi nhớ
Triệu người qua thống khổ, triệu người tim nát tan

Anh ôm đàn tình tang hát ru đêm bất tận
Con tim không thù hận đi gieo rắt tình người
Cuộc đời vẫn nổi trôi, quê hương còn đen tối
Bao năm dài mong mỏi cho đất nước yên vui

Anh không còn đơn côi trên dòng đời bão nổi
Trái tim không mệt mỏi cho khát vọng quê hương
Anh là nguồn yêu thương, tin yêu và hy vọng
Vòng tay anh mở rộng cho đất nước tình người

Anh như làn mây trôi giữa khung trời tĩnh lặng
Không gian buồn sâu lắng trong tiếng gọi tên anh
Bầu trời xanh vẫn xanh, anh yên lành giấc ngủ
Cuộc đời như quá đủ cho giấc mơ một người.

Xuân Mai
* Ca khúc sáng tác của Việt Dzũng

THICH QUẢNG ĐỘ * THANH THANH

 



NHẮN  NHỦ  KHỔ  ĐAU
 
Khổ đau ơi !                                        

thôi đừng hù ta nữa                    

 

ta biết mi lắm rồi                                      

ta đã gặp mi trên khắp nẻo đường đời    

và mỗi lần gặp mi                                       

ta đều mỉm miệng cười                      

và nhìn thẳng mặt mi không hề sợ sệt                    

mi thực sự đáng sợ hơn sự chết                  

nhưng với ta cũng chẳng là chi hết     

đừng mơ tưởng vì sợ mi                         

ta sẽ đổi dời khí tiết                            

để cúi đầu trước bạo lực phi nhân                    

cứ đày đoạ ta đi cho thoả tính hung thần              

ta đã nguyện chẳng tiếc gì chiếc thân mộng huyễn.         

 

Khổ đau ơi !                                        

mi có nghe giữa dòng đời lưu chuyển        

sóng vô thường đang cuồn cuộn thét vang               

đừng tự hào đã đắc thắng vinh quang  

trên xác chết của loài người bất hạnh                     

vì ngu si                                              

mi chẳng biết gì ngoài sức mạnh    

rồi cười vui trên đổ nát điêu tàn                                     

nhạc mi nghe là những tiếng khóc than

 

trà mi nhắp là những giọt lệ tràn

 

và rượu mi say là máu đào tươi thắm

 

màn trướng mi buông là những vành khăn trắng   

của muôn dân đang quằn quại dưới chân mi           

 

nghèo đói theo sau mỗi bước mi đi  

gông cùm xiết chặt nơi nào mi tới   

ánh bình minh trở thành bóng tối

phủ mịt mù mọi lối tương lai                

 

những hài nhi vô tội trong thai              

mi bóp chết dưới chiêu bài nhân mãn.                     

 

Khổ đau ơi !                                        

mi có nghe những tiếng hờn than oán   

 

đang vang lên từ phố thị làng quê 

từ hải đảo đến sơn khê

và tự đáy mồ những oan hồn vưởng vất

                     

 

 

mi biết không ?                                     

chẳng có nơi nào trên mặt đất              

trong hư không hay dưới biển sâu    

sẽ tìm ra chỗ trú ẩn dài lâu              

để mi trốn khi trái sầu đã chín

                     

mà ngày ấy quyết định rồi sẽ đến    

khi loài người bừng tỉnh khỏi cơn mê.                           
          Vũ Đoài đêm Phật Đản Nhâm Tuất
                                                                  (1982)
 
                           THÍCH QUẢNG ĐỘ


 
 
MESSAGE TO MISERY
 
from the Venerable Thích Quảng Độ
 
Hey! Pain!

Do not menace me again!

 

I have known you too well! enough!

I have met you on all my life's roads rough;

and each time I meet you anywhere,

I always smile a smile so fair

and look you straight in the face without dread.

 

Although you really are more awesome than Death,

with me, you are nothing at all.

Do not fancy it, that I fear you, to befall

so that I should damp my righteous zest

to lower my head before you, inhuman pest!

Do continue to persecute me to carry out your plan:

I have pledged not to regret my illusionary life span.

 

Oh, Distress!

Do you hear among the world's moving stream

the swift waves of impermanence's scream?

 

Do not pride yourself being unduly victorious

on the corpses of humans unfortunate but meritorious!

For, grossly stupid and coarse,

you know nothing besides your force,

and then you laugh at devastation and ruin.

 

The music you listen to is lament, bewail, chagrin!

the tea you taste teardrops of the wretch,

 

the wine you sip fresh blood of your victims' fetch,

each curtain you hang like many a mourning headband

of writhing people you trample down and brand!

 

 

Poverty and starvation follow each of your steps,

chains and shackles where you come it schleps;

sunshine becomes obscurity

to cover with darkness all paths to futurity;

 

the naive fetuses, unborn babies, cherubs,

get aborted by you using overpopulation as cover-ups.

 

Oh, Agony!

Do you hear the complaints against your savagery

that are resounding from cities to the countryside,

from islands to mountainous areas nationwide,

and from graves by souls of victims of gross injustice?

 

Are you aware? that on the earth's surface

there will be nowhere

in the deep sea as well as in the thin air

for you to find a long-term shelter thither to scoot

to escape, when is duly ripe every fruit!

 

And that day will definitely come as in a daze

when humanity awakes from this current maze.

 
                  Vũ Đoài Village, on the Buddha's Birthday
                                                   in 1982
            Translation by THANH-THANH
                              (trong “Vietnamese Choice Poems”)
 


 

Monday, December 23, 2013


TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN *DÂN TỘC KẾT ÁN CHÔN VÙI CƠ CHẾ CSVN

PHÁT HIỆN VÀ VIỄN TƯỢNG BẠO ĐỘNG
CỦA QUẦN CHÚNG NỔI DẬY
Bài 09:
DÂN TỘC KẾT ÁN CHÔN VÙI
CƠ CHẾ CSVN
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 19.12.2013
            Các Tòa án của chế độ Cộng sản xử đến mức tử hình không phải là vì CÔNG LÝ:
*          Đối với những cá nhân trong đảng: Đó là vì tranh chấp quyền hành hay quyền lợi giữa những cá nhân hay những nhóm lợi ích. Tỉ dụ: Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình; vụ Bô Chi Lai mới đây; vụ án tử hình chú dượng của Kim Jong Un...
*          Đối với những người ngoài đảng: Việc kết án chỉ là muốn khoá miệng những ai nói lên sự thật về những sai trái, tội ác của đảng. Tòa án Cộng sản bịa đặt ra tất cả những lý do thường phạm như tình dục, trốn thuế... để khóa miệng về chính trị.
Gần đây nhất, ngày 16.12.2013, Tòa án CSVN vừa kêu hai án tử hình về tham nhũng. Dân chúng không có gì xúc động với việc đảng CSVN giết nhau. Riêng chúng tôi cũng vậy, nhưng điều quan tâm của chúng tôi hơn cả mỗi lần có những bản án mà Tòa án CSVN xử những người thuộc về đảng, nhất là về tội tham nhũng, đó là:
-           Dân không cần biết chúng chôn sống nhau như thế nào, mà Dân chỉ cần chúng moi móc ra xem những món ăn bẩn đang cất giấu ở đâu để trả lại cho Dân. Nhưng đây là điều mà chúng giấu lẹm đi cho nhau vì chúng chia chác ăn bẩn với nhau chằng chịt.
-           Dân muốn xử tội chính cái Cơ chế CSVN đã làm phát sinh và tràn lan tham nhũng đến phá sản Kinh tế quốc dân. Phải xử trảm chính cái Cơ chế này để Dân Tộc mới có thể thăng tiến và Đất Nước mới có thể phát triển.
            Chúng tôi sẽ đề cập đến những điểm sau đây nhân hai vụ án tử hình:
=>       Kêu án tử hình hai cá nhân trong vụ Vinalines
=>       Tham nhũng là bẩm sinh mà chính hoàn cảnh tạo môi trường phát triển
=>       Dân Tộc NỔI DẬY lập “Tòa án Nhân dân đích thực“ để kêu án tử hình CSVN
Kêu án tử hình hai cá nhân trong vụ Vinalines
            Xin đọc Bản Tin sau đây:
CS Việt Nam : Tuyên án tử hình 2 cựu quan chức tham nhũng tại Vinalines (RFI)        
Sau hơn hai giờ luận án, chiều ngày 16/12/2013, Tòa án thành phố Hà Nội đã tuyên án tử hình hai bị cáo chính của vụ án tham nhũng tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam Vinalines là Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục hàng hải và Mai Văn Phúc, nguyên Tổng giám đốc Vinalines . Ngoài ra, 8 bị cáo khác của vụ án bị tuyên phạt án tù từ 4 năm đến 22 năm.
Sau hơn một ngày nghị án, hôm nay Hội đồng xét xử đã dành cả buổi chiều để tiến hành tuyên án 10 bị cáo trong vụ " Cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng và Tham ô xảy ra tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam Vinalines".
Bản án được hội đồng xét xử trình bày trong hơn hai tiếng đồng hồ. Cho đến 17h30 tòa tuyên án : Bị cáo Dương Chí Dũng phạm tội « Tham ô tài sản và Cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng ». Tổng hợp hình phạt chung là tử hình. Tương tự với hai tội danh như trên ông Mai Văn Phúc bị cùng mức án tử hình.
Tòa cũng tuyên phạt các bị cáo còn lại của vụ án với mức án từ 4 đến 22 năm tù. Các bị cáo phải bồi thường hơn 300 tỷ đồng, trong đó Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc mỗi người phải bồi thường 110 tỷ đồng.
Trước đó Viện kiểm sát đã đề nghị mức án tử hình đối với hai bị cáo Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc với vai trò chủ mưu. Theo mô tả của truyền thông trong nước, trước giờ bị tuyên án, bị cáo Dương Chí Dũng vẫn « bình thản », trong khi bị cáo Phúc tỏ ra « khá căng thẳng ».
Phiên tòa sơ thẩm bắt đầu từ ngày 12/12/2013, chỉ tập trung vào những hành vi tham nhũng liên quan đến vụ mua bán vòng vèo chiếc ụ nổi 83M cũ nát của công ty AP của Singapore, gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 366 tỷ đồng. Các bị cáo chủ chốt bị buộc tội tham ô vì đã ăn chia 1,66 triệu đô la Mỹ tiền gọi là « lại quả » của công ty AP.
Trong ba ngày xét xử, Dương Chí Dũng Mai Văn Phúc và những bị cáo chính khác của vụ án đều không nhận tội tham ô, phủ nhận khỏan tiền đã chia nhau 1,66 triệu đô la mà bị cáo Trần Hải Sơn, nguyên tổng giám đốc Công ty sửa chữa tàu biển Vinalines đã khai nhận.
Theo hội đồng xét xử bị cáo Dũng và Phúc có vai trò ngang nhau trong việc tham ô, nhưng không thừa nhận hành vi vì thế cần phải áp dụng mức hình phạt cao nhất trong khung hình phạt.”
Tham nhũng là bẩm sinh mà chính hoàn cảnh
tạo môi trường phát triển
            Cách đây một năm rưỡi, ngày 07.06.2012, chúng tôi đã có dịp viết bài với đầu đề THAM NHŨNG LÀ BẨM SINH để phân tích chính cái Cơ chế CSVN mới là tội phạm chính yếu của Tham nhũng, Lãng phí.
Trong Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản khóa XI được tổ chức tại Hà Nội vào đầu tháng 5 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng nói chính yếu về vấn đề tham nhũng. Đó cũng chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất được Ban chấp hành Trung ương đảng thảo luận trong suốt cuộc hội nghị kéo dài đến chín ngày. Trước đây, nhiệm vụ Phòng chống Tham nhũng được giao cho Nguyễn Tấn Dũng (Nhà Nước), nay việc đó được chuyển về chính Bộ Chính trị (Đảng). Khi nói đến việc chống Tham nhũng thì cả người trách nhiệm Đảng cũng như Nhà Nước đều lấy “Tinh thần Cách Mạng “ làm phương tiện để diệt Tham nhũng. Nhìn như vậy thì việc chống Tham nhũng không đi vào thực tế của vấn đề. Thực vậy, “Tinh thần Cách Mạng“ đã chết nghoẻo từ lâu rồi. Đảng (Bộ Chính trị) và Nhà nước (Nguyễn Tấn Dũng), từ thằng trên xuống thằng dưới đều THAM NHŨNG, thì làm thế nào đứng giữ trách nhiệm Phòng Chống Tham nhũng được. Đừng nói đùa để bịp bợm. Hãy vào sự thực căn gnuyên của THAM NHŨNG.
Nhân chi sơ, Tính tham lam
Năm 1964, cách đây gần nửa Thế kỷ, tôi bắt đầu hội nhập đời sống Chính trị Sinh viên tại Sài gòn, chống lại HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC của Bác sĩ Lê Khắc Quyến khởi xướng từ Huế tràn vào Miền Nam. Một Vị lão luyện trong Chính trường đã khuyên tôi: “Khi cậu hoạt động Chính trị, thì phải tránh hai điều: (i) đừng động chạm đến những vấn đề lăng nhăng đàn bà con gái; (ii) đừng liên hệ đến những điều không sáng tỏ về tiền bạc. Khi tránh được hai vấn đề ấy thì quần chúng sẽ tha thứ, cho dù cậu có dốt về Chính trị “.
Ngày nay, suy nghĩ về hai vấn đề này, tôi thấy đây là hai vấn đề thuộc về thể xác từ khi chào đời, nghĩa là thuộc bẩm sinh. Có thể nói là “Nhân chi sơ, tính Dâm dục và Tham lam !”. Cuộc sống thân xác của một con người mang hai tính đó. Freud đã khẳng định rằng mọi hành động của một con người có thể cắt nghĩa từ tính Dâm dục. Tính Dâm dục là sự thỏa mãn thân xác cho xung động ham thích. Còn tính Tham lam của cải vật chất là để trước hết bảo toàn sự sống còn thân xác. Hai tính đó có ngay từ lúc con người mới sinh ra va mang cái xác con người. Khi lớn lên với Giáo dục, từ Văn Hóa đến Tôn Giáo, người ta dậy cho những GIÁ TRỊ thuộc phạm vi Tinh thần nhằm kềm chế hai cái Tính bẩm sinh thuộc Thân xác là Dâm dục và Tham lam vật chất. Vì vậy khi một đảng viên Cộng sản không còn Tinh thần Tôn Giáo, Văn hóa hay Cách Mạng, thì không còn phương tiện kềm chế hai tính bẩm sinh Dâm dục và Tham lam vật chất. Phòng chống Tham nhũng được trách nhiệm bởi Nhà Nước (Nguyễn Tấn Dũng) hay bởi Đảng (Nguyễn Phú Trọng), rồi cả hai lấy “Tinh thần Cách Mạng “ ra để chống, thì đều là chuyện mây gió bịp bợm.
Phải diệt cái Hoàn Cảnh làm
phát sinh và Lan tràn Tính Dân dục và tính Tham lam
Hai cái Tính Dâm dục và Tham lam vật chất thuộc bẩm sinh con người, thì ở Xã hội nào cũng có giống nhau. Điều hệ trọng là Tổ chức Xã hội khả dĩ ngăn chặn sự phát sinh và triển nở hai cái Tính bẩm sinh ấy. Chúng tôi xin kể ra đây một vài tỉ dụ cho thấy rằng phải diệt cái HOÀN CẢNH làm nẩy sinh và phát triển tính Dân dục và tính Tham lam, chứ không phải diệt hai Tính bẩm sinh ấy.
Tỉ dụ thứ nhất về Tính dâm dục. Chúng tôi còn nhớ lại rằng khi sống tu trì trong Chủng viện, mỗi lần gặp khách đến thăm, nhất là phái nữ, thì phải gặp ở Phòng Khách mở cửa sổ quang đãng, mọi người có thể nhìn thấy. Thực vậy, cho dù một Thánh nhân, đã trải qua nhiều năm “diệt dục“, nhưng khi Thánh nhân bị nhốt trong phòng tối cùng với một mỹ nhân, không ai nhìn thấy, thì có ngày lòng Dục bẩm sinh nổi lên và Thánh nhân có thể hú hí với mỹ nhân.
Tỉ dụ thứ hai về Tính Tham lam vật chất. Một người được giáo dục và thực hành Công lý nhiều năm. Nếu lúc này cho người đó Quyền hành độc đoán sinh sát người khác và đặt bên cạnh người ấy một đống vàng, thì có lúc người đó cũng lượm mấy thỏi vàng vào túi làm của riêng bảo đảm cho cuộc sống thân xác của mình. Nếu ai nghi ngờ, thì người có quyền và đã biển thủ vàng sẽ dùng quyền độc tài mà bịt miệng kẻ khác. Điều quan trọng là đã tạo cho con người biển thủ trên đây cái HOÀN CẢNH vừa có quyền độc tài, vừa ngồi bên cạnh đống vàng. Xin nhắc lại rằng ở thời Mao Trạch Đông, quyền độc tài còn mạnh hơn thời nay, nhưng THAM NHŨNG ít hơn vì thời Mao Trạch Đông, không có đống vàng ở bên cạnh mà biển thủ, chứ không phải thời Mao Trạnh Đông được giáo dục về Công lý kỹ càng hơn.
Dứt bỏ Cơ chế CSVN là diệt HOÀN CẢNH làm
nẩy sinh và phát triển THAM NHŨNG
Cơ chế CSVN chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Đó là HOÀN CẢNH làm nẩy sinh tham nhũng, lãng phí. Không cần phải đưa Phòng chống tham nhũng từ Nguyễn Tấn Dũng về cho Nguyễn Phú Trọng. Cả hai đều không chống nổi tính Tham lam bẩm sinh tự con người, mà PHẢI TÁCH RỜI ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ RA KHỎI ĐỘC QUYỀN KINH TẾ thì mới có thể kềm chế được THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ. Nó giống như việc đừng nhốt chung trong Phòng tối một Thánh nhân và một Mỹ nhân, cũng như đừng cho một nhà Độc tài quyền hành Chính trị có toàn quyền về đống Vàng ở bên cạnh.
Chống THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ không phải là diệt tính bẩm sinh THAM LAM VẬT CHẤT của cá nhân, mà là diệt cái HOÀN CẢNH làm phát sinh và tràn lan tinh THAM LAM. Bãi phân là HOÀN CẢNH để nẩy sinh và lan tràn giòi bọ. Giao bãi phân cho Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng săn sóc, thì bãi phân vẫn là bãi phân, nghĩa là vẫn một HOÀN CẢNH, mà giòi bọ vẫn nhung nhúc. Phải HỐT ĐI BÃI PHÂN, thì giòi bọ mới hết chỗ (HOÀN CẢNH) nẩy sinh và lan tràn vậy.
Dân Tộc NỔI DẬY lập
“Tòa án Nhân dân đích thực“
để kêu án tử hình CSVN
            Chúng tôi đã viết về Phiên Tòa mà Liệt sĩ ĐẶNG NGỌC VIẾT can đảm mở ra để kết án và hành quyết tại chỗ kẻ tham nhũng, cướp bóc tài sản của dân.
Ngày 11.09.2013, Ong ĐẶNG NGỌC VIẾT đã dùng chính Trụ sở UBND Thái Bình như một Tòa án để xử tội cướp đất của CSVN. Ong đích thực là người dân và lần đầu tiên chúng tôi thấy đây là “TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÍCH THỰC“. Ong ĐẶNG NGỌC VIẾT là anh hùng, là liệt sĩ ? Chúng tôi mở VIỆT NAM TỰ ĐIỂN của LÊ VĂN ĐỨC và do nhóm LÊ NGỌC TRỤ hiệu đính, xuất bản bởi Nhà sách Khai Trí năm 1970. Tiếng ANH HÙNG được định nghĩa là Bậc tài giỏi xuất chúng. Tiếng LIỆT SĨ được định nghĩa là Người đàn ông biết trọng đại nghĩa, xem thường mạng mình. Để cụ thể hai tiếng LIỆT SĨ, các Soạn giả TỰ ĐIỂN đã lấy ra những Tỉ dụ: Liệt sĩ PHẠM HỒNG THÁI và 72 Liệt sĩ  Hoàng-hoa-cương. Tiện đây, chúng tôi cũng trích câu định nghĩa từ TỰ ĐIỂN cho tiếng LIỆT NỮ: Người đàn bà con gái có tinh thần cao, trọng nghĩa chung, nhẹ tình riêng. Ong ĐẶNG NGỌC VIẾT đã bị bức tử và đã trở thành LIỆT SĨ cho cuộc NỔI DẬY của nhân nhân đích thực ngày nay. Việc làm của Liệt sĩ ĐẶNG NGỌC VIẾT không phải là “Khủng bố“ lén lút, mà là mở ra một  loạt “TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÍCH THỰC “ đường đường chính chính vì những lý do sau đây:
a.         Địa chỉ Tòa án: chính là Trụ sở UBND Thái Bình
b.         Chánh án: Chánh án chính là Liệt sĩ Đặng Ngọc Viết
c.         Cáo trạng: Dân Oan toàn quốc đã làm cho Liệt sĩ trong bao năm nay một Bản Cáo Trạng  minh bạch không ai chối cãi được. Mọi người đều biết tội trạng cướp đất của đảng
d.         Kết án và Hành quyết : Liệt sĩ ĐẶNG NGỌC VIẾT kêu từng tên tội phạm ra theo Cáo trạng của toàn thể Dân Oan toàn quốc và Kết án và Hành quyết tại chỗ ĐÍCH DANH tội nhân. Hành động này khác hẳn với “Khủng bố“ vì Khủng bố giết bừa bãi đàn bà trẻ con không cần biết tên tuổi. Nếu phải gọi là Khủng bố, thì phải gọi những hành động của Việt Công gài mìn ở trường học, ở rạp chiếu bóng, ở chợ búa giết bừa bãi dân chúng, đàn bà, trẻ em ở Miền Nam Việt Nam trước đây.
            Trong năm 2013, Dân Tộc Việt Nam đã cho đảng CSVN một dịp may để hủy bỏ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP và giải quyết vấn đề TƯ HỮU, nhất là đất đai. Nhưng đảng CSVN đã cố tình tái phạm, cho Quốc Hội gật 99.6% ngày 27.11.2013 chấp nhận tiên thiên quyền độc tài toàn trị cho đảng CSVN với  quyền “Chủ đạo Kinh tế “, nghĩa là tái phạm như cũ cái Môi trường Chính trị-Luật pháp (Environnement Politico-Juridique) để đảng CSVN tiếp tục tham nhũng, lãng phí phá sản Kinh tế và gây tha hóa Xã hội.
            Dân Tộc phải NỔI DẬY, như Liệt sĩ ĐẶNG NGỌC VIẾT đã làm, lập TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÍCH THỰC để kết án tử hình chính cái CƠ CHẾ TỘI ÁC CSVN HIỆN HÀNH. Việc kết án này là vì tương lai thăng tiến Dân Tộc và phát triển Kinh tế quốc dân.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 19.12.2013



NGUYỄN QUANG LẬP * NHÚM LÔNG






Nhúm lông  

Nguyễn Quang Lập


Mình về quê hội trường, vừa chui từ quán cà phê ra thì thấy một người đàn bà ngồi trên trên ô tô, tay vẫy miệng gọi, nói Lập ơi! Phải Lập đó không? Thì ra chị L., bạn học lớp 5 thời mình theo ba mình sơ tán lên ở thung lũng Chớp Ri. Chị L. bây giờ xinh xắn trắng trẻo còn hơn cả thời chị 19 tuổi, thật không ngờ. Chị rất ra dáng đại gia, tay đeo vòng ngọc, cổ quàng dây chuyền mỏ neo chừng hai cây vàng ròng, đi con Mẹc mới cứng, oách kinh.
Chị vẫn ngồi trong xe bên tay lái, nói Lập lên xe đi. Thấy mình chần chừ không hiểu chị định đưa mình đi đâu, chị lườm cái cười cái, nói lên xe đi, chị không ăn thịt mày đâu mà lo. Chị nói giọng Bắc ngon xớt, cười có lúm đồng tiền tròn vo làm mình cứ chờn chợn không biết có đúng chị L. thật không hay mình đã lầm. Mình nhớ như in xưa chị không có lúm đồng tiền, nói giọng Cao Lao tiếng nào tiếng nấy méo xệch. Bản tính tò mò, mình leo đại lên xe xem chị đưa mình đi đâu, nói chuyện gì với mình.




Chị đưa mình ra bãi biển Quảng Tùng, tới một nhà hàng khá sang, sát rặng phi lao ven bãi biển. Bà chủ nhà hàng chạy ra, ngực rung bần bật, kéo miệng cười rộng tới mang tai, nói ôi chị, lâu lắm rồi chị mới tới. Xem cung cách biết bà chủ quí hóa chị L. lắm. Nhìn vào nhà hàng thấy nhân viên táo tác hẳn lên, chạy đi chạy lại mặt mày nghiêm trọng cứ y như quan to đến nhà, tự nhiên mình thấy vui vui.



Chị L. học lớp 5 với mình khi chị 19 tuổi, không phải chị đi học muộn, tại chị đúp nhiều quá. Bạn học cùng vào lớp 5 với chị đã tốt nghiệp cấp ba, vào đại học mà chị vẫn đang học lớp 5. Chị đọc thông viết thạo, cộng trừ nhân chia cũng tốt nhưng không sao giải được toán đố và toán nhà lầu, loại toán giản ước của lớp 5. Ngoài ra bất kì môn nào chị cũng không thuộc bài, kiểm tra toàn dưới điểm trung bình. Hồi đó không có chuyện xin điểm mua điểm, bù lại được đúp thoải mái, Chị L. đúp lớp 5 đến sáu năm vẫn được học như thường.


Cô giáo chủ nhiệm phân mình và thằng Quí cùng tổ học tập với chị L. để hai thằng kèm cặp chị cho qua được lớp 5. Chị L. nói chị phải cố học cho xong lớp 5 mới được đi bán cửa hàng hợp tác xã. Ở thung lũng Chớp Ri không có mậu dịch quốc doanh, chỉ có cửa hàng hợp tác xã. Khắp thũng lũng có sáu cửa hàng hợp tác xã, chủ yếu bán vải vóc đường sữa, nước mắm ruốc. Nhân viên bán cửa hàng phải học hết lớp 5, cậu chị làm chủ nhiệm hợp tác xã đã hứa với chị rồi, chừng nào chị học xong lớp 5 sẽ chị cho chị bán cửa hàng. Làm nhân viên cửa hàng khác nào chuột sa chĩnh gạo, chị L. mê lắm, khốn thay chị học mãi không xong lớp 5.


;Học với chị L. sướng nhất trần đời, luôn luôn chị cho ăn uống no nê. Hồi đó chẳng có gì, chỉ hai món khoai xéo, sắn lùi thôi, được ăn no là sướng rồi chẳng mong gì hơn. Thực ra chẳng phải kèm cặp chị. Buổi tối mình và thằng Quí xách cặp đến nhà, chị giao cho hai đứa cái cặp sách của chị và một rá khoai xéo hoặc sắn lùi, nói học giúp chị nha, chị đi đây. Nói rồi chị tót ra khỏi nhà. Tụi mình vừa ăn vừa giải toán, làm bài tập sinh sử địa, soạn văn cho chị xong rồi về, thế thôi, tối nào cũng giống tối nào.

Mình hỏi thằng Quí, nói chị L. đi mô mà tối mô cũng đi rứa hè. Thằng Quí cười khì, nói thằng ni ngu, đi yêu chứ đi mô. Mình hỏi yêu ai, thằng Quí trợn mắt lên, nói oa chà nhiều lắm. Thằng Quí cùng 11 tuổi như mình nhưng khôn hơn rận. Trong khi mình vẫn đinh ninh mẹ đẻ em ở rốn thì nó đã biết người ta đúc em ở đâu, làm thế nào để không có thai. Nó lẻn vào buồng chị L., lấy ra một cái lá to hơn cái quạt mo, nói chị L. đi yêu khi mô cũng mang theo lá ni. Chị lót dưới lưng, rứa là mần chắc thoải mái, không đời mô có nghén. Thằng Quí có nói tên lá nhưng lâu ngày mình quên mất. Sau này vào lính lên Sơn La gặp một ông người Thái, mình có hỏi ông cái lá ấy, ông xác nhận là có. Mình hỏi tên lá, ông giả bộ lắc đầu không biết, nói lá ấy chỉ đàn bà biết thôi, đàn ông không được biết.





Mình rủ thằng Quí đi rình chị L. xem chị yêu ra sao, thằng Quí nhảy lên, nói đúng đúng, có rứa mà quên mất. Tối đó chị ra khỏi nhà là tụi mình bám theo liền. Chị L. đi vòng vèo men rìa thung lũng, lội quá suối Roóc, chui vào hang đá vôi. Hang này rất rộng, nhiều ngõ ngách, tụi mình mò mãi mới tìm được chỗ chị yêu. Hang tối mò chẳng thấy gì, chị nghe chị hức hức và kêu to, ôi sướng quá bọ ơi. Lát sau người đàn ông đi ra, tụi mình ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm bài cho chị. Làm xong rồi vẫn không thấy chị về, thằng Quí rủ mình chạy vào hang đá xem sao. Tới nơi, lại nghe tiếng chị hức hức, lại ôi sướng quá bọ ơi. Nhưng kì lạ, không phải hai cái bóng mà ba cái bóng. Rõ ràng có hai người đàn ông đang yêu chị.

Mình ghé tai thằng Quí, nói răng chị L. yêu một lúc hai người. Thằng Quí chặc lưỡi, nói biết được. Bỗng có tiếng cãi nhau. Chị L. kêu to, nói hai người sáu chục ( đồng), răng lại bốn chục. Người đàn ông nói tụi anh chỉ có chừng đó, em thông cảm. Chị L. rú lên, nói đưa ngay thêm hai chục, đưa ngay. Hai người đàn ông bỏ chạy. Chi L. tru tréo chửi, nói vơ cha tổ tụi bay nời, ăn không l. tao nha. Mình với thằng Quí nhảy ra, nói ê ê tụi em biết chị làm chi rồi nha. Chị L. sững lại, từ từ khụy xuống trước mặt hai đứa mình, nói chị phải làm rứa để nuôi cả nhà, chị lạy hai em đừng nói với ai hết. Chị chắp tay vái tụi mình như tế sao, vừa vái vừa khóc.

Bây giờ chị L. đang ngồi trước mặt mình mặt mày tươi rói,  nói nửa thế kỉ rồi Lập hè, mau thiệt. Chị bỏ giọng Bắc nói nguyên xi tiếng bọ. Mình cười, nói em sợ nhận nhầm chị vì hai cái lúm đồng tiền. Mắt chị sáng lên, nói hai tỉ bạc đó, phải sang tận Ing Liềng mới làm được. Mình cười, nói chị bây giờ còn nói được tiếng Anh, ghê quá. Chị cười to, nói thằng ni khinh chị rứa bay. Tau bây chừ tuyền quan hệ với ông to bà nậy, phải đổi giọng bọ ra giọng Bắc cho nó sang, thỉnh thoảng nhả ra mấy tiếng Ing Liềng cho người ta nể.


Mình nói học hết lớp 5 em về quê, không biết chị làm những gì mà giàu thế. Chị nói chị bán cửa hàng hợp tác xã được 13 năm kiếm được một ít, sau người ta bỏ cửa hàng chị đi buôn trầm, rồi buôn vàng, rồi buôn bán bất động sản. Vốn liếng chừng năm bảy chục tỉ, so với người ta là con tép nhưng chị mãn nguyện lắm rồi. Khởi nghiệp bằng một nhúm lông bây giờ được gọi là bà tỉ phú còn đòi chi nữa.


Chị bóc tôm hùm cho mình ăn, nói nhớ lại chuyện xưa chị cảm ơn em với thằng Quí quá. Hồi đó tụi bay nói ra thì đời chị tàn, không ngóc đầu lên được mô, thiệt đo. Thốt nhiên chị dừng ăn, nhìn mình chằm chằm, nói mi có quen ông Hiệu Minh không. Mình nói có, cũng có gặp anh ấy đôi ba lần. Chị nói hay là mi kể chuyện đó cho ông nớ. Vừa dứt lời chị à một tiếng, nói mà mi biết răng được. Chuyện đó xảy ra mấy năm gần đây. Mình hỏi chuyện gì. Chị cười to, nói chuyện chị tắm với con cháu 10 tuổi.


Nó thấy chị có nhúm lông, nói răng dì có mà con không có. Chị nói lớn lên rồi con cũng có. Nhờ nhúm lông ni mà dì nuôi sống cả nhà đó con. Con cháu liền reo lên, nói a rứa thì con muốn lông mọc đầy cả người con luôn. Kể xong chị lại cười, nói cha tổ cái ông Hiệu Minh, cứ như là ổng núp rình sau nhà tắm chị vậy đó. Xong chị lại cười, đôi gò má đỏ ửng, cặp tuyết lê khép khép mở mở, hai lúm đồng tiền tròn vo rung rung giật giật. Tuổi sáu mươi vẫn còn duyên, tiếng cười vẫn có thể làm đàn ông điêu đứng, thật phục chị quá.


Tối qua Trần Tién gọi mình đến quán Ziều đỏ nhậu chơi. Mình tới nơi bỗng gặp thằng Quí, té ra nó cũng quen Trần Tiến. Mình kể với nó chuyện mình gặp chị L., nói tỉ phú đó nghe đừng có mà đùa, hai đứa mình bây giờ xách dép cho bả không đáng. Thằng Quí nói mày nghe bả nói làm gì mà giàu? Mình nói bả buôn trầm, buôn vàng mà giàu, sau này buôn bán bất động sản càng giàu to. Thằng Quí cười cái hậc, nói đom! Mày lại nghe mồm bả. Mình trợn mắt lên, nói thằng này không tin à bay, bây giờ trong tay bả có mấy dự án, bả quan hệ toàn ông to bà nậy, kinh lắm. Thằng Quí xua tay nhọn mồm, nói đom đom đom! Rồi nó kéo banh tai mình ra, nói nhúm lông nhúm lông đấy… ngu ơi!


BA NGƯỜI VIỆT TẠI THÁI LAN

Trương Quốc Huy trả lời RFA từ trại giam ở Bangkok

Thanh Trúc (RFA) Ba người Việt tị nạn chính trị tại Thái Lan, Trương Quốc Huy, Lê Văn Quang và đặc biệt là Đặng Chí Hùng, mà cảnh sát Thái Lan bắt giữ hôm 12 theo yêu cầu của anh ninh Việt Nam, hiện vẫn bị giam tại IDC Trung Tâm Giam Giữ Quốc Tế ở Bangkok.


An ninh Việt Nam tra hỏi

Qua vài phút có thể nói chuyện với Thanh Trúc từ Trung Tâm Giam Giữ Quốc Tế ở Bangkok, Trương Quốc Huy cho biết anh và Lê Văn Quang không bị nhốt chung với Đặng Chí Hùng. Nội vụ dẫn đến chuyện bị bắt và quá trình hỏi cung được anh thuật lại như sau:
Trương Quốc Huy: Tình trạng của anh Hùng và anh Quang là đang trong thời gian chờ đợi qui chế chính thức của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, còn như Huy thì Huy đã có được quí chế tị nạn chính thức của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc rồi. Đại đa số người tị nạn giống như Huy, anh Lê Văn Quang rồi những người khác thường là hộ chiếu hoặc những giấy tờ tùy thân thường là hết hạn ở Thái, chỉ có mỗi giấy của UNHCR họ cấp cho mình thôi.


Cảnh sát Thái đầu tiên thì họ nói vì lý do mình không trình được giấy tờ hợp lệ thành ra buộc họ phải còng tay mình họ đưa về trung tâm của IDC ở Bangkok. Đến trung tâm rồi thì mới biết được là có sự xuất hiện của đại diện Lãnh Sự Quán Việt Nam và cảnh sát Việt Nam. Họ đem theo cái lệnh để bắt người này tên là Đặng Chí Hùng và còn nhiều tên khác nữa. An ninh Việt Nam và nhân viên của Đại Sứ Quán vào đây là cần hợp tác để đi tìm người này, họ đưa cái hình và hỏi tôi biết người này hay không. Tôi nói là trước đây tôi không biết anh này làm gì bên Thái cả, chỉ biết anh ta ở gần nhà tôi thôi.
Thì cảnh sát Việt Nam, trong đó có một người từng bắt em cách đây 6 năm, anh ta gọi em là “Trương Quốc Huy khỏe không, yêu cầu hợp tác trình báo” . Em nói ở đây là đất nước Thái và tôi không có vi phạm pháp luật gì ở nước này cả, tôi chỉ có đăng ký với UN để tôi được định cư nước thứ ba thôi. Họ hỏi có biết anh Hùng ở đâu không, họ yêu cầu được kiểm tra các số phone trên điện thoại. Cảnh sát Thái kiểm tra số điện thoại, kiểm tra hình ảnh coi có hình của anh Hùng trong đó hay không, nhưng mà có sự chứng kiến của hai người bị bắt là em và anh Lê Văn Quang.
Sau đó thì cơ quan an ninh Việt Nam cũng nói là có khả năng dẫn mấy người này về Việt Nam. Họ nói chuyện với nhau cho mình nghe thấy như vậy.
Thanh Trúc: Khi nghe như thế thì cảm giác của Trương Quốc Huy lúc đó thế nào?
Trương Quốc Huy: Bên phía Thái Lan thì họ chỉ nói cái này là làm theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Còn bên phía an ninh Việt Nam thì họ nói theo kiểu hăm dọa, nói dù ở bên này họ vẫn có thể dẫn mình về Việt Nam được. Em cũng có cãi lại, em nói tôi có làm gì đâu mà các anh phải dẫn tôi về Việt Nam, tôi không phải là tội phạm. Lúc đó thật ra thì cái cảm giác cũng lo sợ mặc dù không nói ra, không biết là nó như thế nào.
Thanh Trúc: Rồi sau đó bằng cách nào mà Trương Quốc Huy biết Đặng Chí Hùng đã bị bắt?
Trương Quốc Huy: Đến buổi chiều cảnh sát Thái đưa em và anh Lê Văn Quang vào phòng tạm giữ. Đến sáng hôm sau, 3 nhân viên an ninh của Việt Nam đi vào trong trại giam. Khi mở cửa ra thì đầu tiên nhất là thấy anh Hùng xuất hiện ngoài sân tại trước đây có gặp mặt anh rồi. Họ đưa anh qua một cái bàn làm việc riêng tức một cái chỗ thăm gặp bình thường trong Trung Tâm Tạm Giữ Người Nước Ngoài. Sau đó, họ đưa Huy với anh Lê Văn Quang ra, cảnh sát Thái nói là có nhân viên của Việt Nam muốn nói chuyện với các anh về các vấn đề liên quan. Ra ngoài bàn thì mới nhìn thấy và mới biết anh Hùng cũng bị bắt vào buổi chiều ngày hôm đó.
Khi làm việc, nhân viên an ninh của Việt Nam để một tờ gi61y và một cây viết lên bàn, nói là chính phủ Việt Nam dư sức đưa các anh về Việt Nam, thì chiều này các anh ra tòa để xử cái tội cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan mà nếu các anh có nguyện vọng muốn về Việt Nam hoặc muốn ở đây để chờ đi nước thứ ba thì các anh phải viết tờ giấy này cho tụi tôi và nếu có gì tụi tôi giúp đỡ cho các anh đóng tiền phạt.
Họ yêu cầu viết ở trên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, Đơn Thỉnh Nguyện. Họ bắt Huy với anh Quang hai người ra hai góc khác nhau, kêu là viết đi. Huy từ chối không viết, bởi việc đưa tôi về hay giữ tôi ở đây là chuyện của UN Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tôi không cần phải viết cái này. Nếu tôi viết thì tôi yêu cầu gặp luật sư, và các anh làm việc theo theo trình tự nào phải báo cho tôi biết.Buổi làm việc hôm any là buổi các anh thăm chúng tôi hay các anh thẩm cung, mà nếu thẩm cung thì không phải chỗ này tại vì chỗ này là chỗ thăm gặp.
Sau khi tôi từ chối không viết thì anh ta nói cái này tùy các anh thôi, tụi tôi muốn giúp đỡ các anh. Thế là họ cất tờ giấy và cây viết đi.

Thanh Trúc: Đó là phần Trương Quốc Huy và Lê Văn Quang, còn anh Đặng Chí Hùng thì như thế nào?
Trương Quốc Huy: Anh Đặng Chí Hùng thì họ đưa giấy ra, nói đây là cái lệnh truy nã đỏ, nói có thể dẫn độ Đặng Chí Hùng về Việt Nam. Đó là lời anh Hùng kể lại cho tụi tôi, tức là khi anh làm việc với nhân viên an ninh từ Việt Nam sang đó.
Thanh Trúc: Sau khi mà Trương Quốc Huy và Lê Văn Quang từ chối không viết đơn thỉnh nguyện thì phía an ninh Việt Nam giải quyết như thế nào?
Trương Quốc Huy: Đến buổi chiều ngày hôm đó thì phía Thái Lan thông báo với em là Trương Quốc Huy, anh Lê Văn Quang và anh Đặng Chí Hùng, tức là 3 người phải chịu ra tòa, phải chịu phạt hành chính về cài lỗi đã định cư bất hợp pháp tại Thái Lan. Họ cho 3 người đi chung ra ngoài tòa, họ xử phạt và yêu cầu mỗi người đóng 6.000 baht, tương đương 200 đô la, thế cho việc phải ở tù 48 ngày.
Thanh Trúc: Ngay lúc đang nói chuyện với Thanh Trúc đây thì tình trạng của Trương Quốc Huy, Lê Văn Quang, Đặng Chí Hùng như thế nào?
Trương Quốc Huy: Hiện tại thì anh Lê Văn Quang với tôi ở chung phòng dành cho những người nước ngoài mà chờ đợi bị trục xuất về nước hoặc đi nước thứ ba hay là cái gì đó thì họ tạm giữ ở trung tâm này. Anh Hùng thì ở một phòng khác nhưng tất cả 3 vẫn còn trong Trung Tâm Giam Giữ Người Nước Ngoài của Thái Lan tức IDC.

Thanh Trúc: Theo Trương Quốc Huy thì Đặng Chí Hùng bị truy nã về tội gì?
Trương Quốc Huy: Theo người cảnh sát Thái thuật lại thì với công hàm của bên Đại Sứ Quán Việt Nam và nhân viên an ninh Việt Nam thì anh Đặng Chí Hùng bị truy nã vì có liên quan đến các gian lận tài chính. Nhưng mà không biết bên phía Việt Nam họ gọi là gì bởi vì tôi không được đọc tờ giấy đó, tôi chỉ có được nhìn cái hình thôi.
Thanh Trúc: Thực Tế, theo Trương Quốc Huy, vấn đề Đặng Chí Hùng gian lận tài chính có xác thực không?
Trương Quốc Huy: Theo quan điểm của tôi, đây là họ muốn hạn chế những người bất đồng chính kiến của Việt Nam ở bên này, họ cho là những người này chống phá thành ra họ muốn có một việc gì đó để họ giam giữ tất cả mọi người lại.

Thanh Trúc: Trương Quốc Huy có biết ở bên ngoài những tổ chức nào hoặc cá nhân nào mà tìm cách giúp đỡ can thiệp cho trường hợp của Trương Quốc Huy, Lê Văn Quang và Đặng Chí Hùng hay không?
Trương Quốc Huy: Ở trong IDC có đầy đủ các văn phòng của các tổ chức, chẳng hạn văn phòng JRS, một đối tác của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Thái. Họ cũng tiến hành giúp đỡ về vấn đề pháp lý, về vấn đề định cư nước thứ ba hoặc tình trạng giam giữ trong IDC này như thế nào. Rồi có cả văn phòng của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ở trong này thì họ cũng phỏng vấn và những việc tiến hành về hồ sơ cũng đi theo đúng trình tự.
Thanh Trúc: Riêng cá nhân anh Đặng Chí Hùng thì có giống trường hợp Trương Quốc Huy và Lê Văn Quang không?
Trương Quốc Huy: Vì chưa có gặp được anh Hùng trực tiếp để nói chuyện thành ra cũng chưa biết được.
Thanh Trúc: Xin cám on thời giờ của anh, cầu chúc Trương Quốc Huy, Lê Văn Quang, Đặng Chí Hùng mọi điều tốt lành.

BIÊN BẢN PHIÊN TÒA XỬ NICOLAE & CEAUSESCU

Toàn văn biên bản “phiên tòa” xử kín Nicolae và Elena Ceausescu vào ngày 24 tháng 12, 1989 * Transcript of the closed "trial" of Nicolae and Elena Ceausescu, December, 1989

Chnm.gmu.edu/Trần Quốc Việt dịch (Danlambao) - Sau đây là biên bản phiên tòa xử kín nhà độc tài Romania Nicolae Ceausescu và vợ, Elena được ghi lại từ buổi phát hình của đài truyền hình Romania và đài truyền hình Áo. Bản dịch tiếng Anh của Sở Thông tin Phát thanh Ngoại quốc của chính phủ Hoa Kỳ. Những phần in nghiêng là bình luận của đài truyền hình Áo. 

NICOLAE CEAUSESCU: Tôi chỉ công nhận Quốc Hội Tối Cao. Tôi sẽ chỉ nói trước Quốc Hội. 
KIỂM SÁT VIÊN: Như trước đây bị cáo không chịu đối thoại với nhân dân, bây giờ bị cáo cũng không chịu nói chuyện với chúng ta. Bị cáo đã luôn luôn tuyên bố hành động và phát biểu nhân danh nhân dân, và là người con yêu quý của nhân dân, nhưng suốt thời gian qua bị cáo chỉ cai trị nhân dân một cách độc đoán và tàn ác. Bị cáo bị truy tố về tội đã tổ chức những buổi liên hoan rất xa xỉ tại nhà bị cáo vào tất cả những ngày lễ. Thông tin cụ thể về những cuộc liên hoan này giờ mới được biết. Hai bị cáo này đã kiếm được những thực phẩm và áo quần xa xỉ nhất từ nước ngoài. Họ còn tàn tệ hơn vua, cựu hoàng của Romania. Nhân dân mỗi ngày chỉ nhận được 200 gam cho mỗi chứng minh nhân dân. Hai bị cáo này đã cướp bóc nhân dân, thế mà hôm nay họ cũng chẳng muốn nói. Họ là những kẻ hèn nhát. Chúng tôi có các hồ sơ về cả hai bị cáo. 
KIỂM SÁT VIÊN TRƯỞNG: Kính thưa chủ tọa phiên tòa, hôm nay chúng ta phải thông qua bản án dành cho các bị cáo. Nicolae Ceausescu và Elena Ceausescu đã phạm những tội sau: những tội ác đối với nhân dân. Họ thực hiện những hành động mà trái với nhân phẩm và đạo lý xã hội; họ hành động một cách tàn bạo và côn đồ; họ tiêu diệt những người mà họ tuyên bố là dưới sự lãnh đạo của họ. Vì những tội ác chống lại nhân dân, thay mặt những nạn nhân của hai bạo chúa này, tôi xin tòa kết án tử hình hai bị cáo. Bản cáo trạng gồm có những điểm sau: Diệt chủng, theo Điều 356 của bộ luật hình sự. Hai: tấn công có vũ trang vào nhân dân và quyền lực nhà nước, theo Điều 163 của bộ luật hình sự. Phá hủy các tòa nhà và các cơ quan nhà nước, phá hoại nền kinh tế quốc gia, theo các Điều 165 và 145 của bộ luật hình sự. Họ cản trở quá trình kinh tế bình thường. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo nghe rõ tội chưa? Bị cáo có hiểu những tội này không? 
CEAUSESCU: Tôi không trả lời, tôi chỉ sẽ trả lời những câu hỏi trước Quốc Hội Tối Cao. Tôi không công nhận tòa án này. Những tội này không đúng, và tôi sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào ở đây. 
KIỂM SÁT VIÊN: Xin tòa lưu ý: Bị cáo không thừa nhận những điểm được đề cập đến trong bản cáo trạng. 
CEAUSESCU: Tôi sẽ không ký bất kỳ cái gì. 
KIỂM SÁT VIÊN: Hoàn cảnh hiện nay mọi người đều rõ. Cả thế giới đều biết đến hoàn cảnh thảm họa của đất nước. Tất cả các công dân lương thiện lao động cần cù ở đây cho tới ngày 22 tháng Mười Hai đều biết chúng ta không có thuốc men, hai bị cáo đã giết trẻ em và những người khác bằng cách này, không có gì ăn, không sưởi ấm, không điện. 
Elena và Nicolae bác bỏ điều này. Câu hỏi khác cho Ceausescu: Ai ra lệnh tàn sát dân ở Timisoara. Ceausescu từ chối trả lời. 
KIỂM SÁT VIÊN: Ai ra lệnh bắn ở Bucharest chẳng hạn? 
CEAUSESCU: Tôi không trả lời. 
KIỂM SÁT VIÊN: Ai ra lệnh bắn vào đám đông? Hãy nói cho chúng tôi biết! 
Vào lúc ấy Elena nói với Nicolae: Quên bọn họ đi. Ông thấy đấy, nói với những người này chả ích gì. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo biết gì về lệnh bắn không? 
Nicolae biểu lộ vẻ kinh ngạc. 

Bắn giết hiện vẫn đang diễn ra, kiểm sát viên nói. Những kẻ cuồng tín mà bị cáo đang trả tiền. Họ đang bắn vào trẻ em; họ đang bắn bừa bãi vào nhà dân. Những kẻ cuồng tín này là những ai? Họ có phải là dân chúng, hay ai đang trả tiền cho họ? 
CEAUSESCU: Tôi sẽ không trả lời. Tôi sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Không có phát súng nào bắn ở Quảng trường Hoàng cung. Không có phát súng nào. Không có ai bị bắn. 
KIỂM SÁT VIÊN: Đến bây giờ đã có 34 người thương vong. 
Elena nói: Xem kìa, như thế mà họ gọi là diệt chủng. 
KIỂM SÁT VIÊN: Tại tất cả thủ phủ quận, mà ông gọi một cách trang trọng là các đô thị, bắn giết vẫn đang diễn ra. Nhân dân đã là những nô lệ. Toàn bộ giới trí thức của đất nước đã bỏ trốn. Không ai còn nuốn làm gì cho bị cáo. 
MỘT NGƯỜI KHÔNG RÕ DANH TÍNH NÓI: Thưa chủ tọa phiên tòa, tôi muốn biết một điều: bị cáo nên cho chúng ta biết những tên lính đánh thuê ấy là ai. Ai trả tiền cho họ? Và ai đã đưa họ vào nước ta? 
KIỂM SÁT VIÊN: Vâng, Bị cáo, hãy trả lời. 
CEAUSESCU: Tôi sẽ không nói gì thêm. Tôi chỉ sẽ nói ở Quốc Hội Tối Cao. 
Elena nói thầm hoài với chồng. Vì vậy, kiểm sát viên nói: Elena hay nói nhiều, nhưng bà chẳng biết gì nhiều. Tôi nhận thấy bà thậm chí cũng chẳng biết đọc cho đúng nữa, nhưng bà xưng là tốt nghiệp đại học. Elena đáp trả: Những trí thức nước này nên nghe ông nói, ông và các đồng nghiệp của ông. Kiểm sát viên nêu ra tất cả các chức danh học vị mà bà tuyên bố có. 
ELENA CEAUSESCU: Trí thức nước này sẽ nghe thì nghe vậy chứ chẳng tin những gì ông tố cáo chúng tôi. 
KIỂM SÁT VIÊN: Nicolae Ceausescu nên nói cho chúng tôi biết tại sao bị cáo không trả lời các câu hỏi của chúng tôi. Điều gì khiến ông không trả lời. 
CEAUSESCU: Tôi sẽ trả lời bất kỳ câu hỏi nào, nhưng chỉ trả lời ở Quốc Hội Tối Cao, trước các đại biểu của giai cấp công nhân. Hãy nói cho nhân dân biết rằng tôi sẽ trả lời tất cả các câu hỏi của họ. Toàn thế giới nên biết chuyện gì đang xảy ra ở đây. Tôi chỉ công nhận giai cấp công nhân và Quốc Hội Tối Cao--ngoài ra tôi không công nhận bất kỳ ai. 
Kiểm sát viên nói: Thế giới đã biết chuyện gì đã xảy ra ở đây. 

Tôi sẽ không trả lời các ông những kẻ đảo chính, Ceausescu nói. 
KIỂM SÁT VIÊN: Quốc Hội Tối Cao đã bị giải tán. 
CEAUSESCU: không thể nào có chuyện này được. Không có ai có thể giải tán Quốc Hội. 
KIỂM SÁT VIÊN: Chúng tôi hiện nay có cơ quan lãnh đạo khác. Mặt trận Cứu nguy Dân tộc hiện nay là tổ chức tối cao. 
CEAUSESCU: Chẳng ai công nhận tổ chức ấy. Vì thế nhân dân đang chiến đấu trên khắp cả nước. Bè lũ này sẽ bị tiêu diệt. Bọn họ đã tổ chức cuộc đảo chánh. 
KIỂM SÁT VIÊN: Nhân dân đang chiến đấu chống lại bị cáo, chứ không chống lại diễn đàn mới. 
CEAUSESCU: Không, nhân dân đang chiến đấu cho tự do và chiến đấu chống lại diễn đàn mới ấy. Tôi không công nhận tòa án này. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo nghĩ tại sao ngày nay nhân dân đang chiến đấu? Bị cáo nghĩ gì? 
Ceausescu trả lời: Như tôi mới nói trước đây, nhân dân đang chiến đấu cho tự do của họ và chiến đấu chống lại cuộc đảo chánh này, chống lại sự tiếm đoạt quyền lực này. Ceausescu tuyên bố nước ngoài đã tổ chức cuộc đảo chánh. 
CEAUSESCU: Tôi không công nhận tòa án này. Tôi sẽ không trả lời nữa. Tôi bây giờ nói với ông với tư cách một công dân bình thường, và tôi hy vọng ông sẽ nói sự thật. Tôi hy vọng ông cũng không hoạt động cho những kẻ ở nước ngoài để phá hoại Romania. 
Kiểm sát viên yêu cầu luật sư biện hộ hỏi Ceausescu có biết ông ta không còn là chủ tịch nước, và Elena Ceausescu cũng đã mất tất cả các chức vụ nhà nước chính thức và chính phủ đã bị giải tán. 

Kiểm sát viên muốn biết phiên tòa có thể tiếp tục diễn ra trên cơ sở nào. Tòa phải giải thích rõ ràng là Ceausescu muốn trả lời, nên trả lời, phải trả lời hay có thể trả lời. Hiện nay tình trạng này rất không rõ ràng 

Bây giờ luật sư biện hộ, do tòa án chỉ định, hỏi Nicolae Ceausescu và Elena Ceausescu rằng họ có biết những điều đã được đề cập đến trước đây--như ông không còn là chủ tịch nước, và bà đã mất tất cả các chức vụ chính thức. Ceausescu đáp: Tôi là chủ tịch nước Romania, và tôi là tổng tư lệnh tối cao của quân đội Romania. Không ai có thể tước các chức vụ này của tôi. 
KIỂM SÁT VIÊN: Nhưng không phải quân đội của chúng tôi, ông không phải là tổng tư lệnh tối cao của quân đội chúng tôi. 
CEAUSESCU: Tôi không công nhận ông. Tôi đang nói với ông ít ra với tư cách công dân bình thường, với tư cách công dân bình thường tôi cho ông biết: tôi là chủ tịch nước Romania. 
KIỂM SÁT VIÊN: Vậy hiện nay ông thật sư có tư cách gì? 
CEAUSESCU: Tôi lặp lại: tôi là chủ tịch nước Romania và là tổng tư lệnh tối cao quân đội Romania. Tôi là chủ tịch của nhân dân. Tôi sẽ không nói với các ông những kẻ khiêu khích nữa, và tôi sẽ không nói với những kẻ tổ chức cuộc đảo chánh và với những tên lính đánh thuê. Tôi không có liên hệ gì đến họ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Có, nhưng ông đang trả lương cho những tên lính đánh thuê ấy. 
Không, không Ceausescu nói. Và Elena nói: Thật chẳng thể nào tin được là họ đang bịa đặt, chẳng thể nào tin được. 
KIỂM SÁT VIÊN: Xin tòa lưu ý: Ceausescu không công nhận cấu trúc chính quyền hợp pháp mới của quốc gia. Bị cáo vẫn còn coi mình là chủ tịch nước và là tổng tư lệnh tối cao của quân đội. 
Tại sao bị cáo đã tàn phá đất nước nặng nề: tại sao bị cáo xuất khẩu tất cả mọi thứ? Tại sao bị cáo lại khiến cho nông dân lâm vào cảnh đói kém. Nông sản nông dân trồng bị xuất khẩu, và nông dân từ các tỉnh xa xăm nhất phải lặn lội đến Bucharest và đến các thành phố khác để mua bánh mỳ. Họ trồng trọt theo đúng những mệnh lệnh của bị cáo nhưng chẳng có gì ăn. Tại sao bị cáo bỏ đói nhân dân? 
CEAUSESCU: Tôi sẽ không trả lời câu hỏi này. Là công dân bình thường, tôi cho biết như sau: lần đầu tiên tôi đã bảo đảm rằng tất cả nông dân đều nhận 200 kí lô lúa mì cho mỗi người, không phải cho mỗi gia đình, và họ có quyền nhận hơn thế. Thật là láo khoét khi nói tôi đã bỏ đói nhân dân.Nói láo, dám nói láo ngay trước mặt tôi.Láo như thế này thì chả có yêu nước gì đâu, mà chỉ phạm thêm những tội phản quốc. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo tuyên bố đã thực hiện những biện pháp để cho tất cả nông dân có 200 kí lô lúa mì. Vậy tại sao nông dân mua bánh mỳ ở Bucharest? 
Kiểm sát viên trích dẫn những lời của Ceausescu, những chương trình của Ceausescu. 
KIỂM SÁT VIÊN: Chúng ta có những chương trình tuyệt diệu. Chỉ có giấy tờ mới đủ kiên nhẫn thôi. Tại sao những chương trình của bị cáo không được thực hiện? Bị cáo đã tàn phá làng quê Romania và đất đai Romania. Bị cáo nói gì với tư cách một công dân? 
CEAUSESCU: Với tư cách một công dân, tư cách một công dân bình thường, tôi cho ông biết như sau: chưa lúc nào mà có sự cải thiện nhiều như thế, công trình xây dựng rất nhiều, sức mạnh được củng cố rất nhiều ở các tỉnh Romania. Tôi đảm bảo rằng tất cả các làng đều có trường học, bệnh viện, và bác sĩ. Tôi đã làm tất cả mọi thứ nhằm tạo ra cuộc sống đàng hoàng và khá giả cho nhân dân ở nông thôn, không có nước nào trên thế giới sánh bằng. 
KIỂM SÁT VIÊN: Chúng ta luôn luôn nói về sự bình đẳng. Tất cả chúng ta đều bình đẳng. Mọi người nên được trả theo công sức lao động. Nhưng bây giờ cuối cùng chúng tôi thấy biệt thự của bị cáo trên truyền hình, thấy những dĩa ăn bị cáo dùng đều bằng vàng, thức ăn thì nhập từ nước ngoài, những cuộc liên hoan xa xỉ, thấy những bức ảnh về những cuộc liên hoan xa xỉ của bị cáo. 
ELENA CEAUSESCU: Chẳng thể nào tin được. Chúng tôi sống trong căn hộ bình thường, giống như tất cả các công dân khác. Chúng tôi đã cam đoan theo luật lệ quy định mỗi công dân đều có một căn hộ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo có nhiều cung điện. 
CEAUSESCU: Chúng tôi không có cung điện. Các cung điện đều thuộc về nhân dân. 

Kiểm sát viên đồng ý, nhưng nhấn mạnh rằng các bị cáo sống trong cung điện trong lúc nhân dân đau khổ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Trẻ em thậm chí không thể nào mua kẹo bình thường, còn bị cáo sống trong những cung điện của nhân dân. 
CEAUSESCU: Chẳng lẽ chúng tôi bị buộc các tội như thế? 
KIỂM SÁT VIÊN: Chúng ta bây giờ nói về các tài khoản ở Thụy Sĩ, ông Ceausescu. Cài tài khoản này thế nào? 
ELENA CEAUSESCU: Các tài khoản ở Thụy Sĩ. Hãy cung cấp bằng chứng! 
CEAUSESCU: Chúng tôi không có tài khoản ở Thụy Sĩ. Chẳng có ai mở tài khoản. Điều này lần nữa chứng tỏ rằng các tội trạng đều không đúng. Thật là quá phỉ báng, quá khiêu khích! Đây là cuộc đảo chánh. 
KIỂM SÁT VIÊN: Ông Bị cáo, được rồi, nếu bị cáo không có những tài khoản ở Thụy Sĩ, bị cáo hãy ký vào bản tuyên bố khẳng định rằng tiền bạc mà có thể có ở Thụy Sĩ nên được chuyển giao cho nhà nước Romania, Ngân hàng Nhà nước. 
CEAUSESCU: Chúng tôi sẽ thảo luận vấn đề này trước Quốc Hội Tối Cao. Tôi sẽ không nói bất kỳ điều gì ở đây. Đây là sự khiêu khích thô bỉ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bây giờ bị cáo có ký vào bản tuyên bố hay không? 
CEAUSESCU: Không, không. Tôi không ra tuyên bố gì, và tôi không ký một tuyên bố nào cả. 
KIỂM SÁT VIÊN: Xin tòa lưu ý như sau: Bị cáo từ chối ký vào bản tuyên bố này. Bị cáo không công nhận chúng tôi. Bị Cáo cũng từ chối công nhận diễn đàn mới. 
CEAUSESCU: Tôi không công nhận diễn đàn mới này. 
KIỂM SÁT VIÊN: Như vậy bị cáo biết về diễn đàn mới. Bị cáo có thông tin về diễn đàn. 
Elena và Nicolae Ceausescu tuyên bố: Ông đã nói cho chúng tôi biết về nó. Ông đã nói cho chúng tôi biết về nó ngay ở đây. 
CEAUSESCU: Không ai có thể thay đổi các cấu trúc nhà nước. Điều này không thể nào được. Suốt trong những thế kỷ qua trong lịch sử Romania những kẻ soán đoạt đã bị trừng phạt nặng nề. Không ai có quyền xóa bỏ Quốc Hội Tối Cao. 

Kiểm sát viên quay sang Elena: Là nhà khoa học, bị cáo thông thái hơn và sẵn sàng nói hơn. Bị cáo đã là trợ lý quan trọng nhất, người số hai trong nội các, trong chính phủ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo có biết về vụ diệt chủng ở Timisoara? 
ELENA CEAUSESCU: Diệt chủng nào? Mà thôi, tôi sẽ không trả lời các câu hỏi nữa. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo biết về vụ diệt chủng hay, là nhà hóa học, bị cáo chỉ biết về polymers? Bị cáo, với tư cách nhà khoa học, biết gì về vụ này? 

Đến đây Nicolae Ceausescu liền can thiệp để bảo vệ vợ. 
CEAUSESCU: Các bài viết về khoa học của bà ta đã được đăng ở nước ngoài! 
KIỂM SÁT VIÊN: Elena, ai viết các bài ấy cho bị cáo? 
ELENA CEAUSESCU: Thật quá láo xược! Tôi là hội viên và là chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học. Ông không thể ăn nói với tôi như thế! 
KIỂM SÁT VIÊN: Đúng ra với tư cách phó thủ tướng bị cáo có biết về vụ diệt chủng? 
CEAUSESCU: Bà ta không phải là phó thủ tướng, mà là phó thủ tướng thứ nhất. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo đã làm việc với nhân dân và thực thi chức vụ của mình như thế này sao! Nhưng ai đã ra lệnh bắn? Hãy trả lời câu hỏi này! 
ELENA CEAUSESCU: Tôi sẽ không trả lời. Tôi đã bảo với ông ngay từ đầu là tôi sẽ không trả lời bất kỳ một câu hỏi nào. 
CEAUSESCU: Là viên chức các người nên biết rằng chính quyền không thể nào ra lệnh bắn. Nhưng những kẻ bắn vào những người trẻ là các nhân viên an ninh, những kẻ khủng bố. 
ELENA CEAUSESCU: Những kẻ khủng bố này đều từ Bộ An ninh Nhà nước
KIỂM SÁT VIÊN: Những kẻ khủng bố này đều từ Bộ An ninh Nhà nước
ELENA CEAUSESCU: Đúng. 
KIỂM SÁT VIÊN: Vậy ai đứng đầu Bộ An ninh Nhà nước? Một câu hỏi khác... 
KIỂM SÁT VIÊN: Xin tòa hỏi Nicolae và Elena Ceausescu xem họ có từng bị bệnh tâm thần. 
CEAUSESCU: Cái gì? Ông ấy hỏi chúng ta cái gì? 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo có từng bị bệnh tâm thần hay không. 
CEAUSESCU: Thật là một sự khiêu khích rất thô bỉ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Điều này sẽ giúp bảo vệ bị cáo. Nếu bị cáo có bệnh tâm thần và thừa nhận có bệnh này, bị cáo sẽ không chịu trách nhiệm về các hành vi của bị cáo. 
ELENA CEAUSESCU: Làm sao người ta có thể nói với chúng tôi điều như thế này? Làm sao người ta có thể nói ra điều như thế này? 
CEAUSESCU: Tôi không công nhận tòa án này. 
KIỂM SÁT VIÊN: Bị cáo đã không bao giờ có thể đối thoại với nhân dân. Bị cáo không quen nói chuyện với nhân dân. Bị cáo luôn luôn đọc thoại và nhân dân luôn luôn phải vỗ tay, giống như những lễ nghi của những người bộ lạc. Và hôm nay bị cáo cũng hành xử một cách vĩ cuồng như vậy. Bây giờ chúng tôi hỏi lần cuối cùng. Bị cáo muốn ký vào bản tuyên bố này hay không? 
CEAUSESCU: Không, chúng tôi sẽ không ký. Và tôi cũng không công nhận luật sư biện hộ. 
KIỂM SÁT VIÊN: Xin tòa lưu ý: Nicolae Ceausescu từ chối hợp tác với luật sư biện hộ do tòa chỉ định. 
ELENA CEAUSESCU: Chúng tôi sẽ không ký vào bất kỳ bản tuyên bố nào. Chúng tôi sẽ chỉ nói trước Quốc Hội, vì suốt cuộc đời mình chúng tôi đã tận tâm phục vụ nhân dân. Chúng tôi đã hy sinh cả đời mình cho nhân dân. Và chúng tôi sẽ không phản bội nhân dân mình ở đây. 

Tòa án thông báo phần thủ tục xét hỏi đã kết thúc. Tiếp theo sau đó là phần đọc tội trạng. 
KIỂM SÁT VIÊN: Thưa chủ tọa phiên tòa, chúng tôi xét thấy hai bị cáo có tội vì đã có những hành vi tội phạm theo những điều sau của bộ luật hình sự: các Điều 162, 163, 165 và 357. Vì các tội trạng này, chúng tôi đề nghị tử hình và tịch thu vào công quỹ toàn bộ tài sản của hai bị cáo. 

Luật sư biện hộ bây giờ phát biểu và thông báo cho vợ chồng Ceausescu một lần nữa rằng họ có quyền biện hộ và họ nên chấp nhận quyền này. 
LUẬT SƯ BIỆN HỘ: Mặc dù ông bà bị cáo đã phạm những hành vi điên cuồng, nhưng chúng tôi muốn bảo vệ họ. Chúng tôi muốn một phiên tòa hợp pháp. Chỉ chủ tịch nước hiện tại vẫn đang được giữ chức vụ mới có thể yêu cầu phát biểu ở Quốc Hội Tối Cao, còn nếu không còn giữ chức vụ nữa thì không thể nào được yêu cầu bất kỳ điều gì. Lúc ấy cựu chủ tịch nước được đối xử như một công dân bình thường. Vì chính quyền cũ đã bị giải tán và Ceausescu đã mất hết các chức vụ, bị cáo không có quyền được đối xử như một chủ tịch nước. Xin tòa lưu ý rằng phiên tòa diễn ra theo đúng những quy định pháp lý và đây là phiên tòa hợp pháp. Cho nên, hai bị cáo sai lầm khi từ chối hợp tác với chúng tôi. Đây là phiên tòa hợp pháp, và tôi lấy làm danh dự khi được bảo vệ họ. 
Ban đầu, Ceausescu tuyên bố rằng thật là một sự khiêu khích khi bị cáo được hỏi có bị bệnh hay không. Bị cáo đã từ chối khám tâm thần. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa bệnh thật sự mà cần phải điều trị và chứng điên cuồng tâm trí mà dẫn đến những hành động tương tự, mà bị cáo trong phiên tòa này đã phủ nhận. Các bị cáo đã hành động một cách rất vô trách nhiệm; các bị cáo đã đưa đất nước đến bờ vực phá sản và các bị cáo sẽ bị buộc tội trên cơ sở các điểm trong bản cáo trạng. Các bị cáo phạm những tội này dù các bị cáo không thừa nhận có tội. Cho dù như thế, tôi yêu cầu tòa án ra quyết định mà về sau chúng ta sẽ có thể biện minh. Chúng ta không được tạo ra bất kỳ ấn tượng nào về sự bất hợp pháp của phiên tòa. Elena và Nicolae Ceausescu nên bị trừng phạt trong một phiên tòa thật sự hợp pháp. 
Hai bị cáo cũng nên biết rằng họ có quyền có luật sư biện hộ, cho dù họ bác bỏ quyền này. Chúng ta nên khẳng định hoàn toàn và cuối cùng rằng tòa án quân sự này là hoàn toàn hợp pháp và các chức vụ cũ của vợ chồng hai bị cáo Ceausescu không còn giá trị. Tuy nhiên, họ sẽ bị kết án, và bản án sẽ được thông qua trên cơ sơ của hệ thống pháp lý mới. Họ không chỉ bị tố cáo đã phạm những tội trong vài ngày vừa qua, mà còn phạm những tội khác trong suốt 25 năm qua. Chúng tôi có đủ hồ sơ về thời kỳ này. Tôi yêu cầu tòa, với tư cách nguyên cáo, lưu ý rằng chứng cứ đã được cung cấp cho tất cả những điểm này, và hai bị cáo đã phạm những tội đã được đề cập đến. Cuối cùng, tôi muốn lần nữa nói đến vụ diệt chủng, tức thực hiện việc sát hại rất nhiều người trong vài ngày vừa qua. Elena và Nicolae Ceausescu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tội ác này. Bây giờ tôi yêu cầu tòa thông qua bản án trên cơ sở pháp luật, vì mọi người phải nhận hình phạt thích đáng cho những tội họ đã phạm. 
Lời phát biểu sau cùng của kiểm sát viên như sau: 
KIỂM SÁT VIÊN: Chúng tôi thấy rất khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ của chúng tôi, thông qua bản án dành cho những bị cáo mà thậm chí không muốn thú nhận những trọng tội họ đã phạm trong suốt 25 năm và không muốn thú nhận tội diệt chủng, không chỉ ở Timisoara và Bucharest, mà cũng chủ yếu thú nhận những trọng tội các bị cáo đã phạm trong 25 năm qua. Điều này chứng tỏ sự thiếu hiểu biết của họ. Họ không chỉ tước đoạt nhân dân sưởi ấm, điện, và thực phẩm, họ cũng cai trị tàn bạo tâm hồn của nhân dân Romania. Họ không chỉ giết trẻ em, người trẻ và người lớn ở Timisoara và Bucharest; họ cho phép các nhân viên thuộc Bộ An ninh Nhà Nước mặc đồng phục quân đội để khiến cho dân chúng tưởng rằng quân đội chống lại nhân dân. Họ muốn chia rẽ nhân dân và quân đội. Họ tìm người ở các trại mồ côi hay ở nước ngoài để huấn luyện họ trong những cơ sở đặc biệt để biến những người này thành những kẻ sát hại nhân dân mình. Họ xấc láo đến mức cắt đứt những dây dưỡng khí trong bệnh viện và bắn những người nằm trên giường bệnh. Bộ An ninh Nhà nước đã cất giấu lượng thực phẩm mà Bucharest, cả Bucharest, có thể sống trong mấy tháng trời. 
Họ đang nói về ai vậy, Elena hỏi. 
KIỂM SÁT VIÊN: Cho đến bây giờ, họ vẫn luôn tuyên bố họ đã xây dựng nên quốc gia này, chúng ta đã trả nợ, với điều này họ đã làm cho quốc gia chảy máu đến chết còn họ tích cóp đủ tiền bạc để đảm bảo cho cuộc trốn thoát. Bị cáo không cần thú nhận những sai lầm. Vào năm 1947, chúng ta nắm chính quyền, nhưng trong hoàn cảnh hoàn toàn khác. Năm 1947 Vua Michael đã chứng tỏ nhiều phẩm giá hơn bị cáo. Và bị cáo may ra nhận được sự cảm thông của nhân dân Romania nếu bây giờ bị cáo nhận tội. Đáng lẽ bị cáo nên ở lại Iran nơi bị cáo đã đáp may bay đến. 

Đáp lại, cả hai đều cười, và Elena nói: Chúng tôi không ở lại nước ngoài. Đây là quê hương của chúng tôi. 
KIỂM SÁT VIÊN: Thưa chủ tọa phiên tòa, là luật sư, tôi là một trong những người muốn phản đối án tử hình, vì nó vô nhân đạo. Nhưng chúng ta không nói về nhân dân. Tôi không yêu cầu án tử hình, nhưng đối với nhân dân Romania vốn đã phải chịu quá nhiều đau khổ họ sẽ không thể nào hiểu được khi thấy phiên tòa này kết thúc mà không kết án tử hình hai bị cáo Ceausescu. Tội ác chống lại nhân dân mỗi năm càng tăng thêm. Các bị cáo chỉ bận rộn lo tròng ách nô lệ lên đầu nhân dân và xây dựng bộ máy quyền lực. Họ thật ra chẳng quan tâm gì đến nhân dân. 
(Hình ảnh phiên tòa không còn) 
Sau khi đài Romania ngưng truyền hình về phiên tòa, xướng ngôn viên tuyên bố tòa tuyên án tử hình Elena và Nicolae Ceausescu. Tất cả tài sản của họ sẽ bị sung vào công quỹ. 
danlambaovn.blogspot.com

_________________________________________

Transcript of the closed "trial" of Nicolae and Elena Ceausescu, December, 1989

Chnm.gmu.edu - The following is a transcript of the closed trial of Romanian Dictator Nicolae Ceausescu and his wife, Elena, as shown on Romanian and Austrian television. The English translation is by the U.S. government's Foreign Broadcast Information Service. Sections in italic type are from the Austrian television commentary.
NICOLAE CEAUSESCU: I only recognize the Grand National Assembly. I will only speak in front of it.
PROSECUTOR: In the same way he refused to hold a dialogue with the people, now he also refuses to speak with us. He always claimed to act and speak on behalf of the people, to be a beloved son of the people, but he only tyrannized the people all the time. You are faced with charges that you held really sumptuous celebrations on all holidays at your house. The details are known. These two defendants procured the most luxurious foodstuffs and clothes from abroad. They were even worse than the king, the former king of Romania. The people only received 200 grams per day, against an identity card. These two defendants have robbed the people, and not even today do they want to talk. They are cowards. We have data concerning both of them. I ask the chairman of the prosecutor's office to read the bill of indictment.
CHIEF PROSECUTOR: Esteemed chairman of the court, today we have to pass a verdict on the defendants Nicolae Ceausescu and Elena Ceausescu who have committed the following offenses: Crimes against the people. They carried out acts that are incompatible with human dignity and social thinking; they acted in a despotic and criminal way; they destroyed the people whose leaders they claimed to be. Because of the crimes they committed against the people, I plead, on behalf of the victims of these two tyrants, for the death sentence for the two defendants. The bill of indictment contains the following points: Genocide, in accordance with Article 356 of the penal code. Two: Armed attack on the people and the state power, in accordance with Article 163 of the penal code. The destruction of buildings and state institutions, undermining of the national economy, in accordance with Articles 165 and 145 of the penal code. They obstructed the normal process of the economy.
PROSECUTOR: Did you hear the charges? Have you understood them?
CEAUSESCU: I do not answer, I will only answer questions before the Grand National Assembly. I do not recognize this court. The charges are incorrect, and I will not answer a single question here.
PROSECUTOR: Note: He does not recognize the points mentioned in the bill of indictment.
CEAUSESCU: I will not sign anything.
PROSECUTOR: This situation is known. The catastrophic situation of the country is known all over the world. Every honest citizen who worked hard here until 22 December knows that we do not have medicines, that you two have killed children and other people in this way, that there is nothing to eat, no heating, no electricity.
Elena and Nicolae reject this. Another question to Ceausescu: Who ordered the bloodbath in Timisoara. Ceausescu refused to answer.
PROSECUTOR: Who gave the order to shoot in Bucharest, for instance?
CEAUSESCU: I do not answer.
PROSECUTOR: Who ordered shooting into the crowd? Tell us!
At that moment Elena says to Nicolae: Forget about them. You see, there is no use in talking to these people.
PROSECUTOR: Do you not know anything about the order to shoot?
Nicolae reacts with astonishment.
There is still shooting going on, the prosecutor says. Fanatics, whom you are paying. They are shooting at children; they are shooting arbitrarily into the apartments. Who are these fanatics? Are they the people, or are you paying them?
CEAUSESCU: I will not answer. I will not answer any question. Not a single shot was fired in Palace Square. Not a single shot. No one was shot.
PROSECUTOR: By now, there have been 34 casualties.

Elena says: Look, and that they are calling genocide.
PROSECUTOR: In all district capitals, which you grandly called municipalities, there is shooting going on. The people were slaves. The entire intelligentsia of the country ran away. No one wanted to do anything for you anymore.
UNIDENTIFIED SPEAKER: Mr. President, I would like to know something: The accused should tell us who the mercenaries are. Who pays them? And who brought them into the country?
PROSECUTOR: Yes. Accused, answer.
CEAUSESCU: I will not say anything more. I will only speak at the Grand National Assembly.
Elena keeps whispering to him. As a result, the prosecutor says: Elena has always been talkative, but otherwise she does not know much. I have observed that she is not even able to read correctly, but she calls herself an university graduate. Elena answers: The intellectuals of this country should hear you, you and your colleagues.

The prosecutor cites all academic titles she had always claimed to have.
ELENA CEAUSESCU: The intelligentsia of the country will hear what you are accusing us of.
PROSECUTOR: Nicolae Ceausescu should tell us why he does not answer our questions. What prevents him from doing so?
CEAUSESCU: I will answer any question, but only at the Grand National Assembly, before the representatives of the working class. Tell the people that I will answer all their questions. All the world should know what is going on here. I only recognize the working class and the Grand National Assembly -- no one else.
The prosecutor says: The world already knows what has happened here.
I will not answer you putschists, Ceausescu says.
PROSECUTOR: The Grand National Assembly has been dissolved.
CEAUSESCU: This is not possible at all. No one can dissolve the National Assembly.
PROSECUTOR: We now have another leading organ. The National Salvation Front is now our supreme body.
CEAUSESCU: No one recognizes that. That is why the people are fighting all over the country. This gang will be destroyed. They organized the putsch.
PROSECUTOR: The people are fighting against you, not against the new forum.
CEAUSESCU: No, the people are fighting for freedom and against the new forum. I do not recognize the court.
PROSECUTOR: Why do you think that people are fighting today? What do you think?

Ceausescu answers: As I said before, the people are fighting for their freedom and against this putsch, against this usurpation. Ceausescu claims that the putsch was organized from abroad.
CEAUSESCU: I do not recognize this court. I will not answer any more. I am now talking to you as simple citizens, and I hope that you will tell the truth. I hope that you do not also work for the foreigners and for the destruction of Romania.
The prosecutor asks the counsel for the defense to ask Ceausescu whether he knows that he is no longer president of the country, that Elena Ceausescu has also lost all her official state functions and that the government has been dissolved.

The prosecutor wants to find out on which basis the trial can be continued. It must be cleared up whether Ceausescu wants to, should, must or can answer at all. At the moment the situation is rather uncertain.

Now the counsel for the defense, who was appointed by the court, asks whether Nicolae and Elena Ceausescu know the aforementioned facts -- that he is no longer president, that she has lost all official functions. He answers: I am the president of Romania, and I am the commander in chief of the Romanian army. No one can deprive me of these functions.
PROSECUTOR: But not of our army, you are not the commander in chief of our army.
CEAUSESCU: I do not recognize you. I am talking to you as simple citizens at the least, as simple citizens, and I tell you: I am the president of Romania.
PROSECUTOR: What are you really?
CEAUSESCU: I repeat: I am the president of Romania and the commander in chief of the Romanian army. I am the president of the people. I will not speak with you provocateurs anymore, and I will not speak with the organizers of the putsch and with the mercenaries. I have nothing to do with them.
PROSECUTOR: Yes, but you are paying the mercenaries.

No, no, he says. And Elena says: It is incredible what they are inventing, incredible.
PROSECUTOR: Please, make a note: Ceausescu does not recognize the new legal structures of power of the country. He still considers himself to be the country's president and the commander in chief of the army.
Why did you ruin the country so much: Why did you export everything? Why did you make the peasants starve? The produce which the peasants grew was exported, and the peasants came from the most remote provinces to Bucharest and to the other cities in order to buy bread. They cultivated the soil in line with your orders and had nothing to eat. Why did you starve the people?
CEAUSESCU: I will not answer this question. As a simple citizen, I tell you the following: For the first time I guaranteed that every peasant received 200 kilograms of wheat per person, not per family, and that he is entitled to more. It is a lie that I made the people starve. A lie, a lie in my face. This shows how little patriotism there is, how many treasonable offenses were committed.
PROSECUTOR: You claim to have taken measures so that every peasant is entitled to 200 kilograms of wheat. Why do the peasants then buy their bread in Bucharest?

The prosecutor quotes Ceausescu, Ceausescu's program.
PROSECUTOR: We have wonderful programs. Paper is patient. However, why are your programs not implemented? You have destroyed the Romanian villages and the Romanian soil. What do you say as a citizen?
CEAUSESCU: As a citizen, as a simple citizen, I tell you the following: At no point was there such an upswing, so much construction, so much consolidation in the Romanian provinces. I guaranteed that every village has its schools, hospitals and doctors. I have done everything to create a decent and rich life for the people in the country, like in no other country in the world.
PROSECUTOR: We have always spoken of equality. We are all equal. Everybody should be paid according to his performance. Now we finally saw your villa on television, the golden plates from which you ate, the foodstuffs that you had imported, the luxurious celebrations, pictures from your luxurious celebrations.
ELENA CEAUSESCU: Incredible. We live in a normal apartment, just like every other citizen. We have ensured an apartment for every citizen through corresponding laws.
PROSECUTOR: You had palaces.
CEAUSESCU: No, we had no palaces. The palaces belong to the people.

The prosecutor agrees, but stresses that they lived in them while the people suffered.
PROSECUTOR: Children cannot even buy plain candy, and you are living in the palaces of the people.
CEAUSESCU: Is it possible that we are facing such charges?
PROSECUTOR: Let us now talk about the accounts in Switzerland, Mr. Ceausescu. What about the accounts?
ELENA CEAUSESCU: Accounts in Switzerland? Furnish proof!
CEAUSESCU: We had no account in Switzerland. Nobody has opened an account. This shows again how false the charges are. What defamation, what provocations! This was a coup d'etat.
PROSECUTOR: Well, Mr. Defendant, if you had no accounts in Switzerland, will you sign a statement confirming that the money that may be in Switzerland should be transferred to the Romanian state, the State Bank.
CEAUSESCU: We will discuss this before the Grand National Assembly. I will not say anything here. This is a vulgar provocation.
PROSECUTOR: Will you sign the statement now or not?
CEAUSESCU: No, no. I have no statement to make, and I will not sign one.
PROSECUTOR: Note the following: The defendant refuses to sign this statement. The defendant has not recognized us. He also refuses to recognize the new forum.
CEAUSESCU: I do not recognize this new forum.
PROSECUTOR: So you know the new forum. You have information about it.

Elena and Nicolae Ceasescu state: Well, you told us about it. You told us about it here.
CEAUSESCU: Nobody can change the state structures. This is not possible. Usurpers have been punished severely during the past centuries in Romania's history. Nobody has the right to abolish the Grand National Assembly.

The prosecutor turns to Elena: You have always been wiser and more ready to talk, a scientist. You were the most important aide, the number two in the cabinet, in the government.
PROSECUTOR: Did you know about the genocide in Timisoara?
ELENA CEAUSESCU: What genocide? By the way, I will not answer any more questions.
PROSECUTOR: Did you know about the genocide or did you, as a chemist, only deal with polymers? You, as a scientist, did you know about it?

Here Nicolae Ceausescu steps in and defends her.
CEAUSESCU: Her scientific papers were published abroad!
PROSECUTOR: And who wrote the papers for you, Elena?
ELENA CEAUSESCU: Such impudence! I am a member and the chairwoman of the Academy of Sciences. You cannot talk to me in such a way!
PROSECUTOR: That is to say, as a deputy prime minister you did not know about the genocide?
CEAUSESCU: She was not a deputy prime minister, but the first deputy prime minister.
PROSECUTOR: This is how you worked with the people and exercised your functions! But who gave the order to shoot? Answer this question!
ELENA CEAUSESCU: I will not answer. I told you right at the beginning that I will not answer a single question.
CEAUSESCU: You as officers should know that the government cannot give the order to shoot. But those who shot at the young people were the security men, the terrorists.
ELENA CEAUSESCU: The terrorists are from Securitate.
PROSECUTOR: The terrorists are from Securitate?
ELENA CEAUSESCU: Yes.
PROSECUTOR: And who heads Securitate? Another question . . . .
PROSECUTOR: Please, ask Nicolae and Elena Ceausescu whether they have ever had a mental illness.
CEAUSESCU: What? What should he ask us?
PROSECUTOR: Whether you have ever had a mental illness.
CEAUSESCU: What an obscene provocation.
PROSECUTOR: This would serve your defense. If you had had a mental illness and admitted this, you would not be responsible for your acts.
ELENA CEAUSESCU: How can one tell us something like this? How can one say something like this?
CEAUSESCU: I do not recognize this court.
PROSECUTOR: You have never been able to hold a dialogue with the people. You were not used to talking to the people. You held monologues and the people had to applaud, like in the rituals of tribal people. And today you are acting in the same megalomaniac way. Now we are making a last attempt. Do you want to sign this statement?
CEAUSESCU: No, we will not sign. And I also do not recognize the counsel for the defense.
PROSECUTOR: Please, make a note: Nicolae Ceausescu refuses to cooperate with the court-appointed counsel for the defense.
ELENA CEAUSESCU: We will not sign any statement. We will speak only at the National Assembly, because we have worked hard for the people all our lives. We have sacrificed all our lives to the people. And we will not betray our people here.

The court notes that the investigations have been concluded. Then follows the reading of the indictment.
PROSECUTOR: Mr. Chairman, we find the two accused guilty of having committed criminal actions according to the following articles of the penal code: Articles 162, 163, 165 and 357. Because of this indictment, I call for the death sentence and the impounding of the entire property of the two accused.

The counsel for the defense now takes the floor and instructs the Ceausescus once again that they have the right to defense and that they should accept this right.
COUNSEL FOR THE DEFENSE: Even though he -- like her -- committed insane acts, we want to defend them. We want a legal trial. Only a president who is still confirmed in his position can demand to speak at the Grand National Assembly. If he no longer has a certain function, he cannot demand anything at all. Then he is treated like a normal citizen. Since the old government has been dissolved and Ceausescu has lost his functions, he no longer has the right to be treated as the president. Please make a note that here it has been stated that all legal regulations have been observed, that this is a legal trial. Therefore, it is a mistake for the two accused to refuse to cooperate with us. This is a legal trial, and I honor them by defending them.
At the beginning, Ceausescu claimed that it is a provocation to be asked whether he was sick. He refused to undergo a psychiatric examination. However, there is a difference between real sickness that must be treated and mental insanity which leads to corresponding actions, but which is denied by the person in question. You have acted in a very irresponsible manner; you led the country to the verge of ruin and you will be convicted on the basis of the points contained in the bill of indictment. You are guilty of these offenses even if you do not want to admit it. Despite this, I ask the court to make a decision which we will be able to justify later as well. We must not allow the slightest impression of illegality to emerge. Elena and Nicolae Ceausescu should be punished in a really legal trial.
The two defendants should also know that they are entitled to a counsel for defense, even if they reject this. It should be stated once and for all that this military court is absolutely legal and that the former positions of the two Ceausescus are no longer valid. However, they will be indicted, and a sentence will be passed on the basis of the new legal system. They are not only accused of offenses committed during the past few days, but of offenses committed during the past 25 years. We have sufficient data on this period. I ask the court, as the plaintiff, to take note that proof has been furnished for all these points, that the two have committed the offenses mentioned. Finally, I would like to refer once more to the genocide, the numerous killings carried out during the past few days. Elena and Nicolae Ceausescu must be held fully responsible for this. I now ask the court to pass a verdict on the basis of the law, because everybody must receive due punishment for the offenses he has committed.

The final speech of the prosecutor follows:
PROSECUTOR: It is very difficult for us to act, to pass a verdict on people who even now do not want to admit to the criminal offenses that they have committed during 25 years and admit to the genocide, not only in Timisoara and Bucharest, but primarily also to the criminal offenses committed during the past 25 years. This demonstrates their lack of understanding. They not only deprived the people of heating, electricity, and foodstuffs, they also tyrannized the soul of the Romanian people. They not only killed children, young people and adults in Timisoara and Bucharest; they allowed Securitate members to wear military uniforms to create the impression among the people that the army is against them. They wanted to separate the people from the army. They used to fetch people from orphans' homes or from abroad whom they trained in special institutions to become murderers of their own people. You were so impertinent as to cut off oxygen lines in hospitals and to shoot people in their hospital beds. The Securitate had hidden food reserves on which Bucharest could have survived for months, the whole of Bucharest.

Whom are they talking about, Elena asks.
PROSECUTOR: So far, they have always claimed that we have built this country, we have paid our debts, but with this they bled the country to death and have hoarded enough money to ensure their escape. You need not admit your mistakes, mister. In 1947, we assumed power, but under completely different circumstances. In 1947, King Michael showed more dignity than you. And you might perhaps have achieved the understanding of the Romanian people if you had now admitted your guilt. You should have stayed in Iran where you had flown to.

In response, the two laugh, and she says: We do not stay abroad. This is our home.
PROSECUTOR: Esteemed Mr. Chairman, I have been one of those who, as a lawyer, would have liked to oppose the death sentence, because it is inhuman. But we are not talking about people. I would not call for the death sentence, but it would be incomprehensible for the Romanian people to have to go on suffering this great misery and not to have it ended by sentencing the two Ceausescus to death. The crimes against the people grew year by year. They were only busy enslaving the people and building up an apparatus of power. They were not really interested in the people.
[Picture is cut off]
After an outage of transmission of Romanian television, the speaker announces the verdict in the trial of Elena and Nicolae Ceausescu is death sentence. All their property will be impounded.

No comments:

Post a Comment