Saturday, October 29, 2016HOA TRĂM NĂM = THƠ SƠN TRUNG = BILL GATES
HOA TRĂM NĂM
HOA TRĂM NĂM
Loài hoa đặc biệt này chỉ nở 1 lần duy nhất trong 100 năm và nhanh chóng tàn lụi.
Cọ Talipot, cây Melocanna Baccifera, tre Việt Nam... là những loài cây phải đến cả chục năm, thậm chí tới cả trăm năm mới nở hoa một lần.
Không phải loài cây nào cũng may mắn được Mẹ Thiên nhiên cho nở hoa hàng năm, bên cạnh đó cũng có những loài cây có khoảng thời gian cho hoa chậm đến kỳ lạ. Một số loài phải tốn đến vài năm, 30 năm nhưng cũng có loài phải cả thế kỷ mới nở hoa một lần.
1. Cọ Talipot: 30 - 80 năm/lần
Cọ Talipot được coi là cây quốc gia tại Sri Lanka. Đây cũng là một loài
cọ khổng lồ, có chiều cao lên tới 25m, đường kính thân cây là 1- 1,5m.
Cọ Talipot cũng là loài đạt kỉ lục về cụm hoa lớn nhất, dài từ 6 - 8 m
với hàng triệu bông hoa.
Loài cọ này chỉ nở hoa một lần trong khoảng 30 - 80 năm tuổi. Sau khi hoa nở, vòng đời của cây cũng khép lại do tất cả dinh dưỡng dự trữ đều dành cho quá trình tạo quả. Khi một cơn mưa đổ xuống, hàng trăm ngàn quả với kích cỡ bằng trái bóng golf lìa khỏi cây, đây cũng là lúc cọ Talipot kết thúc cuộc đời mình.
2. Cây Melocanna Baccifera: 44 - 48năm/lần
Melocanna baccifera là cây thuộc họ tre, trúc, chiếm phần lớn số lượng các loài cây cùng họ tại Ấn Độ. Cây chỉ cho hoa mỗi 44 - 48 năm/lần, thậm chí là lâu hơn.
Nhưng những người dân bản địa thì mong sự kiện này diễn ra lâu hơn nữa, thậm chí nếu... không xảy ra nữa cũng tốt. Nguyên do là bởi quá trình phát tán hạt giống của cây thu hút rất nhiều loài động vật gặm nhấm và một trong số đó là chuột đen.
Việc số lượng chuột đen tăng đột biến mỗi khi cây ra hoa có thể khiến dịch bệnh bùng phát. Ngoài ra, chúng còn gây ra nạn đói, vì trong lúc thu nhặt hạt cây, chúng tiện thể… đục khoét nốt kho lương thực của người dân.
3. Tre Việt Nam: 60 - 100 năm/lần
Người dân Việt Nam có lẽ đã quá quen thuộc với hình ảnh lũy tre hùng vĩ cao vút ở làng quê. Nhưng không phải ai cũng có cơ may được chiêm ngưỡng hình ảnh hoa tre - loài hoa mà theo kinh nghiệm truyền lại, có chu kỳ nở hoa từ 60 - 100 năm.
Tre thuộc nhóm thực vật sống nhiều năm nhưng chỉ nở hoa duy nhất một
lần. Sau khi tre nở hoa một lần duy nhất rồi ra quả, cây sẽ bị lụi tàn
và sau đó chết ngay.
Loài
cọ Tahina có kích cỡ khổng lồ tại Madagascar với chiều cao khoảng 20m.
Chúng cũng là loài cọ lớn nhất tại đây nhưng điều khiến cọ Tahina trở
nên đặc biệt, đó là chúng chỉ ra hoa, kết quả một lần trong đời và điều
này chỉ xảy ra sau… 100 năm.
Tahina là loài cọ khổng lồ, với chiều cao thân lên tới 20m, đường kính thân trung bình 0,5m và đường kính lá khoảng 5m. Trên thực tế, chúng là loại cọ lớn nhất từng được tìm thấy tại Madagascar.
Nhưng điểm đặc biệt ở cọ Tahina không chỉ có vậy, loài cọ này có vòng đời vô cùng kỳ lạ. Các chùm hoa chỉ xuất hiện sau khi thân đạt tới chiều cao tối đa và sắp xếp theo kiểu cột đèn. Chúng thường nở hoa sau 30-50 năm, một số cây nở hoa sau 100 năm.
Những bông hoa giống như lời chào vĩnh biệt của chúng đối với cuộc đời.
Hoa của cọ Tahina nở thành chùm, ngay sau khi nở, chim chóc cùng các loài côn trùng sẽ đến lấy mật, góp phần đẩy nhanh quá trình thụ phấn. Hoa sau khi được thụ phấn có thể phát triển thành quả.
Hình ảnh cọ Tahina được miêu tả qua tranh vẽ.
Cọ Tahina dồn toàn bộ chất dinh dưỡng dự trữ cho quá trình nở hoa. Vì thế mà sau khi hoa biến thành quả, chúng sẽ gục ngã vì cạn kiệt dưỡng chất rồi chết. Bởi vậy mà cọ Tahina còn có tên gọi khác là "cọ tự sát". Hiện nay tại Madagascar, số lượng cá thể ngoài tự nhiên của Tahina chưa đến 100 nên loài cọ này được liệt vào danh sách cực kỳ nguy cấp.
5. "Nữ hoàng của Andes": 80 - 150 năm/lần
Loài cây được mệnh danh “nữ hoàng của dãy Andes” này chỉ được tìm thấy ở Peru và Bolivia. “Nữ hoàng” là cây thuộc họ Dứa, có tên gọi là Puya raimondii, cao khoảng 3-4m. Nhưng khi ra hoa, chiều cao của “nữ hoàng” lên đến 12m, cho ra cụm hoa cả ngàn bông chứa đến 10 triệu hạt giống. Sau khi phát tán hết hạt giống, "nữ hoàng"… sẽ từ biệt cuộc đời.
Về điểm này, cây Puya khá giống với cọ Madagascar. Với việc phải sống trên độ cao 3.000 - 4.800m cùng điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt, cây Puya raimondii cần khoảng thời gian rất lâu, từ 80-150 năm để dự trữ đủ dưỡng chất phục vụ cho lần sinh sản đầu tiên và cũng là cuối cùng trong đời.
Có điều, sinh sản lâu là thế nhưng các cây con của “nữ hoàng” có nguy cơ chết yểu do bị ăn hoặc bị giẫm đạp bởi gia súc. Và cũng bởi chăn thả gia súc và một số nguyên nhân khác từ con người, môi trường sống của cây Puya đang thu hẹp dần. Hiện số lượng cây Puya ở Peru còn khoảng 800.000 cây và ở Bolivia là 35.000 cây.
* Bài viết sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Listverse, National Geographic, Wikipedia...
SƠN TRUNG * HAI BÊN BỜ ĐẠI DƯƠNG
HAI BÊN BỜ ĐẠI DƯƠNG
SƠN TRUNG
Chúng ta ởhai bên bờ đại dương
Chúng ta cùng mối sầu khổ
Chúng ta cùng nỗi đau thương.
Bởi vì các ác đảng, ac nhân.
Trước ngày chúng nổi dậy
Trong mùa bầu cử
Chúng hứa hẹn đủ thứ
Nào thực thi tự do ,dân chủ
Nào công bình xã hội.
Than ôi, khi đã cầm quyền
Chúng trở thành những tên cướp
Những tên độc tài
Những bạo chúa
Là kẻ thù của nhân dân.
Gây ra trăm ngàn vạn tội!
Cả hai bên
Đều có những bầy thú dữ
Bàn chân chúng đạp nát giang sơn
Miệng chúng nhồm nhoàm nhai thịt trẻ con và phụ nữ.
Bên này có 40 tên mặt người dạ sói
Chúng nghênh ngang ở Quốc hội
Chúng bắt chính quyền từ bỏ chính sách an sinh xã hội
Để cho chúng tự do uống máu xẻ thịt nhân dân,
Chúng có hàng tỷ đô la
Chúng muốn đóng thuế it hơn người công nhân hãng xưởng
Chúng thu nhập hàng trăm triệu đô la
Chúng không muốn sớt một xu cho người già
Người nghèo khổ, bệnh tật.
Chúng muốn cả nuớc này phục vụ túi tham của chúng
Mặc nhân dân đói rách
Mặc đất nước tang thương
Chúng giơ tay chỉa súng ngăn chận quyền lợi nhân dân
Chúng gây ra cảnh tám trăm ngàn nhân viên thất nghiệp
Và ngày mai
Sẽ có hàng triệu người đói rách
Chính qưyền bế tắc
Nhà nước vỡ nợ
Hàng trăm , hàng ngàn xí nghiệp đóng cửa
Công thương nghiệp đình trệ
Bọn chúng vẫn cười vui
Cưong quyết làm đất nước này tan rã..
Bên kia có 16 con cọp đói.
Và lũ kên kên
Là bọn chính trị bộ
Là bọn trung ương đảng
Chúng hút máu dân lành
Chúng bán nước cầu vinh
Chung khuynh đảo nền kinh tế quốc gia
Chúng cướp đất
Cướp nhà
của nhân dân
Chúng cướp nhà thờ
Nhà chùa
của các giáo hội
Chúng bỏ tù
Và đánh đập sinh viên, học sinh
Khắp nơi
Tiếng lũ côn đồ quát thét và cười man rợ...
Chúng uống máu mà chẳng thấy tanh hôi
Chúng múa may trong các đại hội đảng
Những tên Tổng bí thư
Chủ tịch nước
Thủ tướng
Và chủ tịch Quốc hội
Chúng nó
Một lũ nói dối
Một bầy lang sói
Một lũ cướp của,giết người...
Ở hai bên bờ đại dương
Dân nghèo gầy trơ xương
Bọn tư bản đỏ và tư bản đen mặc tình hút máu nhân dân..
Và ca khúc khải hoàn
Chúng ta quỳ lạy Đức Phật từ bi
Đức Chúa Trời bác ái
Chúng ta tôn kính Mạnh Tử
Vì chủ trương dân vi quý
Chúng ta hoan hô
Votaire, Jean Jacques Rousseau
Đã xây nền dân chủ, tự do.
Chúng nó quả thật ngu si
Sao vì một chuyện nhỏ
Chúng lại phá hoại
Một quốc gia vĩ đại ?
Medicare ở đây thật chẳng có gì lạ
Vì chính sách này đã áp dụng nhiều nơi
Trong thế giới tư bản..
Trong khi cộng sản
Cắt cổ nhân dân về Viện phí và học phí.
Nếu so sánh với nhiều quốc gia trên thế giới.
Một số nước nghèo cũng có nền y tế xã hội
Tiến bộ, văn minh
Phục vụ nhân dân.
Đứng đầu là Pháp, Ý,
Tiếp theo là San Marino, Andorra
Malta, Singapore, Spain, Oman, Australia
Và Đài Loan, Nhật Bản.
Medicare không gây thiệt hại cho tư bản
Mà còn đem lại hạnh phúc cho dân nghèo..
Không ai điên cuồng
Chống lại nhân dân
Và phá hoại tổ quốc...
Vì những chuyện bẩn thỉu như thế!
Tại sao chúng không theo gương George Washington
Xây dựng tự do dân chủ
Và đất nước hùng cường?
Tại sao chúng không noi gương
Bill Gates
Pierre Omidyar
Michael Bloomberg
Bernard Marcus:
Là những tỷ phủ
Giàu lòng nhân đạo
Đã đem tài sản giúp dân nghèo...
Với chúng nó,
Một vài triệu có nghĩa gì đâu
Sao chúng đành gây tang thương
Tan nát cho dân chúng và quê hương?
Chúng ta ghét bầy cọp beo, lang sói
Đã uống máu, ăn thịt nhân dân
Gây nên vạn ức tội.
Chúng ta căm hận Marx, Lenin, Stalin
Mao Trạch Đông
Hồ Chí Minh
đem thuyết cộng sản
Thực thi "giai cấp đấu tranh"
giết hại trăm triệu dân lành...
Đã đến lúc nhân dân phải vùng lên
Chấm dứt cường quyền cướp bóc nhân dân và phá hoại đất nước.
Hãy diệt trừ
Những tên lang sói
Và bầy cọp beo mang danh đại biểu quốc hội
Chính trị bộ và trung ương đảng
Để xây dựng xã hội mới
Xây dựng một nền chính trị tiến bộ
Cho hanh phuc loài người.
ON TWO SEA SIDES
We are living
on two sides of the sea
We have the same sadness
And the same misery
caused by the wicked and brutal parties.
At the beginning of their rebellion
And at the season of election
They promise to practice Democracy
And Equality
Unfortunately, when they take power
They become the liers
The thieves
The tyrants
and the people's enemies!
On this side
In a country
Forty wolves
In the name of democracy
And the name of Senator inviolable
They swagger in the Parliament
They rob everybody
In the day light
They prevent people's rights
They want to continue exploiting people
They don't like to share a dollar to poor and sick people
They want a millionaire pay taxes less than a worker and a secretary,
Their feet crush the country
They eat children
the old aged men and women
They cause the close of government
In the first day of turmoil
There are eight hundred thousand workers' unemployment
And tomorrow
Millions people will be hungry
And the United Nation would be broken
But they are merry
Before the scene of nation 's bankruptcy
They think
That would be their glory...
On the other side of the sea
Sixteen hunger tigers
And the vultures
Suck our people's blood
And they sell our country
They become the servants of our enemies
They rob our land
and houses
They beat brutally
They kill
and imprison the students
bloggers
and the patriots of our country.
Everywhere the beasts laugh merrily
When our people cry angrily
They drink blood tigerishly
They dance with happiness
in their Party Congress
The General Secretary
the President
the Prime Minister
And the president of the Nation
they all are the liers
And robbers
And killers ...
We worship Buddha
And God for their teaching of charity
We respect Mencius for his " For People theory"
We follow Voltaire, Jean Jacque Rousseau.
For their path of Democracy...
How stupid they are
The forty thieves in the Parliament.
Why do they get angry with that mediorcre problem ?
The Medicare in that country is not new or strange thing
If we compare with the world Health care system
France, Italy, San Marino, Andorra
Malta, Singapore, Spain, Oman, Australia
And Japan..
A lot of poor country
are in the 36 Countries
that have better Healthcare Systems than the US.
Indeed, the Medicare doesn't harm the capitalists
But it brings happiness to poor people
But it brings happiness to poor people
Why do they revolt against that good policy?
Why they don't follow George Washington
Why they don't follow George Washington
To build the Democracy
And the Wealth for their country?
Why they don't admire the bright mirrors
Bill Gates
Pierre Omidyar
Michael Bloomberg
Bernard Marcus:
They are the billionaires donating their property to charity?
We hate the wolves, the tigers
The snakes
The liers
The robbers
And the killers
We also hate Marx, Lenin, Stalin
Mao Tse tung and Ho Chi Minh
They taught and applied the Marxism
And killed hundred million people in the world.
It is the time for people to revolt
To overthrow the dictatorship
And to destroy the beasts
In order to build the new society
With liberty
Democrcy
And Equaliy.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 282
CHẾ TẠO MỨT = SYRIE = THỬ LÒNG NGƯỜI = L' ÉTAT
XÃ HỘI VIỆT NAM *XƯỞNG CHẾ TẠO Ô MAI, MỨT
Rợn người cảnh chôn sấu, quất đến thối làm mứt
Thứ ba 16/04/2013 16:02
Hàng chục hộ dân đào hố sâu chừng 3- 5m, rộng chừng 2-3m2, rải
vôi bột rồi phủ lên lớp nilong cáu bẩn, sau đó chôn chanh, quất, sấu
xuống hố, phủ lớp muối lên, để cả chục ngày bốc mùi hôi nồng nặc, rồi
đem bán cho các cơ sở khác làm ô mai, mứt.
Đó là cảnh quy trình ủ chanh, quất, sấu…
để làm ô mai, mứt của hàng chục hộ dân thuộc địa bàn xã Đồng Mai (quận
Hà Đông – Hà Nội). Theo tìm hiểu của PV, thì phần lớn các cơ sở ủ quất,
sấu thối ở đây xuất khẩu đi Trung Quốc, cơ sở đặt hàng trong nước chỉ
chiếm số ít.
Trong vai một cơ sở cần tìm mua quất, sấu khô để làm ô mai, PV Infonet
đã tìm về Đồng Mai để tìm hiểu quy trình làm nguyên liệu ô mai, mứt.
Tiếp cận được chị T, một cơ sở chuyên ủ quất, sấu làm ô mai, mứt, chị T
vừa trả lời vừa dò xét, chú cần mua nhiều không? Cơ sở địa chỉ ở đâu?
Nếu đặt mua để lại số điện thoại, khi nào có mẻ ủ mới ra, tôi sẽ gọi
điện cho!
PV hỏi về quy trình làm nguyên liệu ở đây, chị T cho rằng, những mẻ ủ nguyên liệu này đã có cơ sở đặt hàng từ đầu năm và những hộ làm nghề cả chục năm nay chuyên ủ sấu, quất cho các cơ sở làm ô mai, mứt.
PV được tận mắt chứng kiến quy trình ủ
quất, sấu thối của cơ sở chị T. Bước chân vào đây, mùi hôi thối bốc lên
nồng nặc. Ruồi nhặng bay vo ve, mùi khó chịu và ô nhiễm vậy khiến bất cứ
ai bước chân vào đây cũng thấy rợn người… bởi cảnh quá mất vệ sinh.\
Quy trình ủ quất, sấu thối ở đây rất lạ
đời. Người dân đào hố sâu chừng 3 -5m, rộng chừng 2 -3m2, rồi dựng vài
tấm prôximăng che nắng, che mưa. Sau đó rắc lớp vôi bột rồi rải nilong
lên, đổ quất, sấu, chanh… xuống ủ. Khi đã đổ một lớp quất, sấu, chanh
người làm nghề phủ 1 lớp muối lên trên và cứ để như vậy chừng 10 ngày
khi sấu, quất, chanh chảy nước, bốc mùi, vỏ thâm xì rồi “vớt” lên phơi
khô.
text-align: justify;">
Sau khi người làm nghề “vớt” những đống
quả dưới hố đem đi phơi, nhưng không hề có động tác vệ sinh hố đất hay
lớp nilong trải đựng sấu, quất, chanh ủ mà chỉ phơi khôi qua loa, để vài
hôm lại cho ủ mẻ khác.
PV tìm vào cơ sở của anh H, một người
làm nghề ủ sấu, quất, chanh thối nhiều năm qua. Dựng xe bước vào sân,
chúng tôi chứng kiến cả sân các loại quả này đã thối, chuyển màu thâm
thâm, bốc mùi khó chịu được anh H đánh thành từng luống phơi ở sân. Theo
anh H, anh mới “vớt” quả lên hôm trước, chưa được nắng, phải phơi vài
hôm nắng to thì “hàng” khô quắt lại rồi đóng tải nilong bán cho các cơ
sở làm ô mai, làm mứt…
PV đặt vấn đề mua lại một vài tấn để làm
ô mai, mứt. Anh H không ngừng giới thiệu sản phẩm của cơ sở mình làm ra
cho chúng tôi biết. Quy trình làm cũng tương tự cơ sở của chị T, nhưng
quy mô của anh H lớn hơn. Theo anh H, vào những mùa này, hàng tiêu thụ
rất chậm. Chỉ vào những tháng cuối năm, nhu cầu làm mứt, ô mai tăng cao.
Người ta gọi điện về đây đặt mua hàng chục tấn một…
Nhưng theo anh H, vào những tháng cuối
năm, người làm nghề chúng tôi không được nắng để phơi khô sản phẩm. Vì
vậy, chúng tôi phải tranh thủ mùa nắng ráo làm để tích trữ rồi bán cho
những cơ sở trong nước và nước ngoài.
Nguyên liệu chính của những cơ sở này là
mua nguyên liệu sấu xanh, quả quất, chanh đóng thành từng tải chuyển về
sau đó người ta “vô tư” đổ xuống hố. Người ta thu mua chỉ vài ba trăm
ngàn đồng đến gần 1 triệu/tấn quất, sấu nguyên liệu… Sau quá trình “chế
biến” có thể xuất xưởng tới vài triệu đồng/tấn, tùy từng loại quả, giá
khác nhau. Quy trình vận chuyển những quả dập, thối, nát… đều được người
làm nghề ở đây tận dụng đưa hết xuống ủ muối. Sau vài ngày, bốc mùi hôi
thối, nồng nặc cả một khu vực…
Lấy lý do đi tìm hiểu tham khảo vài cơ
sở khác, PV rời cơ sở của anh H. Anh H không quên nhắn nhủ: “ Các chú cứ
đi tìm hiểu kỹ đi, quyết được thì quay lại đặt hàng của anh. Đảm bảo
giá rẻ hơn và chất lượng hơn…”
Một vài hình ảnh làm nghề ô mai, mứt.
Một vài hình ảnh làm nghề ô mai, mứt.
Quất, sấu được đưa xuống hố, lẫn cả muối trắng
Những chiếc hố được che chắn sơ sài\
Nguyễn Hiếu
Saturday, October 5, 2013
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * VẤN ĐỀ SYRIA
NHÌN VẤN ĐỀ SYRIA HIỆN HÀNH: DÂN TỘC VIỆT NAM CHỈ NÊN TIN Ở SỨC LỰC TỰ CỨU CỦA MÌNH
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tếGeneva, 12.09.2013
CHÚ THÍCH ngày 15.09.2013 :
Chúng tôi lấy lập trường này và đưa ra rất vắn gọn trên Diễn Đàn ngày 31.08.2013, thì được PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM HÀNH ĐỘNG CỨU NƯỚC, do Bà NGUYỄN THỊ NGỌC HẠNH Đại Diện, vốn đồng quan điểm, mau mắn phổ biến thêm rộng rãi Lập trường Việt Nam tự tin và tự cứu với sức lực của mình. Đã từ mấy năm nay, PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM HÀNH ĐỘNG CỨU NƯỚC và Phong trào Việt TỰ DÂN đã cùng hợp tác hoạt động với PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000.
Hôm nay, 15.09.2013, khi sửa soạn gửi Bài viết này sang cho PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000 để đăng trong Số ĐỐI LỰC tháng 9, chúng tôi thấy Nhật Báo LE MONDE ngày 13.09.2013 trên bàn giấy với Bài viết ở trang 2, chạy 6 cột, với đầu đề : SERGUEI LAVROV, L’ARTISAN DU BLOCAGE RUSSE EN SYRIE. Mở đầu bài viết, Đặc phái viên của Nhật báo LE MONDE từ Mạc Tư Khoa viết như sau :
«Le dossier syrien est revenu à son point de départ de 2011, au Conseil de sécurité de l’ONU, òu la Russie, épaulé par la Chine, excelle à empêcher toute forme de pression sur le régime de Damas.» (Hồ sơ của Syrie trở lại khởi điểm của nó của năm 2011 tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, ở đó Nga, được sánh vai bởi Trung quốc, tìm đủ mọi cách ngăn chặn mọi hình thức áp lực trên chế độ của Damas).
Ngày nay, phía Tây phương theo đề nghị của cáo già Serguei LAVROV đưa ra giải pháp Chính trị tại Liên Hiệp Quốc là một sự thụt lùi theo nhận định của Nhật báo LE MONDE và tất nhiên cuộc Cách Mạng của dân chúng Syrie còn kéo dài và dân chúng tiếp tục chết.
Bài viết của chúng tôi không phải là việc công kích Tây phương, Hoa kỳ hay đặc biệt là TT.OBAMA, mà chỉ là tóm tắt những nhận định của Báo, Đài về cách giải quyết Hồ sơ Syrie theo kiểu thụt lùi khiến quần chúng Syrie đứng lên làm Cách Mạng chống nhà độc tài Bassard el-Assad cảm thấy như cuộc Cách Mạng của mình bị phản bội. Những nhận định về cá nhân TT.OBAMA là những nhận định mà chúng tôi tìm thấy trên Báo, Đài mà chúng tôi trích dẫn.
Nhìn vấn đề Syrie theo nhận định của Báo, Đài mà quý độc giả sẽ đọc thấy trong Bài này, chúng tôi nghĩ đến trường hợp Việt Nam khi mà quần chúng NỔI DẬY làm Cách Mạng. Chúng tôi đưa ra những nhận định sau đây :
=> Quần chúng Việt Nam đừng mang những ảo tưởng mong Quốc tế giúp mình trong việc dứt bỏ Cơ chế CSVN độc tài hiện nay.
=> Quần chúng Việt Nam hãy tin ở sức mạnh tự lực của mình để giải cứu chính mình khỏi ách độc tài CSVN.
Nguyễn Phúc Liên
Đây là lần thứ ba chúng tôi viết về thái độ của TT.Barack OBAMA trong việc quyết định cho thảm cảnh Dân quyền, Nhân quyền và Tội phạm chống Nhân loại tại Syria. Tổng thống Hoa kỳ Barack OBAMA là một thư sinh, nói hay, nói giỏi, nói mạnh ở những bài học Lý thuyết về những giá trị tinh thần sách vở, nhưng ông lại đi giữa những nguyên thủ quốc gia cáo già thủ đoạn chính trị hoặc xuất thân từ giới ba đá vô học, hoặc từ giới có học nhưng đã quên những gì ở những bài học về các giá trị nhân bản.
Nhân vụ phải quyết định để cứu vớt có tính cách sống chết cho người dân Syria, chúng tôi nhận thấy, qua những diễn văn hùng hồn mang tính cách lý thuyết, cái thâm ý bảo vệ, cho cá nhân Barack OBAMA, cái chiếc áo Nobel Hoà Bình mà người ta choàng vào cho Oâng không cần Hồ sơ trình nộp. Mang chiếc áo choàng ấy, Oâng đã không ngớt tố cáo Cựu Tổng Thống BUSH, khích lệ giới trẻ Hoa kỳ theo hướng hình ảnh Hippies “tóc dài xuôi tay bất động“ của những năm 1960 mềm nhũn để có cái gọi là Hòa bình thoái thác. Hình ảnh này ngược lại với mẫu người John WAYNE thực tiễn, ít nói Lý thuyết, nhưng hành động mau mắn theo tinh thần Công lý để có Hòa bình đích thực. Cùng mẫu người John WAYNE, chúng ta thấy hình ảnh TT.REAGAN và TT.BUSH.
Trong bài hôm nay, chúng tôi bàn những điểm sau đây:
=> John WAYNE, mẫu người của một thời đại cho Hoa kỳ
=> Barack OBAMA và mặc cảm tự tôn về chiếc áo choàng Nobel Hòa Bình
=> Quyết định thụt lùi cho trường hợp Syria
=> Mất lòng tin vào Quốc tế, Dân Việt Nam hãy tự cứu lấy mình
John WAYNE,
mẫu người của một thời đại cho Hoa kỳ
Mỗi thời đại dài hay ngắn, lớp tuổi trẻ ngưỡng vọng về một Mẫu người làm đối chiếu cho những hành động và phê phán của mình. Sau khi quyết định hành động một điều gì và khi bình tĩnh kiểm điểm lại, người ta thường đưa mẫu người của thời đại ra để đối chiếu phê phán:
* Ở thời cổ Hy Lạp, với Socrates suy tư, ngược lại với hành động xâm chiếm của Alexandre Đại đế, người ta dần dần hình thành Mẫu người “Le Sage“ (Khôn ngoan), sống với đầu óc suy nghĩ.
* Với những Thế kỷ dài của Đế quốc La Mã, Mẫu người Khôn ngoan suy tư đã nhường chỗ cho Mẫu người “Chinh chiến “ (Guerrier). Những tướng viễn chinh chiếm đất cho Đế quốc là Mẫu người hùng của thời đại.
* Khi Đế quốc La Mã tan rã, Tây phương trải qua một thời đại bành trướng của những nhóm người gọi là phát xuất từ Man Rợ (Barbares). Không có Mẫu người được hình thành.
* Thời Trung Cổ Âu châu, với bành trướng và thống trị của Kitô Giáo, một Mẫu người được hình thành là “Thánh“. Người ta muốn trở lên Thánh, muốn lấy gương các Thánh ra để đối chiếu phán đoán cho mọi việc. Các nhóm người họp lại sống chung, lấy gương của một vị Thánh làm mẫu mực. Đây là thời kỳ phát triển cao nhất của các Dòng Tu theo Mẫu từng Thánh lập Dòng. Cũng trong thời kỳ dài Trung Cổ này, có những người không trong Dòng Tu, nhưng hoạt động chính trị hay xã hội, vẫn lấy mẫu mực Bác ái, Xả thân cứu đời, nhất là cứu những kẻ yếu đuối, theo tinh thần Kitô Giáo. Một Mẫu người trần thế (không tu) được gọi là “Hiệp sĩ“ (Chevalier).
* Song song với sự phát sinh Mẫu người “Khôn ngoan“(Sage) của Tây phương, Á châu cũng phát triển Mẫu người “Chính Nhân“, “Quân Tử“ mà nền tảng phát xuất từ tư tưởng của Lão tử và Khổng tử.
* Cuộc Cách Mạng Pháp chuyển sang thời kỳ Cận đại cùng với Phát triển Kinh tế (La Bourgeoisie) và triển nở Kỹ nghệ từ Anh quốc đã làm lu mờ hình ảnh người Hiệp sĩ (Chevalier). Trong những tranh chấp vật lộn với cuộc sống ấy, một Mẫu người dần dần hình thành tại Hoa kỳ: “Cow Boy“ mà hình ảnh kết tinh như ở con người John WAYNE qua những phim Westerns tràn lan. Con người John WAYNE nói ít, nhưng khi cần thì nói thẳng gọn gàng, nhất là hành động liền theo lời nói. Những Tổng thống Hoa kỳ như REAGAN, BUSH nói và hành động mang phần ảnh hưởng của Mẫu người John WAYNE.
Barack OBAMA và mặc cảm tự tôn
về chiếc áo choàng Nobel Hòa Bình
Khi Barack OBAMA vừa lên làm Tổng Thống Hoa kỳ, thì người ta choàng cho chiếc áo Nobel Hòa Bình mà Ông không cần phải nộp đơn xin xỏ gì cả. Hai chữ Hòa Bình ở đây chỉ nhằm để Ôâng tìm mọi cách chấm dứt chiến tranh, không cần biết một cuộc chiến có chính đáng và cần thiết hay không. Nó có thể giống như chiếc áo Nobel Hòa Bình khoác cho Kissinger và Lê Đức Thọ mà hậu quả là CS Bắc Việt xâm lăng bằng vũ lực trọn Miền Nam Việt Nam, mở những Trại tù nhốt quân dân cán chính Miền Nam, làm cho gần ba triệu người vượït và chết ở rừng núi, đổ ra biển làm mồi cho cá mập và hải tặc. Khoác chiếc áo Nobel Hòa Bình ấy, TT.Barack OBAMA bắt đầu dùng Tòa Bạch Ốùc như Tòa án để tố cáo tội ác chiến tranh của TT.BUSH, không cần biết rằng phần lớn dân Irak phải cám ơn TT.BUSH đã lật đổ dùm họ nhà độc tài khát máu Saddam Hussein, phần lớn dân Afghanistan cảm ơn TT.BUSH đã tiểu trừ Taliban.
Về quyết định cáo buộc tội cho TT.BUSH, thì TT.Barack OBAM rất mạnh, nhưng khi chính mình Ông phải lấy những quyết định đối với những tội ác của các cáo già chính trị thế giới, thì Ôâng nói Lý thuyết sách vở nhiều nhưng không dám hành động, mà còn phần lớn là thụt lùi:
* Khoác chiếc áo Nobel Hòa Bình, Ôâng sang Le Caire diễn thuyết nhằm “đối thoại“ với Thế giới Hồi Giáo, nhưng kết quả sau đó chẳng có gì.
* Vì khoác áo Nobel Hòa Bình và để chiều PUTIN, TT.OBAMA đã bỏ dàn Phòng Hỏa Tiễn mà TT.BUSH đã xây dựng tại Ba Lan.
* Nhiều lần TT.OBAMA nói mạnh về vấn đề Nguyên Tử với Iran, nhưng không dám hành động để ngày nay Iran có bom Nguyên Tử đe dọa Israel và Trung Đông.
* Trong cuộc Họp Thế giới tại Bắc Ââu về Khí Hậu, TT.OBAMA chính thức mời Thủ tướng Ôn Gia Bảo đến một cuộc Họp riêng, nhưng Ôn Gia Bảo không thèm đến. TT.OBAMA đành để yên nhân danh Nobel Hòa Bình làm Ôn Gia Bảo trở thành nhờn.
* Về vấn đề gian giảo nơi Tỷ giá đồng Yuan và Đô-la, Quốc Hội Mỹ đã yêu cầu TT.OBAMA phải tuyên bố công khai rằng Trung quốc là “Currency Manipulator “, nhưng Ông đã cản ngăn nhiều lần để Trung quốc cứ tiếp tục gian manh làm thiệt hại cho cả Thế giới.
* Trong cuộc Họp tại Hạ Uy Di, TT.OBAMA tuyên bố thành lập Hiệp Hội Tự Do Mậu Dịch Xuyên Thái Bình Dương và có ý loại Trung quốc ra khỏi Hiệp Hội này. Đây là tiền thân TPP ( Khu Đối Tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương TransPacificPartnership) mà TT.OBAMA muốn thương lượng mời Việt Nam gia nhập. Trong khi đó, Trung quốc không cần nộp đơn vào Hiệp Hội của Hoa kỳ mà tự động mở vùng Tự Do Mậu Dịch CHINA-ASEAN lấy tên là CAFTA (China Asean Free Trade Agreement)! Việt Nam, qua Trương Tấn Sang, đã ký “nhất trí“ với Trung quốc tháng 6/2013 gia nhập CAFTA trước khi qua Mỹ mới đây để bàn về TPP của TT.OBAMA. Liệu TPP của TT.OBAMA, nói giỏi Lý thuyết với chiếc áo Nobel Hòa Bình có thể đối chọi được với CAFTA của Trung quốc gồm những cáo già chính trị đầy gian manh trong việc giành giựt miếng ăn từ hột gạo.
* Nếu còn Mẫu người John WAYNE hay hình ảnh TT.BUSH (Cow Boy Texas), thì Bắc Hàn không thể láo lếu đe dọa ném bom Nguyên Tử sang Hoa kỳ.
Quyết định thụt lùi
cho trường hợp Syria
Nếu TT.Barack còn nghĩ đến Mẫu người John WAYNE tượng trưng một thời đại vàng son của Xã Hội Hoa kỳ, thì Ôâng chỉ cần nói những điều cần thiết và hành động thực tiễn như John WAYNE: “CÁI BẠT TAI “ cho kẻ làm bậy mà không cần dài lời biện bạch sau đó, thì kẻ muốn làm bậy cũng phải rút lui trước khi phải bị “CÁI BẠT TAI“.
Nhưng TT.OBAMA là một thư sinh muốn thi thố tài biện bạch Lý thuyết, lại còn mang mặc cảm tự tôn cho chiếc áo choàng Nobel Hòa Bình, nên chỉ đe dọa đánh rồi thụt lùi để bảo vệ chiếc áo Nobel Hòa Bình. Không những thế, một số nhà bình luận cho rằng khi TT.OBAMA xin Lưỡng viện Mỹ bỏ phiếu, Ôâng muốn chơi trò chính trị đổ lỗi “Hiếu chiến“ cho phía Cộng Hòa nếu Lưỡng viện bỏ phiếu thuận. Còn nếu Lưỡng viện bỏ phiếu không thuận, thì không có can thiệp Quân sự, nghĩa là TT.OBAMA được tiếng “Hiếu Hòa“ trong chiếc áo Nobel Hòa Bình.
Theo rõi vụ việc Syria từ khi dân nổi dậy làm CÁCH MẠNG, chúng tôi đã mang tâm tình chán nản đối với Quốc tế. Thực vậy, Quốc tế để cho nhà độc tài giết dân, được Nga và Trung quốc ủng hộ làm tê liệt Liên Hiệp Quốc.
Từ ngày 21.08.2013, ngày mà Bassard el-Assad dùng bom hóa học để giết dân, ngày vượt qua lằn ranh ĐỎ mà TT.OBAMA đã từng hứa phải động thủ quân sự, chúng tôi đã viết hai lần và lần này là lần thứ ba về sự thụt lùi của TT.OBAMA trong chiếc áo Nobel Hòa Bình mà người ta đã choàng cho.
Vấn đề Syria không phải chỉ là vũ khí hóa học,
mà là vấn đề Dân nổi dậy chống độc tài
Nếu chỉ vì lằn ranh vũ khí hóa học mà Quốc tế phải phản ứng, thì đó là thiếu sót. Thực vậy vấn đề Syria bao quát rộng lớn hơn nhiều cái lằn ranh vũ khí hóa học. Đó là:
* Dân chúng Syria không chịu nổi chế độ độc tài Bassard el-Assad, nên nổi dậy làm CÁCH MẠNG lật đổ chế độ ấy.
* Dân chúng đòi một thể chế tôn trọng Nhân quyền và Dân quyền, có quyền Tự do cá nhân và quyền Dân chủ xã hội.
* Nhà độc tài Bassard el-ASSAD đã sử dụng vũ lực để đàn áp đẫm máu dân chúng. Thậm chí ngày 21.08.2013, chế độ độc tài còn dùng vũ khí hóa học giết 1’419 người dân. Vũ khí hóa học chỉ mới dùng để giết 1’419 người dân trong khi đó những vũ khí khác đã giết tới 100’000 người dân. Vì vậy vũ khi hóa học chỉ là rất nhỏ (0.14%) sánh với việc giết dân bằng những vũ khí khác. Nếu giải quyết hiện nay chỉ nhằm bỏ vũ khí hóa học , thì kể là vấn đề Syria chưa giải quyết được gì.
* Vì quyền lợi làm ăn mà Nga và Trung quốc ủng hộ chế độ khát máu Bassard el-Assad, làm tê liệt cả một Liên Hiệp Quốc, một Tổ chức nhằm bảo vệ quyền của mỗi Quốc gia, bảo vệ Dân quyền và Nhân quyền. Nếu chỉ giải quyết một vụ nhỏ vũ khí hóa học mà để dân chúng tiếp tục bị đàn áp, bị giết hại, thì Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã trùm chăn trốn bỏ sứ mệnh của mình.
* Nếu Hoa kỳ, qua TT.OBAMA, chỉ vỏn vẹn giải quyết có vũ khí hóa học, thì cũng là trốn chạy khi mình có lý và có khả năng cứu dân Syrie khỏi bị giết lát. Người ta có lý để gọi Hoa kỳ là Cọp Giấy như TNS Barbara BOXER (Dân chủ, California) đã nói: “IRAN WILL VIEW US AS A PAPER TIGER! “
Chúng tôi viết ba lần về sự thụt lùi của TT.OBAMA khi nhìn vấn đề Syria như trên:
Thụt lùi lần nhất
viết ngày 31.08.2013
Ngày 31.08.2013, khi thấy TT.OBAMA chưa lấy quyết định ném bom Syria, rồi còn rào lại cho Lưỡng viện Hoa kỳ quyết định, chúng tôi thấy cái mòi thoái thác, đồng thời chúng tôi nghĩ đến những trào lưu trong nhiều năm nay chỉ tin và ký Thỉnh Nguyện Thư lên TT.OBAMA cho vấn đề của Việt Nam. Chúng tôi đã viết vỏn vẹn:
SYRIE:BÀI HỌC KÊU GÀO NHÂN QUYỀN
Chúng tôi đã viết từ lâu và luôn nhấn mạnh rằng người Việt Nam hãy tự cứu lấy mình đối với Cơ chế CSVN PHI NHÂN QUYỀN từ bản chất do ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP tiên thiên cho phép. Nhưng dường như hầu hết những cuộc đấu tranh ở nước ngoài từ rất nhiều năm nay, nhất là tại Hoa Kỳ, chỉ mơ mộng ký hết Thỉnh Nguyện Thư này đến Nguyện Thỉnh Thư khác lên TT.Obama van nài Ông trừng phạt CSVN nhân danh NHÂN QUYỀN.
Trong cuộc Họp Báo giữa Trương Tấn Sang và Obama, TT.Obama còn khen Trương Tấn Sang đã « thảo luận đứng đắn và THÀNH THỰC«, trong khi ấy người Việt Nam, từ thời TT.THIỆU, đều biết rằng CSVN là đám luôn luôn nói LÁO, GIAN MANH, XẢO TRÁ. Chỉ có thư sinh Obama mới khen CSVN thảo luận đứng đắn và THÀNH THỰC.
Vụ Syrie cho những ai ký Thỉnh Nguyện Thư thấy TT.Obama làm cho Mỹ trở thành con cọp giấy. Tên độc tài ở Syrie dùng vũ khí Hóa học đó ! Cứ tin Mỹ cứu dùm Hoàng Sa, nhưng Tầu nó hù một cái, TT.Obama có thể thành mèo cụp đuôi ! Chính người Việt Nam phải đổ máu ra bảo vệ lãnh thổ lãnh hải mới được !
Bài dưới đây phân tích những hậu quả của việc nói hay nói giỏi mà không dám làm của TT.Obama cho chính Mỹ đã trở thành cọp giấy !
Nguyễn Phúc Liên
Thụt lùi lần hai
viết ngày 05.09.2013
Chúng tôi tìm hiểu những nhận định của báo chí, nhất là báo chí Ââu châu và viết ngày 05.09.2013 tóm tắt những biến cố thụt lùi và những nhận định từ báo chí:
“SYRIE HAY VIỆT NAM: ĐẶT VẤN ĐỀ TIN TƯỞNG QUỐC TẾ
Cuộc Cách Mạng tại Syrie đã kéo dài 2 năm trong máu lửa. Hơn 100’000 dân đã thiệt mạng. Hai triệu người Syrie bỏ nước chạy sang tỵ nạn ở những nước láng giềng. Năm triệu dân phải rời nơi cư ngụ trong nội địa. Liên Hiệp Quốc trở thành tê liệt vì Nga và Trung quốc dùng quyền phủ quyết. Vấn đề Nhân Quyền ở chỗ nào, hay đây chỉ là vấn đề quyền lợi vật chất ? Từ ngày 21.08.2013, với vũ khi giết người hàng loạt bằng hơi độc sarin, Thế giới đặt ra vấn đề tội ác đối với nhân loại.
Phản ứng đối với Thái độ của TT.Obama và của Hoa kỳ
TT.Obama đã long trọng tuyên bố lằn ranh ĐỎ của vũ khí hóa học nếu Bachar el-Assad không tôn trọng. Ngày 21.08.2013, quân đội của nhà độc tài đã sử dụng bom hơi Sarin để giết gần 1’500 người dân. Phản ứng của Hoa kỳ là những lực lượng Hải quân Mỹ tiến về Trung Đông. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ tuyên bố sẵn sàng động thủ cho việc tấn công quân sự. Thế giới nhìn chờ đón. Quyết định tối hậu là lệnh của TT.Barack Obama.
Đợi đến ngày 30.08.2013, TT.Barack Obama vẫn chần chờ và chưa có quyết định dứt khóat. Ngày 31.08.2013, TT.Obama nói rằng Hoa kỳ sẽ tấn công, nhưng Ôâng muốn có biểu quyết của Lưỡng viện về việc này, mà Lưỡng viện chỉ có thể Họp sau ngày 09.09.2013 vì nghỉ hè. Thái độ này và lời tuyên bố cuối tuần của TT.Obama đã gây phản ứng khắp nơi, nhất là tại Ââu châu:
* TT.Hollande Pháp coi như mình bị phản bội. Các báo LE FIGARO và LIBERATION của Pháp coi như TT.Hollande đã bị gài bẫy (“píegé“) bởi TT.Obama.
* Ngày 03.09.2013, Nhật báo TRIBUNE DE GENEVE, trang 2, đăng bài Bình Luận của Ký giả Claude MONNIER với đầu đề công kích Tây phương: SYRIE? L’OCCIDENT A DEJA PERDU… (Syrie? Tây phương đã mất…)
* Ngày 03.09.2013, Nhật báo LE TEMPS (Thụy sĩ), trang 4, đăng bài của Ký giả Stéphane BUSSARD viết từ New York: “En espace de trois jours, on a à peu près tout entendu à propos de Barack Obama. Le président américain est un lâche. Il a sapé le crédit de la premìere puissance mondiale, confirmant au dictateur syrien Bachar el-Assad et au président russe Vladimir Poutine l’impuissance des Etats-Unis ! (Trong khoảng thời gian có 3 ngày, người ta ít nhiều đã nghe tất cả về Barack Obama. Tổng thống Mỹ là một người hèn. Ôâng đã làm sụp đổ sự tín nhiệm vào một cường quốc hạng nhất của Thế giới, khẳng định cho tên độc tài Syrie Bachar el-Assad và cho Tổng thống Nga Vladimir Poutine về sự bất lực của Hoa kỳ).
* Đêm 03.09.2013, trong buổi Điều trần trước Thượng Viện Hoa kỳ của các Đại diện Tòa Bạch Ốùc, Bộ trưởng Ngoại Giao, Bộ trưởng Quốc Phòng và Tướng Chủ tịch Bộ Chỉ huy Liên quân, TNS.Barbara BOXER (Dân chủ, California) không ngần ngại tuyên bố: “IRAN WILL VIEW US AS A PAPER TIGER “, “WE CANNOT CLOSE OUR EYES! “ (IRAN SẼ NHÌN HOA KỲ NHƯ MỘT CON CỌP GIẤY. CHÚNG TA KHÔNG THỂ NHẮM NGHIỀN MẮT LẠI).
* Trong suốt buổi Điều Trần ngày 04.09.2013, cả phía Tòa Bạch Ốc và phía Thượng Nghị sĩ, điều quan trọng không phải là những giá trị tinh thần hay đạo đức mà chính là những quyền lợi của Hoa kỳ trong vùng Trung Đông và trên Thế giới bị thiệt hại do sự mất tin tưởng vào Hoa kỳ nếu Hoa kỳ cứ nhắm mắt thụt lùi, trì hoãn. Không phải chỉ nguyên những quyền lợi mà còn vấn đề an ninh của chính Hoa kỳ trên Thế giới, nếu những nhóm khủng bố, những tên độc tài thấy Mỹ trở thành cọp giấy.
* Ngày 04.09.2013, trên đường đi họp G20, TT.Obama ghé Thụy Điển gặp Thủ tướng nước này để kêu gọi sự đồng minh. Thủ tướng Thụy Điển và TT.Obama cùng họp báo . Thụy Điển không chấp nhận đồng minh với Mỹ trong việc ném bom Syrie nếu không có Quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
* Ngày 05.09.2013, Uûy Ban Ngoại giao Thượng Viện đã chấp thuận giải quyết với số phiếu 7/10 chấp thuận cho việc ném bom trong hạn định hai tháng và không có việc đổ bộ người vào lãnh thổ Syrie. Quyết định này sẽ được đưa ra Lưỡng Viện để biểu quyết trong tuần tới. Dầu sao vì QUYỀN LỢI và AN NINH của Hoa kỳ, chứ không phải vì nhân quyền hay những giá trị luân lý, đạo đức, mà Uûy Ban Ngoại giao của Thượng viện đã tiến được một bước tích cực. Còn phải đợi bầu phiếu của Lưỡng Viện !
* Theo Báo, Đài, thì cuộc Họp G20 hôm nay 05 và ngày mai 06.09.2013 chắc chắn có những thảo luận về vấn đề Syrie. Như vậy người ta chỉ có thể nhìn vấn đề sáng sủa hơn trong tuần tới.»
Thụt lùi lần ba
viết ngày 12.09.2013
Đợi đến ngày 09.09.2013 để nghe Đại diện Tòa Bạch Ốùc điều trần trước các Thượng Nghị sĩ, rồi ngày 10.09.2013 nghe Bài Diễn Văn của TT.OBAMA cho dân chúng Hoa kỳ, chúng tôi lại thấy một cuộc thụt lùi nữa quan trọng do Nga và Syria đề nghị. Bài Diễn Văn nói đến 3 điểm chính thụt lùi sau đây:
1) TT.OBAMA chỉ nói đến vũ khí hóa học làm cớ cho Hoa kỳ sửa soạn ném bom. Ôâng không nhắc gì đến thảm cảnh chết chóc dân chúng do những vũ khí khác. Vũ khí hóa học chỉ chiếm 0.14% những vũ khí giết dân khác.
2. Do Nga đề nghị giải pháp đòi Syria tập trung vũ khí hóa học và Liên Hiệp Quốc kiểm soát hay phá hủy, Hoa kỳ ngưng giải pháp quân sự mà chọn giải pháp Chính trị theo đề nghị của Nga.
3) TT.OBAMA đề nghị hoãn lại cuộc bầu phiếu của Lưỡng viện cho đến khi giải quyết Chính trị thất bại.
Suy nghĩ của chúng tôi như sau:
* Vũ khí hóa học chỉ là điểm nhỏ, trong khi đó Bassard el-Assad vẫn dùng những vũ khí khác và tiếp tục giết dân. Chỉ ngưng vũ khí hóa học, nhưng không ngưng việc giết người tại Syria.
* Việc kiểm soát quốc tế về vũ khí hóa học trong đó có Nga và Trung quốc khó lòng tin tưởng được. Sẽ có những gian xảo.
* Giải pháp Ngoại giao và Chính trị luôn luôn kéo dài do thảo luận đi thảo luận lại, trong khi ấy dân tiếp tục chết.
* Vấn đề Bassard el-Addad phải ra đi không được đặt ra.
* Liên Hiệp quốc và Hoa kỳ sẽ không đi đến tố cáo TÒNG PHẠM Nga và Tầu làm tê liệt Tổ chức Liên Hiệp Quốc vì quyền lợi riêng của những nước đó.
Về việc thụt lùi này của TT.OBAMA, chúng tôi xin lấy lại Bản Tin của Đài Truyền Hình EURONEWS sáng hôm nay 12.09.2013. Bản Tin chiếu hình của những Vị sau đây và những lời tuyên bố:
=> TT.Pháp HOLLANDE và Tt.Anh CAMERON chỉ nhắc đến giải pháp Chính trị và coi như là bỏ giải pháp quân sự.
=> TT.OBAMA và Bộ trưởng KERRY thuyết minh cho Giải pháp Chính trị dựa trên việc Liên Hiệp Quốc kiểm soát và phá huỷ vũ khí hóa học do Nga đề nghị.
=> Nhà báo của ABC News, Bà Martha RADDALZ đã thẳng thừng phê bình rằng giải pháp Chính trị chỉ là cách cứu vãn TT.OBAMA vì Ôâng biết rõ rằng dân chúng Mỹ không thuận cho giải pháp quân sự ném bom của Ông. Ôâng nói rằng nếu Giải pháp Chính trị thất bại thì Ôâng xin Lưỡng viện biểu quyết. Nhưng nếu Lưỡng viện bỏ phiếu “NO“ , thì cả hai Giải pháp đều thất bại hay sao ?
Mất lòng tin vào Quốc tế,
Dân Việt Nam hãy tự cứu lấy mình
Đã từ lâu, chúng tôi thường trực tiếp hay gián tiếp kêu gọi những Phong trào đấu tranh chỉ nói về Nhân quyền và nhờ Quốc tế can thiệp với Cơ chế độc tài độc đảng CSVN, đừng quá nhiều ảo tưởng hy vọng Quốc tế sẽ xúm nhau giúp mình giải quyết quốc nạn CSVN. Quốc tế không tiêu tốn tiền bạc, nhất là sinh mạng của dân họ để mang dâng cho chúng ta những đòi hỏi về những giá trị luân lý, nhân quyền, dân quyền. Họ chỉ can thiệp khi quyền lợi vật chất của họ bị tổn hại hay an ninh của dân họ bị đe dọa. Về điểm dân Việt phải tự đổ máu cứu mình , chúng tôi và PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM HÀNH ĐỘNG CỨU NƯỚC luôn luôn đồng một Lập trường với Hình ảnh nêu gương cho con cháu về cuộc NỔI DẬY của hai Bà TRƯNG. Đó là Hình ảnh khởi đầu dậy cho con cháu cái TINH THẦN QUẬT CƯỜNG ĐỂ SINH TỒN của Dân Tộc Việt suốt những ngàn năm Lịch sử.
Trước cảnh thụt lùi của Quốc tế như đã viết trên đây, ngày 05.09.2013, chúng tôi còn viết như sau kêu gọi Việt Nam hãy tự tin vào Tinh thần Quật cường để Sinh tồn của Tổ Tiên và tự cứu mình khỏi ách độc tài CSVN và khỏi xâm lăng từ Trung quốc:
“Nếu vấn đề Syrie tại Trung Đông có phần xa xôi đối với chúng tôi, thì vấn đề Việt Nam là vấn đề trực tiếp thiết thân đối với mọi người Việt trong cũng như ngoài nước. Trường hợp Syrie và Việt Nam có những điểm tương tự:
* Dân Syrie sống dưới ách độc tài của Bachard el-Assad. Dân Việt Nam sống dưới ách độc tài của cả đảng CSVN.
* Quân đội Syrie, do quyền lợi của lớp sĩ quan chỉ huy, trung thành với nhà độc tài và dùng sức mạnh giết dân tàn nhẫn. Quân đội nhân dân VN, tầng lớp sĩ quan thuộc đảng và hưởng tiền bạc từ đảng, không phải chỉ trung thành với đảng mà do chính đảng chỉ huy, chắc chắn dùng sức mạnh bạo lực để đàn áp dân. Thêm vào đó, lực lượng Công an cũng do đảng trực tiếp chỉ huy cũng là lực lượng dùng bạo lực kè cổ dân hàng ngày và mọi nơi.
* Nga và Trung quốc, vì quyền lợi vật chất làm ăn, bảo trợ cho chế độc độc tài của Bachar el-Bassad. Hai nước này làm tê liệt những quyết định của Liên Hiệp Quốc với quyền Veto nắm trong tay. Tại Việt Nam, Trung quốc là chủ điều hành, ra lệnh cho đảng CSVN. Trung quốc sẵn sàng làm tê liệt Liên Hiệp quốc với quyền Veto nếu Tây phương, nhất là Hoa kỳ đưa việc đàn áp nhân danh Nhân Quyền ra trước Liên Hiệp quốc.
“Nhìn vấn đề Syrie diễn ra lúc này, người dân Việt Nam phải lấy chính sức lực của mình để cứu mình. Còn nếu chỉ ỷ lại, hoàn toàn tin tưởng ở những Chính quyền nước ngoài, những Tổ chức Quốc tế, nhân danh những Giá trị tinh thần, nhân danh Nhân Quyền, mong thoát được ách độc tài CSVN, thì chúng ta đi từ những thất vọng này đến những ảo tưởng khác.”
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
BÍCH NGỌC * VÍ TIỀN
Mới
đây, tờ tạp chí gia đình của Mỹ Reader’s Digest đã thực hiện một khảo
sát nhỏ để tìm hiểu xem thành phố du lịch nổi tiếng nào có người dân
trung thực nhất. Họ đã chuẩn bị sẵn 192 chiếc ví đựng tiền và đem đến
các thành phố du lịch nổi tiếng nhất, giả vờ thả rơi trên đường phố của
tổng cộng 16 thành phố. Trong
ví có các giấy tờ tùy thân cho biết tên tuổi, số điện thoại của chủ
nhân chiếc ví, ngoài ra còn có ảnh gia đình, những phiếu mua hàng giảm
giá và các tấm danh thiếp. Trong ví còn có số tiền tương đương 50 đô la
Mỹ (khoảng hơn 1 triệu VND) đã được đổi ra tiền địa phương. Đến
mỗi
thành phố, họ lại giả vờ làm rơi 12 chiếc ví ở các địa điểm khác nhau
như công viên, siêu thị, vỉa hè… và chờ đợi xem sẽ có bao nhiêu chiếc ví
được trả lại.
Kết quả khá thú vị:
Người dân ở thành phố Helsinki, Phần Lan là trung thực nhất.
Trong số 12 chiếc ví bị rơi, có tới 11 chiếc ví được trả lại.
Có 9/12 chiếc ví bị rơi ở thành phố Mumbai, Ấn Độ được đem trả cho chủ nhân.
Như vậy, Mumbai về nhì về mức độ trung thực của người dân.
Có 8/12 chiếc ví được người dân thành phố Budapest, Hungary
đem trả cho người đánh mất. Budapest đứng thứ 3.
Đồng hạng 3 còn có thành phố New York,
Mỹ với 8 chiếc ví được trả lại.
Người dân thành phố Moscow, Nga đứng thứ 4 với 7 người
trung thực trả lại ví và 5 người “tiện tay cầm hộ”.
Đồng hạng 4 với Moscow là thành phố Amsterdam của Hà Lan.
Một nửa số dân ở thành phố Berlin, Đức là người trung thực
với 6/12 chiếc ví đánh rơi được đem trả. Berlin đứng thứ 5.
Đồng hạng 5 là thành phố Ljubljana của Cộng hòa Slovenia
(một đất nước thuộc Nam Âu).
Ở vị trí thứ 6 là thành phố London, Anh với 5/12 người trả lại ví.
Đồng hạng 6 là người dân ở thành phố Warsaw của Ba Lan.
Họ có vẻ cũng thích việc “cầm hộ” với 7/12 chiếc ví mất hẳn tung tích.
Kết quả khá thất vọng khi chỉ có 4/12 người nhặt được của rơi ở thành phố Bucharest, Romania đem trả cho người bị mất. Bucharest đứng thứ 7 về mức độ trung thực.
Đồng hạng 7 là thành phố Rio de Janeiro của Brazil.
Điều bất ngờ nhất là ở một thành phố nổi tiếng phát triển và văn minh như Zurich, Thụy Sĩ, người dân cũng không hoàn toàn trung thực. Chỉ có 4/12 chiếc ví được trả lại. Zurich cũng đứng ở vị trí thứ 7.
Thành phố Prague, Cộng hòa Séc đứng ở vị trí thứ 8 với 3/12 người trung thực.
Thành phố du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha - Madrid có lẽ sẽ khiến nhiều du khách thất vọng với chỉ 2 người trả lại ví. Madrid đứng ở vị trí thứ 9.
Tỉ lệ nhận lại ví thấp nhất thuộc về thành phố Lisbon, Bồ Đào Nha với duy nhất một chiếc ví được trả lại. Lisbon đứng ở vị trí chót bảng về mức độ trung thực của người dân.
Như
vậy, với 192 chiếc ví đánh rơi, có tổng cộng 90 chiếc ví được trả lại,
tỉ lệ nhận lại ví trung bình ở mức 47%. Vì vậy, khi đánh rơi ví, nhìn
chung, du khách vẫn có thể hy vọng sẽ được nhận lại, nếu trong ví có đầy
đủ thông tin về vị chủ nhân.
Bích Ngọc
BILL GATES
Bill Gates dọn rác trong tâm như thế nào?
Mỗi con người được sở hữu bởi một chữ tâm! Tâm như là một “mảnh đất” tư hữu và quyền sở hữu cá nhân một cách tuyệt đối, không ai xâm phạm được.
Tâm của mỗi chúng ta, hẳn nhiên đang khu trú trong hình hài của mỗi con người rồi dần dà phát triển, lớn mạnh một cách tự nhiên theo hình hài, theo ngày tháng và theo cái vòng lẩn quẩn của sanh, bệnh, lão, tử. Chính vì thế, chúng ta phải biết kiểm soát tâm từ những hành vi, việc làm của chính ta giữa cõi đời này bằng cách thường xuyên nhắc nhở ta phải “dọn rác” trong tâm, đừng để rác rưởi sinh sôi nảy nở bám chặt vào tâm, e rằng khó gột rửa.
Nói đến việc “dọn rác” trong tâm, tạm mượn hình ảnh của nhà tỷ phú Hoa Kỳ Bill Gates, chỉ xin nói đến hai giai đoạn theo thiển nghĩ của tôi, ông ta có sự chuyển hóa tâm (mang tính đạo đức) rõ nét nhất.
Giai đoạn thứ nhất: Thời gian ông ấy đem tâm mình để đưa sự phát triển công nghệ thông tin đến tột đỉnh, vừa phục vụ cho sự phát triển kỹ thuật, vừa đem lại nguồn lợi nhuận kinh tế lớn cho đất nước cũng như bản thân mình. Bill Gates sớm trở thành nhà tỷ phú không những “tài sản” riêng của Hoa Kỳ mà cả thế giới khi ông còn rất trẻ. Thực tài ấy của ông khiến bao nhiêu người trên thế giới ngưỡng mộ, trân trọng và cả sự thách thức, đố kỵ từ những kẻ kém tài hám lợi.
Giai đoạn thứ hai: Bill Gates tuyên bố “gác kiếm từ quan”. Khi tin này được loan ra, có những người yêu quý cái “đầu vàng” của ông băn khoăn tiếc nuối, ngược lại các đối thủ cạnh tranh của ông lại vỗ tay reo mừng, âu cũng là chuyện thường tình, trong lúc ông đang ở độ trung niên, tuổi nghề đang độ chín và công việc kinh doanh hết sức thuận lợi, sáng lạn ở phía trước.
Vậy mà, ông đành lòng “đoạn tuyệt” để dành thời gian toàn tâm toàn ý và bỏ ra một khoản tài sản khổng lồ (khoảng 30 tỷ dollars) thành lập một quỹ từ thiện nhằm chống chọi với căn bệnh thế kỷ AIDS và giúp đỡ người dân vùng đói nghèo bệnh tật nhất thế giới (châu Phi)… Việc làm của ông nhận được sự đồng thuận hưởng ứng một cách tích cực của người vợ hiền “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
Mặc dù họ có đến 3 người con, nhưng ông bà Bill Gates chỉ dành cho các con của họ một phần tài sản khiêm tốn ít ỏi. Bill Gates xem nhẹ đồng tiền “là vật ngoài thân” và cũng có thể nói ông đã xem đồng tiền chỉ là “phương tiện” mà chính ông đã dùng phương tiện đó một cách thật hữu ích... giúp cho những mảnh đời bất hạnh, nghèo đói, bệnh tật.
Và ông luôn mong muốn cho xã hội phát triển trong công bằng, người thương người, nhân ái, tốt đẹp theo ý nghĩa nhân bản nhân văn, không hề có sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo, như thổi vào một khát vọng vươn lên cho mỗi con người đều có được một cuộc sống tốt đẹp như nhau…
Trong khi đó ở xứ ta có những chuyện bi hài lắm kẻ “giàu giả” mà xài thật, họ vung tiền ăn xài một cách vô tội vạ, những buổi tiệc tùng đình đám tốn kém hàng chục tỷ đồng như những trường hợp gần đây ở huyện miền núi nghèo Hương Sơn - Hà Tĩnh, một phụ nữ tổ chức cưới vợ cho “cậu ấm”, trong đám rước dâu từ Hà Nội về Hương Sơn đã huy động hàng loạt “siêu xe” dài hàng mấy cây số, mời những ca sĩ tên tuổi trong và ngoài nước về hát hò (nghe nói với số tiền cát-xê cao ngất ngưởng), trong lúc người dân quê ở đây đang thiếu đói phải chạy ăn từng ngày, từng bữa do hậu quả thiên tai bão lụt triền miên để lại.
Một trường hợp khác cũng không kém phần kệch cỡm, đó là một nữ doanh nhân tổ chức đám cưới cho cậu “quý tử” cũng đưa hàng chục siêu xe để rước dâu từ Sài Gòn chạy lòng vòng về Cần Thơ để thiên hạ “lác mắt chơi”.
Trong khi doanh nghiệp do bà làm chủ đang nợ ngân hàng trên cả ngàn tỷ, nợ người nông dân một nắng hai sương đã cung cấp thủy hải sản nguyên liệu gần 300 tỷ đồng. Hơn thế nữa, bà chủ doanh nghiệp này cũng đã nhiều lần hứa đóng góp tiền giúp quỹ từ thiện xã hội, thực chất chỉ để đánh bóng tên tuổi của mình, sau đó không chuyển tiền cho tổ chức từ thiện như đã hứa… Những việc làm này gây xôn xao dư luận, gần đây qua hệ thống thông tin truyền thông càng tô đậm điểm đen trong xã hội ngày nay. Cũng có thể nói đây là những trường hợp điển hình khoe mẽ, hợm hĩnh, rác rưởi đã bám chặt trong tâm của các con người này!...
Với Bill Gates, ông hiểu cuộc đời này thật mỏng manh, vô thường, cái sống cái chết thay đổi trong từng sát-na nên ông đã đem tâm thực hành Bồ-tát hạnh bố thí, đây là một tấm gương sáng đáng cho chúng ta soi tâm. Qua hình ảnh và tấm gương của ông Bill Gates, ta có thể thấy rằng để có một cái tâm sáng trong, chúng ta luôn phải “dọn rác” trong tâm của chính mình!
LÊ MỘNG NGUYÊN* L' ÉTAT
Qu’est-ce que l’Etat
?
Ses conditions d’existence (Suite et
fin)
Par LÊ MỘNG
NGUYÊN
Membre de l’Académie
des Sciences d’Outre-mer
Dans notre précédent article (v. DL No 147- aỏt
2013, p.9), nous avons exposé la belle et généreuse conception française
(subjective) de la nation soutenue par Mancini, Michelet et notamment par
RENAN : « … La Nation, comme l’individu est l’aboutissement d’un long passé
d’efforts, de sacrifices et de dévouement… avoir des gloires communes dans le
passé, une volonté commune dans le présent ; avoir fait de grandes choses
ensemble, vouloir en faire encore ; voilà la condition essentielle pour être un
peuple… ». Que penser de la doctrine révolutionnaire de l’Etat-Nation ? Elle
réside dans l’existence même du principe de la souveraineté nationale. Ainsi,
pour que la souveraineté soit à la fois un attribut étatique et national, l’Etat
et la Nation doivent être une seule et même personne. Ce postulat n’est pas à
l’abri de toute critique, la nation et l’Etat étant deux entités distinctes : la
nation est un phénomène social (de nature sociologique et antérieure à la
formation de l’Etat) alors que l’Etat est un phénomène juridique (v. cependant :
la théorie de Burckhardt sur la constitution de l’Etat, évoquée par LE MONG
Nguyen dans « Contribution à la théorie de la constitution souveraine par le
peuple » in RDP No 4, juillet-aỏt 1971, p. 923-986). La nation de ce fait peut
être la destinataire des décisions du Pouvoir étatique mais ne peut en aucun cas
en constituer la substance… Il faut toutefois convenir que cette doctrine
révolutionnaire (la Révolution de 1789 n’a-t-elle pas été d’inspiration de la
moyenne bourgeoisie ?) ne comporte que des avantages (pour ceux qui sont au
pouvoir) sur le plan politique. Elle implique l’unité du Pouvoir et des forces
sociales cristallisant les aspirations collectives ; elle exclut toutes
divergences et par conséquent tout pluralisme partisan. C’est pour cette raison
que le marxisme qui substitue la conscience de classe à la conscience nationale
n’a cessé de compromettre l’unité du Pouvoir dans le cadre de
l’Etat-Nation.
D’autre part, en dehors des éléments : territoire et nation, pour que l’Etat existe effectivement, il faut un pouvoir politique « accepté », c’est-à-dire un pouvoir consenti. Est donc nécessaire le consentement au Pouvoir de la part des gouvernés. Le pacte de sujétion est une sorte de contrat par lequel les sujets reconnaissent l’autorité du prince à condition que celui-ci n’en use que pour servir l’intérêt général. Pacte dont l’idée remonte au Moyen-âge et qui se trouve confirmé dans les philosophies du XVIe, du XVIIe (Hobbes avec « Le Léviathan », Locke avec son « Essai sur le Gouvernement civil ») et du XVIIIe siècle (avec Montesquieu). Il suffit par ailleurs d’une reconnaissance passive : la non-opposition des gouvernés au pouvoir est considéré comme un signe d’acceptation. « Consentir c’est accepter, ce n’est pas dominer, c’est admettre la légalité de la domination » (G. Burdeau). Sur la légitimité du pouvoir consenti et pour Maurice Duverger, le pouvoir est légitime s’il repose sur un consensus (accord sur l’autorité, sur la forme du gouvernement). Quant à la conception d’une légitimité personnelle et populaire de l’homme (qui avait lancé le fameux « appel du 18 juin »), elle est exposée dans les « Mémoires d’Espoir », Tome 1, pages 283-284 de Charles de Gaulle : « … Mais moi, c’est sans droit héréditaire, sans plébiscite, sans élection, au seul appel, impératif mais muet, de la France, que j’ai été naguère conduit à prendre en charge sa défense, son unité et son destin. Si j’y assume à présent la fonction suprême, c’est parce que je suis, depuis lors, consacré comme son recours. Il y a là un fait qui, à cơté des littérales dispositions constitutionnelles, s’impose à tous et à moi-même. Quelle que puisse être l’interprétation que l’on veuille donner à quel ou quel article, c’est vers de Gaulle en tout cas que se tournent les Français ; c’est de lui qu’ils attendent la solution de leurs problèmes. C’est à lui que va leur confiance ou que s’adressent leurs reproches. Pour vérifier que l’on rapporte à sa personne les espérances aussi bien que les déceptions, il n’est que d’entendre les discours, les conversations, les chansons, d’écouter les cris et les rumeurs, de lire ce qui est imprimé dans les journaux ou affiché sur les murs. De mon cơté, je ressens comme inhérents à ma propre existence le droit et le devoir d’assurer l’intérêt national. » Pour le président Georges Pompidou, la légitimité repose sur le bulletin de vote : « … Quant à la légitimité, je tiens ma légitimité de l’élection libre du peuple français, qui m’a porté ó je suis et devant qui seul je suis responsable » (Conférence de presse du 21 janvier 1971). Pour en finir avec la légitimité du pouvoir, citons le sociologue allemand Max Weber selon lequel il y a trois types de pouvoir. Tout d’abord le Pouvoir traditionnel dans lequel il y a détention légitime du pouvoir par la personne à qui il a été dévolu historiquement (gouvernement du Prince). Ensuite le Pouvoir rationnel qui est celui que la majorité des citoyens considère comme raisonnable (gouvernement d’autorités investies par la loi). Ainsi le pouvoir élu (le bulletin de vote étant un acte de raison) est un pouvoir rationnel. Enfin le Pouvoir charismatique qui est celui faisant ressortir les dons propres de son détenteur (charme, prestige, etc.). En conclusion sur les conditions d’existence de l’Etat, on peut se poser la question suivante, qui donne matière à réflexion : La reconnaissance par les Etats (ou gouvernements) étrangers est-elle une condition nécessaire de l’existence de l’Etat ?
LÊ MỘNG NGUYÊN Membre de l’Académie des Sciences d’Outre-mer, Docteur d’Etat ès Sciences Politiques, Lauréat de l’Université Paris I-Panthéon Sorbonne, ancien diplomate et avocat à la Cour de Paris, juriste et politologue
CHỢ CHUỘT MIỀN TÂY
Cận cảnh chợ chuột Campuchia béo mầm tại miền Tây
Cả trăm tấn chuột từ Campuchia được tuồn về
Việt Nam mỗi ngày, sau đó được các đầu nậu làm thịt, lột da, mổ bụng rồi
mang tiêu thụ khắp miền Tây.
Bạn đang xem bài phóng sự ảnh. Nhấn vào đây để xem dưới dạng trình chiếu ("slideshow")
Những ngày này, nước lũ về ngập các cách đồng ở An Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang. Đây cũng là mùa chuột đồng xuất hiện số lượng lớn. Tại cửa khẩu Khánh Bình, An Phú (An Giang) giáp với xã Chray Thom, huyện Co Thum, tỉnh Kandal (Campuchia) có những vựa chuột cả trăm tấn được nhập từ Campuchia về. |
Sau khi xuồng chở chuột cập bờ phía An Phú, những lồng chuột này được chuyển về hàng chục điểm tập kết ở thị trấn Long Bình, hòa nhập với đàn chuột Việt Nam đã có mặt từ trước. |
Người dân ở An Giang tranh thủ đi bắt chuột bán cho các thương lái... |
Và lúc này, không ai còn phân biệt được đâu là chuột nội, đâu là chuột ngoại nhập. |
Ngoài các thương lái có điều kiện đến biên giới để thu mua chuột tận gốc, thì tại các địa phương giáp biên như An Phú, Châu Phú, Tịnh Biên của An Giang có cả trăm cơ sở chuyên thu gom chuột đồng. Ông Trương Văn Hùng, một trong những đầu mối thu gom chuột lớn nhất ở huyện Châu Phú, cho hay: "Có ngày doanh thu mua bán chuột hơn 50 triệu đồng". |
Cơ sở của ông Hùng giải quyết việc làm cho trên 30 lao động nông thôn có thu nhập ổn định. |
Những chú chuột được bắt ra ngoài, đập chết rồi chất thành từng đống chờ mổ thịt. |
Nhân công tập trung lột da, mổ bụng chuột. |
Em Nguyễn Hoàng Em, 12 tuổi ở Châu Phú (An Giang), mỗi ngày đi lột da chuột kiếm được 30.000 đồng. |
Chuột bị chặt đầu, mổ bụng được bỏ vào rổ chờ lột da. Những người phụ nữ ở đây không ai sợ... chuột. |
Chuột thành phẩm được ướp đá chuẩn bị mang đi giao cho các nhà hàng, quán nhậu. Hiện chuột sống loại I (cống nhum) có giá giá 60.000 đồng/kg, loại II (chuột đồng) 25.000 - 40.000 đồng/kg (tùy loại lớn nhỏ). |
Chuột quây lu lên bàn nhậu, đây là đặc sản ở miền Tây. |
Ngọc Trinh
Theo Tri Thức
BÀ THU TRANG
Cuộc đời truân chuyên của hoa hậu Việt Nam đầu tiên
Cập nhật lúc 16:40 27/03/2013
(Blog người nổi tiếng) - Từng ngồi tù, không chồng mà có con rồi phải ra nước ngoài để tránh sự đàn áp là những sóng gió trong cuộc đời bà Thu Trang.
Từng ngồi tù, không chồng mà có con rồi phải ra nước ngoài để tránh sự đàn áp là những sóng gió trong cuộc đời bà Thu Trang.
Trước năm 1975, Sài Gòn nói riêng và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói chung, có rất nhiều người đẹp mà nhan sắc đã đi vào giai thoại. Một trong số đó là người đẹp một thời Công Thị Nghĩa, hoa hậu đầu tiên tại Việt Nam, mà quen thuộc với công chúng bằng cái tên Thu Trang. Bà Công Thị Nghĩa sinh năm 1932, quê gốc tại Hà Nội. Học xong bậc tiểu học, bà theo gia đình vào Sài Gòn sinh sống để thuận lợi cho công việc của thân phụ bà.
Ngay từ thời con gái, bà đã đam mê viết văn, viết báo, đặc biệt là nghiên cứu về sử học (sau này, bà là tiến sĩ sử học, hiện định cư tại Pháp). Năm 20 tuổi, bà tham gia vào tổ chức Việt Minh, với nhiệm vụ là hoạt động điệp báo trong nội thành Sài Gòn. Tháng 7/1952, mật thám của Pháp phát hiện ra vai trò của bà trong tổ chức, bà bị bắt giam tại bót Catinat (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch TP HCM - đường Đồng Khởi, quận 1).
Thụ án ở bót này một thời gian, bà bị chuyển qua Khám Lớn - Sài Gòn (nay là Thư viện Tổng hợp TP HCM - đường Lý Tự Trọng, quận 1). Khoảng cách giữa bót Catinat và Khám Lớn là không xa. Những ngày thụ án của bà chỉ được khép lại khi luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã thắng lý quan tòa trong phiên xử về tội danh mà bà mắc phải.
Ra tù, với vốn chữ nghĩa sẵn có, bà tham gia một khóa học ngắn và bắt đầu theo nghề ký giả. Bà chuyên viết mảng văn hóa nghệ thuật. Bà ký tên Thu Trang, đây cũng là bút danh chính cho tất cả các trang viết, nghiên cứu lịch sử của bà.
Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm phát đi thông tin sẽ tổ chức một cuộc thi hoa hậu, thành phần ban giám khảo của cuộc thi này bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, nhà báo. Trong một lần đến phỏng vấn thành phần ban giám khảo để đưa tin, vài thành viên ban giám khảo đã khuyên bà: "Cô đẹp như vậy, nên đăng ký tham gia cuộc thi này". Nghe rủ rê, bà đăng ký tham gia với mục đích ban đầu là để vui.
Ngày 20/5/1955, nhân lễ Kỷ niệm Hai Bà Trưng, tại rạp hát Lido ở khu Chợ Lớn, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam chính thức được diễn ra. Gần như tất cả mỹ nhân đang sinh sống tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam đều xuất hiện tại cuộc thi này.
Do quan niệm ở thời điểm đó, nên không có phần thi áo tắm trong suốt cuộc thi hoa hậu. Xuất sắc vượt qua hàng loạt nhan sắc khác, Thu Trang chính thức đăng quang vương miện Hoa hậu. Á hậu 1 thuộc về cô Nguyễn Thị Ninh, người Hà Nội di cư vào Nam và Á hậu 2 là cô Ngô Yên Thu, người Cần Thơ. Bà Thu Trang đoạt ngôi Hoa hậu, với những thông số mà xét ở thời điểm này thì rất khó để đạt chuẩn, nhất là về chiều cao. Bà chỉ cao 1,61m, số đo 3 vòng là 86-62-88.
Phần thưởng cho danh hiệu Hoa hậu mà bà sở hữu là một chiếc môtô hiệu Lambretta, kiềng vàng, nước hoa và nhiều loại mỹ phẩm danh tiếng khác. Lambretta thời điểm đó rất có giá, thuộc dòng xe hai bánh cao cấp bậc nhất. Vì chiếc xe này, mà bà Thu Trang được nhiều người gọi đùa là "Hoa hậu Lambretta".
Sau khi trở thành Hoa hậu, cuộc đời bà bước sang một trang mới. Cũng như trào lưu bây giờ, bà trở thành nữ diễn viên trong nhiều bộ phim của Sài Gòn thời điểm đó. Năm 1956, bà đảm nhiệm các vai diễn trong nhiều bộ phim, như "Chúng tôi muốn sống" (đạo diễn Vĩnh Noãn), “Lục Vân Tiên” (đạo diễn Tống Ngọc Hạp).
Đầu năm 1957, bà cùng đạo diễn Tống Ngọc Hạp mang theo bộ phim Lục Vân Tiên sang Nhật để làm hậu kỳ. Đồng thời, cũng là để tham gia Đại hội Điện ảnh châu Á đang được tổ chức tại đây. Gần một tháng ở Nhật cùng với đạo diễn Tống Ngọc Hạp, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, giữa bà và đạo diễn nảy sinh tình cảm. Chuyện gì đến cũng đến, bà có mang.
Trong cuốn hồi ký của mình, bà có thổ lộ khá chi tiết về mối tình không lối thoát này, bà viết: "Tới tuổi 25 tôi mới thành đàn bà trong hoàn cảnh bi thảm. Bị đưa vào những tình huống mà tôi cảm nhận là mình đã không thể tránh. Khi người đàn ông đam mê, nên dễ bị say trong nỗi cuồng điên man dại? Hay chính tôi là một đối tượng có những nét gì khó gần, quá giữ gìn càng gây kích thích trong sự phải chiếm đoạt? Phải chinh phục do tự ái của đàn ông tính, pha lẫn với ít nhiều tưởng tượng là tình yêu?
Ngang trái thay, tôi đã không biết gì trên phương diện tình dục. Tôi có thai ngay trong tháng đầu tại Tokyo. Chúng tôi đã sống trong thảm cảnh kế tiếp khi về tới Sài Gòn cuối năm 1957. Thật là cả một cơn giông bão phũ phàng đổ ập xuống tôi khi vừa bắt đầu làm mẹ. Xã hội Việt Nam thời ấy chưa có chút vị tha nào cho những sự kiện như vậy".
Về lại Sài Gòn, bà liên tiếp hứng chịu sự chỉ trích của dư luận. Đơn giản vì khi ấy, đạo diễn Tống Ngọc Hạp đã có vợ và con. Mặc cho điều đó, bà vẫn kiên quyết giữ lại đứa con. Sau này, bà vẫn cho con theo họ của bố, bà đặt tên là Tống Ngọc Vân Tiên. Cái tên như lưu dấu kỷ niệm về tình cảm mà bà dành cho đạo diễn. Rất nhiều năm sau, bà vẫn không mở miệng oán trách vị đạo diễn này bất cứ lời nào.
Là một mỹ nhân, lại đang trên đà danh vọng, đột nhiên lâm vào tình cảnh "không chồng mà có con", thế nhưng không vì vậy mà sức quyến rũ của bà đối với người khác giới suy chuyển. Một trong những người đàn ông rất nổi tiếng mê đắm bà đến quên ăn quên ngủ chính là… thi sĩ Bùi Giáng.
Giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn đoán chắc rằng câu thơ đầy lạ lùng và nổi tiếng của Bùi Giáng là: "Còn hai con mắt, khóc người một con" chính là viết cho riêng bà. Nhiều người cho rằng, "khóc người một con", tức là thương cảm cho người phụ nữ có một con chứ không liên quan gì đến chuyện… nhãn cầu. Tất nhiên, với chữ nghĩa của một thi sĩ như Bùi Giáng, thì ai suy nghĩ sao cũng được. Ngoài việc bà là "tác nhân chính" cho câu thơ trên của Bùi Giáng, thì thi sĩ Bùi Giáng còn viết nhiều bài thơ khác cho bà, có bài công bố, có bài không.
Họa sĩ Bửu Ý, có công bố bài thơ do họa sĩ chép lại mà thi sĩ Bùi Giáng làm riêng cho bà với tựa đề chính là Thu Trang, với những câu thấm đẫm tình cảm tuyệt vọng lẫn hờn trách, "Trang của tờ giấy cũ/ Của vầng tóc ban đầu/ Trang của hồi vàng tụ/ Về mệt mỏi mai sau/ Anh nhớ em vô cùng/ Đất sầu không xiết kể/ Anh kêu gọi mông lung/ Trang ồ, Trang rất tệ".
Với đạo luật 10/59, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu quá trình xét lại tội danh với tất cả những người từng tham gia cách mạng. Nhiều đồng chí từng hoạt động chung với bà, khuyên bà nên rời khỏi Sài Gòn càng sớm càng tốt để tránh sự trả thù.
Năm 1961, nhận được lời mời tham dự tuần lễ phim ảnh tại Pháp, bà đã rời Sài Gòn và tìm cách định cư lâu dài tại đất nước này. Sang Pháp, bà không tham gia bất cứ hoạt động nghệ thuật cũng như điện ảnh nào. Mà thay vào đó, bà quay trở lại thú đam mê của mình thời con gái là viết và nghiên cứu lịch sử. Bà đăng ký theo học chính quy.
Năm 1978, bà bảo vệ thành công đề tài "Những hoạt động của Phan Châu Trinh" và trở thành tiến sĩ sử học tại Đại học Paris VII. Ngoài ra, bà còn viết nhiều sách nghiên cứu về quá trình hoạt động của nhiều nhà cách mạng khác. Nghiên cứu của bà được in thành sách và được dịch ra tiếng Việt.
Vì nhiều lý do khác nhau, trong suốt thời gian học tập và sinh sống ở Pháp, bà không tiết lộ thân phận hoa hậu của mình, chỉ một số rất ít người biết bà là hoa hậu đầu tiên của Việt Nam. Sau này, bà có về Việt Nam để tham gia giảng dạy tại nhiều trường đại học trong nước.
Bà viết trong hồi ký của mình về Bùi Giáng vào một ngày mưa đến thăm bà, khi thi sĩ biết bà sắp sang Pháp. Bằng cảm quan của một nghệ sĩ lớn, ông biết bà đi là không trở lại. Bà viết: "Tôi hơi ngạc nhiên để ý anh nhìn xuống nền nhà đá hoa. Cả hai im lặng, tôi muốn nói một câu gì đó để cho có chuyện. Chưa kịp thì anh cúi xuống nhặt đôi dép màu xanh lá mạ của tôi đi trong nhà cạnh đó, anh nhặt lên và lẳng lặng mở tờ báo gói đôi dép. Rồi anh đứng lên: Tôi về!". Có lẽ, đó là lần gặp mặt cuối cùng giữa bà và thi sĩ Bùi Giáng.
PHUNU TODAY
Trước năm 1975, Sài Gòn nói riêng và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói chung, có rất nhiều người đẹp mà nhan sắc đã đi vào giai thoại. Một trong số đó là người đẹp một thời Công Thị Nghĩa, hoa hậu đầu tiên tại Việt Nam, mà quen thuộc với công chúng bằng cái tên Thu Trang. Bà Công Thị Nghĩa sinh năm 1932, quê gốc tại Hà Nội. Học xong bậc tiểu học, bà theo gia đình vào Sài Gòn sinh sống để thuận lợi cho công việc của thân phụ bà.
Ngay từ thời con gái, bà đã đam mê viết văn, viết báo, đặc biệt là nghiên cứu về sử học (sau này, bà là tiến sĩ sử học, hiện định cư tại Pháp). Năm 20 tuổi, bà tham gia vào tổ chức Việt Minh, với nhiệm vụ là hoạt động điệp báo trong nội thành Sài Gòn. Tháng 7/1952, mật thám của Pháp phát hiện ra vai trò của bà trong tổ chức, bà bị bắt giam tại bót Catinat (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch TP HCM - đường Đồng Khởi, quận 1).
Thụ án ở bót này một thời gian, bà bị chuyển qua Khám Lớn - Sài Gòn (nay là Thư viện Tổng hợp TP HCM - đường Lý Tự Trọng, quận 1). Khoảng cách giữa bót Catinat và Khám Lớn là không xa. Những ngày thụ án của bà chỉ được khép lại khi luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã thắng lý quan tòa trong phiên xử về tội danh mà bà mắc phải.
Thu Trang chụp ảnh đăng quang Hoa hậu Việt Nam năm 1955. |
Ra tù, với vốn chữ nghĩa sẵn có, bà tham gia một khóa học ngắn và bắt đầu theo nghề ký giả. Bà chuyên viết mảng văn hóa nghệ thuật. Bà ký tên Thu Trang, đây cũng là bút danh chính cho tất cả các trang viết, nghiên cứu lịch sử của bà.
Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm phát đi thông tin sẽ tổ chức một cuộc thi hoa hậu, thành phần ban giám khảo của cuộc thi này bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, nhà báo. Trong một lần đến phỏng vấn thành phần ban giám khảo để đưa tin, vài thành viên ban giám khảo đã khuyên bà: "Cô đẹp như vậy, nên đăng ký tham gia cuộc thi này". Nghe rủ rê, bà đăng ký tham gia với mục đích ban đầu là để vui.
Ngày 20/5/1955, nhân lễ Kỷ niệm Hai Bà Trưng, tại rạp hát Lido ở khu Chợ Lớn, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam chính thức được diễn ra. Gần như tất cả mỹ nhân đang sinh sống tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam đều xuất hiện tại cuộc thi này.
Do quan niệm ở thời điểm đó, nên không có phần thi áo tắm trong suốt cuộc thi hoa hậu. Xuất sắc vượt qua hàng loạt nhan sắc khác, Thu Trang chính thức đăng quang vương miện Hoa hậu. Á hậu 1 thuộc về cô Nguyễn Thị Ninh, người Hà Nội di cư vào Nam và Á hậu 2 là cô Ngô Yên Thu, người Cần Thơ. Bà Thu Trang đoạt ngôi Hoa hậu, với những thông số mà xét ở thời điểm này thì rất khó để đạt chuẩn, nhất là về chiều cao. Bà chỉ cao 1,61m, số đo 3 vòng là 86-62-88.
Phần thưởng cho danh hiệu Hoa hậu mà bà sở hữu là một chiếc môtô hiệu Lambretta, kiềng vàng, nước hoa và nhiều loại mỹ phẩm danh tiếng khác. Lambretta thời điểm đó rất có giá, thuộc dòng xe hai bánh cao cấp bậc nhất. Vì chiếc xe này, mà bà Thu Trang được nhiều người gọi đùa là "Hoa hậu Lambretta".
Sau khi trở thành Hoa hậu, cuộc đời bà bước sang một trang mới. Cũng như trào lưu bây giờ, bà trở thành nữ diễn viên trong nhiều bộ phim của Sài Gòn thời điểm đó. Năm 1956, bà đảm nhiệm các vai diễn trong nhiều bộ phim, như "Chúng tôi muốn sống" (đạo diễn Vĩnh Noãn), “Lục Vân Tiên” (đạo diễn Tống Ngọc Hạp).
Đầu năm 1957, bà cùng đạo diễn Tống Ngọc Hạp mang theo bộ phim Lục Vân Tiên sang Nhật để làm hậu kỳ. Đồng thời, cũng là để tham gia Đại hội Điện ảnh châu Á đang được tổ chức tại đây. Gần một tháng ở Nhật cùng với đạo diễn Tống Ngọc Hạp, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, giữa bà và đạo diễn nảy sinh tình cảm. Chuyện gì đến cũng đến, bà có mang.
Bà Trang khi về già vẫn giữ được vẻ đẹp mặn mà. Ảnh bà Trang chụp tại Pháp với GS Trần Văn Khê (ảnh trái) và chụp cùng con trai (ảnh phải). |
Trong cuốn hồi ký của mình, bà có thổ lộ khá chi tiết về mối tình không lối thoát này, bà viết: "Tới tuổi 25 tôi mới thành đàn bà trong hoàn cảnh bi thảm. Bị đưa vào những tình huống mà tôi cảm nhận là mình đã không thể tránh. Khi người đàn ông đam mê, nên dễ bị say trong nỗi cuồng điên man dại? Hay chính tôi là một đối tượng có những nét gì khó gần, quá giữ gìn càng gây kích thích trong sự phải chiếm đoạt? Phải chinh phục do tự ái của đàn ông tính, pha lẫn với ít nhiều tưởng tượng là tình yêu?
Ngang trái thay, tôi đã không biết gì trên phương diện tình dục. Tôi có thai ngay trong tháng đầu tại Tokyo. Chúng tôi đã sống trong thảm cảnh kế tiếp khi về tới Sài Gòn cuối năm 1957. Thật là cả một cơn giông bão phũ phàng đổ ập xuống tôi khi vừa bắt đầu làm mẹ. Xã hội Việt Nam thời ấy chưa có chút vị tha nào cho những sự kiện như vậy".
Về lại Sài Gòn, bà liên tiếp hứng chịu sự chỉ trích của dư luận. Đơn giản vì khi ấy, đạo diễn Tống Ngọc Hạp đã có vợ và con. Mặc cho điều đó, bà vẫn kiên quyết giữ lại đứa con. Sau này, bà vẫn cho con theo họ của bố, bà đặt tên là Tống Ngọc Vân Tiên. Cái tên như lưu dấu kỷ niệm về tình cảm mà bà dành cho đạo diễn. Rất nhiều năm sau, bà vẫn không mở miệng oán trách vị đạo diễn này bất cứ lời nào.
Là một mỹ nhân, lại đang trên đà danh vọng, đột nhiên lâm vào tình cảnh "không chồng mà có con", thế nhưng không vì vậy mà sức quyến rũ của bà đối với người khác giới suy chuyển. Một trong những người đàn ông rất nổi tiếng mê đắm bà đến quên ăn quên ngủ chính là… thi sĩ Bùi Giáng.
Giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn đoán chắc rằng câu thơ đầy lạ lùng và nổi tiếng của Bùi Giáng là: "Còn hai con mắt, khóc người một con" chính là viết cho riêng bà. Nhiều người cho rằng, "khóc người một con", tức là thương cảm cho người phụ nữ có một con chứ không liên quan gì đến chuyện… nhãn cầu. Tất nhiên, với chữ nghĩa của một thi sĩ như Bùi Giáng, thì ai suy nghĩ sao cũng được. Ngoài việc bà là "tác nhân chính" cho câu thơ trên của Bùi Giáng, thì thi sĩ Bùi Giáng còn viết nhiều bài thơ khác cho bà, có bài công bố, có bài không.
Họa sĩ Bửu Ý, có công bố bài thơ do họa sĩ chép lại mà thi sĩ Bùi Giáng làm riêng cho bà với tựa đề chính là Thu Trang, với những câu thấm đẫm tình cảm tuyệt vọng lẫn hờn trách, "Trang của tờ giấy cũ/ Của vầng tóc ban đầu/ Trang của hồi vàng tụ/ Về mệt mỏi mai sau/ Anh nhớ em vô cùng/ Đất sầu không xiết kể/ Anh kêu gọi mông lung/ Trang ồ, Trang rất tệ".
Tiến sĩ Thu Trang trong một lần giảng dạy tại Việt Nam. |
Với đạo luật 10/59, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu quá trình xét lại tội danh với tất cả những người từng tham gia cách mạng. Nhiều đồng chí từng hoạt động chung với bà, khuyên bà nên rời khỏi Sài Gòn càng sớm càng tốt để tránh sự trả thù.
Năm 1961, nhận được lời mời tham dự tuần lễ phim ảnh tại Pháp, bà đã rời Sài Gòn và tìm cách định cư lâu dài tại đất nước này. Sang Pháp, bà không tham gia bất cứ hoạt động nghệ thuật cũng như điện ảnh nào. Mà thay vào đó, bà quay trở lại thú đam mê của mình thời con gái là viết và nghiên cứu lịch sử. Bà đăng ký theo học chính quy.
Năm 1978, bà bảo vệ thành công đề tài "Những hoạt động của Phan Châu Trinh" và trở thành tiến sĩ sử học tại Đại học Paris VII. Ngoài ra, bà còn viết nhiều sách nghiên cứu về quá trình hoạt động của nhiều nhà cách mạng khác. Nghiên cứu của bà được in thành sách và được dịch ra tiếng Việt.
Bà Thu Trang |
Vì nhiều lý do khác nhau, trong suốt thời gian học tập và sinh sống ở Pháp, bà không tiết lộ thân phận hoa hậu của mình, chỉ một số rất ít người biết bà là hoa hậu đầu tiên của Việt Nam. Sau này, bà có về Việt Nam để tham gia giảng dạy tại nhiều trường đại học trong nước.
Bà viết trong hồi ký của mình về Bùi Giáng vào một ngày mưa đến thăm bà, khi thi sĩ biết bà sắp sang Pháp. Bằng cảm quan của một nghệ sĩ lớn, ông biết bà đi là không trở lại. Bà viết: "Tôi hơi ngạc nhiên để ý anh nhìn xuống nền nhà đá hoa. Cả hai im lặng, tôi muốn nói một câu gì đó để cho có chuyện. Chưa kịp thì anh cúi xuống nhặt đôi dép màu xanh lá mạ của tôi đi trong nhà cạnh đó, anh nhặt lên và lẳng lặng mở tờ báo gói đôi dép. Rồi anh đứng lên: Tôi về!". Có lẽ, đó là lần gặp mặt cuối cùng giữa bà và thi sĩ Bùi Giáng.
ĐỒI THÔNG HAI MỘ
Đồi thông hai mộ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đồi thông hai mộ là một địa điểm tham quan du lịch nằm trên đồi thông bên bờ hồ Than Thở, Đà LạtCâu chuyện
Thắng cảnh Đồi thông hai mộ thường được gắn với những câu chuyện ly kì, tuy nhiên có một câu chuyện được cho là trung thực nhất kể rằng: chàng tên Vũ Minh Tâm, nàng tên Lê Thị Thảo [1]. Chàng quê ở Gò Công, Tiền Giang[2], sinh trong một gia đình đại điền chủ giàu có, là sinh viên Trường Võ bị Đà Lạt. Nàng:-
- "... năm ấy khi tuổi vừa đôi chín
- Tâm hồn đang trắng trong
- Như chim non khi ăn còn chưa no
- Khi co còn chưa ấm [3]
-
- "nàng buồn thơ thẩn chẳng còn ngồi
- trang điểm qua màu phấn
- Để phai úa đến tàn cả hương sắc
- tháng ngày luôn héo hon"[3]
-
- "... mộ chàng đã được ở cạnh nàng
- Như lời xưa thề ước
- Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc
- dưới mộ sâu đất khô
- Qua bao năm rêu xanh phủ che kín..."
Nhạc phẩm Đồi thông hai mộ
Cảm khái chuyện tình của hai người, nhạc sĩ Hồng Vân[5] sáng tác bài hát Đồi thông hai mộ. Bài hát điệu boléro này được nhiều người ưa thích và thể hiện thành công qua các giọng ca như: Hương Lan, Trường Vũ, Lệ Quyên ...Chú thích
- ^ Tên hai người được ghi rõ trên bia mộ
- ^ Tài liệu khác nói ở Vĩnh Long
- ^ a b Lời bài hát Đồi thông hai mộ
- ^ Một dị bản là vì quá đau khổ, chàng xung phong vào những vào vùng lửa đạn ác liệt và chết trong một trận giao tranh.
- ^ Hồng Vân là một nhạc sĩ có rất nhiều ca khúc "ăn khách" vì lời ca bình dân, nhạc giản dị như "Tôi Bước Vào Yêu", "Đồi thông hai mộ" v.v...
CHUYỆN TÌNH ôi !.. cuộc thế nhân sinh ba vạn
Đồi thông sáu ngàn ngày thời hạn là bao
Hai _ mộ trăm năm còn có gì đâu
Tác giả hơn nhau danh để về lâu về dài
CHẾ QUANG TUYỂN trai tín nghĩa anh tài trung liệt
LỜI GIỚI THIỆU gái thuận hiền tiết liệt thấu trinh
thật là rạng vẻ họ Đinh
hai hồn hai họ thác vinh lắm rồi ...
Tôi
sinh ra và lớn lên ở một vùng quê chật hẹp của miền biển rộng bao la .
sau này khi lớn lên tôi đã đi . đã sống ở nhiều vùng quê xa lạ khác ,
nhưng chưa nơi nào tôi cảm thấy yêu thấy quý như quê hương tôi . nơi đã
sinh ra tôi , nuôi tôi lớn khôn , nâng bước tôi đi ngang tầm thời đại ,
nơi đã ôm trọn niềm tin yêu hy vọng của lòng tôi . cho dù đó chỉ là một
vùng quê nghèo khó , với những cánh đồng chua mặn , người nông dân phải
tảo tần làm lụng một nắng hai sương mới được ngày hai bữa đói no…
Có lẽ tôi yêu quê hương bởi những câu ca dao , những làn điệu hát ru của
mẹ , của bà và cùa bố tôi với những cánh cò cánh vạc lặn lội bờ sông .
Tôi đã lớn lên theo năm tháng bằng những dòng sữa ngọt ngào những lời ru
trầm ấm của quê hương có lẽ vì thế sau này lớn lên tôi đã dần yêu thơ
từ đó… năm mười một mười hai tuổi tôi đã đọc truyện kiều , lục vân tiên v
v …
Lớn lên chút nữa tôi được đọc ( cung oán ngâm khúc , chinh phụ ngâm và đồi thông hai mộ ) .
Từ
đó thể thơ song thất lạc bát mang đậm nét chữ tình đã mê hoặc tâm hồn
tôi , tôi đã yêu và mê thơ lúc nào không biết nữa , sau này tôi có dịp
đi qua các miền quê tôi đã sưu tầm được nhiều tập thơ mà tôi ưa thích
nhưng riêng cuốn (đồi thông hai mộ ) thì chưa bao giờ tôi tìm lại được
và nhiều người có tuổi cũng chỉ biết lõm bõm câu được câu chăng . sau
này khi biết truy cập trang mạng tôi cũng đã tìm trong thư viện sách
nhưng vẫn bặt vô âm tín… có lẽ cuốn sách còn nằm ở trang nào mà tôi
không biết .
Nay tôi xin tải lên trang mạng cuốn truyện này để các độc giả yêu thơ cùng được thưởng thức .
Một
câu truyện tình , chung tình có một ở nơi sơn cùng thủy tận , nơi thái
hậu sơ hà . một câu truyện tình mang đầy tính nhân văn mà người đời đã
đọc rồi thì hầu như đều mến mộ tài đức biết cách xóa bỏ những hận thù
của người xưa . Lòng đố kỵ tham vọng và ghen gét đều sẽ phải trả giá .
Lưới trần thoát , lưới trời không thoát
Kiếp luân hồi tội ác chí công
Dó cũng là bản án dành cho những kẻ tài hèn , tham lam , mưu mô sảo
quyệt muốn tiến thân bằng mồ hôi sương máu của người khác
Cuốn truyện tôi viết lại theo nguyên tác xuất bản lần đầu vào năm 1949 tại HÀ NỘI
bằng trí nhớ của tôi thời gian trôi đi cũng đã lâu , nếu có gì sai sót
độc giả nào biết xin hãy cộng tác bổ xung thêm và cho cảm tưởng khi đọc
xong cuốn sách này
Xin trân thành cảm ơn
11 / 2 / 2013
PHẠM TÙNG GIAO
Mấy dòng tản cư ký sự
Mấy trang tình sử bi hùng
Năm
1945 nhật pháp bắn nhau chí tử được lệnh tản cư, gia đình tôi cùng một
số gia đình khác,cùng vội vàng thu dọn một số đồ đạc cần thiết lên một
chiếc xe khách, tản cư đến vùng rừng núi thuộc tỉnh hòa bình. Đoàn chúng
tôi đi gồm ba mươi người cả người lớn và trẻ em chúng tôi dừng chân ở
một bản nhỏ cách tỉnh lỵ hòa bình ba mươi cây số, cuộc sống của những
gia đình chúng tôi lúc ấy vô cùng vất vả, hàng ngày chúng tôi phải đi bộ
ba mươi cây số đến chợ đồn tỉnh lỵ hòa bình buôn bán kiếm ăn thế rồi:
Tấm thân dầu dãi dưới phong sương
Quốc phá gia vong cảnh đoạn trường
Mặt mũi võ vàng theo tế nguyệt
Áo quần tơi tả với tang thương
Trên quãng đường đi, hàng ngày chúng tôi
phải lội qua một con suối nhỏ tên gọi suối ngang dòng suối quanh co uốn
lượn ven sườn một quả đồi rộng. ở dưới nhìn lên trên đồi có trồng năm
mươi cây thông già theo hình cánh cung ôm lấy một ngôi miếu nhỏ ở giữa,
thỉnh thoảng từng cơn gió nhẹ nhàng thổi tiếng thông reo vi vút, hòa với
tiêng suối chảy sóc rách. Nước suối trong xanh, mỗi khi chúng tôi lội
qua từng đàn cá nhỏ lượn lờ vây quanh chân chúng tôi, đôi khi chúng tôi
cũng gặp một vài cô gái dân tộc vén váy lội qua,với căp đùi trắng gần
nhìn phong cảnh sơn thủy hữu tình của nơi sơn cùng thủy tận thật là nên
thơ. Đúng là:
Thông xanh tỏa bóng chiều vàng
Suối trong nước bạc cô nàng lội qua
Mây mờ bao phủ non xa
Chim đàn tìm tổ bao la tận rừng
Thời gian cứ thế trôi đi ngày lại qua
ngày. Mải với công việc buôn bán mưu sinh nên chưa có dịp nào lên vãng
cảnh đồi thông được, tôi và anh bạn tôi hẹn với nhau , bữa nào nghỉ một
buổi chợ để lên thăm đồi thông xem phong cảnh ra sao. Và cái miếu trên
đó thờ ai?.. hôm đó là một ngày chủ nhật hai chúng tôi đã quyết định
nghỉ một ngày rủ nhau lên thăm đồi thông. Gần trưa hai chúng tôi lên tới
nơi chúng tôi thật bất ngờ với cảnh đẹp u tịch nơi đây. Một ngôi miếu
nhỏ xây toàn bằng đá trắng, trước cửa miếu là hai ngôi mộ cũng xây bắng
đá trắng trên mỗi ngôi mộ có dựng một tấm bia có trạm khắc bằng chữ nho
rất đẹp, ngày ấy tôi cũng có học và biết chút ít chữ nho. Tôi đọc thấy
mộ bên tả ghi( đinh lăng
trưởng vệ vị quốc quên khu) tôi tạm dịch: đây là người con trai họ
đinhtên lăngvì nước mà chết. mộ bên hữu ghi
(quách mỵdung vị vu tử tiết) tôi tạm
dịch người con gái này vì chồng mà chết nhìn hai ngôi mộ và ngôi miếu cổ
kính rêu phong . phong cảnh tĩnh mịch đến rợn người tôi cứ ngỡ nơi đây
lâu lắm không có ai đến và là một nơi hương tàn tro lạnh nhưng khi bước
vào trong miếu thì tôi đã nhầm . từ cửa bước vào trước bàn thờ là một
tảng đá trắng rộng khoảng tám mươi phân, dài khoảng môt mét hai. ở giữa
có hai vết nũng xuống như hai vết đầu gối quỳ và bát nhang vẫn còn nghi
ngút khói ,chứng tỏ nơi đây không phải là nơi tro tàn hương lạnh mà hàng
ngày vẫn có người đến nhang khói cầu cúng.
Chúng tôi đang mải xem thì bỗng có một
ông cụ người dân tộc, đầu râu tóc bạc tay cầm một con dao quắm hớt hải
chạy lên, tới nơi ông quát lơ lớ bằng tiếng kinh, ai cho các anh lên đây
nghịch phá phách miếu, chúng tôi sợ quá ,lấy lại bình tĩnh. Tôi mới xin
thưa với cụ, chúng con là người dưới xuôi ,tản cư lên đây hàng ngày
chúng con đi chợ qua đây,thấy phong cảnh nơi đây đẹp quá hôm nay chúng
con mới có dịp lên đây vãng cảnh chứ có dám phá phách gì đâu ạ. nghe
chúng tôi nói vậy cụ già không nói gì nữa. tôi mới đánh bạo hỏi cụ.
( 1 )
Thưa cụ chúng con cũng có học và biết chút ít chữ nho, con đọc thấy mộ bên tả có ghi .
Đinh
lăngtrưởng vệ vị quốc quên khu, mộ bên hữu có ghi. Quách mỵdungvị vu tử
tiết. con biết rằng một người vì nước mà chết , một người vì chồng mà
chết, vậy sự tích ngôi miếu này và câu chuyện tình của họ ra sao cụ có
thể dẫn chuyện cho chúng con biết được không ạ, cụ nói chuyện dài lắm
các anh muốn biết thì về nhà ta, ta kể cho nghe.
Chúng tôi rất mừng theo chân cụ về nhà,
về tới nhà cụ gọi cô con gái ra pha trà mời khách nàng nhìn chúng tôi
mỉm cười rồi lấy ấm pha trà mang lên mời chúng tôi dùng nước, cụ lại bảo
con gái lấy cuốn( sách đồi thông hai mộ) ra đưa cho chúng tôi rồi bảo
cô đi làm cơm đãi khách.
Chúng tôi rất mừng vì sách được viết
bằng chữ quốc ngữ nhưng khi đọc thì nỗi mừng của chúng tôi lại là nỗi
mừng hụt, vì sách được viết toàn bằng tiếng mường - thổ nên chúng tôi
chẳng hiểu gì cả cụ nhìn chúng tôi cười và bảo các anh không hiểu gì
phải không. Để tí nữa ăn cơm nước xong ta sẽ bảo con gái ta nó đọc và
dịch cho các anh nghe.
Ăn uống xong xuôi cụ mời chúng tôi ra
bàn uống nước rồi gọi con gái ra đọc cho chúng tôi nghe vâng lời cụ cô
gái ra vừa đọc vừa ngâm, vừa dịch vưa chú thích thêm ngoài, nhờ từ tâm
nhã ý của cụ, tôi đã am – tường đủ điều kỳ vọng .
Theo lời cụ, những câu văn trong chuyện
đêu ghép đúng vần điệu của thi ca mường - thổ tác giả cuốn sách đó họ
CHẾtên QUANG TUYỂN.hồi đó là một thanh niên giáo viên được già mến trẻ
yêu cả vùng ái – mộ. QUANG TUYỂN tiên sinh hồi còn niên thiếu, lại là
bạn thâm – giao, tâm đầu hợp ý , của hai vị chủ động . chủ động chính
trong truyện tức chàng ĐINH – LĂNG và (cô nàng) QUÁCH MỴ DUNG .
Luôn trong ba tháng ròng ngẩn nghơ tiếc
bạn . Sau ngày an táng bạn tại đồi thông , chiều nào giáo viênQUANG
TUYỂN, cũng có mặt dưới gốc thông già bên mồ đất đỏ. Lệ anh – hùng không
đỏ, nhưng sầu anh hùng than thở biết bao nguôi .
Giáo viên là người độc nhất đã thấu
triệt hết uẩn khúc éo le , cảnh tình bi thảm của mối lương duyên dang dở
LĂNG – DUNG . LĂNG là bạn cam – khổ giữ đồng của TUYỂN. DUNG là bạn
cùng thầy cùng lớp cùa TUYỂN. LĂNG DUNG yêu nhau , TUYỂN hết lòng tán-
dương cổ động cho chóng thành kết quả , như ý sở cầu của bạn . mối tình
LĂNG - DUNG làm tan vỡ lây cả nguyên- vọng thủy – chung của TUYỂN .
Để làm sống lại mãi mãi với núi rừng
những tâm – hồn cao cả thanh – tao , để treo cao mãi mãi với núi rừng
tấm gương phản chiếu chói lọi đầy bi thương thảm khốc do hủ tục ép –
duyên , gán phận gây nên , giáo viên thi sỹ QUANG TUYỂN đem tâm sự ,
thân thế , sự nghiệp của hai bạn LĂNG – DUNG thiết tha ghi chép thành
thiên – bi – sử ĐỒI THÔNG HAI MỘ . thời gian theo dòng (suối ngang) nhẹ
nhàng trôi . nhưng di tích phi thường với sự nghiệp phi thường của người
phi thường không thể theo thời gian tiêu tan thành tro bụi . những quý –
tượng đó sẽ tồn tại đời đời ở đất nước . ở trí nhớ lưu truyền của người
đời .
Cách đây lâu năm lắm rồi , cho tới bây
giờ vẫn thế . nam nữ thanh niên , trong vùng rừng xanh núi biếc này ,
phần đông đều thuộc lòng cuốn truyện từ đầu đến cuối . trong rừng đốn
củi ngoài nương dỡ sắn , một người khởi sướng một câu là sẵn sàng đồng
vọng hoan hô , đồng thanh hưởng ứng hát lên ầm ĩ , hát lên rầu rĩ , hát
lên lâm ly .
Một cuốn truyện tình , nhưng nhiều đặc –
điểm , một cuốn truyện tình xuất hiện bất ngờ ở nơi sơn cùng thủy tận .
một cuốn truyện tình chung tình có một . tôi hứa với lão nhân sẽ theo
sát ý nghĩa cao sa của cốt truyện . biên soạn thành nguyên âm vận văn .
quốc âm việt ngữ biểu dương đầy đủ tinh thần (ái quốc chung tình , kiên
trinh thủ tín) . để cống hiến toàn thể anh chị em trong đại gia đình
việt nam không phân biệt thổ kinh. Không phân chia nam bắc , thể song
thất lục bát
( 2 )
((cung
oán ngâm khúc )) của ÔN NHƯ HẦU tiên sinh rất thích hợp với luận điệu
vận văn của sơn nhân thi sỹ QUANG TUYỂN, vậy tôi theo vần thơ trường hận
đó để biểu lộ mối tình u uất mô tả cuộc kỳ duyên của hai tâm hồn bất tử
LĂNG + DUNG người đồng hương đồng sứ với với thi nhân giáo viên , ai ai
cũng thừa hiểu ngọn ngành của điển – tích ĐỒI THÔNG HAI MỘ bởi vậy
trước tác thành cuốn thi ca để truyền tụng , thi nhân chỉ cần trú trọng
đến điều cốt chính . đọc song di bút tài tình linh động , tôi khách lãng
du ở tận bốn phương trời ngẫu nhiên mới lại , không bỏ lỡ cơ hội hỏi
lão nhân những điều phụ thuộc cần thiết mà tôi còn thắc mắc .
May thay , những ngoại phụ đó đã được lão nhân chỉ dạy tỏ tường dưới đây .
Đinh Lăng thuộc dòng máu anh hùng do khí
thiêng của núi rừng cao cả kết – tinh lại , thiên tư thông minh lỗi lạc
. mồ côi song thân từ bé . sẩy cha còn chú . thờ chú như cha , ham học
ghét chơi , ưa thích tự do khoáng đãng , oán – hờn giam hãm tối tăm .
Chú mến tài , quyết cho cháu theo đòi học – tập đến bờ đến bến . Năm
Lăng mười tám tuổi ông chú chiều theo ý cháu nhờ người môi giới hỏi Mỵ
Dung cho Lăng làm vợ .
Mỵ Dung dòng họ Quách vốn nổi danh một
đóa hoa hãn hữu quốc sắc thiên hương của đồi cao suối bạc , sinh quán
tại (trại trong ) cách (trại mít) sinh quán của Lăng một quả đồi thấp
rộng giồng toàn (sắn dây) quý giá , gia đình phong phú Dung được miệt
mài đèn sách mấy năm . từ giã học đường năm mười bảy tuổi . Dung ở nhà
săn sóc việc tầm tơ canh cửi . Đẹp người đẹp nết xa gần tin đi mối lại .
Duyên kim cải dập dìu lá thắm .
Sựthật nàng Mỵ Dung con nhà băng tuyết ,
nền nếp phỉ - phong nàng chẳng ưa gì thói tình trăng hoa , trên dâu
trong bộc công ơn cù lao dưỡng dục nàng coi tựa núi Hoàng sông Thao.
Chín chữ cù lao in dạ sắt
Trăm năm sơn hải tạc lòng son
Nàng công nhận lẽ phải là việc hôn nhân
của nàng , nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha (phụ mẫu chi – mạnh môi
trước chi ngôn ) tự do kết hôn khi song thân tại đường là rất nên trái
đạo. nàng không muốn thế , nàng chỉ muốn việc hôn nhân quan trọng , ảnh
hưởng mật thiết đến hạnh phúc chung thân của nàng theo công lý nhân
quyền , được cha mẹ cho phép nàng tỏ bày tâm sự , ít điều ngang trái .
nàng phục tùng lệnh trên cho tròn đạo hiếu là việc dĩ nhiên hoàn mỹ ,
trái lại nếu trăm đường ép uổng , vạn sự dở dang , việc nhân duyên của
nàng chung thân khổ nhục chỉ vì hủ tục ép duyên – chi phối thì nàng công
phẫn phản đối đến cùng …
Nàng nghĩ rằng cổ tục của bao đời truyền
lại không phải điều gì cũng nhất nhất phải tuân theo . thuần phong mỹ
tục , đã đem lại nhiều kết quả đẹp tươi hùng mạnh thì cần giữ lấy . còn
trái đạo bất công ,không hợp với trình độ tiến hóa cùa nhân loại thì hủy
bỏ đi sớm ngày nào hay ngày ấy .
Từ ngày nàng Dung khôn lớn đã được mắt
thấy tai nghe biết bao cảnh tượng thương tâm của di họa ép duyên gán
phận do hủ tục cổ truyền gây nên , trước vực thẳm hang sâu nàng cần lùi
bước để tự mình phản đối cổ hủ và cương quyết bài trừ , tục lệ bất công .
Đã nhiều lần nàng suy trước tính sau , rồi mình lại tự hỏi mình . Tại
sao song thân mình lại quá mê tín ấn định duyên nàng quá sớm , mới lọt
lòng mẹ đã thành đạo vợ chồng ?.. Tới tuổi trưởng thành nàng nhận thức
rõ ràng .
Người vị hôn phu do quyền cha mẹ sở định
hoàn toàn hư hỏng cả tài lẫn hạnh , nàng kêu xin , đủ điều từ chối.
Nhưng từ chối sao được cổ tục thiêng liêng , quyền trên không hỏi trái ,
còn người mà nàng sở vọng được lấy làm chồng sự thật , chưa hề sớm đào
tối mận ,chưa hề vượt quyền sinh dưỡng cùng người yêu thề nguyện trăm
năm , cửa khổng sân trình , cùng thầy cùng lớp mấy năm lui tới học đường
, hai tâm hồn Lăng Dung , đã âm thầm thấu hiểu lẫn nhau và ước ao tin
tưởng ở tương lai hạnh phúc . Đinh Quach đẹp duyên , người ý chung nhân
của Dung tức Đinh Lăng . Tài đức vẹn toàn mối manh đủ lễ đến hỏi xin
nàng làm vợ thì ác thay !..
( 3 )
Tại sao?.. (nàng tăng phần công phẫn đặt
trăm dấu hỏi) tại sao song thân nàng không cần một lời hỏi han đến cùng
cho phép nàng tỏ bày ý kiến , xem nàng bằng lòng mọi nhẽ hay từ chối vì
sao ?.. Song thân nàng không cần đếm xỉa đến duyên phận nàng, chỉ biết
ích mình , tự hào giữ tròn lời hứa cũ , không suy tính đủ đường không
nhận sét đâu là lẽ phải , nhất nhất từ chối và hoàn toàn bác lời cầu hôn
của Đinh Lăng . Đứng trước cảnh éo le cay nghiệt đó , nàng không chịu
sao nổi nông nỗi tủi hờn .
Ôm hủ tục cổ truyền . Ông thân phụ nàng
Dung nhất định từ chối sở ước của Lăng mặc dầu đã mấy lần ông chú ,
dưỡng phụ thân mến của Lăng tự mình thân chinh đến tận nơi khẩn khoản
cầu hôn cho cháu . Phụ thân nàng Dung viện lẽ đã đính ước việc hôn nhân
của nàng với người khác ngay từ ngày mới đẻ dung rồi , ông sinh gái ,
một bạn đồng hương sinh trai . Hai nhà thỏa thuận khết giao cho hai trẻ
sau này bách niên hòa hợp .Quyền mẹ cha (( đặt đâu con ngồi đấy )). Tại
gia tòng phụ con trái lời cha không sao tha thứ được .
Đời chuyên chế óc độc tài . lòng ích kỷ
nghiêm đường của cha mẹ Dung vì quá mê tín dị đoan đã thành nhẫn tâm phá
hoại tương lai hạnh phúc của con mình . Hiếu nghĩa đủ đường hóa đoạn
trường chìm đắm .
Để phá tan xiềng xích bất công , để phản
kháng sức mạnh bạo tàn , cam đành một thân chịu khổ Ngậm thở ngùi than
để trăm ngàn người khác được hân hoan đi trên đương phẳng , tránh vũng
xa lầy , chôn vùi tự do công lý . Dung cương quyết thề sống thác với
tình yêu chân chính , không chịu phục tùng ép duyên
Thất vọng tình không liều nản chí
Thất vọng tình không phí tuổi xuân
Lăng xin chú xuất dương du học , tin
tưởng ở tấm tình thiết thạch của Dung . Lăng ra đi lập thân oanh liệt để
hy vọng ngày tươi sáng . Gia nghiêm nàng Dung giác ngộ , chàng với nàng
thỏa mộng yêu đương .
Mỵ Dung được tin Đinh Lăng sửa soạn ra
đi , gánh tang bồng thỏa chí nam nhi , nợ hồ thỉ báo đền non nước . Nàng
trốn nhà lên đồi thông cùng chàng tiễn biệt , cùng chàng đoan tơ kết
tóc .
Kiên – tiết thử thân nguyên tự hứa
Trinh tâm hà nhật cảm khinh phao .
Lần đầu tiên mà thảm thay !.. Cũng là
lần cuối trót , hai tâm hồn trong trắng , biết bao phẫn uất vì chế độ
gia đình quá đỗi bất công . Nhất quyết cùng nhau hẹn – ước trăm năm ,
cùng với trời cao rừng thẳm với suối bạc non xanh , non thề suối hẹn ,
non dù mòn suối dù cạn , tình không cạn nghĩa không mòn , cùng xây tròn
hạnh phúc . Cùng nguyện sinh tử giữ đồng .
Dù như sông cạn đá mòn
Còn non còn nước vẫn còn thề xưa
Nhân định thắng thiên tuy có nhưng vẫn
là sự rất hiếm của trần gian . Trâm gãy bình tan tình duyên giang dở ,
hình như từ cổ chí kim , đã thành trò đùa ích kỷ của trẻ tạo tinh quái
ỡm ờ .Cứ theo đuổi phần đông đời tài hoa mà gieo họa !..
Chàng ra đi , đi mãi không về . Chín thu
ròng rã , nàng Dung ở nhà chống đỡ đủ nông nỗi đau thương oán hận . Để
cố gắng đợi chờ người tri kỷ .
Sầu chia ly chưa cạn , mộng đoàn tụ đã
tan . Cánh bèo mặt bể , hạt bụi đầu non . Hoa xuân chưa nở đã tàn . Hận
Kim Lang Kiều Nương chung đành một kiếp .
…. Đâu còn sống lại trong mơ
Đâu còn sống lại bên bờ suối yêu
Buồng the sầu sớm hương chiều
Khóc thầm biết có bao nhiêu lệ rồi
( 4 )
……………………………….
Tương giang trúc khuyết thành ban cổ
Kỷ quốc thành băng đới khốc thanh .
Phút cuối cùng rút cục vẫn là nạn nhân
điêu đứng của hủ tục tảo – hôn của cường quyền duyên ép . Uổng công cúc
dục , thiệt đời mộng thơ , nàng hy sinh tự sát để khỏi hy vọng không hẳn
là tẩy trừ một áp bức thiên tư truyền thống , một lệ tục là hại giống
nòi . Trao thân nàng đã tự hẹn thủ tiết đến cùng , thì không có ngày nào
dám khinh bỏ tấm lòng trinh . Nêu cao tấm gương tín nghĩa kiên trinh
hiếm có .
Cái chết của nàng tuy tự nàng mua lấy ,
nàng chẳng còn oán trách được ai . Nhưng so với đức hạnh ấy , với tài
sắc ấy lại lâm vào hoàn cảnh lỗi thời ấy. Người cầm bút thuật truyện
nàng đến đoạn này cũng không khỏi bùi ngùi thương vay tiếc mướn .
Nguyệt lão khéo đa doan
Xe duyên dở duyên dang
Thuyền tình về bể ái
Khách tình hận tình mang
Lá thắm trôi dòng lệ
Chỉ hồng buộc hoa tang .
Phượng với loan đôi ngả
Én cùng nhạn bắc nam …
Phải chăng tu là phúc
Mà tình ấy dây oan !...
Tác
giả đồng ý với chủ động nạn nhân Mỵ Dung không tán thành lý thuyết tự do
kết – hôn do toàn quyền sở ý , của nam nữ thanh niên tự định đoạt lấy .
Tuổi thiếu niên đầy nông nổi , ít từng trải , xét mình xét người định
việc rất có thể lầm lỗi .
Hơn nữa tác giả vẫn đồng ý với cô nàng
Mỵ Dung bạc phận , rất tán thành chủ trương bài trừ thói tảo hôn bất hợp
pháp và bài trừ tục lệ cưỡng bách ép duyên vô nhân đạo . Quyền (( định
đặt đâu con ngồi đấy )) của cha mẹ đem áp dụng vào việc hôn – thú của
con bắt con phải nhất nhất tuân theo sở ý của riêng mình là điều thiếu
luật công bình , thiếu tình nhân đạo .
Vậy
(( tham cố suy tân dung hòa kim cổ )) điều phải nên theo lẽ hay giữ lại ,
tục dở bỏ đi cải cách thêm vào . Điều hòa hợp lý , cứ gì hôn lễ vạn sự
đều nên . Theo thiển ý của tác giả , thì dù trạng thái nào , trường hợp
nào . Mặc dầu có ít nhiều uẩn khúc hay không việc hôn nhân muốn được
công bằng và hợp lý . Cần phải có sự điều hòa nguyện vọng chính đáng của
con với chủ trương sáng suốt và độ lượng khoan hồng của cha mẹ . hoặc
các vị có đặc quyền và trọng trách thay mặt .
Thêm
vào thiển ý của tác giả trên đây , xin trích lời phê bình rất chí lý
của cụ Cử Mai Khê . Ngô Thúc dịch để mong giúp ích cho những ai muốn
hưởng duyên ưa phân đẹp (( tuy những sự ép duyên gán phận của cổ tục
ngày xưa )) lúc này hơn lúc nào hết vẫn không có thể lượng thứ được mà
người con phải có quyền , đề tự kén chọn lấy người bạn trao sương gửi
thịt , nhưng thể nào cũng phải giữ mình không vượt ra ngoài vòng lễ
nghĩa . Nếu chưa có phụ mẫu chi mạnh , môi trước chi ngôn mà đã làm
những việc (( toàn huyệt du tường )) thì dù sau có trinh tuyết đến đâu
cũng không thể đem cái hay sau mà chuộc lại cái dở trước được .
TÙNG GIANG – VŨ ĐÌNH TRUNG
( 5 )
Lời cụ :CỬ MAI KHÊ
Trẻ
tạo cơ cầu , trò đời dâu bể , trí cả chưa thành tình duyên vẫn lỡ . Lăng
quay về mộng vỡ tình tan , thương người mệnh bạc trọng lời nguyền xưa ,
không nản trí không ngã lòng . Lăng lại hăng hái lên đường vì non sông
bổn phận .
Tấm lòng hứa quốc đã từ lâu
Son sắt một niềm vững trước sau .
Nợ nước đinh ninh vai gánh nặng
Tình nhà nguyện ước óc in sâu
Noi gương trung hiếu theo Trần tướng
Chẳng nợ công danh học Phạm Hầu
Đáo để phong trần không lệ lụy
Thân này quan trọng có quên đâu
Dung đã chết vì Lăng . Dung thừa can đảm
, Lăng phải thán phục . Lăng phải ăn năn , nhưng Lăng chưa thể chết
theo Dung để tực hiện lời nguyền theo nghĩa hẹp được . Nặng gánh giang
sơn nợ nước chưa song tình nhà đâu kể . Cái chết của Lăng còn phải dùng
vào nhiều nhiệm vụ quan trọng . Nhiều ý nghĩa - đích đáng , nhiều vọng
tưởng cao xa hơn , thế thì ngoài cái chết để trọn tình (( đồng sinh -
đồng tử )) Lăng còn phương cách gì để đền bù xứng đáng với tấm lòng
thiết thạch của Dung .
Phu tế tình - thâm phi bạc mệnh
Cương - thường nghĩa trọng cố thân khinh
Rỏ dòng lệ máu , thổ lộ tâm can . Biết bao đoạn thảm tình thương , bên mồ lăng kể nỗi oan nát lòng !..
Ái quốc chung tình bất phụ danh
Sinh đã vinh hề tử đã vinh
Về địa thế đồi thông , lão nhân cho tôi biết . Từ ngày cụ mới trưởng thành , cảnh cũ đã sẵn sàng
Như thế sau ngày anh chàng ĐINH LĂNG và cô nàng QUOÁCH MỴ DUNG chia tay nhau ở đồi thông vào một ngày thu mưa gió.
Chàng ra đi theo chí tang bồng, nàng ở
lại tầm tơ canh cửi thủ tiết chờ chàng. ở nước nhật bản xa xôi chàng
ngày đem dùi mài khinh sử, mong ngày thành danh trở lại quê xưa để cùng
người yêu làm trọn lời thề tròn nghĩa phu thê . nhưng oái oăm thay .
nàng THIÊN HƯƠNG con gái độc nhất của một gia đình đài các bên nước nhật
học cùng trường cùng lớp đem lòng yêu chàng. Không được chàng đáp lại ,
nàng thất vọng nên đã lấy dao đâm cổ kết liễu đời mình, sau khi tìm
chứng cớ tòa án NHẬT khép chàng vào tội làm cho THIÊN HƯƠNG thất vọng
quên sinh nên chàng bị sử mười năm tù ngục .
Ngồi trong ngục tối chàng lại nghĩ về MỴ DUNG đang ngày đêm chờ chàng nơi cố hương…
Thảm thay đời ngục ngày dài
Anh hùng ứa lệ nhớ người tình xưa
Nhớ MỴ DUNG ngày mưa thu trước
Tiễn đưa nhau hẹn ước những gì
Giờ đây nào có hiểu chi
Vẫn yên trí đợi ngày kia anh về
Anh về đâu nữa quê hương cũ
Mà em chờ cho lỡ tuổi thơ
Đời tù chôn chết đời mơ
Chôn theo hết cả đợi chờ ước mong !..
( 6 )
CHƯƠNG 1
Huyết thư nhòa lệ
AnhĐINH LĂNG giờ đây đâu nhỉ?..
Anh của em yêu quý nhất đời
Anh đi mù mịt xa xôi
Phượng hoàng tung cánh giữa trời mải bay
Nỗi niềm em với anh hay chăng nhỉ ?..
Vẫn chờ anh vắng vẻ phòng không
Xa trông mây nước mịt mùng
Lệ sầu thấm ố chăn hồng đêm đông
Trí ngang dọc non sông nghĩa vụ
Nợ cao đầy vũ trụ tang bồng
Tuy chưa pháo nổ rượu nồng
Tuy chưa chăn gối vợ chồng như ai…
Nhưng một buổi sớm mai em nhớ
Một sớm thu mưa gió âm thầm
Đồi thông gắn bó sắt cầm
Đồi thông tiễn biệt lệ đầm áo xanh
Ngồi bên anh em với anh kết nguyện
Nghĩa trăm năm giữ vẹn lời thề
Chờ anh cho đến ngày về
Anh chờ em đợi không hề đổi thay
Mười bảy xuân ,dù hay, dù dở…
Trông vào anh muôn thuở cậy nhờ
Xa anh em chẳng còn ngờ
Xa anh em chẳng hững hờ đơn sai
( 7 )
Anh bốn bề tương lai hứa hẹn
Em một thân nguyện ven hồn trinh
Suối trong đồi rộng chứng minh
Em nguyền chỉ có một anh là chồng
Một là có hai không là chết !..
Chết còn hơn chịu ép duyên tình
Tình duyên đâu phải uy quyền
Tình duyên đâu phải bạc tiền bán mua…
Kìa tình sử một vua thoái vị !..
Bỏ ngai vàng vì bị ép duyên
Bỏ ngai vàng giữ lời nguyền
Cùng người thôn nữ vui niềm thôn trang
Công sinh dưỡng coi ngang trời bể
Đạo làm con cần để trên đầu…
Kể chi khanh tướng công hầu
Kể chi bần bách sang giầu thường dân
Lời giáo huấn tu than sử thế
Điều thiệt hơn lý lẽ ở đời
Đạo con đâu dám sai lời
Bất nhân bất hiếu có trời nào thương
Đã theo đòi văn chương đèn sách
Em đã hay nhân cách cương thường
Tam tòng, tứ đức, phải tường
Công ,dung ,ngôn, hạnh mọi đường vẹn phân
Khốn nỗi việc hôn nhân quan trọng
Cả một đời hy vọng chứa chan
Nỡ nào ép uổng tơ loan
Nỡ nào thắt buộc hồn oan cho đành
( 8)
Mới lọt lòng đã thành phu phụ
Tuổi sơ sinh tử vụ biết gì
Lớn lên tuân lệnh vu quy
Quyền cha quyền mẹ con đi lấy chồng
Ôi !.. lá thắm chỉ hồng đâu thế
Một lời em không thể kêu xin
Người mà em quý em tin
Mối manh đủ lễ bao phen chẳng thành
Người ta từ dáng hình hạnh kiểm
Không điểm nào là điểm em ưa…
Lại là phải kính phải thờ
Kết duyên chồng vợ thảm chưa hở trời
Trước em đã bao người duyên ấy
Đã bao duyên trông thấy mà thương
Nhịp cầu tan vỡ đoạn trường
Trống xuôi, kèn ngược mọi đường dở dang
( 9 )
ĐINH LĂNG anh , ĐINH LĂNG đi mãi
Chín thu về bao nỗi đầy vơi
Ngoài song vẫn lệ NGÂU rơi
Trong rèm vẫn lệ một người chờ anh
Đã ba lần vấn danh nài ép
Đã ba lần liều chết quên sinh.
Để hồn bay bổng theo anh
Để tim khỏi rạn máu tình rẽ ngang
Để nhà thấy hoa tang đầy cửa
Để tiệc hoa tan vỡ tiệc hoa
Để bướm gần khỏi vào ra…
Hoa này riêng của bướm xa chưa về
Anh Đinh Lăng say mê đâu đó
Lời thu xưa còn nhớ hay quên ?..
Hay anh say thú thiên nhiên
Say mê non nước lạc miền thiên thai
Cùng tiên nữ thơ ngây xuân mộng
Khúc nghê thường rung động ca vang
Hay anh say đắm bạc vàng
Non vàng bể bạc sẵn sàng đế vương
Say bể bạc uyên ương ríu rít
Đắm non vàng khăng khít tơ duyên
Hay anh mê bả uy quyền
Thuận buồm đài các xuôi thuyền phong lưu
Bên người ngọc đủ mưu thần thế
Nhờ duyên may đủ kế cầu vinh
Mải vui quên trí bình sinh
Quên nhà quên nước cốt mình ấm no
( 10 )
Hư vinh đó càng lo càng nhục
Vinh làm chi nát mục thân danh
Bao lời hải thệ sơn minh
Bao lời húa hẹn tử sinh quên rồi
Bao mông đẹp của đồi thông cũ
Đã vì anh tan vỡ chẳng thành…
Than ôi !.. anh nỡ vô tình
Vui chung anh hưởng , hận mình em mang
Người ta để tang , tang có hạn
Còn em đeo hận , hận không bờ
Uyên chia , nhạn lẻ bơ vơ
Thân em chiếc bóng đợi chờ quãng không
( 11 )
Nếu anh cùng non sông còn sống
Máu hiên ngang dòng giống phi thường
Tình xưa anh đoái anh thương
Phương trời dừng gót cố hương tìm về
Tìm đồi thông xưa kia nguyện ước
Tìm gốc thông ngày trước hẹn hò
Tìm người chung một chuyến đò
Sông sâu bể cả dặn dò có nhau
Tìm người biết vàng thau phân biệt
Biết tôn thờ hào huyệt anh hùng
Tìm người tín nghĩa thủy chung
Gan vàng dạ sắt nấu nung không sờn
Tìm người vì duyên hờn phận tủi
Kiếp hoa rơi ngắn ngủi đành cam
Hỡi !.. anh tráng sỹ áo lam…
Anh đi , đi mãi mải ham những gì ?..
Anh ra đi em vì thủ tín
Chờ tin về , chờ chín thu trường
Ngày thường nuốt lệ là thường
Đợi chờ nào quản dặm đường xa sôi
( 12 )
Nghe oanh hót lứa đôi khăng khít
Nhìn bướm bay quấn quýt yêu thương
Lòng càng sôi nổi vấn vương
Ngày nào đất độ trời thương anh về …
Ôi !.. mộng đẹp gối kề chăn ấm
Sao lại riêng ngăn cấm duyên ta
Thế rồi sau chín thu qua
Vẫn không yên sống để mà nhớ thương
Thế rồi luôn tai ương liên tiếp
Cho đến cùng tận kiếp hoa rơi
Thế là đành , thế là thôi
Người về chưa thấy hoa trôi đã tàn
Đinh Lăng anh muôn vàn thê thảm !..
Về đi anh can đảm quay về…
Về tìm chốn cũ xưa kia
Viếng mồ người cũ gọi chia chút tình
Đồi thông trước một mình một mộ
Gốc thông xưa sương lộ điêu linh
Nằm ôm vẹn một hồn trinh
Nằm ôm một khối hận tình ngàn thu
Trước mồ bạc ô hô lên tiếng
Tiếng Đinh Lăng về viếng hồn oan
Để oan hồn đỡ oán than
Để khối tình hận , tiêu tan não nùng…
Trước mồ bạc anh không dấu giếm
Chín thu ròng vắng tiếng vì đâu ?..
Chân tơ kẽ tóc tình đầu
Nỗi niềm kể hết cho nhau hả lòng
Rồi anh lại ngựa lồng đường cũ
Bụi mù sương tung vó mịt mù
Đồi thông gió thổi vi vu
Hồn em theo gió âm u lạnh lùng
( 13 )
Nếu anh phải anh hùng nam tử
Trót lỗi lầm bỏ dở bình sinh
Trót nhầm lấy nhục làm vinh
Mồ em làm đích để anh cải hồi
Anh nhớ lại những lời thu trước
Hai ta thề vì nước quên mình
Em về nặng gánh nợ tình
Anh đi hồ hải tung hoành hiên ngang
Anh đi luyện trí gan bền bỉ
Em về chờ tri kỷ thành danh
Ngày xanh mòn mỏi tuổi xanh
Bóng anh mơ bóng mộng quanh bên mình
Sầu thương hòa lệ tình chan chứa
Lệ đầy vơi ngóng gió chờ mây
Sao anh biền biệt nào hay
Anh còn hay đã quá say thác rồi
( 14 )
Nếu thác vì giống nòi sở ước
Vì giang sơn tổ quốc vinh quang
Thì em thác chẳng hờn oan
Truyền đài với cả hân hoan em chờ
Nếu trái lại lời xưa anh bỏ
Bỏ lời xưa coi nhỏ tình xưa
Thì ôi thôi !.. sống bằng thừa
Nước non trốn nợ , tình lừa dối nhau…
Thác nhường ấy trước sau xá kể
Sống như kia sống để làm chi
Túi cơm giá áo khác gì
Sống loài vô giác sống chi uổng đời
Cùng cây cỏ để rồi mục nát
Cùng thời gian tan tác tuổi xuân
Cùng phường vong quốc an thân
Cùng phường vô đạo bất nhân bội tình
Dinh Lăng anh dáng hình bốn bể
Thấu lời em , em kể , em than…
Lời em gửi gió mây ngàn
Gửi anh gửi cả muôn vàn sầu thương
( 15 )
Trên đây mối tơ vương vò rối…
Gánh chung tình tắc lối nghẽn đường
Vườn xuân giông tố phũ phàng
Hoa xuân đương độ cánh tàn nhụy rơi…
Trên đây thuyền tình bơi ngược sóng
Giữa bể tình trông ngóng bến xưa
Bến tình xa lắc xa lơ
Bể tình thuyền đắm bến chưa gặp thuyền
Trên đây gương thề nguyền nguyện ước
Gữ lời thề sau trước không phai
Thân dù đá nát vàng phai…
Lòng son dạ sắt không thay đổi lòng
Trên đây huyết thư Dung để lại
Nhờ đưa Lăng Dung đợi lỡ rồi
Đêm tân hôn dung biệt đời
Liều thân tử tiết giữ lời nguyền xưa
Vì thu trước ngày mưa ảm đạm !..
Dung xa Lăng xa bạn tâm đồng
Một lời LĂNG đã là chồng
Chồng xa là cả hận lòng chia ly
( 16 )
Nhưng nàng muốn chàng đi vì nước
Chí riêng chàng sở ước từ lâu
Giang sơn tổ quốc làm đầu
Nhà tan nước mất còn đâu thân mình
Tình nhi nữ hận tình lưu luyến
Cảnh chia ly lệ ứa sầu vương
Chàng đi trí cả bốn phương
Nàng về ôm mối tang thương đợi chờ
Tháng ngày qua tơ tằm khung cửi
Tháng ngày qua vọng gửi người xa
Người xa người đợi ở ta
Xa người xa cảnh người xa ta thờ…
Chín thu rồi sống chờ đau khổ !..
Ba lần rồi ngăn trở ép duyên
Lần nào nàng cũng không quên
Nỗi riêng cầu khẩn lượng trên thấu lời
Nhưng cổ tục của người chuyên chế
Không cho nàng tự ý yêu Lăng
Ép duyên gán phận khăng khăng
Quyền trên định liệu nên chăng tự quyền
Lần cuối Dung quá phiền quá tủi
Sức người tàn bọt nổi mây tan
Ích gì ngậm thở ngồi than !..
Lượng trên hẹp lượng kêu van cũng thừa .
Phương kế gì mưu cơ nào nữa
Ngoài chết ra khó giữ toàn danh
Thôi thì sống nhục chết vinh
Chết đi cho trọn nghĩa sinh trọn lời
( 17 )
Ngày cưới Dung rợp trời náo nhiệt…
Nhạc hòa ca yến tiệc hòa ca
Dung tươi Dung đẹp như hoa
Dung về nhà mới thướt tha diễm kiều
Phòng tân hôn mỹ miều lộng lẫy
Nhớ đến Lăng đầy dẫy sầu thương
Nhớ người ngàn dặm trùng dương
Nhớ người xây dựng uyên ương tan rồi
Nhớ người ruột rối bời trăm mối
Đường cùng rồi sử đối ra sao ?..
Thấu chăng bể rộng trời cao
Trọn niềm thủ tín đợi bao lâu rồi
Thôi đành thôi tái hồi kiếp khác
Kiếp này xin hồn thác thanh tao
Núi Hoàng , rừng Cấm , sông Thao *
Chứng minh phận bạc má đào tuổi thơ
· * Ba địa danh thuộc tỉnh HÒA BÌNH
( 18 )
Trời vừa tối gặp cơ hội tốt
Sẵn tiên đan * nàng nuốt một liều
Giờ sau phách lạc hồn siêu…
Tiệc hoa tan vỡ người kêu gọi rầm .
Cây cỏ cũng âm thầm ủ rũ
Sầu thay người tình cũ thu xưa
Túi Dung đầy túi huyết thư
Lệ nhòa dòng máu hồn mơ não đời
Với song thân một lời tha thiết !..
Cho chôn nàng trọn triết trọn trinh
Đồi thông gò giữa cảnh sinh
Vọng tàn kỳ vọng an ninh cuối cùng .
Đồi cao với bóng tùng che trở
Hương hồn nàng muôn thuở anh linh
Thôi đành cam bội công sinh
Để duyên khỏi ép để tình khỏi oan
Với chồng nàng chàng Lăng nàng nguyện
Với chồng nàng , nàng hẹn tử sinh
Huyết thư huyết , lệ thanh minh
Đoạn trường khổ gánh điêu linh cõi trần…
· * Tiên đan là một loại thuốc độc
( 19 )
NếuLăng sống có lần trở lại
Nếu thôi về đành đợi kiếp sau…
Kiếp này đã dở dang nhau
Kiếp sau ước vọng trân châu thỏa tình
Kiếp này đã gương bình tan vỡ…
Kiếp sau cầu không lỡ phượng loan
Kiếp này nghiệp chướng tiền oan
Kiếp sau hưởng phúc đồng hoan vui vầy
Tiếng kêu thương chim đầy tuyệt vọng
Xé không gian réo động u sầu…
Lệ người đắm ngọc chìm sâu
Cạn dòng cạn hết còn đâu khóc đời
Đã đến lúc xa trời gần đất !..
Đời chỉ còn kẻ khuất người xa
Tay ôm mắt nhắm cho qua
Hồn thiêng sống mãi để mà chờ mong…
Hồn thiêng sống mãi trong trắng mãi
Trên đồi thông trên bãi trường đời
Trên cao trên cánh chim trời
Tháng ngày theo dõi bóng người xa xăm !..
( 20 )
Chôn Dung chưa được năm tháng chẵn
Trên đường về Lăng vẫn đinh ninh
Gặp Dung thỏa nguyện ba sinh
Gặp Dung hải thệ sơn minh phỉ nguyền
Nhưng nhân định thắng thiên ít lắm
Lăng quay về tình đắm duyên tan…
Huyết thư huyết lệ hòa chan
Bên mồ Lăng kể nỗi oan nát lòng…
HẾT CHƯƠNG 1
( 21 )
Chương 2
TÂM VỌNG PHI THƯỜNG
Mỵ Dung em Mỵ Dung thân ái
Đinh Lăng đây anh tới chậm rồi…
Tìm em thôi đã mất người
Chốn này gặp gỡ đã mười năm xưa
Thế là cả giấc mơ tan vỡ
Thế là thôi tình lỡ mộng tan
Thế là trâm gãy gương tan
Đoạn trường cùng gánh suối oan cùng đò
Ngoài ngàn dặm anh chờ từng khắc .
Trong buồng the em nhắc từng ngày
Tơ lòng cùng lựa một dây
Nỉ non tha thiết một ngày gần nhau
Thì đây ôi !.. nào đâu xa nữa…
Gần nhau rồi đã dở dang chưa
Mồ em cỏ úa nằm trơ
Ôm mồ anh khóc nằm chờ duyên sau
( 22 )
Mỵ Dung em ?.. vì đâu nên nỗi
Phải đâu là tội lỗi dôi ta…
Hồn em rừng thẳm non xa
Về đây nghe kể chuyện qua não lòng
Lời thề trước trọn vòng tình ái
Đâu dám sai dám trái lời thề
Đồi thông từ thuở chia ly…
Chín thu tuy vắng lòng ghi tạc lòng
Trí gang sắt nấu nung thành thép
Dạ đá vàng tha thiết nào phai
Ngàn trùng bôn tẩu nước ngoài
Gắng công mong chóng thành tài hồi hương
Để Lăng Dung uyên ương tương thác
Cùng hy sinh gánh vác sơn hà
Nợ gia đình nợ quốc gia
Bao nhiêu nợ nặng hai ta trả cùng
Nhi nữ tạo anh hùng là thế
Trí anh hùng là trí bốn phương
Ngờ đâu cuộc thế tang thương
Đồi thông nổi bão suối ngang lật thuyền
( 23 )
Em phẫn uất vì duyên thắt buộc
Em liều thân để được toàn danh
Để sen trong, lánh bùn tanh
Đập gương duyên ép tan tành đời soi
Đời trôi ôi !.. thôi trôi cả mộng .
Mộng tan rồi hy vọng tàn rồi
Tình ta thôi thế là thôi…
Tình ta xa thẳm đôi nơi âm trần
Lần trí nhớ ân cần anh kể
Đoạn đường xưa chia sẻ đôi ta
Để em nhẹ gánh nghi ngờ
Ngờ anh thay đổi hững hờ tình xưa
Anh ra đi ngày mưa thu đó…
Một ngày thu em nhớ suốt đời
Lệ em hòa lệ ngâu rơi
Lệ ngâu hòa lệ với người kiên trinh
Đã cùng nhau đinh ninh cặn kẽ
Xa nhau đây rồi sẽ gần nhau
Gần nhau cho đến bạc đầu
Gần nhau đến thác gần nhau hai mồ
( 24 )
Em về duyên lỡ chờ ôm mộng
Anh đi tin tưởng mộng cao xa…
Em về tháng trọn ngày qua
Anh đi non nước bao la mịt mùng
Em về thêu chữ đồng trên gối
Anh đi tìm gỡ rối đường tơ
Em vui sống trong mơ
Anh đi xây dựng vần thơ khải hoàn
Em về với muôn vàn triển vọng
Anh đi càng thận trọng nhân danh
Ngàn dâu xa cách non xanh
Ngàn dâu xa cách em anh vẫn gần
Bao lần lại, bao lần , lần nữa
Hai tâm hồn gắng chữa đau thương
Tình nhà nguyện ước vấn vương
Trùng lai maong đợi bốn phương một nhà
Trì đã quyết , gần xa nào quản
Tâm đã thờ căn bản không thay
Biết bao mộng đẹp ý hay…
Ngờ đâu vĩnh biệt !.. lại ngày thu xưa
( 25 )
THân thui thủi nắng mưa dầu gãi
Bỏ quê hương vườn trại mến yêu
Cha con xum họp sớm chiều
Anh em đoàn tụ mọi điều thiệt hơn
Họ hàng chia sẻ con tai nạn
Bạn bè vui chén cạn càng vui
Thuê thoa ngọn núi đỉnh đồi
Thỏa thuê suối mát lội bơi vẫy vùng
Không nô lệ chim lồng hót đậu
Không cúi luồn cá chậu tham mồi
Hoắc lê tự chủ ngọt bùi
Còn hơn mỹ vị sực mùi quốc vong
Đời khoáng đãng còn mong chi nữa
Bỏ ra đi sao nỡ an tâm
Nhưng lòng đầy những hận căm
Nước non u ám tối tăm mây sầu
( 26 )
Cùng cương quyết anh cầu em nguyện
Gác tình thương thỏa hẹn non sông
Tương lai đắc thắng thành công
Tình ta vinh hưởng non sông mạnh hùng
Nhưng chị Nguyệt bất công quá lắm
Bày trò chơi chỉ thắm tơ vàng
Bày ra những cảnh đau thương
Bày ra những cảnh lỡ làng tình duyên
Duyên chẳng hợp đảo điên làm hợp
Duyên chẳng ưa thắt buộc làm ưa
Lỡ duyên em lỡ tuổi thơ
Lỡ duyên anh lỡ hết cơ hội đời
Anh vì em phương trời từ chối
Nàng thiên hương lẻ gối chờ duyên
Nhất vùng nổi tiến nàng tiên
Phòng không lòng lạnh tây hiên một mình
Gặp anh nàng tỏ tình mật thiết
Quyết một niềm khăng khít mối tơ
Than ôi!.. nghĩa tình xưa
Mỵ Dung tim khắc bao giờ anh quên
Anh kể thực nàng Thiên Hương rõ
Mối tình riêng anh đã nặng lời
Với người ở tận phương trời
Người tuy xa thẳm ảnh người không xa
( 27 )
Mong thiên hương rộng tha lỗi đó
Và thôi đừng gắn bó cùng anh
Để anh làm trọn nghĩa tình
Mong ngày kết quả thành danh trở về
Mắt Thiên Hương đầm đìa lệ ngọc
Miệng tươi hoa bỗng khóc nghẹn nghào
Rồi cách đó mấy lần sau
Gặp nhau vẫn thế gặp nhau càng buồn
Rồi một ngày vọng cuồng thất vọng
Nàng Thiên Hương xúc động vô ngầm
Sẵn dao nàng kết liễu thân
Một tin kinh khủng xa gần xôn sao
Lý do gì vì đâu không rõ
Nhà cầm quyền tầm nã bắt anh
Đem ra sử trước tòa hình
Ghép vào tội nặng vì tình sát nhân
Đem đày anh trung thân cơ cực
Nỗi oan hờn áp bức kêu ai ?..
Thảm thay!.. đời ngục ngày dài
Anh hùng ứa lệ nhớ ngưới tình xưa
Nhớ Mỵ Dung ngày mưa thu trước!..
Tiễn đưa nhau hẹn ước những gì ?..
Giờ đây nào có hiểu chi
Vẫn yên trí đợi ngày kia anh về…
Anh về đâu nữa quê hương cũ
Mà em chờ cho lỡ tuổi thơ
Đời tù chôn chết đời mơ
Chôn theo hết cả đợi chờ ước mong
( 28 )
Thu sầu qua lại đông sầu tới
Chín thu ròng tê tái điêu linh
Tin đâu cải tử hoàn sinh
Là tin ân xá cho anh ra về
Mỵ Dung em anh mê hay tỉnh
Nỗi niềm vui chung đỉnh nào tày
Sổ lồng chim thỏa chí bay
Đường về cố quốc mong ngay trùng phùng
Mong gặp Mỵ Dung cùng thề nguyện
Dưới đèn hoa kể chuyện chia ly…
Rồi cùng nhau cùng ra đi
Để anh làm trọn lời thề nước non
Để anh hùng lập tròn sự nghiệp
Để duyên em tha thiết đáng duyên
Thật là hy vọng vô biên
Thật là hy vọng đầy trên đường về
Nhưng thảm thay thảm thê , thê thảm
Trước mồ em song cản nguồn thương
Kể sao cho xiết đoạn trường
Vì ta khăng khít lỡ làng cả hai
Nhưng chết trong hơn ai sống đục
Chết vinh hơn sống nhục đời nhơ
Mỵ Dung duyên đáng phụng thờ
Còn duyên tái hợp nguyện chờ tái sinh
Hồn em thiêng theo anh tùng bước
Mà chứng minh lời ước vì em
Mỵ Dung duyên đã khắc tim
Nguyện thề độc kiếp không tìm duyên ai…
( 29 )
Anh sống đây thân này hiến nước
Sống vinh quang sau trước một lần
Trọn đời vui sống độc thân
Mỵ Dung là vợ luôn gần bên anh
Đồi thông đây sơn minh thệ hải
Đồi thông đây ta gửi xác hồn
Rồi đây xác anh hùng chôn
Hai mồ hai xác một hồn một duyên
Em Mỵ Dung tạm yên vui nghỉ
Để anh đi cho phỉ trí trai
Đồi thông duyên nợ còn dài
Đồi thông còn mãi chuyện đời đôi ta
Đồi thông cảnh bao la thơ mộng
Đồi thông đồi kỳ vọng riêng ta
Riêng ta riêng một sơn hà
Suối trong nước réo thông già gió reo
Hồn ta tha hồ theo mây gió
Mà thảnh thơi khắp đó khắp đây
Ngàn thu hồn tỉnh duyên xay
Đồi thông đầy nợ những ngày tuổi xanh
( 30 )
Suối ơi suối, gần quanh ta mãi…
Tắm hồn ta sạch nỗi oan hờn
Lòng ta lòng suối ai hơn?..
Lòng cùng trinh bạch cô đơn cũng cùng
Đồi ơi đồi một vùng bát ngát
Nhạc thông reo réo rắt tơ lòng
Cho ta tiêu giải não nùng
Cho ta thoát với non bồng cảnh tiên
Núi ơi núi thiêng liêng hùng vĩ
Che trở ta bền bỉ trưởng thành
Tình ta vững với núi xanh
Núi xanh , xanh mãi mộng tình dài lâu
Rừng ơi rừng đi dâu mà lạ
Với đồi thông rừng đã quen lâu
Thâm u huyền bí nhiệm màu
Tình duyên ta lỡ ta cầu rừng thiêng
Mỵ Dung em tạm yên vui nghỉ
Để anh đi cho phỉ trí trai
Trên đường nhiệm vụ trông gai
Trên đường tranh đấu tương lai giống nòi
Trên đường quốc nạn đòi ưu thắng
Trên đường đầy cay đắng gian lao
Trên đường chính nghĩa tối cao
Trên đường bờ cõi giữ sao vẹn toàn
( 31 )
Hồn em tựa cung đàn theo gió
Bên mình anh nhắc nhở không quên
Bên mình khích lệ tiến lên
Sống sao cho sống ở trên cõi đời
Bên mình an ủi đời em đẹp
Để sống vui tắt dẹp sầu thương
Tình duyên đành kiếp đoạn trường
Báo đền nợ nước đạo phường dám sai
Thỏa trí nguyện hai vai nhẹ gánh
Với sơn hà tỏ ánh vinh quang
Đồi thông kỷ niêm vẻ vang
Đồi thông ghi dấu những trang sử hùng
Hồn em thiêng sống cùng non nước
Đợi hồn anh vẹn ước trọn thề
Sau ngày thỏa nguyện quay về
Hai mồ hai xác đề huề chốn đây
Với vũ trụ cỏ cây không thẹn
Với sơn hà trọn vẹn con trung
Ô hô!.. tín nữ Mỵ Dung
Khôn thiêng chứng dám soi thông đáy lòng
Của người quyết trọn vòng tình ái
Của người về hăng hái hiên ngang
Ra đi vì một cô nàng
Ra đi vì mối tơ vàng đôi ta
( 32 )
Lăng lại đi mười ba thu chẵn
Xa mồ Dung lệ đẫm tim vàng
Nhưng nam nhi trí bồng tang
Nợ tình nhẹ nợ giang san nặng nhiều
Thất vọng tình không liều nản trí
Thất vọng tình không phí tuổi xanh
Để người tình chết chết vinh
Để người tình sống, sống danh anh hùng
Anh hùng dũng cảm vùng sơn cước
Quyết hy sinh với nước vì tình
Mưa tên bão đạn không kinh
Sa trường máu lửa tử sinh coi thường
Diệt xâm lăng quy hàng cởi giáp
Đem vinh quang đền đáp non sông
Mạng coi nhẹ tựa lông hồng
Thân liều da ngựa , bọc cùng càng vinh
Hồn quốc sỹ coi khinh tàn bạo
Khoác nhung y chính đạo sông pha
Phất cờ gióng trống hò la
Trông gương tiên tổ trải qua bao đời
Vì sót giống thương nòi yêu nước
Không khoanh tay lùi bước chịu hèn
Chiến bào sương tuyết ố hoen
Ngựa bào khói đạn phủ đen một màu
Cầu hòa bình không cầu chinh chiến
Nhưng can trường khinh tiến địch quân
Thân dù vị quốc vong thân
Cũng cam cũng hả còn ân hận gì
( 33 )
Vinh dự thay ai bì chiến thắng
Thắng bại thường ngọt đắng cũng thường
Đấu tranh anh dũng quật cường
Hận đầy khát máu lên đường tiến đi
Đem chiến công chép ghi chiến sử
Đem tài năng thách thử tài năng
Nơi quan ải nhất Đinh Lăng
Chiến công rực rỡ vẻ vang đã nhiều
Văn y sỹ đủ điều thao lược
Võ mưu cơ cứu quốc giải nguy
Từ anh binh sỳ nhỏ ti
Thăng hàm trưởng vệ chỉ huy oai hùng
Lần cuối trưởng vệ Lăng ra trận
Trí tung hoành nước vận phục hưng
Khải hoàn toàn thắng tưng bừng
Đường về cỏ đón hoa mừng tung hô
Sau bao lần cỏ khô hoa héo
Sau bao lần dày xéo lầm than
Bởi quân xâm lược bạo tàn
Túi tham không đáy lan tràn không thương
Chia mà trị bất lương vơ vét
Gây giống nòi thù ghét lẫn nhau
Mồi ngon cá dễ mắc câu…
Cỏ non cám dỗ loài trâu kiếp bò
34
Nước càng đục vạc cò càng béo
Tài dối lừa càng khéo càng khôn
Biết bao tử sỹ mồ chôn
Sơn cùng bỏ xác cò thôn lìa đàn
Hận vong quốc muôn vàn uất hận
Thác còn chưa hả giận hết căm
Với người quyền vị không tham
Không tham ảo vọng không ham hư quyền
Không tối mắt vì tiền bán nước
Không dày mồ đón rước lấy voi
Không hại giống không phản nòi
Noi gương oanh liệt tranh đòi vinh quang
Noi gương đó Đinh Lăng quyết chí
Góp máu sương công lý phụng thờ
Góp phần đắp cõi xây bờ
Kỳ đài độc lập dụng cờ Việt Nam
Mười ba thu đã căm hả dạ
Diệt xâm lăng cú quạ tan đàn
Tam quân ca khúc khải hoàn
Thoát ly đàn áp trăm ngàn bất công
( 35 )
Thuyết tà đạo quyết không tồn tại
Thỏa ích mình hãm hại bao người
Mưu mô xảo quyệt dối đời
Thừa cơ lên bỗng hết thời ngã đau
Với chính nghĩa trước sau phải thắng
Thắng vinh quang chính đáng vững bền
Đinh Lăng ân báo nghĩa đền
Trên đường thắng lợi thỏa nguyền ước mơ
Ác thay nạn, bất ngờ hèn nhát
Nỡ ra tay mưu sát anh tài
Bất ngờ một mũi tên bay
Ngựa lồng chồm thét Lăng quay xuống đường
Quân cứu thương tìm phương cứu chữa
Gan anh hùng tan vỡ tang thương
Thảm thay nghiệp chướng tình trường
Hùm thiêng sa bẫy hết phương tung hoành
Trong ngũ luân có tình bè bạn
Nguyện vinh hoa vận hạn cùng nhau
Giữ sao tín nghĩa làm đầu
Gương xưa Quảng Bảo một bầu nhiệt tâm
( 36 )
Hương lan nở đầy sân thơm nức
Tiếng chim hòa đua sức hót vang
Gươm kia chẳng chống ngang đường
Xe kia nghiêng bánh vội vàng hỏi han
Đàn mấy khúc cao sang lưu thủy
Đèn năm canh tri kỷ sử kinh
Lấy câu đồng chí đồng thanh
Người tuy bốn bể cũng quang một nhà
Aó dẫu rách đậm đà càng mến
Giường dù treo tưởng đến xa sôi
Nhớ khi tay dắt thảnh thơi
Hươu ăn cùng núi, cá bơi cùng đầm
Lòng tha thiết không cần lợi lộc
Vận Đinh Ninh, Phạt Mộc thường ngâm
Giao du đã gọi đồng tâm
Sang hèn chẳng kể thăng trầm có nhau
Lời cưu ước bạc đầu vẫn giữ
Bần cố tri sinh tử một lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng
Gương trong chẳng chút bụi hồng mờ phai
( 37 )
Than ôi!.. Lăng, Lân hai bạn ngọc
Chốn biên cương ngang dọc tòng chinh
Cùng nhau huyết thệ bôi minh
Biệt ly có đất tử sinh có trời
Trong quân ngũ nguyện lời đồng chí
Tình tất giao thề ví Lưu Dương
Bao phen gối đất nằm sương
Ngọt bùi chia sẻ đau thương đã cùng
Thế mà nỡ thay lòng dổi dạ
Vì mối tình gây họa cho nhau
Rắp tâm cầm thú mưu sâu
Lỗi quên tình bạn tham cầu ái ân
Phường tục tử uổng thân bảy thước
Đời nam nhi lầm bước lạc đường
Còn đâu sự nghiệp phi thường
Ô danh bất nghĩa bất lương để đời
Trước tử thần thôi đành vĩnh biệt
Trưởng vệ Lăng tha thiết yêu cầu
Đồi thông xác được chôn sâu
Mỵ Dung mồ sẵn gần nhau hai mồ
Hồn trinh nữ đợi chờ nợ nước
Chí trinh phu nguyện ước từ lâu
Còn hung phạm chớ tìm đâu
Kỳ Lân xuất đội mưu sâu vô loài
( 38 )
Mưu hại ta vì hai lý lẽ
Dễ đoạt quyền lại dễ cầu duyên
Con Châu Uý, Cầm Bích Liên
Kỳ Lân vào hỏi bao phen chẳng thành
Với ta nàng cố tình nài ép
Ta một niềm thề chết không sai
Mỵ Dung là vợ ta rồi
Ta còn được sống trọn đời độc thân
Không tin ta không phân lẽ phải
Cầm Bích Liên không đổi ý riêng
Đáp lời xuất đội công nhiên
Đinh Lăng nàng quý là duyên tại trời
Sắt đá đâu giữ lời được mãi
Tháng ngày trôi lòng phải trôi theo
Mộng tình gửi mộng cao siêu
Bích lien xây cả thành yêu đợi chờ
Tai hại nhỉ Liên chờ ảo mộng
Lân yêu nàng thất vọng vì ta
Bể tình nổi trận phong ba
Chất cao họa thảm oan ta một mình
Thôi vĩnh biệt dự tình có thế
Cho ta về an nghỉ đồi thông
Mỵ Dung tháng đợi ngày mong
Nợ tình nợ nước trả xong ta mừng
( 39 )
Cả biên cương núi rừng cây cỏ
Cả biên cương bao phủ màu tang
Đồi thông ngàn dăm quan san
Hồn theo quốc táng vinh quang quay về
Về đồi thông xưa kia nguyện ước
Về gốc thông ngày trước hẹn hò
Thỏa tình kỳ vọng hai mồ
Chữ vàng bia đá đền bù vỹ nhân
Đây tổ quốc nớ ân người khuất
Trưởng vệ Lăng đệ nhất anh hùng
Họ ĐINH rạng vẻ non sông
Tận trung báo quốc lập công đã nhiều
Khác thường nhân trọn điều nguyện ước
Vị hôn thê sau trước một lời
Đêm tân hôn nàng biệt đời
Liều thân tử tiết bởi người ép duyên
Gương tiết nghĩa ghi trên bia đá
QUÁCH MỴ DUNG đời nhớ đời thương
Cầu cho vạn thế lưu hương
Tinh anh bất tử nhất phương linh thần
Thế là hết hồng trần tục lụy
Thế là xong thế vị mặn nồng
Thế là vẹn một chữ đồng
Thế là thỏa với non bồng cảnh tiên
Đồi thông nay thiên nhiên danh thắng
Đồi thông xưa cảnh vắng người thưa
Khác xưa nổi tiếng gần xa
Trai tài gái lịch hương hoa tới cầu
Cầu tình duyên trước sau thỏa nguyện
Cầu công danh hứa hẹn oai hùng
Khói nhang họa với sóng lòng
Vạng cùng đồng vọng mộng hòng cao xa
Khói nhang gió cuốn hòa mây lạc
Sóng lòng rào rạt nhạc suối qua
Đồi thông những buổi chiều tà
Dừng chân lữ khách ngẩn ngơ nỗi niềm
Ngẩn ngơ mối tơ duyên kỳ lạ
Ngẩn ngơ niềm gan dạ trượng phu
Ngẩn ngơ tang hải phù du
Chữ vàng bia đá ngẩn ngơ nỗi mình
Kìa những trang lưu danh hậu thế
Phải công gì thấm thía núi sông
Tử ly ai thoát khỏi vòng
Hơn nhau chỉ khác anh hùng lưu danh
Từ VỆ TRƯỞNG họ ĐINH khuất bóng
Cả biên cương trông ngóng đợi tin
Rõ người rõ mặt rõ tên
Ai là hung phạm bởi cơn cớ gì
Vì thù riêng hay vì tình lụy
Vì tranh quyền hay vị ghen tài
Gây nên thảm hại bi ai
Tang thương cây cỏ thiệt thòi núi sông
Ôi !.. thời thế anh hùng được mấy
Nên anh hùng thời thế dề đâu
Thu kia tầm tã dòng NGÂU
Dòng NGÂU tầm tã dòng sầu vô biên
Tòa quân sự họp phiên đặc biệt
TRƯỞNG VỆ LĂNG mạng thiệt hồn oan
Ai thủ phạm ?.. ai liên can...
Trước thần công lý phá tan ẩn tình
LỒ KỲ LÂN thân hình tiều tụy
Giam cầm lâu vì bị tình nghi
BÍCH LIÊN mày liễu ủ ê
Miệng hoa tươi gượng thảm thê đáy lòng
Từ thuở mộng anh hùng tan vỡ
Anh hùng xa duyên lỡ tình tan
Trước tòa lệ ngọc chứa chan
Lâm ly thống thiết nỗi oan tỏ bày
Tòa họp luôn ba ngày liên tiếp
LỒ
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 282
Subscribe to:
Posts (Atom)
No comments:
Post a Comment