Saturday, April 20, 2013
TRẦN HỒNG CHÂU * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
BIỂN OAN KHIÊN
TRẦN HỒNG CHÂU
biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hồ khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ...
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông!
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau ?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh ?
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!
mắt loạn thị
đầu hoang tưởng
nhãn ngư, ngư nhãn
điệu hồ khoan, ơ hờ!
ta đã đi đến tận cùng của chịu đựng
đi! cho ta nắm bàn tay tuyệt diệu
cho ta vào lòng biển sâu
vào giấc ngủ vô thường...
dưới sâu vẫn vô vàn cánh bay
dằng dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiêp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc ?
Trần Hồng Châu
( Nhớ Đất Thương Trời )
Tin AFP rao truyền khắp năm châu bốn biển
‘’Trong năm năm gần đây 5000 (hay 50,000?) con gái Việt Nam đã được bán buôn dưới nhiều hình thức’’
Những người con gái từng thấy trong ca dao
Trong thơ Nguyễn Bính chân quê
Trong thơ Hàn Mặc Tử chị ấy năm nay còn gánh
thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
50 năm trước đây, thời thực dân mấy đời
bánh đúc có xương
Họ còn được là cô dâu trinh trắng nón quai thao về
nhà những chàng trai quan họ quần chùng
áo dài nguyên nếp tình quê
5000 ngưồi con gái Việt Nam ấy, hôm nay sau cơn mê sảng ý thức hệ,
mà họ không hề tạo nên,
đã là món hàng tươi sống xuất khẩu
1. Về những phường dạ lạc Hồng Kông
2. Về những xóm yên hoa Ma Cao
3. Về đảo quốc Đài Loan xả xui bằng chữ ngàn vàng
4. Về vùng Lưỡng Quảng chiều mưa biên giới em đi về đâu?
5. Về niềm tủi nhục ngửa nghiêng Vọng Các thủ đô
ổ nhện suốt sáng thâu đêm. . . .
Người đi xa xuất khẩu hàng tươi sống
Suốt đời đánh mất mái chùa rêu phong.
Mất giọng bồng mạc mát tươi đồng quê
Mất điệu hò mái nhì và lý ngựa ô.
Mất tiêu mất tích!
Người ở lại
1. Bia ôm pha nước mắt
Đắng đến lưỡi tê dại
Bia sóng sánh vàng
Ngàn vàng cũng mất
Mất tiệt mất trắng
Mất tích mất tiêu
Trong buồng khách sạn đen
Đêm trắng sex tours
Của tư bản cũ
Pháp: On va boire un coup?
Mỹ: OK Salam! Make love not war!
Của tư bản mới:
Đại Hàn đi tìm kim chi bản xứ
Hương cảng mê của lạ nguyên xi, nguyên chất
Mã Lai Á con dân ông hoàng tỷ phú có tên trong bản phong thần Fortune
Người Thượng không từ Pleiku tới bỗng dưng vớ được " cây quế giữa rừng
2. Sân golf nhặt banh cho chủ tư bản đủ loại
Và làm đủ việc cho anh hai chi tiền.
Trước ống kính nón bỗng che nửa mặt phong trần
Để bớt ánh nắng hè soi mói
Để nhẹ hờn tủi và ngượng chín người
Vì khắp thế giới không đâu có đoàn gái trẻ xách rổ đi nhặt banh golf
Cho người ngoại tộc tiêu khiển trên sân cỏ nham nhở một bầy dê râu xồm
Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười
Trái tim mẹ chợt vỡ tung vào lịch sử
Bùn đen pha lệ đắng
Giữa tiếng cầu tài vô duyên
Giữa tiếng cọ xát xương sống gập đôi mềm nhũn
Của những đỉnh kinh tài hối mại
Xun xoa trước những khuôn mặt tư bản ... dẫy chết
Bóng nhẫy tự mãn
Phè phỡn ngạo mạn
Mẹ Âu Cơ đã sống 5000 năm văn hiến để hôm nay thấy hơn 5000 con gái thương yêu của mẹ
Run rẫy đi ra trong nguồn lệ chảy
Về đỏ xanh phường dạ lạc Hồng Kông
Về đen đủi đêm Bangkok thủ đô ổ nhện
Về đổ bác yên hoa Macao cầm vợ đợ con....
Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười
Mẹ còn nước mắt hay không?
( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây. Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười?)
BUỔI CHIỀU GÓC CẠNH
Một buổi chiều góc cạnh xù xì
Tôi hay ai đó
Người tiền sử trần truồng Thượng Đế
Người giả tưởng thiên niên kỷ 03
Mới ra lò kỹ nghệ gene đa sắc tố
Thằng người 5 mặt, 16 tay?
Tôi nghe lớn dần
Căng phồng từng thớ thịt biếng nhác
Cùng cánh đêm mãn khai
Hoa quỳnh đua việt dã
Mình gồng theo thời gian tím lilas
Lớn dần hay không lớn?
Bằng tím nâu dòng suối Coca mười năm hãm tài
Bằng hamburger Thái Sơn sỏi đá thần sầu
Chặn ngang thực quản đầu bò ngoan cố
Tôi trôi theo biển đời cười khóc
Giữa phố phường lì lợm gầm gừ
Đô thị gồ ghề
Gai góc
Nóng nung tái mặt
Lạnh đông cháy người !
Trôi hay không trôi?
Giữa lằn đường vàng trắng khó đăm đăm
Lằn đường, lane đường
Mù mịt tít mù
Chạy mút mùa như đời cải tạo không án lệnh
Chạy phân minh nhị nguyên
Như đường ranh tư bản dẫy chết. . . vẫn sống nhăn răng
Như đường ranh vô sản tiến nhanh tiến mạnh về thiên đường mù.
Trôi hay không trôi
Giữa đám đông quan chức miền hùng biện tam thập lục sứ quân hải ngoại
Giữa đám đông đàn bà phấn trát kim cương và hợm hĩnh đầy mình giầu xổi
Giữa sân khấu tạp lục đường phố
Bolsa. Nhìn xa
Động. Xuyên mình thế kỷ
Bon xà
Khẩu Phật tâm xà
Tôi yêu đường phố này vô cùng
Tôi ghét đường phố này vô cùng!
Cuối thế kỷ rồi
Phất phơ dòng đời
Thân không thuộc về ai
Hồn chẳng bám vào đâu
Nỗi nhớ quằn quại cờ thất tinh miền châu thổ
Một mình
Một mình
Ngả tư Magnolia
Magnolia ?
Mộc lan? Trà mi? Em xuống mau
Từ trời xanh thẳm
Từ cánh hạc vàng
Mặc Lan? Magnolia?
Tôi cùng đường rồi
Hết trốn chạy
Em xuống mau
Cho mình theo ghé!
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây . Buổi chiều góc cạnh)
LÀM THƠ SAU CƠN HỒNG THỦY
Từng dòng thơ
xé đôi xé ba
xé ngang xé dọc
từng mảnh tâm hồn đi ở đậu
cách xa nhau thật bất ngờ!
Bạn A một mảnh, Minh Phụng
bạn B một mảnh, Phan Đình phùng
Cái đầu trên gác xép gói bát hương
Cái đuôi gói kín sau tủ sách
trong bìa thơ Đoạn Trường
Gia đình ly tán
bài thơ chia cắt hình hài
như hổ tướng ngoài sa trương Tam Quốc
đầu vùi cát bụi cửa Hàm Cốc
thân chôn lau sậy Động Đình Hồ
đầu vùi Tam giáp TRường Giang
thân chôn vách đá mấy hàng Ly Sơn
ngàn mắt cú vọ
nhìn mà chẳng thấy
chẳng hiểu
nhà thơ thành gian thương giấu hàng
chơi hú tim chữ nghĩa
cười nổ tung những khuôn mặt đen
ôi xót xa
thương quê hương tan tác
thương đồng bào phân ly
thương cho thơ
những mảnh hồn xé lẻ
nổi trôi
đợi ngày đoàn tụ
nhất định
sấm sét cuồng phong sẽ vùng dậy
từ những đốm lửa nhỏ
từ những di động vi ba
Tần Thủy hoàng chết khô
Trong lửa đỏ Hàm Dương
phần thư! phần thư!
nhưng bài thơ vẫn tồn tại
trọn vẹn
ung dung
trên nẻo đường khai phá
nẻo đường tự do
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây. Làm thơ sau cơn hồng thủy)
SƠN TRUNG * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
Sơn Trung
Tháng hai, tháng ba,mùa xuân buồn
Huế, Đà Nẵng,Buôn Mê Thuột...
Đã biến thành sa mạc, rừng hoang
Với bao nhiêu đạn bom và xác chết không nguyên vẹn.
Cộng quân đã tiến gần thành phố...
Tại Sàigòn, hàng ngàn người ,hàng vạn ngưòi
Bao quanh tòa đại sứ Mỹ ...
Để cầu xin ân huệ cuối cùng.
Ngày 27, 28 tháng tư,
Có những chuyến tàu ra đi
Có những người bị đạp xuống biển
Có những người bám vào trực thăng
Bị chém đứt tay
Có những nhà tu hành
Cũng tranh giành
Một chỗ ngồi trong địa ngục
Có những bà mẹ cười khóc
Ôm đứa con đã chêt bốn năm ngày.
Có những người tuyệt vọng.
Đi lang thang trên thành phố không đèn.
Đường Tự Do, Lê Lợi không còn quán cà phê
Trước rạp ci nê :" Cơn Đại Hồng Thủy" vài đứa trẻ bơ vơ.
Những Bình Khang , những Xóm Mới vắng khách giang hồ.
Những người bạn thân mến,
Đã đến giã từ...
Những cột đèn âm u
Của thế giới địa ngục
Đứng rời rã trong đêm lao tù
Đêm 29 tháng tư
Cộng quân pháo kích vào thành phố
Lửa cháy, nhà đổ!
Và sáng 30 tháng tư,
Cộng quân đã vào thành phố
Chúng đi trên những chiếc xe tăng
Mặt mũi hung hăng,
Chúng chĩa súng bắt dân hoan hô rầm rộ...
Lịch sử đã sang trang,
Những dòng chữ đen đúa, nghệch ngoạc
Những chủ nhân ông mới từ rừng sâu tiền sử
Và từ trong hang
Những quỷ dữ
Những quỷ nhập tràng
Đi cướp bóc các tư gia
Các ngân hàng
Các cơ quan, các kho tàng
Chúng chia nhau những căn nhà,những biệt thự
Những xe Suzuki, Honda
Tú Xương, Thanh Quan, Đồng Khánh, Rex
Cư xá Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Kim, Thanh Đa
Đâu đâu cũng thấy dép râu, nón cối
Những đàn bò trong thành phố hoàng hôn...
Nhân dân tôi trở thành nô lệ
Hoặc trở thành những kẻ không hồn
Một nửa ngồi tù, một nửa thất nghiệp
Đọa đày, đói rách
Tất cả chúng tôi trở thành những con chuột bạch
Cho những kẻ ngu si hống hách
Tự xưng trí tuệ và anh hùng
Làm thí nghiệm hay làm trò chơi dối trá
Anh em chúng tôi
Một số cúi đầu
Một số đứng lên quật khởi
Vinh Sơn,Lê Quốc Quân,Trần Văn Bá
Một số xuyên rừng sâu
Một số vượt biển cả
Một số người đã chết ở Trường Sơn, Tam Biên
Một số bỏ xác trong miệng cá
Một số chết trong nhà tù
Nhưng hàng vạn người đã đứng lên
Thái Bình , Xuân Lộc, chùa Thiên Mụ
Quảng Độ, Huyền Quang,
Là những con người bất khuất
Chúng tôi đã viết thành lịch sử
Và sẽ viết nên những trang oai hùng
Của Lê Lợi, Quang Trung
Đấu tranh cho tự do và dân chủ
Xây dựng Việt Nam hùng cường
TÔI SẼ TRỞ VỀ
Khi tôi trở
về,Thăm lại non sông,
Chúng ta có còn gặp lại nhau không ?
Khi tôi trở về,
Em đã lấy chồng,
Hay còn chiếc bóng phòng không?
Khi tôi trở về,
Em má đỏ môi hồng,
Hay mái tóc như bông?
Khi tôi trở về,
Em mang áo rét mùa đông,
Hay đã yên nghĩ trên đồi thông?
Tôi sẽ trở về,
Thăm lại mái nhà xưa,
E không còn gặp lại mẹ già
Tháng năm còm cõi nắng mưa.
Căn nhà quạnh quẽ,
Ngõ trước vườn sau,
Không còn ngào ngạt hương cau,
Và không còn riu rít tiếng chim sâu….. .
Tôi sẽ trở về,
Thăm lại ngôi trường xưa
Nhưng tôi mất dấu địa đàng,
Ngôi trường đã thành cổ mộ,
Chôn đi bao quá khứ yêu thương.
Làm sao tôi nghe tiếng reo vang,
Lúc ra chơi sân trường nắng ấm quê hưong.
Và tiếng trống tan trường,
Tiếng chân nhỏ đi về trong xóm vắng.
Tôi sẽ trở về,
Thăm lại giòng sông xưa
Tôi đứng bên này bờ
Nhìn sang bên kia bờ.
Sương khói mênh mông trường giang rộng
Đâu còn em áo trắng đơn sơ?
Tôi sẽ trở về,
Thăm lại thành phố cũ,
Thăm những con đường xưa ta đi,
Thăm những đêm dài đại lộ,
Nhưng đâu còn hàng me cổ thụ,
Và những hoa phượng rơi rụng chiều mưa?
Tôi sẽ trở về,
Sẽ đi tìm những căn nhà không số,
Và những nguời đã mất tên.
Tôi sẽ đi tìm lịch sử
Của một thời hoa niên.
Tôi sẽ trở về
Và sẽ không quên, không quên.
Tháng 3 - 2002
YÊU GHÉT
Tôi mang linh hồn Nguyễn Đình Chiểu.
Lòng đầy những ghét, những yêu.
Tôi yêu những người trung hiếu,
Tôi ghét lũ quỷ ma.
Tôi yêu Vương Thúy Kiều,
Và Kiều Nguyệt Nga
Là những đóa hoa,
Ghét Trịnh Hâm, Bùi KIệm.
Là một lũ gian tà .
Tôi lấy bút làm gươm đâm kẻ ác.
Ngàn năm bút vẫn không tà.
Tôi ghét bầy gian manh.
Tôi yêu hòa bình,
Ghét quân xâm lược, gây chiến tranh.
Tôi yêu Khổng Tử
Và những trang tứ thư, ngũ kinh.
Chan chứa bao tình.
Tình yêu đất nước và tình yêu gia đình.
Tôi yêu Lão tử Đạo Đức kinh,
Vô vi thanh tĩnh
Chống cạnh tranh, yêu chuộng hòa bình.
Và Trang tử Nam Hoa kinh
Trang sinh là bướm,
Hay bướm là Trang sinh?
Tôi yêu Lý Bạch, Đỗ Phủ
Và những bài thơ Đường
Thơm ngát mùi hương
Nhưng tôi không thể yêu
Tần, Hán, Đường,
Tống, Nguyên, Minh , Thanh,
Và bọn Mao Trạch Đông
Đã gây chiến tranh
Và xâm lược đất nước tôi.
Tôi yêu nước Pháp,
Tôi yêu Lamartine,
Rimbeau
Jean Jacques Rousseau
Montesquieu
Những mối tình
Những bài thơ.
Và những tư tưởng dân chủ, tự do
Nhưng tôi không yêu
Bọn thực dân Pháp
Albert Sarraut,
Decoux,
Chúng là kẻ thù,
Đã giết dân tôi và bắt dân tôi làm nô lệ!
Tôi yêu nước Nga,
Với những văn hào lừng danh thế giới,
Leo Tolstoy, A.Fedorov, Sakharov
Boris Pasternak, K. Simonov...
Và Solzhenitsyn
Đã bất khuất chiến đấu cho hòa bình
Và cho tự do
Nhưng tôi ghét
Những Lenin, Stalin
Những đồ tể giết hàng triệu dân Nga
Và đã xuất cảng cách mạng vô sản.
Làm cho thế giới máu lệ chan hòa!
Tôi yêu đất nước Thái Lan,
Với những tháp bạc, chùa vàng
Trên tầng cao
Những tượng Phật xếp thành dãy,
thành hàng,
Sẵn sàng
đưa tay tế độ
trần gian.
Và những đoàn sư sãi mặc y vàng
Đi khất thực
bước trầm tư trong thành phố,
Nhưng tôi đau khổ
Vì bọn hải tạc giết người, cướp của
Hãm hiếp những phụ nữ nước tôi
Bao nhiêu xác người,
Đã vào miệng cá,
Và dạt trôi
trên biển cả !
Tôi yêu nước Việt tôi,
Bốn ngàn năm lịch sử trôi xuôi.
Tôi yêu Lý Thường Kiệt,
Hưng Đạo vương,
Nguyễn Trãi, Phan Thanh Giản,
Hoàng Diệu,
Nguyễn Tri Phương,
Đã lấy máu tô hồng trang lịch sử,
Đã chiến đấu bảo vệ quê hương..
Nhưng tôi không thể nào quên,
Bọn tôi tớ Nga Hoa
Nước biển đông không thể xóa nhòa
Tội ác của Hồ Chí Minh,
Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng
Đã giết người, cướp của
Đã bán nước và nhượng biển đông
Tôi cầu mong
Một ngày gió lộng
Mặt trời rực sáng phương Đông
Thế giới hòa bình
Và đất nước tôi sớm ngày giải phóng.
8-2008
Lòng đầy những ghét, những yêu.
Tôi yêu những người trung hiếu,
Tôi ghét lũ quỷ ma.
Tôi yêu Vương Thúy Kiều,
Và Kiều Nguyệt Nga
Là những đóa hoa,
Ghét Trịnh Hâm, Bùi KIệm.
Là một lũ gian tà .
Tôi lấy bút làm gươm đâm kẻ ác.
Ngàn năm bút vẫn không tà.
Tôi ghét bầy gian manh.
Tôi yêu hòa bình,
Ghét quân xâm lược, gây chiến tranh.
Tôi yêu Khổng Tử
Và những trang tứ thư, ngũ kinh.
Chan chứa bao tình.
Tình yêu đất nước và tình yêu gia đình.
Tôi yêu Lão tử Đạo Đức kinh,
Vô vi thanh tĩnh
Chống cạnh tranh, yêu chuộng hòa bình.
Và Trang tử Nam Hoa kinh
Trang sinh là bướm,
Hay bướm là Trang sinh?
Tôi yêu Lý Bạch, Đỗ Phủ
Và những bài thơ Đường
Thơm ngát mùi hương
Nhưng tôi không thể yêu
Tần, Hán, Đường,
Tống, Nguyên, Minh , Thanh,
Và bọn Mao Trạch Đông
Đã gây chiến tranh
Và xâm lược đất nước tôi.
Tôi yêu nước Pháp,
Tôi yêu Lamartine,
Rimbeau
Jean Jacques Rousseau
Montesquieu
Những mối tình
Những bài thơ.
Và những tư tưởng dân chủ, tự do
Nhưng tôi không yêu
Bọn thực dân Pháp
Albert Sarraut,
Decoux,
Chúng là kẻ thù,
Đã giết dân tôi và bắt dân tôi làm nô lệ!
Tôi yêu nước Nga,
Với những văn hào lừng danh thế giới,
Leo Tolstoy, A.Fedorov, Sakharov
Boris Pasternak, K. Simonov...
Và Solzhenitsyn
Đã bất khuất chiến đấu cho hòa bình
Và cho tự do
Nhưng tôi ghét
Những Lenin, Stalin
Những đồ tể giết hàng triệu dân Nga
Và đã xuất cảng cách mạng vô sản.
Làm cho thế giới máu lệ chan hòa!
Tôi yêu đất nước Thái Lan,
Với những tháp bạc, chùa vàng
Trên tầng cao
Những tượng Phật xếp thành dãy,
thành hàng,
Sẵn sàng
đưa tay tế độ
trần gian.
Và những đoàn sư sãi mặc y vàng
Đi khất thực
bước trầm tư trong thành phố,
Nhưng tôi đau khổ
Vì bọn hải tạc giết người, cướp của
Hãm hiếp những phụ nữ nước tôi
Bao nhiêu xác người,
Đã vào miệng cá,
Và dạt trôi
trên biển cả !
Tôi yêu nước Việt tôi,
Bốn ngàn năm lịch sử trôi xuôi.
Tôi yêu Lý Thường Kiệt,
Hưng Đạo vương,
Nguyễn Trãi, Phan Thanh Giản,
Hoàng Diệu,
Nguyễn Tri Phương,
Đã lấy máu tô hồng trang lịch sử,
Đã chiến đấu bảo vệ quê hương..
Nhưng tôi không thể nào quên,
Bọn tôi tớ Nga Hoa
Nước biển đông không thể xóa nhòa
Tội ác của Hồ Chí Minh,
Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng
Đã giết người, cướp của
Đã bán nước và nhượng biển đông
Tôi cầu mong
Một ngày gió lộng
Mặt trời rực sáng phương Đông
Thế giới hòa bình
Và đất nước tôi sớm ngày giải phóng.
8-2008
HÀNH TRÌNH DÂN TỘC
Không
ai gian manh bằng Các - Mác,
Ông
đưa ra khẩu hiệu tự do, dân chủ, công bình.
Ông
hô hào giai cấp đấu tranh,
Tiêu
diệt hết gian tham bóc lột
Xã
hội không còn người đói khổ
Thế
giới sẽ tiến lên theo ngọn cờ đỏ quang vinh!
Xây
dựng một thế giới hoà binh
Gấp
năm, gấp mười thời đại trước
Ông
kêu gào người vô sản
hãy
đoàn kết sau lưng ông.
Những
người khố rách đã đành,
Những
trí thức,
con
quan lại,
con nhà giàu có
Cũng
chưởi mẹ, mắng bố
rồi
bỏ nhà theo cộng sản đấu tranh!
Không
ai ghê gớm như Stalin,
Mao
Trạch Đông
Và Hồ Chí Minh.
Giết
hàng triệu người,
hoặc
đày ải nhân dân lên núi đỏ rừng xanh.
Và
xúi giục thanh niên nam nữ
xông
vào lửa đạn chiến tranh
Hăng
say chiến đấu quên thân mình.
Hàng
triệu ngườI đã bỏ xác,
Cho
bạo quyền,
cho
những lãnh tụ lưu manh!
Sau
khi thành công
Chúng
thành những tên bạo chúa
Cướp
tài sản nhà chùa, nhà thờ,
Và
cướp đất nhân dân.
Chúng
đã trở thành những kẻ bán nước cầu vinh
Hồ
Chí Minh,
Đỗ
Mười, Nguyễn Văn Linh
Nông Đức Mạnh
Đã
thành một lủ yêu tinh!
Trong
khi chúng trợn mắt nhe nanh
Khủng
bố dân chúng
Chúng
quỳ mọp lạy lục Nga Hoa
như
lạy tiên tổ ông bà!
Ngày
xưa chúng hô hào chống Pháp,
Nay
chúng bó giáp
Để
mặc Trung Cộng tung hoành xâm lược
Cúi
đầu làm nô lệ thuở Minh, Thanh
Ngày
xưa chúng to tiếng bênh vực vô sản,
chống tư bản.
Nhưng
chúng đã lập những nông trại,
những
công trường,
những
hợp tác xã
Bắt
dân ta làm nông nô
Sống
đời đói khổ
Bắt
quỳ lạy già Hồ
Và
tung hô lãnh tụ Liên Xô!
Nay
nhân dân càng đói khổ,
Bao
thanh niên nam nữ
phải
làm nô l ệ
bán
thân ở nước ngoài.
Chúng
trở th ành tư bản đỏ
lắm
bạc nhiều tiền,
Cho
con du học nước ngoài
Để chuyển ngân và thoải mái ăn chơi.
Chúng xây biệt thự,
Mua xe hơi giá hàng triệu mỹ kim
Chúng xây vũ trường
Gian xảo, hoang dâm và tàn ác vô độ
Bắt nhân dân giam trong những nhà tù
Chúng
hành hạ những nhà đấu tranh dân chủ,
Khủng
bố các sư, các linh mục . . .
Tại
sao dân ta phải cúi đầu theo quỷ đỏ?
Tại
sao phải sống đời cực khổ,
Thiếu
tự do, dân chủ
no ấm và công bằng?
Tại
sao ta đành
Để
cho cộng sản lộng hành
Phản
quốc, hại dân và hại nước?
Đất nước ta phải quang vinh
Nhân dân ta phải sống đời hòa bình
Bằng
con đường đấu tranh
Vùng
lên xé tan cờ đỏ
Đào
mả Hồ Chí Minh
Lập
nền tự do, dân chủ
Cho
Việt Nam vững bền vạn cổ
Cho
Hùng vương, Lý Thường Kiệt,
Hưng
Đạo Vương, Nguyễn Huệ mãi mãi quang vinh !
1-2009.
CON NGỰA THÀNH TROY
Ngày xưa Hy Lạp
Là một quốc gia văn minh
Nhất hành tinh.
Vua Hy Lạp yêu một nữ hải thần
Rồi làm lễ cưới linh đình
Bá quan văn võ, tân khách tấp nập dự tiệc,
Tiếng ca, tiếng nhạc vang rền...
Nhưng đức vua đã quên
Không mời nữ thần Đại Ác
Bà ta tức giận vô cùng.
Bà hóa phép thần thông
Gửi một trái táo đến giữa bàn tiệc,
Với giòng chữ "Tặng đệ nhất giai nhân".
Bấy giờ trong đám cưới
Có ba nữ thần,
Ai cũng muốn chiếm trái táo
Ai cũng cho mình đệ nhất giai nhân!
Hoàng tử Paris thành Troia,
Phải đứng lên phân xử
Kết quả nữ thần Aphrodite đại thắng!
Nữ thần cám ơn hoàng tử
và hứa sẽ tặng một giai nhân.. .
Ngày nọ, hoàng tử Paris
Đi thăm Menelaus
Vua nước Sparta Hy Lạp
Và đã gặp hoàng hậu Helen
Rồi khi hoàng tử ra đi
Hoàng hậu Helen trốn theo hoàng tử Paris...
Vua Menelaus bèn cử đại binh
Đánh thành Troia.
Là một thành trì rất kiên cố
Và cách trùng dương xa !
Vua kêu gọi: "Hỡi toàn dân ta
Hãy xông lên chiến đấu
Để bảo vệ nhân dân Sparta
Hãy đòi công lý
Hãy hy sinh
Cho thế giới hòa bình!"
Mười năm chiến chinh
Vẫn không có hòa bình
Vẫn không đại thắng. . .
Vì thành Troia rất kiên cố.. .
Vì Hector và em là Paris rất tài giỏi
Nhưng mười năm lửa khói
Hàng vạn vạn người bị tàn sát
Hàng vạn gia đình tan nát
Cả hai bên đều điêu linh
Hector và Achilles
Đã bỏ mình
Trong cuộc chiến.. .
Theo kế tướng Odysseus
Vua Menelaus phá thuyền lấy gỗ làm một con ngựa
Rất to
Để lại trước thành...
Rồi lui binh
Rất nhanh
Trở về trên biển cả...
Vua Sparta sai một viên sứ giả
Dâng lễ vật hòa bình
Viên sứ giả tâu trình:
"Đây là con ngựa gỗ
Xin dâng vua với tấc lòng thành...
Từ đây hai nước dứt chiến tranh!
Và chung sống hòa bình!
Vua quan thành Troia,
Mừng vui đại thắng
Quân Sparta
Mạnh nhất thế giới
Nay đã tháo chạy
Đã cút khỏi nước ta!
Từ đây đất nước Hòa Bình
Vĩnh viễn chấm dứt chiến tranh
Thế giới ca ngợi nhân dân ta anh hùng!
Triều đình ta vĩ đại!
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!
Họ vui mừng ca hát
Xung quanh con ngựa gỗ
Đây là chiến lợi phẩm của nhân dân ta
Tịch thu của bọn Sparta...
Họ kéo ngựa gỗ vào thành
Và nhảy múa xung quanh
Vui mừng Ngày đại thắng!
Đất nước ta từ đây hòa bình
Từ đây vĩnh viễn chấm dứt chiến tranh!...
Họ say sưa quang vinh!
Đêm khuya tối tăm,
Quân Troia say men chiến thắng
Và ngủ quên
Quân Sparta
Trong ngựa gỗ nhảy ra
Đốt phá cửa nhà
Giết hết quân Troia
Mở cổng cho quân ngoài tiến nhập.
Thế mạnh như vũ bão
Thành Troia trở thành đống tro tàn
Và nấm mồ hoang.. .
Hoàng hậu Helen bị bắt
Nhưng không bị trừng phạt
Vì vua vẫn say mê sắc đẹp của nàng.
(Ôi tốn bao vạn sinh linh
Để chiếm lại tấm mền cũ rách nát!)
Con Hector bị thảm sát
Vì tội phạm chiến tranh...
Odysseus sau bao năm chiến chinh
Và sau bao năm long đong trên biển cả
Trở về Ithaca quê hương ngày hòa bình
Nhưng rồi cũng chết
Thảm thiết
Trong bàn tay người vợ ngoại tình!
Thế là kết thúc một cuộc chiến tranh
Tốn xương máu hàng vạn dân lành.
Cho thế giới hòa bình
Cho nhân loại công bình, tự do, hạnh phúc
Hay kết thúc trò chơi của các thần linh?
Sơn Trung
Ngày 24 tháng 4-2011
Là một quốc gia văn minh
Nhất hành tinh.
Vua Hy Lạp yêu một nữ hải thần
Rồi làm lễ cưới linh đình
Bá quan văn võ, tân khách tấp nập dự tiệc,
Tiếng ca, tiếng nhạc vang rền...
Nhưng đức vua đã quên
Không mời nữ thần Đại Ác
Bà ta tức giận vô cùng.
Bà hóa phép thần thông
Gửi một trái táo đến giữa bàn tiệc,
Với giòng chữ "Tặng đệ nhất giai nhân".
Bấy giờ trong đám cưới
Có ba nữ thần,
Ai cũng muốn chiếm trái táo
Ai cũng cho mình đệ nhất giai nhân!
Hoàng tử Paris thành Troia,
Phải đứng lên phân xử
Kết quả nữ thần Aphrodite đại thắng!
Nữ thần cám ơn hoàng tử
và hứa sẽ tặng một giai nhân.. .
Ngày nọ, hoàng tử Paris
Đi thăm Menelaus
Vua nước Sparta Hy Lạp
Và đã gặp hoàng hậu Helen
Rồi khi hoàng tử ra đi
Hoàng hậu Helen trốn theo hoàng tử Paris...
Vua Menelaus bèn cử đại binh
Đánh thành Troia.
Là một thành trì rất kiên cố
Và cách trùng dương xa !
Vua kêu gọi: "Hỡi toàn dân ta
Hãy xông lên chiến đấu
Để bảo vệ nhân dân Sparta
Hãy đòi công lý
Hãy hy sinh
Cho thế giới hòa bình!"
Mười năm chiến chinh
Vẫn không có hòa bình
Vẫn không đại thắng. . .
Vì thành Troia rất kiên cố.. .
Vì Hector và em là Paris rất tài giỏi
Nhưng mười năm lửa khói
Hàng vạn vạn người bị tàn sát
Hàng vạn gia đình tan nát
Cả hai bên đều điêu linh
Hector và Achilles
Đã bỏ mình
Trong cuộc chiến.. .
Theo kế tướng Odysseus
Vua Menelaus phá thuyền lấy gỗ làm một con ngựa
Rất to
Để lại trước thành...
Rồi lui binh
Rất nhanh
Trở về trên biển cả...
Vua Sparta sai một viên sứ giả
Dâng lễ vật hòa bình
Viên sứ giả tâu trình:
"Đây là con ngựa gỗ
Xin dâng vua với tấc lòng thành...
Từ đây hai nước dứt chiến tranh!
Và chung sống hòa bình!
Vua quan thành Troia,
Mừng vui đại thắng
Quân Sparta
Mạnh nhất thế giới
Nay đã tháo chạy
Đã cút khỏi nước ta!
Từ đây đất nước Hòa Bình
Vĩnh viễn chấm dứt chiến tranh
Thế giới ca ngợi nhân dân ta anh hùng!
Triều đình ta vĩ đại!
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!
Họ vui mừng ca hát
Xung quanh con ngựa gỗ
Đây là chiến lợi phẩm của nhân dân ta
Tịch thu của bọn Sparta...
Họ kéo ngựa gỗ vào thành
Và nhảy múa xung quanh
Vui mừng Ngày đại thắng!
Đất nước ta từ đây hòa bình
Từ đây vĩnh viễn chấm dứt chiến tranh!...
Họ say sưa quang vinh!
Đêm khuya tối tăm,
Quân Troia say men chiến thắng
Và ngủ quên
Quân Sparta
Trong ngựa gỗ nhảy ra
Đốt phá cửa nhà
Giết hết quân Troia
Mở cổng cho quân ngoài tiến nhập.
Thế mạnh như vũ bão
Thành Troia trở thành đống tro tàn
Và nấm mồ hoang.. .
Hoàng hậu Helen bị bắt
Nhưng không bị trừng phạt
Vì vua vẫn say mê sắc đẹp của nàng.
(Ôi tốn bao vạn sinh linh
Để chiếm lại tấm mền cũ rách nát!)
Con Hector bị thảm sát
Vì tội phạm chiến tranh...
Odysseus sau bao năm chiến chinh
Và sau bao năm long đong trên biển cả
Trở về Ithaca quê hương ngày hòa bình
Nhưng rồi cũng chết
Thảm thiết
Trong bàn tay người vợ ngoại tình!
Thế là kết thúc một cuộc chiến tranh
Tốn xương máu hàng vạn dân lành.
Cho thế giới hòa bình
Cho nhân loại công bình, tự do, hạnh phúc
Hay kết thúc trò chơi của các thần linh?
Sơn Trung
Ngày 24 tháng 4-2011
THE TROJAN
HORSE
by Sơn Trung
by Sơn Trung
For many centuries
Greece had been the most powerful country
in the world.
And it is said a famous love story
(It is also Greek history)
"Peleus, King of Greece loved Thetis
A Sea Goddess
Their marriage was celebrated splendidly
Thousand guests were invited to this wedding ceremony
Unfortunately
The King forgot inviting Eris
A Goddess of Cruelty!
She was very angry
By her magical art
She threw a golden apple to the party
with a card written " for the most beautiful lady"
At the party,
There were Hera, Athena, and Aphrodite, three goddesses,
Very proud of their beauty
They wanted to get this apple.
Who was the fairest lady?
After the judgment of Paris
A prince of Trojan city
Aphrodite won and she promised
She would give him the most beautiful lady.
One day,
Paris made a trip to Sparta
Where Menelaus, the King of Greece treated him as a royal guest
So Paris met Queen Helen
When Paris came back to his country
She followed him secretly
In Troy, Helen and Paris were married
And they were very happy...
King Menelaus was very angry
He sent his army
To attack Trojan city
And he said to his troops:
"My soldiers, you must fight bravely
for our country
for liberty
and for peace of the world!"
Ten years passed
Greeks won no victory
It was difficult to pass the big sea
Although they had many great fleets
And Achilles was a great hero
The Trojan city was a far country
beyond the big Sea
It was supported by its neighboring kingdoms,
And it had the strong forts
And Hector, Paris fought bravely
The Greeks could not break down the walls of Troy easily!
At last, two sides also lost
Achilles , Hector, and thousand soldiers died
A lot of Greek ships dissembled in the ocean
And many Trojan people died and injured
and thousand houses destroyed.
This war influenced tragically
on their national economy
and their social security
This war is very tedious ,
The Greeks grew weary, . .
How to gain entrance into Troy?
Clever Odysseus made a strange toy!
He ordered to take down some ships
In order to build a large wooden horse.
Its inside was empty
So that thirty soldiers could hide within it.
That statue stood in the front of Trojan gate
A number of the Greek warriors, along with Odysseus hid inside
When the rest of the Greek fleet sailed away.
Sinon, a Greek messenger, was left behind.
He told to the Trojans with sincerity
That Greeks were defeated by Trojan army.
Now you won victory
The world would be in peace
And no more war in your country!
He said that the wooden horse was your booty
And would bring luck to the Trojan city
The Trojans were very happy
They celebrated noisily
They thought it was their victory,
And dragged the wooden horse into the city.
The Trojan King said:
"We win victory
We defeat all the strongest enemies
in the world
We are the biggest heroes
No more war in our country
No more invaders to our country
We are the most brave and intelligent heroes in this century!
At midnight,
when the Trojans slept deeply
The Greek soldiers inside the horse went out secretly
They slaughtered the Trojan soldiers
They fired the Trojan shelters
They broke down the Trojan wall
They destroyed all.. .
After the war,
Polyxena, daughter of Priam, was sacrificed at the tomb of Achilles
and Astyanax, son of Hector, was also sacrificed by the crime of war.
Helen was captured
Menelaus, who had been determined to kill his faithless wife,
Was soon taken by Helen's beauty
That he allowed her to live.
After many year in the war combating
And many year on the sea traveling
Odysseus came back to Ithaca, his native country,
And died tragically
By his unfaithful wife...
What victory?
Ten or hundred thousand people were killed
For a faithless lady?
What are the targets of the Kings?
For Independence of their country?
For Peace of World?
For Equality?
And Liberty?
Or are there the games of Gods and Goddesses?
Greece had been the most powerful country
in the world.
And it is said a famous love story
(It is also Greek history)
"Peleus, King of Greece loved Thetis
A Sea Goddess
Their marriage was celebrated splendidly
Thousand guests were invited to this wedding ceremony
Unfortunately
The King forgot inviting Eris
A Goddess of Cruelty!
She was very angry
By her magical art
She threw a golden apple to the party
with a card written " for the most beautiful lady"
At the party,
There were Hera, Athena, and Aphrodite, three goddesses,
Very proud of their beauty
They wanted to get this apple.
Who was the fairest lady?
After the judgment of Paris
A prince of Trojan city
Aphrodite won and she promised
She would give him the most beautiful lady.
One day,
Paris made a trip to Sparta
Where Menelaus, the King of Greece treated him as a royal guest
So Paris met Queen Helen
When Paris came back to his country
She followed him secretly
In Troy, Helen and Paris were married
And they were very happy...
King Menelaus was very angry
He sent his army
To attack Trojan city
And he said to his troops:
"My soldiers, you must fight bravely
for our country
for liberty
and for peace of the world!"
Ten years passed
Greeks won no victory
It was difficult to pass the big sea
Although they had many great fleets
And Achilles was a great hero
The Trojan city was a far country
beyond the big Sea
It was supported by its neighboring kingdoms,
And it had the strong forts
And Hector, Paris fought bravely
The Greeks could not break down the walls of Troy easily!
At last, two sides also lost
Achilles , Hector, and thousand soldiers died
A lot of Greek ships dissembled in the ocean
And many Trojan people died and injured
and thousand houses destroyed.
This war influenced tragically
on their national economy
and their social security
This war is very tedious ,
The Greeks grew weary, . .
How to gain entrance into Troy?
Clever Odysseus made a strange toy!
He ordered to take down some ships
In order to build a large wooden horse.
Its inside was empty
So that thirty soldiers could hide within it.
That statue stood in the front of Trojan gate
A number of the Greek warriors, along with Odysseus hid inside
When the rest of the Greek fleet sailed away.
Sinon, a Greek messenger, was left behind.
He told to the Trojans with sincerity
That Greeks were defeated by Trojan army.
Now you won victory
The world would be in peace
And no more war in your country!
He said that the wooden horse was your booty
And would bring luck to the Trojan city
The Trojans were very happy
They celebrated noisily
They thought it was their victory,
And dragged the wooden horse into the city.
The Trojan King said:
"We win victory
We defeat all the strongest enemies
in the world
We are the biggest heroes
No more war in our country
No more invaders to our country
We are the most brave and intelligent heroes in this century!
At midnight,
when the Trojans slept deeply
The Greek soldiers inside the horse went out secretly
They slaughtered the Trojan soldiers
They fired the Trojan shelters
They broke down the Trojan wall
They destroyed all.. .
After the war,
Polyxena, daughter of Priam, was sacrificed at the tomb of Achilles
and Astyanax, son of Hector, was also sacrificed by the crime of war.
Helen was captured
Menelaus, who had been determined to kill his faithless wife,
Was soon taken by Helen's beauty
That he allowed her to live.
After many year in the war combating
And many year on the sea traveling
Odysseus came back to Ithaca, his native country,
And died tragically
By his unfaithful wife...
What victory?
Ten or hundred thousand people were killed
For a faithless lady?
What are the targets of the Kings?
For Independence of their country?
For Peace of World?
For Equality?
And Liberty?
Or are there the games of Gods and Goddesses?
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
THƠ
Saturday, April 20, 2013
NHIỀU TÁC GIẢ * THƠ MÙA CHINH CHIẾN
Chiều Trên Phá Tam Giang
Tác giả:
Tô Thùy Yên
Chiều trên phá Tam Giang Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.
Giờ này thương xá sắp đóng cửa.
Người lao công quét dọn hành lang.
Những tủ kính tối om.
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm.
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm.
Sài Gòn không còn buổi tối nữa.)
Giờ này có thể trời đang nắng.
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tỉnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi.
Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối,
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn,
Quyển sách mở sâu đêm.
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỉ.
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới.
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ.
Giờ này có thể trời đang mưa.
Em đi nép hàng hiên sướt mướt,
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút.
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp,
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ.
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh,
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nỗi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới.
Giờ này thành phố chợt bùng lên.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi,
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya.
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi,
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng,
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại.
Anh yêu, yêu nuối tuổi hai mươi,
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ.
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân.
Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại !
ANH HÙNG TẬN
Tô Thùy Yên
Dựng súng trường, cởi nón sắt
Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều
Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt
Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều
Đây ngã ba sông, làng sát nước
Xuồng ba lá đậu kế chân bàn
Trời mới tạnh mưa còn thấp ướt
Lục bình, mây mỏi chuyến lang thang
Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn
Nên gặp nhau không giấu nỗi mừng
Ta gạn dăm lời thơ tặng bạn
Dẫu từ lâu bỏ việc văn chương
Thiệt tình, tên bạn ta không nhớ
Nhưng mà trông mặt thấy quen quen
Hề chi, ta uống cho say đã
Nào có ra gì một cái tên...
Tới đây toàn những tay hào sĩ
Sống chết không làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc gì thân thế
Có vợ con mà như độc thân
Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp. Ta cười bung:
Còn mươi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chửa biết chừng...
Mặt bạn, mặt ta còn trắng cả
Như mặt trời chiều mới tạnh mưa
Tiếng hò mời dzô, dzô tở mở
Muỗi thủy triều chừng cũng giạt ra
Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt
Sông không bờ, trời cũng không chân
Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
Đất thì không khẩn, vàng không tìm...
Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm
Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cõi âm còn gặp để say
Tô Thùy Yên, Thơ tuyển, Minesota, 1995
Nghinh địch hành
Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay
Chiến chinh trời cũng sợ
Chỉ còn lại hai bên
Vội vàng chi cho cực
Cứ thong thả nghỉ đêm
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào
Nếu chú có cha mẹ
Ta chẳng những người thân
Còn mang thêm lắm nợ
Với rượu và gió trăng
Chú cứ ăn cho đủ
Mai chết sẽ chết no
Ta cũng cần đêm cuối
Từ giã gió trăng xưa
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay
Chiến chinh trời cũng sợ
Chỉ còn lại hai bên
Vội vàng chi cho cực
Cứ thong thả nghỉ đêm
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào
Nếu chú có cha mẹ
Ta chẳng những người thân
Còn mang thêm lắm nợ
Với rượu và gió trăng
Chú cứ ăn cho đủ
Mai chết sẽ chết no
Ta cũng cần đêm cuối
Từ giã gió trăng xưa
Hà Thúc Sinh
Hành quân qua bến phà Mỹ Thuận gặp bạn đánh chén, say mèm
hãy cụng ly chết bỏtôm cua cá lươn sò
lương ta còn nguyên vẹn
còn cả cái Seiko
Cửu long giang ra biển
sẽ chẳng trở về đây
chiến tranh hề gặp gỡ
có chắc lần thứ hai
mai mỗi thằng mỗi ngã
thằng Cà Mâu Năm Căn
thằng Bình Dương Bình Gìa
thằng địa ngục thiên đàng
nhưng ta không sợ chết
(hơi ngán què đôi chân)
còn mày sao lại khóc
cứ cười lên đi con
ta anh hùng tứ xứ
há thua những bông hồng
nơi rừng U Minh Hạ
còn dám nở dưới bom cứ cười như họng súng
bắn cuộc đời vỡ toang
ha...ha...ha..ha..ha..
như họng súng
ha...ha...ha...
đời vỡ toang
ha...ha...ha...
vỡ toang...toang...toang...
Hà thúc Sinh
Chiến Tranh Và Tôi
Tác giả:
Nguyễn Bắc Sơn
Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội
rừng giáp rừng gío thổi cỏ lông măng
đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi
hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời
hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi, các ngài du kích
hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
hãy tránh xa ra ta xin xí điều
lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình
ăn muối đá và hăng say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
chọn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu
những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc
Mượn bom đạn chơi trò pháo tết
và máu xương làm phân bón rừng hoang
rừng giáp rừng gío thổi cỏ lông măng
đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi
hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời
hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi, các ngài du kích
hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
hãy tránh xa ra ta xin xí điều
lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình
ăn muối đá và hăng say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
chọn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu
những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc
Mượn bom đạn chơi trò pháo tết
và máu xương làm phân bón rừng hoang
Lần hành quân trở về
Đã thấy khác xa với lời mẹ dạy
linh hồn vàng cùng tận cõi ăn năn
đường lui quân ôi dòng dòng máu đỏ
của kiếp người chưa đủ một trăm năm
Anh ngơ ngác nhìn lên từng thi thể
đôi tay kia thô bạo tự bao giờ
người da vàng- người da vàng tuổi trẻ
đã âm thầm giấc ngủ cuối hư vô
Bởi thượng đế đã gìa nên lú lẩn
quyền tử sinh bỏ lạc xuống tay người
trên nước chúa thấy ngựa về mặt trận
trước đau thương chẳng biết khóc hay cười
Từng cái chết đồng bào trên ngực áo
với huy chương nhắc nỗi xót xa mình
anh cúi mặt xin đời thôi cổ võ
(mẹ ngủ rồi ai hát khúc sơ sinh ?)
Muốn hỏi em lời buồn không hỏi được
nên buổi chiều chiến thắng cũng sầu bi
anh bé nhỏ như một loài ngựa lạc
trái tim khô se sắt buổi quay về
Hoàng Lộc
linh hồn vàng cùng tận cõi ăn năn
đường lui quân ôi dòng dòng máu đỏ
của kiếp người chưa đủ một trăm năm
Anh ngơ ngác nhìn lên từng thi thể
đôi tay kia thô bạo tự bao giờ
người da vàng- người da vàng tuổi trẻ
đã âm thầm giấc ngủ cuối hư vô
Bởi thượng đế đã gìa nên lú lẩn
quyền tử sinh bỏ lạc xuống tay người
trên nước chúa thấy ngựa về mặt trận
trước đau thương chẳng biết khóc hay cười
Từng cái chết đồng bào trên ngực áo
với huy chương nhắc nỗi xót xa mình
anh cúi mặt xin đời thôi cổ võ
(mẹ ngủ rồi ai hát khúc sơ sinh ?)
Muốn hỏi em lời buồn không hỏi được
nên buổi chiều chiến thắng cũng sầu bi
anh bé nhỏ như một loài ngựa lạc
trái tim khô se sắt buổi quay về
Hoàng Lộc
Hậu cứ tôi giờ đã xa xôi
Hậu cứ tôi giờ đã xa xôi
Ðâu, đâu đó bềnh bồng trong ký ức
Giấc ngủ em xa xưa giật mình giữa đêm pháo kích
Thao thức Sài Gòn nhớ gì xa
Hậu cứ tôi dường tiếng gọi thiết tha
Là góc núi đầu làng nơi quê quán
Vàng điện thị thành bàn tay đưa đón
Nước ngập bước quân hành những ruộng đất bỏ hoang
Quán bên đường em sống tạm mùa sang
Tô mì gói vài con khô xị đế
Bè bạn đụng trận trở về nguyên thân thể
Vô vài ly vung vít để mừng nhau
Hậu cứ tôi đêm thành phố chìm sâu
Chiến trận ven đô Sài Gòn thức đợi
Sài Gòn của em đêm về bóng tối
Những mặt người dáo dác kiếm tìm quanh
Hậu cứ tôi, em đôi mắt ngày xanh
Anh đầu ba phân mặc quần thủng đít
Ði học nhiều lần bị quỳ sơ mít
Lớn lên vào đời học thói ba gai
Nhưng yêu nước non mình anh cũng chẳng thua ai
Hậu cứ tôi không còn để trở lại nay mai
Anh cất cái thẻ bài trong tim khóa cứng
Anh nhớ cửa Chuồng Cu của một lần thế đứng
Nhảy mẹ nó cú này may rũi cũng em thương
Hậu cứ ơi, thôi mất, giờ tha phương
Nguyễn Nam An
Chào nhau nhập cuộc
Ðâu, đâu đó bềnh bồng trong ký ức
Giấc ngủ em xa xưa giật mình giữa đêm pháo kích
Thao thức Sài Gòn nhớ gì xa
Hậu cứ tôi dường tiếng gọi thiết tha
Là góc núi đầu làng nơi quê quán
Vàng điện thị thành bàn tay đưa đón
Nước ngập bước quân hành những ruộng đất bỏ hoang
Quán bên đường em sống tạm mùa sang
Tô mì gói vài con khô xị đế
Bè bạn đụng trận trở về nguyên thân thể
Vô vài ly vung vít để mừng nhau
Hậu cứ tôi đêm thành phố chìm sâu
Chiến trận ven đô Sài Gòn thức đợi
Sài Gòn của em đêm về bóng tối
Những mặt người dáo dác kiếm tìm quanh
Hậu cứ tôi, em đôi mắt ngày xanh
Anh đầu ba phân mặc quần thủng đít
Ði học nhiều lần bị quỳ sơ mít
Lớn lên vào đời học thói ba gai
Nhưng yêu nước non mình anh cũng chẳng thua ai
Hậu cứ tôi không còn để trở lại nay mai
Anh cất cái thẻ bài trong tim khóa cứng
Anh nhớ cửa Chuồng Cu của một lần thế đứng
Nhảy mẹ nó cú này may rũi cũng em thương
Hậu cứ ơi, thôi mất, giờ tha phương
Nguyễn Nam An
Chào nhau nhập cuộc
Lên Phước Tuyên chào núi rừng
Chào Suối Ðá quạnh, chào vùng chia phân
Chào anh em trú tạm thân
Trên đồi cô quạnh chào xuân trở về
Chào đường đất đỏ lệ chia
Ðêm pháo gầm thét đường về mộ bia
Chào Tiên Phước buổi chia lìa
Vài thằng nhập cuộc vừa về đâu xa
Thằng sống ôm nỗi sầu già
Thằng chết hòm thiếc tiễn và ghi ơn
Chào nhau nhập cuộc, lên đường
Ðôi mắt kẻ ở ngóng buồn, ai xa
Nguyễn Nam An
Chào Suối Ðá quạnh, chào vùng chia phân
Chào anh em trú tạm thân
Trên đồi cô quạnh chào xuân trở về
Chào đường đất đỏ lệ chia
Ðêm pháo gầm thét đường về mộ bia
Chào Tiên Phước buổi chia lìa
Vài thằng nhập cuộc vừa về đâu xa
Thằng sống ôm nỗi sầu già
Thằng chết hòm thiếc tiễn và ghi ơn
Chào nhau nhập cuộc, lên đường
Ðôi mắt kẻ ở ngóng buồn, ai xa
Nguyễn Nam An
Ðêm rời đất Tây Sơn
Hỏi tôi ngày ở Tam quan
Có ăn mè xửng em làm hay chưa ?
Súng ai bắn nát ngọn dừa
Thương cây thánh gía nhà thờ gãy đôi
Em dệt chiếu dưới đồi Mười
Mà buồn cháy đỏ hai mươi năm rồi
Về Bà Gi chỉ mình tôi
Bỗng yêu chết được ma Hời tháp Chiêm
Lâm Hão Dũng
Có ăn mè xửng em làm hay chưa ?
Súng ai bắn nát ngọn dừa
Thương cây thánh gía nhà thờ gãy đôi
Em dệt chiếu dưới đồi Mười
Mà buồn cháy đỏ hai mươi năm rồi
Về Bà Gi chỉ mình tôi
Bỗng yêu chết được ma Hời tháp Chiêm
Lâm Hão Dũng
Nửa Hồn Xuân Lộc
Buổi chiều nhận lệnh rời Xuân Lộc
Ta muốn tìm em nói ít lời,
Nhưng sợ em buồn, không nói được
Nên đành lặng lẽ mà đi thôi!
Ngại phút rời xa em sẽ khóc,
Bao người vợ lính sẽ buồn theọ
Yếu đuối tim ta người chiến sĩ
Loạn rừng, tội nghiệp tiếng chim kêu.
Rút quân bỏ lại đời ta đó,
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời,
Lửa ngút, trái tim ta lửa ngút,
Trái tim người lính mới yêu người.
Vì bí mật quân, ta đành phụ
Mối tình Long Khánh tội người ơi
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn,
Núm ruột miền Trung càng xa vờị
Sáng mai chắc chắn em buồn lắm
Sẽ trách sao ta lại phụ người .
Lòng ta như trái sầu riêng rụng
Trong vườn em đó vỡ làm đôi
Cao nguyên bài học đầy cay đắng
Lớp lớp người rơi, lớp lớp rơi .. .
Ta chẳng muốn làm người bại trận
Thành người tình phụ đó em ơi.
Ðêm nay quân rút hồn ta ở
Nhìn nước La Ngà pha máu sôi,
Thuơng chiếc cầu chờ cơn thác lũ
Tràn qua xuân Lộc cuốn theo người.
Ta đi áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,
Tội nghiệp nắng vàng chờ áo trận
Khi tàn chinh chiến sẽ đem phơi .
Em hỡi, em thương đàn thỏ trắng,
Bầy gà mất mẹ sống mồ côị
Em hỡi em thương người lính trận
Người lính đêm nay phụ bạc rồi .
Bao năm ta trọn tình đất đỏ,
Một phút này thôi thẹn với đời
Sốt rét đêm run, ngày không ngã
Bao lần máu đổ dững dưng cườị
Một phút này thôi, hừ lại ngã,
Bỏ thành, bỏ đất nhục nào vơị
Nếu được đưa quân lên Ðịnh quán,
Cuối cùng một trận cũng là vuị
Sáng mai chân bước qua Bình Giã,
Cẩ Mỷ, nhìn lui luống ngậm ngùi!
Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy,
Một trời Gia kiệm nhớ khôn nguôị
Muôn năm em hởi trời xuân Lộc
Giữ nửa hồn ta mãi với ngườị
Giữ nửa hồn ta bên chiếc võng
Dưới giàn thiên lý bóng trăng soi .. .
Ðêm nay quân rút sầu riêng rụng
Trong vườn em và trong tim tôi!
Tôi sợ một ngày mai bại trận
Ðể em côi cút lại trên đờị
Nếu phải một ngày mai bại trận
Ðêm nay sao ta lại bỏ người!
Em hỡi, dưới hầm ai đang khóc,
Thét gào pháo địch mãi không thôi .
Xuân Lộc trời ơi Xuân Lộc cháy
Ai gọi tôi về trời Gia Rai!!
Nguyễn Phúc Sông Hương
Ta muốn tìm em nói ít lời,
Nhưng sợ em buồn, không nói được
Nên đành lặng lẽ mà đi thôi!
Ngại phút rời xa em sẽ khóc,
Bao người vợ lính sẽ buồn theọ
Yếu đuối tim ta người chiến sĩ
Loạn rừng, tội nghiệp tiếng chim kêu.
Rút quân bỏ lại đời ta đó,
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời,
Lửa ngút, trái tim ta lửa ngút,
Trái tim người lính mới yêu người.
Vì bí mật quân, ta đành phụ
Mối tình Long Khánh tội người ơi
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn,
Núm ruột miền Trung càng xa vờị
Sáng mai chắc chắn em buồn lắm
Sẽ trách sao ta lại phụ người .
Lòng ta như trái sầu riêng rụng
Trong vườn em đó vỡ làm đôi
Cao nguyên bài học đầy cay đắng
Lớp lớp người rơi, lớp lớp rơi .. .
Ta chẳng muốn làm người bại trận
Thành người tình phụ đó em ơi.
Ðêm nay quân rút hồn ta ở
Nhìn nước La Ngà pha máu sôi,
Thuơng chiếc cầu chờ cơn thác lũ
Tràn qua xuân Lộc cuốn theo người.
Ta đi áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,
Tội nghiệp nắng vàng chờ áo trận
Khi tàn chinh chiến sẽ đem phơi .
Em hỡi, em thương đàn thỏ trắng,
Bầy gà mất mẹ sống mồ côị
Em hỡi em thương người lính trận
Người lính đêm nay phụ bạc rồi .
Bao năm ta trọn tình đất đỏ,
Một phút này thôi thẹn với đời
Sốt rét đêm run, ngày không ngã
Bao lần máu đổ dững dưng cườị
Một phút này thôi, hừ lại ngã,
Bỏ thành, bỏ đất nhục nào vơị
Nếu được đưa quân lên Ðịnh quán,
Cuối cùng một trận cũng là vuị
Sáng mai chân bước qua Bình Giã,
Cẩ Mỷ, nhìn lui luống ngậm ngùi!
Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy,
Một trời Gia kiệm nhớ khôn nguôị
Muôn năm em hởi trời xuân Lộc
Giữ nửa hồn ta mãi với ngườị
Giữ nửa hồn ta bên chiếc võng
Dưới giàn thiên lý bóng trăng soi .. .
Ðêm nay quân rút sầu riêng rụng
Trong vườn em và trong tim tôi!
Tôi sợ một ngày mai bại trận
Ðể em côi cút lại trên đờị
Nếu phải một ngày mai bại trận
Ðêm nay sao ta lại bỏ người!
Em hỡi, dưới hầm ai đang khóc,
Thét gào pháo địch mãi không thôi .
Xuân Lộc trời ơi Xuân Lộc cháy
Ai gọi tôi về trời Gia Rai!!
Nguyễn Phúc Sông Hương
Người Lính Làm Thơ Trên Ðỉnh Núi
Leo lên đến đỉnh khi chiều xuống,
Ðầu vách cheo leo đá nẩy mầm.
Có phải hương đưa từ thạch thảo
Hay là bởi nhụy của bông trăng.
Người lính bỗng quên đời chiến trận
Chìm trong mênh mông một đêm rằm
Cả một tiểu đoàn đang gác súng,
Nghe hồn man mác tiếng thơ rung.
Ðêm nay ta chẳng cần căn võng,
Giường đá, ba lô kê gối nằm.
Bên kia núi, địch chắc buồn lắm
Nên đốt lửa hồng xua ánh trăng
Ai thổi tù và vang dưới lũng
Hay là địch lạc thổi tìm quân?
Mặc tiếng cọp gầm, người lính trận
Gạo sấy, muối mè, ăn dưới trăng.
Ðĩnh cao ta chẳng cần xin pháo
Ðể cho địch sống qua đêm rằm.
Sáng mai có lệnh lần qua núi,
Khuất ánh trăng, quân đi ngặm tăm.
Người lính miền Nam đi đánh giặc
Ba lô mang theo hồn thơ văn.
Nguyễn Phúc Sông Hương
Ðầu vách cheo leo đá nẩy mầm.
Có phải hương đưa từ thạch thảo
Hay là bởi nhụy của bông trăng.
Người lính bỗng quên đời chiến trận
Chìm trong mênh mông một đêm rằm
Cả một tiểu đoàn đang gác súng,
Nghe hồn man mác tiếng thơ rung.
Ðêm nay ta chẳng cần căn võng,
Giường đá, ba lô kê gối nằm.
Bên kia núi, địch chắc buồn lắm
Nên đốt lửa hồng xua ánh trăng
Ai thổi tù và vang dưới lũng
Hay là địch lạc thổi tìm quân?
Mặc tiếng cọp gầm, người lính trận
Gạo sấy, muối mè, ăn dưới trăng.
Ðĩnh cao ta chẳng cần xin pháo
Ðể cho địch sống qua đêm rằm.
Sáng mai có lệnh lần qua núi,
Khuất ánh trăng, quân đi ngặm tăm.
Người lính miền Nam đi đánh giặc
Ba lô mang theo hồn thơ văn.
Nguyễn Phúc Sông Hương
Ngọn tóc sương mù
tôi từ rừng núi hoang vu
về đây ngọn tóc sương mù chưa tan
tay tôi đôi nhánh khô vàng
lòng tôi cỏ úa cổ khan giọng cười
níu đời tìm chút yên vui
lẩn trong khói bụi nụ cười chiêm bao
nhớ em tình thoáng đêm nào
đèn treo mắt đỏ lửa sầu đêm nay
tôi về ngơ ngác đôi tay
chân đi hồn rã áo bay lạ người
vẫn mình trên phố ngược xuôi
nghe trong cơn rộn tiếng đời héo hon
mai đây bỏ lại phố phường
bụi se cát mỏi trên đường tôi đi
Lâm Chương
về đây ngọn tóc sương mù chưa tan
tay tôi đôi nhánh khô vàng
lòng tôi cỏ úa cổ khan giọng cười
níu đời tìm chút yên vui
lẩn trong khói bụi nụ cười chiêm bao
nhớ em tình thoáng đêm nào
đèn treo mắt đỏ lửa sầu đêm nay
tôi về ngơ ngác đôi tay
chân đi hồn rã áo bay lạ người
vẫn mình trên phố ngược xuôi
nghe trong cơn rộn tiếng đời héo hon
mai đây bỏ lại phố phường
bụi se cát mỏi trên đường tôi đi
Lâm Chương
Tâm sự người lính Dù
lòng đã nguyện với hồn thiêng sông nùi
hiến dâng đời khi đất nước lâm nguy
anh bỏ nhà năm mười chín tuổi ra đi
ôm chí lớn trong tầm tay súng nhỏ
những tháng quân trường mồ hôi tháo đổ
và sa trường là khắp nẻo biên khu
tính đến hôm nay năm tuổi lính dù
ba lần chiến công, hai lần chiến tích
một buổi xung phong vào lòng đất địch
anh ôm dù lao xuống giữa mật khu
những chiếc dù to chụp xác quân thù
tin chiến thắng bốn phương về rộn rã:
„p Bắc, Băng Lăng, Ðức Cơ, Bình Gìa...
khói súng cay nòng lấm áo chiến binh
những chuyến đi dài nuốt trọn đời anh
không kịp nhớ, kịp thương một lần lấy đẹp !
súng gác lưng đèo đêm ba mươi tết
sương rơi rơi kín lạnh nẻo rừng gìa
sờ đế giày mòn tính quảng đường xa
anh mới thấy đi đã trọn vòng đất nước
sao lòng chiều nay buồn lên côi cút ?
hay anh si tình anh lính dù ơi !
có phải một lần qua xứ dừa rồi
anh gởi trọn tình theo tà áo đó ?
ai đứng bên bờ kinh xóm lạ
nắng lưng chiều soi mái tóc nghiêng nghiêng
anh đến nơi đây bản thảo, thôn hiền
xin dừng bước, vì em thơ mộng quá !
gối chiếc ba lô nằm nhìn cây lá
nghe lũ chim rừng ríu rít gọi nhau
anh chợt buồn, chợt nhớ đâu đâu..
Trang Châu
hiến dâng đời khi đất nước lâm nguy
anh bỏ nhà năm mười chín tuổi ra đi
ôm chí lớn trong tầm tay súng nhỏ
những tháng quân trường mồ hôi tháo đổ
và sa trường là khắp nẻo biên khu
tính đến hôm nay năm tuổi lính dù
ba lần chiến công, hai lần chiến tích
một buổi xung phong vào lòng đất địch
anh ôm dù lao xuống giữa mật khu
những chiếc dù to chụp xác quân thù
tin chiến thắng bốn phương về rộn rã:
„p Bắc, Băng Lăng, Ðức Cơ, Bình Gìa...
khói súng cay nòng lấm áo chiến binh
những chuyến đi dài nuốt trọn đời anh
không kịp nhớ, kịp thương một lần lấy đẹp !
súng gác lưng đèo đêm ba mươi tết
sương rơi rơi kín lạnh nẻo rừng gìa
sờ đế giày mòn tính quảng đường xa
anh mới thấy đi đã trọn vòng đất nước
sao lòng chiều nay buồn lên côi cút ?
hay anh si tình anh lính dù ơi !
có phải một lần qua xứ dừa rồi
anh gởi trọn tình theo tà áo đó ?
ai đứng bên bờ kinh xóm lạ
nắng lưng chiều soi mái tóc nghiêng nghiêng
anh đến nơi đây bản thảo, thôn hiền
xin dừng bước, vì em thơ mộng quá !
gối chiếc ba lô nằm nhìn cây lá
nghe lũ chim rừng ríu rít gọi nhau
anh chợt buồn, chợt nhớ đâu đâu..
Trang Châu
Uống rựơu đêm chiến hào
ngồi chiến hào sâu nhìn trăng xanh
mịt mù pháo giặc nổ vòng quanh
tử sinh canh bạc đang gầy cuộc
chẵn lẻ được thua, thế cũng đành
nón sắt che đầu cho vững bụng
men cay vài ngụm nhắp đỡ buồn
gắng đóng cho oai tuồng anh dũng
vèo cánh chim qua nỗi mất còn
vài nắp bi đông cho đỏ mặt
xá gì lẻ tẻ chuyện loanh quanh
cồm cộm thịt da vài mảnh sắt
giáp dầy tên đạn vẫn mong manh
xơ xác tóc mai còn xạm khói
mắt xanh chợt mỏi giấc công hầu
bão cát bạt ngàn vang tiếng gọi
bước nào phiêu bạt nẻo xưa sau
vài năm lính trận dăm thằng bạn
xuôi ngược chia nhau vài áng mây
gặp nhau rượu đổ như mưa hạn
rót mãi chưa đầy cơn tỉnh say
ngất ngưởng cười nhau đời nắng dãi
rung đùi chuyện vãn vẫn mênh mông
sầu mây còn cuộn ngoài quan ải
còn lâu yên ngựa mới thong dong
kẽm gai thoảng giọng chim lạc loài
ngứa miệng trầm trầm điệu hót chơi
hư huyền tưởng gót chân xa lại
bay vần thơ lạc đến khôn nguôi
Nguyễn Mạnh Trinh
Đêm xuống đồi
TRẦN HOÀI THƯ
Sáng qua đèo An Khê
Chiều trở về Tháp Bạc
Đêm kẻng khua tập họp
Lại xuống đồi làm ăn
Đoàn xe đợi ngoài sân
Tháp in nền trăng sáng
Những bầy dơi đập cánh
Đưa tiễn buổi ra quân
Đội lại chiếc mũ rừng
Đeo vào dây ba chạc
Đây là trái lựu đạn
Đây là lưỡi dao găm
Đây là khẩu súng trường
Phần oan khiên tuổi trẻ
Xe lăn, đèn mờ tỏ
Những tượng người lặng im
Đêm rất nhẹ trên không
Sao trên vai nặng trĩu
TRẦN HOÀI THƯ
Tháng mười qua đèo Chu Pao
TRẦN HOÀI THƯ
Tháng mười đang mùa mưa
Qua đèo di chuyển bộ
Chu Pao đèo Tử Thần
Mưa mù che hiểm lộ
Hai bên đèo vách dựng
Đá trọc nám bom xăng
Bìa rừng đã khai quang
Sao lạnh chân lạnh cẳng
Hỡi ông tiền sát Thượng
Ông quen núi quen rừng
Sao đôi mắt thất thần
Của loài nai mắc bẩy
Thương đứa con trận mạc
Không áo giáp che người
Súng nhẹ với mũ rừng
Làm sao mà đở đạn ?
TRẦN HOÀI THƯ
mịt mù pháo giặc nổ vòng quanh
tử sinh canh bạc đang gầy cuộc
chẵn lẻ được thua, thế cũng đành
nón sắt che đầu cho vững bụng
men cay vài ngụm nhắp đỡ buồn
gắng đóng cho oai tuồng anh dũng
vèo cánh chim qua nỗi mất còn
vài nắp bi đông cho đỏ mặt
xá gì lẻ tẻ chuyện loanh quanh
cồm cộm thịt da vài mảnh sắt
giáp dầy tên đạn vẫn mong manh
xơ xác tóc mai còn xạm khói
mắt xanh chợt mỏi giấc công hầu
bão cát bạt ngàn vang tiếng gọi
bước nào phiêu bạt nẻo xưa sau
vài năm lính trận dăm thằng bạn
xuôi ngược chia nhau vài áng mây
gặp nhau rượu đổ như mưa hạn
rót mãi chưa đầy cơn tỉnh say
ngất ngưởng cười nhau đời nắng dãi
rung đùi chuyện vãn vẫn mênh mông
sầu mây còn cuộn ngoài quan ải
còn lâu yên ngựa mới thong dong
kẽm gai thoảng giọng chim lạc loài
ngứa miệng trầm trầm điệu hót chơi
hư huyền tưởng gót chân xa lại
bay vần thơ lạc đến khôn nguôi
Nguyễn Mạnh Trinh
Đêm xuống đồi
TRẦN HOÀI THƯ
Sáng qua đèo An Khê
Chiều trở về Tháp Bạc
Đêm kẻng khua tập họp
Lại xuống đồi làm ăn
Đoàn xe đợi ngoài sân
Tháp in nền trăng sáng
Những bầy dơi đập cánh
Đưa tiễn buổi ra quân
Đội lại chiếc mũ rừng
Đeo vào dây ba chạc
Đây là trái lựu đạn
Đây là lưỡi dao găm
Đây là khẩu súng trường
Phần oan khiên tuổi trẻ
Xe lăn, đèn mờ tỏ
Những tượng người lặng im
Đêm rất nhẹ trên không
Sao trên vai nặng trĩu
TRẦN HOÀI THƯ
Tháng mười qua đèo Chu Pao
TRẦN HOÀI THƯ
Tháng mười đang mùa mưa
Qua đèo di chuyển bộ
Chu Pao đèo Tử Thần
Mưa mù che hiểm lộ
Hai bên đèo vách dựng
Đá trọc nám bom xăng
Bìa rừng đã khai quang
Sao lạnh chân lạnh cẳng
Hỡi ông tiền sát Thượng
Ông quen núi quen rừng
Sao đôi mắt thất thần
Của loài nai mắc bẩy
Thương đứa con trận mạc
Không áo giáp che người
Súng nhẹ với mũ rừng
Làm sao mà đở đạn ?
TRẦN HOÀI THƯ
TÔ THÙY YÊN * TRANG THƠ VONG QUỐC & TÙ ĐÀY
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Giữa cánh đồng không, bên kia sông
Trống trải hồn ta, cơn gió rã
Tiếng tàn tàn rụng suốt mênh mông
Hừng đông hùng vĩ và thanh thản
Sương hứa nguyên ngày nắng rực say
Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy
Chân mây rách đỏ vết thương dài
Ta ngồi trước ngõ nghe xao động
Trời đất bào thai cựa cựa nhanh
Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực
Con chim chèo bẻo hót lanh chanh
Ta ngồi cho đến khi trời trắng
Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi
Ở đây, ta có dăm người bạn
Phúc tự tâm, không lý đến đời
Ở đây, ta có dăm pho sách
Và một dòng sông, mấy cụm mây...
Dòng sông u hiển trôi vô lượng
Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm...
Lòng ta vô sự, ta vui vẻ
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Mùa hạ tàn trôi trôi đốm lửa
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ
Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp
Thiên cổ mang mang, thế sự nhòa
Trận lốc cười tròn trên quá vãng
Ta làm lại cả tâm hồn ta
Buổi trưa như buổi trưa nào đó
Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi
Điệu hát ầu ơ hoa cỏ lịm
Nước mây buồn bã chợt quên trôi
Ta thiếp trong vòm xanh đại thọ
Đời đời giương rộng lượng bao dung
Ví dù ta ngủ không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng
Chuyện trần thế bấy lâu thanh thỏa
Sống một ngày, ta rõ một ngày
Thôi vướng mắc dài duyên với nợ
Ân oán đời, phong kiếm rửa tay
Còn lại chăng cây đàn lở tróc
Gảy mình nghe đôi điệu xưa xưa
Còn lại chăng chút u hoài mốc
Pha cùng rượu uống đến say thua
Gặp buổi trời mưa bay phới phới
Lá cành sáng rỡ sắc hồi xuân
Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn
Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân
Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá
Vậy mà ta sống có kỳ không?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết như rơm...
Gặp buổi trời trong dàn bát ngát
Ngọn cây, ô! đã giát hoàng hôn
Cơn gió mơn man bờ bụi rậm
Kể dạo quanh vườn chuyện trống không
Ta ngắm gốc cây nứt nở vỏ
Gốc cây to đến mấy người ôm
Nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn
Trí ta không đủ lực đo lường
Nên ta phó mặc cho trời đất
Trời đất vô ngôn lại bất nhân
Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
Trong lãng quên xanh hút thời gian
Đêm tối êm ru lời thủ thỉ
Bên hè có tiếng dế ca ran
Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu
Mọc lại cho ta thuở xế tàn
Hình như mọi sự đều như thế
Kể cả lòng ta cũng thế thôi
Các việc vô cùng làm miết miết
Quên tiệt đời ta như nấm mai
Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
Ta thức đêm nay chơi với trăng
Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
Quanh mồ ta, trăng phải lang thang
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian, hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô
Xa nghe đợt gió lên cơn bão
Nhân loại quay cuồng biến đổi sâu
Bầy chó năm châu cắn sủa rộ
Quỷ ma cười khóc rợn đêm thâu
Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng
Ăn sạch quân, trừ tính được thua
Hỡi ai tráng sĩ mài dao nhọn
Xin nhớ đời không mỗi sắc vua
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày cho hết đời ta
Giữa cánh đồng không, bên kia sông
Trống trải hồn ta, cơn gió rã
Tiếng tàn tàn rụng suốt mênh mông
Hừng đông hùng vĩ và thanh thản
Sương hứa nguyên ngày nắng rực say
Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy
Chân mây rách đỏ vết thương dài
Ta ngồi trước ngõ nghe xao động
Trời đất bào thai cựa cựa nhanh
Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực
Con chim chèo bẻo hót lanh chanh
Ta ngồi cho đến khi trời trắng
Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi
Ở đây, ta có dăm người bạn
Phúc tự tâm, không lý đến đời
Ở đây, ta có dăm pho sách
Và một dòng sông, mấy cụm mây...
Dòng sông u hiển trôi vô lượng
Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm...
Lòng ta vô sự, ta vui vẻ
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Mùa hạ tàn trôi trôi đốm lửa
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ
Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp
Thiên cổ mang mang, thế sự nhòa
Trận lốc cười tròn trên quá vãng
Ta làm lại cả tâm hồn ta
Buổi trưa như buổi trưa nào đó
Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi
Điệu hát ầu ơ hoa cỏ lịm
Nước mây buồn bã chợt quên trôi
Ta thiếp trong vòm xanh đại thọ
Đời đời giương rộng lượng bao dung
Ví dù ta ngủ không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng
Chuyện trần thế bấy lâu thanh thỏa
Sống một ngày, ta rõ một ngày
Thôi vướng mắc dài duyên với nợ
Ân oán đời, phong kiếm rửa tay
Còn lại chăng cây đàn lở tróc
Gảy mình nghe đôi điệu xưa xưa
Còn lại chăng chút u hoài mốc
Pha cùng rượu uống đến say thua
Gặp buổi trời mưa bay phới phới
Lá cành sáng rỡ sắc hồi xuân
Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn
Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân
Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá
Vậy mà ta sống có kỳ không?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết như rơm...
Gặp buổi trời trong dàn bát ngát
Ngọn cây, ô! đã giát hoàng hôn
Cơn gió mơn man bờ bụi rậm
Kể dạo quanh vườn chuyện trống không
Ta ngắm gốc cây nứt nở vỏ
Gốc cây to đến mấy người ôm
Nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn
Trí ta không đủ lực đo lường
Nên ta phó mặc cho trời đất
Trời đất vô ngôn lại bất nhân
Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
Trong lãng quên xanh hút thời gian
Đêm tối êm ru lời thủ thỉ
Bên hè có tiếng dế ca ran
Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu
Mọc lại cho ta thuở xế tàn
Hình như mọi sự đều như thế
Kể cả lòng ta cũng thế thôi
Các việc vô cùng làm miết miết
Quên tiệt đời ta như nấm mai
Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
Ta thức đêm nay chơi với trăng
Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
Quanh mồ ta, trăng phải lang thang
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian, hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô
Xa nghe đợt gió lên cơn bão
Nhân loại quay cuồng biến đổi sâu
Bầy chó năm châu cắn sủa rộ
Quỷ ma cười khóc rợn đêm thâu
Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng
Ăn sạch quân, trừ tính được thua
Hỡi ai tráng sĩ mài dao nhọn
Xin nhớ đời không mỗi sắc vua
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày cho hết đời ta
7-1972
Tô Thùy Yên, Thơ tuyển, Minesota, 1995
LÃO TRƯỢNG
Tô Thùy Yên
Lão trượng chiều quay về bản quán
Thong dong đường tre trúc hắt hiu
Nghe, nghe trời đất hát xa lộng
Những tưởng tâm mình đang hát theo
Mừng linh thụ tóc râu khang kiện
Đông đủ chim về ấm cúng đêm
Mừng cổ đình tường mái phục chế
Đời trùng tu từ thịt xương rêm
Lớp bạn cũ ơn trờ để lại
Trà vườn nhà, nước trữ mưa xưa
Giọng chùng như cất từ u ẩn
Cố sự, tro tiền thả gió đưa.
Nhớ xưa thiên địa dậy hồng thủy
Núi sụp, rừng trôi, dời sảng hoàng
May nhiều, còn đứa con vơ vội...
May ít, còn tiếng nói tùy thân...
Mưa như trời sập, mưa không tận
Bốn biển dâng thành một biển thôi
Hạt cây, mầm lửa truyền nhau giữ
Nhân loại còn đâu được mấy người...
Anh phải sống, mai này nước rút
Đất trồi lên, xuất hiển kỳ lân
Thời thánh vịnh, hiền thi kết tập
Đồng hoa thánh thót phượng cầu hoàng
Nhớ xưa thiên địa bày hoang hạn
Sông cạn, đầm khô, rừng rụi tàn
Gió đuổi trùng trùng sa mạc chạy
Thú sẩy đàn, nhân loại lìa tan...
Người chết, không còn người dọn cất
Bỏ mặc tình quạ mổ diều tha
Cát vùi cả xương trắng lưu dấu...
Mặt đất vô danh, ký ức lòa
Thôi, rán giữ gìn chút nước mắt
Mai sau nhờ đó nhận ra nhau
Sẽ mưa, trời sẽ mưa châu ngọc
Ta sẽ về, qua bãi lệ rào.
Nhớ xưa thiên địa dậy binh lửa
Xứ xứ rần lên, người giết người
Thú loạn rừng kêu rú nhật nguyệt
Ruộng hoang, thành trống, ai tìm ai?
Núi đổ lấp sông, sao chổi hiện
Nhãn tiền sống chết, chuyện như chơi
Đêm trước đại quân vừa hạ trại
chiều nay, lều cháy, xác thây phơi
Xa giá càn dân lấy lối chạy
Trẻ giữa đường đứng khóc một mình
Sau cùng, có người lính chấp kích
Ra trước Ngọ môn mà quyên sinh
Nhớ xưa thiên địa làm ly tán
Anh em nhà không ngó mặt nhau
Người chạy về thành, kẻ nhảy núi
Dốc đời cho một cuộc chiêm bao
Xuân Thu, du sĩ rao phương lược
Khiêán mấy đời sau còn váng đầu
Xe kiệu rộn ràng cửa lớn nhỏ
Về ngang thánh miếu, mặt vênh cao
Có người nghề nói thơ đầu chợ
Chạỵ sắc phong thi sĩ với đời
Có người hàng thịt sẵn dao nhọn
Cũng rắp ranh làm tráng sĩ chơi
Nhớ xưa thiên địa rộn dâu biển
Người lạc người bởi ngọn đông phong
Ngọn đông phong, càn rừng, bạt núi
Người thương người chút phận long đong
Cỏ đoạn rễ, luồng sông, luống gió...
Chim xa đàn, bãi Bắc, bờ Đông...
Sao lúc rời nhau chẳng đổi áo
Khuya lạnh lùng, còn cái đắp lòng?
Rày đã ra sao, miền cố cựu?
Bờ giếng xưa, còn ai đứng trông?
Đêm nằm nghe tóc mai già rụng
Nghĩ lại, ràn tuôn nước mắt hồng.
Nhớ xưa thiên địa bừng hưng trị
Khoác áo xuân, ra với đất trời
Dắt trẻ tắm sông, hứng gió núi
Giấc suông đêm rỗng, cửa không cài
Quạt ấm pha trà độc mộc ẩm
Nghe tan ngoài ngõ những phù vân
Toan xuống núi khoe câu thơ đắc
Trời đất không cùng, ai chí thân?
Xé rải gió tờ tờ sách nát
Đi kéo theo chuỗi chuỗi cười tan
Ta mừng trời đất cho ta mộng
Vui đồng hành qua cõi võ vàng
Cây yên, cỏ lặng, trăng thiu ngủ
Giường cũ, nằm nghe tiếng dế khuya
Mơ màng có một lần xiêu lạc
Ngoài tối tăm, nhờ chỉ nẻo về
Việc đời, biết thế nào xong trọn...
Nước cuối sông còn lẩn quẩn chi?
Đêm xuân, dầm nguyệt lên sơn tự
Hỏi vị sư già chỗ trước kia
Sinh tử hai đầu mắc lại võng
Tan rền chuông vọng vọng mê mê
Trôi chìm xa vợi đường thiên cổ
Mỏi trĩu hàng mi, khởi chuyến đi.
8-1998
Tô Thùy Yên
Thong dong đường tre trúc hắt hiu
Nghe, nghe trời đất hát xa lộng
Những tưởng tâm mình đang hát theo
Mừng linh thụ tóc râu khang kiện
Đông đủ chim về ấm cúng đêm
Mừng cổ đình tường mái phục chế
Đời trùng tu từ thịt xương rêm
Lớp bạn cũ ơn trờ để lại
Trà vườn nhà, nước trữ mưa xưa
Giọng chùng như cất từ u ẩn
Cố sự, tro tiền thả gió đưa.
Nhớ xưa thiên địa dậy hồng thủy
Núi sụp, rừng trôi, dời sảng hoàng
May nhiều, còn đứa con vơ vội...
May ít, còn tiếng nói tùy thân...
Mưa như trời sập, mưa không tận
Bốn biển dâng thành một biển thôi
Hạt cây, mầm lửa truyền nhau giữ
Nhân loại còn đâu được mấy người...
Anh phải sống, mai này nước rút
Đất trồi lên, xuất hiển kỳ lân
Thời thánh vịnh, hiền thi kết tập
Đồng hoa thánh thót phượng cầu hoàng
Nhớ xưa thiên địa bày hoang hạn
Sông cạn, đầm khô, rừng rụi tàn
Gió đuổi trùng trùng sa mạc chạy
Thú sẩy đàn, nhân loại lìa tan...
Người chết, không còn người dọn cất
Bỏ mặc tình quạ mổ diều tha
Cát vùi cả xương trắng lưu dấu...
Mặt đất vô danh, ký ức lòa
Thôi, rán giữ gìn chút nước mắt
Mai sau nhờ đó nhận ra nhau
Sẽ mưa, trời sẽ mưa châu ngọc
Ta sẽ về, qua bãi lệ rào.
Nhớ xưa thiên địa dậy binh lửa
Xứ xứ rần lên, người giết người
Thú loạn rừng kêu rú nhật nguyệt
Ruộng hoang, thành trống, ai tìm ai?
Núi đổ lấp sông, sao chổi hiện
Nhãn tiền sống chết, chuyện như chơi
Đêm trước đại quân vừa hạ trại
chiều nay, lều cháy, xác thây phơi
Xa giá càn dân lấy lối chạy
Trẻ giữa đường đứng khóc một mình
Sau cùng, có người lính chấp kích
Ra trước Ngọ môn mà quyên sinh
Nhớ xưa thiên địa làm ly tán
Anh em nhà không ngó mặt nhau
Người chạy về thành, kẻ nhảy núi
Dốc đời cho một cuộc chiêm bao
Xuân Thu, du sĩ rao phương lược
Khiêán mấy đời sau còn váng đầu
Xe kiệu rộn ràng cửa lớn nhỏ
Về ngang thánh miếu, mặt vênh cao
Có người nghề nói thơ đầu chợ
Chạỵ sắc phong thi sĩ với đời
Có người hàng thịt sẵn dao nhọn
Cũng rắp ranh làm tráng sĩ chơi
Nhớ xưa thiên địa rộn dâu biển
Người lạc người bởi ngọn đông phong
Ngọn đông phong, càn rừng, bạt núi
Người thương người chút phận long đong
Cỏ đoạn rễ, luồng sông, luống gió...
Chim xa đàn, bãi Bắc, bờ Đông...
Sao lúc rời nhau chẳng đổi áo
Khuya lạnh lùng, còn cái đắp lòng?
Rày đã ra sao, miền cố cựu?
Bờ giếng xưa, còn ai đứng trông?
Đêm nằm nghe tóc mai già rụng
Nghĩ lại, ràn tuôn nước mắt hồng.
Nhớ xưa thiên địa bừng hưng trị
Khoác áo xuân, ra với đất trời
Dắt trẻ tắm sông, hứng gió núi
Giấc suông đêm rỗng, cửa không cài
Quạt ấm pha trà độc mộc ẩm
Nghe tan ngoài ngõ những phù vân
Toan xuống núi khoe câu thơ đắc
Trời đất không cùng, ai chí thân?
Xé rải gió tờ tờ sách nát
Đi kéo theo chuỗi chuỗi cười tan
Ta mừng trời đất cho ta mộng
Vui đồng hành qua cõi võ vàng
Cây yên, cỏ lặng, trăng thiu ngủ
Giường cũ, nằm nghe tiếng dế khuya
Mơ màng có một lần xiêu lạc
Ngoài tối tăm, nhờ chỉ nẻo về
Việc đời, biết thế nào xong trọn...
Nước cuối sông còn lẩn quẩn chi?
Đêm xuân, dầm nguyệt lên sơn tự
Hỏi vị sư già chỗ trước kia
Sinh tử hai đầu mắc lại võng
Tan rền chuông vọng vọng mê mê
Trôi chìm xa vợi đường thiên cổ
Mỏi trĩu hàng mi, khởi chuyến đi.
8-1998
Tô Thùy Yên
Nhớ Có Lần Trên Bến Bắc Khuya Nghe Một Ông Lão Đàn Hát
:
Tô Thùy Yên
Ông lão khô quắt như thanh đước,
Đàn hát mưu sinh bến bắc đêm,
Cổ vương oan khuaất, tay u hồn,
Miết giây, xé giọng, khóc nhân thế...
Âm bóng xưa về quanh chiếu manh.
Trăng thiếp, sao mê, sông ráo gió.
Buồn như sóng nói, tản không tan.
Tiếng lân, tiếng hạc, nỗi trong đục,
Cổ bản đưa: Từ phu tướng đi...
Mòn mỏi, thành Nam, nghĩa sĩ tận.
Kèn chiều mấy tiếng lạc trời quê.
Pháp trường úng máu, khí xung uất,
Ngần ấy năm còn nghe rợn thiêng.
Biệt đảo, mùa mùa gió chướng nổi,
Bè thả về không tới đất liền.
Bao phen nước cũ thay danh hiệu,
Mưa nắng bay lần hơi hướm quen.
Trăng chết đồng xa, buổi mạt pháp,
Áo đạo chìm cây cỏ cấm sơn.
Làng đã cháy, im lìm bất trắc...
Người nhớ người mà cũng sợ người.
Trời ơi, những xác thây la liệt,
Con ai , chồng ai, anh em ai?
Mùa nước nổi qua mùa nước giựt,
Đốt tay nào Thân Dậu niên lai?
Em về giồng dưới, qua bưng gió,
Mắt có nhòa triều bông sậy dây
Người còn, trời đất còn chan chứa.
Ghe thương hồ khẳm điệu huê tình,
Sông bảy ngã, thương, còn gặp lại,
Muối mặn, gừng cay, trắng tóc xanh...
Chỉ cho con chỗ doi xưa sụp.
Cồn mới thành, con tự nhận ra.
Nước chảy, đừng chờ khi xế bóng,
Hối không làm việc nghĩa trôi qua.
Ông lão khô quắt như thanh đước,
Cổ vương oan khuất, tay u hồn...
Tình ý theo người đi một đỗi,
Một đỗi, dài hơn bốn chục năm.
11-1999
Tô Thùy Yên
Đàn hát mưu sinh bến bắc đêm,
Cổ vương oan khuaất, tay u hồn,
Miết giây, xé giọng, khóc nhân thế...
Âm bóng xưa về quanh chiếu manh.
Trăng thiếp, sao mê, sông ráo gió.
Buồn như sóng nói, tản không tan.
Tiếng lân, tiếng hạc, nỗi trong đục,
Cổ bản đưa: Từ phu tướng đi...
Mòn mỏi, thành Nam, nghĩa sĩ tận.
Kèn chiều mấy tiếng lạc trời quê.
Pháp trường úng máu, khí xung uất,
Ngần ấy năm còn nghe rợn thiêng.
Biệt đảo, mùa mùa gió chướng nổi,
Bè thả về không tới đất liền.
Bao phen nước cũ thay danh hiệu,
Mưa nắng bay lần hơi hướm quen.
Trăng chết đồng xa, buổi mạt pháp,
Áo đạo chìm cây cỏ cấm sơn.
Làng đã cháy, im lìm bất trắc...
Người nhớ người mà cũng sợ người.
Trời ơi, những xác thây la liệt,
Con ai , chồng ai, anh em ai?
Mùa nước nổi qua mùa nước giựt,
Đốt tay nào Thân Dậu niên lai?
Em về giồng dưới, qua bưng gió,
Mắt có nhòa triều bông sậy dây
Người còn, trời đất còn chan chứa.
Ghe thương hồ khẳm điệu huê tình,
Sông bảy ngã, thương, còn gặp lại,
Muối mặn, gừng cay, trắng tóc xanh...
Chỉ cho con chỗ doi xưa sụp.
Cồn mới thành, con tự nhận ra.
Nước chảy, đừng chờ khi xế bóng,
Hối không làm việc nghĩa trôi qua.
Ông lão khô quắt như thanh đước,
Cổ vương oan khuất, tay u hồn...
Tình ý theo người đi một đỗi,
Một đỗi, dài hơn bốn chục năm.
11-1999
Tô Thùy Yên
Ta Về
:
Tô Thùy Yên
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
TÀU ĐÊM
Tô Thùy Yên,
Tàu đi. Lúc đó, đêm vừa mỏi
Lúc đó, sao trời đã ngủ mê
Tàu rú. Sao ơi, hãy thức dậy
Long lanh muôn mắt tiễn tàu đi
Thức dậy, những ai còn sống đó
Nhìn ra nhớ lấy phút giây này
Tàu đi như một cơn giông lửa
Cuồn cuộn sao từ ống khói bay
Cảnh vật mơ hồ trong bóng đêm
Dàn ra một ảo tượng im lìm
Ủ ê những ngọn đèn thưa thớt
Sáng ít làm đêm tối tối thêm
Bến cảng, nhà kho, những dạng cây...
Chưa quen mà đã giã từ ngay
Dẫu sao cũng một lần tan hợp
Chớ tiếc nhau vài cái vẫy tay
Toa nêm lúc nhúc hồn oan khốc
Đèn bão mờ soi chẳng rõ ai
Ta gọi rụng rời ta thất lạc
Ta còn chẳng đủ nửa ta đây
Người bạn đường kia chắc chẳng ngủ
Thành tàu sao chẳng vỗ mà ca?
Mai này xô giạt về đâu nữa?
Đất lạ ơi, đừng hắt hủi ta!
Đất lạ, người ta sống thế nào?
Trong lòng có sáng những trăng sao
Có buồn bã lúc mùa trăn trở
Có xót thương người qua biển dâu?
Tàu đi như một cơn điên đảo
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau
Ta tưởng chừng nghe thời đại động
Xô đi ầm ĩ một cơn đau
Ngồi đây giữa những phân cùng bụi
Trong chuyển dời xung xát bạo tàn
Ta trở thành than, thành súc vật
Tiếng người e cũng đã quên ngang
Ta nghe rêm nhói thân tàn rạc
Các thỏi xương lìa đụng chỏi nhau
Nghe cả hồn ta bị cán nghiến
Trên đường lịch sử sắt tuôn mau
Dường như ta chợt khóc đau đớn
Lệ nóng cường toan cháy ruột gan
Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt
Nghẹn ngào đến cả tiếng than van
Giá ta có được một hơi thuốc
Dẫu chỉ là hơi thuốc mốc thôi
Để phả cho hồn ấm tỉnh lại
Để nghe còn sự sống trên môi
Ta nhớ dăm ba hình ảnh cũ
Lờ mờ như nhớ lại tiền thân
Đời ta khi trước vui vầy thế
Bỗng thảm thương nghìn nỗi ngói tan
Đem thân làm gã tù lưu xứ
Xí xóa đời ta với đất trời
Ngàn dặm lìa tan tình cố cựu
Bàng hoàng thân thế cụm mây trôi
Đã mấy năm nay quằn quại đói
Thèm ăn như đứa trẻ con nghèo
Mẹ ơi, con nhớ thời thơ dại
Nhớ miếng ăn mà mẹ chắt chiu
Liệu còn một bữa cơm đầm ấm
Bên ánh đèn đoàn tụ vợ con
Chia xẻ chút tình cay mặn cũ
Miếng không ngon cũng lấy làm ngon
Tàu đi khoan xoáy sâu đêm thép
Tiếng nghiến ghê người, thác lửa sa
Lịch sử dường như rất vội vã
Tàu không đỗ lại các ga qua
Ô, những nhà ga rất cổ xưa
Dường như ta đã thấy bao giờ
Đến nay, người giữ ga còn đứng
Đèn bão đong đưa chút sáng mờ
Tàu qua những ruộng đồng châu thổ
Hiu hắt làng xa mấy chấm đèn
Đêm ở nơi đây buồn lặng lặng
Cái buồn trải nặng mặt bằng đen
Hỡi cô con gái trăng mười bốn
Đêm có nằm mơ những hội xuân
Đời có chăng lần cam dối mẹ
Nhớ thương nào giấu thấm vành khăn?
Có lúc tàu qua những chiếc cầu
Sầm sầm những nhịp động đều nhau
Dưới kia con nước còn thao thức
Bát ngát dềnh lên bãi sậy sầu
Có lúc tàu qua những thị trấn
Mà đêm đã gói lại im lìm
Tàu qua, âu cũng là thông lệ
Nên chẳng ai buồn hé cửa xem
Ôi những nỗi sầu vô dạng ấy
Gọi ta về với những đêm vui...
Ở đâu đèn sáng như châu ngọc
Đường phố người chen chúc nói cười
Ở đâu mộng ảo vườn sao tụ
Yến tiệc bày trong những khóm cây
Ta rót mừng em ly rượu đỏ...
Mà thôi, chớ nhớ nữa, lòng ơi
Mà thôi, hãy nuốt lệ còn nghẹn
Tỉnh thức, lòng ơi, nhìn tận tường
Thời đại đang đi từng mảng lớn
Rào rào những cụm khói miên man
Người bạn đường kia chắc vẫn thức
Mong tàu đi đến chỗ đêm tan
Có nghe lịch sử mài thê thiết
Cho sáng lên đời đã rỉ han
Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dậy địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối...
Loài người, hãy thức, thức cùng nhau
Tô Thùy Yên, Thơ tuyển, Minesota, 1995
HÀ HUYỀN CHI * CÙNG LỊCH SỬ THĂNG TRẦM
CÙNG LỊCH SỬ THĂNG TRẦM
HÀ HUYỀN CHI
HÀ HUYỀN CHI
Tôi, 1935 vào đời, khóc dối . Gã trai Hà Nội, quán tại Hà Ðông. Nhóc Ðặng Trí Hoàn sinh nhằm thời nô lệ, thực phong. Cùng vận nước long đong từ tấm bé Lớp vỡ lòng. Tôi học tiếng Tây thay cho tiếng mẹ. Ngày, mỗi ngày, vẫn cà cưởng đồng ca: Marechal, nous voìlà!” Thưa ngài Thống chế Pétaín, chúng con đang hiện diện
Tiếng trẻ hát không át nổi tiếng bom Sa Ðiện (1924, Trung Hoa). Bom từ Phạm Hồng Thái vỡ rạ Nổi lửa thiêng hãnh tiến Qua thập niên nhục hờn, còn sôi động dư ba Thức tỉnh đồng bào ta . Mau đứng lên giành độc lập . Cùng giải phóng quê nhà . Phá gông cùm nô lệ
Năm năm sau, máu dân chủ nở hoa (1929, Yên Báy). Nguyễn Thái Học, và 12 chiếc đầu rơi máu chảy, nhưng danh thơm còn mãi . Muôn năm . “Không thành công thì cũng thành nhân” . Rồi cô Giang cũng vì nghĩa huỷ thân. Gái 18 bước lên đài tiết liệt . Anh linh: “Trai trung thì gái phải trinh”...
Dũng khí ấy muôn đời sau còn mãi đẹp Kể chi là bại hay thành . Sau Pháp thuộc đến thời Nhật chiếm Tôi học tiếng Phù Tang Học nghĩa đói no, học nghĩa cơ hàn . Ất Dậu, phá ruộng trồng đay . Ðốt lúa thay than chạy máy . Ba triệu dân tôi hồn lau, bóng sậy . Chết đói đầy đường, kín ngõ Thăng Lọng Mỗi sớm mai, nhiều chiếc xe bò chở đầy xác ốm tong. Người ngắc ngoải đem vùi cùng thây chết .
Bom nguyên tử nổ bên trời Nhật phiệt Nhật đầu hàng, mộng đế quốc tan tành . Giang sơn mình chưa thoát khỏi điêu linh . Bị gả bán cho thực dân như cũ . Bác Hồ nhảy ra làm lịch sử Tuyên ngôn độc lập, tự do Bá tánh hân hoan lòng mở như cờ . Tôi trống ếch bập bung Tôi thiếu nhi súng gỗ . Yêu làm sao hai chữ Việt Minh Ðảng bịp tuyên dương ngụy nghĩa tại Ba Ðình . Vua Bảo Ðại playboy, từ Paris về trao ấn tín . “Thề phanh thây uống máu quân thù”.
Tôi 10 tuổi, chúc Bác Hồ nghìn tuổi Tôi nhóc tỳ mơ ngựa sắt roi tre . Giang sơn này, và miền Nam yêu dấu dặm ngàn kia . Cần giải phóng khỏi tay giặc Pháp . Bác móc túi nhân dân . Lạc quyên tuần lễ vàng, lễ bạc . Vi thiềng tướng Lư Hán, cầu an . Rồi Bác rút ra biên . Mùa kháng chiến ca bài tiêu thổ ..
.
Tôi 10 tuổi, học thêm bài gian khổ Tuổi thơ đói rét trường kỳ Tôi áo vá, chân trần lặn lội khắp sơn khê . Chặng cuối là Thái Nguyên, bản rú . Tôi đói cơm và tôi đói chữ . Tuổi thơ ơi sao quá đọa đầy .Tôi mười lăm, trôi giạt xuống Sơn Tây Bương Cấn, Ba Vì, đá ong cằn cỗi . Tôi nhếch nhác chuồn lại về Hà Nội . Lại tiếng Tây xí xố trong đời . Tôi học sửa xẹ Tôi lén nhập viện mồ côi . Thằng chủ bẩn biến tôi thành đầy tớ . Viện mồ côi như nhánh sông nước lợ Bày hàng, quyên góp của bàn dân .Nói dậy nghề, dậy chữ . Láo khoét cho qua . Tôi trốn viện trở về căn nhà nát. Lũ em tôi kiếm ăn trên bãi rác . Bố tong teo gò lưng đạp xích lô . Mẹ buôn thúng bán bưng tất tưởi ven đô . Thằng con lớn là tôi, khóc thầm trong lớp học .
Ơn cha mẹ không quản gì lao nhọc Mong cho con cái nên người . Tôi làm gì với mớ chữ nghĩa đây trời ? Tôi tận sức Rồi cũng tôi thơ thẩn . Ham vui .Tôi mười sáu, trốn vào Nam lập chí 1954, cùng đoàn người di cư theo Ngô chí sĩ Tôi thành con bà phước giữa đời . Trại học sinh cho hai bữa cơm tươi . Tôi múa may, bán báo, dậy kèm, tìm học phí . Hai năm liền tôi thi trượt Tú Tài . Tôi hành xác cạo đầu . Tôi kinh sử miệt mài . Vẫn vỏ chuối . Cán mai .
Khoá 14, tôi thi vào Võ Bị Lính cà nhỏng, cao bồi, thất chí Bị lũ đàn anh hành xác triền miên . Tôi ba gai thù niên trưởng đái thiên . Coi sinh viên cán bộ như ăng ten rẻ mạt [...]May chưa bị đuổi khỏi trường . Tôi chọn Nhảy Dù, màu mũ đỏ dễ thương . Chọn gian khổ làm đầy thêm nghĩa sống . Xa trường mẹ mới thấy hồn chao động . Nhớ gì đâu từng kỷ niệm buồn vui . Gặp lại đệ huynh trong binh lửa rực trời . Thấy thân thương hết nói .
Tôi đánh giặc, làm thơ Tôi yêu cuồng sống vội . Nhảy Dù, nhảy đầm, đời khật khưỡng say . Bài thơ đầu tay: “Không Gian Vương Dấu Giầy” .Ðời rộng lượng biến tôi thành thi sĩ. Tôi, Hà Huyền Chi,viết không ngưng nghỉ Thơ ròn như súng tiểu liên . Tôi bập bỗng thơ khi bước giữa bãi mìn . Mê viết lách, tôi nhảy về báo chí . Rồi phát thanh, điện ảnh tận vui . Cũng đóng 8 phim, cũng đạo diễn một thời . Rồi ấn họa cho đủ mùi tạp lục .
Tháng Tư đen với đáy cùng đớn nhục Tôi giạt sang Mỹ quốc cầu an . Tôi đọa đầy tôi . Thiếu tá lao công . Thi sĩ bồi bàn . Rồi kế toán, công trừ mạt kiếp . Gia tài mang theo là một trời quê hương tưởng tiếc . Tám chuyện dài như chứng tích bi thương . Lệ khô rồi còn nhức nhối đường gươm . Thơ lại bắn từ trái tim nứt rạn . 17 tập thơ vẫn dư sức đạn . Từ thơ là nhạc, ngót 300 phổ bản . Hơn 40 nhạc sĩ góp phần . Kỷ vật cho đời là Lệ Ðá, phù vân . Cám ơn trời ban chút xíu hồng ân Cám ơn vợ cho nồng nàn tương cảm . Ơn Ðồng Minh cho mũi dao lút cán . Cám ơn em cho nước lớn sông dài . Cám ơn đời còn đẹp lúc chiều phai .
HÀ HUYỀN CHI
050503
TRẦN MỘNG TÚ: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4
TRẦN MỘNG TÚ:
NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4
Thanh Bình cho tôi được phép trả lời những câu hỏi chung về ngày 30/4 trong một đoạn ngắn nghe.
Tôi di tản vì chiến tranh (bằng phương tiện của hãng The
Associated Press) vào ngày 21/4/1975. Bây giờ là 30/4/2012. Ba mươi bảy
năm rồi.
So với thời gian tôi ở quê nhà từ Bắc vào Nam(1954) rồi
sang Mỹ, tôi đã sống cái phần đời ở quê người dài hơn cái phần đời ở quê
nhà. Nghĩ lại, “giật mình, mình lại thương mình xót xa.”
Nhớ ngày hốt hoảng ra đi, hãng không cho mang theo gì cả,
vào phi trường lúc đó như đi đón người thân ở xa về. Hai tay dắt cha mẹ
già, trong chiếc túi nhỏ đeo trên vai có một cái áo dài của mình, hai
bộ quần áo của cha mẹ, cuốn Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm,
và vài bài thơ viết tay của mình quơ vội trong ngăn kéo. Bao nhiêu hình
ảnh thời con gái, hình gia đình, hình đám cưới, đám tang trong phút đó
đã bị quên mất đến lạnh lùng, bị xuống hàng thứ yếu, không nhớ tới.
Ngày tháng quê người, đôi khi nghĩ lại, ngậm ngùi, ân
hận, thấy tiếc những gì mình bỏ lại. Nhưng bây giờ lớn tuổi, lòng chùng
xuống, tiếc nuối cũng phai mờ.
Với tôi chỉ có quê nhà bao giờ cũng là một ám ảnh khôn
nguôi. Các con đã trưởng thành, không phải lo đời sống tất bật hàng ngày
nhiều, chuyện gì cũng thấy nhẹ đi, nhưng hình như tình quê hương lại
mỗi ngày một nặng hơn. Nhất là mỗi năm đến ngày Quốc Hận 30 tháng Tư.
Gửi Thanh Bình bài thơ mới viết sáng ngày thứ Hai, 30 tháng Tư.
Tháng Tư sừng sững đứng
Tôi thức dậy trong đêm
gió đập ngoài cửa sổ
đồng hồ một giờ sáng
đêm đã bước qua ngày
con số 30 gãy
Tháng tư từ từ rơi
nốt giọt thời gian cuối
Tôi căng mắt nhìn đêm
đêm như những thước phim
quay rã rời từng khúc
kín mít căn buồng nhỏ
đoàn người như con rối
chạy đâm sầm vào nhau
âm thanh của phim câm
trùng trùng cơn phẫn nộ
máu chảy trong bóng đêm
bầm một màu đen tím
lửa cháy trong bóng đêm
lan ra từng con hẻm
lửa ghé vào căn nhà
thằng bé như ngọn đuốc
Tôi căng mắt nhìn đêm
bỗng nghe tiếng súng nổ
từng tiếng một lạnh lùng
như có ai đang đếm
mỗi viên đạn bay ra
có cả mẹ cả cha
ngã chồng lên con trẻ
họ chọn chết như thế
giữa một ngày tháng tư
Tôi căng mắt nhìn đêm
đêm như cánh buồm đen
kéo người ta ra biển
biển nhận họ chìm lỉm
biển hắt họ lên bờ
họ tan như ốc vỡ
sóng như giải khăn sô
Tôi căng mắt nhìn đêm
Tháng Tư sừng sững đứng
với tất cả oan khiên.
Tôi có về thăm họ hàng, đất nước đôi ba lần. Những lần
đầu về, nước mắt ướt đầm vai áo người thân, rồi những lần kế tiếp sau
này, nước mắt không chảy trên mặt nữa, không phải mượn vai ai nữa.
Nhìn quê hương thay đổi rất lạ lùng, chỉ nghe một nỗi buồn khô, đến rời rã trong lòng.
Vết thương tháng Tư trên da thịt của tất cả người dân hiền lương hai miền Nam Bắc không bao giờ lành được.
Văn chương chỉ như một lớp dầu gió mỏng xoa dịu ngoài da.
Thêm một bài viết tản mạn để chia sẻ với Thanh Bình, như thể chúng ta vừa cùng nhau nhắp thêm một ngụm đắng tháng Tư.
Ngụm cà phê tháng tư
Ta ngồi một mình
ly cà phê cạn
lòng như tháng tư
đứt ra từng đoạn.
Tháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th
của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn màu cà phê đen đặc, sóng
sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi
một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê
trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt đã có một lúc nào đó, ta
ngửa cổ uống được cả ngụm hay sao!
Tháng tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn:
đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em,
đoạn bạn hữu. Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một nơi, đoạn mất đi ngút ngàn
biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại ngơ ngẩn, mù loà.
Tháng tư của ba mươi bảy năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được.
Tôi ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ
không phải bạn bè, nhưng vẫn thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt
của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách ăn mặc và lối cư xử của họ na
ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen với cách kéo ghế, cách
chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi của họ khi phải
đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.
Tự ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong
một quán cà phê ở Việt Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn
mình sẽ thấy thất lạc lắm, vì cách ăn mặc và cư xử rất khác mình. Họ
cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một kẻ thường thường trên mọi phương
diện. Mình thất lạc ngay chính trên quê mình.
Ngồi một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ nhìn ra mình là người lạ
với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những ngón tay gầy
đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng
trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi,
thì ngồi xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ,
tiếng nước ầm ầm vọng tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng oà ra khi chạm
vào tảng đá cuối cùng, tảng đá tháng tư.
Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào
thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào
những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xoá. Những
người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại
quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hoà vào máu và nước
mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.
Anh ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
Chung quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop.
Họ im lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một
tờ báo mở trước mặt, hay hai người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch,
nghe được cả tiếng gõ khe khẽ của những ngón tay chạm trên bàn phím,
thậm chí cả tiếng thở của người ngồi ở bàn gần mình.
Tôi ngồi với ly cà phê cạn. Tôi biết, những trang mạng
của người Việt khắp nơi trên thế giới, vào mỗi tháng tư họ cũng trao đổi
cho nhau trên khung hình nhỏ: những tấm hình đang bốc lửa, những khẩu
súng đang nhả đạn. Tiếng người đang khóc, đang la vang, đang chạy hoảng
loạn, đang giẫm lên nhau. Tiếng súng nổ, tiếng kêu thất thanh... Tất cả
hiện ra trên khung hình nhỏ.
Trong một tiệm cà phê ở Mỹ. Tôi ngồi đó, ngửa mặt uống
ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ
hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống như hai chiếc lá cuốn khô. Nước
mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá rồi, xót xa cho phận
mình, phận người, phận quê hương đất nước.
Ba mươi bảy năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên
mạng, lẫn vào những bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời
nhắn với nội dung thật buồn:
Một hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của
một quân nhân VNCH, ai đó vừa tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến
nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó
đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.
Tin những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O. qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.
Lời nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm
trong bệnh viện Texas hai tuần rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến
nhận.
Những dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.
Tháng Tư là tháng tôi sợ đọc, sợ xem hình trên mạng. Sợ
nhìn lại những hình ảnh và đọc lại những bài viết kinh hoàng của những
nạn nhân vượt biển; hình ảnh nghĩa trang quân đội bị đập phá trong tủi
nhục; những câu chuyện thương tâm của tù nhân và nhà tù cải tạo; sợ phải
xem lại những hình ảnh của một thành phố mình đã sống và lớn lên bị tàn
phá bởi chiến tranh; sợ những bức hình và tên tuổi, binh nghiệp của các
tướng lãnh tự sát vào ngày cuối cùng, tôi sợ mỗi khi đọc thêm một danh
sách tự vận của các cấp tá, cấp uý, các hạ sĩ quan.
Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.
Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.
Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài
viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến
huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ
Lê, họ Trần.
Ba mươi bảy năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết
chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên
mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho
nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam
tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái
Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân
Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm
mất dần từng mảnh cho Trung Quốc...
Tháng tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt
nước mắt, vì nước mắt bao giờ cũng có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với
một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu tôi là một vết thương không
thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó. Nhìn xuống vẫn thấy
màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.
Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm
những giọt nước mắt mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp
tục sống với trái tim di tản.
Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm
một lần, nhưng khi tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi,
tháng tư có thể đến bất chợt ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.
Anh ạ tháng tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về.[*]
Trần Mộng Tú
Tháng 4/2012
________________
[*]Thơ Trần Mộng Tú.
-------------
Đã đăng:
01.05.2012
Nguyễn Tôn Hiệt: ... Tôi nghĩ, để “băng bó
vết thương chung của dân tộc” thì, trước hết, ta không nên nhầm lẫn nó
với những chiêu bài “hoà giải hoà hợp” giả hiệu. Không thể “băng bó vết
thương chung của dân tộc” bằng cách tự đánh thuốc mê, tự chích thuốc tê,
tự tẩy trắng mọi ký ức đau thương, khi vết thương thật sự vẫn còn
nguyên trong tâm hồn và trên thể xác của biết bao người. Không thể “băng
bó vết thương chung của dân tộc” khi những kẻ gây ra vết thương ấy
không hề biết nhận lỗi, không hề biết sửa đổi, mà cứ tiếp tục dối trá,
cứ tiếp tục tạo ra những tội ác mới, những sai lầm mới, cứ tiếp tục ca
múa, giăng cờ, cụng ly trên chính vết thương ấy... (...)
30.04.2012
Bắc Phong: Tôi vẫn muốn gọi ngày 30 tháng 4
là ngày Quốc Hận vì tôi là công dân của nước Việt Nam Cộng Hoà bị mất
vào tay Cộng Sản ngày đó năm 1975. Tôi buồn nhiều vì, giống số phận đau
thương của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam cũng phải sống khổ dưới
sự thống trị của Đảng Cộng Sản từ đó đến nay và chưa biết còn đến bao
giờ nữa... (...)
Uyên Thao: ... Thời điểm đó, tôi đã nói với
bạn bè là tôi thấy cuộc chiến không hề chấm dứt mà chỉ chuyển sang một
đoạn đường mới kể từ ngày nào Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản. Trong nhận
thức của tôi, cuộc chiến đang diễn ra dù gọi tên là gì, dù được giải
thích ra sao thì thực chất chỉ là cuộc chiến do yêu cầu bảo tồn sự sống
của người Việt trước nguy cơ huỷ hoại sự sống của một tập đoàn mê muội
cuồng dại mà thôi... (...)
29.04.2012
Liêu Thái: ... Cứ mỗi dịp tháng Tư về, vườn
nhà tôi thi thoảng nghe chó sủa đêm rồi lại tru, mẹ tôi bảo đó là chó
sủa ma. Và mẹ tôi cũng nói rằng còn quá nhiều oan hồn uẩn tử, âm khí quá
nặng, nên tháng Tư về, song hành với tiếng reo hò chiến thắng là tiếng
chó tru đêm đầy rẫy trên quê hương. Và, đâu đó trong góc khuất cuộc đời,
những oan hồn đang thở dài nhìn hiện tình đất nước, nhìn những người
bạn năm nào giờ đang lưu lạc… Cứ như thế, đất nước vật vờ trong nhịp
buồn tháng Tư – tháng Oan Hồn... (...)
28.04.2012
Nguyễn Viện: ... Tôi vừa đọc lại cuốn Chuông gọi hồn ai
của Hemingway, cũng là cuốn sách viết về cuộc nội chiến Tây Ban Nha, và
tôi nhớ có đoạn Hemingway để cho nhân vật của mình nói, đại ý: Cần phải
có một cuộc giải tội tập thể cho cả dân tộc, bất kể anh ở phe nào.
Vâng, tôi ước ao có một ngày mọi người dân Việt dù đang sống ở bất cứ
đâu, cùng dành ra một giờ để xưng tội với nhau và xin tha thứ cho nhau.
Cho cả những người đã chết, đang sống và sẽ sinh ra làm người Việt... (...)
Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ
NHIỀU TÁC GIẢ * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
ANH LÍNH CỘNG HÒA ƠI
Thuở đó tâm hồn em trắng trong
Như ánh trăng thanh trải ruộng đồng
Như lúa mạ non vờn nắng sớm
Lấp lánh sương mai rực ánh hồng
Như ánh trăng thanh trải ruộng đồng
Như lúa mạ non vờn nắng sớm
Lấp lánh sương mai rực ánh hồng
Én liệng lưng trời xanh, rất xanh
Xuân, hè hoa nắng nở long lanh
Chiếc lá vàng bay, mưa phai phái
Gió thoảng hương thu thoáng qua mànhRồi ngày Quân Lực đến mỗi năm
Những chàng trai trẻ chốn xa xăm
Bôn ba khắp nẻo đường đất nước
Mừng đón anh về, hôi hoa đăngThành phố tưng bừng, nhạc trống vang
Lơ lửng Dù hoa gió mây ngàn
Hoa Rừng, hoa Biển, hoa Đồng Nội
Sắc áo màu cờ quyện giang sanBến Hải, Cà Mau, Huế, Bình Long
Anh trai hào kiệt giống Lạc Hồng
Bụi chiến trường xa vương áo lính
Cô bé năm xưa xao xuyến lòngTừ dạo chúng mình quen biết nhau
Anh chưa thệ ước dưới trăng sao
Chẳng đón đưa em chiều tan học
Chinh nhân ơi! Da ngựa, chiến hàoLàm sao em hờn trách được anh?
Người đi làm rạng rỡ sử xanh
Hiểm trở, giải dầu nơi chiến tuyến
Chỉ mong đất nước sớm an lành
Ba mươi tháng Tư, giặc tràn vào!
Đày anh rừng thẳm, biển, núi cao
Bao năm vật vã trong tù ngục
Thể xác héo mòn! Dạ chẳng naoCờ vàng trong nắng phấp phới bay
Chiến sĩ tấm lòng khó chuyển lay
Dù nay sức yếu, thân chùm gởi
Quyết tâm đào luyện những người traiBản Giốc, Hoàng Sa, đến Trường Sa
Việt Cộng dâng hiến cho Trung Hoa
Tội đồ thiên cổ! Ai bán nước?
Xao xác hồn em! Mắt lệ nhòaNăm Châu đoàn kết các thanh niên
Trai Việt Nam ơi, khắp mọi miền
Tị nạn Cộng thù, hay du học
Cùng đưa đất nước khỏi xích xiềngHải ngoại mọi người xiết chặt tay
Trẻ già chung sức dựng tương lai
Cộng Sản tan tành trên cố quốc
Hãy vững lòng tinh, có một ngàyĐường phố hôm nay rộn nói cười
Mừng Ngày Quân Lực, nắng hồng tươi
Anh lính Cộng Hòa muôn năm đó
Sống mãi trong tim của mọi ngườiDƯ THỊ DIỄM BUỒN
(California)
ĐÁM MA TÙ
Ngô Minh Hằng
Vài tên cầm súng bước đi đầu
Tên nữa A.K tiếp phía sau
Một xác bó tròn đôi manh chiếu
Hai đầu buộc chéo bốn dây lau.
Không kèn không trống không đưa tiễn
Chẳng khói chẳng nhang chẳng nguyện cầu
Chỉ có bạn tù khiêng lặng lẽ
Vùi nông một khối hận thù sâu!
Ngô Minh Hằng
( GoiĐÀN)
NÓI VỚI NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG CHO TỔ QUỐC VIỆT NAM
(Kính dâng những linh hồn Tử Sĩ VN.)
Anh vẫn đó, oai hùng như dáng núi Ánh căm hờn trong lũng mắt đau thương Hăm mốt năm qua, trời sầu đất tủi Nơi đáy mồ anh khóc chuyện quê hương !
Anh có nhớ trong niềm đau mất nước Nhìn Hiền Lương máu ngập đến Cà Mau Vẫn anh dũng, anh kiên cường tiến bước Viên đạn thù tàn nhẫn réo thương đau ?!
Tuổi thanh xuân anh bừng bừng khí thế Trái tim hồng đỏ thắm máu Tiên Long Cổ thành xưa anh đã từng ngạo nghễ Gương hào hùng oanh liệt bốn nghìn năm
Ôm hoài bảo và tình yêu sông núi Anh hiên ngang đối diện với quân thù Dù ngã xuống, bia vàng không tên tuổi Nhưng trong lòng dân tộc đã thiên thu
Anh không chết, muôn đời anh không chết Và muôn đời Tổ Quốc mãi ghi công Hỡi các anh ! những người trai tuất kiệt Lấy máu đào anh rửa hận non sông !
Tôi nợ anh một lễ nghi quốc táng Lời tuyên dương, truy điệu bậc anh hùng Hăm mốt năm qua làm thân tỵ nạn Tôi cúi đầu nghe nước mắt rưng rưng …
Tôi nợ anh khúc quân hành rộn rã Ánh đuốc thiêng và tiếng hát khải hoàn Món nợ đó tôi rất mong được trả Trả cho anh và Tổ Quốc VIỆT NAM !
Ngô Minh Hằng
Tết Ở Phương Người
:
Phan Ni Tấn
mùa xuân tuyết trắng trời trắng đất
người, xe gì thảy đều tất bật
ngọn gió cuốn hồn anh bay mau
mặt mũi se khô tái một mầu
trước mặt nhà cây phong trụi lá
trần truồng khô như cây mai giả
nhìn xuyên qua một bầu trời già
thấy đời mình giạt về phương xa
lái xe chạy một vòng thành phố
phố người rộng như bể khổ
ta thò tay ra ngoài dòng đời
níu hồn về trăm miếng tả tơi
không khí tết không mùi để ngửi
không thiêng liêng cho lòng lạnh sưởi
ngó ngoái lại thương quá vợ con
miệng tươi cười mà dạ héo hon
bao giờ gặp lại ta trên sóng
thuyền đi chẻ ngọn trùng dương động
dắt díu nhau từng chặng thiết tha
ta về với mùa xuân quê nhà
người, xe gì thảy đều tất bật
ngọn gió cuốn hồn anh bay mau
mặt mũi se khô tái một mầu
trước mặt nhà cây phong trụi lá
trần truồng khô như cây mai giả
nhìn xuyên qua một bầu trời già
thấy đời mình giạt về phương xa
lái xe chạy một vòng thành phố
phố người rộng như bể khổ
ta thò tay ra ngoài dòng đời
níu hồn về trăm miếng tả tơi
không khí tết không mùi để ngửi
không thiêng liêng cho lòng lạnh sưởi
ngó ngoái lại thương quá vợ con
miệng tươi cười mà dạ héo hon
bao giờ gặp lại ta trên sóng
thuyền đi chẻ ngọn trùng dương động
dắt díu nhau từng chặng thiết tha
ta về với mùa xuân quê nhà
Viễn Khách Hành
Phan Ni Tấn
thay vì đóng cổng Phan gia trang
đêm hôm ta đã mở rộng đàng
đón viễn khách dọc đường gió bụi
ghé về thăm - từ Montreal
khách mày râu tay cầm vò rượu
giới thiệu qua mới biết người thơ
sớm xa quê lạc mùa rượu đế
xách tới chai courvoisier
long trọng uống từng hơi hảo tửu
thiệt lòng ta hào sảng quen rồi
phan-hiền-nội mấy phen đãi sĩ
lo nấu nướng không tiện ra ngồi
đêm bồn chồn mấy cơn gió nổi
rượu ngang xương mới dứt vòng đầu
hạ thịt con bò đem nhúng dấm
ta nghe thơ thẩn nhỏ từng câu
thất viễn khách kẻ quen người lạ
rót một vòng lạ cũng thành quen
ai thức trong hồn ta thấp thoáng
điểm mặt nhơn sinh tụ dưới đèn
2.
ơi thất khách tiếp chiêu hồng thuỷ
ly bạc màu cạn với bạn ta
góp vui lại thành ly thân mật
ly mới quen sắc cũng đậm đà
mùi rượu đỏ rót nồng con mắt
rót mền môi đã giọng lười ươi
vài giọt rớt xuống nền trầm tích
vết còn thơm đọng đỏ áo người
tiếng rượu rót tiếng nguồn róc rách
tiếng dòng sông ra biển không về
ôi chớp lửa cuộc người thoáng chốc
mười lăm năm mê mỏi lìa quê
tưởng tượng khi say hồn rã rượi
nức nở gì đây một bản tình
hát khắp cùng không ra khỏi nước
quanh quẩn lời quê run giọng mình
tưởng tượng khi say thành cuồng sĩ
đầu gục lên một mớ ngổn ngang
lè nhè gặm câu thơ nhớ nước
túy lúy vô hà tức thị phương +
3.
màu rượu rót hoài không thất sắc
rót vào da đỏ chói linh hồn
rót thành thơ giang hồ đề tặng
rót ra đời ấm bạn tình hơn
em rót giùm thêm chút nước mắm
cho mặn lòng ta miếng gió quê
miếng gió mát tay người Cần Giuộc
ru ta thơ ấu ngủ bờ đê
mai mốt về quê em Rạch Gía
xin đời mặc lại áo bà ba
chèo xuồng đi khóc ngoài cửa ải
chỗ xưa ta với đất chia xa
chỗ xưa ôi chỗ nào không nhớ
đốt đuốc soi tìm biết có ra
ta sống mà tâm còn nghe sóng
đập hoài lên dấu vết xưa qua
hãy nhúng giùm ta xấp bánh tráng
tiện tay em cuốn lại quê nhà
thêm chút rau thơm cùng ngò quế
cho ta ăn bằng nỗi thiết tha
4.
dòng hảo tửu rốt cùng chịu phép
(để hồng trần hay rượu nho tiên)
người còn vững, chai phơi bụng cạn
đúng nội công tâm pháp gia truyền
có ai nói đã ba giờ sáng
đang ngà say nghe thoáng giật mình
ta chợt nhớ chợt thèm háo hức
tiếng gà xưa gáy thuở bình minh
nài ép bạn ta e thất lễ
đêm tàn canh gió nổi trong đầu
trả thất trụ về phương nắng mới
bụi của trời giỏi cản được đâu
mời không ở thôi đành tạ lỗi
đường sương mù tiễn bước người đi
cổng vừa khép ta liền say xiển
té sấp hồn trên ngực thê nhi
LỜI TỬ SĨ
Dâng lên anh linh tử sĩ đã có lúc an nghỉ tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa
Mẹ chớ đắp cho con ngôi mộ mới
Để xương con rữa nát với thời gian
Làm phân bón cây nhân quyền sai trái
Cho ngày sau con cháu sống huy hoàng
Em chớ buồn nhìn mộ anh xiêu tán
Thấy bia anh đầy dấu đạn căm thù
Ngay cả núi sông giặc còn rao bán
thì hồn nào yên được giấc ngàn thu!
Con hãy để xác cha hòa với đất
Ba chết rồi, cải táng được gì đâu!
Đồng đội ba biết bao người bỏ xác
Dưới truông hào, trên núi thẳm, rừng sâu
Chị hãy để cho em vào phiêu lãng
cho em quên mối hận tháng Tư buồn
Hai mươi năm đất miền Nam tươi sáng
chỉ một ngày mưa thấm lệ trào tuôn
Bạn hãy để cho tôi tròn tiết tháo
Sống anh hùng thì chết cũng quang vinh
Chớ xin xỏ bọn cường quyền vô đạo
Thêm tủi lòng người đã quyết hy sinh
Nếu bạn muốn tôi ngàn thu yên giấc
xin hãy thay tôi dựng lại cờ vàng
Tôi không muốn được mồ tươm mả tất
Khi nước nhà mây vẫn trắng màu tang
Vũ Đình Trường
HÌNH ẢNH NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975
Tháng Tư Đen 1975 và…
Những mảnh hồn đau đứng dưới trời!
Những mảnh hồn đau đứng dưới trời!
Tại Tuy Hòa , Vạn Ninh (Tỉnh Phú Yên, Tỉnh Khánh Hòa)
Ngày
23-3-1975 phần đuôi đoàn xe di tản bị mắc kẹt trên Tỉnh Lộ 7 gần quận
Phú Túc, cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 40 km về phía tây, vì pháo cọng
sản bắn vào đoàn xe ở phía trước
Bà mẹ mất con tại Tuy Hòa. Ngày 25 – 3 – 1975
Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại Vạn Ninh, Ninh Hòa.
Những người dân chỉ có vài món đồ trên lưng , tức tưởi dẫn gia đình trốn chạy cộng sản
Tại Nha Trang
Ngày 31 – 3- 1975 tại phi trường Nha Trang
Trên chuyến bay cuối cùng rời khỏi phi trường Nha Trang ngày 31 – 3- 1975
Trong cuộc hổn loạn những người Lính VNCH không chỉ lo cho riêng bản thân mình mà còn giúp đỡ bảo vệ sự sinh tồn của người dân nhất là những em bé
Phi trường Nha Trang Ngày 1 – 4- 1975
Ngày 2 – 4- 1975. Trong cảnh di tản ra khỏi Nha Trang. Một người dân đang đu trên cánh cửa máy bay
3 giờ sáng Ngày 30 – 3 – 1975. Chiếc HQ 802 cập bến cảng Cam Ranh
…
đến 8 giờ tối Ngày 30 tháng 3 năm 1975, nhổ neo tiếp tục cuộc hành trình, rời cảng Cam Ranh để về Vũng Tàu
Hai ngày sau, là ngày 3-4-1975. Tàu HQ 802 đang trên biển Đông
Ngày 2 tháng 4 ngăm 1975 Nha Trang thất thủ
Tại Phan Rang , Phan RíTại Phan Rang . Ngày 16 tháng 4 năm 1975.
Tại Cửa Phan Rí . Ngày 18 tháng 4 năm 1975.
Tại Xuân LộcNgày 12 tháng 4 năm 1975, đồng bào bỏ chạy khi việt cọng tới Xuân Lộc và người thanh niên xấu số này đã gục ngã trong vòng lửa đạn trên quốc lộ 1
Ngày 13 – 4 – 1975.
Tại Xuân LộcNgày 14 – 4 – 1975, em trai này di tản một mình bằng chiếc xe lăn trên đoạn đường dài từ Xuân Lộc, đang di chuyển trên quốc lộ 1
Ngày 14-4-1975 , dân chúng Xuân Lộc chạy hỗn loạn tranh dành leo lên chiếc trực thăng.
Ngày 15 – 4 – 1975
Ngày 23 tháng 3 năm 1975 tại Xuân LộcNgày 31 – 3 – 1975Ngày 23 tháng 3 năm 1975 Xuân Lộc thất thủ
Tại Lâm Đồng , Long KhánhNgày 15 tháng 4 năm 1975, tại tuyến phòng ngã ba Dầu Giây
Ngày 19 – 3 – 1975, trên quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Tiếng
Ngày 20 – 4 – 1975, Quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Giây
Ngày 20 – 4 – 1975 tại Dầu Tiếng
Ngày 21 – 4 – 1975, dân chúng Long Khánh chạy tránh cọng sản
Ngày 21 – 4 – 1975, người chồng của phụ nữ này bị trúng đạn pháo kích của cộng sản
Ngày 21 – 4 – 1975, cộng sản vô tới Long Khánh
Ngày 21 tháng 4 năm 1975 Long Khánh thất thủ
Khắp nơi – Dân chạy tránh giặc cọng sảnMột chiếc tàu vận tải Vishipco chở số người tị nạn nặng trĩu từ miền trung khi cộng sản tràn vô
Một chiếc thuyền tị nạn ở miền trungNgười chạy giặc chỉ có đôi giày, vài cái túi, và một cái radioMột gia đình dắt dìu nhau chạy giặc từ miền trung tránh đợt tấn cộng của cộng sản
Gia đình và trẻ em chạy giặc từ miền trung vào nam trong ngày cuối tháng 4 năm 1975
Hai em bé lạc loài trong dòng người di tản
Với chút hành trang còn lại người cha cõng đứa con chạy trốn cộng sản ở Trảng Bom ngày 23 – 4 -1975
Khắp nơi – Dân chạy tránh giặc cọng sảnVũng Tàu Ngày 9 tháng 4 năm 1975
Dân chúng chen chúc tìm lối thoát tại các bến tàu
Ngày 21 – 4 – 1975, người dân Sài Gòn lũ lượt kéo nhau chạy ra Vũng Tàu tị nạn
Vòng đai thành phố Sài Gòn những ngày cuối tháng 4 năm 1975 đã bị vây chặt bởi nhiều sư đoàn của cọng sản
Tại Sài GònNgày 24 – 4 – 1975. cọng sản đã ném bom vào Sài Gòn
Lúc 3 giờ 30 Ngày 27 tháng 4 năm 1975, cộng sản pháo kích vào hành phố Sài Gòn
Ngày 28 – 4 – 1975, cộng sản tiếp tục pháo kích vào Sài Gòn
Ngày 28 – 4 – 1975, Xác T-54 trên đường Trương Minh Giảng, gần Lăng Cha Cả
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, một chiếc trực thăng đáp trên sân thượng nhà 4 tầng của người dân trên đường Truơng Minh Ký
Tại Bến Sông Bạch ĐằngNgười dân Sài Gòn tìm đường thoát trên bến phà Thủ Thiêm trên bến sông Bạch Đằng
Ngày 28 – 4 – 1975, người dân leo qua hàng rào bến cảng để trốn thoát khỏi Sài gòn
Những cửa ngõ duy nhất có thể thoát ra khỏi Sài Gòn như Tòa Đại Sứ Mỹ, khu DAO ở gần Air Vietnam và bến Bạch Đằng, thì lúc nào cũng đông nghẹt người chen chúc chờ đợi một cơ hội cuối cùng. Đa số là thành phần trong chính quyền cao cấp hoặc những người có liên hệ với Mỹ trước đây
Và những người Sài Gòn đang liều mạng trèo lên các xà lan tại bến cảng Sài Gòn họ cố gắng trốn thoát khỏi cộng sản
Ngày 29 – 4 – 1975
Một bé trai đầu đội mũ lính, trên lưng cõng một đứa bé lạc loài trong đoàn người di tản
Sài Gòn vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 như một cái chảo đặt trên lửa đang nóng dần lên và dân chúng như đàn kiến loi ngoi trong đó không lối thoát
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0259
TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN - THƠ THANH NAM
SƠN TRUNG * CON TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
CÂU CHUYỆN CON TÀU
VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
SƠN TRUNG
Nhưng khi lên tàu
Câu chuyện con tàu Việt Nam thương tín
Trở về từ đảo Guam
Là chân dung lịch sử Việt Nam
Từ đầu đến cuối
Là một kịch bản đầy bi và hài...
Cho những ai
Còn tin theo cộng sản...
Tin theo bè lũ cuội...
Bè lũ nói dối...
Những người đã vượt trùng dương
Đã đến cửa thiên đường
Đã đến cửa thiên đường
Lại nghe lời cộng sản
Kêu gọi tình yêu quê hương
Kêu gọi lòng yêu Tổ quốc
Trở về với nước nhà độc lập
Trở về với tự do
Trong thiên đường đỏ..
Của bác Hồ
Của Trung Quốc và Liên Xô...
Đâu có ai bắt họ lên tàu
Đâu có ai buộc họ từ giã quê hương
Đâu có ai bắt họ lìa xa mẹ già
Lìa xa con thơ
Lìa xa người vợ trẻ
Trong giây phút bàng hoàng
Mặt trận tan vỡ
Họ chạy theo làn sóng
của những nạn nhân cộng sản
Từ Bắc vào Nam
Từ cổ thành Quảng Trị
Từ mậu thân Huế
Từ Ban Mê Thuột- Nha Trang
Từ An Lộc Bình Dã
Từ Pleiku- Phan Rang
Nhưng khi lên tàu
Họ nghe lời cộng sản dụ dỗ
Họ đòi trở về
Để sống với quê hương
Và tình thương
của mẹ già, vợ trẻ
Và quê hương
... chùm khế ngọt
Và quê hương
... chùm khế ngọt
Họ tranh đấu với sĩ quan Việt Nam trên tàu
Họ cho họ là yêu nước
Yêu quê hương
Và họ đã mãn nguyện
Người Mỹ đã cho họ trở về
Vì thế giới này tôn trọng tự do
Không ai bắt buộc họ phải sống trong đau khổ
Người ta đã để cho họ trở về với Bác Hồ
Với cờ đỏ
Với kiếp nông nô
Mà những người khôn ngoan đã sớm từ bỏ...
Và những người ngu dại đã từng hoan hô Hồ Chí Minh
và theo lũ quỷ hôi tanh
Trong Mặt trận Giải Phóng
và theo lũ quỷ hôi tanh
Trong Mặt trận Giải Phóng
Cũng giã từ thiên đường đỏ
Như Trương Như Tảng
Trần Thúc Linh
Đoàn Văn Toại
Châu Tâm Luân
Nguyễn Văn Hảo
Lê Văn Hảo
Họ đã trở về
Họ được đảng hoan hô
Và sau đó
Họ được vào các lao tù
Để nghiền ngẫm hai chữ tự do
Hỡi những con người khốn khổ
Họ đã về quê hương độc lập
Vì họ ước mơ
Về đây mặc áo the đi guốc mộc
Kể chuyện tình bằng lời ca dao
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
Và về đây nghe gọi tiếng xưa
Để nhớ trong tiếng vỗ bờ
Nhưng khi họ trở về
Họ có trở lại mái nhà xưa?
Họ có ôm hôn bà mẹ già?
Họ có bồng đứa con thơ?
Họ có nghe người vợ trẻ hát "ầu ơ"?
Hỡi những con người khốn khổ
Họ đã về quê hương độc lập
Vì họ ước mơ
Về đây mặc áo the đi guốc mộc
Kể chuyện tình bằng lời ca dao
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
Và về đây nghe gọi tiếng xưa
Để nhớ trong tiếng vỗ bờ
Nhưng khi họ trở về
Họ có trở lại mái nhà xưa?
Họ có ôm hôn bà mẹ già?
Họ có bồng đứa con thơ?
Họ có nghe người vợ trẻ hát "ầu ơ"?
Một năm, hai ba năm trôi qua
Chín, tám, mười, mười hai năm lao tù
Chín, tám, mười, mười hai năm lao tù
Có người đầu thai ở Thái Nguyên
Có người tình nguyện làm quỷ Pac Bó
Có người ở lại
Với nắm xương khô
Ở Cổng Trời
Để suy nghĩ cuộc đời khôn dại.
Có người được Mỹ rộng lòng cho định cư
Họ sang Mỹ làm gì?
Họ là những kẻ ngu si
Hay là những tên gian trá?
Hay là những tên gian trá?
Ngàn năm mây bay
Chuyện đời mấy ai hay
Chuyện con tàu Việt Nam Thương Tín
Mấy ai còn nhớ mãi
Để gẫm suy cuộc đời khôn dại!
Nhưng bọn gian ác
Vẫn lừa gạt hằng ngày
Và con người vẫn thơ ngây
Chui vào lưới bẫy!
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN * THƠ THANH NAM
30 Tháng Tư - Ðọc lại tập thơ ÐẤT KHÁCH của Thanh Nam
Nguyễn Ðình Toàn |
|
Trong
tập thơ “Ðất Khách” của Thanh Nam, Thái Thủy cho mượn để đọc, còn có
thêm một lá thư viết tay của Tử Vi Lang được chụp lại, một trang rời in
ba bài thơ tứ tuyệt của Thanh Nam, một đề tặng Vũ Quang Ninh, một đề
tặng Trần Cao Lĩnh, và một chỉ thấy ghi ở bên dưới Tháng Sáu 1984. Bài thơ đề tặng Vũ Quang Ninh có tên là “Mười Năm”: Chớp mắt mười năm gặp lại nhau Ngậm ngùi tóc bạc ngó lòng đau Nụ cười như muốn tan thành lê Trong mắt ân tình rộn biển dâu Bài “gởi” Trần Cao Lĩnh là “Lời Xa”: Rượu tiễn chưa trao lời giã biệt Tháng giêng theo tuyết bạn xa rồi Gió đưa khăn gói thành ly khách Có gặp hồn quê giữa xứ người? Và bài “Phố Cũ” như sau: Nhận thư bè bạn từ quê nhà Dò đọc tên đường thấy xót xa Ôi, đã nghìn thu vào tịch mịch Những anh hùng cũ, mỹ nhân xưa! Những trang viết của Tử Vi Lang, không thấy ghi tên người nhận, nên không biết gửi cho ai, nhưng đọc tưởng chừng thấy thời gian ngừng lại: Nhà văn Thanh Nam trút hơi thở cuối cùng tại Seatle, tiểu bang Washington, lúc 07 giờ tối ngày 02 Tháng Sáu năm 1985, thì qua hôm sau, tôi tiếp cú điện thoại của anh Vũ Ðức Vinh gọi xuống Los Angeles, báo tin buồn ấy, và hỏi rằng: - Hội Văn Hóa Việt Nam tiểu bang Washington chúng tôi muốn đăng một ai-cáo lên các báo, để cho các văn nghệ sĩ, ký giả và bằng hữu tại hải ngoại cũng như ở nước nhà biết tin. Vậy, chữ ‘Cáo Phó’chỉ dành riêng cho gia đình anh Thanh Nam dùng, thì Hội Văn Hóa chúng tôi dùng chữ ‘Khấp Báo’ có được chăng? Trong phút xúc động, tôi trả lời ngay: - Ðược lắm chứ! Chữ ‘khấp’ không có nghĩa là khóc thành tiếng, mà ‘khấp’chỉ là ‘ứa lệ’ khóc thầm. Anh thử nghĩ xem: Tại sao trời đất lại sinh chúng ta vào cái thế kỷ mà quốc gia dân tộc phải chịu nhiều đau thương tang tóc nhất lịch sử này? Có thể nói: Ða số chúng ta, chỉ vì quốc nạn mà trở thành kẻ cầm bút viết báo, viết văn. Thế rồi cuộc bể dâu hồng thủy đã khiến chúng ta phiêu dạt khỏi quê hương yêu dấu! Và trong khi các anh đang họp mặt, nắm tay nhau ở Seatle, cảm thán hiện cảnh, thắc mắc tương lai... thì Thanh Nam nằm xuống, vĩnh viễn ra đi! Như thế, các anh - và cả tôi ở đây nữa - không ‘ứa lệ’ sao được? Dứt cuộc điện đàm với anh Vũ Ðức Vinh, tôi cầm bút thảo ngay bài thơ cảm thán này để đăng báo, gọi là ghi chút tình đồng nghiệp với Thanh Nam... VĂN THANH NAM THỆ THẾ Vô đoan thiên địa ngẫu sinh ngô Dữ nhĩ đồng kham khứ-quốc-sầu Dị địa khả lân vô nhất kiến Hoa-bang hàn vũ tống cô chu Tử Vi Lang tự dịch bài thơ của mình như sau: Nghĩa gì, trời đất sinh ta? Chung sầu khứ quốc, chốc đà mười xuân Tha hương chẳng gặp một lần Bang Hoa mưa lạnh đưa hồn hoài hương Tập thơ “Ðất Khách” của Thanh Nam đã được in ra cách đây đã hơn hai chục năm. Thanh Nam đã qua đời chỉ hai năm sau khi “Ðất Khách” được xuất bản. Sách in khổ lớn, bìa và phụ bản bên trong là tranh và ảnh rất đẹp của Duy Thanh, Ngọc Dũng, Trần Cao Lĩnh. Thanh Nam sang Hoa Kỳ năm 1975, tổng cộng cho đến nay đã gần ba chục năm. Ba chục năm nơi đát khách dài hay ngắn? Rất nhiều chuyện đã rơi vào lãng quên. Nhưng cũng có rất nhiều chuyện người ta không thể nào quên được trong khoảng thời gian ấy, chuyện kẻ ở người đi, kẻ còn người mất, tang thương biến đổi, xa nhau khi tóc còn xanh, gặp lại mái đầu đã trắng cả... Lại còn những người một lần chia tay cũng là vĩnh biệt, chẳng còn bao giờ nhìn lại thấy nhau nữa! Ðối với một số bằng hữu, một số độc giả của ông, Thanh Nam ở trong trường hợp như vậy. Những người đến muộn trên miền đất Thanh Nam gọi là “tạm dung” này, cầm cuốn sách trong tay, chợt cảm nhận một nỗi buồn mênh mang. Cuốn sách có thật. Những dòng chữ trên giấy trắng, mực đen là có thật. Nhưng cầm nó trong tay, người ta tưởng chừng chỉ đang cầm giữ một cái ảo. Ba mươi năm tóa tang, lụt lội nước mắt, hay dùng chữ của chính Thanh Nam “ phí bao nhiêu tóc xanh đợi chờ”, rút cục cũng chẵn biết đợi chờ cái gì, quên hay nhớ thì tất cả mọi chuyện cũng đã tan vào hư không rồi, không níu lại được gì nữa, không sửa chữa gì được nữa. Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng Nghĩ đắt vô cùng giá tự do Thanh Nam đã ghi lên trang đầu tập thơ của mình hai câu thơ ấy. Lấy lòng của người ở lại để hiểu lấy nỗi đau của người đi được chăng? Hiểu được hay không hiểu được, rồi sao? “Ðất Khách” của Thanh Nam tràn ngập một nỗi ngậm ngùi của thân lữ thứ, nhớ nước, nhớ người. Ơi hỡi quê hương bè bạn cũ Những ai còn mất giữa sa mù Mất nhau từ buổi tàn xuân đó Không một tin nhà, một cánh thư Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi Rối bời tâm sự tuyết đăng tơ Một năm người có mười hai tháng Ta tròn năm dài Một Tháng Tư! Trước 1954, ở Hà Nội, người ta đọc “Cuộc Ðời Một Thiếu Nữ” của Thanh Nam, “Nhìn Xuống“của Sao Mai, “Cánh Hoa Trước Gió” của Nguyễn Minh Lang, “Mẹ Tôi Sớm Biệt Một Chiều Thu“của Hoàng Công Khanh... Năm đó Thanh Nam còn rất trẻ, mới chỉ trên dưới hai mươi. Ông nổi tiếng rất sớm. Thanh Nam bỏ Hà Nội vào Nam trước khi xảy ra hiệp định Geneve, nên ông có dịp làm quen và chơi thân với hầu hết các nhà văn, miền Nam, nhất là những người làm việc trực tiếp tại các tòa báo. Khi được tin Lê Xuyên mất mới đây, hầu hết những người quen biết Thanh Nam đều liên tưởng tới ông và những ngày Sài Gòn cũ là vì vậy. Cuộc lưu vong 30 Tháng Tư 1975 Thanh Nam coi như là: Chấp nhận hai đời trong một kiếp Ðành cho giông bão phũ phàng đưa Ðầu thai lần nữa trên trần thế Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ Ðổi ngược họ tên cha mẹ đặt Tập làm con trẻ nói ngu ngơ Có thể lấy cái buồn của người ở lại để hiểu nỗi khắc khoải của người ra đi và ngược lại chăng? Giả thử rằng được, giả thử rằng không, rồi sao? Mọi sự có gì khác với những gì đã xảy ra? Hai mươi chín năm rồi ba mươi năm. Những ai, còn ai mất? “Ðất nước” người ta có trở về được cũng vẫn chỉ là những cuộc viếng thăm. Những người “cùng một lứa bên trời lận đận” còn lại bao nhiêu ngày à còn có thể làm được gì nữa đây? Ngoài trên một chục cuốn tiểu thuyết, Thanh Nam còn viết kịch thơ, làm rất nhiều thơ, viết lời ca cho nhiều ca khúc của các nhạc sĩ bằng hữu, từng phụ trách biên tập nhiều tuần san văn nghệ, biên tập cho nhiều chương trình phát thanh. Ông sống đôn hậu với tất cả bạn bè và được mọi người yêu mến. Ở Hoa Kỳ mới vào Xuân. Tết Việt Nam qua đã khá lâu rồi, có còn cũng chỉ còn cái rét Tháng Ba. Liệu có đủ lạnh để ta cùng nghe lại “Thơ Xuân Ðất Khách” của Thanh Nam không nhỉ: Canh bạc chưa chơi mà hết vốn Cờ còn đánh phải đàn thua Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do! Bằng hữu qua đây dăm bảy kẻ Ðứa nuôi thù hận, đứa phong ba Ðứa nằm yên phận vui êm ấm Ðứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa Mây nước có phen còn hội ngô Thâm tình viễn xứ lại như xa Xuân này đón tuổi gần năm chục Ðối bóng mình ta say với ta Ðọc thơ mới giật mình: Thanh Nam mất mới ở tuổi năm mươi. Còn quá trẻ! Thế nhưng, có biết bao người như ông, có thể coi như đời đã mất từ nhiều năm trước đó, đứt ngang trước đó. Bao giờ Tháng Tư sẽ không còn là viết thương của lịch sử chúng ta nữa nhỉ? Nguyễn Ðình Toàn Saturday, April 24, 2004 http://www.dactrung.com/Bai-bv-1152-30_Thang_Tu_%C3%90oc_lai_tap_tho_%C3%90aT_KHaCH_cua_Thanh_Nam.aspx |
THANH NAM * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
Thơ Xuân Đất Khách
:
Thanh Nam
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữ sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bời
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa .
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư !
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho giông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do !
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa .
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta .
Seattle, mùa xuân 1977 .
Tà Dương Cuối Trời
MƯỜI NĂM
Tặng Vũ Quang Ninh
Chớp mắt mười năm gặp lại nhau
Ngậm ngùi tóc bạc ngó lòng đau
Nụ cười như muốn tan thành lê
Trong mắt ân tình rộn biển dâu
Tháng Sáu 1984.
LỜI XA
Gởi” Trần Cao Lĩnh
Rượu tiễn chưa trao lời giã biệt
Tháng giêng theo tuyết bạn xa rồi
Gió đưa khăn gói thành ly khách
Có gặp hồn quê giữa xứ người?
Tháng Sáu 1984.
PHỐ CŨ
Nhận thư bè bạn từ quê nhà
Dò đọc tên đường thấy xót xa
Ôi, đã nghìn thu vào tịch mịch
Những anh hùng cũ, mỹ nhân xưa!
Tháng Sáu 1984.
ĐẤT KHÁCH
Ơi hỡi quê hương bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đăng tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta tròn năm dài Một Tháng Tư!
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữ sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bời
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa .
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư !
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho giông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do !
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa .
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta .
Seattle, mùa xuân 1977 .
Tà Dương Cuối Trời
Thanh Nam
(1983)
Chín năm đón Tết quê người
Vẫn ta ở tạm, vẫn đời ghé qua
Chín năm thương tuổi thêm già
Cành Xuân đã ngã qua bờ Thu Đông
Thấy mình như có như không
Xót xa cơm áo, bềnh bồng thê nhi
Đấu trường bốn mặt hôn mê
Dấu chân xa mãi nẻi về quê hương
Lửa nào rực sáng mười phương
Xua giùm ta bóng đêm trường cô đơn ...
Chín năm lạ bến xa nguồn
Nỗi phai tâm ý, nỗi mòn xác thân
Sóng đời tiếng bạc phân vân
Ngẩn ngơ tiếng mất, băn khoăn tiếng còn
Cõi xưa mộng ngủ rêu buồn
Dăm trang sách cũ, một hồn tang thương
Mịt mùng dáng khói hình sương
Đã như hiện nét tà dương cuối trời
Sài gòn ơi, thủ đô ơi
Theo ta chung thủy nghìn nơi lưu đày
Chín năm, ôi tiếng than dài
Rợn trong hơi thở, vang ngoài biển Đông ..
Chín năm đón Tết quê người
Vẫn ta ở tạm, vẫn đời ghé qua
Chín năm thương tuổi thêm già
Cành Xuân đã ngã qua bờ Thu Đông
Thấy mình như có như không
Xót xa cơm áo, bềnh bồng thê nhi
Đấu trường bốn mặt hôn mê
Dấu chân xa mãi nẻi về quê hương
Lửa nào rực sáng mười phương
Xua giùm ta bóng đêm trường cô đơn ...
Chín năm lạ bến xa nguồn
Nỗi phai tâm ý, nỗi mòn xác thân
Sóng đời tiếng bạc phân vân
Ngẩn ngơ tiếng mất, băn khoăn tiếng còn
Cõi xưa mộng ngủ rêu buồn
Dăm trang sách cũ, một hồn tang thương
Mịt mùng dáng khói hình sương
Đã như hiện nét tà dương cuối trời
Sài gòn ơi, thủ đô ơi
Theo ta chung thủy nghìn nơi lưu đày
Chín năm, ôi tiếng than dài
Rợn trong hơi thở, vang ngoài biển Đông ..
MƯỜI NĂM
Tặng Vũ Quang Ninh
Chớp mắt mười năm gặp lại nhau
Ngậm ngùi tóc bạc ngó lòng đau
Nụ cười như muốn tan thành lê
Trong mắt ân tình rộn biển dâu
Tháng Sáu 1984.
LỜI XA
Gởi” Trần Cao Lĩnh
Rượu tiễn chưa trao lời giã biệt
Tháng giêng theo tuyết bạn xa rồi
Gió đưa khăn gói thành ly khách
Có gặp hồn quê giữa xứ người?
Tháng Sáu 1984.
PHỐ CŨ
Nhận thư bè bạn từ quê nhà
Dò đọc tên đường thấy xót xa
Ôi, đã nghìn thu vào tịch mịch
Những anh hùng cũ, mỹ nhân xưa!
Tháng Sáu 1984.
ĐẤT KHÁCH
Ơi hỡi quê hương bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đăng tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta tròn năm dài Một Tháng Tư!
TRẦN TRUNG ĐẠO * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
Chuyện Đời Mẹ
Trần Trung Đạo
Con chẳng về đâu dù mưa hay nắng
Sông Thu Bồn trăng tháng bảy còn in
Mười năm trời con làm mây viễn xứ
Mười năm dài biền biệt dấu chân chim
Ngày mẹ chết con chưa tròn một tháng
Cha tảo tần sớm nắng với chiều mưa
Thiếu sữa mẹ đời con thành đại hạn
Thiếu lời ru con lớn với lọc lừa
Ngày mẹ chết con nằm trong máng cỏ
Có hay đâu mây kéo một phương trời
Cha vấn cho con một vành tang nhỏ
Con mang đi, đi suốt phận con người
Từ mẹ chết cha một đời góa bụa
Sống âm thầm trong mái lá tường xiêu
Xin cho con bú từng hơi sữa lạ
Giọt mồ hôi nhỏ xuống chén cơm chiều
Những đêm mưa con nằm nghe cha kể
Chuyện đời cha dài như một giòng sông
Mẹ có đẹp? Cha nhìn xa không nói
Nhưng con nghe dao cắt ở trong lòng
Chuyện cha mẹ gặp nhau không cưới hỏi
Buổi giao thời xiêu lạc cả bà con
Rượu tân hôn cha thay bằng nước vối
Dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng
Và phương ấy bao mùa mưa sẽ đến
Nấm mồ hoang hương khói lạnh từ đây
Cầu xin mẹ bình yên qua chín cõi
Trên dương gian con nối cuộc lưu đày
Anh Bộ Đội Thương Binh Tôi GặpSông Thu Bồn trăng tháng bảy còn in
Mười năm trời con làm mây viễn xứ
Mười năm dài biền biệt dấu chân chim
Ngày mẹ chết con chưa tròn một tháng
Cha tảo tần sớm nắng với chiều mưa
Thiếu sữa mẹ đời con thành đại hạn
Thiếu lời ru con lớn với lọc lừa
Ngày mẹ chết con nằm trong máng cỏ
Có hay đâu mây kéo một phương trời
Cha vấn cho con một vành tang nhỏ
Con mang đi, đi suốt phận con người
Từ mẹ chết cha một đời góa bụa
Sống âm thầm trong mái lá tường xiêu
Xin cho con bú từng hơi sữa lạ
Giọt mồ hôi nhỏ xuống chén cơm chiều
Những đêm mưa con nằm nghe cha kể
Chuyện đời cha dài như một giòng sông
Mẹ có đẹp? Cha nhìn xa không nói
Nhưng con nghe dao cắt ở trong lòng
Chuyện cha mẹ gặp nhau không cưới hỏi
Buổi giao thời xiêu lạc cả bà con
Rượu tân hôn cha thay bằng nước vối
Dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng
Và phương ấy bao mùa mưa sẽ đến
Nấm mồ hoang hương khói lạnh từ đây
Cầu xin mẹ bình yên qua chín cõi
Trên dương gian con nối cuộc lưu đày
Cuối năm tám mươi
Có một lần tôi đi ngang bệnh viện Vì Dân
Nghe đâu đã đổi tên là Thống Nhất
Anh bộ đội thương binh
Ngồi dưới hiên
Nghêu ngao hát
Khuôn mặt gầy tuổi mới quá hai mươi
Giọng anh buồn đôi mắt ngắm xa xôi
Anh đang hát về quê hương miền Bắc
Tôi ngồi xuống bên cạnh anh
Anh rất tự nhiên xích người nhường chỗ
Tôi khen anh hát rất hay
Anh mỉm cười
Nụ cười sao hồn nhiên chất phác
Tôi rút mời anh điếu thuốc
Anh lấy trong người cái hộp quẹt Zippo
Tôi bỗng bật cười to:
- Thế anh cũng thích xài đồ Mỹ ngụy
Anh điềm nhiên trả lời:
- Ðây chỉ là kỷ niệm
Của thằng bạn thân đã chết ở Bình Long
Không hẹn hò chúng tôi bỗng thấy thân
Ánh mắt bao dung
Nụ cười tuổi trẻ
Hết điếu nầy chúng tôi mồi điếu khác
Khói thuốc mịt mù quanh chỗ chúng tôi
- Anh đi bộ đội bao lâu ?
- Từ khi mười bẩy tuổi
- Thế anh bỏ học sao ?
- Họ bảo đã có người khác lo việc đấy
Bổn phận tôi là giải phóng miền Nam
Tôi thật tình chẳng hiểu tại sao
Nhưng không thể làm gì hơn được
- Bố mẹ anh vẫn còn ngoài Bắc ?
- Tôi là đứa con duy nhất
Vào Nam không lâu thì nghe tin bố mất
Mẹ tôi vẫn còn đang sống với bà con
- Anh thế nào cũng phải về thăm ?
- Tôi mãi chần chừ cũng đã mấy năm
Chỉ vì tôi không muốn làm mẹ tôi đau khổ
Anh cúi xuống nhìn đôi chân gỗ
Mắt rưng rưng không nói thêm lời
Ngoài hiên mưa bắt đầu rơi
Rơi thấm ướt lòng chúng tôi đêm ấy
Tôi cầm lấy tay anh
Ðôi bàn tay lạnh giá
Mắt nhìn nhau như đã nói nghìn câu
Tôi thấy trong vô cùng hun hút đêm sâu
Chảy trong chúng tôi chung một dòng máu đỏ
Ðời chúng tôi đời những đứa con hoang
Tim chúng tôi rung một nhịp Việt Nam
Hồn chúng tôi hồn bốn nghìn năm cũ
Anh vỗ nhẹ vai tôi
Rồi khệnh khạng trở về bệnh viện
Tôi ngậm ngùi không thể nói thêm chi
Vì mai nầy tôi cũng sẽ ra đi
Ðến một nơi tôi chưa hề nghĩ đến
Năm tháng vẫn trôi đi
Dòng đời tôi lạc bến
Nhưng trong lòng khói thuốc chẳng hề tan.
Bà Mẹ Điên
:
Trần Trung Đạo
Có lần tôi đi ngang
Qua vỉa hè Ðồng Khởi
Một bà ôm chiếc gối
Ðứng hát như người say
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai Ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây
Người biết chuyện cho hay
Chồng bà đưa ra Bắc
Từ khi con trai mất
Bà trở thành người điên
Nhà bà là mái hiên
Tấm vải dầu che nắng
Sớm chiều khoai với sắn
Heo hút với bầy con
Bà ngày một héo hon
Bỏ vùng kinh tế mới
Về Sài Gòn chen lấn
Giữa cuộc đời đắng cay
Ðứa con út ốm đau
Vẫn hằng đêm đòi sữa
Chẳng còn gì bán nữa
Ngoài giọt máu mẹ cha
Khi trời vừa sáng ra
Bà lại lên Chợ Rẫy
Lần nầy lần thứ mấy
Bà bán máu nuôi con
Trên đường về đi ngang
Ghé cửa hàng mua sữa
Bà gục người trước cửa
Suốt đêm mà không hay
Ðứa con út đang đau
Chờ mẹ về chưa tới
Qua đời trong cơn đói
Thiếu cả một vòng tay
Khi bà về tới nơi
Thì con mình đã chết
Bà ôm con lạnh ngắt
Ðứng hát như người say
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai Ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây
Ðêm qua tôi nằm mơ
Thấy mình ôm chiếc gối
Ðứng trên đường Ðồng Khởi
Và hát như người điên.
Qua vỉa hè Ðồng Khởi
Một bà ôm chiếc gối
Ðứng hát như người say
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai Ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây
Người biết chuyện cho hay
Chồng bà đưa ra Bắc
Từ khi con trai mất
Bà trở thành người điên
Nhà bà là mái hiên
Tấm vải dầu che nắng
Sớm chiều khoai với sắn
Heo hút với bầy con
Bà ngày một héo hon
Bỏ vùng kinh tế mới
Về Sài Gòn chen lấn
Giữa cuộc đời đắng cay
Ðứa con út ốm đau
Vẫn hằng đêm đòi sữa
Chẳng còn gì bán nữa
Ngoài giọt máu mẹ cha
Khi trời vừa sáng ra
Bà lại lên Chợ Rẫy
Lần nầy lần thứ mấy
Bà bán máu nuôi con
Trên đường về đi ngang
Ghé cửa hàng mua sữa
Bà gục người trước cửa
Suốt đêm mà không hay
Ðứa con út đang đau
Chờ mẹ về chưa tới
Qua đời trong cơn đói
Thiếu cả một vòng tay
Khi bà về tới nơi
Thì con mình đã chết
Bà ôm con lạnh ngắt
Ðứng hát như người say
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai Ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây
Ðêm qua tôi nằm mơ
Thấy mình ôm chiếc gối
Ðứng trên đường Ðồng Khởi
Và hát như người điên.
Bao Giờ Nhỉ Tôi Về Thăm Xứ Quảng
:
Trần Trung Đạo
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng
Mười năm dài mộ mẹ chẳng ai trông
Cỏ có cao hơn nỗi nhớ trong lòng
Ðất có lạnh hơn mùa đông Bắc Mỹ
Hải Vân đứng ngậm ngùi bao thế kỷ
Chảy về đâu lai láng nước Thu Bồn
Thuở học trò tôi hay đứng ven sông
Nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Ðiện
Còn chăng nhỉ những con đường kỷ niệm
Những bạn bè dăm đứa lạc nơi đâu
Tóc chưa xanh mà đã vội hoen màu
Thời ly loạn tìm nhau trong ký ức
Cho tôi ghé thăm trường Trần Quý Cáp
Những màu rêu gạch ngói cũ còn chăng
Bài thơ xưa còn đọng dấu bên thềm
Tôi vẫn viết nhưng thơ buồn hơn trước
Ðường Phố Hội chưa mưa đà ngập nước
Những căn nhà lụp xụp nối vai nhau
Ðình Cẩm Phô, Khu Khổng Miếu, Chùa Cầu
Tên nghe lạ nhưng vô cùng tha thiết
Cho tôi ghé bến xe đò Nam Phước
Lần cuối cùng em đến tiễn tôi đi
Giờ chia tay sao chẳng nói năng gì
Nghìn năm để mây buồn vương trong mắt
Bao giờ nhỉ tôi về thăm Núi Quế
Ðứng bên cầu Chợ Ðụn nước trôi xuôi
Mùa sim lên tím rực cả lưng đồi
Hương ngây ngất tôi mộng thành thi sĩ
Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ
Trái tim tôi có một dòng máu đỏ
Sẽ một ngày chảy đến tận Câu Lâu
Nước sông Thu dù lụt lội đục ngầu
Nghe vẫn ngọt như bòn bon Ðại Lộc
Bao giờ nhỉ tôi trở về Ðà Nẵng
Nghe ngàn khơi thổi lạnh xuống sông Hàn
Bến Bạch Ðằng còn những chuyến đò ngang
Ngày hai buổi nối cầu qua An Hải
Em Trường Nữ có bao giờ trở lại
Thả tơ tình trêu chọc đám con trai
Ðường Hùng Vương thuở ấy rất là dài
Sao quá ngắn trong những chiều chung bước
Mây có trắng trên đỉnh chùa Non Nước
Mưa có buồn giăng kín núi Tiên Sa
Về chưa em sương phủ xuống Sơn Chà
Còn chăng nhỉ dấu chân tình trên cát
Tôi một dạo hay ôm đàn đứng hát
Bài ca buồn tiếng quốc vọng đêm khuya
Quảng Nam ơi khúc ruột đã chia lìa
Chiều viễn xứ ngậm ngùi cho non nước
Tôi đã bảo thơ tôi buồn hơn trước
Ðời lưu vong chưa hẹn buổi quay về
Câu hỏi nầy chỉ hỏi để tôi nghe
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng.
Mười năm dài mộ mẹ chẳng ai trông
Cỏ có cao hơn nỗi nhớ trong lòng
Ðất có lạnh hơn mùa đông Bắc Mỹ
Hải Vân đứng ngậm ngùi bao thế kỷ
Chảy về đâu lai láng nước Thu Bồn
Thuở học trò tôi hay đứng ven sông
Nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Ðiện
Còn chăng nhỉ những con đường kỷ niệm
Những bạn bè dăm đứa lạc nơi đâu
Tóc chưa xanh mà đã vội hoen màu
Thời ly loạn tìm nhau trong ký ức
Cho tôi ghé thăm trường Trần Quý Cáp
Những màu rêu gạch ngói cũ còn chăng
Bài thơ xưa còn đọng dấu bên thềm
Tôi vẫn viết nhưng thơ buồn hơn trước
Ðường Phố Hội chưa mưa đà ngập nước
Những căn nhà lụp xụp nối vai nhau
Ðình Cẩm Phô, Khu Khổng Miếu, Chùa Cầu
Tên nghe lạ nhưng vô cùng tha thiết
Cho tôi ghé bến xe đò Nam Phước
Lần cuối cùng em đến tiễn tôi đi
Giờ chia tay sao chẳng nói năng gì
Nghìn năm để mây buồn vương trong mắt
Bao giờ nhỉ tôi về thăm Núi Quế
Ðứng bên cầu Chợ Ðụn nước trôi xuôi
Mùa sim lên tím rực cả lưng đồi
Hương ngây ngất tôi mộng thành thi sĩ
Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ
Trái tim tôi có một dòng máu đỏ
Sẽ một ngày chảy đến tận Câu Lâu
Nước sông Thu dù lụt lội đục ngầu
Nghe vẫn ngọt như bòn bon Ðại Lộc
Bao giờ nhỉ tôi trở về Ðà Nẵng
Nghe ngàn khơi thổi lạnh xuống sông Hàn
Bến Bạch Ðằng còn những chuyến đò ngang
Ngày hai buổi nối cầu qua An Hải
Em Trường Nữ có bao giờ trở lại
Thả tơ tình trêu chọc đám con trai
Ðường Hùng Vương thuở ấy rất là dài
Sao quá ngắn trong những chiều chung bước
Mây có trắng trên đỉnh chùa Non Nước
Mưa có buồn giăng kín núi Tiên Sa
Về chưa em sương phủ xuống Sơn Chà
Còn chăng nhỉ dấu chân tình trên cát
Tôi một dạo hay ôm đàn đứng hát
Bài ca buồn tiếng quốc vọng đêm khuya
Quảng Nam ơi khúc ruột đã chia lìa
Chiều viễn xứ ngậm ngùi cho non nước
Tôi đã bảo thơ tôi buồn hơn trước
Ðời lưu vong chưa hẹn buổi quay về
Câu hỏi nầy chỉ hỏi để tôi nghe
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng.
Bao Lần Tự Dối Lòng
Trần Trung Đạo
Khuya giật mình thức giấc
Thấy mình nằm co ro
Đưa bàn tay chải tóc
Biết là còn tự do
Nhìn ra ngoài cửa sổ
Đất trời rộng muôn phương
Nghìn ngôi sao lấp lánh
Ngôi nào là quê hương
Lôi ra tờ báo củ
Bi hài kịch Việt Nam
Hoan hô và đả đảo
Kẻ khóc ngươì cười khan
Đã bao lần tự dối
Phú quí như phù vân
Công danh là mộng ảo
Tình như chuyến đò ngang
Đã bao lần tự dối
Chí lớn nhưng thời không
Nên gươm thề buổi ấy
Lỡ hen cùng núi sông
Đời trôi theo năm tháng
Mộng vỡ trên bàn tay
Còn ai là tri kỷ
Về cùng ta đêm nay
Mười năm trên đất khách
Mười năm dài long đong
Ngày đi hai tay trắng
Bây giờ hai tay không
Mười năm trên đất khách
Bao lần tự dối lòng
Gió sương rồi cũng mặc
Thổi đời ta lưu vong
Thấy mình nằm co ro
Đưa bàn tay chải tóc
Biết là còn tự do
Nhìn ra ngoài cửa sổ
Đất trời rộng muôn phương
Nghìn ngôi sao lấp lánh
Ngôi nào là quê hương
Lôi ra tờ báo củ
Bi hài kịch Việt Nam
Hoan hô và đả đảo
Kẻ khóc ngươì cười khan
Đã bao lần tự dối
Phú quí như phù vân
Công danh là mộng ảo
Tình như chuyến đò ngang
Đã bao lần tự dối
Chí lớn nhưng thời không
Nên gươm thề buổi ấy
Lỡ hen cùng núi sông
Đời trôi theo năm tháng
Mộng vỡ trên bàn tay
Còn ai là tri kỷ
Về cùng ta đêm nay
Mười năm trên đất khách
Mười năm dài long đong
Ngày đi hai tay trắng
Bây giờ hai tay không
Mười năm trên đất khách
Bao lần tự dối lòng
Gió sương rồi cũng mặc
Thổi đời ta lưu vong
Đêm Ngồi Nghe Tiếng Chim Trên Biển
Trần Trung Đạo
Đêm ngồi nghe tiếng chim trên biển
Chợt nhớ ngày ra cửa Vũng Tàu
Một cánh chim chiều theo đưa tiễn
Vô tình ... cũng thấy xót xa đau
Đừng theo, chim nhỏ, đừng theo nữa
Rồi sẽ như ta lạc lối về
Ta như ngựa bỏ đời hoang dã
Quay nhìn mờ mịt dấu sơn khê
Từ nay cánh hạct vàng xa khuất
Chân trời kỷ niệm trắng mênh mông
Xung quanh chỉ một màu mây nước
Cách một trùng dương, vạn nỗi lòng
Bỗng dưng ta mộng làm mây trắng
Rót xuống quê hương những giọt sầu
Đêm nay mẹ có ngồi than khóc
Nước mắt xin làm mây trắng bay
Đêm ngồi nghe tiếng chim trên biển
Như tiếng thu xưa thổi lá vàng
Lòng ta mấy độ vàng như lá
Từ buổi xa người trên bến sông
Ở đây ta sống đời khinh bạc
Sớm tối đi về một cõi riêng
Cả một sơn hà ta nỡ bỏ
Sá gì chỉ một trái tim em ...
Chợt nhớ ngày ra cửa Vũng Tàu
Một cánh chim chiều theo đưa tiễn
Vô tình ... cũng thấy xót xa đau
Đừng theo, chim nhỏ, đừng theo nữa
Rồi sẽ như ta lạc lối về
Ta như ngựa bỏ đời hoang dã
Quay nhìn mờ mịt dấu sơn khê
Từ nay cánh hạct vàng xa khuất
Chân trời kỷ niệm trắng mênh mông
Xung quanh chỉ một màu mây nước
Cách một trùng dương, vạn nỗi lòng
Bỗng dưng ta mộng làm mây trắng
Rót xuống quê hương những giọt sầu
Đêm nay mẹ có ngồi than khóc
Nước mắt xin làm mây trắng bay
Đêm ngồi nghe tiếng chim trên biển
Như tiếng thu xưa thổi lá vàng
Lòng ta mấy độ vàng như lá
Từ buổi xa người trên bến sông
Ở đây ta sống đời khinh bạc
Sớm tối đi về một cõi riêng
Cả một sơn hà ta nỡ bỏ
Sá gì chỉ một trái tim em ...
THÍCH QUẢNG ĐỘ * THƠ VONG QUỐC & LAO TÙ
ÁC MỘNG
Vào một đêm
trời không trăng sao
Bóng tối ngập tràn
Tôi bắt đầu cuộc hành trình từ đó
luân hồi mấy độ
lang thang khắp nẻo mịt mù
lần mò quờ quạng trong kiếp sống phù du
Không gian tôi thở toàn mùi tử khí
Chặng đường tôi đi xương trắng ngổn ngang
những vũng máu từ nghìn xưa còn đọng lại
bên những thành quách hoang tàn
chắc hẳn nơi đây là chiến địa
Nơi đây là trần gian
Rồi băng qua một miền đất lạnh
bát ngát mênh mông
gió thổi vù vù
Tôi thấy những nấm mồ nằm la liệt
giữa những đám cỏ úa vàng
đìu hiu quạnh quẽ
Và qua đốm lửa lập lòe
trên những tấm bia tôi nhìn rõ
từ các đế vương đến những người cùng khổ
tất cả chỉ còn lại nắm xương tàn
chắc hẳn nơi đây là nghĩa địa
Nơi đây là trần gian
Tiếp tục cuộc hành trình
tôi đi sâu vào một vùng u tịch
tường cao cửa kín
bóng tối dày đặc đượm mùi hôi tanh
Những dãy nhà màu xám chìm trong im lặng
và dưới ánh đèn ma trơi
tôi nhìn ra những cảnh tượng hãi hùng
tôi thấy những người mà không ra người
nhưng giống đười ươi
nằm trong gông cùm xiềng xích cũi sắt kẹp kìm
Trên tường
tôi thấy những vết máu đào loang lổ
trông như những con vật không đầu
hay những hình thù ma quái
mặt ngựa đầu trâu
phồng mang trợn mắt
Như muốn ăn tươi nuốt sống khách bàng quan
và từ đâu đây vọng lại
Tiếng kêu cứu thất thanh
tiếng rên la quằn quại
và những tiếng kêu “oan”
chắc hẳn nơi đây là địa ngục
Nơi đây là trần gian
Tôi bàng hoàng sực tỉnh
cơn ác mộng vừa tàn
nhìn ra ngoài
Đầy trời trăng sao
và vui mừng
Tôi reo lên
Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!
Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!
Vào một đêm
trời không trăng sao
Bóng tối ngập tràn
Tôi bắt đầu cuộc hành trình từ đó
luân hồi mấy độ
lang thang khắp nẻo mịt mù
lần mò quờ quạng trong kiếp sống phù du
Không gian tôi thở toàn mùi tử khí
Chặng đường tôi đi xương trắng ngổn ngang
những vũng máu từ nghìn xưa còn đọng lại
bên những thành quách hoang tàn
chắc hẳn nơi đây là chiến địa
Nơi đây là trần gian
Rồi băng qua một miền đất lạnh
bát ngát mênh mông
gió thổi vù vù
Tôi thấy những nấm mồ nằm la liệt
giữa những đám cỏ úa vàng
đìu hiu quạnh quẽ
Và qua đốm lửa lập lòe
trên những tấm bia tôi nhìn rõ
từ các đế vương đến những người cùng khổ
tất cả chỉ còn lại nắm xương tàn
chắc hẳn nơi đây là nghĩa địa
Nơi đây là trần gian
Tiếp tục cuộc hành trình
tôi đi sâu vào một vùng u tịch
tường cao cửa kín
bóng tối dày đặc đượm mùi hôi tanh
Những dãy nhà màu xám chìm trong im lặng
và dưới ánh đèn ma trơi
tôi nhìn ra những cảnh tượng hãi hùng
tôi thấy những người mà không ra người
nhưng giống đười ươi
nằm trong gông cùm xiềng xích cũi sắt kẹp kìm
Trên tường
tôi thấy những vết máu đào loang lổ
trông như những con vật không đầu
hay những hình thù ma quái
mặt ngựa đầu trâu
phồng mang trợn mắt
Như muốn ăn tươi nuốt sống khách bàng quan
và từ đâu đây vọng lại
Tiếng kêu cứu thất thanh
tiếng rên la quằn quại
và những tiếng kêu “oan”
chắc hẳn nơi đây là địa ngục
Nơi đây là trần gian
Tôi bàng hoàng sực tỉnh
cơn ác mộng vừa tàn
nhìn ra ngoài
Đầy trời trăng sao
và vui mừng
Tôi reo lên
Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!
Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!
MƠ ƯỚC NGÀY VỀ
Ngày trở về
đường tôi đi thênh thang rộng mở
ánh nắng chan hòa
mùa xuân tươi sáng
và đầy vườn hoa nở chim ca
gió thổi vi vu nghìn khúc nhạc hòa
qua những hàng cây sum suê trải dài bóng mát
thoang thoảng không gian một mùi thơm ngát
của hương trời lá thắm cỏ non
khắp nẻo đường tôi đi
những tà áo xinh tươi vờn theo ngọn gió
dưới nắng vàng
cành liễu thướt tha
tiếng cười vui vang lên từ khắp mọi nhà
hòa lẫn tiếng trẻ thơ ê a tập hát
mọi người nhìn nhau qua ánh mắt
của tình người
của trìu mến thiết tha
sau hàng phượng vĩ
dưới mái trường xưa
thầy trò hoan ca mở hội
thôi hết rồi những năm dài tăm tối
sống đọa đày tủi nhục lầm than
những năm dài áp bức bạo tàn
đã vĩnh viễn chôn vùi trong dĩ vãng
Đất nước hôm nay muôn màu rực sáng
đời tự do hoa nở thắm tươi
hạnh phúc trên môi hé mở nụ cười
như chào đón một mùa xuân bất tận
thôi hết rồi những tháng năm thù hận
tình thương yêu mở lối tương lai
người với người
tay trong tay
cùng ước mơ xây dựng ngày mai
trong thanh bình ấm no hạnh phúc
cùng điểm tô non sông gấm vóc
sáng đẹp muôn đời tổ quốc Việt Nam!
ĐÊM MƯA NGHE TRẺ KHÓC (1)
Đêm khuya rồi
trời mưa gió lạnh
bé thơ ôi
hãy ngủ ngon đi
và đừng khóc nữa
bé biết không
tôi đang âm thầm đứng bên khung cửa
lắng nghe bé khóc trong mưa
và tự hỏi lòng mình
tại sao bé khóc
Nơi đây
bé đang nằm trong nhà tù của Việt nam anh hùng
quang vinh độc lập
bé được chào đời vào những ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no
rồi mai này
bé sẽ là “cháu ngoan Bác Hồ”
Và được học những lời vàng ngọc
“không có gì quý hơn độc lập tự do”
Bé biết không
đó là niềm vinh dự rất to
mà hôm nay - vì còn thơ ngây
bé chưa hiểu nổi
niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội
khi bé lớn lên tới tuổi thành niên
cùng với hàng vạn bạn trẻ đồng trang
bé sẽ được “đảng ta” đào tạo luyện rèn
để xứng đáng là thanh niên của thế hệ “Hồ chí minh” vĩ đại
rồi noi gương bác
bé sẽ không chối từ ngần ngại
hiến cả đời mình cho sự nghiệp “giải phóng loài người”
ôi ! vinh dự làm sao
và tự hào biết mấy
một sứ mệnh cao cả thiêng liêng
Thôi nhé
bé thơ ôi
đêm đã khuya lắm rồi
và vẫn còn mưa rơi
hãy ngủ cho ngon
đừng khóc nữa
tương lai của bé “tươi đẹp sáng ngời”
Đêm khuya rồi
trời mưa gió lạnh
bé thơ ôi
hãy ngủ ngon đi
và đừng khóc nữa
bé biết không
tôi đang âm thầm đứng bên khung cửa
lắng nghe bé khóc trong mưa
và tự hỏi lòng mình
tại sao bé khóc
Nơi đây
bé đang nằm trong nhà tù của Việt nam anh hùng
quang vinh độc lập
bé được chào đời vào những ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no
rồi mai này
bé sẽ là “cháu ngoan Bác Hồ”
Và được học những lời vàng ngọc
“không có gì quý hơn độc lập tự do”
Bé biết không
đó là niềm vinh dự rất to
mà hôm nay - vì còn thơ ngây
bé chưa hiểu nổi
niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội
khi bé lớn lên tới tuổi thành niên
cùng với hàng vạn bạn trẻ đồng trang
bé sẽ được “đảng ta” đào tạo luyện rèn
để xứng đáng là thanh niên của thế hệ “Hồ chí minh” vĩ đại
rồi noi gương bác
bé sẽ không chối từ ngần ngại
hiến cả đời mình cho sự nghiệp “giải phóng loài người”
ôi ! vinh dự làm sao
và tự hào biết mấy
một sứ mệnh cao cả thiêng liêng
Thôi nhé
bé thơ ôi
đêm đã khuya lắm rồi
và vẫn còn mưa rơi
hãy ngủ cho ngon
đừng khóc nữa
tương lai của bé “tươi đẹp sáng ngời”
(1) Mẹ bé đi vượt biên bị bắt và sinh bé trong tù
Vào một buổi chiều mưa
trời nhà tù buồn thảm
như ngày ba mươi tháng tư
năm bảy mươi lăm lịch sử qua rồi
bên cửa sắt xà lim tăm tối
tôi đứng nhìn những giọt mưa rơi
từ mái nhà đổ xuống
lênh láng chan hòa
trông như những giòng nước mắt
của muôn vạn người dân vô tội
đã chảy ra
khi trải qua một cuộc đổi đời
gió rít từng cơn
mưa tuôn càng lạnh
lòng trống lạnh bồi hồi
tôi nhìn quanh tôi
bốn bức tường dày đặc
bóng tối phủ đầy
rồi đưa mắt nhìn ra chân trời
tôi tìm trong tưởng tượng
một nơi trú ẩn sáng tươi
nhưng hoàn toàn mờ mịt
cũng như xà lim tăm tối của tôi
Miền Nam ơi !
tôi thầm gọi
đây là miền Nam trong căn phòng giam chật hẹp âm u
ngoài kia là miền Nam trong nhà tù rộng lớn
còn có nơi nào yên ổn
xin chỉ cho tôi ẩn trốn
hỡi miền Nam thương mến của tôi ơi !
Đêm xuống rồi và mưa đã ngừng rơi
sau hồi kiểng hiệu vang lên
toàn khu nhà chìm vào im lặng
im lặng như một nấm mồ hoang vắng
giữa miền cát trắng bao la
và nằm trong căn nhà mồ
tôi không thấy gì nữa cả
trừ những bóng ma
(vai mang khẩu súng AK)
Thỉnh thoảng chập chờn qua gang cửa gió (1)
Đêm khuya đã đưa tôi vào giấc ngủ
thời gian lặng lẽ
trôi theo định luật vô thường
và mơ màng
tôi nghe đâu đây tiếng chim hót véo von
tôi choàng dậy
ô kìa !
thì ra trời đã sáng
từ phương đông
vừng thái dương hiện lên chói rạng
mở đầu một ngày rực rỡ ánh hào quang
(1) trên tấm cửa sắt của xà lim, người ta để một cái lỗ nhỏ vừa bằng bàn tay để đưa thức ăn qua, gọi là cửa gió
TRẦN HOÀI THƯ * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
Thơ về Huế
Trần Hoài Thư
Phải viết gì trên gói pall mall
trên đôi giày há mồm sờn đít
phải viết gì trên báng súng M.16
trên chiếc võng nylong làm khăn choàng cổ
phải viết gì cho lũ học trò
thầy kiếm miếng cơm nhà giàu nhà rộng
thầy khóc từng đêm mỏi mòn tương lai
dạy các em một bài chính tả
như giọng khô khan trên chiếc bảng đen
thầy tính tiền lời tiền lỗ
như buổi tối đạp xe qua cầu
gió lùa áo tơi thầy về thở dốc
phải viết gì cho một gia đình
cha làm đơn gửi bà dân biểu
xin phụ cấp từng miếng cơm
và từng bao xi măng bột mì viện trợ
cha làm đơn gửi bà dân biểu
xin cho con được ở gần gia đình
(thằng con hai lần bị thương cận thị rất
nặng)
Mẹ từ lâu trốn về miền xa
không biết mẹ còn nhìn mặt thằng con út
mẹ từ lâu khóc cảnh đoạn trường
như lời ru não nùng vào mưa mùa hạ
phải viết gì cho lũ bạn bè
khi tôi về qua trường đại học
khi tôi buồn lầm lũi trong mưa
mà ký ức nhòe đi hàng băng biểu ngữ
làm sao tôi gọi trong mưa
lời gọi to khi tôi về thăm Huế
buổi chiều đi giữa công viên
hàng cây dừa khô đen sùi rủ xuống
tôi lại thèm cúi xuống đất nhìn
những nấm mồ vô danh hiền hậu
làm sao tôi đi qua một quán cà phê
không khỏi thèm thuồng mùi vị
không khỏi buồn rầu dừng lại rất lâu
kêu tên từng người thân sơ năm cũ
tôi phải nói gì đây
một điều làm con tim giận dữ
như mỗi lần uống thêm một tí cà phê
thấy anh em mỗi người xa cách
trong mưa tháng mười cố đô lụt lội
tôi ngửa mặt tìm áng mây xanh
và dịu dàng tắm mùa ngâu rụng
phải nói gì đây
lũ bạn bè càng thêm xa cách
thằng từ miền Nam về đây trốn lính
thằng từ miền Bắc vào lại cụt chân
Thằng để râu uống hớp whisky
Mặt nóng bừng làm thơ vô sản
Phải viết gì trên gói pall mall
Tôi tự nhiên nhổ bãi nước miếng
Trên trời mây vẫn màu tang
Tôi đợi ngày trở về thật là yên ổn.
Trích từ : Tạp chí VĂN HỌC
SỐ 94 – NĂM THỨ BẨY - Ngày 1 tháng 10 năm 1969
Vào Giêng
Tôi ở bên ni trời viễn biệt
Em xa. Xa ngái tận phương trời
Ở đây tuyết trắng giăng mờ ngõ
Tháng giêng em và tôi hai nơi
Nơi quê nhà trời đã vào xuân
Em nơi nào, Sài Gòn, Qui Nhơn?
Tôi qua Nữu Ước trời không độ
Khuấy cốc cà phê đặc nỗi buồn
Em nơi nào, nắng có vàng không?
Cho tôi về thăm lại Ban Đông
Những đồi hoa tím, đồi sim tím
Tím theo từng cây số nhớ nhung
Em nơi nào, chim én về không?
Trời quê hương lúa trổ đòng đòng
Cho tôi nhớ lại mùa xuân cũ
Em đã theo đời tôi ruổi rong
Em nơi nào, hương sứ còn vương?
Tôi có người yêu đẹp lạ thường
Đêm tối miền cao trời thấp lại
Muôn sao trời cũng chụm yêu thương
Em nơi nào, rừng có lao xao?
Trời mù sương, bóng em gầy hao
Tôi đi để lại người em nhỏ
Giữa rừng hoa quì vàng chiêm bao
Xin em hãy lại căn nhà cũ
Giúp mẹ tôi lau màng nhện giăng
Cố thử xem giùm trong một xó
Đôi giày há mõm thuở thanh xuân
Xem thử trong giày còn hạt cát
Của những ngày tôi lội thăm em
Xem thử đế giày còn bẹt gót
Của những ngày gian khổ lênh đênh
Em nơi nào, ở nơi nào nhỉ
Trời đã giêng rồi, em biết không
Tôi qua Nữu Ước ngày không độ
Gọi cốc cà phê, lạnh nỗi lòng
Lạnh thêm nỗi nhớ trùng trùng
Tìm đâu hương cũ giữa dòng viễn khơi
Một nửa vầng ngọc lan
Em xa nhà. Tôi xa quê
Em bỏ đi, tôi cũng đi, chẳng về
Kể từ sông núi từ ly
Đá ê ẩm đá, người ê ẩm người
Em đi, thị trấn ngậm ngùi
Có con phố cũ nhớ người đèn chong
Em đi, buồn lại dòng sông
Bên này, buồn lại nửa vầng ngọc lan
May còn một nửa vầng trăng
Dỗ tôi soi bóng dặm ngàn ly hương
Tình si
Cuối cùng anh cũng phải từ giã em
Uớc gì con đường qua nhà em là con đường vòng
Để anh được nhìn em một lần nữa
Tại sao em lại mời anh ly cà phê quá đen
Để anh phải nhớ em những đêm không ngủ ?
Cuối năm bên dòng Hudson
Trở lại dòng sông này mấy bận
Bên kia thành phố đã lên đèn
Cơn mưa nhoà nhạt hoàng hôn lạnh
Chiều cuối năm trời mau tối thêm
Mưa phủ trường giang không thấy bến
Nơi này, nơi ấy như hôm qua
Con sông vẫn một vùng sương khói
Vẫn buồn theo lau lách bờ xa
Sông vẫn hắt hiu con phà đậu
Vẫn bầy chim biển tiễn chiều đi
Sao sông không thấy con đò cũ
Chở người về bên nớ bên ni
Sông vẫn mênh mông và mênh mông
Đây là đâu hay dòng sông Hương
Thèm ơi, một chuyến phà năm cũ
Một chuyến phà chở hết quê hương
Thèm ơi một chuyến phà Thừa Phủ
Chở những người áo trắng qua sông
Có bao cô gái qua Đồng khánh
Để tôi còn đốt thuốc chờ mong
Thèm ơi bếp lửa đêm trừ tịch
Chiều cuối năm rồi, anh nhớ em
Nhà em bên ấy giòng sông nhỏ
Bông cải mùa xuân vàng rộ sân
ừ nhỉ, cuối năm nơi đất lạ
Mưa mênh mông và sông mênh mông
ừ nhỉ, hình như lòng rướm lạnh
Tiếng còi phà u uẩn hoàng hôn
Tiếng còi phà đã dục từ lâu
Phà ơi, phà ơi cho ta một góc
Ta sẽ đứng yên như người Từ Thức
Và cô đơn như cùng tận cô đơn
Như một người không có quê hương
TRẦN HOÀI THƯ
Trở lại dòng sông này mấy bận
Bên kia thành phố đã lên đèn
Cơn mưa nhoà nhạt hoàng hôn lạnh
Chiều cuối năm trời mau tối thêm
Mưa phủ trường giang không thấy bến
Nơi này, nơi ấy như hôm qua
Con sông vẫn một vùng sương khói
Vẫn buồn theo lau lách bờ xa
Sông vẫn hắt hiu con phà đậu
Vẫn bầy chim biển tiễn chiều đi
Sao sông không thấy con đò cũ
Chở người về bên nớ bên ni
Sông vẫn mênh mông và mênh mông
Đây là đâu hay dòng sông Hương
Thèm ơi, một chuyến phà năm cũ
Một chuyến phà chở hết quê hương
Thèm ơi một chuyến phà Thừa Phủ
Chở những người áo trắng qua sông
Có bao cô gái qua Đồng khánh
Để tôi còn đốt thuốc chờ mong
Thèm ơi bếp lửa đêm trừ tịch
Chiều cuối năm rồi, anh nhớ em
Nhà em bên ấy giòng sông nhỏ
Bông cải mùa xuân vàng rộ sân
ừ nhỉ, cuối năm nơi đất lạ
Mưa mênh mông và sông mênh mông
ừ nhỉ, hình như lòng rướm lạnh
Tiếng còi phà u uẩn hoàng hôn
Tiếng còi phà đã dục từ lâu
Phà ơi, phà ơi cho ta một góc
Ta sẽ đứng yên như người Từ Thức
Và cô đơn như cùng tận cô đơn
Như một người không có quê hương
TRẦN HOÀI THƯ
Ta Lính Miền Nam
Ta trở về, giáp mặt chiến tranh
Ðồi cháy lửa mặt trời nhuộm đỏ
Thau rượu đế mừng ta thằng lính sữa
Dzô ông thầy ! hữu sự có thằng em
Ðồi cháy lửa mặt trời nhuộm đỏ
Thau rượu đế mừng ta thằng lính sữa
Dzô ông thầy ! hữu sự có thằng em
Trung đội ta về, hai mươi mấy thằng con
Thằng trai miền Nam hề , sinh thời ly loạn
Ðứa gốc Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng
Ðứa độc thân, đứa con vợ đề đùm
Ðứa gốc nhảy dù , đứa gốc đào binh
Ðứa ăn chay trường , đứa thèm thịt chó
Thằng trai miền Nam hề , sinh thời ly loạn
Ðứa gốc Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng
Ðứa độc thân, đứa con vợ đề đùm
Ðứa gốc nhảy dù , đứa gốc đào binh
Ðứa ăn chay trường , đứa thèm thịt chó
Ta ra trường núi sông nghiêng ngửa
Tập chửi thề, gái , rượu, xung phong
Hàng trang ta là lựu đạn dao găm
Thêm tuổi trẻ ta già như quả đất
Thêm một trái tim ngự đầy Chúa Phật
Thêm một cõi lòng tràn ngập quê hương
Tập chửi thề, gái , rượu, xung phong
Hàng trang ta là lựu đạn dao găm
Thêm tuổi trẻ ta già như quả đất
Thêm một trái tim ngự đầy Chúa Phật
Thêm một cõi lòng tràn ngập quê hương
Khi đánh nhau, thắng bại lẽ thường
Chỉ mong đàn con bình an vô sự
Chỉ mong trở về gặp nhau đụng rượu
Lỡ chết rồi hồn cũng thoát thành men
Chỉ mong đàn con bình an vô sự
Chỉ mong trở về gặp nhau đụng rượu
Lỡ chết rồi hồn cũng thoát thành men
Ta cần gì giáp sắt che thân
Gánh gì đồ chiến tranh cho nặng
Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩ~ng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm
Gánh gì đồ chiến tranh cho nặng
Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩ~ng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm
Mấy năm trời giày da vẹt gót
Ngày lãnh lương về chợ dưỡng quân
Cám ơn những nàng má phấn môi son
Yêu ta vội vàng trước khi tiếp Mỹ
Con gái tiểu thư mơ toàn hoàng tử
Còn ai chia giùm ta con rận hành quân ?
Ngày lãnh lương về chợ dưỡng quân
Cám ơn những nàng má phấn môi son
Yêu ta vội vàng trước khi tiếp Mỹ
Con gái tiểu thư mơ toàn hoàng tử
Còn ai chia giùm ta con rận hành quân ?
Ta lính miền Nam hề, gốc nho phong
Không chiến tranh cũng thành đốc tờ,đốc tiếc
Thời thế đẩy đưa ta làm lính chiến
Mang nỗi buồn như rừng lá khai quang
Ta đứng giữa trời bốn phía rưng rưng
Không chiến tranh cũng thành đốc tờ,đốc tiếc
Thời thế đẩy đưa ta làm lính chiến
Mang nỗi buồn như rừng lá khai quang
Ta đứng giữa trời bốn phía rưng rưng
Em mười lăm đi làm đĩ Mỹ
Thằng nhỏ mười ba học đòi sát ngụy
Ma quỉ phương ngoài học xẻ Trường Sơn
Ðất nước ta , cường quốc bán buôn
Hậu phương ăn chơi biểu tình đảo chánh
Lúc đồng đội ta sống lên chết xuống
Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm
Lãnh chúa ta thì ăn trước ngồi trên
Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm ...
Thằng nhỏ mười ba học đòi sát ngụy
Ma quỉ phương ngoài học xẻ Trường Sơn
Ðất nước ta , cường quốc bán buôn
Hậu phương ăn chơi biểu tình đảo chánh
Lúc đồng đội ta sống lên chết xuống
Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm
Lãnh chúa ta thì ăn trước ngồi trên
Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm ...
Khóa của ta
Trên mấy trăm thằng tình nguyện
Ði nhảy dù, thủy bộ, thám báo " ác ôn "
Ðứng đợi cả ngày để bốc lá thăm
Toàn thứ dữ mà vui như chợ tết
Có đứa mang bằng kỹ sư về nước
Chọn cọp ba đầu rằn làm lính tiền phong
Ta lính miền Nam hề,vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?
Trên mấy trăm thằng tình nguyện
Ði nhảy dù, thủy bộ, thám báo " ác ôn "
Ðứng đợi cả ngày để bốc lá thăm
Toàn thứ dữ mà vui như chợ tết
Có đứa mang bằng kỹ sư về nước
Chọn cọp ba đầu rằn làm lính tiền phong
Ta lính miền Nam hề,vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?
Trần Hoài Thư
Saturday, April 20, 2013
CAO TẦN * TRANG THƠ VONG QUỐC LY HƯƠNG
Kẻ trở về
Thằng bạn đòi về trên tàu Thương Tín
Hoan hô Đảng và tranh đấu rất chì
Giờ được tin vùi thây Yên Bái
Thôi, còn chê trách nó mà chi.
Nó tưởng được về hôn con, ôm vợ
Bước rưng rưng trong những phố phường xưa
Ôm vợ, hôn con, ngắm trời đất cũ
Chỉ một lần thôi rồi tịch cũng vừa
Nhớ nó xưa chọc trời, xô núi
Thân nam nhi ngang dọc cõi bờ
Bỗng di tản ra thân lúi xúi
Trong trại xếp hàng chầu cơm như mơ
Trong trại sáng giật mình, hoảng hốt
Đêm bụng đầy nhóc rượu tìm quên
Gọi vợ trong mơ, nhắc con lúc thức
Nằm thì trằn trọc, đứng thì điên
Nó quyết đòi về trên tàu Thương Tín
Anh em xúm xít, khản cổ can hoài
Thằng bạn cười buồn, tác phong lính chiến:
“Thôi coi đời tao là con củ... khoai.”
Thấy nó lên tàu biết xong một kiếp
Nhưng hy vọng hão cứ nguyện như thường
Cầu nó bình an thấy con, thấy vợ.
“Yếu như thằng này chắc đất trời thương.”
Nó bước xuống tàu giữa rừng cán bộ
Về quê hương mà như lạc tinh cầu
Rồi trôi giạt trên nghìn dặm khổ
Rồi âm thầm đổ giữa rừng sâu.
Mày có linh thiêng qua đây tao cúng
Một chầu phim X một quả tắm hơi
Thiên đường mày hụt thì tao đang sống
Cũng ngất ngư đời như con củ khoai!
Tháng 2-77
Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
Gánh sơn hà toan chất thử lên vai
Chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai
Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận
Xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng
Hào khí bốc đủ mười thành chất ngất
Chuyện vá trời coi đã nhẹ như không
Một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn
Nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn
Nay đất khách kéo lê đời rất nản
Ta tính sẽ về vượt suối trèo non...
Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
Và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy
Và cờ bay trên đất nước xinh tươi
Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
Thần tự do giờ đứng ở nơi nào?
Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao...
Thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh
Ta tiếc gì năm chục ký xương da
Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển
Những oan hồn ai bỏ giữa bao la...
Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
Thấy chiến trường la liệt xác anh em
Năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
Đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng uất hận gối lên nhau
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Tháng 3-77
Trên non cao
Ta biết nhà ông rầu thấy mồ
Thôi cuối tuần này theo ta lên núi
Lên thật cao nhìn xuống đời lô nhô
Rũ bớt bụi trần, quên thân múa rối
Hơn mười năm nhà ông bay trên cao
Mặt đất nâu xanh nằm ngoan dưới gót
Nhân loại tí teo xinh đẹp chừng nào
Nhân loại hiền từ như những con sâu
Những đêm đen tàu trôi qua thành phố
Cả đất trời nở triệu ánh sao xinh
Mặc những đấu tranh lọc lừa dưới đó
Nhìn từ cao nhân thế thật thanh bình
Đời khốn kiếp quăng tòm ông xuống đất
Bôi mặt nhà ông giống một tên hề
Tên hề giễu trong kịch đời luân lạc
Kịch như đời: nhạt nhẽo, lê thê.
Trên núi cao ta biết rành một chỗ
Có hòn đá xanh có gốc thông già
Ngồi trên đá ông sẽ thành Trang Tử
Hồn nhẹ tênh theo bướm lượn chiều tà
Hãy tựa gốc thông mà nhìn xuống thế
Tưởng hôm nào ngất ngưởng chín tầng mây
Còn thương mãi một nhân gian nhỏ bé
Có thể ôm tròn trong đôi cánh tay
Nhà ông khổ hơn người vì đôi cánh
Những thinh không bát ngát, những trời xa
Này cánh đại bàng nhớ chân trời thẳm
Thôi cuối tuần này lên núi cùng ta.
Tháng 11-77
Mai mốt anh trở về
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mày hay ông thượng đẳng cu li
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan
Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to
Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ
Ông học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm
Bài học lớn từ khi đến Mỹ
Là ngày đêm thương nước mênh mang
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng
Tháng 3-77
Biển chiều
Chiều nay ra biển ngồi ngơ ngẩn
Nhúng hai giò trong nước Thái bình Dương
Để hơi ta giạt về bờ Ô Cấp
Chạm thân ái vào lưng đất mẹ tang thương
Có bạn nào đang rắp tâm vượt thoát
Nhớ rằng ta luôn cầu nguyện cho người
Láng đời chót đã tan trên chiếu bạc
Thì xá gì thêm một chuyến ra khơi
Thở thật dài vào thinh không bát ngát
Theo gió về động lá cánh rừng xa
Này thằng lì còn chơi miền gió cát
Trong kiêu dũng mày cho gửi chút hồn ta
Có thằng bạn nào tàn đời học tập
Cõng gông xiềng lê lết một thân đau
Này biển chiều sóng xô ào lớp lớp
Những tiếng đời tan nát khóc thương nhau.
Tháng 6–77
Chú nào nghe mái tôn mưa
Chú nào đi đường ta bình minh này
Có nhớ chào dân xóm ta dậy sớm
Có nghe thơm mùi bụi mới đầu ngày
Cùng lá hoa tươi mừng nắng lớn.
Chú nào trưa nay ngồi trên đồi ta
Thở gió thông khô quen từ kiếp trước
Đếm nắng hoa sao nở đầy trên hồ
Trưa thật tuyệt vời, đẹp hơn mơ ước
Chú nào ngồi hiên nhà ta chiều nay
Nghe mưa Sài gòn rạt rào thơm mát
Sau một ngày nắng loá chín tầng mây
Những mái tôn mưa cười ran hạnh phúc
Chú có biết yêu thương vài nụ hồng
Đã thắm tươi trên giàn che cổng gỗ
Những giọt trong veo từ cõi vô cùng
Vỗ rộn ràng vui trên từng lá nhỏ
Chú nào đêm nay kê đầu gối đó
Thở hương nồng hạnh phúc đẫm không gian
Có biết nói nghìn năm sau vẫn nhớ
Vẫn hai vai êm ấm mãi ơn nàng?
Tháng 12-77
Thư quê hương
Thư quê hương như tên hề ốm nặng
Hồn tang thương sau mặt nạ tươi cười
Son phấn hân hoan phủ nghìn cay đắng
Mắt lệ đầy, miệng hát những lời vui...
Ta biết thư em vượt muôn cửa ải
Mắt sài lang soi nát cả linh hồn
Em chẳng được khóc cùng ta bằng chữ
Thì gửi chi dăm khẩu hiệu buồn nôn!
Gửi cho anh vài sợi tóc mẹ già
Rụng âm thầm trên hiên chiều hiu quạnh
(Nuôi một bầy con cuối đời vẫn lạnh)
Cho anh hôn ơn nặng một thời xa...
Anh muốn thở mùi nhọc nhằn nô lệ
Gửi cho anh manh áo rách con thơ
Con chào đời: ta rừng sâu lính trẻ
Ta non cao, con tập nói u ơ...
Giờ bước đầu đời chân non vấp ngã
Muốn nâng con… nào biết có bao giờ.
Gửi cho anh viên sỏi nhỏ bên đường
Anh sẽ đọc ra trăm nghìn lối cũ
Gửi cho anh vài nhánh cỏ quê hương
Anh sẽ đọc đất trời ta đã thở...
Và gửi cho anh một tờ giấy trắng
Thấm nước trời quê qua mái dột đêm mưa
Để anh đọc: Mênh mông đời lạnh vắng
Em tiếc thương hoài ấm áp gối chăn xưa...
Tháng 4–77
Chốn tạm dung
Nhà tôi ở toòng teng đỉnh đồi
Buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc
Sau lưng sương ngập cao lưng trời
Trước mặt thông sầu reo đáy vực
Bắt đầu ngày bằng một chút vui
Hát nghêu ngao trong lòng xe rỗng tuếch
Bài ca quen bỗng chợt quên lời
Chút kỷ niệm còm lại mất khơi khơi
Tiếng Việt trong ta ngày mỗi héo
Hồn Việt trong ta ngày mỗi khô
Dốc mở như đời ta trước mặt
Sương kín như đời ta hôm xưa
Giang hồ một túi bài ca cũ
Hát nhảm cho qua nốt tuổi già
Qua những bình minh còn ngái ngủ
Còn như chưa lạc mất quê ta
Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Trên đường chênh chếch nắng mênh mang
Trôi xuôi một mảnh hồn lưu lạc
Đã chán nhân gian ở cuối đường
Chiều về lên dốc thân tơi tả
Một quả hoàng hôn đỏ kín trời
Mình mới ngoi lên ngày đã ngả
Đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi
Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn
Còng lưng gánh nốt đời lưu lạc
Nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non
Tháng 5-77
Kho tàng
Chàng Cù Lần có cái túi nhỏ
Suốt bốn mùa giấu giếm như điên
Anh em sùng, nghĩ thằng này chơi khó
Thủ cẳng tí tiền, len lén tiêu riêng
Hết chuyện chơi, một chiều đông lạnh cóng
Đè thằng em ra cướp túi coi chơi
Gác trọ rung rinh như thuyền biển động
Thằng em kêu như sắp sửa xong đời
Miệng túi mở kho tàng rơi tung tóe
Một lạng vàng trong giấy gói đơn sơ
Một đứa hét: “Vàng này thằng em bé
Không mại đi, mày tính để đem thờ?”
“Sư chúng mày, vàng đem theo bốn cục
Ông bán ba, bắt gọn mấy trăm đô
Còn cục này tàn đời ông cóc bán
Lúc lên đường bà cụ dúi tay cho”
Một chiếc khăn tay cũ xì, cũ xịt
Màu nâu già thêu mấy chữ xanh xanh
“Giẻ rách gì đây hở thằng chết tiệt?”
“Khăn vợ trao ngày khoác áo nhà binh”
Đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ
Những tên người tên tỉnh đã xa xưa
Những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ
Những đường quen không trở lại bao giờ
Trả túi thằng em, cả bầy bỗng xệ
Cù Lần xấu hổ chửi như ca
Cái túi nhỏ tưởng đầy lòng ti tiện
Hoá đem theo muôn vạn mảnh quê nhà
Cù lần dọa đêm nay đâm chết hết
Ôi, ví dầu chú mở được tim anh
Chú cũng thấy một kho tàng thắm thiết
Với khăn tay nhàu nát chữ thêu xanh
Với danh thiếp những tên đường đã đổi
Những số nhà chớp mắt bỗng tang thương
Những chốn hẹn nghìn năm không trở lại
Những tên đời tơi tả khắp quê hương
Tháng 10-77
Đóng tàu
Vách tàu dựng vút lên như núi
Một bãi mênh mông sắt thép trùng trùng
Hải âu lượn vòng, biển xanh phơi phới
Hồn dậy vu vơ một chút hào hùng
Tay búa tay kìm thấy đời chắc nịch
Sắt nâng hàng tấn linh hồn nhẹ tênh
Mặt mũi lấm lem che đời bí mật
Thần trí lang thang cuối bãi đầu ghềnh
Buổi trưa nghỉ nằm chơi trong thùng sắt
Ngửa cổ coi trời thấy đúng một khung vuông
A, khi không ta biến thành con ếch
Đáy giếng sâu mơ mộng rất khiêm nhường
Con ếch không tin đất trời nhỏ bé
Biết ngoài kia còn một cõi bao la
Lẩn thẩn nghĩ về chuyện đời dâu bể
Hay vơ vẩn chờ chút mây bay qua
Nhớ thơ Trường Anh thủa nào khoái đọc
(Ông Trường Anh có lạc đến phương này?)
“Tiền thân ta phải chăng là con cóc
Thơ nghiến răng trời chuyển bốn phương mây.”
Một năm nữa con tàu sẽ xuống nước
Tháng ngày nào mới đi qua Biển Đông?
Biển Đông giờ này bao thuyền hấp hối
Ôi con tàu đến trễ cả nghìn năm
Lòng bắt đầu mơ những điều huyền hoặc
Mơ con tàu cảm được những thương tâm
Nghe được tiếng đàn bà con trẻ khóc
Và xót xa như có một linh hồn
Tháng 11-82
Cảm khái
Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ
Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu
Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ
Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?
Trong ví ta này một thẻ căn cước
Hình chụp ngây ngô rất mực cù lần
Da xám ngoét như bị đời nhúng nước
Má hóp vào như cả tháng không ăn
Mười tám tuổi thành công dân nước Việt
Tên chụp hình làm ta xấu như ma
Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết
Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà!
Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai...
Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu
Tên chụp hình như một lão tiên tri
Triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác
Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly
Nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ
Chợt nhớ câu thơ: “Gẫy cánh Đại Bàng...”
Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ
Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang
Quanh mình xôn xao chuyện thay Quốc tịch
Ngậm ngùi bày dăm giấy cũ coi chơi
Thời cũ ố vàng, rách rời mấy mảnh
Xót xa đau như mình bỗng qua đời.
Hỡi kẻ trong hình mặt xanh, mày xám
Ngươi sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư
Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm
Mày lang thang đất lạ đến bao giờ
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ
Ôi trong trí những anh hùng thuở trước
Còn dậy trời lên những buổi tung cờ
Tháng 6–77
Hát ngao trên tuyết
Khoác áo lông xù giả làm tráng sĩ
Lên dòng sông đá bước nghênh ngang
Cây gậy trúc trông sặc mùi vũ khí
Múa tưng bừng vào thinh không giá băng
Khoái thay đời ta một đời quái đản
Hai mươi năm xưa làm thằng nhỏ di cư
Hai mươi năm sau thành nhà thơ di tản
Một đời quê hương khét mùi súng đạn
Một đời xót xa bằng hữu lao tù
Khoái thay chân ta những chân phiêu bạt
Đi dọc quê hương, đi vòng địa cầu
Đi thênh thang thở đồi cao gió mát
Đi ngất ngây thương lúa vàng, hương cau
Đi hội trùng phùng, đi chia tan tác
Đi tràn hạnh phúc, đi ngập thương đau
Đi sỏi đá mềm, bếp hồng trước mặt
Đi bùng bão biển, quê hương phía sau
Những bước thú hoang lạc rừng đất lạ
Những bước ngậm ngùi đi chẳng về đâu
Sông không đầu đuôi sông màu đá cục
Dưới trên lẫn lộn, trời đất mang mang
Ta ngửa cổ làm thằng khùng Bắc Cực
Một mình cười cùng thinh không giá băng
Khoái thay hồn ta một hồn dị thường
Khi bốc lên: núi lưng trời cũng thấp
Khi bi ai: thân cỏ mọn bên đường
Sông dài! Sông dài! Ta đi chẳng hết
Thân trượng phu, hừ, mục trong áo cơm?
Núi cao! Núi cao! Ta về không đến
Chí trượng phu, hừ, chôn trong giá băng?
Tháng 2-78
DI TẢN
RFA * 30-4-75
Hồi ức tuần lễ cuối cùng ở Sài Gòn, 30/4/1975 kết thúc chiến tranh VN
Download phần âm thanh này
Tháng 3/75 sau khi ra lệnh rút quân khỏi Pleiku Kontum, một quyết định dẫn tới sự sụp đổ hỗn loạn ở vùng cao nguyên trung phần và các tỉnh phía bắc VNCH, chạy dài từ Huế vào tới Phan Rang.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
Ngày 21/4/1975 TT Nguyễn Văn Thiệu chịu áp lực từ nhiều phía và quyết định từ chức.Ông nói: “Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo hiến pháp phó tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức tổng thống.”
Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo hiến pháp phó tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức tổng thống.
Khi nhà giáo Trần Văn Hương lên nắm giềng mối quốc gia, thì lúc đó 6 sư đoàn quân cộng sản Bắc Việt đang khép chặt vòng vây thủ đô Saigon, nơi có 3 triệu ngừơi sinh sống.
Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng.Nhận nhiệm vụ được 5 ngày, tới ngày 26/4 Ông Trần Văn Hương yêu cầu quốc hội tìm người thay thế mình, một người mà theo ông có đủ khả năng tìm giải pháp vãn hồi hoà bình hoà giải dân tộc.
Tổng thống Trần Văn Hương
Quốc hội ra nghị quyết chỉ định đại tướng Dương Văn Minh vào chức vụ tổng thống.
Chiều ngày 28/4/1975 Lễ Bàn Giao giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương Văn Minh được tổ chức tại Dinh Độc Lập.
Lời tổng thống Hương liên tục với tường thuật của phóng viên: “ …Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng….(vỗ tay)….(tường thuật)
Sau khi nguyên tổng thống Trần Văn Hương đọc xong bài diễn văn trao nhiệm, chúng tôi nhận thấy một sĩ quan đã gỡ huy hiệu tổng thống hai con rồng bay xuống…và thay thế bằng một huy hiệu tổng thống mới…với hình một hoa mai năm cánh…
Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh VN, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu đại tướng Dương Văn Minh…
…Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng…. Thưa quí thính vào lúc này bên ngoài dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước… ”
Những lời quí thính giả vừa nghe là của phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến thuộc Hệ Thống Truyền Thanh VN. Như một sự tình cờ, phóng viên này đang làm việc cho Đài Á Châu Tự Do. Anh chính là Nam Nguyên của Ban Việt Ngữ.
Nam Nguyên: “Vâng ngày ấy tôi còn trẻ lắm 29 tuổi, bây giờ nghe lại hết sức xúc động. Không ngờ còn có người giữ được những đoạn băng đáng lẽ đã đi vào quên lãng.”
Thưa quí thính giả cho đến 30 năm sau, vẫn chưa có lời giải đáp là tại sao Nam Việt Nam lại tan rã nhanh chóng như vậy. Tuy nhiên theo nhiều nhà phân tích thời cuộc, thì kể từ lúc tổng thống Thiệu từ chức ngày 21/4 và vội vã ra đi 2 ngày sau đó, sự kiện chế độ VNCH cáo chung chỉ còn là vấn đề thủ tục.
Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng
Đại Tướng Dương Văn Minh được xem là người thích hợp nhất để nhận trách nhiệm ra lệnh đầu hàng. Mời quí vị nghe lại tuyên bố của tổng thống Dương Văn Minh được phát đi trên Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia vào lúc 10 giờ sáng ngày 30/4/1975:“Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó."
Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây chờ gặp chính phủ CMLTCHMNVN để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự…tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào…”
Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng...Sau khi Đài Phát Thanh Saigon lập lại nhiều lần lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh, cũng như nhật lệnh tương tự của thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được bổ nhiệm làm phụ tá cho tổng tham mưu trưởng sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Quân đội đã thi hành lệnh giao nạp vũ khí cho những người chủ mới của đất nước.
Tổng thống Dương Văn Minh
Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh độc lập
Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó.Xe Tăng Cộng Sản Bắc Việt tiến vào khuôn viên Dinh Độc Lập lúc 10g45 phút sáng ngày 30/4, đánh dấu sự cáo chung của chế độ VNCH. Một chế độ được xây dựng bởi những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Chế độ ấy trải qua hai nền cộng hoà tồn tại được 21 năm.
Cuộc chiến quốc cộng huynh đệ tương tàn làm thiệt mạng hơn hai triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc. Phía đồng minh của VNCH, 58 ngàn quân nhân Mỹ tử trận cùng hàng ngàn binh sĩ của các nước Nam Hàn, Thái Lan, Úc và Tân Tây Lan.
Thưa quí thính giả, cũng là một tình cờ lịch sử, khi cờ Mặt Trận Giải Phóng đã tung bay trên Dinh Độc Lập, thì các đại diện chính trị của bên cộng sản chưa vào Saigon để tiếp nhận chính quyền.
Do vậy Đại tá Bùi Tín, một nhà báo quân đội BV đi theo cánh quân làm phóng sự, lúc đó đã được bộ đội uỷ quyền vào dinh gặp chính quyền Dương Văn Minh. Ông Bùi Tín hiện nay tỵ nạn chính trị ở Pháp. Từ Paris ông Bùi Tín kể lại giây phút lịch sử khi ông giáp mặt ông Dương Văn Minh:
“ Tôi là người đầu tiên tiếp xúc, ông Dương Văn Minh và tất cả đứng dậy…ông Minh nói là chúng tôi chờ quí vị tới từ sáng nay, đặng chuyển giao chính quyền… tôi có trả lời rằng là, tất cả chính quyền các ông không còn nữa qua cuộc tấn công của chúng tôi…cho nên không thể bàn giao cái gì đã không còn nữa…”
Ðại sứ Marin không muốn rời Sài Gòn
Vào những thời khắc sau cùng của chế độ VNCH, chuyện gì xảy ra ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ? Câu hỏi này đã được chúng tôi đặt ra với ông Robert Funsett, người vào thời điểm đó đang là Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ông Funsett kể lại với Ban Việt Ngữ chúng tôi như sau. (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)Ðúng giờ này, tức là vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, giờ Washington, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ Trung Tâm Ðiều Hành ở Bộ Ngoại Giao, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuối cùng với ông Ðại Sứ Graham Martin.
Ðại Sứ Martin không muốn rời Việt Nam, vì ông ta muốn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị bắt ông đại sứ phải rời nhiệm sở. Ông đại sứ Martin nói chuyện với chúng tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo là sẽ lên sân thượng của Tòa Ðại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội, và chúng tôi nói lời từ giã với nhau.
Không đầy một giờ đồng hồ sau đó, đại sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên.
Người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Quan điểm của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng nhà nước CHXHCN Việt Nam, vào thời điểm tháng Tư năm 75 là người phụ trách thành uỷ Saigon cùng với ông Mai Chí Thọ. Tháng Tư năm nay ông Võ Văn Kiệt khi trả lời báo chí nhà nước, đã nhận định về quyết định gọi là sáng suốt của ông Dương Văn Minh.Chúng tôi xin trích dẫn báo Quốc Tế, ông Võ Văn Kiệt cho rằng đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông Minh có thể đoán được sự thất thủ của Saigon.
Theo ông Võ Văn Kiệt, giả dụ ông Minh để cho các tướng lãnh dưới quyền tử thủ thì quân Bắc Việt sẽ vẫn chiến thắng, nhưng Saigon khó mà nguyên vẹn, chưa kể biết bao sinh mạng và tài sản của ngừơi dân nữa. Nhà cựu lãnh đạo của chính phủ Hà Nội nhấn mạnh rằng, không thể quên vai trò của đại tướng Dương Văn Minh trong việc giữ cho Saigon được nguyên vẹn.
Thưa quí thính giả lần đầu tiên, một cựu lãnh đạo cộng sản nói rằng, người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.
Ông Kiệt cho rằng đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt còn nói là ông muốn lưu ý mọi người rằng, làm được một chiến thắng kỳ vỹ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Theo ông thế giới đã đi rất xa, Việt Nam phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.
© 2005 Radio Free Asia
http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/April30-1975/Memories_April30_NNguyen-20050430.html-10122007023241.html
CON TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
CON TÀU VIỆTNAM THƯƠNG TÍN
Số phận của những người trở về
Số phận của những người trở về
Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm.
Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương Tín để ra đi.
Tàu Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở Sàigòn đã bị đạn B-40 của Cộng Sản Việt Nam giết chết trên tàu Việt Nam Thương Tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của HQ/Trung ta' Trần Đình Trụ.
Sau khi cập bến, tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi.
Cựu Trung Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.
Kể từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy thoát trước ngày 30/04, ra ngoại quốc. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người "đòi về" với chế độ cộng sản chứ không thèm ở trên xứ tự do!
Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành, chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng nếu "thành tâm" về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi ngộ tử tế và coi như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng!
Nào ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam.
Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo của người tỵ nạn.
Kết quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn!
Thân nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận, tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất đi vĩnh viễn.
Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như Trường Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết: Khi đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long.
Khi mà tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam.
Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó
2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. 2 năm sau thì thả tôi về.
Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.
Giống như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương Tín để rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau, ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.
* * * * *
747 hạ thấp để chuẩn bị đáp xuống phi trường San Francisco .- Ba ơi, lỗ tai con bị nhức quá.
- Ráng chút đi con, mình sắp tới nơi rồi. Máy bay xuống tới phi đạo là hết ngay ấy mà. Coi mẹ và các chị em con có ai than thở gì đâu.
Nói xong, tôi lấy tay day day hai bên lỗ tai thằng nhỏ, giúp nó làm giảm áp lực không khí cho dễ chịu.
Rồi máy bay cũng đã hạ cánh an toàn. Bên ngoài nắng nhạt cuối ngày trải dài lên hai tấm thảm cỏ màu xanh lá mạ chạy dài tít tắp hai bên phi đạo.
Tôi thở dài nhẹ nhõm:
- Thế là cuối cùng mình đã đến nơi, muộn hơn những 12 năm.
Máy bay vừa ngừng, đèn an toàn chưa tắt thì mọi người đã ào ào đứng dậy, báo hại nhân viên phi hành phải la ơi ới, yêu cầu bà con ngồi xuống lại.
Chuyến máy bay này do Cao Uỷ thuê bao để chở người tỵ nạn, mà phe ta phần đông không rành tiếng Anh và luật lệ trên máy bay mới ra nông nỗi.
Riêng tôi nghĩ mình chờ đã bao năm nay, thì có chờ thêm vài chục phút nào có sá gì, nên nói với vợ con cứ từ từ, chờ cho mọi người xuống hết rồi mới đứng dậy lấy hành lý.
Hoàn thành xong thủ tục Quan Thuế, người đại diện Hội Bảo Trợ hướng dẫn gia đình tôi đến... Cổng Thiên Đàng.
Thật đúng như vậy, bao nhiêu là người thân ăn mặc đẹp đẽ, đang náo nức chờ đợi đón rước gia đình tôi vào miền đất hứa mà tôi đã trót một lần từ bỏ.
Sau những niềm vui và choáng váng với hạnh phúc chan hoà giữa đại gia đình anh chị em trong bữa tiệc đoàn tụ, nằm trên giường đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức mãi. Vì khác biệt múi giờ cũng có, mà cái chính là đầu óc vẫn còn quay cuồng, với quá khứ sau bao năm rồi mà vẫn còn hiển hiện như mới ngày hôm qua.
* * * * *
Vào đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú
Quốc cấm trại 100 % vì tình hình đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa
vợ con lên tàu vào đất liền để rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn
luôn chấp hành lệnh cấp trên.Bé Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc sanh nở.
Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.
Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa! Lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát gươm cuối cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết! Thế là tán gia vong quốc.
Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.
Tàu tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được.
Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu!
Hạm Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam.
Suốt những ngày ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.
Nhìn cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.
Đêm đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha già yếu, vợ dại con thơ đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại đây.
Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.
Đến cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về. Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.
Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công dân"?. Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.
Nếu đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.
Người xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà nuôi mãi.
Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh.
Rồi như nước Nhật, nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù Hoa Kỳ giúp đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.
Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu. Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình ...
Không biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung. Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào. Ngày hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết?
Tất cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi!
Mọi người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.
Nhớ mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho, cam mà bây giờ chỉ có cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng Chấp Pháp: trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động ra sao, trong bao nhiêu năm ... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu: "Nếu các anh thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".
Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người: "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm."
Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước Ngoài thuộc Bộ Công An. Suốt 2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".
Họ chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước. Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về. Tôi kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất nhiều vì mình biệt vô âm tín.
Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan, Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra.
Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "Cải tạo lao động" với câu quen thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về".
Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng: "hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm".
Tôi nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.
Thời gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.
Sự hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Còn những ông khi biểu tình đòi về VN to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù.
Rồi cũng không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo. Mấy tháng sau thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi!
Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về, lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.
Thời điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.
Rồi qua một năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn rộng ra cả nước. 15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo:
- Mình cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi nữa đâu nghen.
Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam, không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.
Cả đời nào có biết văn chương là gì, thế mà hôm ấy tôi cũng viết được một bài thơ
:Hết chiến tranh rồi phước hoạ ai
Đợi mong mòn mỏi tháng năm dài
Lặn lội thăm chồng đi khắp chốn
Đường xa vạn dặm trĩu đôi vai
Viếng thăm chưa thoả niềm thương nhớ
Chia ly thêm nặng nỗi u hoài
Lỡ bước sa cơ đời đen tối
Thương người thiếu phụ lắm chông gai
Xuân qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra.
Tôi phải mất ba bốn ngày trời mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò, những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm ... khi biết tôi là tù được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người Việt Nam vẫn còn đây chứ không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.
Dọc đường về, nhìn đâu cũng thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.
Đến nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm ra đi mỗi ngày một nhiều.
Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.
Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi, nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia đình tôi mới đến được bến bờ tự do.
Hôm nay, những người bà con đến chung vui, có ông bạn trẻ Đinh Đoan tặng cho bài thơ
"Đố Ai":Người ơi có nhớ năm nao
Cái ngày tan tác ba đào thương đau
Đố xem kẻ kẹt trên tàu
Đảo Guam phải đến dạ sầu nhớ ai
Mênh mông với nỗi u hoài
Theo tàu Thương Tín đưa ngài về quê
Gian nan khổ ải chẳng nề
Ai ngờ bóc lịch ê chề thảm thương
Ra tù với nỗi sầu vương
Ngược xuôi dẫn vợ tìm đường vượt biên
Trời cao cũng độ kẻ hiền
Giúp ông tìm được đến miền tự do
Thiên đàng kia vẫn còn chờ
Gia đình hạnh phúc ước mơ đã thành.
Hỏi em hỏi chị hỏi anh
Xin cho tôi biết quí danh của ngài?
Mục Đồng ở New York có bài thơ "Ông Là ..." hoạ lại:Tôi còn nhớ chuyện năm xưa.
Cái ngày tan tác như vừa hôm qua
Tuần duyên vượt sóng hải hà
Đưa chàng chiến sĩ rời xa quê mình
Nhưng sau vì nghĩa vì tình
Nên đành chấp nhận hy sinh trở về
Bao nhiêu gian khổ chẳng nề
Dù cho bóc lịch ê chề thảm thương
Cuộc đời dâu bể khôn lường
Bao đêm dắt vợ tìm đường ra khơi
Hình như cũng thuận ý trời
Qua cơn bĩ cực đến thời thái lai
Ông là : bác Ngọc chứ ai
Đêm đen bỏ lại, tương lai đang chờ
Mừng vui hai chữ tự do
Gia đình đoàn tụ giấc mơ đây rồi
Phải ! Giấc mơ đây rồi. Giấc mơ này tôi đã ao ước từ 12 năm trước, mong được đoàn tụ với mọi người trong gia đình. Đến nay mới đạt được, và tôi đã phải trả một giá quá đắt.
Hơn 15 năm ở xứ Huê Kỳ trôi qua thật nhanh, bây giờ mái tóc đã muối nhiều hơn tiêu, mà trên chỏm đầu tóc đã đi chơi hết trơn nên trọc boong như cái hột vịt lộn, tôi ngồi vò đầu ngẫm nghĩ lại thì mình đúng là ở hiền gặp lành, chung tình với vợ con nên bây giờ được vợ cưng như cái trứng mỏng, con cái ngoan ngoãn.
Tôi tuy đến muộn, nhưng biết thân biết phận mình, vợ chồng cố ráng làm ăn, nên nay cũng "đi xe hơi, ở nhà lầu, nhà có TV tủ lạnh đủ cả; cơm ăn ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày" (just kidding). Giá mà hồi đó không trở về, có khi mình đã lấy một cô vợ Mễ, và nay thì cô ta đã xay mình nát ra như cám, "tiêu diêu nơi miền cực nhọc" rồi, mà vợ con mình cho đến bây giờ không biết ở nơi nao.
Người ta nói trâu chậm uống nước đục, mà tôi sao lại cứ được uống sữa tươi thế này ? Hoàng thiên đối với tôi như vậy nghĩ cũng là quá hậu đãi.
LÝ VIÊN MÃN * TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
Tàu Việt Nam Thương Tín và việt gian Nhữ văn Uý
Vụ tàu Việt Nam Thương Tín tại Orote Point / Guam,
tháng 5 năm 1975 và Nhữ văn Úy được Phòng A22 Tình báo Người Nước
Ngoài (việt gian Cộng Sản ) gài qua Pháp cách nào ? Nhữ văn Úy hoạt động
ra sao .
Có nhiều nhân chứng vụ tàu Việt Nam Thương Tín đòi trở về lại Saigon , qua cuộc xách động của nhóm Nhữ văn Úy ( vào tháng 5 năm 1975 ). Nhân chứng quan trọng thường xuyên viết Yahoogroups là Lý viên Mãn ( email address là : lyvienman@yahoo.com ), ông Lý viên mãn chửi Nhữ văn Úy không tiếc lời về vụ tàu Việt Nam Thương Tín.
Nhưng Lý viên mãn không biết tại sao Nhữ văn Úy được VN cho trở qua Pháp...mà không qua Hoaky ( nơi có nhiều Hội đoàn và Cộng Đồng Chống Cộng ) ? Tại sao Nhữ văn Úy cư ngụ tại thị xã Colmar / France , gần biên giới Đức , cách xa thủ đô Paris hàng trăm dặm ?
Colamar là thị xã ít người Việt , dân cư đa số sống về trồng nho ,chế biến ra rượu vang loại Alsace...
Sau đây một ván bài lật tẩy Nghị viên Nhữ văn Úy , người cầm đầu trở về VN với tàu Vệt Nam Thương Tín , được Phòng A 22 Tình báo Người nước ngoài cấp giấy tờ giả cho Úy xâm nhập , phá hoại cùng vạch mặt chỉ tên những người Chống Cộng có uy tín trong Cộng đồng tại Hoaky...
Cánh tả biên tại San Jose là Ngô túy Phượng ( email address là : tuyphuongngo56@yahoo.com ). Bà Ngô túy Phượng sanh năm 1956 , con gái của Trung tướng Ngô Dzu ( cựu Tư Lệnh Quân Đoàn II , Quân Khu 2 VNCH ) vô tình hay hữu ý mà tiếp tay với Nhữ văn Úy tại Colmar/ France đánh phá tơi bời những members tại Dien63 đàn yahoogroups rất tích cực.
Người ta cho rằng Ngô túy Phượng ( cư ngụ tại san Jose ) là tay trong cho đảng Việt Tân ( trước đó là đảng VNQPH của Phó Đô Đốc Hoàng cơ Minh...bị bại lộ từ tay trong báo về Phòng A 22 TNBNNN ( Tình Báo Người Nước Ngoài ).
Xin đọc thật kỷ như sau :
Có nhiều nhân chứng vụ tàu Việt Nam Thương Tín đòi trở về lại Saigon , qua cuộc xách động của nhóm Nhữ văn Úy ( vào tháng 5 năm 1975 ). Nhân chứng quan trọng thường xuyên viết Yahoogroups là Lý viên Mãn ( email address là : lyvienman@yahoo.com ), ông Lý viên mãn chửi Nhữ văn Úy không tiếc lời về vụ tàu Việt Nam Thương Tín.
Nhưng Lý viên mãn không biết tại sao Nhữ văn Úy được VN cho trở qua Pháp...mà không qua Hoaky ( nơi có nhiều Hội đoàn và Cộng Đồng Chống Cộng ) ? Tại sao Nhữ văn Úy cư ngụ tại thị xã Colmar / France , gần biên giới Đức , cách xa thủ đô Paris hàng trăm dặm ?
Colamar là thị xã ít người Việt , dân cư đa số sống về trồng nho ,chế biến ra rượu vang loại Alsace...
Sau đây một ván bài lật tẩy Nghị viên Nhữ văn Úy , người cầm đầu trở về VN với tàu Vệt Nam Thương Tín , được Phòng A 22 Tình báo Người nước ngoài cấp giấy tờ giả cho Úy xâm nhập , phá hoại cùng vạch mặt chỉ tên những người Chống Cộng có uy tín trong Cộng đồng tại Hoaky...
Cánh tả biên tại San Jose là Ngô túy Phượng ( email address là : tuyphuongngo56@yahoo.com ). Bà Ngô túy Phượng sanh năm 1956 , con gái của Trung tướng Ngô Dzu ( cựu Tư Lệnh Quân Đoàn II , Quân Khu 2 VNCH ) vô tình hay hữu ý mà tiếp tay với Nhữ văn Úy tại Colmar/ France đánh phá tơi bời những members tại Dien63 đàn yahoogroups rất tích cực.
Người ta cho rằng Ngô túy Phượng ( cư ngụ tại san Jose ) là tay trong cho đảng Việt Tân ( trước đó là đảng VNQPH của Phó Đô Đốc Hoàng cơ Minh...bị bại lộ từ tay trong báo về Phòng A 22 TNBNNN ( Tình Báo Người Nước Ngoài ).
Xin đọc thật kỷ như sau :
Tàu Việt Nam Thương Tín và Nhữ văn Uý .
việt gian cựu dân biểu VNCH
Bạn
kiểm chứng lại với nạn nhân vụ nầy là Lý viên Mãn lật tẩy Nhữ văn Uý
là điệp viên CSBV tại Pháp….xin gởi email Lý viên Mãn như sau : lyvienman@gmail.com.
Chúng tôi không phải là Lý viên Mãn , nhưng chúng tôi cư ngụ gần Colmar / France nên biết Nhữ văn Uý rất rỏ…
Ai mà tiếp xúc với Nhữ văn Uý và tỏ thái độ Chống Cộng Sản thì 24 giờ sau sẽ có tên trong Toà Đại Sứ VN tại Paris lập tức.
Xin coi chừng lão già lùn mập nầy…
……..
Nhắc lại chuyện cũ :
30-4-1975 Dinh Độc Lập bị xe tăng BV mang cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cán bung ra.
Tổng thống 3 ngày Dương văn Minh tuyên bố trao quyền Tổng thống VNCH cho CSBV.
.....
.
Chúng
tôi đến đão Guam vào đầu tháng 5 năm 1975….Trong trại tị nạn tại ven
rìa đão Guam ( Orote Point )…chen chúc với đủ thành phẩn người Việt.
Nghe tin Chiếc tàu Việt nam Thương Tín có nhiều người đòi về lại Việt Nam.
Lấy
làm tiếc lắm , nghe tin có một số người muốn về lại VN , trong trại đó
họ dùng dao hăm doạ nhiều người trong láng trại đó , cưỡng ép bắt buộc
tất cả những người trong láng trại đó phải về Việt Nam cho bằng được.
Sau đó họ đốt thùng rác , cô lập ra vào. Khí thế hung hản khó lường…trong số đó có nghị viên Như văn Uý.
Ngay cả đài phát thanh Saigon loan báo là Tàu Việt Nam Thương Tín bị Mỹ bắt đi qua Mỹ…
Thế là người Mỹ họ dựng hàng rào bảo vệ tất cà những người trong láng trại đó…
Mỗi người lần lượt đi vào hàng lang . Nếu gật đầu muốn ở lại Mỹ thì người Mỹ kéo người nầy sang một bên , và cho đi ra ngỏ khác.
Còn nếu người nào muốn về Việt nam thì họ cho đi thẳng ra nơi tàu VN Thương Tín.
Một
số trên dưới 500 người chịu đi về lại Việt Nam ,cầm đầu là Nghị viên
Nhữ văn Uý và 12 người khác ( trong đó có 4 lính hải quân VNCH ).
Hoaky
cung cấp lương thực và săng nhớt đầy đủ cho Tàu Việt nam Thương Tín ,
cùng 500 đô la cho mỗi người và giấy tờ ghi là tình nguyện trở về lại
VN .
Trên
tàu Việt Nam Thương Tín thì Nhữ văn Uý ra sáng kiến bắt tất cả những
người đòi về Việt nam , phải nộp hết tất cả tiền bạc hay giấy tờ trong
túi ra cho họ giữ.
Thì tại Saigon , lúc đó Saigon chưa đổi tên…
CSBV tổ chức lễ đón nhận những đứa con nước Việt bị Nguỵ quyền và đế quốc Mỹ cưỡng ép di tản.
Sau
đó đoàn tàu VN Thương Tín đến bến tàu tại Saigon ,được tiếp đón trọng
thể. Nào kèn trống , hoa và mấy cô gái đến trao tay….Biểu ngữ hân hoan
đón những người trở về lại đất mẹ.
Nghị
viên Nhữ văn Uý ra đọc diển văn , chửi là Mỹ cưởng ép họ ra khơi , đi
sang Mỹ , chớ thật sự họ không muốn…vì hoảng loạn nên khi tới đão Guam
…họ phải làm dử thì Mỹ nó mới chịu trả về lại Việt Nam….Đã đão đế quốc
Mỹ , Việt Nam thống nhất trường tồn…
Có nhiều xe bus đang đợi sẳn.
Đám
chỉ huy đoàn tàu Việt nam Thương Tín trở về tổ quốc…thì Nhữ văn Uý
củng 12 tên hung hản lên xe bus đầu tiên…các người khác lên lần lượt xe
sau.
Đoàn xe bus đi mất biệt ,thân nhân đón tại bến tàu chỉ thấy con cái họ vẩy tay tại bến tàu Saigon….thế thôi !
Tất cả đều chở đi vào tù hết….
Chỉ trừ đám Nhữ văn Uý thì 7 ngày sau được về lại đoàn tụ với gia đình…
Những người đòi về lại Việt nam , tất cả đều chở ra ngoài Bắc .
Cô lập riêng , không cho thân nhân đến thăm hỏi .
Tin tức không lộ ra ngoài.
Ngay cả đài BBC theo dỏi rất kỷ vụ nầy cũng không biết luôn là họ đi đâu.
Chỉ biết là họ chưa về sum họp lại gia đình.
Saigon đổi tên mất từ lâu thành Thành phố Hồ chí Minh …thì Nhữ văn Uý
10 năm sau ( 1985) do sự ưng thuận giửa Hà Nội và Hoaky ký kết với nhau ( Ngoại trưởng Hoaky George P. Shutlz ) … Gọi là ODP (Orderly
Departure Program ) ( Trong chương trình H.O = Humanitarian Operation
) thì những quân nhân nào ở tù gọi là Cải Tạo đúng 3 năm thì xin đi Mỹ
thì được chấp thuận.
Không hiểu lý do gì mà Nhữ văn Uý được giấy ở tù cải tạo 5 năm ( ghi là từ 1975 đến 1980 )…
Hồ sợ nộp tại Saigon , chuyển ra Hà Nội….xong hết 99 %....
Nhưng không dè Hoaky biết được là Nhữ văn Uý cầm đầu nhóm đòi về lại Việt nam và chửi Mỹ sát ván trên đài phát thanh Saigon.
Hoaky từ chối nhận hồ sơ Nhữ văn Uý.
Nhữ văn Uý được Hà Nội cho nộp đơn xin đi Canada….Canada từ chối…Nhữ văn Uý được Hà Nội cho đút đơn đi Pháp….Pháp từ chối.
Sau
cùng có một cựu đảng viên lão thành Đảng Cộng sản Pháp , tên Jacques
Dupois đứng ra nhận lảnh trách nhiệm hành vi của Nhữ văn Uý.
Sau cùng Như văn Uý sang Pháp , sống tại tỉnh Colmar / France , gần Alsace ( nơi nổi tiếng về rượu vang ., sát biên giới Đức….
Nhữ văn Uý im hơi lặng tiếng thời gian…
Nhữ văn Uý xin cải đạo thành đạo Catholic , mang tên thánh là Mathieu Nhữ văn Uý…
Thế là Nhữ văn Uý gột sạch tung tích là diệp viên Hà Nội.
Vì
với nhãn hiệu nghị viên Nhữ văn Uý , nên nhiều đồng bào Việt kiều tại
Paris không biết sự việc Nhữ văn Uý và tàu Việt nam Thương Tín cùng số
tiền 500 độ la Hoaky x 500 người = 250 000 ( hai trăm năm chục nghìn
đô la USD ) cùng tiền bạc quý kim của nhiều người đòi về Việt Nam qua
tàu VN Thương Tín…
Nay tới thời cơ Nhữ văn Uý ra mặt hoạt động…
Nhữ văn Uý chửi Cộng sản tới tấp , chửi nhiều hơn những người Chống Cộng tại Hoaky và tại Pháp.
Chửi Cộng sãn thậm tệ…ngay cả những điều Cộng sản không làm thì Nhữ văn Uý dựng lên chửi tuốt.
Nhữ văn Uý cho là Nguyễn văn Thiệu nói 4 không , Nhữ văn Uý nói 5 không…
Ai mà nói đến Hà Nội ngày xưa…thì Nhữ văn Uý mạt sát là thân cộng , là gián điệp cho Cộng sản VN….
Trong nhà Nhữ văn Uý treo cờ VNCH rất trang trọng….
Nhiều
người Việt đến nhà ưng thuận theo đường lối chống Cộng của Nhữ văn Uý
….thì 24 giờ sau Toà đại Sứ VN tại Paris có tên những người nầy..
Sau
đây mời bạn đọc một người là nạn nhân cũa Nhữ văn Uý ( họ được thả sau
10 năm tại trại tù ngoài Bắc….họ vượt biên….và đòi Nhữ văn Uý tiền
của họ mà Nhữ văn Uý tịch thu trên tàu Việt Nam Thương Tín ngày xưa…
Đó là nick Lý Viên Mãn ghi trên Yahoogroups vừa qua… ( Bạn có thể email cho Lý viên Mãn hỏi tự sự ra sao...)
.....
From: Ly Vien Man
ĐỖ XUÂN TẾ * NGƯỜI VỀ TỪ ĐẢO GUAM
Người về từ đảo Guam
Đỗ Xuân Tê
Anh H. người quê Phan Thiết, tuổi chưa đầy ba mươi khi miền Nam vào
tháng tư đen. Lớn lên như các thanh niên trong thời chiến, anh chọn
nghiệp bay. Được huấn luyện và check out taị Mỹ, anh trở thành phi công
khu trục cho Sư đoàn 3 Không Quân, bản doanh đóng taị Biên Hòa. Là đứa
con một, mẹ anh có phần lo, nhưng ý con đã quyết nên bà chỉ biết nguyện
cầu cho con được bình yên và mong một ngày quê hương sớm hết chiến
tranh.
Chiến tranh mãi không dứt, mẹ bắt anh về quê lấy vợ. Phần anh vốn sống nay chết mai, chẳng muốn ai trở thành góa phụ. Nhưng vẫn có ngươì muốn anh làm ‘khổ’, do cuộc tình gắn bó từ thuở học trò, lại nữa gia đình hai bên cũng đã biết nhau. Họ thành vợ chồng rồi có một bé gái. Vợ anh ở với mẹ nuôi con, anh tiếp tục sống với đơn vị lo nghề bay bổng. Hai vợ chồng ít có dịp gặp nhau, nếu có chỉ qua những kỳ phép ngắn.
Chiến tranh mãi không dứt, mẹ bắt anh về quê lấy vợ. Phần anh vốn sống nay chết mai, chẳng muốn ai trở thành góa phụ. Nhưng vẫn có ngươì muốn anh làm ‘khổ’, do cuộc tình gắn bó từ thuở học trò, lại nữa gia đình hai bên cũng đã biết nhau. Họ thành vợ chồng rồi có một bé gái. Vợ anh ở với mẹ nuôi con, anh tiếp tục sống với đơn vị lo nghề bay bổng. Hai vợ chồng ít có dịp gặp nhau, nếu có chỉ qua những kỳ phép ngắn.
Đầu 75, tình hình đất nước biến chuyển quá nhanh. Tây nguyên di tản,
Phan Rang thất thủ. Biên giơí phía nam, quê anh trở thành tuyến địa
đầu. Anh vẫn bay, mà còn bay nhiều hơn, do tính cách ác liệt của chiến
trường, mấy lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vỉ hỏa tiễn tầm nhiệt
của đôí phương. Phi đoàn cấm traị liên tục, anh chẳng có dịp về thăm vợ
thăm con. Chuyện di tản, bỏ nước ra đi cũng chẳng hề vướng mắc trong
tâm tư ngươì phi công trẻ.
Nhưng đêm 29, trong khung cảnh hỗn loạn của
Saigòn thất thủ, sợ cảnh tắm máu, anh cùng đồng đôị cất cánh từ Tân Sơn
Nhất trực chỉ căn cứ Không quân của Mỹ trên đất Thái. Từ đây anh được
bốc thẳng qua đảo Guam. Ra đi trong sự vôị vã, tức tưởi khộng một lời từ
biệt người thân.
Tới Guam, biết là thoát chết khi nhìn laị thân phận mình. Nhưng mẹ,
vợ và con thì giờ đây nghìn trùng xa cách. Lòng anh ray rứt, lắm lúc
muốn khùng. Biết không còn lựa chọn nào hơn, anh đành lo thủ tục vào đất
Mỹ. Anh vẫn còn giữ địa chỉ của một viên cố vấn cho phi đoàn tên John
K. John là ngươì có tình, và là đồng minh đáng tin cậy.
Anh ta cho H. cái địa chỉ chẳng phaỉ để một ngày nào đó sử dụng trong hòan cảnh eó le này, mà là một cử chỉ hiếu khách của ngươì Mỹ muốn H. thăm gia đình John nếu có dịp nào đi chuyên tu taị Mỹ. Nhận được tin của H. qua giới chức Mỹ phụ trách di tản taị Guam, bằng một thái độ sốt sắng, John bảo lãnh ngay cho H. vào đất Mỹ. Về định cư tai một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana, một vùng đất chăn nuôi và có xưởng sản xuất thịt bò, John tạm thời xin cho H. một chân vác và xẻ thịt, lương khoảng 8 đô một giờ.
Anh ta cho H. cái địa chỉ chẳng phaỉ để một ngày nào đó sử dụng trong hòan cảnh eó le này, mà là một cử chỉ hiếu khách của ngươì Mỹ muốn H. thăm gia đình John nếu có dịp nào đi chuyên tu taị Mỹ. Nhận được tin của H. qua giới chức Mỹ phụ trách di tản taị Guam, bằng một thái độ sốt sắng, John bảo lãnh ngay cho H. vào đất Mỹ. Về định cư tai một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana, một vùng đất chăn nuôi và có xưởng sản xuất thịt bò, John tạm thời xin cho H. một chân vác và xẻ thịt, lương khoảng 8 đô một giờ.
Ngày đi làm, đêm về một mình thui thuỉ trong căn apartment gần xưởng.
Lòng buồn rười rượi, hình ảnh mang nhiều trăn trở vẫn là mẹ, vợ, con.
Thực sự những năm tháng chiến tranh, anh chẳng có nhiều thơì gian để
nghĩ đến vợ con, nếu có thì cũng chỉ là những khoảnh khắc ít oỉ. Đôi
lúc có nghĩ đến ông cậu tập kết ra miền Bắc hồi đất nước chia đôi, một
hình ảnh được mẹ nhắc nhiều lúc tuôỉ thơ. Có điều lạ là từ nay, nôĩ ám
ảnh về chiến tranh và niềm đam mê bay bổng một thời dường như đã khép
laị…
Tình cờ đọc trên tuần báo TIME, thấy hình tướng Đảo (Lê Minh Đảo, Tư
lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh) mặc thường phục đi trên đường Catinat, vơí lời
chú giải như một con người được tự do đi laị sau ngày mất nước. Baì
viết của ký giả Mỹ thường trú taị Bangkok còn cho biết thêm về số phận
các quân nhân, công nhân viên chức chế độ cũ. Các hạ sĩ quan học tập 7
ngày đã xong.
Sĩ quan cấp uý (10 ngày), sĩ quan cấp tá (1 tháng) đang chuẩn bị trình diện học tập. Học xong họ cũng được quay về sinh sống làm ăn. Chính sách khoan hồng của Mặt Trận Giaỉ Phóng là trước sau như một, chuyện tắm máu như Kampuchia là không hề có.Viên ký giả Mỹ đang túng tin sau ngày Sàigòn đổi chủ như vớ được của đăng nguyên văn những gì mấy ông cộng sản cần nói cần rao.
Sĩ quan cấp uý (10 ngày), sĩ quan cấp tá (1 tháng) đang chuẩn bị trình diện học tập. Học xong họ cũng được quay về sinh sống làm ăn. Chính sách khoan hồng của Mặt Trận Giaỉ Phóng là trước sau như một, chuyện tắm máu như Kampuchia là không hề có.Viên ký giả Mỹ đang túng tin sau ngày Sàigòn đổi chủ như vớ được của đăng nguyên văn những gì mấy ông cộng sản cần nói cần rao.
Nhưng bài báo lại có sức thuyết phục làm cho H. băn khoăn. Tâm tư anh
như ngọn gió muốn đôỉ chiều. Một câu hỏi tự phát trong tiềm thức “taị
sao ta không về?” Thương cho mẹ già chưa một lần báo hiếu. Sống làm gì
khi vĩnh viễn xa vợ xa con. Chưa nói đến quê hương, dòng sông, đụn cát.
Ký ức tuôỉ thơ sống laị trong anh. Sau nhiều đêm trăn trở, anh quyết
định tìm cách trở về.
Nơi đất lạ xứ ngươì, không còn ai thân thiết ngoài John. Anh goị ngay cho John và bộc bạch ý nguyện của mình. Sau phút kinh ngạc, John khuyên anh suy nghĩ laị. Lúc này các giới chức Mỹ đang bận lo cho người mới đến, hơi đâu bận tâm cho kẻ đòi về. Nhưng vì thương bạn, laị có sự đồng cảm về môí liên hệ gia đình sâu đậm theo truyền thống văn hóa Việt mà John có dịp giao lưu qua chuyến phục vụ taị Việt nam, anh mầy mò thế nào rôì cũng kiếm được một cơ quan thiện nguyện chuyên lo vụ “trở về xứ cũ” (repatriation).
Nơi đất lạ xứ ngươì, không còn ai thân thiết ngoài John. Anh goị ngay cho John và bộc bạch ý nguyện của mình. Sau phút kinh ngạc, John khuyên anh suy nghĩ laị. Lúc này các giới chức Mỹ đang bận lo cho người mới đến, hơi đâu bận tâm cho kẻ đòi về. Nhưng vì thương bạn, laị có sự đồng cảm về môí liên hệ gia đình sâu đậm theo truyền thống văn hóa Việt mà John có dịp giao lưu qua chuyến phục vụ taị Việt nam, anh mầy mò thế nào rôì cũng kiếm được một cơ quan thiện nguyện chuyên lo vụ “trở về xứ cũ” (repatriation).
Trùng hợp vào thơì điểm này, một số ngươì di tản hiện đang ở Guam vì
hốt hoảng tháo chạy, nay hoàn hồn nhớ laị ngươì thân kẹt laị, cũng cha,
mẹ, vợ, con như H.. Họ tranh đấu đòi về. Nước Mỹ vốn là xứ tự do, người
Mỹ vốn có truyền thống nhân đạo, nên khuyên mãi chẳng được, họ đành sắp
xếp cho một chuyến tàu để đưa các người Việt muốn quay về.
Con tàu Việt Nam Thương Tín dùng để chở người di tản tơí Guam hôì cuôí tháng 4, nay được đaị tu chuẩn bị cho chuyến khứ hôì xuyên đaị dương đầu tháng 8. H. được cơ quan thiện nguyện cho ‘ráp’ vào chuyến hải hành này. Anh là người duy nhất từ đất liền ra laị đảo và từ đảo lên tàu quay về cố hương. Cũng cần nói thêm hành trang trở về từ quần áo, thuốc men, lương thực, thực phẩm đến việc chọn lựa thủy thủ đoàn, diễn tập qui trình an ninh xuyên đaị dương v.v…đã được các giơí chức Mỹ trên đảo cùng các cơ quan thiện nguyện chuẩn bị khá chu đáo nhằm đảm bảo là các người hôì hương được an toàn tôí đa.
Con tàu Việt Nam Thương Tín dùng để chở người di tản tơí Guam hôì cuôí tháng 4, nay được đaị tu chuẩn bị cho chuyến khứ hôì xuyên đaị dương đầu tháng 8. H. được cơ quan thiện nguyện cho ‘ráp’ vào chuyến hải hành này. Anh là người duy nhất từ đất liền ra laị đảo và từ đảo lên tàu quay về cố hương. Cũng cần nói thêm hành trang trở về từ quần áo, thuốc men, lương thực, thực phẩm đến việc chọn lựa thủy thủ đoàn, diễn tập qui trình an ninh xuyên đaị dương v.v…đã được các giơí chức Mỹ trên đảo cùng các cơ quan thiện nguyện chuẩn bị khá chu đáo nhằm đảm bảo là các người hôì hương được an toàn tôí đa.
Lênh đênh gần một tháng xuyên Thái bình dương, tàu cập bến Nha Trang
vào một sáng trơì quang mây tạnh. Nhưng sao hôm nay không khí trên cảng
có vẻ căng thẳng, không hồ hơỉ như mọi ngươì mong đơị. Các hành khách
chuẩn bị rời tàu để làm thủ tục hải quan. Phụ nữ, trẻ em xếp hàng một
bên; đàn ông, thanh niên một phía; hành lý có người phụ trách.
Xong phần thủ tục kéo daì nhiều giờ, anh H. và đoàn người thuộc diện quân nhân, viên chức chế độ cũ, kể cả viên hạm trưởng HQ trung tá lái tàu về, cùng ông trưởng đoàn được phân công phụ trách đọc diễn từ cám ơn Nhà nước, từng cặp hai người chung một chiếc còng số 8 lên xe bít bùng trực chỉ hướng Đèo Cả. Sau này mới biết đó là một traị giam tù hình sự thuộc tỉnh Tuy hòa. Dù cách dàn chào có phần cay đắng, nặng tính hình sự, nhưng H. vẫn không tủi cho thân anh, mà anh tiếc chiếc cà rá đã mua cho vợ bằng số tiền dành dụm trong mấy tháng làm ở xưởng thịt. Kỷ vật nhỏ bé này trở thành ‘tang vật’ bị tịch thu ngay khi lên bờ.
Xong phần thủ tục kéo daì nhiều giờ, anh H. và đoàn người thuộc diện quân nhân, viên chức chế độ cũ, kể cả viên hạm trưởng HQ trung tá lái tàu về, cùng ông trưởng đoàn được phân công phụ trách đọc diễn từ cám ơn Nhà nước, từng cặp hai người chung một chiếc còng số 8 lên xe bít bùng trực chỉ hướng Đèo Cả. Sau này mới biết đó là một traị giam tù hình sự thuộc tỉnh Tuy hòa. Dù cách dàn chào có phần cay đắng, nặng tính hình sự, nhưng H. vẫn không tủi cho thân anh, mà anh tiếc chiếc cà rá đã mua cho vợ bằng số tiền dành dụm trong mấy tháng làm ở xưởng thịt. Kỷ vật nhỏ bé này trở thành ‘tang vật’ bị tịch thu ngay khi lên bờ.
Nay bước chân vào tù, anh coi mình là kẻ thua cuộc nhưng vẫn chưa
chịu… bỏ cuộc. Con người tuy có dáng vẻ hào hoa, dễ mến nhưng laị ẩn
chứa một tính cách gan lì, nhẫn naị, không chịu khuất phục. Bề ngoaì
thuần phục theo nôị qui của Trại bảo gì làm nấy, nhưng bên trong đang
thai nghén một ý đồ khá táo bạo… trốn traị! Vì có thể lực khỏe, trẻ, laị
biết cách mưu sinh thoát hiểm đã được dạy khi phải bung dù trong vùng
địch, anh liều chọn con đường tắt về gặp vợ, gặp con bằng một ý thức tuy
nông cạn nhưng vơí ý chí không gì ngăn cản nôỉ.
Chẳng đoán thì cũng hiểu là ý đồ thất bại sau hai ngày hai đêm. Bị
giải về traị, biệt giam mấy tuần liền, laị còn bị gán cho caí tên ‘giặc
lái ngoan cố’. Ba tháng sau, để chặt đường trốn chạy, anh đựợc chuyển ra
Bắc về ‘sinh hoạt’ vơí đám tù chúng tôi taị traị Nam Hà.
Điều nực cươì là các bạn anh vì “kẹt” mơí chịu cảnh chim vào lồng biết thuở nào ra, còn anh là chim đã bay xa, nay về tổ “mẹ”, mẹ không cho bú mẹ còn… bắt giam. Nên từ đó nhóm bạn đồng tù mới đặt cho anh caí tên thân thương Người về từ đảo Guam, nhái theo caí tựa phim “Ngươì về từ đỉnh nuí” rất ăn khách trước 75. Ấy vậy mà cũng có mấy ông sĩ quan già gốc di cư lạị chửi anh thằng ngu nhất hành tinh. Goị gì thì goị, anh chỉ cười, vì vốn dĩ anh là ngươì dễ tin. Lại nữa đảng ta chẳng hay tuyên truyền giống các cụ mình hay nói “đánh kẻ chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy…về”!
Điều nực cươì là các bạn anh vì “kẹt” mơí chịu cảnh chim vào lồng biết thuở nào ra, còn anh là chim đã bay xa, nay về tổ “mẹ”, mẹ không cho bú mẹ còn… bắt giam. Nên từ đó nhóm bạn đồng tù mới đặt cho anh caí tên thân thương Người về từ đảo Guam, nhái theo caí tựa phim “Ngươì về từ đỉnh nuí” rất ăn khách trước 75. Ấy vậy mà cũng có mấy ông sĩ quan già gốc di cư lạị chửi anh thằng ngu nhất hành tinh. Goị gì thì goị, anh chỉ cười, vì vốn dĩ anh là ngươì dễ tin. Lại nữa đảng ta chẳng hay tuyên truyền giống các cụ mình hay nói “đánh kẻ chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy…về”!
Ra Bắc tuy có lý lịch đen vì trốn traị, nhưng nhờ được ông cậu bảo
lãnh, nên H. thuờng được giao các chân lao động tự giác tương đôí dễ
thở. Chả là sau chiến tranh, ông cậu về làm bí thư huyện ủy một huyện
quê anh. Ít lâu sau vì lớn tuôỉ, sức khoẻ yếu, ông nghỉ hưu. Rất tiếc
quá trình chiến đấu và thâm niên trong Đảng không cứu được thằng cháu
khỏi cảnh tù tôị vì đảng nghi cháu ông được CIA “gaì” cho về Việt nam
chờ thời hoạt động.
Ông không trách đảng vì ông hiểu qui luật sống còn của người cộng sản là ‘bắt lầm còn hơn bỏ sót’, thậm chí cảnh giác vơí cả chính đồng chí của mình. Nhưng ông đồng cảm vơí tâm trạng cháu ông, nó về laị quê hương động cơ thúc đẩy cũng chỉ vì nhớ mẹ, nhớ vợ nhớ con. Ngay như ông, dù thoát ly đi theo lý tưởng, nhưng sau 2 năm ra Bắc, mắc kẹt không được về Nam, nôĩ nhớ mong đã gậm nhấm tim ông suốt 20 năm. Điều khổ tâm vì không gỡ được chuyện thằng cháu, nên bà chị yêu quí có phần trách móc, lạnh nhạt dù chính ông đã nhiệt tình làm giấy bảo lãnh cho cháu, mà tác haị của môí quan hệ này có làm ‘hoen ố’ lý lịch trong sáng của cả đơì ông.
Ông không trách đảng vì ông hiểu qui luật sống còn của người cộng sản là ‘bắt lầm còn hơn bỏ sót’, thậm chí cảnh giác vơí cả chính đồng chí của mình. Nhưng ông đồng cảm vơí tâm trạng cháu ông, nó về laị quê hương động cơ thúc đẩy cũng chỉ vì nhớ mẹ, nhớ vợ nhớ con. Ngay như ông, dù thoát ly đi theo lý tưởng, nhưng sau 2 năm ra Bắc, mắc kẹt không được về Nam, nôĩ nhớ mong đã gậm nhấm tim ông suốt 20 năm. Điều khổ tâm vì không gỡ được chuyện thằng cháu, nên bà chị yêu quí có phần trách móc, lạnh nhạt dù chính ông đã nhiệt tình làm giấy bảo lãnh cho cháu, mà tác haị của môí quan hệ này có làm ‘hoen ố’ lý lịch trong sáng của cả đơì ông.
oOo
Chuyện 12 năm sau…
Thơì thế đã xoay vần, chính sách có đôỉ thay, chúng tôi và cháu ông
cũng có ngày về. Xuống ga Phan thiết, H.về gặp laị vợ con. Kiểm laị
ngươì thân: mẹ còn nhưng cậu mất, vợ còn chung thủy, con đã lớn khôn.
Cảnh nhà xác xơ, hiu quạnh vì lâu ngày không có bóng dáng đàn ông. Ở nhà
ân ái với vợ qua đêm, ngay sáng hôm sau, được phép của công an xã, anh
đạp xe về thăm mẹ cách đó 15 cây số. Mấy chục năm mới đạp laị chiếc xe
cũ, thong dong trên đường quê quen thuộc, được hít thở không khí đồng
nội, anh cảm thấy nhẹ nhõm và thấy quí cái giá của hạnh phúc. Nhưng họa
vô đơn chí, số phận nghiệt ngã dường như vẫn rình rập bước chân anh.
Ngay chiều hôm đó, chị X., vợ anh được cấp báo lên gấp bệnh viện
huyện. Tới nơi, được mấy ngươì kể laị chiếc xe đạp của H. bị gãy ghi
đông làm anh té sấp xuống chỗ hố nông cạnh Đồng Ông Tố (chỗ lở xụp này
hay xảy ra tai nạn, nhưng giao thông xã chưa kịp vá).
Máu ra nhiều ở chân, xem ra không nguy hiểm, nhưng có điều anh bất tỉnh. Sau này khi đưa lên tỉnh, mới vỡ lẽ là anh bị gãy cổ. Các y tá dưới thôn khi cấp cứu chỉ lo băng bó vết thương ở chân, không hề để ý chỗ chấn thương nặng là trung tâm thần kinh sau gáy. Anh được chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy (Saigòn) trong tình trạng bị liệt tứ thân. Dù có sự tận tình cuả bác sĩ, y tá, nhưng việc phục hôì chức năng của trung tâm cột sống hầu như vô phương. Bệnh viện khuyên chị H. đưa anh trở laị quê. Ít lâu sau chuyện gì tới nó phaỉ tới, anh trở về lòng đất mẹ, lần này thì vĩnh viễn.
Máu ra nhiều ở chân, xem ra không nguy hiểm, nhưng có điều anh bất tỉnh. Sau này khi đưa lên tỉnh, mới vỡ lẽ là anh bị gãy cổ. Các y tá dưới thôn khi cấp cứu chỉ lo băng bó vết thương ở chân, không hề để ý chỗ chấn thương nặng là trung tâm thần kinh sau gáy. Anh được chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy (Saigòn) trong tình trạng bị liệt tứ thân. Dù có sự tận tình cuả bác sĩ, y tá, nhưng việc phục hôì chức năng của trung tâm cột sống hầu như vô phương. Bệnh viện khuyên chị H. đưa anh trở laị quê. Ít lâu sau chuyện gì tới nó phaỉ tới, anh trở về lòng đất mẹ, lần này thì vĩnh viễn.
oOo
Bẵng đi cả mười năm. Một hôm tôi nhận được cú điện thoaị từ San Jose.
Đầu giây bên kia là một giọng nữ mang âm sắc miền nam Trung bộ.
“Cho em xin gặp anh T.”
“Tôi đây, xin lôĩ ai đầu giây?”
“Em là Kim X., vợ của anh H. đây. Anh có nhận ra em không? (cô không dè qua điện thoaị làm sao nhận được). Cô nói tiếp:
“Em vẫn biết ơn anh chị thương tuị em nhiều lúc anh H. nằm ở Chợ
Rẫy. Sang đây maĩ không liên lạc được, nay anh Giàu mới cho số của
anh.” (Giàu bạn thân của H., cùng traị với tôi). Qua câu chuyện được
biết anh H. mặc dầu không chết trong traị, nhưng vì tù đã trên 12 năm,
các giơí chức Mỹ ở Bangkok vẫn xét cho mẹ con cô được định cư taị Mỹ
theo diện nhân đạo H.O.. Có điều lạ là qua cuộc phỏng vấn họ không hề đả
động gì đến chuyện anh bỏ Mỹ về laị Việt nam hôì 75. Điều này đánh tan
môí quan ngaị của hai mẹ con trước khi đi phỏng vấn vì tin đồn Mỹ không
nhận laị những người đã theo tàu Việt Nam Thương Tín về từ đảo Guam.
Sang tới Mỹ, được các bạn tù thân thiết giúp đỡ, đùm bọc nên cô và
cháu gái như có chỗ dựa tinh thần. Hết trợ cấp, cô cũng bương chaỉ làm
đủ nghề: may khoán, trông con nít, làm thợ assembly… vừa lo cho cháu gái
để nó tập trung vào việc học. Cháu đã khôn trước tuôỉ, biết thương mẹ,
hiểu hoàn cảnh của cha, quyết chí làm vui lòng mẹ. Cháu đã xong bằng
B.S. về môn Hóa và được nhận vào khoa Dược của Đaị học Nebraska. Sau khi
ra trường cháu quay laị với mẹ ở Cali.
Cuối cuộc điện đàm, thấy cô vui, tự nhiên như một ngươì anh, tôi bỗng
hỏi cô về chuyện riêng tư, ‘Sao, chuyện riêng tư của cô X. có gì thay
đôỉ không? Tôi muốn nói thế nào chẳng có ngươì làm phiền?’ Cô cười qua
điện thoaị, giọng cươì rất hồn nhiên của một góa phụ như biết mình còn
nhan sắc nhưng thỏa lòng không muốn đi bước nữa.
Cô trả lời tôi, ‘Em già rôì anh ơi! em làm phiền ngươì ta thì có. Thưa thiệt vơí anh, thấy anh H. thương em quá, nên tim em khó để ai chen vô được nữa. Anh nhớ anh K. không? cả anh B. nữa (hai ngươì này bạn của H., một còn độc thân lúc ra trại, một vợ bỏ khi cô vợ vượt biên qua Mỹ trước)…Nói cho ngay, maỉ lo cho cháu em không còn thì giờ để nghĩ đến ai…(lại cười)…Hay anh chị ‘làm mai’ cho em đi!’ Tôi biết câu nói vuốt chỉ là câu nói vui. Tôi nhắc laị hôì đó H. đâu muốn làm khổ ai, taị cô tình nguyện chịu khổ thì bây giờ ráng chịu (laị có tiếng cười đầu giây bên kia).
Cô trả lời tôi, ‘Em già rôì anh ơi! em làm phiền ngươì ta thì có. Thưa thiệt vơí anh, thấy anh H. thương em quá, nên tim em khó để ai chen vô được nữa. Anh nhớ anh K. không? cả anh B. nữa (hai ngươì này bạn của H., một còn độc thân lúc ra trại, một vợ bỏ khi cô vợ vượt biên qua Mỹ trước)…Nói cho ngay, maỉ lo cho cháu em không còn thì giờ để nghĩ đến ai…(lại cười)…Hay anh chị ‘làm mai’ cho em đi!’ Tôi biết câu nói vuốt chỉ là câu nói vui. Tôi nhắc laị hôì đó H. đâu muốn làm khổ ai, taị cô tình nguyện chịu khổ thì bây giờ ráng chịu (laị có tiếng cười đầu giây bên kia).
Kết thúc câu chuyện điện thoaị, vợ chồng tôi cảm thấy mừng vì ở chi
H. như có sự thay đôỉ lạ kỳ. Nhớ laị hôì H. nằm ở nhà thương Chợ Rẫy,
tuị tôi có dịp vô thăm thường xuyên và có một ấn tượng khá sâu sắc về
ngươì vợ trẻ của anh. Khác với những người vợ, ngươì yêu của các phi
công thường mang nét sắc sảo, pha chút tinh nghịch lãng mạn của các cô
gái thành phố. Người thiếu phụ này có khuôn mặt dù không trang điểm, laị
trải qua những năm tháng đợi chờ, vừa chân chất như các cô gái miền quê
cát trắng, vừa kín đáo trong ánh mắt ẩn buồn, âm thầm chấp nhận những
ngang trái đổ xuống đời mình.
Nhưng quả Trời không để ai phải chịu đựng quá sức. Thời gian như một
liều thuốc chữa lành các vết thương lòng, bôi xóa đi các nghịch cảnh của
cuộc sống. Tôi như hình dung được gương mặt hôì sinh của chị, người
đàn bà sinh ra để làm vợ, luôn sống có thủy có chung, biết trân quý các
môí quan hệ, giúp đỡ của bạn bè trong đó có cả lòng nhân đạo hào hiệp
của người Mỹ.
Đỗ Xuân Tê
M. NGỌC PHAN * CON TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
Những Số Phận Trên Tàu VN Thương TínM Ngọc Phan, Cập Nhựt 2009/09
LGT : 17 giờ ngày 29/04/1975, cuộc « thương thuyết » giữa chính phủ đầy ngây thơ và ảo tưởng mệnh danh « thành phần thứ ba » với quân Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ ... Quân đội Cộng Sản tập trung hoả lực và cơ giới tiến thẳng vào thủ đô Sài Gòn. 1030 sáng ngày 30/04/1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trước đó không đầy 24 giờ, Dương Văn Minh ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự Vụ Lịnh đưa chiếc tàu Việt Nam Thương Tín đi, và một SVL cho Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đưa một số vàng tồn trữ ở Ngân Hàng này xuống tàu Việt Nam Thương Tín để khỏi lọt vào tay Cộng Sản. Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm. Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương Tín để ra đi.
Tàu Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở Sài Gòn đã bị đạn B-40 của Cộng Sản Việt Nam giết chết trên tàu Việt Nam Thương Tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ. Sau khi cập bến, tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi. Cựu Trung Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.
Kể từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy thoát trước ngày 30/04, ra nước ngoài. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người « đòi về » với chế độ cộng sản chứ không thèm ở trên xứ tự do ! Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành, chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng nếu « thành tâm » về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi ngộ tử tế và coi như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng !
Nào ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam. Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo của người tỵ nạn.
Kết quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn !
Thân nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận, tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất đi vĩnh viễn. Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như Trường Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết : Khi đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long. Khi mà tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó 2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. 2 năm sau thì thả tôi về. Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.
Giống như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương Tín để rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau, ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.
* * * * *
Thằng Quốc ngả người về phía bố, mặt nhăn nhó vì ù tai khi chiếc Boeing 747 hạ thấp để chuẩn bị đáp xuống phi trường San Francisco.
- Ba ơi, lỗ tai con bị nhức quá.
- Ráng chút đi con, mình sắp tới nơi rồi. Máy bay xuống tới phi đạo là hết ngay ấy mà. Coi mẹ và các chị em con có ai than thở gì đâu.
Nói xong, tôi lấy tay day day hai bên lỗ tai thằng nhỏ, giúp nó làm giảm áp lực không khí cho dễ chịu.
Rồi máy bay cũng đã hạ cánh an toàn. Bên ngoài nắng nhạt cuối ngày trải dài lên hai tấm thảm cỏ màu xanh lá mạ chạy dài tít tắp hai bên phi đạo. Tôi thở dài nhẹ nhõm :
- Thế là cuối cùng mình đã đến nơi, muộn hơn những 12 năm.
Máy bay vừa ngừng, đèn an toàn chưa tắt thì mọi người đã ào ào đứng dậy, báo hại nhân viên phi hành phải la ơi ới, yêu cầu bà con ngồi xuống lại.
Chuyến máy bay này do Cao Uỷ thuê bao để chở người tỵ nạn, mà phe ta phần đông không rành tiếng Anh và luật lệ trên máy bay mới ra nông nỗi. Riêng tôi nghĩ mình chờ đã bao năm nay, thì có chờ thêm vài chục phút nào có sá gì, nên nói với vợ con cứ từ từ, chờ cho mọi người xuống hết rồi mới đứng dậy lấy hành lý.
Hoàn thành xong thủ tục Quan Thuế, người đại diện Hội Bảo Trợ hướng dẫn gia đình tôi đến ... Cổng Thiên Đàng. Thật đúng như vậy, bao nhiêu là người thân ăn mặc đẹp đẽ, đang náo nức chờ đợi đón rước gia đình tôi vào miền đất hứa mà tôi đã trót một lần từ bỏ.
Sau những niềm vui và choáng váng với hạnh phúc chan hoà giữa đại gia đình anh chị em trong bữa tiệc đoàn tụ, nằm trên giường đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức mãi. Vì khác biệt múi giờ cũng có, mà cái chính là đầu óc vẫn còn quay cuồng, với quá khứ sau bao năm rồi mà vẫn còn hiển hiện như mới ngày hôm qua.
* * * * *
Vào đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.
Bé Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc sanh nở.
Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.
Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa !
Lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát chém cuối cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết ! Thế là tán gia vong quốc.
Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.
Tàu tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được. Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu !
Hạm Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam.
Suốt những này ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.
Nhìn cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.
Đêm đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha già yếu, vợ dại con thơ
đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại đây.
Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.
Đến cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về. Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.
Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công dân". Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.
Nếu đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao ? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không ? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.
Người xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà nuôi mãi.
Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh. Rồi như nước Nhật, nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù giúp đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.
Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu. Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình ...
Không biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung.
Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào.
Ngày hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết ? Tất cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi !
Mọi người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.
Nhớ mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho cam mà bây giờ chỉ có cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng Chấp Pháp : trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động ra sao, trong bao nhiêu năm ... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu : "Nếu các anh thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".
Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người : "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm." Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước Ngoài thuộc Bộ Công An.
Suốt 2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".
Họ chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước. Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về.
Tôi kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất nhiều vì mình biệt vô âm tín.
Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan, Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra. Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "Cải tạo lao động" với câu quen thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về". Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng : "hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm".
Tôi nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.
Thời gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.
Sự hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Càng những ông khi biểu tình đòi về to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù.
Rồi cũng không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo.
Mấy tháng sau thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi !
Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về, lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.
Thời điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.
Rồi qua một năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn rộng ra cả nước.
15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo :
- Mình cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi nữa đâu nghen.
Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam, không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.
Cả đời nào có biết văn chương là gì, thế mà hôm ấy tôi cũng viết được một bài thơ :
Hết chiến tranh rồi phước hoạ ai
Đợi mong mòn mỏi tháng năm dài
Lặn lội thăm chồng đi khắp chốn
Đường xa vạn dặm trĩu đôi vai
Viếng thăm chưa thoả niềm thương nhớ
Chia ly thêm nặng nỗi u hoài
Lỡ bước sa cơ đời đen tối
Thương người thiếu phụ lắm chông gai.
Xuân qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra.
Tôi phải mất ba bốn ngày trời mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò, những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm ... khi biết tôi là tù được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người Việt Nam vẫn còn đây chứ không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.
Dọc đường về, nhìn đâu cũng thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.
Đến nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm ra đi mỗi ngày một nhiều.
Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.
Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi, nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia đình tôi mới đến được bến bờ tự do.
Hôm nay, những người bà con đến chung vui, có ông bạn trẻ Đinh Đoan tặng cho bài thơ « Đố Ai » :
Người ơi có nhớ năm nao
Cái ngày tan tác ba đào thương đau
Đố xem kẻ kẹt trên tàu
Đảo Guam phải đến dạ sầu nhớ ai
Mênh mông với nỗi u hoài
Theo tàu Thương Tín đưa ngài về quê
Gian nan khổ ải chẳng nề
Ai ngờ bóc lịch ê chề thảm thương
Ra tù với nỗi sầu vương
Ngược xuôi dẫn vợ tìm đường vượt biên
Trời cao cũng độ kẻ hiền
Giúp ông tìm được đến miền tự do
Thiên đàng kia vẫn còn chờ
Gia đình hạnh phúc ước mơ đã thành.
Hỏi em hỏi chị hỏi anh
Xin cho tôi biết quí danh của ngài ?
Mục Đồng ở New York có bài thơ « Ông Là ... » hoạ lại :
Tôi còn nhớ chuyện năm xưa.
Cái ngày tan tác như vừa hôm qua
Tuần duyên vượt sóng hải hà
Đưa chàng chiến sĩ rời xa quê mình
Nhưng sau vì nghĩa vì tình
Nên đành chấp nhận hy sinh trở về
Bao nhiêu gian khổ chẳng nề
Dù cho bóc lịch ê chề thảm thương
Cuộc đời dâu bể khôn lường
Bao đêm dắt vợ tìm đường ra khơi
Hình như cũng thuận ý trời
Qua cơn bĩ cực đến thời thái lai
Ông là : bác Ngọc chứ ai
Đêm đen bỏ lại, tương lai đang chờ
Mừng vui hai chữ tự do
Gia đình đoàn tụ giấc mơ đây rồi
Phải ! Giấc mơ đây rồi. Giấc mơ này tôi đã ao ước từ 12 năm trước, mong được đoàn tụ với mọi người trong gia đình. Đến nay mới đạt được, và tôi đã phải trả một giá quá đắt.
Hơn 15 năm ở xứ Huê Kỳ trôi qua thật nhanh, bây giờ mái tóc đã muối nhiều hơn tiêu, mà trên chỏm đầu tóc đã đi chơi hết trơn nên trọc boong như cái hột vịt lộn, tôi ngồi vò đầu ngẫm nghĩ lại thì mình đúng là ở hiền gặp lành, chung tình với vợ con nên bây giờ được vợ cưng như cái trứng mỏng, con cái ngoan ngoãn.
Tôi tuy đến muộn, nhưng biết thân biết phận mình, vợ chồng cố ráng làm ăn, nên nay cũng « đi xe hơi, ở nhà lầu, nhà có TV tủ lạnh đủ cả ; cơm ăn ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày » (just kidding). Giá mà hồi đó không trở về, có khi mình đã lấy một cô vợ Mễ, và nay thì cô ta đã xay mình nát ra như cám, "tiêu diêu nơi miền cực nhọc" rồi, mà vợ con mình cho đến bây giờ không biết ở nơi nao.
Người ta nói trâu chậm uống nước đục, mà tôi sao lại cứ được uống sữa tươi thế này ? Hoàng thiên đối với tôi như vậy nghĩ cũng là quá hậu đãi.
M Ngọc Phan, VanTuyenNet 2009/05/04
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
Thursday, October 20, 2016
30-4-75- CHU TỬ - QUÂN ĐOÀN IV - KHÁNG CHIẾN QUÂN
Sunday, April 21, 2013
VIÊN LINH * 30-4-1975 CHU TỬ
Kỷ Niệm 30 tháng 4, Nhớ Chuyện 75 Di Tản Buồn
Read 1523 times.Xin mời quý bạn đọc về nhà văn Chu Tử...
Nhà văn Chu Tử ra đi năm 1975 vào những giờ cuối của VNCH, và những
ngày Tháng Tư nghiệt ngã ấy, tàu tôi đi bị mắc cạn tại đoạn gần ngã ba
sông Nhà Bè, mà một hướng nước chảy về Cát Lái, một ngã nước xuôi dòng
ra sông Lòng Tảo, nhưng rồi được tàu bạn cứu bồ kéo ra để đi tiếp, mặc
dù súng của địch quân bắn xa xa nghe vọng trên đường chúng tiến quân
đánh chiếm Sài gòn. Cũng trên con sông Lòng Tảo ấy, nhà văn HQ Lê Bá
Thông kể chuyện di tản xưa về Chuyến Hải Trình Định Mệnh:
http://thuvien.maivoo.com/Hoi-Ky-Tuy-But-c21/Chuyen-Hai-Trinh-Dinh-Menh-d2587
http://thuvien.maivoo.com/Hoi-Ky-Tuy-But-c21/Chuyen-Hai-Trinh-Dinh-Menh-d2587
Trên đường di tản, nhà văn Chu Tử chẳng may lâm nạn và đã qua đời, xin quý ACE xem bài viết của hay nhà văn Hoàng Hải Thủy và Viên Linh kể chuyện về Chu Tử...
Nhà văn Chu Tử chết và sống, Hoàng Hải Thủy: http://hoanghaithuy.wordpress.com/2009/11/30/chu-tu-chet-va-song/
Viên Linh ghi nhận:
Trong giới văn nghệ sĩ, 30 Tháng Tư mở đầu bằng một cái tang, cái tang đúng ngày 30 Tháng Tư: đó là cái chết của nhà văn Chu Tử. Ðúng 58 năm trước, anh ra đời cũng vào Tháng Tư, ngày 17.
Trong giới văn nghệ sĩ, 30 Tháng Tư mở đầu bằng một cái tang, cái tang đúng ngày 30 Tháng Tư: đó là cái chết của nhà văn Chu Tử. Ðúng 58 năm trước, anh ra đời cũng vào Tháng Tư, ngày 17.
Nhà văn Chu Tử (17.4.1917-30.4.1975).
Vào ngày 16 Tháng Tư 1966, nhà văn Chu Tử bị ám sát bằng 4 viên đạn xuyên qua cổ, răng, miệng, nhưng đã không chết, có thể vì đối với ông, đạn súng lục quá nhỏ. Chín năm sau, 30 Tháng Tư 1975, ông chết vì một viên đạn lớn hơn, một viên B40 từ bờ bắn lên tàu Việt Nam Thương Tín, khi con tàu này đang từ sông Lòng Tảo, Vũng Tàu, chạy ra khơi.
Nhiều thế lực ở đằng sau mũi súng không thích những Sự Thật do Chu Tử
viết ra trên báo Sống hay các báo do ông chủ trương. Ở lần ông bị bắn
năm 1966, chúng tôi đã viết một bài ngắn đăng trên Tuần báo Nghệ Thuật
mà sau này được ông trích đăng lại trong cuốn Không Hận Thù, như sau:
"Ðối với bản thân tác giả Yêu, hẳn nhiên những sự đưa đến cái chết, và
chính cái chết là một vấn đề Sống. Sống theo quan niệm của một người trí
thức hành động. Người trí thức hành động Chu Tử đã đối đầu với những
vấn đề nguy hiểm, nhưng đó là những vấn đề ông có thể kiểm soát nổi. Nếu
ông tin rằng người ta không thể giết ông vì những điều ấy, thì
niềm-tin-chu-tử không phải niềm tin của một tâm hồn thơ ngây, nhưng là
của một tâm hồn tràn trề hy vọng ở một cuộc sống tốt đẹp, cuộc sống ao
ước. Ao ước và hy vọng dĩ nhiên lại là những gì mà chúng ta không có
cách kiểm soát được..." (1)
Nhà văn Chu Tử có tên khai sinh là Chu Văn Bình, ra đời ngày 17 Tháng Tư năm 1917 tại làng Mía, Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Theo lời tự thuật của ông, vì bạn bè trong lớp sỉ nhục, sau khi đậu tiểu học, ông chỉ mất có ba năm thì thi đậu tú tài. Mất thêm mấy năm nữa, ông học Luật tới năm thứ ba, rồi nghỉ một thời gian, không rõ vì sao. Sau nghe ông đậu cử nhân Luật và trở thành một trong vài người đậu cử nhân hồi những năm cuối thập niên ba mươi, đầu thập niên bốn mươi tại tỉnh Sơn Tây. Tham gia sinh hoạt đấu tranh từ nhỏ, trong khi còn học lớp nhất trường Hưng Hóa, Chu Tử, vào đêm nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, đã theo đàn anh Nguyễn Khắc Nhu, biệt danh Xứ Nhu, phó đảng trưởng, đi hạ đồn Hưng Hóa. Thất bại, bơi qua sông trên đường rút lui, tới được bờ thì quá mệt, và quá vui, nhà cách mạng 13 tuổi ngủ một giấc, và từ đó mất liên lạc với Xứ Nhu. Ông bị tù thời Pháp, sau đó còn bị tù thời Nhật, thời Ngô Ðình Diệm, như ông viết. Tuy vậy thời Việt Minh, ông có lần ngồi xử án một vài phiên tòa địa phương.
Hồi thanh niên Chu Tử mở trường dạy học, học trò rất đông. Nhưng lòng ông không ở đó. Ông dừng lại ở văn chương, ở báo chí, văn, ông đã cho xuất bản một loạt các truyện dài mà nhan đề chỉ có một chữ: Yêu (Ðường Sáng, Saigon, 1963, tái bản 3 lần trong một năm), Sống, tức Loạn I (Ðường Sáng, 1963), Loạn (Ðông Bắc, 1964). Cuốn nào cũng là truyện dài, và truyện nào cũng đăng báo trước khi in thành sách. Thường là đăng báo của ông, như tờ Sống, hay báo do ông chủ trương, như Dân Việt, Ðời, Sóng Thần, vì với ngòi bút công phá tàn khốc, Chu Tử không còn được phép đứng tên làm chủ nhiệm một tờ báo nào nữa, sau tờ Sống.
Trong sinh hoạt báo chí, tôi ít có dịp làm việc với Chu Tử, trừ một thời gian ngắn phụ trách phần điện ảnh cho báo Sống của anh, và thời gian viết truyện dài Gió Thấp cho báo Sóng Thần do anh chủ trương. Tờ báo sau cũng gây nhiều sóng gió, và là mục tiêu của một cuộc xung đột nghề nghiệp, hay xung đột chủ trương, đến mức tàn khốc. Một trong những chuyện xảy ra, làm rung chuyển giới truyền thông lúc ấy, là vụ bắn bỏ Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm tờ Ðông Phương. Lúc ấy tôi cũng đang viết một truyện dài cho Ðông Phương. Hai tờ báo ở cùng một con đường Võ Tánh, tờ bên số lẻ, tờ bên số chẵn, đi bộ chỉ vài phút. Hai tờ báo ấy lại đang bút chiến với nhau. Ðến Ðông Phương ngồi viết xong đoạn truyện đủ in cho báo ngày hôm sau, tôi đi qua Sóng Thần ngồi làm việc tương tự, ở cái bàn ngay cửa phòng sắp chữ. Bao giờ tôi cũng lại Sóng Thần sau, vì thích cà kê ở đây lâu hơn. Ở quãng giữa hai tờ báo là phở Hà Nội, nơi các ký giả gặp nhau, cũng là nơi tôi ghé vào bảo họ lát nữa mang lên Sóng Thần cho tôi một chai bia Larue có hình trái dứa và một ly đá. Lùi về phía sau là nhà thờ Huyện Sĩ, nơi có một quán cà phê bí tất, chéo góc với quán xôi lạp xưởng của mấy mẹ con một bà người Bắc.
Một hôm đang ngồi ăn nhậu trong quán cà phê bí tất với bạn bè, Vân Sơn Phan Mỹ Trúc bị dí súng vào đầu. Một tiếng nổ. Kẻ lạ mặt, do đồng bọn chở bằng Honda hai bánh từ ngoài bước vào, giữa ban ngày, rút súng xử tử chủ nhiệm Ðông Phương, rồi rảo cẳng đi ra, leo lên sau xe Honda, mất dạng. Cái tin gây lặng ngắt trong chỗ tôi ngồi uống bia. Tôi không đi đưa đám Vân Sơn, nhìn vành khăn trắng trên đầu một phụ nữ não nùng, tôi thù ghét tên mặt tái. Theo mô tả, đó là kẻ sát nhân. Tôi nghĩ tôi đã gặp y nhiều lần. (2)
Nhà văn Chu Tử có tên khai sinh là Chu Văn Bình, ra đời ngày 17 Tháng Tư năm 1917 tại làng Mía, Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Theo lời tự thuật của ông, vì bạn bè trong lớp sỉ nhục, sau khi đậu tiểu học, ông chỉ mất có ba năm thì thi đậu tú tài. Mất thêm mấy năm nữa, ông học Luật tới năm thứ ba, rồi nghỉ một thời gian, không rõ vì sao. Sau nghe ông đậu cử nhân Luật và trở thành một trong vài người đậu cử nhân hồi những năm cuối thập niên ba mươi, đầu thập niên bốn mươi tại tỉnh Sơn Tây. Tham gia sinh hoạt đấu tranh từ nhỏ, trong khi còn học lớp nhất trường Hưng Hóa, Chu Tử, vào đêm nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, đã theo đàn anh Nguyễn Khắc Nhu, biệt danh Xứ Nhu, phó đảng trưởng, đi hạ đồn Hưng Hóa. Thất bại, bơi qua sông trên đường rút lui, tới được bờ thì quá mệt, và quá vui, nhà cách mạng 13 tuổi ngủ một giấc, và từ đó mất liên lạc với Xứ Nhu. Ông bị tù thời Pháp, sau đó còn bị tù thời Nhật, thời Ngô Ðình Diệm, như ông viết. Tuy vậy thời Việt Minh, ông có lần ngồi xử án một vài phiên tòa địa phương.
Hồi thanh niên Chu Tử mở trường dạy học, học trò rất đông. Nhưng lòng ông không ở đó. Ông dừng lại ở văn chương, ở báo chí, văn, ông đã cho xuất bản một loạt các truyện dài mà nhan đề chỉ có một chữ: Yêu (Ðường Sáng, Saigon, 1963, tái bản 3 lần trong một năm), Sống, tức Loạn I (Ðường Sáng, 1963), Loạn (Ðông Bắc, 1964). Cuốn nào cũng là truyện dài, và truyện nào cũng đăng báo trước khi in thành sách. Thường là đăng báo của ông, như tờ Sống, hay báo do ông chủ trương, như Dân Việt, Ðời, Sóng Thần, vì với ngòi bút công phá tàn khốc, Chu Tử không còn được phép đứng tên làm chủ nhiệm một tờ báo nào nữa, sau tờ Sống.
Trong sinh hoạt báo chí, tôi ít có dịp làm việc với Chu Tử, trừ một thời gian ngắn phụ trách phần điện ảnh cho báo Sống của anh, và thời gian viết truyện dài Gió Thấp cho báo Sóng Thần do anh chủ trương. Tờ báo sau cũng gây nhiều sóng gió, và là mục tiêu của một cuộc xung đột nghề nghiệp, hay xung đột chủ trương, đến mức tàn khốc. Một trong những chuyện xảy ra, làm rung chuyển giới truyền thông lúc ấy, là vụ bắn bỏ Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm tờ Ðông Phương. Lúc ấy tôi cũng đang viết một truyện dài cho Ðông Phương. Hai tờ báo ở cùng một con đường Võ Tánh, tờ bên số lẻ, tờ bên số chẵn, đi bộ chỉ vài phút. Hai tờ báo ấy lại đang bút chiến với nhau. Ðến Ðông Phương ngồi viết xong đoạn truyện đủ in cho báo ngày hôm sau, tôi đi qua Sóng Thần ngồi làm việc tương tự, ở cái bàn ngay cửa phòng sắp chữ. Bao giờ tôi cũng lại Sóng Thần sau, vì thích cà kê ở đây lâu hơn. Ở quãng giữa hai tờ báo là phở Hà Nội, nơi các ký giả gặp nhau, cũng là nơi tôi ghé vào bảo họ lát nữa mang lên Sóng Thần cho tôi một chai bia Larue có hình trái dứa và một ly đá. Lùi về phía sau là nhà thờ Huyện Sĩ, nơi có một quán cà phê bí tất, chéo góc với quán xôi lạp xưởng của mấy mẹ con một bà người Bắc.
Một hôm đang ngồi ăn nhậu trong quán cà phê bí tất với bạn bè, Vân Sơn Phan Mỹ Trúc bị dí súng vào đầu. Một tiếng nổ. Kẻ lạ mặt, do đồng bọn chở bằng Honda hai bánh từ ngoài bước vào, giữa ban ngày, rút súng xử tử chủ nhiệm Ðông Phương, rồi rảo cẳng đi ra, leo lên sau xe Honda, mất dạng. Cái tin gây lặng ngắt trong chỗ tôi ngồi uống bia. Tôi không đi đưa đám Vân Sơn, nhìn vành khăn trắng trên đầu một phụ nữ não nùng, tôi thù ghét tên mặt tái. Theo mô tả, đó là kẻ sát nhân. Tôi nghĩ tôi đã gặp y nhiều lần. (2)
Trong không khí đó, những cuộc xung đột trong làng báo không còn là
những bài báo xuông nữa. Ngay trong nội bộ cũng gay cấn. Anh Chu Tử, tuy
là người đứng chủ trương nhật báo Sóng Thần, nhưng lại không thoải mái
khi tới tòa soạn. Rồi chẳng bao giờ anh tới nữa, nằm nhà lãnh lương, rút
xì phé. Có khi chỉ có ba người, chúng tôi cũng vẫn rút, cho anh đỡ
buồn. Nhất là khi trong ba người lại có một anh Việt Cộng hồi chánh như
Kim Nhật - tác giả cuốn Cục R - cò gỗ mổ cò thật như hôm đó, thì chán
biết nhường nào? Anh nhắc tôi kể chuyện phim ráng viết cho dài, như một
cái truyện ngắn, vì tôi thường viết ngắn, chủ trương đủ ăn thì thôi, hôm
nay đong gạo hôm nay, chuyện mai mai tính.
Một hôm anh bảo tôi, khi tôi đã leo lên cái xe Lambretta định đi. "Này cái chuyện phim hôm rồi cậu viết dài hơn nửa trang như thế là được, tuy nhiên cậu lại không viết nhan đề. Tôi thấy tên phim là La Chevauchée, tôi đặt là Ðoàn Kỵ Mã đấy. Ðược không?" Dĩ nhiên là được. Chị Gilberte Nguyễn Văn Lợi, chủ hãng phim Columbia tại Sài Gòn đưa cho tôi tờ Ciné-Revue, trong có thuật chuyện phim này, sắp chiếu ở Eden hay Ðại Nam gì đó, tôi phải chuyển ra Việt ngữ, tôi đã xem phim đó đâu mà nói được hay không được. Tôi cũng chẳng nhớ nội dung câu chuyện như thế nào, vì tài tử cưỡi ngựa bắn súng cỡ Randolphe Scott là tài tử tôi chỉ xem qua một lần rồi bỏ.
Nhà văn Chu Tử lìa đời trên sông Lòng Tảo, trên thuyền Việt Nam Thương Tín. Hôm đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Khi chiếc thương thuyền đang hướng ra hải phận quốc tế thì bị trúng một trái đạn pháo từ trong bờ bắn ra. Trong mấy ngàn người, Chỉ có Chu Tử thiệt mạng. Cháu Chu Sơn, con trai anh, mà cũng là phóng viên trang 3 của chúng tôi trong tờ nhật báo Tiền Tuyến, đứng bên bố nhưng không nguy hại gì. Theo Trung Tá Phạm Hậu kể lại: "Có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Ðạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tầu to lớn - tầu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự - đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái chúng tôi. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại nhà văn Chu Tử..." (3)
Theo cháu Chu Sơn kể lại với tôi, thi hài Chu Tử được bó vải, thả xuống Thái Bình Dương ngày hôm sau. Anh là thuyền nhân đầu tiên được thủy táng. Anh là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ anh rời xa Ðất Nước? Từ lúc viết văn đến khi từ trần, anh hoàn tất ý niệm ban đầu của một người cầm bút, mấy ai có thể làm được như anh?
Tháng 4, 1997 (Trong Chiêu Niệm Văn Chương, chưa in) Chú thích:
1. Viên Linh, nhà văn Chu Tử, vấn đề sống, Tuần báo Nghệ Thuật, số 28, tháng 4, 1966, trang 5.
Một hôm anh bảo tôi, khi tôi đã leo lên cái xe Lambretta định đi. "Này cái chuyện phim hôm rồi cậu viết dài hơn nửa trang như thế là được, tuy nhiên cậu lại không viết nhan đề. Tôi thấy tên phim là La Chevauchée, tôi đặt là Ðoàn Kỵ Mã đấy. Ðược không?" Dĩ nhiên là được. Chị Gilberte Nguyễn Văn Lợi, chủ hãng phim Columbia tại Sài Gòn đưa cho tôi tờ Ciné-Revue, trong có thuật chuyện phim này, sắp chiếu ở Eden hay Ðại Nam gì đó, tôi phải chuyển ra Việt ngữ, tôi đã xem phim đó đâu mà nói được hay không được. Tôi cũng chẳng nhớ nội dung câu chuyện như thế nào, vì tài tử cưỡi ngựa bắn súng cỡ Randolphe Scott là tài tử tôi chỉ xem qua một lần rồi bỏ.
Nhà văn Chu Tử lìa đời trên sông Lòng Tảo, trên thuyền Việt Nam Thương Tín. Hôm đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Khi chiếc thương thuyền đang hướng ra hải phận quốc tế thì bị trúng một trái đạn pháo từ trong bờ bắn ra. Trong mấy ngàn người, Chỉ có Chu Tử thiệt mạng. Cháu Chu Sơn, con trai anh, mà cũng là phóng viên trang 3 của chúng tôi trong tờ nhật báo Tiền Tuyến, đứng bên bố nhưng không nguy hại gì. Theo Trung Tá Phạm Hậu kể lại: "Có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Ðạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tầu to lớn - tầu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự - đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái chúng tôi. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại nhà văn Chu Tử..." (3)
Theo cháu Chu Sơn kể lại với tôi, thi hài Chu Tử được bó vải, thả xuống Thái Bình Dương ngày hôm sau. Anh là thuyền nhân đầu tiên được thủy táng. Anh là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ anh rời xa Ðất Nước? Từ lúc viết văn đến khi từ trần, anh hoàn tất ý niệm ban đầu của một người cầm bút, mấy ai có thể làm được như anh?
Tháng 4, 1997 (Trong Chiêu Niệm Văn Chương, chưa in) Chú thích:
1. Viên Linh, nhà văn Chu Tử, vấn đề sống, Tuần báo Nghệ Thuật, số 28, tháng 4, 1966, trang 5.
2. Duyên Anh viết rất rõ về vụ ám hại này trong hồi ký của ông, đã xuất bản.
3. Phạm Hậu, 30.4.75, Từ sông Lòng Tảo tới Subic Bay, (theo Khởi Hành số 42, 4.2000, trang 9). Viên Linh
VƯƠNG HỒNG ANH * TỬ THỦ SAIGON
Tử Thủ Sau Lệnh Đầu
Hàng: Giết 1,000 VC, Diệt 32 Xe Tăng CS
Viet Bao -Vương Hồng Anh
30/4/1975: LỰC LƯỢNG VNCH TỬ CHIẾN TẠI
THỦ ĐÔ SÀI GÒN
Lờøi tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày 30-4-1975", nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
Lờøi tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày 30-4-1975", nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
* Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa
CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975
tại phòng tuyến Sài Gòn
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi
những người lãnh đạo tối cao của
quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra
đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay
trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người
lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung
đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng...
thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ
vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến
phút cuối cùng.
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên
các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người
lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt
động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục
chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời
lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng
quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác...
Đó là chiến tích của người lính VNCH tại
mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng
cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương
Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10
giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối
cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa,
có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập,
những trận đánh hào hùng và bi tráng của một
số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù...
trước giờ G.
* Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối
cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có
thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân
lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên
rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với
Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng
Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân
Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng
Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung
tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệtkhu
Thủ đô cũng đã "chia tay" với các
cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để
có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng
thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng
lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ
trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ
chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu
Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974,
làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu
Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử
làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng
Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư
lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng
Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công
binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các
Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng
Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng,
chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã
triệu tập một cuộc họp với các tướng
lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn
tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu
"mọi người đừng bỏ đi, hãy ở
lại để làm việc vớitất cả trách
nhiệm".
* Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn
bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25
Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng
Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn
và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc
đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật
cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân.
Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh
bị lọt vào tay địch khi ông và người
cận về gần đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975,
bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân
trừ bị để giải tỏa áp lực của
Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân
đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến
Tranh đã được điều động về
quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh
lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới
quyền điều động của bộ Tư
lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ
nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng
bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng
VNCH không thể phá vỡ được các chốt
chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên
Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm
từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi
thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích
nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ
thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy
Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng
Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào
cầu tàu chất đạn chưa được
bốc dỡ.
Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân
Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến
cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà
Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị
Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực
ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không
hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh
giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một
chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do
thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân
chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10
giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6
chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật
địch ra khỏi trậnđịa.
* Những trận đánh trước giờ G...
Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt
trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của
Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3
Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân
Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt
trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để
chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh
Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát
từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình
hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông
gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần,
sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó.
Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi
tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang
chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư
Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực
đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu,
thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn
Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng
chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn
Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để
đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng
Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng
bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng
Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu,
ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là
Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng,
đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng
lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài
về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ
Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã
bốc điện thoại quay số gọi về văn
phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh
hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng
đã trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng
Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ
bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp
Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe
tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy:
"Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây,
có chuyện gì đó?" Thiếu tá Tài trình bày:
"Tôi
đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân
ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng
bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã
liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có
ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là
Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội
để xin quyết định." Tướng Minh
trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!".
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là
như thế nào thưa Đại tướng, có
phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp:
Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng
đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng
Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay:
"Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc
Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng
thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói
tiếp: "Tổng thống phải chịu trách
nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử
chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu."
Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong
trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên
đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng
thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
"Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh,
moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống."Thiếu tá Tài
giải thích: "Tổng thống là vị lãnh đạo
tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để
có người chỉ huy Quân đội."
PHẠM CƠ THẦN * QUÂN ĐOÀN IV
Những giờ phút cuối cùng của Quân Ðoàn IV
Phạm Cơ Thần
Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV + Quân Khu 4
30 tháng 4 1975
Sau những hốt hoảng hoang mang sau lịnh đầu hàng của tổng thống
Dương Văn Minh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV Quân Khu 4, đã trãi qua những giờ
phút cuối cùng yên lặng và chờ đợi những gì sẽ xảy đến.
Lúc 10.30 giờsáng một buổi họp tham mưu của Quân Ðoàn tại Bộ Tư
Lệnh Quân Ðoàn IV Quân Khu 4, tại trại Lê Lợi nằm ngày trung tâm thành
phố Cần Thơ trên đại lộ Hoà Bình, với sự có mặt của các sĩ-quan tham-mưu
, các trưởng phòng và trưởng ban còn ở lại và với sự hiện diện đầy đủ
của các vị tư-lệnh của 3 sư-đoàn bộ binh 7, 9 và 21 cùng với các chỉ-huy
trưởng của các quân binh chủng nằm trong Vùng 4 chiến thuật.
Thiếu tướng Tư-lệnh Nguyễn Khoa Nam đã lặp lại những gì tổng thống mới nhận chức Dương Văn Minh đã nói :" Các anh giữ yên vị trí và chờ bàn giao".Xong buổi họp các sĩ-quan trở về đơn vị của mình ra lệnh lại cho đơn vị trực thuộc thi hành lệnh trên.
Riêng tại BTL/QÐIV các công vào bộ tư lệnh vẫn còn lính quân cảnh đứng gác và các yếu điểm phòng thủ xung quanh Quân Đoàn do sĩ-quan , HSQ và binh sĩ thuộc quân đoàn vẫn còn giữ nguyên vị trí, một số anh em thuộc dưới quyền của tôi từ iền đồn Xóm Chày bên kia bờ sông Cần thơ gọi về xin lịnh được trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nhưng lênh của Trung tá Chánh Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh Quân đoàn bắt các quân nhân này phải ở yên vị trí; tôi thấy rất vô lý vì đã đầu hàng rồi còn ở tiền đồn để làm gì nữa nên tội liên -lạc với gia-đình của quân nhân liên hệ để lo mướn ghe đò để đưa các anh về.
Thiếu tướng Tư-lệnh Nguyễn Khoa Nam đã lặp lại những gì tổng thống mới nhận chức Dương Văn Minh đã nói :" Các anh giữ yên vị trí và chờ bàn giao".Xong buổi họp các sĩ-quan trở về đơn vị của mình ra lệnh lại cho đơn vị trực thuộc thi hành lệnh trên.
Riêng tại BTL/QÐIV các công vào bộ tư lệnh vẫn còn lính quân cảnh đứng gác và các yếu điểm phòng thủ xung quanh Quân Đoàn do sĩ-quan , HSQ và binh sĩ thuộc quân đoàn vẫn còn giữ nguyên vị trí, một số anh em thuộc dưới quyền của tôi từ iền đồn Xóm Chày bên kia bờ sông Cần thơ gọi về xin lịnh được trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nhưng lênh của Trung tá Chánh Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh Quân đoàn bắt các quân nhân này phải ở yên vị trí; tôi thấy rất vô lý vì đã đầu hàng rồi còn ở tiền đồn để làm gì nữa nên tội liên -lạc với gia-đình của quân nhân liên hệ để lo mướn ghe đò để đưa các anh về.
Cách vài tháng trước tháng 4 1975 thiếu tướng Nam đã cho thành lập
Bộ tư lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn do đại tá Nguyễn Thành Vinh chỉ huy
đồng thời tăng cường quân số thêm 1 trung-đoàn bộ binh cho mỗi sư đoàn,
quân số này được lấy từ các đơn vị địa phương quân của 16 tiểu-khu thuộc
vùng 4 chiên-thuật; lý do tăng cường thêm quân số cho các Sư Ðoàn vì với
tính chất lưu động của Sư Ðoàn bộ binh đánh địch rất hiệu quả hơn là đơn
vị cố định địa-phương.
Bộ tư lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn IV được tạm thời đăt tại tư dinh cũ của chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cạnh Quân Ðoàn IV. Ngoài ra, tướng Nam còn chỉ thị xây lại các công sự phòng thủ kiên cố tại trại Cữu Long cạnh Sân Vận động Cần Thơ, doanh trại này trước đây của quân đội Mỹ để lại; ưu điềm của doanh trại này là kế cận sân Vận động có nhiều bải đáp cho máy bay trực thăng và gần bộ tư lệnh Quân đoàn và quân y Phan Thanh Giản.
Trong một buổi họp mật của Bộ Tham Mưu Quân Đoàn , tướng Nam cho biết trại Cữu Long sẽ là điểm di tản của Quân Đoàn nếu vì tình hình chiến sự chính quyền trung ương phải rút về Cần Thơ ; tất cả sẽ di tản đến một nơi khác, chưa được tiếc lộ; môt số người dự đoán sẽ là môt nơi nào đó ở Thái Lan; Tướng Nam còn chỉ thị Tiểu-Đoàn Truyền Tin Quân Ðoàn IV làm một lá cờ trắng và phòng 4 lo một máy phát thanh di động nhỏ, tôi được giao lo phần kỹ thuật của máy này để sẳn-sàn xử dụng phát sóng khi đài phát thanh Sài-gòn mất về tay địch.
Bộ tư lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn IV được tạm thời đăt tại tư dinh cũ của chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cạnh Quân Ðoàn IV. Ngoài ra, tướng Nam còn chỉ thị xây lại các công sự phòng thủ kiên cố tại trại Cữu Long cạnh Sân Vận động Cần Thơ, doanh trại này trước đây của quân đội Mỹ để lại; ưu điềm của doanh trại này là kế cận sân Vận động có nhiều bải đáp cho máy bay trực thăng và gần bộ tư lệnh Quân đoàn và quân y Phan Thanh Giản.
Trong một buổi họp mật của Bộ Tham Mưu Quân Đoàn , tướng Nam cho biết trại Cữu Long sẽ là điểm di tản của Quân Đoàn nếu vì tình hình chiến sự chính quyền trung ương phải rút về Cần Thơ ; tất cả sẽ di tản đến một nơi khác, chưa được tiếc lộ; môt số người dự đoán sẽ là môt nơi nào đó ở Thái Lan; Tướng Nam còn chỉ thị Tiểu-Đoàn Truyền Tin Quân Ðoàn IV làm một lá cờ trắng và phòng 4 lo một máy phát thanh di động nhỏ, tôi được giao lo phần kỹ thuật của máy này để sẳn-sàn xử dụng phát sóng khi đài phát thanh Sài-gòn mất về tay địch.
Lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh buộc Tướng Nam thì hành theo. Sau
buổi họp Quân Ðoàn mọi người nhốn nháo chạy ngượi chạy xuôi hoang mang
đến cùng cực ; riêng tôi cũng như một số sĩ quan khác chấp nhận ở lại
đến giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Quân đoàn IV; thật ra một tuần
trước đó tôi có ý định ra đi , đi theo số nhân-viên dân sự của Toà Tổng
Lảnh Sự Hoa-Kỳ tại Cần Thơ, trong những ngày sắp ra đi nghĩ đến phải
bỏ lại đồng-đội, gia-đình, cha mẹ anh chị em và thân quyến mà không
biết ngày nào gặp lại làm tôi lòng đau như cắt, đó là chưa kể nếu Miền
Nam không mất thì mình bị mang tội đào ngũ !
Trước 30-4 vài ngày có một số sĩ quan Quân đoàn trốn đi bằng phi
cơ di tản của Hoa kỳ tại Saigon, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam trong một
buổi họp tham mưu ông nói : Tôi biết có một số anh đã ra đi, một
số có ý định sẽ đi nhưng tôi hỏi các anh các anh ra nước ngoài các anh
làm được gì? Không ai lột vỏ sống đời ! thì tại sao không
chọn ở lại với viên đạn cuối cùng để bảo vệ quê hương. lời tướng
Nam đã giúp cho tôi dứt khoát bỏ ý định ra đi.
Sáng ngày 29-4 1975 Toà tổng lảnh sự Cần thơ với ông Tổng lảnh sự
Francis Terry Macnamara đã không theo lệnh di tản bằng trực thăng của
tòa Ðại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn,, ông này đã gan dạ tự tổ chức di tản bẳng
đường sông, theo dòng sông Bacsac để đi ra biển bắt tay với Hạm đội Hoa
Kỳ bằng ghe chở lúa và một tàu LCM cũ chứa một số nhân-viên Hoa-Kỳ và
hơn 300 nhân viên và gia-đình người Việt thoát đi từ Cần Thơ.
Ðêm 29-4 tôi ngũ tại chổ làm , doanh trại Quân Ðoàn IV, khoảng 9
giờ đêm chuông điện-thoại reo lên một người bạn học cũ của tôi Nguyễn
Văn Duyệt vừa cho hay :
-Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi sắp đi mày hảy về mang vợ
xuống đây cùng đi với tao , hiện tao thấy có nhiều sĩ quan quân đoàn 4
có mặt tại đây có cả ông Tư lệnh của mày nữa.
Tôi trả lời :
- Tao không tin có ông tướng Tư lệnh đi , mày check kỹ lại xem.
Duyệt trả lời :
Ông Tướng này đeo có 1 sao và to con.
Tôi biết ra ngày là ai :Chuẩn Tướng Chếch Dzềnh Quay Tham mưu
Trưỡng Quân Ðoàn 4; tôi trả lời Duyệt là tôi đã dứt khoát ở lại không
đi; và rồi Duyệt cũng không xuống tàu đi lại vì vợ con còn kẹt lại ở
Miền Trung.
Khoảng 4 gìờ chiều ngày 30 tháng 4 1975 tối thấy Chuẩn tướng Tư Lệnh
Phó Lê Văn Hưng đi tới đi lui trước các văn phòng của Phòng 1, Phòng 6
và Trung Tâm Truyền Tin Quân Ðoàn; vài phút sau toán quân canh gát của
Tổng Hành Dinh tập họp lại và chuẩn bị làm lể hạ quốc kỳ xuống. Buổi lể
này giống buổi lể hạ quốc kỳ hàng ngày vào buổi chiều, thông thường buổi
hạ quốc kỳ vào buổi chiều không có các sĩ quan nào muốn tham dự, nhưng
chiều nay mọi người hiện diện tại quân đoàn bây giờ đều linh cảm đây là
buổi chào cờ lần cuối cùng sẽ không bao giờ có dịp nhìn thấy lá quốc kỳ
thân yêu một lần nữa.
Tất cả không hẹn đều tự động đến sắp hàng tham dự , Tướng Hưng đứng ngay giữa sân đối diện với cột cờ các sĩ-quan và hạ-sĩ quan cùng binh sĩ đứng hai hàng hai bên .Lá Quốc Kỳ từ từ được hạ xuống trên gương mặt mọi người đều rưng rưng nước mắt
Tư-lệnh và Tư-lệnh Phó ở lại , các sĩ-quan Tham Mưu tuy một số đã ra đi nhưng đa số còn ở lại; phòng 6 Quân đoàn các sĩ quan Truyền Tin ở lại đầy đủ; phòng 3 , phòng 2 , phòng 1 tôi thấy khá đông sĩ quan còn ở lại.
Ngay lúc đó nếu tướng Nam muốn di tản chiến thuất cả quân đoàn như kế-hoạch di tản đã chuẩn bị trước đây vẫn còn kịp vì sư hiện diện đầy đủ của 3 Sư Ðoàn Bộ Binh và các quân binh chủng . Vùng 4 với 16 tiểu khu và một đặc khu Phú quốc vẫn còn nguyên vẹn lảnh thổ, ngay cả tiểu khu Chương Thiện kế cận mật khu U Minh của cộng-sản vẩn chưa làm gì được.Về Truyền Tin , Phòng 6 cho biết các hệ thống liên lạc đến các Sư đoàn và tiểu khu vẫn hoạt đồng điều hòa tính đến chiều tối ngày 30-4.
Trong hồi ký " Sự Thật về Cái Chết Của tướng Lê Văn Hưng "của bà Phạm thi Kim Hoàng phu-nhân của chuẩn tướng Lê Văn Hưng trong đó bà kể vì sự phản bội của 1 đại tá An Ninh Quân đội đã mang theo kế hoạch hành quân di tản của Quân đoàn 4 với phóng đồ hành quân và đặc lệnh Truyền Tin nên nên tướng Nam và tướng Hưng không thể hành quân được ! .
Theo tôi nghĩ việc này không đúng vì An Ninh Quân Ðội không thể là cơ quan phụ trách làm kế-hoạch hành quân; mọi cuộc hành quân được quyết định bởi tư lệnh của cấp đơn vị đó như trong trường này cuộc hành quân cấp Quân Ðòan phải do Tư Lệnh Quân Ðoàn quyết đinh sau khi có y-kiến của Bô tham mưu:Phòng 3 nắm rỏ tình hình các đơn vị bạn Phòng 2 báo cáo tình hình và vị trí địch, Phòng 4 phụ trách tiếp vận, phòng 6 lo về liên-lạc truyền tin . Phòng 3 làm lịnh hành quân ban hành ra trên giấy tờ mật với phóng đồ hành quân và nhiệm vụ của từng đơn vị tham dự, phòng 6 làm đặc lệnh tuyèn tin .Thông thường lịnh miệng được đưa ra trước tư-lệnh quân đoàn ra lệnh miệng trực tiếp với các tư lệnh sư-đoàn và quân binh chủng tham dự, các phòng ban liên hệ của Quân Ðoàn và Sư Ðoàn cũng lạc liên-lạc bằng điện-thoại nhanh chóng thông báo cuộc hành bằng những ám hiệu mật trước khi gửi giấy hay công điện xác nhân sau.
Xin mở một dấu ngoặc ở đây về tin tức khởi đầu cuộc hành quân được tuyệt đối giữ bí mật, ở cấp Quân Ðoàn và Sư Ðoàn, các tư-lệnh được trang bị một máy điên thoại Bảo Mật do Hoa-kỳ cung cấp điện thoại này dùng như điện thoại thông thường khác nhưng có thêm một bộ phân đặc biệt có một nút mật trên máy .Khi cần nói chuyện mật thì ấn nút này xuống tiếng nói được mã-hoá (encoding) trước khi chuyển đi qua các đường liên-lạc , nếú có bị địch chận đường dây để nghe lén thì không nghe được gì cả , vì âm thanh đã bị trộn lẩn lộn cao thấp nghe như tiếng hú . Máy bảo mật ở người nhận sẽ làm nhiệm vụ bạch-hoá (decoding) đổi âm thanh nhận được thành tiếng nói nghe được như bình thường.
Tóm lại tướng Nam muốn làm một cuôc hành quân di-tản ngay trong ngày 30-4 1975 vẫn còn kịp và nếu ông mang cả cánh quân thuộc Quân Đoàn IV với 3 Sư-đoàn mà quân số còn nguyện vẹn và còn bao đơn vị tinh nhuệ khác để di tản ra Phú Quốc hay đi qua Thái Lan (qua ngỏ Châu-đốc tiến lên tỉnh Kampot , khoảng 120 km, của Cambodia, để đến các tỉnh Thái Lan nằm cạnh Vịnh Thái Lan hay biên giới Thai Cambodia). Nếu điều này xảy ra Chiến tranh Việt Nam chắc sẽ còn kéo dài và chuyện gì sẽ xảy ra với hơn 100 ngàn quân của VNCH tử thủ tại đảo Phú Quốc hoặc biên thùy Thái Miên? và rồi liệu người ban đồng minh Hoa kỳ có nhỏ giọt viện trợ như họ đã từng làm trong quá khứ hay không ?: bất cứ chổ nào có cuốc nổi dậy thật sự để chống cộng-sản đều có được Hoa Kỳ có họ trợ giúp.
6 giờ tối ngày 30-4-75.
Tôi và một số quân nhân ngồi tại câu lạc bộ Quân Ðoàn, giờ này câu lạc bộ vẫn còn đông người như thường lệ mỗi ngày. Khoảng 1 giờ sau đó có người vào báo tin quân Việt cộng đã vào đến Dinh tỉnh trưởng, gần Bộ tư lệnh Quân đoàn, tôi vội thay thường phục và láy xe về nhà dọc đường phố bắt đầu có vài biểu ngư hoan-hô Việt Cộng.
Tất cả không hẹn đều tự động đến sắp hàng tham dự , Tướng Hưng đứng ngay giữa sân đối diện với cột cờ các sĩ-quan và hạ-sĩ quan cùng binh sĩ đứng hai hàng hai bên .Lá Quốc Kỳ từ từ được hạ xuống trên gương mặt mọi người đều rưng rưng nước mắt
Tư-lệnh và Tư-lệnh Phó ở lại , các sĩ-quan Tham Mưu tuy một số đã ra đi nhưng đa số còn ở lại; phòng 6 Quân đoàn các sĩ quan Truyền Tin ở lại đầy đủ; phòng 3 , phòng 2 , phòng 1 tôi thấy khá đông sĩ quan còn ở lại.
Ngay lúc đó nếu tướng Nam muốn di tản chiến thuất cả quân đoàn như kế-hoạch di tản đã chuẩn bị trước đây vẫn còn kịp vì sư hiện diện đầy đủ của 3 Sư Ðoàn Bộ Binh và các quân binh chủng . Vùng 4 với 16 tiểu khu và một đặc khu Phú quốc vẫn còn nguyên vẹn lảnh thổ, ngay cả tiểu khu Chương Thiện kế cận mật khu U Minh của cộng-sản vẩn chưa làm gì được.Về Truyền Tin , Phòng 6 cho biết các hệ thống liên lạc đến các Sư đoàn và tiểu khu vẫn hoạt đồng điều hòa tính đến chiều tối ngày 30-4.
Trong hồi ký " Sự Thật về Cái Chết Của tướng Lê Văn Hưng "của bà Phạm thi Kim Hoàng phu-nhân của chuẩn tướng Lê Văn Hưng trong đó bà kể vì sự phản bội của 1 đại tá An Ninh Quân đội đã mang theo kế hoạch hành quân di tản của Quân đoàn 4 với phóng đồ hành quân và đặc lệnh Truyền Tin nên nên tướng Nam và tướng Hưng không thể hành quân được ! .
Theo tôi nghĩ việc này không đúng vì An Ninh Quân Ðội không thể là cơ quan phụ trách làm kế-hoạch hành quân; mọi cuộc hành quân được quyết định bởi tư lệnh của cấp đơn vị đó như trong trường này cuộc hành quân cấp Quân Ðòan phải do Tư Lệnh Quân Ðoàn quyết đinh sau khi có y-kiến của Bô tham mưu:Phòng 3 nắm rỏ tình hình các đơn vị bạn Phòng 2 báo cáo tình hình và vị trí địch, Phòng 4 phụ trách tiếp vận, phòng 6 lo về liên-lạc truyền tin . Phòng 3 làm lịnh hành quân ban hành ra trên giấy tờ mật với phóng đồ hành quân và nhiệm vụ của từng đơn vị tham dự, phòng 6 làm đặc lệnh tuyèn tin .Thông thường lịnh miệng được đưa ra trước tư-lệnh quân đoàn ra lệnh miệng trực tiếp với các tư lệnh sư-đoàn và quân binh chủng tham dự, các phòng ban liên hệ của Quân Ðoàn và Sư Ðoàn cũng lạc liên-lạc bằng điện-thoại nhanh chóng thông báo cuộc hành bằng những ám hiệu mật trước khi gửi giấy hay công điện xác nhân sau.
Xin mở một dấu ngoặc ở đây về tin tức khởi đầu cuộc hành quân được tuyệt đối giữ bí mật, ở cấp Quân Ðoàn và Sư Ðoàn, các tư-lệnh được trang bị một máy điên thoại Bảo Mật do Hoa-kỳ cung cấp điện thoại này dùng như điện thoại thông thường khác nhưng có thêm một bộ phân đặc biệt có một nút mật trên máy .Khi cần nói chuyện mật thì ấn nút này xuống tiếng nói được mã-hoá (encoding) trước khi chuyển đi qua các đường liên-lạc , nếú có bị địch chận đường dây để nghe lén thì không nghe được gì cả , vì âm thanh đã bị trộn lẩn lộn cao thấp nghe như tiếng hú . Máy bảo mật ở người nhận sẽ làm nhiệm vụ bạch-hoá (decoding) đổi âm thanh nhận được thành tiếng nói nghe được như bình thường.
Tóm lại tướng Nam muốn làm một cuôc hành quân di-tản ngay trong ngày 30-4 1975 vẫn còn kịp và nếu ông mang cả cánh quân thuộc Quân Đoàn IV với 3 Sư-đoàn mà quân số còn nguyện vẹn và còn bao đơn vị tinh nhuệ khác để di tản ra Phú Quốc hay đi qua Thái Lan (qua ngỏ Châu-đốc tiến lên tỉnh Kampot , khoảng 120 km, của Cambodia, để đến các tỉnh Thái Lan nằm cạnh Vịnh Thái Lan hay biên giới Thai Cambodia). Nếu điều này xảy ra Chiến tranh Việt Nam chắc sẽ còn kéo dài và chuyện gì sẽ xảy ra với hơn 100 ngàn quân của VNCH tử thủ tại đảo Phú Quốc hoặc biên thùy Thái Miên? và rồi liệu người ban đồng minh Hoa kỳ có nhỏ giọt viện trợ như họ đã từng làm trong quá khứ hay không ?: bất cứ chổ nào có cuốc nổi dậy thật sự để chống cộng-sản đều có được Hoa Kỳ có họ trợ giúp.
6 giờ tối ngày 30-4-75.
Tôi và một số quân nhân ngồi tại câu lạc bộ Quân Ðoàn, giờ này câu lạc bộ vẫn còn đông người như thường lệ mỗi ngày. Khoảng 1 giờ sau đó có người vào báo tin quân Việt cộng đã vào đến Dinh tỉnh trưởng, gần Bộ tư lệnh Quân đoàn, tôi vội thay thường phục và láy xe về nhà dọc đường phố bắt đầu có vài biểu ngư hoan-hô Việt Cộng.
Chuẩn tướng
Lê Văn Hưng Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam
Tư
Lệnh Quân Ðoàn 4 Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Tư lệnh Phó chuẩn tướng
Lê Văn Hưng đã tự sát trong đêm 30-4-75, những Phan Thanh Giản của
thế kỷ 20, đã nằm xuống với khí phách anh dũng, bất khuất và kiên
cường của người chiến sĩ Công-Hoà thề chết để bảo vệ quê hương . Miền
Nam mất, tự-do , dân chủ và dân quyền , ngục tù của quỹ đỏ cộng sản
bắt đầu trùm lên đầu nhân dân từ đây.
Sau 30 năm nhớ lại Quân Ðoàn IV, nơi mà tôi đã phục vụ hơn 9 năm, không
khỏi bùi ngùi thương nhớ bạn bè, đơn vị và Cần thơ yêu dấu, thương tiếc
và tưởng niệm những anh hùng tử sĩ đã bỏ mình để bảo vệ quê hương Việt
Nam, bảo vệ tiền đồn của thế giới tư do ngăn chận làn sóng đỏ tàn bạo
tràn xuống các nước Ðông Nam Á. Nếu không có tiền đồn Việt Nam
Cộng Hòa thì các nước lận cận như Thái Lan, Mã Lai và Indonesia sẽ khó
tránh khỏi thảm họa cộng sản xâm chiếm trong những thập niên 50 -60.
Ngày nay Ðế quốc đỏ Liên-sô đã bị tan rả mà không một ai có thể đoán trước, Chũ-nghĩa Cộng-sản bị đại bại nhanh chóng khắp nơi, các nước Ðông Âu đã mau chóng cởi bỏ chũ nghĩa độc tài tàn bạo cộng sản để trở về thế giới tự-do. Các nước này đã nhanh chóng từ bỏ chế độ cộng-sản vì khi cộng-sản Liên sô tiến chiếm đến đâu bắt họ phải theo nên khi Liên sô tan rả thì họ quay mặt rất nhanh khác với nước cộng sản còn sót lại như Cuba , Trung cộng và Việt Nam đã tự động đem chủ nghĩa này về áp đặt lên đất nước của mình.
Cầu mong rồi đây Cộng-sản Trung quốc , Việt Nam và Cuba cũng tan rả luôn .Tự-do,dân chủ và nhân quyền sẽ sớm trở lại cho nhân dân Viêt nam.
Ngày nay Ðế quốc đỏ Liên-sô đã bị tan rả mà không một ai có thể đoán trước, Chũ-nghĩa Cộng-sản bị đại bại nhanh chóng khắp nơi, các nước Ðông Âu đã mau chóng cởi bỏ chũ nghĩa độc tài tàn bạo cộng sản để trở về thế giới tự-do. Các nước này đã nhanh chóng từ bỏ chế độ cộng-sản vì khi cộng-sản Liên sô tiến chiếm đến đâu bắt họ phải theo nên khi Liên sô tan rả thì họ quay mặt rất nhanh khác với nước cộng sản còn sót lại như Cuba , Trung cộng và Việt Nam đã tự động đem chủ nghĩa này về áp đặt lên đất nước của mình.
Cầu mong rồi đây Cộng-sản Trung quốc , Việt Nam và Cuba cũng tan rả luôn .Tự-do,dân chủ và nhân quyền sẽ sớm trở lại cho nhân dân Viêt nam.
Phạm Cơ Thần
20-4-2005
20-4-2005
Chi tiết về cái chết oai hùng của tướng Nam và
tướng Hưng xin đọc trong những websites sau đây :
Hồi Ký Của Một Tùy Viên của Lê Ngọc Danh
Sự Thật Về Cái Chết Của Tướng Hưng của bà
Lê Văn Hưng http://www.generalhieu.com/lvhung-u.htm
KHUYẾT DANH * HỒI KÝ MỘT KHÁNG CHIẾN QUÂN
Hồi Ký 1 Kháng Chiến Quân Sau 30-04-75 Tại Việt Nam.
21/06/2012 by: hh75
|
Filed under: HỒI KÝ
VIỆT BÁO * NGUYỄN CAO KỲ
Ông Nguyễn Cao Kỳ nói về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn
Tags: Sài Gòn, Bắc Việt, Ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Cao Kỳ, Việt Cộng, Hà Nội, bộ tổng tham mưu, ngày cuối cùng, Trần Văn Hương, như thế nào, tổng thống, Miền Nam, chế độ, di tản, nói về, tướng
Những năm đầu sau khi di tản sống ở Mỹ, ông Nguyễn Cao Kỳ đã viết cuốn hồi ký : “Chúng ta đã thất bại ở miền Nam như thế nào?”
Sau đây là một phần nhỏ của quyển sách ông Kỳ nói về
những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn – bắt đầu từ sau khi thất thủ
Buôn Ma Thuột.
Tôi đã định làm đảo chính
Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, tôi đề nghị tướng Cao
Văn Viên (Tổng Tham mưu trưởng – NV) tập trung pháo binh, không quân
cùng hai trung đoàn dù, hoặc biệt động quân thiện chiến, và tôi tình
nguyện chỉ huy chiến dịch tái chiếm này.
Tướng Viên đồng tình với tôi, nhưng nó đã bị Tổng thống
Thiệu bác bỏ. Nguyên nhân của sự thất bại này là sự bất đồng giữa Bộ
Tổng Tham mưu và Tổng thống Thiệu.
Nhưng sai lầm của Thiệu là biến một cuộc rút lui chiến
thuật thành một cuộc tháo chạy tán loạn, kết cục là một sự tan rã của
một đạo quân có hơn 1 triệu người được trang bị hiện đại. Không bao lâu
sau khi Quân khu 2 – Quân đoàn 2 rút khỏi Tây Nguyên cùng với hàng chục
vạn người tị nạn trong cảnh hoảng loạn, cuộc bại trận cuối cùng ở miền
Nam đã bắt đầu.
Kể từ đó tình trạng hoang mang, dao động, mất tin tưởng
lan tràn trong quân lực và lây lan nhanh như một cơn dịch. Mất Tây
Nguyên đến lúc tướng Ngô Quang Trưởng (Tư lệnh Quân khu 1, Quân đoàn 1)
tập trung lực lượng về co cụm giữa Đà Nẵng) và một số trọng điểm ven
biển, nhưng binh lính không còn biết mình chiến đấu cho ai, để làm gì ?
Sĩ quan thì miệng kêu gọi lính tử chiến, nhưng lại thúc
giục gia đình di tản. Rốt cuộc cả Quân khu 1 – Quân đoàn 1 nơi có lực
lượng mạnh nhất gồm 3 sư đoàn lính dù, lính thủy đánh bộ và bộ binh, với
xe tăng thiết giáp, không quân hùng hậu nhất đã vỡ trận và thất bại
thảm hại. Tướng Trưởng đào thoát ra biển để tháo chạy trước khi Việt
Cộng chiếm Đà Nẵng.
Sau đó người Mỹ đến mua chuộc, thuyết phục tôi. Họ bảo
nếu tôi nghe họ thì dù miền Nam có thua trận, họ vẫn bảo đảm cho cả gia
đình tôi ra nước ngoài và chu cấp suốt đời. Vào giữa tháng 4/1975 Martin
và tướng CIA Timmes đã đến gặp tôi tiếp tục thuyết phục trong hai giờ
liền.
Nhưng tôi vẫn giấu Martin về ý định của mình – nếu có lực lượng, tôi sẽ dùng không quân và lính dù làm đảo chính lật đổ Thiệu.
Đến ngày 20/4, nhiều tin đưa về Bộ Tổng Tham mưu nói
rằng có tới 15 sư đoàn Bắc Việt đã áp tới gần vành đai phòng thủ bên
ngoài Sài Gòn, một số đơn vị đặc công đã tiến vào khống chế sân bay Biên
Hòa – lớn thứ hai ở miền Nam, ngoài ra còn 3 sư đoàn Bắc Việt cũng đã
tới gần phía Tây Nam Sài Gòn.
am, đồng thời trấn an nội các Sài Gòn rằng cứ bình tĩnh, thủ
đô (Sài Gòn) không hề lâm nguy. Rồi Timmes lại bất ngờ đến gặp tôi để
thăm dò việc Mỹ đưa Dương Văn Minh (Minh lớn) ra thay Thiệu để làm bình
phong thương lượng với Hà Nội. Tôi nghĩ nước cờ quái gở này là một phần
trong chính sách của Nhà trắng đã được vạch sẵn – thể hiện đã tới hồi Mỹ
bỏ rơi miền Nam. Martin đã buộc Thiệu phải từ chức hôm 21/4.
Nhớ lại, tôi không quên khi đó Thiệu – 52 tuổi, tuyên bố trong bài diễn văn thật thống thiết rằng Thiệu bị buộc phải từ chức, đồng thời cùng lúc ấy từ dinh Độc lập chúng tôi đã nghe thấy tiếng đại bác của Việt Cộng đã nổ ở ngoại ô Sài Gòn. Kế vị Thiệu là Phó Tổng thống Trần Văn Hương; một ông già chân tình nhưng không sáng suốt, thiếu bản lĩnh.
Sự cáo chung
Tiếp theo đó là một tuần lễ cuối cùng kinh hoàng và hỗn
loạn. Đến ngày 26/4, quân đội Bắc Việt đã cắt đứt Sài Gòn với đồng bằng
Sông Cửu Long – nơi cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm chính và nằm
trong kế hoạch quân đội Sài Gòn sẽ lui về giữ đồng bằng miền Tây một khi
Sài Gòn thất thủ. Thế là Sài Gòn bị cô lập.
Tiếp theo, chiều 28/4 Việt Cộng đã dùng máy bay phản
lực A37 của Mỹ dội bom vào căn cứ Tân Sơn Nhất, càng gây nên sự hỗn loạn
không thể nào vãn hồi được trật tự. Tới lúc này tôi cảm thấy những tai
họa khủng khiếp sẽ xảy ra nếu chúng tôi không đầu hàng.
Song dẫu tuyệt vọng, tôi vẫn nuôi hy vọng thuyết phục
Trần Văn Hương – tân Tổng thống bổ nhiệm tôi nắm lấy và chỉ huy quân đội
để cứu vãn tình thế. Nhưng ông ta không chấp nhận.
Điều này cũng có nghĩa là trong hàng ngũ tướng lĩnh
chúng tôi không ai có thể làm gì được nữa. Và rồi sau một tuần làm Tổng
thống, với áp lực của người Mỹ, Trần Văn Hương lại phải giao chức lại
cho Dương Văn Minh, 59 tuổi, người được đại sứ Martin che chở và yêu cầu
lưỡng viện Quốc hội ủng hộ.
Sài Gòn chính thức phê chuẩn Minh lớn làm tổng thống
ngày 28/4. Cùng ngày, lúc gần 10 giờ đêm, quân đội Bắc Việt bắt đầu nã
đại bác và tên lửa vào nhiều nơi trong thành phố Sài Gòn.
Tiếp theo sáng 29/4 quân đội Bắc Việt lại nã pháo dữ
dội vào đường băng chính của sân bay Tân Sơn Nhất và trúng kho nhiên
liệu bùng phát những đám lửa và cột khói lớn, nhiều máy bay trên đường
băng nổ tung.
Không nghi ngờ gì nữa, đợt tấn công cuối cùng đánh
chiếm Sài Gòn đã mở màn, giờ cáo chung của chế độ Cộng hòa Nam Việt Nam
đã điểm, không cách gì ngăn cản nổi. Lúc này tôi chợt nghĩ và tự hỏi –
phải chăng người Mỹ ngây thơ tin rằng Minh lớn “có giá” để Hà Nội chấp
nhận thương lượng!
Trước tình thế quá quẫn bách không còn biết làm cách
nào để đối phó hãm đà tấn công của Cộng sản lại, tôi vội vã đánh xe lao
ngay tới Đại sứ quán Mỹ – thì bên ngoài một cảnh hỗn loạn, nhốn nháo,
hốt hoảng chưa từng có trước một sứ quán của một quốc gia hùng mạnh nhất
thế giới - mà đội quân bảo vệ sứ quán – những tay súng thủy quân lục
chiến Mỹ hộ pháp với khẩu M16 lăm lăm trên tay vẫn đành bất lực.
Lúc này là cuối ngày 29/4, mặc dù hết sức cố trấn tĩnh
để trấn an nội các mới của tướng Minh lớn, nhưng đại sứ Martin đã không
giấu nổi cảnh tuyệt vọng đang diễn ra ngay trước sứ quán của ông – người
đại diện cao nhất của Hoa Kỳ ở Sài Gòn lúc này.
Được biết Martin còn cố nán lại để chờ thông tin từ
trại David xem có hy vọng gì về sự chấp nhận thương lượng của Bắc Việt
không. Nhưng rồi tất cả đều đã muộn và đổ vỡ. Hà Nội tiếp tục lệnh cho
các cánh quân thần tốc đánh vào nội đô, và mờ sáng hôm sau Martin đành
phải lao lên trực thăng trên sân thượng của sứ quán Mỹ để ra tàu của hạm
đội 7 đang neo đậu chờ ngoài khơi theo lệnh của tổng thống Ford từ Nhà
trắng.
Tôi lại đánh xe đến Bộ Tổng tham mưu, nhưng lúc này,
tướng ba sao Đồng Văn Khuyên, Tổng tham mưu trưởng chính thức vừa được
Minh lớn bỏ nhiệm thay tướng bốn sao Cao Văn Viên – cũng đã bổ nhiệm Sở
tháo chạy và rời Sài Gòn ít giờ trước đó. Lúc này cả ngày 29 và đêm sáng
30/4 trên bầu trời Sài Gòn đầy rẫy từng đàn trực thăng Mỹ lao vào, lao
ra như con thoi để chở các quan chức Mỹ di tản, nhưng cao xạ của Việt
Cộng không cần bắn vào những kẻ đã bỏ chạy.
Đến lúc này tôi thực sự cảm nhận một cách cay đắng rằng
mọi hy vọng đều đã tiêu tan. Và, tôi tự lái chiếc trực thăng riêng của
mình ra chiếc tàu của hạm đội 7 để cùng di tản với ông Martin sáng hôm
30/4, còn gia đình tôi thì đã rời Nam Việt Nam trước đó mấy ngày.
Bùi Đình Nguyên tóm lược
|
||||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Tìm hiểu: Sài Gòn, Bắc Việt, Ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Cao Kỳ, Việt Cộng, Hà Nội, bộ tổng tham mưu, ngày cuối cùng, Trần Văn Hương, như thế nào, tổng thống, Miền Nam, chế độ, di tản, nói về, tướng
TIÊU NHƠN LẠC * MỘT KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ĐÊM 30/4/1975
Hồi Ký của Tiêu Nhơn Lạc (MĐC67)
Tôi và bà xã đang ăn cơm, lúc đó khoảng 7 giờ tối ngày 30/4/75, thì có một toán VC mặc đồ đen,dép râu, nón tai bèo, mang súng AK và M16, cổ quấn khăn rằn màu TQLC.
Tôi nghe bước chân họ nện trên sàn cement, vừa đi vừa nói chuyện lung tung (sau khi đã "tiếp thu" xong thị xã An Xuyên Cà Mau vào buổi trưa), đi ngang qua nhà tôi đang trú ngụ (Tôi mướn nhà của thương phế binh VNCH). Tôi vội ngừng đũa và ngẩng mặt nhìn ra phía cửa, vừa lúc đó một anh "giải phóng quân" nhìn ngoái lại phía tôi, rồi vội vã bước vào trong nhà tôị. Anh ta mỉm cười thật tươi, như mừng rỡ khi gặp lại người thân quen, anh ta ấp úng:
- Ông... Thiếu úy Lạc phải hông? Tôi thoáng chút ái ngại và đề phòng thận trọng.
- Dạ, phải! Tôi đây. (Người này không biết tôi đã thăng cấp bậc Trung úy từ năm 1972 rồi)
- Thiếu úy không nhận ra em hả? Em là Hấu ở Đại đội 473 năm Th/úy làm Đại đội phó đó
Tôi lấy lại chút bình tĩnh khi nghe người "giải phóng quân" tự xưng là em. Tôi liền cho bộ não của tôi "phản hồi" dòng ký ức thật nhanh về những ngày tháng cũ khi tôi làm ÐĐP/ÐĐ473 thuộc CK/ Hải Yến Cà Mau. Tôi tự tin khi nhớ chính xác ra ngay tên Lê văn Hấu là một âm thoại viên thuộc Trung đội 1 của Chuẩn úy Khánh đã đào ngũ trong một phiên gác đêm tại tiền đồn ở CK/ Hải Yến cách nay đã 3,4 năm rồi... Đêm hôm đó, vị trí Hấu từng gác mỗi đêm bị bỏ trống khi anh Trung Sĩ Nhu đi tuần tra phát hiện được. Lục lọi, hỏi han trong trung đội chẳng thấy bóng dáng Hấu đâu, thì ra Hấu đã "chuồn" ra khỏi trung đội qua lối cửa hậu (không có gài lựu đạn và trái sáng) mà không ai hay biết Hấu đã ra đi từ lúc nào trong phiên gác của Hấụ. Kiểm điểm lại thì thấy máy PRC25 vẫn còn nằm phía trên giường ngủ của Hấu và của Ch/úy Khánh, chỉ mất một M16 với 2 cấp số đạn cùng vàì trái lựu đạn cá nhân của Hấu mang thôi.
Trước măt tôi bây giờ, Hấu vẫn còn mang dáng nét của một người lính nông dân, mộc mạc, thật thà. Hấu lại mỉm cười lần nữa như muốn nhắc nhở tôi một sự việc đã xảy ra cách nay vài năm, trong lúc tôi vừa nhận ra Hấu trong tức khắc.
À! Tôi nhận ra Hấu rồi... Tôi dã lã bước tới vỗ vai Hấu, ỡm ờ như thân thich. Liền khi dó, hai người "giải phóng quân" trẻ khác từ ngoài sân bước vào trong nhà tôi, nhỉn thấy cảnh 2 người tôi như thân mật. Họ gật đầu chào tôi. Lúc này, tôi đang mặc bộ đồ bà ba đen của Xây Dựng Nông Thôn trông cũng giống đồ lính giải phóng quân lắm, tôi gật đầu chào lại. Họ mà trong lòng quá ư hồi hộp vì không biết việc gì sẽ đến với tôi đêm nay. Thình lình, Hấu quay qua 2 người giải phóng quân giới thiệu tôi:
- Ông.. Thiếu úy Lạc, đai đội phó đại đội 473 của tao hồi trước đó. Nghe qua lời giới thiệu của Hấu xong, tôi thoáng "lạnh xương sống". Phải chi, giữa ba quân của ta mà được giới thiệu như vậy thì cũng không có gì để nóí; đàng này, ngay giữa đêm 30/4/75 trong lúc "trắng đen, vàng thau" lẫn lộn, mình lại là kẻ "sa cơ" mà nghe qua lời giới thiệu thật "rùng mình", cơ hồ như mồ hồi đang "rịn" ra . Tôi còn nhớ, lúc đó tôi nhăn nhó khó chịu lắm và cảm thấy không chút thiện cảm, ân cần nào khi bỗng nhiên phải giáp mặt với những người anh, em phía bên kia; trong lúc tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần để đối phó. Màn giới thiệu của Hấu xong, Hấu giục tôi đừng ăn cơm nữa, "đi chơi" với Hấu đêm nay, vừa nói với tôi mà cũng vừa nói để bà xã tôi nghe. Tôi nhìn qua thấy bà xã tôi đứng thẫn thờ như kẻ mất hồn mà không mở miệng được lời nàọ. Tôi quay bước định vào buồng trong lấy ít tiền đem theo, Hấu nhanh nhẩu lên tiếng:
- Thiếu úy đừng lấy gì theo hết, em có tiền mà...! Tôi đành quay phắt trở lại và nói với bà xã tôi vài lời trước khi theo mấy anh, em phía bên kia "đi chơi".
Vừa đi song song với Hấu qua các dãy phố đêm trong thị xã Cà Mau dưới ánh đèn điện vàng nhạt không đủ sáng,sau lưng là 2 anh lính giải phóng quân; tôi ngỡ như mình đang bị "áp tải" đến một cơ quan nào trong đêm nay vậy. Tôi đi như người bị "mộng du". Thật ra, tôi cũng chưa biết được ý định của Hấu như thế nào đối với tôi - một cấp chỉ huy cũ - khác chiến tuyến với Hấu. Trong lúc nàỵ tôi tự xét lòng mình thấy không có gì "phiền phức, buồn lòng" với người anh em phía bên kia khi tôi còn là ĐÐP/ĐÐ473; giữa 2 chúng tôi khi xưa cũng không xảy ra chuyện gì để phải lưu tâm, hận thù. Tôi yên chí đi bên Hấu, nhưng cũng không làm sao "trấn an" được lòng mình. Hấu dẫn tôi cùng 2 người bạn phía bên kia đi lòng vòng qua nhiều khu phố mà đêm nay nhộn nhịp như hội chợ. Các hàng quán còn bán buôn "ỳ xèo" như cùng mừng "trong ngày vui đại thắng". Tôi cũng không dám hỏi Hấu nguyên nhân tại sao Hấu bỏ đơn vị ra đi theo phía bên kia, ngược lại, Hấu hỏi han tôi rất nhiều về các anh, em trong ĐÐ473 và Hấu nói cũng dã từng theo dõi "bước hành quân" của ĐÐ473. Hấu nói nhiều như để lấp đầy khoảng trống "ngột ngạt" của buổi tao ngộ bất đắc dĩ này... Tôi được Hấu đưa đi ăn uống no nê mà Hấu cứ giục tôi ăn thêm gì nữa đi: Thiếu úy đừng lo, em có tiền mà!! Cứ mỗi câu nói: Thiếu úy đừng lo, em có tiền mà ... làm tôi thêm "ngượng ngùng". Dần dà, tôi lấy lại được chút bình tĩnh, khi tôi tạm đánh giá đêm hội ngộ này là không có vấn đề "ân oán", mà tôi luôn nhủ rằng Hấu là "bạn" của tôi xa nhau lâu ngày mới gặp lại. Hấu đưa tôi vào một tiệm chụp hình. Tôi hết sức lưỡng lự mà không sao từ chối được. Tiệm chụp hình đêm nay cũng "hốt bạc", vì người anh em phía bên kia vào, ra chụp hình như đi trẩy hội...
Vào khoảng gần 12 giờ đêm, Hấu đưa tôi trở về nhà. Tội nghiệp bà xã tôi ở nhà trông đợi mỏi mòn, lòng bà xã như lửa đốt, đứng, ngồi không yên. Thấy tôi trở về an toàn với Hấu, bà xã lặng thinh rướm nước mắt.
- Thiếu úy ở nhà nghỉ. Đừng đi ra ngoài nghe. Sợ nhóm khác tụi nó làm ẩu
Nghe qua lời căn dặn ân cần của Hấu, thực tình tôi biết ơn tấm lòng của Hấu lắm. Nghĩ cho cùng ,Hấu đối với tôi đêm nay rất chân tình như huynh đê chi binh... Lời dặn dò của Hấu như muốn bảo vệ, che chở cho tôi trong cái "quyền hữu hạn" của một người lính giải phóng quân hèn mọn trong ngày "tiếp thu" thị xã Cà Mau còn biết thương, yêu một cấp chỉ huy cũ của mình nay đã "xuống ngựa". Bắt tay tôi từ giã Hấu nói thòng thêm một câu:" Nếu ngày mai em còn ở lại thị xã, em ghé qua thăm Thiếu úy lần nữa."
Tôi quay trở vào trong nhà mà lòng nghe bối rối, tôi bàn với bà xã là sáng sớm ngày mai (1/5/75), Tôi phải tức tốc rời khỏi thị xã Cà Mau về quê quán của tôi là Trà Vinh trước, bà xã tôi ở lại lo thu xếp đồ đạc gởi nhà bà con bên vợ tại Cà Mau rồi về Trà Vinh sau. Vài ngày sau bà xã tôi về đến Trà Vinh với gương mặt hốc hác như người bị bịnh lâu ngàỵ. Tôi đươc biết, từ sau ngày tôi rời Thị xã Cà Mau, thì Hấu cũng không đến nữa; trong khi đó ban quân quản ra lệnh đuổi tất cả những gia đình trú ngụ trong các dãy nhà thương phế binh trong vòng 1 tuần lễ, nên bà xã tôi tất tả "di tản" bỏ lại tài sản của tôi tại dãy nhà TPB cho "kách mạng".
TIÊU NHƠN LẠC
Cuu SVSQ K6/68/TB/TD
Newyork City
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
THÁNG 4-1975
NGUYỄN VĂN LỤC * SAIGON SAU 1975
Bộ Mặt Thứ Hai Của Sài Gòn Sau 30-4-1975
“Hãy sống dùm tôi
Hãy nói dùm tôi
Hãy thở dùm tôi…”
(Trịnh Công Sơn)
Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, có một sự im lặng sâu
thẳm. Nhưng trong bóng đêm, tôi đả nghe rõ được tiếng của im lặng. Cái
im lặng của cõi đêm, của một trống rỗng, của một hố thẳm, của một mảnh
đời đang sống đã khép lại. Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn
lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc
lát đã mất hút.
Niềm hy vọng như cạn mòn.
Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi? Và 50
binh sĩ Hoa Kỳ còn sót lại? Mà Neil Sheenan trong Innocence perdu đã
từng nói: “Cette guerre que nous n’aurons jamais gagné’’ (Trận chiến mà
chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng). Mà nay chúng ta chuẩn bị một cuộc
hành trình qua sa mạc (une traversée du désert) với khô héo cạn kiệt hy
vọng, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy.
Trưa 30-4-1975, ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô
tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Bụng tự nhiên nhói lên từng lời.
Vui chưa thấy, lo thì như ứa tràn. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra
sao? Đó cũng là mối lo của tất cả mọi nguời. Chiến tranh đã chấm dứt.
Đáng nhẽ phải vui mà hóa buồn.
Hết rồi cảnh chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân. Có sự im lặng
nặng nề như một con vật chờ chết trong nỗi tuyệt vọng. Ván bài chơi đã
xong. Ngoài đường, 8 chiến xa T-54 đã vào thành phố trên đại lộ Thống
Nhất. Nhiều nhà đóng cửa rồi từ trong nhà ngó ra xem động tĩnh. Chỉ có
một thiểu số người dám ra đường đứng thản nhiên nhìn đoàn xe cộ đi qua.
Bộ đội tỏ ra ngơ ngác và kỷ luật. Họ dơ tay vẫy chào ngượng ngập.
Mãi vào lúc 16 chiều ngày 30-4-1975, ba vị thuyết khách của ông Dương
Văn Minh, thuộc thành phần thứ ba là luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư
Châu Tâm Luân và Linh Mục Chân Tín mới từ trại David Tân Sơn Nhứt ra về.
Các ông là những người được tướng DVM cử làm đại diện vào trại David
chiều ngày 29-4-1975 để thuyết phục những người của Mặt trận với lời yêu
cầu họ đừng đánh phá Sàigòn. Các tướng Nguyễn Anh Tuấn và Đại tá Võ
Đông Giang đã hứa chỉ pháo chút ít để làm áp lực với tướng DVM mà thôi.
Quân Bắc Việt đã tiến quân vào TSN nên các ông bị kẹt lại cho đến chiều
30 tháng tư mới ra về được.
21 năm sau, ngày 28-1-1996, Chân Tín trả lời phỏng vấn đài VNCR đã
nói khác: “Chúng tôi ngồi yên nhìn cái ngu dốt và cái sa lầy của một chế
độ đang trên đà tan rã”.
Nay, mới đây nghe tin ông ra tờ báo chui. 82
tuổi đầu tưởng đã tự cho phép mình hưu tranh đấu. Ông vẫn chưa ngưng
nghỉ. Điều gì khiến một nguời đã tạm quay mặt với Chúa để theo Cách
mạng, nay trở thành kẻ đối đầu với chính những điều xác tín của mình?
Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt khô khan của bánh xe nghiến
trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài gòn như oặn mình
dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích
sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy
vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của
Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những đường phố
lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào. Praha, Sài gòn, ngạo nghễ và tủi
nhục.
Những chiến xa trên có cắm cờ của mặt trận Giải Phóng miền Nam như
niềm hy vọng nhỏ nhoi của người Sài gòn. Niềm hy vọng mong manh mà đằng
kia là cuối đuờng.
Những chiếc chiến xa đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho nguời ta
có cảm tưởng đường Tự Do của miền Nam là đại lộ Champs-Élysées của
Paris… Nhưng Champs-Élysées của Paris vào tháng 8-1944 là cả một biển
người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng giải thoát, chỉ
có tiếng cười và nước mắt hoan lạc.
Nhưng Champs Élysées thì không phải đưởng Tự Do ở Sài gòn. Đường Tự
Do không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt. Ở
một góc phố cạnh hotel Majestic, người ta thấy một nhóm nhỏ người đứng
nhìn chiến xa đi qua. Bên kia đường, có một thanh niên mặc quần tây áo
trắng bỏ ngoài quần, chắp tay đứng nhìn. Không có biển ngưòi mà cũng
không có tiếng vỗ tay reo hò. Và 125 nhà báo ngoại quốc đứng ở đâu đó.
Họ còn ở lại để chứng kiến cảnh tháo chạy, cái cảnh mà Bảo Ninh đã mô
tả trong truyện ngắn Ba lẻ một: chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo,
đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc và cảnh tiến tới ồ ạt của
những T54 và K63, như một cơn lốc bẳng thép xé mặt lộ lướt tới với thần
tốc kinh hồn, là phẳng mọi chướng ngại trên đường, nhắm hướng Nam truy
kích…
Đài phát thanh Sàigòn mở đầu bằng tiếng hát Trịnh Công Sơn. Tiếng hát một thời. Tiếng hát của một đời người.
Anh cất tiếng hát không phải khúc ca da vàng, nhưng lạc lõng với bài:
Nối Vòng tay lớn bên cạnh đám bạn bè anh, trong đó có Nguyễn Hữu Thái,
một SV tranh đấu.
Dân Sài gòn đã đón tiếp quân Giải Phóng như thế. Một nhúm người người
dân ngơ ngác, 125 nhà báo và TCS với Nối Vòng Tay Lớn. 8 chiến xa có
trang bị kính nhắm hồng ngoại tuyến dùng cho những cuộc đánh nhau ban
đêm? Chả còn gì để dấu diếm nữa. Những chiến xa Liên Xô từ ngoài Bắc
chạy thẳng vào chứ đâu phải của mặt trận giải phóng miền Nam? Trên chiến
xa có cắm cờ MTGPMN. Nhưng cắm một lá cờ thì không lẽ đủ để thay đổi
nguồn gốc một lịch sử.
Trong khi đó, ông Minh và toàn bộ chính phủ ông đã chờ sẵn tại dinh
độc lập để trao quyền hành lại cho những người chủ mới. Người ta không
thấy có một đại diện nào của MTGPMN. Nhiều người chê trách ông Minh hèn
“bán đứng miền Nam”. Nếu ông Minh hèn thì những kẻ chạy vắt giò lên cổ
từ những ngày cuối tháng tư phải gọi bằng tên gì? Kẻ trốn chạy và kẻ ở
lại lãnh thẹo, ai hèn hơn ai? Sài gòn lúc đó như một bãi rác với đủ thứ
rác: rác Mỹ, rác quân đội với súng ống, quân trang, quân dụng vứt bừa
bãi, rác chính quyền tham nhũng. Cùng lắm, ông Minh chỉ là người không
thức thời cúi mình xuống nhặt cái danh chính quyền bị người ta vứt lại
từ đống rác đó.
Lại còn vấn đề trao cái chính quyền đó vào tay ai? Chẳng biết nữa,
người nói ông Bùi Tín, người nói Chính ủy Tùng. Theo Stanley Karnov,
trong Viet Nam viết: “Ngồi trên một chiến xa vào dinh độc lập, Ông Bùi
Tin chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân
chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là sĩ quan cao cấp trong đơn vị của ông,
ông muốn chính ông tiếp nhận sự đầu hàng này.Tôi chờ các ông từ sáng nay
để trao quyền hành lại cho các ông, đại tướng Minh đã nói như thế khi
ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao
quyền hành. Quyền hành của các ông còn đâu để mà giao. Ông không thể
giao một cái mà ông không có.”
Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu sau đây:
“Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại. Chỉ có người
Mỹ là kẻ bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mừng,
vì chiến tranh đã không còn nữa trên quê hương của chúng ta”.
Từ đó đến nay, đã hơn 30 năm, người ta vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện. và nó sẽ không bao giờ được thực hiện
Cũng trong tháng 9 năm 1975, các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy còn nhắc nhở mọi người rằng: Ai còn nói ngụy là ngụy…
Hồi mất Điện Biên Phủ, cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh phải mất 56
ngày đêm. Mất Sài gòn nhanh hơn, chỉ có 55 ngày. Ít hơn một ngày. Hồi
ĐBP, chỉ mất một nữa. Lần này mất tất cả.
Phía những người thua trận.
Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại
trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói
cuối cùng.
Thiếu Tá Long, Cảnh sát Quốc Gia đã đến đứng trước tượng TQLC trước
tòa nhà Quốc Hội ở Sàigòn rồi rút súng tự sát. Ông đã nằm chết ngay dưới
chân pho tượng.
Trung sĩ Quân Cảnh Trần Minh, thuộc đại đội một quân cảnh phụ trách
an ninh khu vực Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc 10 giờ 30, sau khi nghe tin đầu
hàng, trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ TTM.
Thêm vào đó là những cái chết của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh
sư đoàn 5 bộ binh. Chuẩn tướng Trần văn Hai, sư đoàn 7 bộ binh. Thiếu
Tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân khu 2. Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh
phó quân đoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4.
Những cái chết anh dũng. Nhưng đã thay đổi được gì và có thể đại diện
cho những vị khác đã bỏ chạy không? Đó là những cái chết bằng ngàn lời
ca, bằng vạn tiếng nói.
Và kẻ chết cuối cùng vẫn là kẻ có lý.
Và tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng.Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích.
Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết. Những cái chết đó giá trị bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói.
Còn số phận những người còn lại?
Tôi ghi lại đây hình ảnh một anh lính VNCH, đi chân đất, hai tay áo rách, đầu gối rách, chắp tay. Đằng sau anh là một bộ đội mặc đồ đen, cầm súng lăm lăm và sau chót là đám đông dân làng, khoảng 6, 7 chục người khoanh tay bất lực với lời ghi chú của nhiếp ảnh viên: *Un avenir qui ne s!annonce pas vraiment radieux pour ce soldat de Thiệu: pendant combien d!années sera-t-il rééduqué. (ảnh của Abbas. Gamma). Một tương lai không mấy sáng sủa cho người lính VNCH này. Người lính này sẽ bị đưa đi học tập cải tạo trong bao lâu?
Ảnh của Abbas (Magnum Photos)
Thật ra người lính lúc đó chỉ có 3 chọn lựa: di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục để đi học tập cải tạo hoặc tìm đến cái chết. Cạnh đó là bức hình của kẻ chiến thắng. Hình một anh bộ đội chống nạng, cụt hẳn một giò đến háng, đi bên cạnh một xe tăng đã bốc cháy với lời ghi: *Après les vingt-cinq années de guerre, une photo qui résume tout (ảnh của Leroy-Gamma). Sau 25 năm cuộc chiến, một bức hình nói lên tất cả.
Cũng khoảng 2 giờ rưỡi trưa hôm ấy, những chiến xa đã từ trong dinh
Độc Lập chạy dọc theo đại lộ Catinat-Tự Do, từ nhà thờ Đức Bà ra hướng
bờ sông. Có tới mười người dụt dè dơ cánh tay vẫy chào. Nhiệm vụ của
người chiến thắng không phải là dễ. Chiếm được Sài gòn rồi, nhưng làm
sao thay vì chỉ có 10 cánh tay dụt dè dơ lên, phải nhân lên bao nhiêu
triệu lần? Phải chờ xem vậy thôi.
Vào cái giờ này của ngày chiến thắng. Toàn bộ báo chí đã ngưng xuất
bản. Gần 50 chục báo hằng ngày của Sài gòn sáng nay vắng mặt. Họ đâu cả
rồi? Tất cả liên lạc viễn thông với thế giới bên ngoài cũng bị cắt. Họa
chăng còn lại đại diện của các tòa đại sứ sau đây: Pháp, Bỉ, Nhật, Khâm
sứ tòa thánh, Thụy Sĩ và lãnh sự Ấn độ. Chế độ mới hầu như tạm thời cắt
đứt với thế giới bên ngoài. Cho mãi đến ngày 23 tháng năm, liên lạc với
thế giới bên ngoài mới được nối lại và chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài
vào ngày 24 tháng năm. Chuyến bay này chở một số người ngoại quốc còn
kẹt lại trong thành phố mà phần lớn là người Pháp.
Theo Ngũ Giác Đài, có khoảng 50 ngưởi Mỹ bị kẹt lại VN sau ngày 30 tháng tư, cộng thêm 26 người VN là vợ con của những người Mỹ này. Sát cạnh nhà tôi, có hai vợ chồng người Việt cũng ra đi theo diện quốc tịch Pháp. Trong tình huống này mới thấy người Pháp là những người tử tế. Chị họ con ông bác tên Diệp, làm y tá nhà thương Grall cũng được đi và sang Pháp cũng làm y tá lại, lương bổng ngạch trật như cũ. Chẳng bao lâu sau, có vợ chồng một đại tá, đã đến cư ngụ ờ căn nhà đó. Sau này, suốt vài năm ở cạnh nhà như hàng xóm, ra vào đụng mặt nhau, ông bà chưa bao giờ nói chuyện, hoặc chào hỏi chúng tôi lấy một lần. Điều này phải được hiểu là thế nào? Không dễ dàng gì để những người đại diện đó được nhìn nhận. Họ không có trong mắt của người Sài gòn.
Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục thì chưa tới và sẽ không bao giờ tới!
Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc đã để lại một di sản thừa như một cục bướu ung thư cần nhổ. Đó là MTGPMN. Mặt trận này đối với trí thức thành phần thứ ba hay đối với sinh viên VN hải ngoại chỉ dẫn đưa họ đến một kết quả là: những ảo tưởng vĩ đại (grandes illusions) và đối với toàn thể thế giới là một âm mưu lừa bịp trắng trợn.
Xin nhắc để mọi người cùng nhớ: những trí thức đi theo Mặt trận hồi đó gồm có các ông luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, phó chủ tịch HĐCV CPLTCHMNVN, chủ tịch UBTUMTTQVN và vợ là Ngô Thị Phú, ở Sóc Trăng. Lâm Văn Tết, Phùng Văn Cung, Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ nữ sĩ Vân Trang. Nguyễn Văn Chì, Chánh án Phạm Ngọc Thu, dược sĩ Đỗ Thu, Kỹ sư Cao Văn Bổn, Kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn Văn Ngưỡi, kỹ sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bà Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Lữ Phương, bà Bùi Thị Nga, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, nhà văn Thanh Nghị Hoàng Trọng Quỳ và vợ ca sĩ Tâm Vấn.
Thêm vào đó gs Lê Văn Hảo theo vào năm 1968, chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, thêm chủ tịch UBKNHTT. Trong dịp tờ Quê Mẹ phỏng vấn ông năm, 1999 ở Pháp, ông Hảo giải thích: dư luận gán cho ông về cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế là không đúng. Thứ nhất, lúc quân đội CS đánh Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi, nói là mời họp rồi giữ tôi ở lại luôn, không về thành phố lần nào. Cùng với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân đã theo bộ đội về Huế và tôi được biết Phan và Xuân đã từng ngồi xét xử nhiều người có quan hệ với chính quyền Sài gòn, trong những phiên xử của cái gọi là Toà Án Nhân Dân.
Sau này, các ông Trần Quang Long, Trần Triệu Luật đã chết vì bom Mỹ. Những người còn lại may mắn sống sót.
Sau 30 tháng 4, đám trí thức trên vỡ mộng. Họ không có một vị trí nào trong chính quyền Cộng Sản tương lai và danh xưng MTGPMN cũng không ai muốn nhắc tới. Chẳng bao lâu sau ngày giải phóng, cờ của Mặt trận bị cuốn gói, xếp một chỗ.
Có thể bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa là người đầu tiên xin ra khỏi đảng
CS và không tham dự phái đoàn nhân sĩ trí thức miền Nam ra ngoài Bắc. Lý
do chính là hai vợ chồng chính thức phản đối việc thống nhất hai miền
như một thứ bội phản đối với miền Nam. Đơn xin rút tên ra khỏi đảng đã
được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra một điều kiện: Phải 10 năm sau mới được
quyền công bố chính thức rút tên ra khỏi đảng. Sau này, trong bài phỏng
vấn trả lời trên tờ Far Eastern economic review (Feer) ngày 17-10-1996,
Dương Quỳnh Hoa đã trả lời câu hỏi: «Quel est l’évènement le plus
marquant pendant les 50 années passées?» bằng một phán quyết:
«L’effondrement du mur de Berlin qui mit un terme à la ‘grande
illusion’.» (Biến cố nào được coi là nổi bật nhất trong 50 năm đã qua?
Trả lời: Sự sụp đổ bức tường Bá Linh chấm dứt một thời kỳ cuả ‘ảo tưởng
lớn’).
Và nói như ông Hồ Sĩ Khuê: “Thành viên Mặt trận thực sự chẳng có bao
nhiêu. Nhưng ở Sài Gòn, sao mà ai cũng có vẻ là người của Mặt trận quá.”
Nhưng bên trong, họ chỉ làm bù nhìn. Hình nộm” ngồi chơi xơi nước” như
theo lời tường thuật của kỹ sư Trương Như Tảng. Ông Tảng vốn là một sinh
viên du học bên Pháp, có dịp gặp Hồ Chí Minh, coi HCM như khuôn mặt
lãnh tụ sáng chói nhất để chống lại người Mỹ, và trước mắt, chống lại
chính quyền Ngô Ðình Diệm đã viết: Hồi ký của một Việt cộng (A Viet Cong
Memoir) cho thấy MTGPMN chỉ là một sự dàn dựng, họ được đưa vào bưng để
làm bung xung, đánh lừa cả thế giới. Họ bị bịt mắt, dẫn đi quanh co
trong rừng.
Những buổi họp, để giữ bí mật, các thành viên mặt trận đều
bịt mặt, vì thế chẳng biết ai vào với ai. Ai là thật, ai là giả? Ðó là
kinh nghiệm đau xót của một số ít trí thức miền Nam. Trong The Myth of
Libération, Trương Như Tảng tố cáo sự dàn dựng giả dối của chính quyền
Cộng sản Hà Nội: “Trong nhiều năm, họ đã nghe Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
long trọng tuyên bố cam kết”, qua lời Tổng bí thư Lê Duẩn, rằng “Miền
Nam cần có chính sách riêng của miền Nam”. Hay như lời Thủ tướng Phạm
Văn Ðồng tuyên bố với phóng viên nước ngoài: “Chẳng ai lại có cái ý nghĩ
ngu xuẩn và tội lỗi là thôn tính miền Nam”.
William Shawcross, trên tờ Washington Post, nhận xét:* “He became the
Viet Cong’s Minister of Justice, but at the end of the war, he fled the
country in disillusionment and despair. He now lives in exile in Paris,
the highest level official to have defected from Viet Nam to the West.
This is his candid, revealing and unforgettable autobiography.” (Tạm
dịch: “Ông trở thành Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Việt cộng, nhưng
sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam với tâm
trạng bị vỡ mộng và thất vọng. Nay ông tỵ nạn ở Paris. Ông là một trong
những viên chức cao cấp nhất đã đào thoát ra khỏi Việt Nam sang Tây
Phương. Ðây là cuốn tự truyện đáng nhớ, phơi bày (nhiều chuyện) và thành
thật.”)
Vai trò bù nhìn của MTGPMN cũng được đề cập đến trong hồi ký của Vũ
Thư Hiên. Ông viết: “Trẻ con miền Bắc cũng biết Mặt trận Giải phóng là
do miền Bắc dựng nên”. Người trí thức miền Nam một lần nữa bị lừa gạt.
Riêng Nguyễn Hữu Thọ, sau 1975 được làm phó chủ tịch nước. 1981, phó
chủ tịch quốc hội, 1988, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc… Nhưng cuối cùng thì
ông cũng phải thốt ra một câu như sau: “Dân chủ không thể có bằng sự ban
ơn, mà bằng sự đấu tranh”.
Sau ngày miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, nhiều người trong bọn họ
trước đó mang ảo tưởng sẽ có vai trò, sẽ được dùng, sẽ được lãnh đạo
miền Nam, bị gạt ra bên lề một cách thảm hại, có chức mà không có quyền.
Màn lường gạt, tráo trở này chắc chắn không phải lần đầu mà chắc chắn
cũng không phải lần cuối. Những người trí thức này chỉ quên một điều:
Người Cộng Sản bao giờ cũng ăn thịt trước tiên những đứa con đẻ của
mình.
Bộ đội chính quy, cán bộ miền Bắc đã đành là có mặt. Nhưng đám 30
tháng tư, bọn cách mạng 30 cơ hội nhố nhăng thì đầy đường, đầy ngõ.
Không biết ở đâu ra mà họ đông thế. Chúng là những tiên tri giả, bán rao
thời cuộc. Gọi theo một thứ ngôn ngữ chuyên dùng hơn thì đó là bọn tiêu
bạc giả, vốn liếng là sự bịp bợm, sự tráo trở và tư cách vô liêm xỉ. Có
thể bọn họ tuần trước, tháng trước, năm trước còn “đả đảo Cộng Sản” nay
thì hoan hô… Bên cạnh đó, có một số trí thức đã có dính dáng, hoạt động
bí mật trong Mặt Trận nay xuất đầu lộ diện. Trong số này, có Giáo sư Lý
Chánh Trung, sau làm đại biểu Quốc hộI, Nguyễn Ngọc Lan trên tờ Đối
Diện nay đổi là Đứng Dậy. Đổi tên tờ báo đã khéo, chơi chữ đã khéo.
Nhưng Đứng Dậy có thể hiểu lầm là nổi dậy. Hãy coi chừng. Một số người
khác như Nguyễn Đình Đầu, luôn luôn dấu mặt sau hội trường dật giây và
em rể, giáo sư Trần Đức Quảng, gs Châu Tâm Luân, LM Chân Tín, Trần Bá
Cường v.v.
Và nếu nói như người Pháp: «Il n’y a que le premier pas qui compte»,
có nghĩa chỉ bước đầu tiên mới quan trọng, thì những người trên là những
người đầu tiên ló mặt sau ngày Giải Phóng tìm một vị trí quan trọng?
Nhũng tin tức nóng hổi sau đây nhiều bạn đọc, sau hơn 30 năm, có thể đây là lần đầu tiên đuợc nghe nói tới. Điều đó không lạ, vì tin tức thông tin nằm trong mạng lưới tuyên truyền của chế độ CS. Vào ngày 4-5-1975, có nghĩa là chỉ bốn ngày sau khi miền Nam thua trận, quân đội Khờ me của Pol Pot đã đổ bộ xâm chiếm đảo Phú Quốc. Ngày mồng 8, quân đội trên bộ của Pol Pot đột nhập vào tỉnh Tây Ninh. Ngày 10, chiếm đảo Thổ Chu và bắt hơn 500 thường dân. Để trả đũa, bộ đội VN chiếm đảo Poulo Way, sau đó thì rút lui. Tất cả những biến cố trên xảy ra dân chúng đều không hay biết vì các báo bị đình bản. Nhưng đài phát thanh cũng không thông báo cho dân chúng biết.
Nòng súng của bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì đã chuẩn bị cho một
cuộc chiến khác. Hai cuộc chiến trước đây là chiến tranh chống chủ nghĩa
Đế quốc thực dân, vậy thì sẽ gọi tên cuộc chiến sắp tới là gì? Cho đến
nay, có hai cuộc chiến đã xảy ra, một phía Nam và một phía Bắc VN. Vẫn
chưa có một tên gọi thích đáng. Chúng vẫn chưa có một giấy khai sinh hộ
tịch. Phải gọi đó là những cuộc chiến tranh gì? Cũng không ai nhắc tới
nửa lời về lẽ thắng thua của hai cuộc chiến ấy. Mọi chuyện được bung bít
dấu nhẹm như thường lệ. Nói gian dối là cái lệ của người làm chính trị
chẳng khác gì rỉ sét là cái đương nhiên của vỏ tầu biển. Nói gian dối
riết rồi bị lộ, bị chìm chẳng khác gì rỉ sét lâu ngày đục vỡ sàn tầu.
Quân đội Khờ Me Ðỏ mới vào Nam Vang hôm 17 tháng 4, thì ngay ngày hôm
sau đã chuyển quân về hướng biên giới VN. Và như đã trình bày ở trên,
đã chiếm đảo Phú Quốc. Theo ông Phan Hiền thì sau đó, nhiều cuộc thương
thuyết đã diễn ra từ tháng 4-1976, nhưng kết quả không đi tới đâu và hai
bên đã ngưng mọi thương thuyết vào ngày 18-5-1976. Sang đến tháng
4-1977 thì tranh chấp giữa hai bên càng trở nên ác liệt. Các tỉnh biên
giới của VN như Tây Ninh, Hà Tiên phải di tản dân chúng. Tây Ninh thì
một phần dân chúng phải bỏ nhà, Hà Tiên đến ba chục ngàn người phải di
tản đi nơi khác.
Phóng biên Roland-Pierre Paringaux đã nhìn thấy hàng
đống thây người bị giết, bị cắt cổ ở các ruộng thuộc tỉnh Hà Tiên.
Francois Nivolon cũng đã nhìn thấy những cảnh chém giết, dốt nhà tàn bạo
như thế ở làng Mỹ Đức, cách biên giới Cam Pu Chia chỉ 4 km. Có gia đình
cả bố mẹ, 4 anh chị em đều bị giết, trừ một người con gái sống sót kể
lại như một nhân chứng. Sau này, Ông Ngô Diên tố cáo có cố vấn Trung
Quốc trong các binh đội quân Khờ me đỏ. Phải chăng, đằng sau Pol Pot là
kẻ thù cố cựu của VN? Thật vậy, do sự xúi dục của Bắc kinh, chính quyền
Căm bốt mới dám gây chiến tranh biên giới với Việt Nam và cắt đứt quan
hệ ngoại giao với ta ngày 31-12-1977.
Ông Trần Văn An, một cán bộ tỉnh, cho biết từ 1975, tại tỉnh Tây
Ninh, tỉnh giáp ranh với Cam bốt, có một 1,090 thường dân bị giết do
quân đội Pol Pot gây ra. 70,000 dân chúng phải dời bỏ ruộng vườn đi nơi
khác. 15,000 mẫu hoa mầu bỏ không canh tác. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là
những con số đưa ra, sự thẩm định độ chính xác cần được dè dặt.
Trong một tài liệu sau này VN thu nhặt được cho thấy Pol Pot coi cuộc
đối đầu giữa Cam bốt và VN là một đối đầu giữa Sống hoặc Chết. Sự thù
ghét của Pol Pốt đã rõ ràng và minh bạch trong cuốn Sách đen ghi nhận:
“Dân tộc Cam Bốt nuôi một mối hận quốc gia đối với Việt Nam, một kẻ hiếu
chiến đi xâm lược, nuốt chửng đất đai của Cam bốt. Người Cam Bốt biết
rõ ràng tính xảo trá, mưu mô quỷ quyệt và giả hình của VN. VN hành động
như một Hitler đối với Cam bốt một cách man rợ và Phát xít. Chúng ta
phải bằng mọi cách giết người VN, một đổi 30.’’
Cũng sau này, trên mặt báo Le Figaro đã cho chạy một hàng tít lớn,
phóng viên Yves-Guy Berges xác nhận: «Hà nội đang tiến hành một cách
khoa học một cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử». Điều này xem ra có
vẻ không đúng sự thật. Le Figaro tỏ ra thiếu ngay thẳng và trung thực.
Hà nội đã không đến mỗi ngu dại như thế, vì họ có cách xử lý khôn ngoan
và khéo léo hơn. Nhưng mặc dù Pol pot gây hấn trước đã mang quân sang
chiếm đóng Phú Quốc, việc VN mang quân sang chiếm đóng Campuchia đã bị
cộng đồng thế giới lên án khiến uy tín ngoại giao của VN bị suy giảm,
nhất là đối với các nước Đông Nam Á. Về phía người Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ
Cyrus Vance nói : “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt Nam về bình thường hoá đã
tan vỡ do cuộc xâm lược Cam pu chia của Việt Nam.”
Ngày 5-5-1975, Thông cáo của tòa Tổng Giám Mục Sài gòn.
Sau tiếng hát của TCS trên đài phát thanh Sàigòn, dấu hiệu thứ hai đón tiếp chính quyền mới là vị đại diện của Thiên Chúa giáo.
Chưa đầy một tuần sau ngày Giải phóng, TGM Nguyễn văn Bình gửi tâm
thư kêu gọi giáo dân phải hòa mình vào nhịp sống mới, nỗ lực đón nhận
trong tinh thần hoà hợp, hòa giải dân tộc. Lá thư có đoạn như sau: ”Một
trang sử mới đã mở ra cho dân tộc VN. Đây là một niềm vui chung của cả
dân tộc, và với cái nhìn theo đức tin của người tín hữu, đây cũng chính
là một hồng ân của Thiên Chúa. Hơn mọi lúc, giờ đây người công giáo phải
hoà mình vào nhịp sống của toàn dân, đi sâu vào lòng dân tộc… người
công giáo chúng ta phải phải sẵn sàng thi hành một cách tích cực mọi
nghĩa vụ công dân do Chính phủ cách mạng lâm thời chỉ dẫn.”
Nội trong năm 1975, có cả thảy ba lá thư chung như thế. 12 tháng 6
một lá thứ hai và nhân dịp Hội nghị Hiệp thương thống nhất tổ quốc diễn
ra tại TP Sàigòn, một lá thứ ba mà nội dung nhằm thứ nhất trấn an người
TCG, linh mục, tu sĩ trong toàn địa phận. Thứ hai bảo đảm với chính
quyền CM về sự sẵn sàng hợp tác trong hoàn cảnh mới. Theo tinh thần hiến
chế: Gaudium et Spes. Anh em ơi, hãy vui mừng.
Một vài Kitô giáo trí thức cấp tiến như Nguyễn Ngọc Lan đã dùng thánh
kinh để gọi Ngày Giải Phóng: đó là tin mừng cứu độ đã được gửi đến.
Một số khác thì tỏ ra lo ngại về đường lối hòa giải của Tổng Giám Mục
Nguyễn Văn Bình. Sài gòn có khoảng 600 linh mục, trong đó có hơn 100 vị
đã du học nước ngoài và 2,000 tu sĩ phần đông khép mình dưới sự chỉ đạo
của đức cha Bình. Tất cả những cơ sở trường tư thục TCG như đại học,
đại chủng viện như cơ sở dòng Tên, Đồng Công, Chúa Cứu thế, học viện
thánh Piô 10, Đàlạt, các cơ sở thương mại như nhà in Nguyễn Bá Tòng,
trại gà Đà lạt, thương xá Eden, nhà sách, cơ sở nhà in Tân Định đều phải
giao nạp cho chính quyền mới. Theo Georg Evers, Missio 2003, CHLB Đức
trong bài Tình trạng nhân quyền tại CHXHCNVN, tự do tôn giáo, bản dịch
Việt ngữ của Liên Đoàn công giáo Việt Nam tại Đức thì Giáo Hội miền Nam
có 226 trường trung học, 1,030 trường tiểu học. Ngoài ra theo niên giám
2004, vào năm 1962-1963, giáo hội TCG miền Nam có có 58 cô nhi viện nuôi
hơn 6,000 trẻ em, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong và 159
phòng phát thuốc phát thuốc cho khoảng gần 2 triệu lượt người. Tất cả
đều bị trưng thâu, nộp cho nhà nước.
Sự chọn lựa của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã hẳn không phải dễ.
Một tháng trước ngày qua đời, phóng viên Hải Nam, tức Trương Bá Cần, báo
CGVDT đã phỏng vấn cụ trong 20 năm “sống phúc âm giữa lòng Dân tộc”, cụ
là người đứng đầu CGVN, xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ trong 20 năm
qua sống dưới chế độ VNDCCH, cụ còn thấy sợ không. Trả lởi “vẫn còn sợ”
và cụ nói tiếp: “Đời con người giống như một cuộc leo núi. 50 năm đầu là
thời gian leo núi và những năm còn lại sau này là xuống núi. Khi leo
lên núi thì thời gian kéo dài và khó khăn, còn khi xuống núi thì dễ dàng
và nhanh hơn. Nhưng với tôi, 20 năm qua, cảm tưởng sâu đậm của tôi là
đã phải sống một thời gian dài nhất của đời người “.
Sau này, tác giả Tuệ Không, trong một bài viết vào 10-5-1995, cho
rằng tất cả bài phỏng vấn trên là ngụy tạo của Uỷ Ban Tôn giáo chính phủ
dựng đứng lên. Toà TGM Sàigòn cũng xác nhận cụ Nguyễn Văn Bình đã quá
suy yếu, kiệt sức để có thể trả lời một bài phỏng vấn như thế. Bài phỏng
vấn từ câu hỏi đến câu trả lời là của ông Trương Bá Cần dàn dựng viết
ra. Ông có đưa tới trình Đức Cha vẫn đang đau yếu, chỉ đọc mấy câu, câu
được, câu mất và yêu cầu đừng đăng. Nhưng ông Trương Bá cần đã viện cớ
là bài đã lên chữ rồi, ở nhà in, để rồi xin cứ đăng.
Theo tôi, có lẽ tâm trạng và lòng mong ước của cụ Giám Mục Bình thể
hiện rõ nhất trong câu trả lời lúc 80 tuổi của báo Iregno Attualita,
đăng lại trên Église d’Asie là: “Lúc này đức cha ước vọng gì nhất. Trả
lời: Sau những biến cố Đông Âu, tôi hy vọng mọi sự sẻ tiến triển tốt
đẹp.”
Phía Phật Giáo, cả hai vị lãnh đạo của hai khối đều không có tiếng
nói. Thượng toạ Thích Tâm Châu chọn lựa ra đi như nhiều người. Thượng
toạ Trí Quang thì tịnh khẩu suốt hơn 30 năm nay. Phật tử như rắn không
đầu. Người cần lên tiếng và đáng nhẽ phải lên tiếng là TT Trí Quang. Còn
ai uy tín hơn ông trong lúc này, người đã từng được nước Mỹ qua phóng
viên James Wilde và Frank Mc Culloch trên tờ Time mệnh danh “politician
from the pagoda” hay “a most extraordinary man” (người phi thường nhất).
Tôi chỉ muốn đổi một vài chữ như sau. Trước 1975, ông là một politician
outside the pagoda và sau 1975, một politician inside the pagoda.
Nhưng ông Diệm, ông Thiệu không còn, Thượng toạ Trí Quang không có
giá nữa. Ông chỉ có thể là *người của thời cuộc* dưới một chế độ kiểu
ông Diệm, ông Thiệu mà thôi. Trong suốt hơn 30 năm quy ẩn và ngồi dịch
rất nhiều kinh sách, ông chỉ làm được một thứ chính trị inside the
pagoda, một điều hữu ích cho chính ông và cho những kẻ thù của ông ở bất
cứ phía nào. Đó là: Ta bảo cho các người hay, ta không bao giờ là người
Cộng Sản như các người nghĩ, nhưng ta là nhà *tu thật* trong chế độ
Cộng Sản. Và TGM Bình thì có thể nói: “Ta bảo cho các người hay, có
người chê ta ba phải. Nhưng trước sau, ta là nhà tu thật dưới thời ông
Diệm, ông Thiệu. Nhưng ta trở thành nhà chính trị bất đắc dĩ dưới thời
Cộng Sản.”
Có lẽ chính nhờ hiểu cái lẽ quyền biến của câu trên đã giúp ông không phải nhận một vòng hoa phúng điếu.
Sau 1975, chúng ta có chủ nghĩa CS và có thêm chủ nghĩa bất đắc dĩ. Bất đắc dĩ để Thượng toạ Trí Quang phải quy ẩn trong chùa và bất đắc dĩ, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình phải làm chính trị. Kẻ làm chính trị phải đi tu và kẻ đi tu phải làm chính trị.
Và cả miền Nam đều làm những công việc bất đắc dĩ như thế.
Ngày 6 tháng 5-1975, bộ mặt thứ hai của Sài gòn sau Giải Phóng.
Bộ mặt thứ nhất là những tiên tri giả ở trên, bộ mặt thứ hai là những
người buôn bán giả. Chỉ sau một tuần, cái điểm nỗi bật của một thành
phố chết vừa mới trỗi dậy là sự xuất hiện rất nhiều những người buôn bán
lẻ. Họ ngồi dọc theo các đường, từ đầu phố hay đầu con hẻm. Bán đủ thứ
và mua cũng đủ thứ.
Người buôn bán phần đông là những người chưa bao giờ buôn bán. Đây là
lần đầu họ làm nghề buôn bán bất đắc dĩ. Sự buôn bán này là một bài
toán trắc nghiệm người chủ mới trong thế chờ đợi thời thế, nghe ngóng
động tĩnh.
Nghĩ đến hoàn cảnh bất đắc dĩ của cả miền Nam, xin mượn lời hát của TCS:
Hãy sống dùm tôiHãy nói dùm tôi
Hãy thở dùm tôi…
Nhiều người không muốn sống, không muốn thở và đã hẳn không muốn nói nữa.
Nguyễn Văn Lục
TRỌNG ĐẠT * NHỮNG TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
30-4 : Những Trận Đánh Cuối Cùng – Trọng Đạt
Từ trái sang: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, các tướng Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai và Phạm Văn Phú. (link tiểu sử)
Bài đọc suy gẫm: 30-4
: Những Trận Đánh Cuối Cùng, Sài Gòn Thất Thủ, tác giả Trọng Đạt tổng
kết một số diễn biến và những trận đánh của những ngày cuối. Hình ảnh
chỉ có tính cách minh họa.Nhân dịp tháng tư về với nhiều hoài niệm. Blog 16 xin mời quý bạn đọc nghe audio link: “32 Năm Người Mỹ và Tôi” do chính tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân thực hiện, chứa đựng nhiều biến chuyển chính trị cho cả một thế hệ, một giai đoạn tang thương của đất nước liên quan đến người Việt và người Hoa Kỳ.
…Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân khu 3.
Tại Phan Rang lực lượng ta gồm 2 trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc sư đoàn
2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt Động quân, 4 tiểu đoàn Địa phương
quân, sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, một giang pháo
hạm, một hải vận hạm… Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh tiền phương
Quân đoàn 3 đóng tại Tháp Chàm.
Phan Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan Thiết rất nhiều, ngày
14-4 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang tại phi trường, một
tiểu đoàn Dù đụng độ Việt Cộng, địch bỏ xác cả 100 tên. Ngày 15-4 Phó
Thủ tướng đặc trách Quốc phòng Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát mặt
trận. Khi phái đoàn vừa về thì Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng cường
sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân đội VNCH phản công dữ dội nhưng
không thể chống lại lực lượng quá đông của địch phải rút lui, trung đoàn
4 và 5 tan rã.
Khuya ngày 16-4 chỉ có 200 người thoát vòng vây, các sĩ quan thuộc Bộ
tư lệnh tiền phương và và sư đoàn 6 không quân bị bắt hết, các đơn vị
ta tại đây coi như tan rã, Việt Cộng chiếm được 40 máy bay tại Phan
Rang.
Hai hôm sau ngày 18-4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Cộng quân
Quân đoàn 4 BV gồm các đơn vị đã chiếm QK 2 theo Quốc lộ 1, Quốc lộ
20 tiến về Sài Gòn, gần giao điểm của hai Quốc lộ này là Xuân Lộc thuộc
tỉnh Long khánh cách Sài Gòn 60 cây số, Xuân lộc giữ vị trí quan trọng
bảo vệ phi trường Biên Hoà.
Phạm vi trách nhiệm của sư đoàn 18 là Long Khánh, phụ trách an ninh
phía Bắc căn cứ Long Bình, Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà.
CSBV huy động 4 sư đoàn thuộc Quân đoàn 4 đã bị sứt mẻ: sư đoàn 6 gồm
2300 người, sư đoàn 7 có 4100, sư đoàn 341, sư đoàn 1 gồm 3400 người sư
đoàn 325 gồm5000 người, trung đoàn biệt lập 95B gồm 1200 người.
BV khi tấn công Xuân Lộc nhằm các mục tiêu.
-Tấn công tuyến phòng thủ then chốt phía đông như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu.
- Kéo lực lượng Việt nam Cộng Hoà ra ngoài để tiêu diệt, mở cửa lớn để vào Sài Gòn.
-Thu hút lực lượng Việt Nam Cộng Hoà vào phía đông để đưa các lực
lượng khác tới bắc và tây bắc Sài Gòn. Giữa tháng 3 sư đoàn 18 bắt được
một số tù binh còn nhỏ tuổi, mới được đưa từ ngoài Bắc vào, lấy cung tù
binh biết trước ý dịnh củaVC, sư đoàn 18 chuẩn bị sẵn sàng chờ địch. Bộ
binh và pháo binh được đưa lên giữ các cao điểm quan trọng, gia đình
binh sĩ được đưa về hậu cứ Biên Hoà.
Phù hiệu Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, vị Tư Lệnh cuối cùng của sư doàn 18 BB. Ông cũng là vị Tư Lệnh chiến trường của mặt trận Xuân Lộc. Trong những ngày tháng Tư, chỉ huy Sư Đoàn 18 và các Lực Lượng bạn đánh một trận đánh để đời tại Long Khánh, Xuân Lộc. Dù bị lép vế với số quân áp đảo của quân chủ lực cộng sản, chiến thuật biển người, nhưng các chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tham chiến đã anh dũng can trường, bẽ gãy mọi mưu toan tấn công của địch. Xuân Lộc vẫn oai hùng đứng vững hiên ngang cho tới khi thay đổi chiến thuật.
Sáng 9-4 Việt Cộng pháo Xuân Lộc 4000 quả, cho hai tiểu đoàn đặc công
đột nhập thị xã bị đẩy lui bỏ lại hằng trăm xác chết, dân bị trúng đạn
nhiều người chết, địch pháo phi trường Biên Hoà. Ngày 11-4 tiểu đoàn
2/52 VNCH băng rừng tăng cường Xuân Lộc đã phục kích tiêu diệt một đoàn
xe 30 chiếc , gần 100 tên VC bỏ xác. Quân đội VNCH kháng cự mãnh liệt
tại Xuân Lộc, biệt đội kỹ thuật của ta bắt được điện báo VC và biết vị
trí đóng quân của chúng để gọi máy bay oanh kích khiến thiệt hại của
địch cao. Xuân Lộc tuy không phải là mục tiêu cuối cùng nhưng vẫn là mục
tiêu chính, VC đưa thêm quân vào chiến trường, sáng ngày 16-4 Tướng
Toàn cho lệnh thả 2 trái bom CBU (Daisy Cutter) tại Bắc Gầu Giây tiêu
diệt nhiều đơn vị bộ binh, thiết giáp, pháo binh địch. Bị Việt Cộng tố
cáo trên dư luận quốc tế nên Mỹ không dám cung cấp ngòi nổ, sự thực họ
chỉ thử nghiệm vũ khí cũng như ngăn chận đà tiến quá nhanh của VC để dễ
di tản khỏi VN.
Ngày 20-4 Tướng Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo bàn kế
hoạch lui binh, sư đoàn 18 rút lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút, giữ
trật tự bình tĩnh, tối 20 trung đoàn 48 về đến Long Giao đặt pháo binh
yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó truyền tin, công binh, pháo
binh, quân y… rút theo.
Sư đoàn 18 thiệt hại 30% quân số, Địa phương quân nghĩa quân bị thiệt
hại nặng, VC chết 5000, 37 xe tăng bị bắn cháy. Sư đoàn 18 để 2500 quân
ở ngoài và 2500 quân ở trong thị xã, VC pháo 2000 quả, đến tối sư đoàn 6
VC phải gom quân rút lui. Trân đánh kéo dài mấy ngày, VC đưa thêm vào
mặt trận một sư đoàn nữa ngày 10 để tấn công thị xã nhưng vẫn bị đẩy
lui. Địch pháo 2000 quả vào tuyến phòng thủ nhưng sư đoàn 18 vẫn đứng
vững. Trước đấy sư đoàn này được coi như một sư đoàn loại dở, tệ thế
nhưng đã đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội của đối phương. Trong mấy
ngày tấn công VC đã pháo 8000 quả vào Xuân Lộc nhưng sư đoàn 18 vẫn bám
sát trận địa chiến đấu rất dũng mãnh không lùi một bước.
Sư đoàn 18 lui binh tốt đẹp cho thấy khuyết điểm của Quân đoàn 1 và 2.
- Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh, không kiểm soát đôn đốc từ cấp chỉ huy.
- Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ, sư đoàn
18 đã có kế hoạch cho di tản gia đình binh sĩ về Biên Hoà trước nên
không sẩy ra hỗn loạn. Ngày 18-4 Ủy ban Quốc phòng Thượng viện Mỹ bác bỏ
đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Ford.
Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, người thực sự cầm đầu Bắc Việt chủ toạ
phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và
Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải
phóng Sài Gòn Chợ Lớn, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm
Hùng, Phó Tư Lệnh Thượng Tướng Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh bàn kế hoạch
đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngày 21-4, Nguyễn Văn thiệu từ chức Tổng thống tại dinh Độc lập để rồi mấy hôm sau ra khỏi nước.
Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay, trong khi ấy các nhà ngoại
giao quốc tế ra sức vận động hai bên để tránh cho Sài Gòn khỏi trở thành
bãi chiến trường. Mấy hôm sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120 ly vào
Khánh Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói BV cảnh cáo chính phủ
Trần Văn Hương phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định, người
ta hiểu ngay đó là nhóm chính khách thứ ba do ông Dương Văn Minh lãnh
đạo. Ngày 27-4 Quốc Hội nhóm họp để biểu quyết việc trao quyền cho Dương
Văn Minh.
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 QLVNCH tổ chức phòng
thủ Thủ đô trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa
hơn tầm pháo của đại bác 130 ly VC đồng thời bảo vệ các căn cứ quan
trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long Bình.
Phía tây bắc là tuyến Củ chi với sư đoàn 25 BB và hai liên đoàn 8, 9
Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía bắc với sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên
Hoà phía đông bắc với sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn 3.
Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do lữ đoàn 1 Dù cùng với một tiểu đoàn
thuộc sư đoàn 3 BB và các đơn vị thiết giáp, Địa phương quân, nghĩa quân
của tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long An phía nam ngoài lực
lượng địa phương quân, nghĩa quân cơ hữu còn có sư đoàn sư đoàn 22 BB
phụ trách cộng với sự tăng cường của trung đoàn 12 thuộc sư đoàn 7 BB và
trung đoàn 14 thuộc sư đoàn 9 BB và Liên đoàn 6 BĐQ.
Năm tuyến phòng thủ chính của ta cũng trùng với 5 hướng tấn công của
năm quân đoàn địch: Hướng tây nam là đoàn 232, Tư lệnh trung tướng Lê
đức Anh với các sư đoàn 3, 5, 8, 9 BB và 27 đặc công và 4 trung đoàn độc
lập 16, 24, 88, 71 và trung đoàn phòng không tiến từ sông Vàm Cỏ Đông
và Hậu Nghĩa. Quân đoàn 3, Tư lệnh thiếu Tướng Vũ Lăng gồm các sư đoàn
10, 316, 320 và 968 tiến về phía Tây Ninh. Phía bắc là quân đoàn 1, Tư
lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Hoà gồm các sư đoàn 312, 320B và 308 từ Lộc
Ninh và Phước Long tiến về khu tập trung ở phía nam sông Bé. Quân đoàn
4, Tư lệnh Thiếu tướng Hoàng Cầm gồm các sư đoàn 6, 7 và 341 sau khi
chiếm Xuân Lộc đang tiến về Trảng Bom. Mũi sau cùng là quân đoàn 2 , Tư
lệnh thiếu tướng Nguyễn Hữu An gồm các sư đoàn 3 Sao vàng, 304, 324B, và
325 tiến đánh Long Thành, Vũng Tầu, Phước Lễ.
Kế hoạch BV như sau: Hướng tây bắc quân đoàn 3 và địa phương quân Tây
ninh, Củ chi, các lực lượng đặc công biệt động, tăng pháo tiến đánh căn
cứ Đồng Dù, tiêu diệt sư đoàn 25 từ Củ chi đến Trảng bàng rồi tiến đánh
Tân sơn nhất, phối hợp với quân đoàn 1 đánh Bộ Tổng tham mưu sau đó
tiến về Dinh Độc Lập. Hướng bắc quân đoàn 1 cùng các lực lượng đặc công,
pháo binh, hoả tiễn.. bao vây căn cứ Bình Dương, Bến Cát rồi đánh BTTM,
BTL các binh chủng Gò gấp rồi tiến về dinh Độc Lập. Hướng đông quân
đoàn 4 tiến đánh Biên Hoà, phi trường BH rồi tiến vào quận 1 SG. Hướng
Đông nam quân đoàn 2 đánh Bà Rịa, Vũng Tầu.. để chặn đường rút lui của
VNCH, chiếm căn cứ Nươc Trong, Long thành, pháo kích phi trường TSN,
chiếm Long bình. Hướng tây, tây nam đoàn 232 chiếm Hậu nghĩa, rồi tiến
đánh Biệt Khu Thủ Đô.
Quân đội VNCH như chúng ta đã biết từ cuối tháng 3-1975 đã mất gần
một nửa lực lượng chủ lực. Tại Quân khu 3 ta chỉ còn 3 sư đoàn 25, 5, 18
và các đơn vị di tản từ miền Trung về với quân số thiếu hụt, tổng cộng
gần 6 sư đoàn để đối đầu với khoảng 20 sư đoàn BV. Lực lượng hai bên như
sau.
“Về tương quan lực lượng giữa hai bên thì QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để
bảo vệ thủ đô chống lại một lực lượng đông đảo với quân số gần 20 sư
đoàn CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân đoàn IV QLVNCH không thể
dùng để tiếp ứng do điều kiện an ninh lãnh thổ của vùng đồng bằng sông
Cửu Long. CS cũng đã xác nhận cán cân lực lượng trong chiến dịch này như
sau:
Ta: 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 bao gồm 15 sư đoàn bộ binh, 5 lữ
đoàn bộ binh biệt lập, 4 trung đoàn tăng thiết giáp và 6 trung đoàn đặc
công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với 400 xe tăng và 420 pháo.
Địch: 5 sư đoàn bộ binh 5, 18, 22 và 25, sư đoàn TQLC, 2 lữ đoàn Dù,
lữ đoàn 3 Kỵ binh và 4 liên đoàn Biệt động quân. Quân số tổng cộng
khoảng 240 ngàn với 625 xe tăng thiết giáp và 400 pháo”
Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập.
Quân số của BV gồm 280 ngàn người trong đó đa số là thành phần tác
chiến, lính VC không có lương nên không có các đơn vị hành chánh tài
chánh, chúng cũng không có cứu thương y tế, bác sĩ, y tá… nên nói chung
thực lực địch đông đảo hơn ta nhiều.
Quân số của VNCH là 240 ngàn nhưng trong đó chỉ có khoảng sáu chục
ngàn là lính nhà nghề, còn lại là địa phương quân, nghĩa quân và các
thành phần không chiến đấu. BV có đầy đủ đạn dược trong khi ta gặp khó
khăn về tiếp liệu, lực lượng hai bên trên thực tế chênh lệch, ưu thế
quân sự về phía địch.
Bắt đầu từ 26-4-1975 VC đã bắt đầu tấn công vào Trường Thiết Giáp
Long Thành, căn cứ Nước Trong , đặc công tấn công Tân cảng , cầu xa lộ,
đài ra đa Phú Lâm nhưng thất bại bị đẩy lui.
Sáng ngày 27-4 sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước Lễ, Lữ đoàn Dù rút
về Vũng Tầu, sư đoàn 18 được lệnh lui về giữ Trảng Bom. Phía tây các căn
cứ dọc theo Vàm Cỏ Đông lần lượt bị VC chiếm, chúng pháo phi trường
Biên Hoà dữ dội, sư đoàn 3 Không quân phải di về Tân sơn nhất và Cần
thơ. Phía tây nam đoàn 232 cắt quốc lộ 4 nhiều nơi để chận viện binh từ
quân khu 4, phía bắc quân đoàn 1 BV tiến về Thủ Đầu Một, phía tây bắc
quân đoàn 3 BV cắt quốc lộ 1 và 21 để chặn đường rút của sư đoàn 25 BB.
Chiều ngày 28-4 Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng thống
tại dinh Độc Lập, chừng một tiếng sau, phi công nằm vùng trung úy Nguyễn
Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ A-37 của ta do Việt Cộng chiếm được
ném bom phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển cả trời đất khiến dân chúng
Đô thành hốt hoảng. Tối hôm ấy BTL Quân đoàn 3 di chuyển từ Biên Hoà về
Gò Vấp.
Người phi công chiến đấu cuối cùng. Hình dưới: Phi Cơ AC-119K của Không Lực VNCH bị rớt trong ngày 29-4-1975.
30-4 Binh sĩ VNCH ngăn địch trên cầu xa lộ (Tân Cảng)
Từ 4 giờ sáng ngày 29-4 BTTM, phi trường Tân Sơn nhất, BTL Hải quân
bị pháo kích dữ dội. Cộng quân chiếm được Nhơn Trạch đặt hai khẩu 130 ly
pháo 300 quả vào Tân Sơn Nhất gây nhiều thiệt hại nặng, các bãi đậu phi
cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy
lớn. Sư đoàn 325 BV chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, tiến về Cát Lái. Sư
đoàn 304 chiếm căn cứ Nước Trong.
Trong khi ấy Dương văn Minh cử ba người sứ giả đến trại Đê Vít tại
Tân Sơn Nhất để thương thuyết ngưng bắn với phái đoàn Quân sự VC nhưng
bị Đại tá Võ Đông Giang bác bỏ.
Tại Biên Hòa sư đoàn 18 cùng với lực lượng xung kích Quân đoàn 3, Lữ
đoàn 4 Dù và 469 TQLC … vẫn giữ được phòng tuyến. Buổi chiều Bộ Tư lệnh
Hải quân và Không quân di tản. Một liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh Bắc Mỹ
Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Đước ngăn chận Việt Cộng trên liên
tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn được coi như bỏ ngỏ.
Đến tối Cộng quân đụng độ với các chiến đoàn 315, 322 tại hai hướng
đông bắc thành phố. Trung tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng tham mưu trưởng lệnh
cho sư đoàn 18 BB về giữ khu vực nằm giũa Thủ Đức và nghĩa trang Quân
đội.
Phía bắc, căn cứ Lai Khê của sư đoàn 5 bị địch pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị tấn công.
Phía tây 2 liên đoàn 8, 9 BĐQ bị thiệt hại nặng , VC bỏ xác cả trăm
tên cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi bị
gián đoạn.
Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía nam, mặc dù bị VC tấn công.
Chiều 29-4 toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ
bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1,000 người Mỹ và khoảng
6,000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
Ngày 30-4 một trung đoàn BV giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư
Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, VC bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. Địch tấn
công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn cứ sư đoàn 25 BB VNCH
thất thủ, chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt.
Mặt trận Ngã Tư Bảy Hiền, Tổng
Tham Mưu, những chiến sĩ Biệt Kích 81 Dù bắn cháy xe tăng cộng sản ngay
tại cổng Phi Long (cổng vô phi trường Tân Sơn Nhất), Lăng Cha Cả. Hình dưới: Các chiến sĩ binh chủng Biệt Động Quân được điều động trấn giữ tại mặt trận Phú Lâm.
Cộng quân xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa
bị liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, địch bị chận đánh tơi bời phải rút
khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Lạc, ông Dương Văn Minh lại cử người tới Tân Sơn
Nhất để thương thuyết với VC xem có vớt vát được tí nào không nhưng họ
vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không chúng sẽ bắn phá dữ
dội thành phố. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của quân thù.
Tướng Dương Văn Minh phần vì thấy phòng tuyến của ta đã sụp đổ dưới các
trận tấn công, pháo kích của địch, chúng đã vào sát thành phố không hy
vọng cứu vãn được tình thế. Lúc 10 giờ 30, trên đài phát thanh, ông tân
Tổng thống kêu gọi các cấp chỉ huy, binh sĩ QĐVNCH ngưng bắn giao nạp vũ
khí cho các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam để tránh đổ máu vô ích.
Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều đã im bặt.
Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn thì Lê Đức Thọ ban lệnh cho các
quân đoàn BV không chấp nhận đình chiến “cứ tiến thẳng vào Sài Gòn tước
vũ khí và bắt quân ngụy đầu hàng không điều kiện.” Cộng quân tiến vào
Thủ Đô đang bỏ ngỏ làm bốn ngả: Cánh thứ nhất từ Long Khánh theo xa lộ
Biên Hoà, thứ hai từ Củ Chi qua Ngã Tư Bẩy Hiền, thứ ba từ Long An kéo
lên qua ngả Phú Lâm Chợ Lớn, cánh cuối cùng từ Bình Dương theo xa lộ Đại
Hàn vào Hàng Xanh.
Theo báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng
30-4, VC cho biết đoàn quân vào dinh Độc Lập trước nhất là cánh từ Long
An , họ có chụp hình những chiếc xe lội nước PT-76 vào sân dinh và bộ
đội thiết giáp VC trên xe nhẩy xuống. Theo tài liệu của ký giả ngoại
quốc hoặc do lời kể của các viên chức chính phủ trong dinh Độc Lập thì
cánh quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đã tiến chiếm dinh Độc Lập
trước tiên.
Báo VC năm 1976 cho biết người đi đầu là một viên đại uý, được các
viên chức tiếp đón tại cửa vào, y hỏi thăm đường lên lầu rồi vội kéo cờ
vàng của ta xuống để treo cờ Mặt trận lên để chứng tỏ giang sơn này, đất
nước này đã hoàn toàn thuộc về CS. Trong số các sĩ quan BV vào tiếp thu
dinh Độc Lập sau đó, người cấp bậc cao nhất là một Đại tá ký giả chiến
trường (journaliste de guerre), các tài liệu Mỹ (Vietnam, A History; The
World Almanac Of The Vietnam War) đều nói tên người này là Bùi Tín. Báo
chí VC năm 76 đăng tấm hình ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập, Dương Văn
Minh nói với viên Đại Tá VC bước vào dinh.
“Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao quyền hành.”
Viên Đại tá VC (không thấy nói tên) người to lớn nắm tay trợn mắt la
lối dữ tợn trước ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu nguyên văn.
“Các ông còn cái gì nữa để mà bàn giao, các ông phải đầu hàng vô điều kiện”.
Rồi hống hách bắt Tướng Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh tuyên
bố đầu hàng. Bùi Tín nói láo hoàn toàn, trong khi ấy Quân khu 4 vẫn còn
nguyên vẹn với hơn 200 ngàn địa phương quân và ba sư đoàn BB chủ lực. Vì
là một bọn nhà quê, VC không biết một tí gì về nghi lễ quốc tế của
chiến tranh, quân sự. Khi tiếp thu một cuộc đầu hàng tại mặt trận, nếu
là cấp bậc thấp hơn phải chào người cấp bậc cao dù kẻ ấy thua trận, kế
đó bắt họ ký giấy đầu hàng không thể chửi bới vô phép như vậy. Theo lời
kể của cựu dân biểu Lý Quí Chung thì cả những tên sĩ quan cấp úy BV khi
mới vào dinh cũng quát tháo những người cầm đầu chính phủ và gọi họ bằng
anh.
“Các anh phải hàng hết.”
Chúng ta thấy rõ các thanh niên xuất thân từ một xã hội bán khai lạc hậu như miền Bắc chỉ là những người thiếu giáo dục.
Sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các mặt trận quanh
Sài gòn đều im tiếng súng chỉ còn một vài trận lẻ tẻ như tại Hố Nai, bốn
tiếng sau lệnh đầu hàng, Thiếu Uý Tư, Biệt kích Dù và năm người lính
thân tín dùng súng chống chiến xa M-72 phục kích bắn cháy, lật một xe
Jeep, một T-54, 2 xe Molotova… rồi chạy thoát hết. Khi ông Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng thì Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 và
Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh sư đoàn 5 tự sát.
Một vị sĩ quan với nhiều suy tư sau khi nghe lịnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh qua radio. Hình bên: Cảnh trong sân Dinh Độc Lập sau khi việt cộng vào.
Quân khu 4 vẫn còn nguyên vẹn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam không cho giật sập cầu Long An như Tỉnh trưởng đề nghị. Theo lời kể của Trung úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Tướng Nam thì, trước khi tự sát ông đã thắp nhang lễ vái trước bàn thờ Phật. Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự sát chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam cũng tự sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 cũng tự vẫn.
Thực ra rất nhiều người quyên sinh trước ngày tàn của chế độ, của đất
nước như thiếu tá Đặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc gia tự sát lúc 2
giờ chiều 30-4 cùng vợ và 7 người con tại nhà riêng. Trung tá Vũ đình
Duy, Trung tá Nguyễn Văn Hoàn thuộc Đơn vị 101 tự sát… Các quân nhân
Biệt kích Dù cũng như nhiều binh chủng khác đã mở lựu đạn tự tử vì chán
chường thất vọng khi thấy đất nước lọt vào tay quân thù. Ngoài ra còn
nhiều người tự sát ngoài mặt trận như Trung tá Nguyễn Hữu Thống trung
đoàn trưởng trung đoàn 42 (sư đoàn 22) khi tầu Hải quân vào Qui Nhơn cứu
đám tàn quân của sư đoàn cuối tháng 3-75 , Trung tá Thống từ chối di
tản ở lại tự sát. Đại Tá Lê Cầu, Trung đoàn trưởng trung đoàn 47 (sư
đoàn 22) cũng tự sát ngoài mặt trận khi không còn lối thoát.
Tháng 4 năm 2006 một cựu sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 4 tiết lộ
ngày 30-4-1975 họ đã dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan hoặc ra
Phú Quốc lập phòng tuyến chống lại CS, cũng có người cho rằng Quân khu 4
chờ chính phủ Sài Gòn dời xuống để tiếp tục chiến đấu nhưng ông Dương
Văn Minh lại đầu hàng địch. Theo lời kể của Trung uý Danh, tuỳ viên của
Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu, ông
hay lễ bái trước bàn thờ Phật tại văn phòng.
“Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành,
tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị
tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông
không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm.”
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.
Di tản tại Bến Bạch Đằng. Sau ngày 30-4, đất nước toàn bộ rơi vào tay cộng sản. Những cuộc vượt biên, vượt biển kinh hoàng, liều chết đi tìm Tự Do của người dân Việt Nam cũng bắt đầu.
Nhận xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người hồi đó cũng như bây giờ
chỉ trích chê bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước cho Việt Cộng,
nhưng cũng có nhiều người đồng ý với quyết định củaTướng Minh cho rằng
tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm tang tóc đổ máu cho quân dân một cách
vô ích không hy vọng gì cứu vãn tình thế. Sau khi ra định cư tại Hải
ngoại, Đại Tướng Dương Văn Minh đã trả lời phỏng vấn:
“Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Nhiều người bỏ nước chạy trước khi Sài Gòn thất thủ cả tuần hoặc hai
ba tuần lễ nhưng nay cũng vẫn lớn tiếng chê bai Tướng Minh đầu hàng phản
bội!.
Quyết định đầu hàng của Dương Văn Minh có thể coi là hợp tình huống
vì dù tiếp tục chiến đấu anh dũng cũng vẫn thua, tuy nhiên sau này ông
lại chấp nhận để Việt Cộng phục hồi quyền công dân cho mình và đi bầu
Quốc Hội VC thì thật là thiếu tự trọng, một người cấp bậc Đại Tướng bốn
sao như ông không thể hèn nhát như vậy được. Trong khi có những Tướng
lãnh, quân nhân… tự sát để giữ danh dự cho QĐVNCH thì lại có những nhà
quân sự, công chức cao cấp hèn nhát bỏ chạy và rồi sau đó còn huyênh
hoang tuyên bố chỉ trích người này người nọ.
Việt Cộng bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài Gòn từ 26-4- 1975, bốn
ngày sau phòng tuyến của ta đã hoàn toàn sụp đổ. Trước khi Dương Văn
Minh lên làm Tổng Thống người ta đã đoán biết công việc của ông chỉ là
để đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân cận của ông Trần Văn Hương
sau này tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết người ta đã sắp đặt sẵn để ông
Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương bàn giao cho ông Minh, ngay
cả việc Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân sự DAO Mỹ rút lui
cũng là do người ta sắp đặt cả. Khi Dương Văn Minh đang làm lễ bàn giao
ngày 28-4 thì đài BBC đã nói.
“Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền
Tổng thống do ông Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc đầu
hàng.”
Như thế mọi việc đã được sắp đặt cả, tất cả chỉ là một tấn tuồng hề
chính trị. Nhiều người không tin tưởng ông Dương văn Minh, họ cho rằng
sau cuộc đảo chính 1-11-1963, cờ đã đến tay mà ông không phất được thì
chẳng bao giờ thành công. Khi hai Tướng Thiệu và Khiêm ra đi hôm 24-4,
quân dân đều thất vọng lớn, ai nấy thừa hiểu số phận của miền Nam như
thế nào, lại nữa hai hôm sau đó, Tổng Thống Trần Văn Hương hiệu triệu
đồng bào về tình hình vô cùng bi đát của đất nước, ông đã khóc lóc trên
làn sóng điện về viễn ảnh “cái núi xương sông máu của thành phố Sài Gòn”
khiến cho quân dân ai nấy mất hết tinh thần.
Phần thì ta không đủ lực lượng để chống lại gần 20 sư đoàn Cộng quân,
phần vì đạn dược thiếu hụt do cắt quân viện, lại nữa trong hàng lãnh
đạo nhiều người bỏ trốn như ngày 28-4 các ông Tổng tham mưu trưởng, Tư
lệnh quân đoàn 3 và nhiều ông lớn khác đã “tẩu vi thượng sách”, cha
chung không ai khóc… Đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến
binh sĩ thất vọng chán chường, tinh thần chiến đấu của quân ta không còn
nữa. Lực lượng phòng thủ dần dần rã ngũ, một số đơn vị can đảm chiến
đấu tới cùng nhưng dù tinh thần chiến đấu cao tới đâu cũng không thể
địch nổi lực lượng quá đông đảo và hoả lực hùng hậu của quân thù.
Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Quân khu 4 vẫn còn nguyên
vẹn 3 sư đoàn chủ lực và hơn 200 ngàn địa phương quân, một lực lượng
đông đảo chiếm 40% tổng số ĐPQ toàn quốc. Điều này cho ta thấy rõ sự bố
trí lực lượng của ta sai lầm và phí phạm. Tháng 3-1975, trong khi vùng
1, 2 bị Cộng quân tấn công vây hãm tơi bời ta vẫn không chịu rút bớt
quân từ Vùng 4 lên yểm trợ tuyến đầu và cuối tháng 4-1975 khi Sài Gòn
như người bệnh nhân hấp hối cũng vẫn không chịu dốc quân từ vùng 4 lên
đánh xả láng một ván bài chót.
Trận đánh cuối cùng đã kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ kéo
dài có mấy ngày từ 26-4 cho tới 30-4 -1975, cũng vào ngày này 30 năm
trước đó, năm 1945 tại Bá Linh quân Đức đầu hàng Nga. Sài Gòn tái diễn
lịch sử nước Đức Thế Chiến Thứ Hai, có khác chăng tại Bá Linh giới lãnh
đạo không bỏ trốn và ép buộc quân đội của họ chiến đấu tới người lính
cuối cùng.
Kể từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức Lập 9-3-1975 và Ban Mê Thuột
10-3 để mở đầu cuộc Tổng công kích cho tới 30-4-1975, ngày kết thúc chỉ
vỏn vẹn có năm mươi mấy ngày. Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp
tại Hà Nội nửa đêm 19-12-1946 là ngày khởi đầu cuộc chiến tranh dài
nhất của thế kỷ đến trưa ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc tính ra đã gần
30 năm.
Theo thời gian những bí mật dần dần được tiết lộ, trận chiến mất nước
1975 đã được sắp đạt sẵn y như một vở tuồng hề, Việt Nam đã trở thành
bãi chiến trường tan nát vì bom đạn, tệ hại hơn thế nữa, nó đã trở thành
món hàng mua bán đổi chác giữa các thế lực siêu cường.
Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam, 2000.
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt nam 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản, 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội 2005.
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, nhà xuất bản Quân Đôi Nhân Dân, Hà Nội 2005.
Dương Đình Lập, Trần Minh Cao: Cuộc Tổng Tiến Công và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, nhà xuất bản tổng hợp TPHCM 2005.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1991.
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
The World Almanac Of The VietNam War: John S.Bowman, General editor, A Bison book.
Stanley Karnov: Vietnam – A History, Penguin books 1991.
Marilyn B Young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents, Oxford University press 2002.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
Trần Việt Đại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2002.
Lữ Lan: Cuộc Chiến 30 Năm NHìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006.
Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas 7-10-2005.
NgườiMỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2006.
Lâm Lễ Trinh: Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên, Về Nguồn, Thuỷ Hoa Trang 2006.
Hồ Đinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của Một Quân Đội Bị Phản Bội, Người Việt Dallas 23-12-2005.
Lewis Sorley, Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Cao Văn Viên: Tuyến Đầu Vùng Một Thất Thủ, Thằng Mõ Sacramento, số cuối tháng 4-2006.
Mường Giang: Tiểu Khu Bình Thuận Và Tháng 4-1975 Đẫm Máu Và Nước Mắt, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Hồ Đinh: Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (RVNAF 1968-1975, Bill Laurie) , Nguyễn Tiến Việt dịch, Con Ong Việt số 71, tháng 5 -2006.
Trần Trung Đạo: 30 Năm Nhìn lại, Con Ong Việt số 60, tháng 5-2005.
Hải Triều, Trung Nghĩa: Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù & Trận Đánh
Chớp Nhoáng Sau Lệnh Đầu Hàng 30-4-75, Sài Gòn Nhỏ, cuối tháng 4-2006.
Nguyễn Văn Lục: Đi Tìm Thời Gian Đánh Mất, 30-4-1975, 30-4-1976, 30-4-2007, Sài Gòn Nhỏ Dallas, 6-4-2007.
Lê Ngọc Danh: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, (bút ký của sĩ quan tuỳ viên Tướng Nguyễn Khoa Nam), Bút Việt 28-4-2006.
MAI THY * HỒI KÝ
Hồi ký của người vợ Lính - Sau ngày 30-4-75
Hồi ký của người vợ lính .
Vào thời thập niên 60-70, ở Saigon, những rạp hát như Rex, Eden thường
hay trình chiếu những cuốn phim Ngoại Quốc như: Ben Hur,Samson
Dalida.v.v. Những nam minh tinh màn bạc có thân hình như tượng đồng
những bắp tay cuồn cuộn, vòng vai, vòng ngực nở rộng, bắp thịt bụng rắn
chắc hiện thành 6 múi.. có thể che chở và chống lại những bão táp phong
ba đến với họ, đã làm cho tôi ngưỡng mộ những người hùng trong những
cuốn phim đó. Không biết có phải tôi bị lậm phim ảnh quá không?
Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của mình cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của mình. Ước mộng của tôi tuy rất bình thường, nhưng hơi khó thực hiện...
Một hôm, tôi đi vào nhà sách Khai Trí để tìm mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đã ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc,
Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc, và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi thì rất mê nghe tôi hát chèo lắm, vì ông là người Bắc.
Tôi lướt qua kệ sách của những nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ :Võ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết gì nào. Ồ! Ông ta đang nói về sự huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy? Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân Trường? Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào tìm mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đã dự tính lúc ban đầu, thì có tiếng cô bán hàng hỏi:
- Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?
Tôi vội gật đầu và nói:
- Dạ! Mua chứ!
Chắc cô ta để ý thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi tìm mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi...!!
Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của mình cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của mình. Ước mộng của tôi tuy rất bình thường, nhưng hơi khó thực hiện...
Một hôm, tôi đi vào nhà sách Khai Trí để tìm mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đã ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc,
Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc, và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi thì rất mê nghe tôi hát chèo lắm, vì ông là người Bắc.
Tôi lướt qua kệ sách của những nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ :Võ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết gì nào. Ồ! Ông ta đang nói về sự huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy? Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân Trường? Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào tìm mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đã dự tính lúc ban đầu, thì có tiếng cô bán hàng hỏi:
- Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?
Tôi vội gật đầu và nói:
- Dạ! Mua chứ!
Chắc cô ta để ý thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi tìm mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi...!!
* * *
Năm 1966, tôi đã được xem diễn hành Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của tất cả các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tôi cũng có ý muốn chờ xem Người Nhái ra sao, và tôi đã thấy đoàn diễn hành của Liên đội Người Nhái, trang phục rất lạ ngồi trên chiếc xuồng cao su, còn chiếc xuồng khác thì các anh thân hình trần không áo, màu da sạm nắng, hàng đứng bốn thanh niên với thân hình lực sĩ giống như tôi thường thấy trong những cuốn phim mà tôi đã kể ở trên, mình trần, quần short vàng, da sạm nằng bóng như những tượng đồng đen, tay cầm khẩu Tiểu Liên trông thật oai hùng.
Kể từ đó, tôi bắt đầu mơ màng về Người Nhái, nhưng làm sao mình có thể quen và được tiếp xúc với họ. Nhưng rồi thòi gian đi qua tôi không còn ở tuổi mơ mộng đó nữa, nhưng vẫn cứ mộng mẫu người trong mơ!
Tôi đang cố gắng hoàn tất chương trình Văn Khoa và song song trong thời gian nầy tôi cũng vẫn tiếp tục học Anh Văn để thực hiện ước mộng của mình. Nhưng, ước vọng của tôi không thể thực hiện được! Vì Ba tôi đã mất trong khoảng thời gian nầy, nên ước vọng của tôi cũng tan theo, tôi phải nghỉ học để đi làm, nhưng không dám thi vào làm trong Tòa Đại Sứ Mỹ , (vì lúc còn sống, Ba tôi sợ tôi sẽ lập gia đình với người Mỹ nếu vào làm việc trong đó).
Vì tình trạng gia đình đang gặp khó khăn sau khi Ba tôi là cột trụ của gia đình đã về miền vĩnh cửu, tôi bắt đầu bước vào ngành ca hát.
Tôi xin vào hát những Phòng Trà ở Saigòn vào mỗi tối, và vừa đi làm việc
trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương. Trong Đoàn công việc cũng nhàn
nhã, mỗi tháng chỉ đi công tác xa một lần. Đoàn văn nghệ chúng tôi đi
viếng thăm, trình diễn văn nghệ giúp vui cho các anh quân nhân trên bốn
vùng chiến thuật, đến những nơi tiền đồn hẻo lánh và những vùng duyên
hải xa xôi...
Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đã thấy não nuột rồi, đó là Dãy Phố Buồn Thiu .Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy...
Giữa vùng cát vươn lên một dãy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp tôle rải rác . Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả.. Nhìn cảnh vật đìu hiu đó thật đúng với địa danh Dãy Phố Buồn Thiu..!
Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đã thấy não nuột rồi, đó là Dãy Phố Buồn Thiu .Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy...
Giữa vùng cát vươn lên một dãy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp tôle rải rác . Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả.. Nhìn cảnh vật đìu hiu đó thật đúng với địa danh Dãy Phố Buồn Thiu..!
***
Chuyến viếng thăm trên căn cứ Hỏa Lực An Đô nhìn xung quanh cảnh vật thật hùng vĩ, núi đồi trùng trùng điệp điệp quanh năm sương mù phủ khắp triền núi, triền đồi, vì vị trí căn cứ nằm trên đỉnh núi thật cao, chúng tôi được các anh quân nhân tại căn cứ hướng dẫn và giải thích những điểm đặc biệt về vị trí chiến lược nầy là nhằm bảo vệ cho các ngọn đồi chiến thuật án ngữ con đường mòn Hồ Chí Minh giáp biên hạ Lào, các ngọn đồi chiến thuật đó đều nằm trong vòng bảo vệ tác xạ của xạ biểu đồ Sơn Pháo. Việc di chuyển đều nhờ vào trực thăng. Còn đi đường bộ rất nguy hiểm vì đường cong của các đèo và thung lũng , các anh quân nhân trú đóng nơi đây 3 tháng mới được thay toán khác Thức ăn thì toàn là lương khô và chúng tôi cũng được khoản đãi một bữa bằng lương khô của quân đội. Tôi còn nhớ chúng tôi đến nhằm vào mùa Hè mà cũng bị lạnh run vì những cơn gió thốc từ bên dưới triền núi..Các anh lính ở đây đều phải mặc áo lạnh quanh năm suốt tháng.. (Căn cứ An Đô còn có tên là T.Point do Trung Đoàn 3/Sư Đoàn1/BB Trấn đóng. Sau khi Huế mất ngày 26/3/75. Căn cứ nầy vẩn còn chống cự cho đến ngày 1/4/75..!*Tài liệu Cánh Thép, do Ducquany bổ túc, xin cám ơn).
Vào thời điểm này, chiến tranh đang xảy ra thật tàn khốc khắp nơi, những lần đi công tác xa ở những vùng chiến trận thật sôi động như tại Quảng Trị. Vào thời đó miền Nam chúng ta đã bị mất phần đất từ vĩ tuyến 17 đến bờ sông Thạch Hãn. Khi Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương chúng tôi đến viếng thăm và tổ chức văn nghệ để ủy lạo các chiến sĩ thuộc đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang trấn đóng tại đây, chúng tôi được các anh quân nhân đưa ra bờ sông Thạch Hãn để được nhìn về phía bên kia, cảnh vật điêu tàn đổ nát sau trận chiến lấn đất dành dân và những cuộc khẩu chiến giữa hai bên vẩn xảy ra hàng ngày ..Chúng tôi đến Huế, Đà Nẳng, Pleiku, Kontum, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Bình Long, Củ Chi, Trảng Bàng v.v ..
Ban Mê Thuột, địa danh của vùng đất đỏ mưa mùa gió núi! Quả thật vậy, chúng tôi đã đến trong một buổi sáng khi đặt chân xuống phi trường giữa cơn mưa gió lạnh của mùa Đông. Nhìn xa xa những hạt mưa rơi xuống phản chiếu ánh sáng mù mờ của buổi ban mai như những sợi tơ dài phất phơ theo chiều gió lộng mang theo luồng giá buốt.. Chúng tôi vào câu lạc bộ tại phi trường uống cà phê đặc sản của vùng nầy. Chúng tôi ngồi thu mình ở một góc phòng tránh gió cho đỡ lạnh, mặc dầu có đem theo sẵn áo len ấm. Vì là phi trường vùng đồi núi cao nguyên không có hành khách bao nhiêu , thường thường là cho quân sự sử dụng . Chúng tôi ngồi chờ xe của Tiểu khu ra đón.
Đêm nay chúng tôi trình diễn cho các anh được đổi phiên từ các đỉnh đồi chiến thuật về chung vui.. Họ bước vào hội trường với gương mặt tái lạnh vì giá buốt.. Họ xúc động với tình người hậu phương mang tình thương an ủi sưởi ấm đến cho họ trong đôi giờ giải trí..giữa vùng đồi núi hoang vu sương mù đất đỏ.
Sau khi đi thăm viếng các nơi. Tôi cảm thấy thương những người lính, những người đã đem xương máu và mồ hôi tưới lên khắp chiến trường để cho người dân có được sự yên ấm, an lành. Những buổi chúng tôi trình diễn cho các anh chiến sĩ trở về từ mặt trận, những gương mặt còn vương mùi khói súng, những bộ đồ trận còn dính đầy sình, rách tả tơi, và những anh thương binh nằm dưỡng thương nơi hậu cứ, đang nằm trên những băng ca xem chúng tôi hát.. Ôi! thương làm sao, những người đả góp máu giữ quê hương. !!
**********
Trong một buổi thu thanh thơ cho Ban Thi Văn Mây Tần của chú Thi Sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà, tôi có dịp gặp chú Nhạc sĩ Lê Dinh đang làm Chủ Sự phòng điều hợp của Đài, sau khi nghe tôi đọc lời giới thiệu của Ban Thi Văn, chú Lê Dinh cho tôi biết là tôi có khả năng làm xướng ngôn viên, chú mời tôi qua phòng thi ..Và sau khi thi đọc qua nhiều thể loại, tôi được tuyển chọn vào ngành .Và cũng từ đó tôi nghỉ việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương.
Một buổi trình diễn quan trọng tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc của Bộ Văn Hóa Giáo Dục do Quốc vụ Khanh- ông Mai Thọ Truyền tổ chức để trình diễn bộ môn Văn Nghệ Cổ Truyền của Dân Tộc cho các phái đoàn Ngoại Giao đến tham dự. Chủ tọa buổi lễ hôm nay là Thống Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phu Nhân.
Chúng tôi đang tập dượt ca hát trước khi trình diễn màn hợp xướng ba nhạc phẩm Hòn Vọng Phu của Nhạc Sĩ Lê Thương. Tình cờ, tôi thấy một số người đi ngang qua cửa sổ phòng nhạc của chúng tôi, trong số đó có một người gương mặt hơi ngâm đen sạm nắng, tóc anh dợn quăn nhẹ. Có vẻ giống như cầu thủ của đội bóng tròn, gợi cho tôi sự chú ý đặc biệt. Tôi có cảm giác hình như tôi đã gặp ở đâu rồi nhỉ! Họ đang nhìn vào và cười với chúng tôi, như là muốn làm quen thì phải. Và sau cùng các anh ngỏ ý muốn mời chúng tôi qua Câu Lạc Bộ của Phủ Tổng Thống, tôi cũng đánh bạo đi theo các cô bạn, nhưng.trong lòng hồi hộp. ...và cũng hơi run.
Lúc đó, chúng tôi mới được biết các anh cùng làm việc trong Khối Cận Vệ của Phủ Tổng Thống đang kiểm soát lại vấn đề an ninh, bảo đảm an toàn cho các vị yếu nhân trong đêm nay. Nhưng anh chàng có nét đen sạm rắn rỏi đó, theo sát và nói chuyện riêng với tôi mãi, làm cho tôi thật là hồi hộp và cảm thấy ngượng ngùng. Tôi tự hỏi "Không biết có phải anh là người mà tôi mong được gặp gở hay không? Nhưng sao trong lòng nghe rung động chi lạ!" Đang say sưa với ý nghĩ lạ lùng đó, tôi hồi hộp... khi nghe các anh đề nghị mời chúng tôi đi Cát Lái chơi ski nautique (trượt nước), mọi người đều đồng ý. Trên đường đi, anh có kể chuyện cho tôi biết, trước khi ở trong ngành này (Cận Vệ) anh đã xuất thân từ đơn vị Người Nhái. Tôi bỗng nghe xao xuyến .. nhớ lại mộng ước và đối tượng của tôi từ hồi còn thơ ngây....
Khi đến nơi, bạn của anh là anh Trương Nghĩa Thành ra đón chúng tôi vào chơi Ski. Trong lúc anh đang lái chiếc ca-nô, để cho anh Thành chạy Ski, thì trong đầu tôi đang xáo trộn dấy lên với nhiều ý nghĩ...
Bỗng chiếc ca-nô chao mạnh nghiêng qua như muốn lật, tôi mất thăng bằng vội chụp ngay cánh tay của anh...”cánh tay của anh”.. thật rắn chắc..như sắt thép. Luồng hơi nóng ấm từ anh chuyển sang tôi như mang theo cả sức mạnh lan truyền vào cơ thể.... Tôi đỏ mặt, ngượng quá.. vội buông tay anh ra, và ...không dám nhìn anh... Trong lúc đó anh đang giữ vững tay lái để giữ thăng bằng chiếc ca-nô. Anh Thành đổi tay lái với anh, đến phiên anh chạy Ski....
Và sau buổi gặp gỡ đó, chúng tôi cảm thấy như có tiền duyên và chúng tôi bắt đầu yêu nhau với những buổi hẹn hò tiếp nối..Chúng tôi đã làm lễ thành hôn tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan An Đông, vào thời Mùa Hè Đỏ Lửa nên chỉ diễn ra trong vòng thân mật giữa gia đình, các bạn học và những bạn nghệ sĩ rất thân mà thôi.
Đến ngày 30-4-75 Miền Nam mất vào tay bọn Cộng Sản khát máu... Những tên VC nằm vùng lộ mặt theo dõi chúng tôi từng giây từng phút...Tôi còn nhớ rõ anh như con cọp lìa rừng bị loài lang sói giỡn mặt.. nhiều lúc tôi thấy mặt anh như đanh lại đôi mắt anh như rực lửa căm hờn ...
Rồi anh cũng phải vào tù như những Sĩ Quan khác..."học tập" để biết đường lối mới của Đãng. Còn tôi cũng bị đi "học tập" trong ngành Truyền Thông tại Đài Phát Thanh Saigon. Họ bảo, tôi là Xướng Ngôn Viên, tôi đã gián tiếp có tội ác với nhân dân vì bản tin viết ra tôi đã đọc cho thính giả nghe đó cũng là có tội. Nói chung, đối với Cộng Sản thì tất cả đều có tội, chỉ ngoại trừ Đảng Cộng Sản của họ.
Sau tháng tư, 75. Tôi là một người vợ của ngụy quân hay là tù cải tạo . Tôi chỉ biết nhớ thương chồng qua hình bóng của con (vì nó giống anh như đúc) Tôi thường thầm nhủ: Cảm ơn anh đã cho..em đứa con , nó như là sức mạnh nung đúc nghị lực cho em. Có nhiều lúc em nhớ anh ..nhưng không dám nghĩ đến những gì có thể xảy ra..! .Tôi lo sợ vì biết tánh của anh rất can cường..
Lúc đó, con trai tôi được 6 tháng, không biết lấy gì để nuôi con. Tôi đã gom hết những áo dài cũ, mới và tất cả đồ trang sức luôn cả những vật gì trong nhà có thể bán được, đưa cho một người bạn đem bán ở chợ trời để có tiền mua sữa cho con, nhưng rồi cuối cùng tôi không còn vật gì để bán, tôi đành dứt sữa cho con, và tập cho nó ăn cơm gạo mục và mốc (lúc đó dân sắp hàng dài chờ đợi để được mua gạo như vậy đó, nên khi vo gạo phải vo nhẹ nhẹ nếu không sẽ bị nát). Tôi cố gắng nuôi con bằng đủ mọi cách để chờ chồng.
Hoàn cảnh của tôi thật không còn con đường nào để tính, vì không biết buôn bán như các chị em khác, bao nhiêu nhọc nhằn, cay đắng tôi nhận lãnh thật bất ngờ sau tháng tư đen-75. May mắn tôi được sự giúp đỡ của một người bạn thân của anh tôi trở về từ Thụy Điển giúp cho vào làm việc cho một công ty của ông ta với số tiền lương nhỏ.
Đã hơn ba tháng rồi mà tôi không nhận được tin tức gì của anh, chớ đừng nói đến thăm nuôi, lúc đó bên ngoài gia đình và dân chúng đã hoang mang than oán. Đến tháng thứ tư, tôi nhận được thư anh gởi về từ Trại cải tạo tôi vui mừng biết rằng anh vẫn còn yên lành. Nhưng ... chỉ có 2 ngày sau tôi nhận được tin anh đã trốn thoát trại tù Thành Ông Năm và đang ở tạm nhà người Dì của tôi. Anh không về nhà vì biết bọn Việt Cộng đang theo dõi.
Tôi vừa mừng vừa lo sợ, buồn vui lẫn lộn. Nhưng anh không thể ở đâu được lâu, vì bọn Việt Cộng thường hay lùng xét để bắt phản động, Việt Cộng thường dùng "bọn 30" theo dõi hành động của dân. Anh cho biết anh muốn đi tìm những đường dây kháng chiến để sát nhập với anh em cùng chống lại bọn Việt Cộng cho nên anh tìm cách trốn ra. Anh phải sống như những người dân du mục nay Saigon, mai Miền Tây, mốt Miền Đông mà trong người thì không tiền. Với chiếc xe đạp mượn của một người bạn, anh đạp cả ngày từ Chợ lớn ra Saigon hay ngược lại, anh phải sống nhiều ngày với nải chuối trên xe, vì nếu ngừng lại thì sẽ bị công an khám xét. Vì anh không muốn liên lụy đến những người bạn nên có nhiều đêm không có chỗ ngủ, anh phải mướn chiếu để ngủ ở Nhà Ga Xe Lửa Saigon hay Xa Cảng Miền Tây. Có những lúc mang con, gặp lén anh ở những quán Café vỉa hè và các quán ăn, anh cho biết đêm nay anh không biết trú ngụ ở đâu.. Trời ơi! Lòng tôi thật đau đớn vô cùng, tôi cố nén lòng, mà như ai bóp nát tim tôi, cố dằn nhưng nước mắt cứ đoanh tròng..., tôi không biết làm sao để giúp được cho anh. ..
Tai ách lại đến với anh.
Một hôm, anh hẹn tôi gặp anh ở một điểm hẹn gần Sở làm của tôi để giao lại cho tôi chiếc xe đã gắn cái yên nhỏ để chở con phía trước thay vì phía sau sợ con bị kẹt chân. Khi đến điểm hẹn, anh giao chiếc xe cho tôi rồi bảo: "Chạy gấp đi vì anh đang bị theo dõi", tôi không dám đứng lâu vội lên xe chạy đi..Anh nói vói theo như một lời trăn trối: ..Cố gắng nuôi con nghe em…!!
Trên đường về nhà tôi thật lo lắng ! vì anh chỉ có giấy giả., mà lại mang tên giả! Người tôi như chùn xuống không còn sức chịu đựng nữa, đêm đó tôi bồn chồn thao thức, hình như đả xảy ra chuyện không may đến anh, tôi buồn rầu vật vã mải cho đến sáng..
Sáng hôm sau, vào Sở làm, tôi vẫn còn nhiều câu hỏi trong đầu về anh, thì anh bạn gọi tôi vào văn phòng và cho tôi biết, chồng tôi đã bị bắt tối hôm qua và hiện đang bị giam trong phường Công An Huyện Sĩ, họ mời tôi qua gặp họ, để điều tra. Tôi vừa nghe, nước mắt tôi đang chực để trào ra, tôi ngồi phệt xuống ghế, và không biết tôi đang làm gì!. Tâm trí tôi lúc đó đang quay cuồng, lo sợ họ sẽ xử tử anh vì biết anh đã vượt tù ...Phần thì lo sợ nếu tôi bị mất việc sẽ không có tiền nuôi con... Đang miên man suy nghĩ thì hình như anh bạn của anh tôi cũng hiểu sơ ý tôi nên anh nói: "Cô đừng lo! qua thăm anh ấy đi, có cần gì anh sẽ giúp cho, rồi trở lại làm việc sau". Tôi vội qua Phường Công An thăm anh, tôi gặp tên công an trưởng, và hắn cho biết:
- Chồng chị, đã trốn trại học tập, về Saigon, sao chị không báo cáo cho Chính Phủ Cách Mạng? Dám đánh Công An để chạy trốn nhé!
(Lúc đó, tôi nổi nóng nên không sợ gì cả)- Xin lỗi! Tôi không thể báo cáo được, vì các anh đã hứa học tập chỉ có 10 ngày, nhưng không đúng như lời hứa, nên chồng tôi phải trốn ra...
Thì vừa lúc đó chúng dẫn chồng tôi ra, anh đi không nổi, tên lính công an dìu anh ra. Nhìn anh với thân hình tiều tụy và gương mặt trỏm lơ vì thiếu ngủ, lòng tôi se thắt lại, không cầm được nước mắt, tôi đau xót vô cùng, (sau này anh kể lại đêm đó sau khi bắt được anh, chúng treo anh lên hổng mặt đất và 2 tên Công An thay phiên nhau đánh đấm vào ngực, bụng anh túi bụi, sau khi chúng thả anh xuống, hai tay anh không dở lên được..). Anh sợ tôi khai không giống như lời khai của anh, sợ liên lụy đến anh em cùng hoạt động trong thành phố, nên anh vội nói khi gặp tôi:
- Em nói cho mấy anh này biết là anh nhớ Mẹ con em nên anh trốn trại về. và ngủ ở nhà ga xe lửa..Tên công an vội chận lời anh lại..
Sau khi được anh nhắc, tôi cũng lập lại lời anh nói với bọn công an. Thấy không khai thác gì được ở tôi, nên tên công an trưởng bảo dẫn chồng tôi vào và cho tôi về. Ngày hôm sau tôi đến đó hỏi thăm, thì họ cho biết, đang chuyển anh qua trại tù Quận Nhì Saigon. Chúng không trả anh trở về trại học tập cũ, có lẽ bọn chúng sợ anh sẽ trốn nữa. Tôi vội chạy đi mua một số thức ăn đi thăm anh, nhưng bọn chúng không cho gặp mặt , chỉ cho gởi thức ăn vào thôi! Cũng cùng lúc đó, thì chiếc xe chở tù cũng vừa ngừng lại trước cổng Quận Nhì, tôi vội chạy theo đưa thức ăn cho anh và chỉ kịp nhìn bóng anh khuất sau cánh cửa trại tù. Ôi! Cánh cửa oan nghiệt đó đã đóng kín chia cắt tôi và anh, tưởng như là vĩnh viễn....không gặp lại anh. Anh ơi!
Kể từ đó, tôi bặt tin tức của anh, buồn bã, thất vọng, tôi không biết tâm sự cùng ai! Nhưng, trong nỗi thất vọng đó, tôi cũng rất tin tưởng ở anh, và hãnh diện ở anh, Người hùng của tôi .
Nhớ lại lần vượt tù thứ nhất anh đã vượt qua những hàng rào kẽm gai kiên cố bao quanh trại học tập. Được biết theo lời Ban Quản Giáo của bọn Việt Cộng mỗi khi bắt lại được những Sĩ Quan nào trốn trại chúng đem ra sân cờ xử bắn để hăm dọa những người còn lại: "Các anh đừng hòng trốn thoát khỏi nơi đây, cho dù một con kiến cũng không lọt được". Nhưng chúng đã lầm! Sau bốn tháng, tại Thành Ông Năm, Hốc Môn, bất chấp lời hăm dọa của bọn chúng, đã có một Người Nhái vượt được khỏi vùng kiểm soát của lính canh và mười mấy lớp kẽm gai bao bọc. Anh đã cho chúng thấy sự gan lì của một Sĩ Quan QLVNCH đã không e ngại vì những lời hăm dọa đó anh đã ra khỏi trại mà chúng cũng không hay biết.
Tôi luôn nghĩ, anh vẫn còn sống và anh sẽ tranh đấu để sống còn, để còn có một ngày....Anh thường suy nghĩ rất nhiều về thế hệ tương lai con.. cháu...sau này.
Sáu tháng sau khi bị bắt lại, chúng giam anh ở Quận Nhì... tôi nhận được thư anh là bọn chúng cho phép lên thăm nuôi, nhưng không phải ở Quận Nhì mà lại là trại Phản Động K3, ở Gia Rây, tỉnh Long Khánh. Tôi vội vàng làm những món ăn để anh có thể giữ ăn được lâu và mang con theo lên thăm anh. Trong thư anh dặn mang theo Café và vài đòn bánh tét.
Sáng sớm ngày Chúa Nhật, tôi và con tôi đi xe lửa từ Saigon đến Gia Rây, Long Khánh thăm anh. Trưa thì đến nơi, trại tù này nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh có nhiều hàng rào kẽm gai bao bọc thật kiên cố. Tôi phải chờ đợi đến gần chiều tối tôi mới được thăm anh, Trông anh sức khỏe khá hơn lúc gặp ở trại tù Quận Nhì, chúng tôi được gặp nhau trong vòng 15 phút, thằng bé lâu quá không gặp mặt Ba nên lạ, cứ nhìn Ba mà khóc hoài, tôi thật xót xa. Anh hỏi qua loa về những chuyện nhà, khi thấy tên Công An lơ đãng anh ghé vào tai tôi nói thì thầm:
- Khi nào trời có mưa, em nhớ cầu nguyện cho anh!
Tôi giật mình tôi hỏi nhỏ giọng lo lắng:
- Anh...anh định.. trốn nữa hả!
Anh không trả lời, nhưng tôi thấy ánh mắt sáng ngời của anh hiện lên nét cương quyết.. Tôi gật đầu nhẹ vì tôi rất hiểu ý của chồng tôi khi mà anh quyết định việc gì thì có thể nói là không có gì lay chuyển anh được!...
Anh chỉ lấy cà phê với mấy đòn bánh tét nhỏ, còn lại bao nhiêu đều để lại cho tôi đem về, vì anh biết khi đi thăm nuôi là tôi phải bán đi một vật kỷ niệm nào đó của chúng tôi..Tôi nghẹn ngào..
Tôi đứng lên từ biệt anh mà lòng đau như dao cắt . Trời đã bắt đầu tối, tôi bồng con đứng nhìn theo anh đang lầm lũi theo đoàn tù cải tạo hướng về trại giam..mà dòng nước mắt tuôn tràn ..Anh ơi !!
Tôi bồng con vội vã ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ khi đến nhà ga thì cũng vừa kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang tới, khi lên được xe lửa thì trời tối đen như mực, đưa bàn tay lên không nhìn thấy gì cả, vì xe lửa không có đèn.
Tôi rất lo lắng cho anh lòng tôi đang rối loạn vì không biết lúc nào thì anh sẽ vượt tù? ..Và anh vượt ra có an toàn không?
Vì tôi cũng có nghe vài người vượt tù bị bắn chết bọn chúng đem thây người chết mà vùi dập tại chỗ...Tôi miên man với nhiều ý nghĩ lo buồn bỗng giật mình vì nghe tiềng mưa rơi…Trời ơi…
Anh.. Anh ơi! Em đang thầm cầu nguyện cho anh ...
Vì tối quá, con tôi nó khóc mải cho đến khi về tới Saigon. tôi về đến nhà thì đã 12 khuya dưới cơn mưa tầm tã..!
12 giờ trưa hôm sau, tôi được một người em bà con cho hay anh đã trốn thoát một lần nữa và đang có mặt tại Saigon. Anh đến tìm người em của tôi nhờ cho tôi hay.!
Đêm qua tôi về đến Saigon cũng là lúc anh trốn trại vượt qua bao hàng rào kẽm gai kiên cố và nhất là Bãi Mìn đầy nguy hiểm để tìm tự do. Anh chạy bộ 35 cây số dọc theo đường rầy xe lửa từ Gia Rây về Long Khánh với một anh Trung Úy Bộ Binh, cả hai cùng ôm vai nhau làm thành khoảng cách như giữa 2 bánh xe lửa, rồi cùng chạy trên đường rầy...Khi về đến Long Khánh , hai anh đáp xe lửa về Saigon vào trưa hôm sau.
Tôi thầm nghĩ Người Nhái Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho bọn Cộng Sản thấy rõ ý chí can cường bất khuất của một người lính thiện chiến của Quân Lực VNCH.
Sau đó, anh lẩn trốn rất nhiều nơi và cũng suýt bị bắt mấy lần, trước khi được một người bạn giúp đỡ tìm cách rời khỏi Việt Nam để tìm thuốc “chữa bệnh”.
Một đêm hồi hộp phập phồng, vì mấy tên công an đi dòm ngó vòng quanh, vì tất cả những người vượt biên đều ngủ tạm tại bến xe đò Cần Thơ để chờ sáng, khoảng 4 giờ sáng được người liên lạc của trong tổ chức tại địa phương hướng dẫn xuống bến Ninh Kiều và tất cả đều xuống đò đưa ra trên hai chiếc ghe chài đậu ở giữa sông, sau khi kiểm soát người đủ chiếc ghe chài trực chỉ ra cửa biển Tranh Đề, trên đường đi tất cả đều chun xuống khoang ghe, còn trên thì được ngụy trang đồ đạc chất đầy ... Ghe chạy gần tới biển thì gặp chiếc ghe đánh cá Kiên Giang cập vào, tất cả leo qua ghe đánh cá nầy để vượt biên, khi qua chiếc ghe nầy mọi người cũng phải trốn dưới khoang chứa cá .. Khi ra đến cửa biển thì trời đã tối, tất cả mọi đều vui mừng vì được ló đầu ra khỏi khoang ghe để thở không khí trong lành. Nhưng ghe chạy chưa được bao lâu thì lại vướng lên cồn cát, tất cả mọi người đểu xôn xao lo sợ vì có nhiều người đi trên ghe nầy đã bị bắt lại 9 - 10 lần, nên họ đã mất hết tài sản rồi, nếu bây giờ mà bị lần nữa thì hết mong vượt biên.. Còn về phần chúng tôi được người bạn thân gởi đi nhờ nên anh không phải là tài công...
Vì cùng đi chung một chiếc thuyền nên phải tự cứu mình, anh đứng ra kêu gọi tất cả trên ghe phải nghe theo anh sắp xếp tất cả đàn ông và thanh niên. Chỉ đinh cứ hai người làm thành một tổ, anh nói:
- Bắt đầu các anh xuống nước lấy chiếc ghe làm chuẩn, mỗi tổ chia ra đều xung quanh ghe, hướng mặt ra ngoài và đi ra khỏi ghe khi nào các anh gặp chỗ sâu ngang cổ thì la lên..
Tất cả đểu làm theo, trong lúc đó tiếng cầu kinh của các bà thì thầm khấn vái trong gió biển dạt dào..
Khoảng độ 15 phút sau nghe có tiếng la to : "chỗ nầy nước sâu lắm bà con ơi..!" Tất cả vui mừng cùng đẩy chiếc ghe đến chỗ nước sâu rồi anh tài công mở máy chạy thẳng ra biển..Nhưng chỉ chạy được vài trăm thước thì máy bơm nước trong ghe ra bị bể, mọi người lại lo sợ nữa.. Anh liền lựa ra ba người lớn tuổi làm trưởng Toán rồi chia thanh niên ra làm ba toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài..
Kể từ giờ phút đó anh trách nhiệm lái chiếc ghe vì anh có hỏi qua tài công không rành đường đi trên biển?(hay có ý riêng tư?). Anh vào phòng lái mà lái ghe đi theo hướng anh đã định.,
Đến sáng hôm sau trời còn lờ mờ nhưng mọi người vì lo lắng nên đã thức dậy . Anh chỉ cho mọi người thấy hòn đảo Côn Sơn phía bên trái của chiếc ghe và nói:
- Mình đã đi đúng đường rồi !! ghe sẽ đi thêm ba tiếng đồng hồ nữa thì đến hải phận quốc tế...Mọi người trên ghe đều vui mừng.
Giữa cảnh trời nước bao la tôi cảm thấy mình như quá nhỏ bé so với mặt đại dương mênh mông.., nhưng tôi đã có anh bên cạnh nên những hãi hùng lo sợ đã nhường lại cho bóng mát của niềm tin yêu...
Tôi ôm con ngồi dựa cột cờ nhìn anh làm việc mà lòng xúc động..Anh vẫn hiên ngang trước mọi biến cố..Rất cương quyết bất chấp hiểm nguy nhận lãnh trách nhiệm ..và anh đã hoàn thành. Đưa tất cả là 59 người đến bến bờ Tự Do..Trên một chiếc ghe hư hại nặng mang số KG 0660 không được sửa chữa, chai trét ghe đã bị sóng biển vổ tróc ra nên nước biển vào rất nhiều, ba toán thanh niên phải vất vả tát nước suốt hải trình từ Việt Nam đến Mã Lai hai ngày hai đêm rưởi, trên ghe độc nhất chỉ có la bàn....
Khi anh lái ghe theo lộ trình của Hải Tiêu vừa vào đến bờ chiếc ghe ủi lên cồn cát thì ghe rã ra và chìm xuống nước. Tất cả mọi người đều nhảy xuống biển, mặt nước ngập sâu đến ngang cổ....mọi người đều bồng bế nhau và lội vào bờ của đất nước Mã Lai...
Chúng tôi đứng nhìn chiếc ghe tan rã chìm vào lòng biển cả, cảm nghĩ đó như thân hình bệnh hoạn yếu đuối của Mẹ Việt Nam nhưng vẩn cố gắng đưa đàn con thân yêu thoát khỏi vòng tù ngục cộng sản...và đã trút hơi tàn..để vĩnh viễn trở về với lòng biển lạnh ngàn đời..!! Hỡi ơi ! Mẹ Việt Nam..!!
*********
Chồng tôi đã sống lại từ cõi chết của ngục tù Cộng Sản, tôi nghĩ mình còn được may mắn hơn những chị em đã phải nhận xác chồng qua trận chiến tranh tàn khốc, hoặc tìm xác chồng trong các trại cải tạo xa xôi qua cuộc trả thù người đồng chủng của bọn Cộng Sản vừa qua...
Tôi ngậm ngùi thương cho thân phận người Việt Nam chúng ta...Tôi rất hãnh diện và tự hào về anh nói riêng và nói chung cho tất cả các anh chiến sĩ Quân Lực VNCH, những người vợ lính đã chịu đựng những sự nhọc nhằn, ngược đãi của chế độ phi nhân.
Trong cuộc đời nầy và... mãi mãi chúng ta vẩn hãnh diện là người vợ lính VNCH. Chúng ta đã khổ sở, phải chịu nhục nhã và vợ chồng phải sống cách xa nhau, , Những cảnh phân ly chồng vợ do bọn Cộng Sản gây nên, chúng ta may mắn vì đã được đoàn tụ . Vậy thì chúng ta phải quý mến những chuỗi ngày còn lại cho đến ngày tàn của cuộc đời chúng ta, phải không các chị? Đó là câu tâm niệm của tôi. Chúng ta đã vượt qua mọi trở ngại mọi khó khăn mới có được ngày hôm nay thì xin hãy quý trọng giữ gìn hạnh phúc và lo cho con cháu chúng ta sau nầy.. và nếu hoàn cảnh đã không cho phép để thực hiện những gì mà chúng ta muốn, thì hãy cố gắng gầy dựng cho thế hệ mai sau nối tiếp con đường mà cuộc đời của chúng ta phải bỏ dở dang...
Mẹ Việt Nam ơi! Chúng con cầu mong sẽ có một ngày trở về Việt Nam trong quang đãng,thanh bình, ấm no hạnh phúc và Tự Do ..Nghĩa là trên toàn cõi đất nước Việt Nam không còn bóng dáng ác quỷ Cộng Sản dã man..!
Mai Thy
Last edited by hoangnguyen; 02-19-2012 at 03:16 AM.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
No comments:
Post a Comment