Thursday, April 25, 2013
TRẦN ĐƯC THẠCH * VC TÀN SÁT XUÂN LỘC
VC tàn sát cả 1 làng ở Xuân Lộc
Lại
thêm 1 tội ác diệt chủng của CSBV vừa được phanh phui qua lời kể của 1 cán binh
CS, Bài viết có nhiều từ ngữ VC khó nghe ,nhưng vì để giữ tính trung thực nên
không được chỉnh sửa.
Thời
gian lặng lẽ trôi, tôi, một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đã là một ông
già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải
nói. Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng
khuyên “Nói ra làm gì, nguy hiểm lắm đấy”. Và quả thật, sống trong xã
hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không
có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều
chắc.
Tháng
04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp
với Sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo
dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành quân bị lạc nên được giao nhiệm
vụ chốt chặn.
Nhằm không cho các đơn vị quân lực Việt Nam Cộng hoà tiếp viện
cũng như rút lui. Phải công nhận là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả
rất ngoan cường. Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi
đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng
một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung
toé giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho
tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có những người
lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách
của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía bên kia chiến thắng chắc chắn
họ sẽ được truy tôn là những người anh hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước
đã đi theo một hướng khác. Họ đành phải chấp nhận tan vào cõi hư vô như hơn 50
thuỷ binh quân lực Việt Nam Cộng Hoà bỏ mình ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa.
…
Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân
Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ
thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng
trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ.
Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những
người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu
khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc
lửa.
-
Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!
Nghe
tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng.
Tôi
quát:
-
Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình.
Mấy
ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:
-
Anh ơi! đây là lệnh.
-
Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa!
-
Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em
được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
-
Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi
kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm!
Thấy
tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị
giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối.
Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng
mát rồi dật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình băng tạm cho cụ. Lát sau tôi
quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và
5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo
bên cạnh:
-
Ai bắn đấy?
-
Đại đội phó Hường đấy anh ạ!
Lại
nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó
đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu. Tôi
bị sốc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này
ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì?
Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc
cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em Phụ nữ và trẻ con
ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm.
Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh
rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một
cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người
bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:
-
Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!
-
Không lo, có tôi đi cùng!
Tôi
giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:
-
Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang
của những người đã chết sau này còn có việc cần đến.
Thế
là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm
khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh
viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đã
đào. Không còn cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới
dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý
như vậy.
Trời nắng gắt, để bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung
hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch
sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở
ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của
mình. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này
nghĩ lại mới thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh
bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ
danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi
bắt đầu nghi ngờ “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc. Chẳng lẽ
họ mất hết nhân tính rồi sao?”
Công
việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảm giác tội lỗi.
Nghê đã đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo
cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết
chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đã phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn.
Nghê buốn rầu nói với tôi:
-
Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những
người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại
hết cho anh ấy để lo việc chôn ba.
-
Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật
chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau
đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong
chuyện này.
*
* *
….
Đã mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm chiến thắng 30/4
thì tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn sát ở ấp Tân Lập. Cái hố
chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lý nó như thế nào hay để nguyên vậy?
Tôi muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô hình dung việc
làm tốt đẹp của tôi đã giúp cho người ta bưng bít tội ác.
Không! Người dân ấp
Tân Lập sẽ khắc vào xương tủy câu chuyện này. Nỗi đau đớn oan khiên lúc đấy
chưa thể phải nhòa được. Còn những người tham gia cuộc tàn sát ấy nữa, có lẽ họ
cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những tấm huân chương do Đảng và Nhà nước trao tặng
sau ngày chiến thắng. Ý nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương
này.
Sau
ngày giải phóng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột
sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run người,
mặt tái mét:
Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả
lũ!.
Bạn
tôi sợ là đúng. Vì cậu ta là Đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là tôi làm
vậy vì cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã cho anh bộ đội cụ hồ khi nghĩ tới vụ thảm
sát ở ấp Tân Lập…
Trần
Đức Thạch
Cựu
phân đội trưởng trinh sát
Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 – Quân đoàn 4
Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 – Quân đoàn 4
TIN TƯC TRONG NGOÀI
Nghe bài này
Tải xuống - download
Hồi trung tuần tháng tư vừa qua, Nghị viện Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ lại có lên án về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam; tuy nhiên Việt Nam luôn bác bỏ những lên án như thế.
Tải xuống - download
Hồi trung tuần tháng tư vừa qua, Nghị viện Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ lại có lên án về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam; tuy nhiên Việt Nam luôn bác bỏ những lên án như thế.
Thực tiễn
Hiện còn một số người có các hoạt động vì tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam đang bị giam giữ.
Chúng tôi xin phép nêu lên hai trường hợp mà gia đình đang rất lo
lắng. Đó là trường hợp của ông Ngô Hào ở tại tỉnh Phú Yên. Ông này bị
bắt từ hồi ngày 28 tết, tức ngày 8 tháng 2 vừa qua. Đến nay, gia đình
vẫn chưa nhận được bất cứ một văn bản nào từ phía cơ quan chức năng.
Trong khi đó, một người con của ông Ngô Hào, là Ngô Minh Tâm theo học
tại Sài Gòn, cũng bị cơ quan an ninh làm việc liên tục từ thời gian sau
tết cho đến nay.
Bà Nguyễn Thị Kim Lan, vợ của ông Ngô Hào, vào ngày 23 tháng 4 vừa qua cho biết thông tin liên quan:
“Từ đó đến nay không có thông tin gì hết. Gia đình hỏi cơ quan
chức năng thì cơ quan chức năng nói ông bị vi phạm như vậy nên không
được gặp. Họ không cho mình biết thông tin gì, hay lý do gì hết. Hằng
tháng họ chỉ cho gửi đồ ăn vào thôi, ngoài ra mình không biết gì hết. Từ
ngày bắt đi rồi, họ không hỏi, không nói gì với gia đình hết trơn hết
trọi. Chỉ có cháu Tâm bị điều tra tới, điều tra lui. Người ta điều tra
những điều mà cháu có liên quan đến ba cháu. Hồi trong tết chưa bắt ba
cháu, cháu cũng bị gọi…Khi tết về nhà, hai cha con ai cũng bị bệnh hết.
Cháu mệt mỏi nói làm việc gì mãi, không học gì được. Nay công an ngoài
quê vào là, việc, củng cố hồ sơ. Tôi ở nhà rất đau khổ, thấp tha thấp
thỏm, sợ không biết nó có bị bắt hay không.”
Một trường hợp khác nữa là gia đình luật sư Lê Quốc Quân. Ông này bị
bắt giam từ ngày 27 tháng 12 năm ngoái với cáo buộc trốn thuế. Trước đó
một người em của ông này là doanh nhân Lê Đình Quản cũng bị bắt. Rồi một
người bà con là Nguyễn Thị Oanh làm việc trong công ty cũng bị mời đi
thẩm vấn.
Anh Lê Quốc Quyết, em của luật sư Lê Quốc Quân, cho biết về tình hình
của luật sư Lê Quốc Quân, doanh nhân Lê Đình Quản hiện nay và một người
thân làm việc trong công ty là cô Oanh như sau:
“Hôm thứ hai tôi đi gửi đồ thì tiếp tục bị cắt (thăm nuôi) lần thứ
hai. Đợt trước bị cắt một lần rồi, nhưng cắt một kỳ thôi, còn đợt này
cắt hai kỳ liên tục. Tôi hỏi lý do gì thì họ nói vi phạm nội qui trại.
Đòi văn bản thì họ không đưa ra, họ chỉ nói trong báo ra ‘vi phạm’ thôi.
Họ nói vi phạm nội qui. Luật sư trong lần tiếp xúc gần đây nhất là thứ
năm tuần rồi, luật sư được biết anh Quân phản đối việc mặc áo tù, và thứ
hai phản đối bản cáo trạng vì anh cho là ra một cách vội vã và hoàn
toàn vu khống cho anh, nên anh phản đối bản cáo trạng. Việc phản đối bản
cáo trạng thì không liên quan nội qui trại mà chỉ liên quan việc phản
đối mặc áo tù thôi.
Mặc dù đã có cáo trạng, nhưng chưa có lịch xử anh Quân. Luật sư tiếp tục bị cản trở: chưa tiếp xúc được hồ sơ, chưa photo được hồ sơ, với lại đặc biệt mỗi lần lên Viện Kiểm Soát, họ lại chuyển lên tòa; lên tòa họ lại đòi chứng nhận ‘lung tung’. Luật sư Hà Huy Sơn đến giờ vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận của tòa; luật sư Trần Thu Nam không biết thế nào!; hình như có giấy chứng nhận rồi.
Mặc dù đã có cáo trạng, nhưng chưa có lịch xử anh Quân. Luật sư tiếp tục bị cản trở: chưa tiếp xúc được hồ sơ, chưa photo được hồ sơ, với lại đặc biệt mỗi lần lên Viện Kiểm Soát, họ lại chuyển lên tòa; lên tòa họ lại đòi chứng nhận ‘lung tung’. Luật sư Hà Huy Sơn đến giờ vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận của tòa; luật sư Trần Thu Nam không biết thế nào!; hình như có giấy chứng nhận rồi.
Trường hợp của Quản, luật sư đã tiếp xúc được lần thứ hai. Quản đã
bị giam gần 6 tháng rồi. Và hình như phải gia hạn thêm hai tháng nữa.
Quản thông báo với luật sư là chưa ký nhận giấy gia hạn tạm giam, và gia
đình cũng chưa nhận được gì. Oanh mang thai được 29 tuần, và đúng cách
đây một tuần, Oanh thấy cháu không đạp nữa, đi khám thì tim thai ngừng
rồi. Vào đúng một tuần, hôm nay mới đưa cháu ra được. Bác sĩ chưa kết
luận về nguyên nhân; nhưng rõ ràng cháu bé có vấn đề không chịu được nên
mất trong bụng mẹ như vậy. Oanh mang thai đến tháng thứ ba thì bị giam
và giam đến hai tháng sau mới thả ra.
Có một việc rất đau lòng đó là tôi vừa đi đưa tang cháu bé con của Oanh về. “
Lên án
Trường hợp của luật sư Lê Quốc Quân được nêu ra trong phúc trình
thường niên của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ hồi ngày 19 tháng 4 vừa qua; theo
đó tình hình nhân quyền của Việt Nam trong năm qua xấu đi chứ không tiến
triển gì.
Theo phúc trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì cơ quan chức năng Việt
Nam đã hạn chế quyền tự do bày tỏ ý kiến, thông qua những qui định luật
pháp mơ hồ về an ninh quốc gia để bỏ tù những người bất đồng chính kiến,
sách nhiễu những người hoạt động và gia đình của họ. Tất cả những việc
làm đó của cơ quan chức năng Việt Nam bất chấp yêu cầu tinh thần thượng
tôn pháp luật.
Hôm ngày 12 tháng tư vừa qua, đại diện phía Việt Nam và Hoa Kỳ cũng
gặp nhau trong vòng đối thoại nhân quyền Việt- Mỹ lần thứ 17. Lẽ ra hoạt
động này đã diễn ra hồi cuối năm ngoái, nhưng bị hoãn lại cho đến ngày
12 tháng tư vừa rồi.
Phái đoàn Hoa Kỳ dự đối thoại nhân quyền Việt- Mỹ tại Hà Nội muốn
được gặp hai người từng công khai lên tiếng đấu tranh cho dân chủ, nhân
quyền tại Việt Nam là bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Nguyễn Văn Đài,
thế nhưng cả hai người đã bị ngăn chặn.
Vào ngày 18 tháng 4, Nghị Viện Liên Minh Châu Âu thông qua nghị quyết
lên án nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền, quyền tự do tôn giáo,
tự do ngôn luận. Nghị quyết được sự nhất trí của 6 chính đảng, chỉ có
một đảng là đảng cực tả bỏ phiếu trắng.
Bác bỏ
Ngay sau khi có nghị quyết của Nghị Viện Châu Âu và phúc trình thường
niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền của Hà Nội, người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng bác bỏ cho rằng cả hai có cái
nhìn sai lệch về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong một
bài xã luận đăng vài ngày trước khi diễn ra kỳ đối thoại nhân quyền
Việt- Mỹ lần thứ 17, nêu ra câu hỏi liệu ông Daniel Baer không thấy rằng
nếu xem xét vấn đề nhân quyền tại Việt Nam qua nhãn quan của những
người Mỹ gốc Việt chống Cộng có phải là cực đoan hay không!
Cũng như những lần khác khi được hỏi về việc bắt giữ những người bất
đồng chính kiến, cơ quan chức năng Việt Nam cũng như các quan chức đều
cho rằng những người đó vi phạm pháp luật Việt Nam. Trong khi ấy, thì
những người trong cuộc đều cho rằng họ hành xử các quyền công dân đã
được qui định trong Hiến pháp Việt Nam.
Tin, bài liên quan
- “Độc hành cho Nhân quyền VN” – Chặng đường cuối
- Trung Quốc công bố phúc trình tố cáo Hoa Kỳ vi phạm nhân quyền
- Nghị viện EU quan tâm đến nhân quyền Việt Nam
- Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố phúc trình thường niên về nhân quyền VN
- Kêu gọi trao đổi về Quyền Con Người
- Kêu gọi trao đổi về Quyền Con Người
- Hoa Kỳ: Việt Nam gia tăng các vi phạm nhân quyền
- Hà Nội phản đối EU thông qua nghị quyết về nhân quyền VN
- EU thông qua Nghị quyết tố cáo VN đàn áp tự do ngôn luận
G.s J.London: “Việt Nam phải cải cách chính trị để được quốc tế ủng hộ về Biển Đông”
Giáo
sư Jonathan London trả lời báo chí Việt Nam tại hội thảo “Chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Khía cạnh lịch sử và pháp lý”
ngày 27/4/2013.
Ảnh chụp qua màn hình TV
Hôm qua, 27/04/2013, Trường Đại học Phạm Văn Đồng tại Quảng Ngãi đã tổ chức một hội thảo quốc tế với chủ đề “Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Khía cạnh lịch sử và pháp lý”,
với sự tham gia của nhiều chuyên gia Việt Nam và ngoại quốc, trong số
này có giáo sư Jonathan London, Trường Đại học Hồng Kông.
Ông J. London đến dự hội thảo để trình bày một tham luận viết
chung với chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt. Điều mà hai tác giả nhấn
mạnh đó là, để được quốc tế ủng hộ mạnh mẽ trong vấn đề chủ quyền Biển
Đông, Việt Nam một mặt phải quảng bá nhiều hơn nữa các bằng chứng pháp
lý và lịch sử, nhưng mặt khác phải chấp nhận cải cách chính trị trong
nước, thực thi dân chủ và nhân quyền. Từ Quảng Ngãi, giáo sư London trả
lời phỏng vấn RFI:
Ai cũng biết là tình hình Biển Đông hiện nay rất phức tạp và Việt Nam hiện nay dù có những cơ sở pháp lý mạnh hơn so với Trung Quốc nhiều, nhưng vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được sự ủng hộ của quốc tế. Nhiều khi Việt Nam không tỏ ra hiệu quả lắm về vấn đề quảng bá những thông tin về tranh chấp ở Biển Đông, nên tôi đề nghị là trong thời gian tới, Việt Nam nên tập trung vào việc làm rõ về những bằng chứng mà Việt Nam hiện có về tranh chấp Biển Đông.
Trong bài mà tôi viết cùng Vũ Quang Việt, chúng tôi nhấn mạnh là vấn đề tranh chấp Biển Đông có liên quan đến chính trị trong nước. Để nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế và để khai thác sự ủng hộ của quốc
tế đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông, Việt Nam phải cố gắng giải quyết
những hồ sơ nổi bật về chính trị trong nước, như vấn đề đàn áp, bắt
giữ, thiếu tự do ngôn luận... Những vấn đề nhân quyền ấy là những trở
ngại, tức là không ai mà muốn ủng hộ Việt Nam, hoặc ít người ủng hộ, nếu
họ thấy là hành vi của các lãnh đạo Việt Nam không hợp với những tiêu
chuẩn quốc tế về nhân quyền.
Lãnh đạo Việt Nam hiện nay sợ theo Mỹ thì mất chế độ, theo Trung Quốc thì mất nước, nhưng theo tôi, có thể có phương án thứ ba, đó là phải cải cách. Chính vì thế chúng tôi có nói là lãnh đạo Việt Nam nên chấp nhận một số nội dung của nhóm 72 ( trí thức nhân sĩ), mà vừa qua đã đề nghị một số thay đổi về Hiến pháp.
Những nước khác có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan dễ dàng có sự ủng hộ của quốc tế. Tất nhiên lịch sử của những nước đó hoàn toàn khác với Việt Nam, nhưng vì trong những nước đó có cơ chế dân chủ, có nhân quyền, có tự do ngôn luận. Rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và châu Âu rất nhiệt tình ủng hộ, nếu họ có những cơ sở pháp lý vững chắc như Việt Nam có.
Dù Việt Nam có những bằng chứng rất vững chắc về chủ quyền Biển Đông, nhiều nước như Mỹ và châu Âu rất ngại ủng hộ mạnh mẽ, chính bởi vì những vấn đề chính trị của Việt Nam.
Đến hội thảo, tôi rất nhiệt tình và chia sẽ ý kiến với những người dự hội thảo. Tôi rất hài lòng và đánh giá cao kết quả hội thảo. Có rất nhiều thảo luận sôi nổi và hay. Điểm mà tôi cố gắng nhấn mạnh là muốn có sự ủng hộ của quốc tế thì Việt Nam phải cải cách sâu rộng chính trị.
Ai cũng biết là tình hình Biển Đông hiện nay rất phức tạp và Việt Nam hiện nay dù có những cơ sở pháp lý mạnh hơn so với Trung Quốc nhiều, nhưng vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được sự ủng hộ của quốc tế. Nhiều khi Việt Nam không tỏ ra hiệu quả lắm về vấn đề quảng bá những thông tin về tranh chấp ở Biển Đông, nên tôi đề nghị là trong thời gian tới, Việt Nam nên tập trung vào việc làm rõ về những bằng chứng mà Việt Nam hiện có về tranh chấp Biển Đông.
Trong bài mà tôi viết cùng Vũ Quang Việt, chúng tôi nhấn mạnh là vấn đề tranh chấp Biển Đông có liên quan đến chính trị trong nước. Để nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế và để khai thác sự ủng hộ của quốc
Lãnh đạo Việt Nam hiện nay sợ theo Mỹ thì mất chế độ, theo Trung Quốc thì mất nước, nhưng theo tôi, có thể có phương án thứ ba, đó là phải cải cách. Chính vì thế chúng tôi có nói là lãnh đạo Việt Nam nên chấp nhận một số nội dung của nhóm 72 ( trí thức nhân sĩ), mà vừa qua đã đề nghị một số thay đổi về Hiến pháp.
Những nước khác có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan dễ dàng có sự ủng hộ của quốc tế. Tất nhiên lịch sử của những nước đó hoàn toàn khác với Việt Nam, nhưng vì trong những nước đó có cơ chế dân chủ, có nhân quyền, có tự do ngôn luận. Rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và châu Âu rất nhiệt tình ủng hộ, nếu họ có những cơ sở pháp lý vững chắc như Việt Nam có.
Dù Việt Nam có những bằng chứng rất vững chắc về chủ quyền Biển Đông, nhiều nước như Mỹ và châu Âu rất ngại ủng hộ mạnh mẽ, chính bởi vì những vấn đề chính trị của Việt Nam.
Đến hội thảo, tôi rất nhiệt tình và chia sẽ ý kiến với những người dự hội thảo. Tôi rất hài lòng và đánh giá cao kết quả hội thảo. Có rất nhiều thảo luận sôi nổi và hay. Điểm mà tôi cố gắng nhấn mạnh là muốn có sự ủng hộ của quốc tế thì Việt Nam phải cải cách sâu rộng chính trị.
ĐOÀN VƯƠNG THANH * NỖI BUỒN THÁNG TƯ
Nỗi buồn tháng Tư
Đoàn Vương Thanh
Ngày
30 tháng Tư năm 1975, gần như toàn thể cán bộ nhân viên cơ quan tôi đều
có mặt, ai cũng ngóng chờ tin chiến thắng từ Thông Tấn xã Giải phóng
truyền ra. Ông trưởng phòng Hành chính cơ quan không biết chuẩn bị từ
bao giờ đã có một tràng pháo (hồi đó chưa cấm pháo) dài từ nóc ngôi nhà
bốn tầng cũ của cơ quan chấm đất, chỉ chờ tin thắng trận là châm lửa.
Xem ra, ông ta nóng lòng nóng ruột lắm.
11 giờ 15 phút, ông trưởng phòng đứng sẵn cạnh dây pháo. Anh em xúm quanh, ai cũng không giấu nổi niềm vui.
Đúng 11 giơ 29 phút, có tin từ miền Nam, quân ta đã tiến vào Dinh Độc
lập. Một sĩ quan của ta dang cầm cờ nửa đỏ nửa xanh chạy như bay lên
tầng cao của Dinh Thống Nhất. Pháo đã châm lửa. Tiếng nổ giòn giã và làn
khói xanh của pháo trùm một nửa ngôi nhà làm việc bốn tầng. Vui, vui
không để đâu hết vui.
Nhưng tưởng sau ngày đó, nhân
dân ta ở cả hai miền phải được vui hơn gấp bội, nhưng càng ngày càng
thấy băn khoăn và càng thấy buồn, buồn đến nỗi ngay Nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm, một dạo là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban văn hóa tư tưởng trung
ương, phải thốt ra rằng “Những năm tháng thật buồn” .
Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi
đồng cảm nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn,
nhà thơ đã từng có thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi
buồn của nhiều ông tướng, ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi
buồn mất đất của nông dân, nỗi buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo dục bế tắc…
Còn trong hệ thống chính trị, không thiếu những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng…Lại con gái, con trai mấy vị vào hàng
“nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước nước ngoài, chỉ suốt
ngày gái gú, chơi game…Khi cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm
ru hái ra tiền. Con gái một vị to đầu tư cho một khu đô thị sinh thái
chiếm đoạt 500 ha đất canh tác của nông dân, nay không rõ ôm tiền đi
đâu. Đặc biệt, những thông tin về nhóm lợi ích, về phe phái này “chiến
đấu” với phái kia, dường như “một mất một còn”. Một số vị ở vị trí cao
của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ
cá nhân ích kỷ…
Vì sao, đất nước sau gần 40 năm
được thống nhất, có độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ
phải “trần như nhông” để “bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã
cấp hộ chiếu cho gần 30 vạn phụ nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”,
“lấy chồng”, trong nước còn có đến 30 vạn gái điểm và một lũ “đĩ quý
tộc”?..
Ông Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thứ
của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư hỏng…” mà
lại chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều năm.
Bộ máy chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan
liêu. Cơ quan hành chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật
định thì bị ghép vào tội làm mất trật tự xã hội. Một ông già 76 tuổi bị
người ta “cúp” mất lương hưu, hai vợ chồng già sống bằng tiền bế cháu
thuê của bà vợ vốn là giáo viên về hưu…Bao nhiêu chuyện cám cảnh mà bất
kỳ ở đâu cũng có…
Tháng Tư, có ngày đại thắng,
giang sơn thu về một mối, đất nước thống nhất, lẽ ra người dân phải được
tưng bừng vui như tết mà sao có nhiều nỗi buồn dai dẳng ?
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
…………………………………………………………..
Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,
ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com
QUÊ CHOA
Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,
ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com
QUÊ CHOA
BÙI MINH QUỐC * TỔ QUỐC Ô NHỤC
Tổ quốc bao giờ nhục thế này chăng?
Nương theo ý và giọng thơ “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ” của Chế Lan ViênBùi Minh Quốc
BMQ: Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”
của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà
thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn
Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ
sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi, kính nhờ blog
Quê choa cùng các trang mạng bốn phương công bố giùm, chân thành cám ơn.
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn nămTổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?*
Hãy trông kìa !
Hãy trông kìa !
Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Bịt biệng người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông có nghe nỗi nhục chuyển sơn hà ?
Hãy trông kìa !
Hãy trông kìa !
Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Một lũ sói nhe nanh kết bầy nhâng nháo khắp
Móc túi dân
Cướp đất dân
Bóp cổ dân
Nỗi oan dâng núi thét sông gầm !…
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng tiếng thét bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?
Đà Lạt 12.09.2008
_________
* Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ” của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
QUÊ CHOA
TRẦN MẠNH HẢO * ĐẤT NƯỚC Ô NHỤC
Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?
Trần Mạnh Hảo
QUÊ CHOA
Lời mào đầu của tác giả: Tôi viết bài thơ này sau khi đọc bài thơ “ Đất nước những tháng năm thật buồn” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập đã đăng bài thơ này trên trang web Quê choa ngay sau khi tác giả gửi đến. ( tại đây)
Cũng xin cám ơn nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã gợi hứng cho tôi viết bài thơ “Đất nước có bao giờ
buồn thế này chăng ?”. Nguyễn Khoa Điềm thế hiện trong bài thơ “ Đất
nước những năm tháng thật buồn” là một con
người cô đơn tuyệt đối trong một xã hội mà đảng cộng sản muốn tập thể
hóa cả tấm hồn con người. Sao trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa vui
hơn tết này mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại thấy đất nước mình buồn thảm
dường ấy ? Những câu thơ tuyệt hay mà nhà thơ rút ra từ gan ruột đã làm
tôi choàng váng :
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
…
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
…
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà
thơ “ thời chống Mỹ” gần như duy nhất còn có thể làm được thơ hay.
Maiacopxki từng nói : “Anh có thể dối em tất cả nhưng trong thơ anh
không thể dối”. Tôi không tin vào những bài thơ nhàn nhạt, tôi chỉ tin
vào thơ hay. Anh Điềm làm thơ hay như thế khiến tôi tin anh đang thành
thật bộc lộ con người cô đơn, con người gần như tuyệt vọng vào một đất
nước đang bị băng hoại như đất nước ta hôm nay. Có khá nhiều người vẫn
lên án nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chỉ vì anh đã từng là ủy viên bộ chính
trị đảng cộng sản Việt Nam phụ trách trưởng ban tuyên giáo…Xin nhắc lại
một câu danh ngôn phương Tây : “ Quyền lực làm tha hóa con người”. Vâng,
đã đi theo ma thì phải mặc áo giấy. Nếu Trần Mạnh Hảo hay nhà thơ Bùi
Minh Quốc… do ma đưa lối qủy dẫn đường mà bỗng dưng vào được bộ chính
trị đảng cộng sản, biết đâu ta lại chẳng sắt máu hơn anh Điềm hồi ấy…,
biết đâu ta vẫn còn diện áo giấy để làm ma văn học ? Hãy để anh Điềm
được quyền làm một nhà thơ công dân, được quyền mặc áo vải, được nói
thật với trang giấy và độc giả bằng những vần thơ nhỏ máu…
Tôi bắt đầu yêu quý lại nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng bài thơ rất hay này của anh…
ĐẤT NƯỚC CÓ BAO GIỜ BUỒN THẾ NÀY CHĂNG ?
Thơ Trần Mạnh Hảo
Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai ?
Không phải vầng trăng đất nước
Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi
Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ
Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay
Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương
Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu
Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi ?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?
Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê hương
Sài gòn 24-4-2013
Tác giả gửi cho Quê Choa
PHẠM TRẦN. *38 NĂM SAU 30-4-1975
38 NĂM SAU 30-4-1975
VIỆT NAM ĐEN TỐI HƠN BAO GIỜ HẾT
Phạm Trần
Cứ tưởng sau 30/4/1975 khi đất nước đã quy về một mối, hết còn chiến tranh thì mọi người Việt Nam ở hai chiến tuyến Bắc-Nam sẽ tay bắt mặt mừng, cùng nhau xây dựng lại Tổ quốc để được sống hạnh phúc, nhưng 38 năm sau lòng người vẫn phân tán, hạnh phúc còn xa tầm tay và đất nước chưa thấy ngày mai.
Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn thấy
nhưng nó đã xẩy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận mình sẽ đi về đâu.
Sau đây là những nguyên nhân tạo thành bức tranh u ám ấy:
Thứ nhất, đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dười thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “ tư do tư
tưởng” đã bị khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.
Ngay cả những bài viết, được người dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân của Tác gỉa
N.V.L. ( Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn
về những việc cần phải sửa đổi trong xã
hội và chính quyền cũng bị rút lại.
Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách
bóp nghẹt hà khắc được áp dụng theo Cương lĩnh
gọi là “Xây dựng đất nước trong thời ký qúa độ lên Chủ nghĩa Xã hội”. Kinh tế phát triển
ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tham nhũng
nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi các nước Cộng sản Đông Âu
rồi Nga Sô tan rã (từ 1989 đến 1991).
Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lý thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng rãi ở Việt Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười
sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ
tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp
với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng năm
1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đã ký với Trung Cộng một
thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”,
nhưng cả hai phiá đều “giữ bí mật”.
Ngòai việc hai nước nối lại bang giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam
buộc phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên mà Việt Nam đã xâm lăng tháng
12/1978, đảng CSVN không cho ai biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm
Văn Đồng đã “thỏa hiệp” với Trung Cộng những gì !
Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đã công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lãnh thổ đến đến chính trị mà Việt Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười
từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu
rã thêm với tình trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy
quền lên cao. Cán bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là
“máu thịt” giữa dân và đảng lõang ra.
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “ Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “ Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Đến
Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) , sau khi ông
Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí Thư, thì Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp
thuận ngày 31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết : “ Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng
Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm
kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh
đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”
Nghị quyết nói rõ rằng : “ Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như thế thì đảng CSVN đã “ mất định
hướng” chưa hay vẫn còn nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”,
chưa đến tình trạng “tự rã đám” hay “tự
ý tan hàng” ?
AI THEO TẦU HƠN AI ?
Thứ hai, nội bộ thì như thế, nhưng
trong quan hệ với Trung Cộng thì ông
Phiêu đã lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.
Dù Việt Nam đã nhiều lần cải chính, nhưng việc nhượng đất ở biên giới và lãnh hải cho Trung
Cộng của “triều đại” Lê Khả Phiêu đã rõ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999); “Hiệp định
về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước
trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc
Bộ” (25/12/2000)
Cụ thể Việt Nam đã mất đất như thế nào
thì hãy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN
tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau :
“Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ
trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ý đồ vụ lợi trong sự
viện trợ cho ta. Khi không đạt được thì trở mặt….Năm 1984, Trung Quốc huy động
một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta
đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm
điểm quan sát từ xa, nhòm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước
đến nay, dân hai bên đã có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số
điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm
canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm
phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh
luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục (?), cuối
cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn thì mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm
đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trãi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay
ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới
nước ta tụt lùi xuống mãi đến chợ Tân Thanh, đối diện đã là trụ sở hải quan của
Trung Quốc….”
(17-03-2010, Bauxite Viet Nam)
Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông Đức Mạnh lên
giữ chức Tổng Bí thư liền hai khoá đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011).
Trong 10 năm, ông Mạnh đã để cho Trung
Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban Trung
ương đảng và của Quốc hội. Rất nhiều
Công ty của Trung Cộng đã được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với gía
rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua
kế họach cho thuê đất rừng dài hạn đến 50 năm !
Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Kết luận viết : “ Chủ
trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội
IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2
nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát
triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây
Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết
của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm
dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm
2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản
xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông);
đồng thời, chỉ đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác
phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin,
nhôm. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn
vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án
và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
“Đối tác nước ngòai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh !
MẮC MƯU TRUNG CỘNG ?
“Đối tác nước ngòai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh !
MẮC MƯU TRUNG CỘNG ?
Thứ ba, việc
làm ì ạch của hai nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) đã khiến
nhiều chuyên viên lo ngại sẽ sa lầy như nhiều dự án kinh tế khác có bàn tay
người Trung Quốc dính vào.
Sự lo âu này đã được trả lời bằng việc sản xuất chậm mất 2 năm của Nhà
máy Tân Rai, nhưng sau khi chính phủ quyết định đình chỉ kế họach làm cảng Kê
Gà,Bình Thuận (18/02/2013) vì phương án xây dựng cảng “không mang lại hiệu quả”để xuất khẩu quặng Alumin (sản xuất từ quặng Bauxite)
thì các chuyên viên đã báo động “sẽ thua lỗ nặng” nếu Tập đoàn Than và Khoáng
sản Việt Nam (Vinacomin) cứ “cố
đấm ăn xôi”.
Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin 20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai !
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013 báo động : “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát … là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).”
Báo này viết : “ Đã 3 ngày qua, hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải nghỉ triền miên.
Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin 20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai !
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013 báo động : “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát … là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).”
Báo này viết : “ Đã 3 ngày qua, hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải nghỉ triền miên.
Anh Nguyễn Đình Đề (tài xế xe ủi) phản ánh,
anh đã làm việc ở đây đã sáu năm liền. Từ đó đến nay, anh và nhiều anh em khác
chỉ được hưởng lương theo khối lượng công việc. Trong khi đó việc làm thì thất
thường, mỗi tháng chỉ làm việc khoảng 16 ngày công.
Cũng theo anh Đề, từ đầu năm 2013 đến nay,
lương của anh em rất thấp. Tháng 1, anh Đề chỉ nhận được gần 1,1 triệu đồng và
tháng 2 là 1,2 triệu đồng, hiện vẫn chưa nhận được lương tháng 3. Định mức xăng
dầu dùng cho các đầu xe ngày càng xuống thấp khiến tài xế lâm vào cảnh nợ nần.”
Ông Nguyễn
Văn Thắng, phó tổng giám đốc Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng nói : “Nhà máy tuyển quặng và nhà máy sản xuất
alumin đang chạy theo công suất không tương xứng nhau. Nhà máy tuyển quặng đã
bàn giao nên sản xuất hết công suất, còn nhà máy alumin thì đang chạy thử nên
chỉ chạy 50% công suất”.
Hiện tại, kho của nhà máy tuyển quặng đang
tồn 40.000 tấn quặng tinh, nhà máy alumin tồn kho 20.000 tấn do chưa bán được.
Hiện nhà máy alumin vẫn tiếp tục hoạt động, mỗi ngày sản xuất khoảng 1.000 tấn.
Ông Thắng cho biết hiện sản phẩm alumin chỉ
mới được tiêu thụ trong nước với số lượng rất ít và chưa có hợp đồng xuất khẩu.
Dự kiến đến tháng 6/2013 toàn bộ tổ hợp mới được bàn giao từ nhà thầu Chalieco
(Trung Quốc). Khi việc kinh doanh sản phẩm alumin đi vào ổn định, hạn chế tồn
kho thì 1.300 công nhân tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai mới ổn định việc làm.”
Một trở ngại lớn và quan trọng khác là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (Tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.
Một trở ngại lớn và quan trọng khác là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (Tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.
Báo Đầt Việt
cho biết : “Quốc lộ 20 sẽ là cung đường
chính phục vụ quá trình vận chuyển bauxite từ nhà máy Alumin Tân Rai (Lâm Đồng)
về cảng Gò Dầu (Đồng Nai). Mặc dù việc nâng cấp, cải tạo đã thực hiện hơn 1 năm
nhưng đến nay, con đường này vẫn chằng chịt ổ voi, ổ gà khiến người lưu thông
qua đây lúc nào cũng nơm nớp lo tai nạn.
Trước đó Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 20
đoạn từ ngã tư Dầu Giây, huyện Thống Nhất - Đồng Nai đến TP Bảo Lộc - Lâm Đồng
dài 120 km, khởi công từ tháng 12/2011 với tổng vốn đầu tư hơn 4.600 tỉ đồng từ
nguồn vốn ngân sách, do Công ty Cổ phần BT20 thực hiện dưới hình thức xây dựng
- chuyển giao.
Mục tiêu của dự án là làm cho con đường
cũ kỹ, xuống cấp này có đủ độ lớn và sức chịu tải phục vụ quá trình vận chuyển
bauxite, đồng thời bảo đảm nhu cầu đi lại an toàn cho người dân. Thế nhưng chỉ
riêng đoạn đường dài hơn 75 km chạy qua các huyện Thống Nhất, Định Quán, Tân
Phú - Đồng Nai vẫn đầy rẫy ổ gà, ổ voi.
Mặt đường hẹp, có đoạn không đến 7 m, sờn tróc
nham nhở và không có phần đường riêng cho xe máy. Một số đoạn đã thi công, cải
tạo nhưng những “miếng vá” chưa kịp khô đã lại bong tróc và trở thành cái “bẫy”
trên đường.”
Như thế thì “giấc mơ sẽ lời to” của Dự án Bauxite
Tây Nguyên sẽ đi về đâu ? Và trong khi thị trường quặng Alumin đang hạ giá trên
thế giới khỏang 320 Mỹ kim 1 tấn thì các
chuyên viên Khoáng sản độc lập của Việt Nam lo ngại Công ty Vinacomin của Chính
phủ chỉ có thua và lỗ nặng, nếu họ thật lòng công khai và minh bạch “tổng cộng giá thành” gồm tất cả các khỏan tiền
phí tổn để có được 1 tấn Alumin !
Gỉa thử như Trung Cộng sẽ mua nhưng bắt Việt Nam phải hạ giá xuống đến mức tối
đa, trong khi không nước nào muốn mua hàng Việt Nam thì Vinacomin tính sao ?
Chẳng nhẽ cứ “giữ hàng tồn kho” để chờ giá lên cao mới bán thì đến bao giờ ?
Và trong khi “hàng làm ra nhiều mà bán chẳng được bao nhiêu” thì lấy tiến đâu trả nợ và trả tiền công cho nhân viên, thợ thuyền ?
Đấy là hiểm họa kinh tế đang treo trên đầu mỗi người dân Việt Nam, chưa kể thảm
họa “bùn đỏ” độc hại ở thượng nguồn Tây Nguyên mà ông Nông Đức Mạnh đã để lại
cho người dân sau 10 năm làm Tổng Bí thư
đảng !
CÙNG KHAI THÁC CỦA AI ?
Thứ tư, sau ông Mạnh thì đến phiên ông Nguyễn Phú Trọng nhận chức Tổng Bí thư ngày 19-01-2011 tại Đại hội đảng khóa XI.
Nhưng
chỉ 10 tháng sau đó ông Trọng đã sang Bắc Kinh, gọi là thăm Trung Cộng, nhưng
thật ra là để ký 6 điểm thỏa hiệp với
Tổng Bí thư đảng Cộng sàn Trung Cộng Hồ Cẩm Đào, được gọi hoa mỹ là “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung” , trong đó điểm nổi bật và then chốt là
“hợp tác cùng phát triển”.
Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là :
Điểm 2: ”Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là :
Điểm 2: ”Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Điều 4:” Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểm 5: “ Giải quyết các vấn đề trên biển
theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán
phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề
hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa
học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải
quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Cha đẻ của thuyết “gác tranh chấp để cùng
khai thác”, ông Đặng Tiểu Bình cũng chính
là người đã xua khỏang 600,000 quân
Trung Cộng vượt biên giới đánh sang 6
tỉnh cực bắc của Việt Nam hồi tháng 2/1979 mà ông ta bảo là “dạy cho Việt Nam
một bài học” !
Nhưng Trung Cộng làm gì có chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông mà đòi “hợp tác cùng
phát triển” ? Và dù biết rõ hai-năm-rõ-mười như thế mà tại sao ông Nguyễn Phú
Trọng dám ký để “chia đôi chủ quyền” với
người hàng xóm chưa bao giờ “làm theo lời hứa” này ?
Giờ đây, Trung Cộng đã gọi đấu thầu Quốc tế ít
nhất là 9 lô tìm kiếm dầu trong vùng “đăc quyền kinh tế” , hoặc “nằm chồng lên” các lô tìm kiếm mà chính Việt
Nam đã gọi thầu Quốc tế trước Trung Cộng ở giữa Quần đảo Trường Sa và bở biển
tỉnh Khánh Hòa !
Trung Cộng cũng đã và đang khai thác dầu
trong vùng Vịnh Bắc Bộ dù hai bên chưa ngã ngũ về đường ranh giới chủ quyền,
theo Thỏa hiệp năm 2000 thời ông Lê Khả Phiêu ?
TĂNG CƯỜNG ĐE DỌA VIỆT NAM
Thứ năm, song song với hành động chiếm lấn chủ quyền biển đảo trắng trợn này, Trung Cộng còn tăng cường các Tầu Hải quân, ngụy trang Hải Giám có võ trang đi tuần tra khắp vùng Biển Đông từ Hòang Sa xuống Trường Sa của Việt Nam để ngăn chặn, truy kích và bắn phá các ngư dân Việt Nam đến đánh cá ở Hòang Sa và Trường Sa.
Nhiều tầu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm khi đang hành nghề sâu trong vùng biển Vũng Tầu, Hải Phòng, Đà Nẵng và Quảng Ngãi từ 2 năm qua mà Hải quân và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam không làm gì được !
Bằng chứng bỏ ngư trường mà
chạy để bảo vệ tính mạng và tài sản đã
được ngư dân đảo Lý Sơn nói thằng với Chủ tịch Nước Trương Tấn Sáng khi ông ra
thăm đảo ngày 15/4 (2013) vừa qua.
Đấy là chưa kể vụ 1 tầu cá Quảng Ngãi bị tầu Hải Giám Trung Cộng bắn cháy rụi
nóc tầu ngày 20/3 (2013) mà Trung Cộng bảo vì tầu Việt Nam xâm phạm “vùng biền
của họ” ?
Những vụ tấn công tầu cá Việt Nam diễn ra song song với cuộc tập trận 16 ngày (17/3-1/4/013) ở Biển Đông của 4 Tầu chiến Trung Cộng thuộc Hạm đội Hải Nam đã khiến các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và Phi Luật Tân lo ngại.
Nhưng Hải quân Trung Cộng
đã cho biết các tầu chiến của họ sẽ tập trận quy mô hơn thêm 40 lần nữa ở Biển
Đông trong năm 2013. Các sỹ quan Hải quân Trung Cộng nói là các cuộc tập trận
là nhằm “đánh dấu lãnh thổ” của Trung Cộng trên Biển Đông !
Trên mặt trận tuyên truyền để dành lấy biển đảo, Trung Cộng đã tổ chức du lịch
ở Hòang Sa và tung ra bản đồ mới vẽ Hòang Sa và Trường Sa là của Trung Cộng,
nhưng Việt Nam chỉ “phản đối suông” và cổ võ “giải quyết tranh chấp với Trung
Cộng bằng biện pháp hòa bình” !
NHỮNG TIẾNG NÓI PHẪN UẤT
Trước hiểm họa “lưỡng đầu thọ địch” của đất nước như thế mà lãnh đạo Đảng chỉ biết tập trung vào công tác đàn áp dân lành đi khiếu kiện oan sai và tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng như đe dọa của ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ đưa ra tại Hà Nội ngày 18/4 (2013) thì có lương tâm không ?
Bản tin của Ban Thanh tra
viết : “Riêng UBND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh phải kịp thời nắm bắt tình hình
khiếu kiện đông người, có phương án cưỡng chế, giải toả đối với các công dân
khiếu nại, tố cáo tập trung sai quy định về Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương
Đảng và Nhà nước để tổ chức tiếp, hướng dẫn, vận động công dân trở về địa
phương.
Đồng thời, không để các đoàn khiếu kiện đông người đến các khu vực hội trường
nơi diễn ra các cuộc họp và nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
xử lý kiên quyết hiện tượng người khiếu kiện trưng băng rôn, biểu ngữ, ngăn
chặn việc chặn, đón xe Đại biểu Quốc hội.”
Như thế là ông Tranh chỉ mong sao cho các Ủy
viên Trung ương đảng về họp Hội nghị kỳ 7 ở Hà Nội vào đầu tháng 5 (2013) và sau
đó đến lượt các Đại biểu Quốc hội về họp khoá 5, khai mạc ngày 20/5 (2013),
đừng nhìn thấy mặt dân khiếu kiện kẻo xấu mặt nhà nước hay sao ?
Vì tính toán có hành động phản dân chủ, coi thường dân của Chính phủ trong khi lại
chểnh mảng trước đe dọa của Trung Cộng ở Biển Đông đã rõ như ban ngày đã làm cho một số cựu
tuớng lãnh, Nhà thơ và Nhà báo nổi tiếng
của Việt Nam phải lên tiếng trong phẫnn
uất chưa bao giờ thấy có ở Việt Nam.
Trước hết hãy đọc lời cảnh giác của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên Đại
sứ của CSVN gtại Trung Cộng) : “Việt Nam ta tất yếu phải cuốn
theo kinh tế thị trường, nhưng lãnh đạo vẫn lấy CN Mác – Lênin làm cơ sở tư
tưởng, vẫn chủ trương xây dựng CNXH. Thử hỏi xây dựng CNXH theo mô hình nào?
Trong xã hội ta hiện nay, nội dung gì là XHCN, không ai chỉ ra được. Còn nói
phát triển kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN”. Cái đuôi “theo định hướng
XHCN” thật là mơ hồ, vô nghĩa.”
Ông nói thẳng với lãnh đạo Nhà nước : “ Vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay là:
thoát ra khỏi mọi ràng buộc tham lam, ác ý, thực hiện đường lối chủ trương độc
lập tự chủ, thực hiện ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn, một mặt không phá
bỏ hiện trạng hữu nghị hòa bình với Trung Quốc, mặt khác thắt chặt mối quan hệ
hữu nghị với các nước lớn Nga, Nhật, Ấn Độ, Mỹ, cải cách thể chế, thực hiện dân
chủ, gắn bó với khối đại đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền tài, xóa bỏ mọi lợi
ích nhóm, phe phái quyền lực để đưa đất nước thoát khỏi yếu kém tụt hậu và tiến
lên.”
(Trích từ Bài viết mới nhất của ông phổ
biến trên các mạng báo Truyền thông Xã
hội trong nước: “Giữa Việt Nam và Trung Quốc không truyền thống hữu
nghị, cũng không tương đồng về ý thức hệ)
Và
sau đây là những dòng thơ thật buồn cho hòan cảnh của đất nước hôm nay của một
số Nhà Thơ, Nhà báo nổi tiếng ở Việt Nam.
Hãy
đọc Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trường ban Tư
tưởng Văn hoá Trung ương:
Đất nước những năm thật buồn
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một
tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe
lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức ?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày
mai tốt lành ?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên
sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều
nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui
tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống
má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
Những cây thông trên núi Ngự Bình
thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống
hôm nay …
(22/04/103)
(Trích từ Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
-------------
ĐIỀM ƠI
Viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm
(Trích từ Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
-------------
ĐIỀM ƠI
Viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm
Khi Điềm còn ở trên cao
Cái buồn thế sự đã vào chúng tôi
Bây giờ trời đã chiều rồi
Ngẫn ra thì muộn khóc cười làm chi
Phố phường vẫn lắm người đi
Hoa vẫn nở chẳng có gì khác đâu
Khác là ở chốn xa sâu
Trẻ em đi học không cầu qua sông
Khác là tận ngoài biển đông
Chủ quyền ta họ nói không lâp lờ
Riêng màu đỏ của ngọn cờ
Ở Đại Nội hay biển bờ xa xôi
Vẫn luôn phơi phới đỏ tươi
Nhạt là nhạt ở tình người Điềm ơi
Lê Duy Phương
(Từ Quê Choa)
-------------
Nhà Thơ Trần Mạnh Hảo đáp lời:
Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?
Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai ?
Không phải vầng trăng đất nước
Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi
Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt (1)
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ
Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay
Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương
Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu
Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi ?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?
Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê hương
Sài Gòn, 24-4-2013
(Trên Internet)
(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” do phiá Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh năm 1999.
---------
BÙI MINH QUỐC
Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:
(Trên Internet)
(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” do phiá Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh năm 1999.
---------
BÙI MINH QUỐC
Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?*
Hãy
trông kìa !
Hãy trông kìa
!
Bọn thẻ – đỏ –
tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Bịt biệng
người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp cổ người
thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông có nghe
nỗi nhục chuyển sơn hà ?
Hãy trông kìa
!
Hãy trông kìa
!
Bọn thẻ – đỏ –
tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Một lũ sói nhe
nanh kết bầy nhâng nháo khắp
Móc túi dân
Cướp đất dân
Bóp cổ dân
Nỗi oan dâng
núi thét sông gầm !…
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
tiếng thét bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao
giờ nhục thế này chăng ?
Đà Lạt 12.09.2008
_________
* Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ”
của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
(Từ Quê Choa)
(Từ Quê Choa)
Sau cùng, chúng ta hãy lắng nghe Tác giả Đoàn
Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN
giãi bầy tâm tư của
ông trước thời thế trên mạng báo Quê
Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập :
“Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi đồng cảm nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn, nhà thơ đã từng có thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi buồn của nhiều ông tướng, ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi buồn mất đất của nông dân, nỗi buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo dục bế tắc…
Còn trong hệ thống chính trị, không thiếu
những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng…Lại con gái, con
trai mấy vị vào hàng “nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước ngoài, chỉ suốt ngày gái gú, chơi game…Khi
cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm ru hái ra tiền. Con gái một vị to
đầu tư cho một khu đô thị sinh thái chiếm đoạt 500 ha đất canh tác của nông
dân, nay không rõ ôm tiền đi đâu. Đặc biệt, những thông tin về nhóm lợi ích, về
phe phái này “chiến đấu” với phái kia, dường như “một mất một còn”.
Một số vị ở vị trí cao của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ…
Một số vị ở vị trí cao của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ…
Vì sao, đất nước sau gần 40 năm được thống nhất, có
độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ phải “trần như nhông” để
“bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã cấp hộ chiếu cho gần 30 vạn phụ
nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”, “lấy chồng”, trong nước còn có đến 30
vạn gái điếm và một lũ “đĩ quý tộc”?..
Ông Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thứ của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư
hỏng…” mà lại chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều
năm. Bộ máy chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan liêu.
Cơ quan hành chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật định thì bị
ghép vào tội làm mất trật tự xã hội.”
Tất xả những dòng chữ, dòng Thơ trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang một nỗi buồn man mác như thúc giục phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.
Cái mốc thời gian của 38 năm sau ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có buồn thảm đến nhường này ?
Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả chúng ta, những người dân đã sống nhục quen ?
Tất xả những dòng chữ, dòng Thơ trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang một nỗi buồn man mác như thúc giục phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.
Cái mốc thời gian của 38 năm sau ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có buồn thảm đến nhường này ?
Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả chúng ta, những người dân đã sống nhục quen ?
Phạm
Trần
(04/013)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0259
CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Friday, April 26, 2013
.
ĐÊM CHÔN DẦU VƯỢT BIÊN
NHẠC CHÂU ĐÌNH AN- CA SĨ NHƯ QUỲNH
NGƯỜI DI TẢN BUỒN
NHẠC NAM LỘC, CA SĨ KHÁNH LY
SAIGON ƠI VĨNH BIỆT
NHẠC SĨ VÀ CA SĨ NAM LỘC
HÃY HÁT CHO TỰ DO
NHẠC SĨ VIỆT DŨNG CA SĨ NGUYỆT ÁNH
MỘT CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG
NHẠC SĨ VIỆT DŨNG- CA SĨ KHÁNH LY
SAIGON NIỀM NHỚ KHÔNG TÊN
NHẠC SĨ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN - CA SĨ KHÁNH LY
EM VẪN MƠ MỘT NGÀY VỀ
NHẠC SĨ VÀ CA SĨ NGUYỆT ANH
TÔI MUỐN MỜI EM VỀ
NHẠC VIỆT DŨNG- CA SĨ Y PHƯƠNG
Bài viết TỘI ÁC CSVN TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, AN GIANG VÀO THÁNG
4/ 1978 (Phần I & II) đã được post lên: TAKE2TANGO…(mục Đàn Ngang
Cung) ngày 3/27/ 2009 lúc 9:59:06 AM và VĂN TUYỂN 2009-03-27 lúc
12:03:42. Và số độc giả theo dõi trên Văn Tuyển I tính đến ngày hôm nay,
đã lên đến 19.825 người. Xin chân thành cám ơn quí vị độc giả đã theo
dõi bài viết nầy.
Tháng 4 năm 2010, kỷ niệm đúng 32 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG bị cái gọi là lực lượng vũ trang QĐND của CSVN tàn sát tập thể. Trong phạm vi bài nầy, tôi (tác giả) trước khi mở cuộc đối thoại với những quan điểm phản bác bài viết nầy, tôi xin nêu lên một vài điểm thắc mắc để “nhóm thầy cải” bào chữa tội ác của bọn lãnh đạo CS Hà Nội trả lời:
I. YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”: TRỐNG ĐÁNH XUÔI, KÈN THỔI NGƯỢC:
Nhà mồ Ba Chúc là di tích được Nhà nước CSVN công nhận là DI TÍCH LỊCH SỬ vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến 29/ 4/ 1978 đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã BA CHÚC. Ông HOÀNG QUÝ cũng đã xác nhận thời gian nầy của Nhà nước CSVN đưa ra và ghi rõ số nạn nhân là 3.157 người cả Việt lẫn Miên.
Nhưng, ông LỤC TÙNG đã phản bác khoảng thời gian nầy do Nhà nước CSVN đưa ra là không đúng, bằng cách trưng dẫn tài liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ghi nhận: bắt đầu từ ngày 14/ 4/ 1978 đến 25/ 4/ 1978 và con số nạn nhân là 3.574 người. Rõ ràng, yếu tố thời gian xảy ra vụ thảm sát là “tiền hậu bất nhất” trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, sai biệt trước sau 4 NGÀY để làm gì?
Ý kiến của ông Nguyễn Bình Đông trên TAKE2TANGO đưa ra:
Biến cố thảm sát Ba Chúc, tỉnh Châu Đốc cách đây 31 năm, còn 19 năm nữa sẽ viết thành sử (sau 50 năm, mới kể là sử, theo thời gian tính). Chắc chắn sẽ đi vào lịch sử Việt Nam, vì tôi viết sử nếu tôi chết sẽ có người khác viết…Trong bộ chính trị cộng sản Việt Nam đâu có ai già?
Câu hỏi được đặt ra với sử gia Nguyễn Bình Đông:
Tôi không biết sử gia Nguyễn Bình Đông căn cứ vào tiêu chuẩn nào phải chờ sau 50 năm sau mới kể là sử, theo thời gian tính? Tại sao không dám viết lại ngay “sự cố” nầy như trường hợp TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG bùng nổ vào ngày thứ bảy 17/ 2/ 1979 lúc 3 giờ 30 sáng?
Chúng tôi xét thấy không cần thiết sử gia Nguyễn Bình Đông phải chờ đợi đến 50 năm sau mới viết thành sử. Chúng tôi chỉ yêu cầu Đảng CSVN và ông ghi rõ ràng, trung thực diễn tiến biến cố thảm sát dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào tháng 4 năm 1978 với đầy đủ chiết mà đồng bào Ba Chúc đòi hỏi:
1. THỜI GIAN:
Yếu tố thời gian quan trọng nhất và phải hoàn toàn chính xác như “sự cố” “Trận chiến biên giới Việt – Hoa” kể trên. Tôi không biết các sử gia trong Bộ Chính trị CSVN giải thích thế nào về cái yếu tố thời gian “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược SAI BIỆT TRƯỚC SAU 4 NGÀY? Tại sao phải tránh né sự thật?
2. KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ BIÊN GIỚI TÂY – NAM:
Yêu cầu trưng dẫn sơ đồ trận liệt phân chia khu vực trách nhiệm phòng thủ của ba Sư đoàn chính quy QĐND: 4, 8 và 330 và 2 Trung đoàn cơ động tỉnh với những chi tiết:
KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ:
-Phòng thủ chu vi, phòng thủ chiều sâu, phòng thủ chiều ngang, phòng thủ chiều rộng, phòng thủ lưu động, phòng thủ cố định, phòng thủ các yếu điểm…
-Kế hoạch phối hợp hỏa lực, hỏa lực hổ tương yễm trợ, pháo yễm, không yễm…
CÔNG SỰ PHÒNG THỦ:
-Vị trí các công sự phòng thủ: Pháo đài, chiến lũy, đài chỉ huy, tháp canh, chiến hào, chướng ngại nhân tạo, thiên nhiên như kinh Vĩnh Tế…
HÀNH ĐỘNG PHÒNG THỦ:
-Đào giao thông hào, hầm chông, mìn bẫy, khai quang địa thế, giàn quân, phản công…
TIỀN ĐỒN CHIẾN ĐẤU:
-Thiết lập tiền đồn chiến đấu ven biên.
-Hệ thống báo động bằng cách gây tiếng động, ánh sáng hỏa châu một khi phát hiện mưu toan xâm nhập của địch quân…
-Phòng thủ cố định nội vi và phòng thủ tích cực hoạt động ngoại vi vào ban đêm…
Kế hoạch phòng thủ biên giới phía Tây Nam vùng biên giới Việt – Miên trên đây, đối với các vị tướng Tư lệnh sư đoàn 4,8 và 330, dày dạn kinh nghiệm chiến trường còn rất nhiều khuyết điểm. Với quân số chính quy và địa phương ước tính trên 30.000 quân mà những viên tướng Tư Lệnh chiến trường không đủ khả năng bảo vệ nổi dân làng BA CHÚC chỉ có khoảng 15.000 dân, để lực lượng Khmer Đỏ của Pôn Pốt tung hoành ngang dọc suốt 11 ngày đêm, thảm sát trên 3.574 thường dân vô tội mà BTL/QK 9 đặt tại Cần Thơ đã án binh bất động, không có phản ứng gì cả là một chuyện KHÔNG THỂ TIN ĐƯỢC, giống như chuyện PHONG THẦN.
Vì vậy, tôi có một vài câu hỏi được đặt ra nhờ các sử gia trong BCT/ CSVN và ông Nguyễn Bình Đông trả lời, để làm sáng tỏ “sự cố” nầy:
1. Lúc lực lượng Khmer Đỏ tràn qua biên giới Miên – Việt tàn sát dân làng Ba Chúc trong 11 ngày đêm, bắt đầu vào ngày nào: ngày 14 hay ngày 18 / 4/ 1978? Có bao nhiêu nạn bị thảm sát 3.157 hay 3.574 người? Yêu cầu giải thích rõ ràng về khoảng thời gian “tiền hậu bất nhất”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược nầy trước dư luận quần chúng.
2. Nếu đã có đủ yếu tố chính xác, tại sao Đảng CSVN không dám đúc kết, gởi lên “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” để truy tố Pôn Pốt lãnh tụ Khmer Đỏ ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY? Tôi thách thức Đảng CSVN và sử gia Nguyễn Bình Đông công khai hóa “DIỄN TIẾN CUỘC THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC CỦA QUÂN KHMER ĐỎ VÀO THÁNG 4/ 1978” trên diễn đàn với nầy với đầy đủ chi tiết, làm sáng tỏ “sựcố”nầy:
-Tên những sư đoàn thuộc lực lượng vũ trang Khmer Đỏ tham dự trận tấn công.
-Quân số ước tính bao nhiêu?
-Ai làm Tư lệnh các Sư đoàn Khmer Đỏ nầy?
-Trận tấn công bắt đầu lúc nào? Yêu cầu phải ghi rõ năm, tháng, ngày và giờ thật chính xác.
-Chiến thuật tấn công của Khmer Đỏ.
-Quân Khmer Đỏ dùng phương tiện gì để vượt qua kinh Vĩnh Tế để tấn công dân làng Ba Chúc, cũng như lúc triệt thoái về bên kia biên giới?
-Các mũi tấn công của quân Khmer Đỏ vào hệ thống phòng của đơn vị nào chịu trách nhiệm?
-Lực lượng Khmer Đỏ của Pôn Pốt đã lùa trên 3000 dân làng Ba Chúc vào những CHÙA & TRƯỜNG HỌC nào, trong 11 ngày đêm để tàn sát? Xin đánh dấu từng tọa độ của những “CHÙA & TRƯỜNG HỌC” trên bản đồ tỉnh Ba Chúc, kèm theo hình ảnh càng tốt!
-Sau khi quân Khmer Đỏ rút về bên kia biên giới, đếm được bao nhiêu xác chết và vũ khí địch bỏ lại chiến trường?
-Tổn thất về nhân mạng của lực lượng vũ trang QĐND là bao nhiêu?
-Cuộc quần thảo giữa sư đoàn 4, 8. 330 và 2 trung đoàn cơ động tỉnh và quân Khmer Đỏ trong suốt 11 ngày đêm mà sau khi thu dọn chiến trường, chỉ đếm được xác 3.574 dân làng tại hiện trường. Còn Địch và Bạn đều bình yên vô sự, không có tổn thất về nhân mạng là chuyện KHÔNG THỂ TINĐƯỢC!
II. XUẤT XỨ 1.159 HỘP SỌ NGƯỜI TRONG NHÀ MỒ BA CHÚC Ở ĐÂU RA?:
Căn cứ vào bài viết CÂU CHUYỆN NGÔI LÀNG BA CHÚC Ở BIÊN GIỚI MIÊN VIỆT của ông Hoàng Quý đưa lên lenduong.net ngày 5/02/ 2004 viết rằng: “Khoảng 1700 sọ người nhìn thấy qua cửa kiếng, phân loại theo tuổi (từ 3 tuổi trở lên), nam, nữ và không muốn được hỏa thiêu theo nghi thức thiêu của Phật giáo …ngưng trích”. Trong bài viết của ông Lục Tùng còn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên hộp sọ trưng bày trong nhà mồ.
Kể từ khi dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978 đến khi nhà mồ Ba Chúc, được Nhà nước CSVN công nhận là di tích lịch sử vào năm 1980, chỉ cách nhau có 2 năm. Với chừng ấy thời gian, xác chết của những nạn nhân chắc chắn chưa hoàn toàn phân hủy (tối thiểu phải trên 4 hoặc 5 năm). Làm sao bọn CS Việt Nam tìm đâu ra chừng ấy hộp sọ để đem trưng bài trong nhà mồ Ba Chúc?
Theo sự suy đoán của tôi: Để có 1700 hộp sọ người nầy dùng vào mục đích tuyên truyền, trước khi đem chôn xác của các nạn nhân, chánh quyền địa phương đã cho lén cắt đầu họ rồi đem chôn riêng một nơi bí mật nào đó, để mau chóng bị phân hủy. Đây là một hành động dã man có chủ đích từ trước.
Nhưng, đối với người CSVN xảo quyệt và man trá, họ giải quyết vấn đề nầy rất dễ dàng. Trước đây, khi san bằng các NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI VNCH trên khắp 4 vùng chiến thuật, họ đã cất giữ những hộp sọ của những người lính QĐVNCH vô thừa nhận, để sử dụng vào việc tuyên truyền khi cần thiết.
III. LÀNG BA CHÚC KHÔNG PHẢI LÀ MỤC TIÊU TẤN CÔNG CỦA KHMER ĐỎ:
Bọn CS Hà Nội chọn làng Ba Chúc, tỉnh An Giang để tắm máu 3157 hay 3574 đồng bào ruột thịt vào 14 hay 18 tháng 4 năm 1978, là một hành động sai lầm rất lớn về mặt tuyên truyền và sự thật trước sau gì cũng bị phơi bày ra ánh sáng. Bọn CS Hà Nội đã quên rằng, bên cạnh tên đồ tể Pôn Pốt lúc bấy giờ, luôn có mặt hàng tá cố vấn quân sự Trung Cộng chỉ đạo về mặt chánh trị và quân sự cho Pôn Pốt.
Chắc chắn bọn cố vấn Trung Cộng sẽ ngăn cản hành động phiêu lưu quân sự nầy của Pôn Pốt. Vì nếu đưa hàng ngàn quân Kmer Đỏ vượt qua kinh Vĩnh Tế để tiêu diệt dân làng Ba Chúc cách kinh Vĩnh Tế 5, 6 km, đa số là tín đồ PGHH vốn không hận thù với dân Kampuchia. Bọn cố vấn Trung Cộng thừa biết rằng muốn đưa quân vượt qua kinh Vĩnh Tế chỉ có ba cách:
• Đưa toán công binh chiến đấu áp sát biên giới Miên – Việt cùng với phương tiện để chuẩn bị lắp ráp cầu nổi.
• Lính Khmer Đỏ sẽ mang phao cá nhân lội qua kinh Vĩnh Tế.
• Dùng xuồng ghe để đưa quân vượt kinh Vĩnh Tế.
Dùng cách nào, cũng không đạt được yếu tố “BẤT NGỜ” và không thể nào lọt qua khỏi mạng lưới tình báo nhân dân của chánh quyền địa phương. Kinh Vĩnh Tế là chướng ngại vật thiên nhiên, đưa hàng ngàn quân vượt qua con kinh nầy là một hành động tự sát vì phi trường Trà Nóc và Cần thơ cách biên giới Việt – Miên khoảng 120 km đường chim bay. Nếu dùng trực thăng vận, đổ quân lên biên giới để giải tỏa áp lực địch tại làng Ba Chúc chỉ mất khoảng 1 giờ bay là cùng, còn dùng loại phi cơ MIG lên xạ kích hoặc oanh tạc là quân Khmer Đỏ sẽ thây phơi trên kinh Vĩnh Tế là cái chắc!
Trong binh pháp Tôn Tử nói: “Không có lợi, không động binh. Không được gì không dùng binh lực. Mọi hành động chính trị và quân sự phải dành cho được một lợi ích!” Với tập đoàn cố vấn Trung Cộng bên cạnh, còn lâu Pôn Pốt mới dám làm trái ý, điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt kinh Vĩnh Tế làm một phiêu lưu quân, tấn công làng Ba Chúc chỉ hao binh tổn tướng, không được lợi lộc gì cả. Cha nó lú thì chú nó khôn!
Nếu như Pôn Pốt muốn đánh Việt Nam để gây tiếng vang hoặc dằn mặt bọn CSVN. Bọn cố vấn Trung Cộng sẽ chọn Hà Tiên vì thị xã Hà Tiên trù phú, cách biên giới Miên chỉ có 5 km. Pôn Pốt sẽ điều động lực lượng Khmer Đỏ tập trung tại cảng KOMPHONG SOM rồi dùng tàu đổ bộ bất ngờ đổ quân xuống bờ biển Hà Tiên, đánh nhanh, rút gọn bằng đường biển và đường bộ về bên kia biên giới đều dễ dàng và rất thuận lợi.
IV. KẾT LUẬN:
Để trả lời những thắc mắc của sử gia Nguyễn Bình Đông về tôi (tác giả) bài viết nầy: Mục đích đưa ra bài nầy lên net để làm gì? Có thể một cá nhân, cũng có thể một tổ chức, có thể từ gián điệp Trung Cộng, Việt Cộng, PGHH hay một tổ chức nào đó…
Xin trả lời:
Mục đích duy nhất của tôi đưa bài viết này lên net: “SỰ THẬT PHẢI TRẢ LẠI CHO LỊCH SỬ” chỉ có vậy thôi!
Sử gia NBĐ chụp cho tôi cái mũ gián điệp Trung Cộng, Việt Cộng… cái chiêu rẻ tiền cũ rích này, xin để độc giả phê phán! Đồng thời nó đã chứng minh một sự thật phủ phàng: sự khốn cùng của CHỦ NGHĨA BIỆN CHỨNG. Nếu các sử gia của Đảng CSVN và NBĐ còn có chiêu nào khác hay hơn cái chiêu chụp mũ? Xin giở hết ra đi! Tôi sẽ tiếp tục đối thoại với quý vị “thầy cãi” nầy vào một dịp khác: tháng 4 năm 2011.
PHẦN IV
Tháng 4 năm 2011, kỷ niệm 33 năm ngày dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang bị cái gọi là lực lượng vũ trang QĐND tàn sát tập thể. Giữ đúng lời hứa, tôi xin giở lại HỒ SƠ TỐ CÁO TỘI ÁC CSVN TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4 NĂM 1978.
Sau một năm tìm tòi tài liệu, lục loại từng thư viện Hoa Kỳ để kiếm những tài liệu chứng minh tội ác của Pôn Pốt và lực lượng Khmer Đỏ đã tàn sát gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của họ trong chùa, rồi đốt chùa tại Kampuchia trong suốt thời gian Pôn Pốt trị vì xứ Chùa Tháp. Ngay cả cuốn MILLENNIUM CHILDREN’S HISTORY OF THE 20th CENTURY (do nhà xuất DK Publishing Book 95 Madison Avemue, NY 10016) trang 307, ghi nhận cái chết của tên lãnh tụ khát máu nầy như sau: “APRIL 1998, Pol Pot, notorious Khmer Rouge leader responsible for millions of deaths in the KILLING FIELDS OF CAMBODIA, dies at 72” (Tháng 4 năm 1998, Pol Pol, ai cũng biết là lãnh đạo của Khmer Đỏ, người chịu trách nhiệm của hàng triệu cái chết trong những CÁNH ĐỒNG TỬ THẦN ở CAMBODIA, chết lúc 72 tuổi).
Tôi có đến sinh hoạt với cộng đồng “CAMBODIAN COMMUNITY” tại hai ngôi chùa lớn trong vùng Virginia và Maryland: Cambodian Buddist Temple – 13800 New Hampshire Ave, Silver Spring, MD và chùa Wat Yarnna Rangseei Buddish Monastery 22437 Ceder Green Rd, Sterling, VA. Tôi đã gặp anh bạn M. Sok đồng bào Mỹ gốc Cambodia giới thiệu tôi với một số sư sãi trong chùa và họ đã xác nhận rằng: Trong những năm Pol Pot cai trị Cambodia, sư sãi bị bắt buộc phải hoàn tục và tuyệt đối không có chuyện lực lượng Khmer Đỏ giết người tập thể trong chùa hoặc đốt chùa. Vì vậy, tôi có thể kết luận vấn đề nầy chỉ có bọn CSVN vô thần mới dám làm cái chuyện tày trời là tàn sát dân lành trong chùa rồi phóng hỏa ĐỐT CHÙA. Tôi dám thách thức BCT/TƯ/Đảng CSVN trưng dẫn một cuốn sách, tài liệu hoặc hình ảnh nào xuất bản tại phương Tây, xác nhận rằng Pol Pốt và lực lượng Khmer Đỏ đã giết người tập thể trong chùa rồi đốt chùa ở Cambodia trong ngày Lễ hội Chol-Chnam-Thmay, như bạo quyền CSVN đã cáo buộc họ đã thảm sát dân làng Ba Chúc trong những ngày lễ kể trên.
Riêng anh Sáu Lưỡi Lam, viết bình luận rằng: Chánh quyền CS địa phương biết trước lực lượng Khmer Đỏ sẽ mở cuộc tấn công làng Ba Chúc, nên tất cả lực lượng võ trang QĐND rút lui toàn bộ về tuyến sau để Khmer Đỏ tung hoành ngang dọc suốt 11 ngày đêm, mặc tình tàn sát dân làng Ba Chúc.
Điều nầy chứng tỏ rằng:
• Lưới tình báo nhân dân của chánh quyền CS địa phương rất tinh vi. Vậy xin cho biết tên những Sư đoàn Khmer Đỏ nào sẽ mở cuộc tấn công vào làng Ba Chúc? Viên Tư lệnh Sư đoàn hay Sư đoàn Trưởng tên họ gì? Quân số mỗi sư đoàn là bao nhiêu người?
• Lực lượng Khmer Đỏ tấn công làng Ba Chúc thảm sát 3.157 hay 3.574 dân lành trong suốt 11 ngày đêm, bắt đầu từ ngày 18/4/ 1978 đến 29/4/ 1978 hay bắt đầu từ 14/4/ 1978 đến 25/4/ 1978? Xin cho biết thời gian chính xác.
• Lực lượng Khmer Đỏ chính là Lực lượng vũ trang của sư đoàn 30 (hay sư đoàn bánh tét) hóa trang thành lính Khmer Đỏ. Đó cũng là lý do tại sao Bộ Tư Lệnh/ Quân Khu 9 tại Cần thơ án binh bất động.
• Lực lượng vũ trang QĐND lùi về tuyến sau để thực hiện kế hoạch bao vây GIẾT SẠCH – ĐỐT SẠCH – PHÁ SẠCH không cho một người nào chạy thoát về phía huyện Tri Tôn.
Trước khi tạm chấm dứt bài viết nầy, tôi xin có lời nhắn với bà Hoa Hướng Dương gì đó, đừng để tên tuổi của vị Giáo sư – Tiến sĩ VÕ TÒNG XUÂN khả kính, dấy máu đồng bào vô tội làng Ba Chúc. Xin cám ơn.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
HUN SEN PHẢI TRẢ SỰ THẬT LẠI CHO LỊCH SỬ CAMPUCHIA.
NGUYỄN HƯNG QUỐC* THÁNG 4-1975
1975: Việt Nam có thắng Mỹ?
Trong bài “Thắng và bại”,
từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, tôi nêu lên nhận định: Thắng và bại
là một vấ
n đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định. Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh; có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Một, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua… những màn ảnh tivi hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”
Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc.
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Nhưng ở đây lại nảy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?
Có hai mục tiêu chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đã thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau; và ba, làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt.
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi Trung Quốc và Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng không còn quá nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.
Thắng ở ba điểm:
Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn bình an trước hiểm họa Cộng sản.
Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó, dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam vượt biên.
Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của người chiến thắng.
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến lược.
Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
n đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định. Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh; có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Một, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua… những màn ảnh tivi hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”
Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc.
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Nhưng ở đây lại nảy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?
Có hai mục tiêu chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đã thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau; và ba, làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt.
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi Trung Quốc và Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng không còn quá nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.
Thắng ở ba điểm:
Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn bình an trước hiểm họa Cộng sản.
Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó, dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam vượt biên.
Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của người chiến thắng.
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến lược.
Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
.
Thắng và bại
Kỷ niệm 10 năm chiến tranh Iraq, mấy tuần vừa qua, giới bình luận
chính trị Tây phương bàn tán sôi nổi về vấn đề: cuối cùng, Mỹ đã thắng
hay bại?
Nhìn chiến tranh Iraq như một trận đánh, đương nhiên là Mỹ thắng. Thắng rất dễ dàng. Quân Mỹ và đồng minh bắt đầu tấn công vào ngày 20 tháng Ba năm 2003. Đến ngày 9 tháng Tư, tức 20 ngày sau, họ đã chiếm được thủ đô Baghdad. Bên Iraq, có 9.200 binh sĩ bị giết chết; phía đồng minh, Mỹ có 139 và Anh có 33 binh sĩ bị tử vong.
Nhìn rộng hơn một tí, toàn bộ cuộc chiến tranh, từ lúc khởi chiến (tháng 3/2003) đến lúc rút quân (tháng 12/2011), cũng có thể nói Mỹ thắng. Mỹ chiếm được Iraq, bắt và treo cổ Saddam Hussein, đập đổ được chế độ độc tài, dần dần hình thành nên một chế độ dân cử tương đối dân chủ, và cuối cùng, rút quân ra khỏi Iraq một cách an toàn. Như vậy là thắng chứ còn gì nữa?
Thế nhưng, nhiều người vẫn cứ băn khoăn. Lý do đơn giản: Cần phải đặt cuộc chiến Iraq vào hai chu cảnh lớn: Một, trong một cuộc chiến tranh lớn hơn: chiến tranh chống khủng bố và độc tài; và hai, trong thế địa chính trị tại vùng Trung Đông.
Nhớ, tướng Tommy Franks của Mỹ đã đặt ra tám mục tiêu chính khi đánh Iraq năm 2003: “Một, chấm dứt chế độ Saddam Hussein. Hai, phát hiện, cô lập và tiêu hủy các loại vũ khí sát thương hàng loạt (mass destruction). Ba, tìm kiếm, bắt và trục xuất khủng bố ra khỏi Iraq. Bốn, sưu tầm tài liệu tình báo liên quan đến các mạng lưới khủng bố. Năm, sưu tầm các tài liệu liên quan đến mạng lưới vũ khí hủy diệt hàng loạt phi pháp trên phạm vi toàn cầu. Sáu, giải tỏa lệnh cấm vận và tiến hành tức khắc các cuộc viện trợ nhân đạo cho dân chúng Iraq. Bảy, bảo đảm an toàn cho các mỏ dầu khí và tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về nhân dân Iraq. Và cuối cùng, giúp người dân Iraq tạo điều kiện chuyển tiếp sang một chính phủ đại biểu do dân bầu để quản trị đất nước của họ.”
Không phải mục tiêu nào ở trên cũng được hoàn thành. Ngoài chuyện không có các loại vũ khí sát thương hàng loạt hay các mạng lưới khủng bố toàn cầu nào ở Iraq, thất bại chính của Mỹ không chừng là nằm ở mục tiêu cuối cùng. Sau khi Mỹ chiếm Iraq một cách dễ dàng, Iraq trải qua những năm tháng nội chiến triền miên. Khủng bố nối tiếp khủng bố. Chỉ riêng tại thủ đô Baghdad, người ta ước tính mỗi ngày có khoảng từ 11 đến 33 người bị giết chết trong các cuộc đặt bom ở các khu dân sự, kể cả chợ búa và đền thờ.
Về phương diện chính trị, các phe phái liên tục chống đối nhau. Đúng là Iraq đã bắt đầu xây dựng được một số nền tảng cho một chế độ dân chủ, tuy nhiên, tương lai chính trị của nước này vẫn đầy bất an.
Cái giá của cuộc chiến này khá cao. Về nhân mạng, 115.376 người Iraq bị giết chết từ năm 2003 đến 2011.
Về phía đồng minh, số binh sĩ bị chết của Mỹ là 4.488; của Anh là 179, của Ý 33, của Ba Lan 30, của Ukraine 18, Bulgaria 13, v.v.. Về tài chính, chi phí cho cuộc chiến tranh ấy, về phía Mỹ, là khoảng trên 845 tỉ đồng.
Chính vì vậy, nhiều học giả Mỹ đặt vấn đề: Một, liệu cuộc chiến tranh ấy có đáng không? Và hai, có thể xem là Mỹ thắng trận không?
Không có câu trả lời nào thật dứt khoát và thuyết phục hẳn. Eric S. Margolis, tác giả cuốn sách American Raj: Liberation or Domination? trả lời thẳng thừng: Mỹ thất bại. Fred Kaplan cho đó là một cuộc chiến tranh không cần thiết nhưng cũng cho rất khó trả lời câu hỏi ai thắng ai.
Christian Whiton, chủ tịch Hamilton Foundation, lại cho là Mỹ thành công, hơn nữa, hai lần thành công: vừa lật đổ được một chế độ được xem là độc tài và tàn bạo nhất thế giới vừa xây dựng được cơ sở cho một nền dân chủ lâu dài tại Iraq.
Một số người đề nghị chờ thời gian trả lời: Mỹ thành công nếu chính phủ dân chủ mới phôi thai ở Iraq càng ngày càng vững mạnh; ngược lại, Mỹ thất bại nếu nó sụp đổ và Iraq lại sống dưới chế độ độc tài như thời Sadam Hussein.
Gai góc hơn là vấn đề địa chính trị (geopolitics). Một trong những động cơ chính của Mỹ khi quyết định tấn công và xâm chiếm Iraq là biến Iraq thành một quốc gia dân chủ thân Mỹ, từ đó, biến nước này thành một trung tâm quyền lực của Mỹ để, một mặt, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các nước Hồi giáo Trung Đông, mặt khác, sẵn sàng trấn áp mọi cuộc chiến tranh chống Mỹ trong tương lai. Cả hai đều gắn liền với địa chính trị.
Tuy nhiên, ở cả hai khía cạnh này, dường như Mỹ không thành công, hoặc ít nhất, chưa thành công.
Thứ nhất, nền dân chủ ở Iraq còn rất mỏng manh và yếu ớt.
Thứ hai, do tính chất mỏng manh và yếu ớt ấy, Iraq cũng không thể đóng vai trò một căn cứ địa chính trị hay quân sự đáng tin cậy cho Mỹ. Sau năm 2003, Mỹ đã xây dựng Tòa Đại sứ tại Baghdad, một Tòa đại sứ lớn và tốn kém nhất của Mỹ với chi phí hơn 750 triệu trên một mảnh đất rộng trên 104 mẫu Anh, nơi, thoạt đầu, chứa đến 16.000 nhân viên, trong đó, có đến 2.000 nhân viên ngoại giao, với tham vọng xem đó như một đầu não ngoại giao và an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, với lý do nêu trên, tham vọng này dường như chỉ là một ảo tưởng.
Thứ ba, việc xâm lăng Iraq - nhất là việc không phát hiện bất cứ một thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq cũng như việc không thể tìm ra chứng cứ nào về mối quan hệ giữa Saddam Hussein và al-Qaeda vốn là những lý do chính được đưa ra để gây chiến - đã gây bất bình cho cộng đồng Hồi giáo tại Trung Đông.
Thứ tư, quan trọng hơn hết, cuộc chiến tranh Iraq dường như làm cho Iran, kẻ thù của cả Mỹ lẫn Iraq trước đây, mạnh hơn hẳn. Mạnh vì hai lý do: Một, đối thủ chính và nguy hiểm nhất của Iran là Saddam Hussein đã bị tiêu diệt; và hai, phái Shia, một giáo phái thuộc Hồi giáo đang cầm quyền tại Iran càng ngày càng phát triển mạnh, nắm rất nhiều quyền lực tại Iraq, thay cho giáo phái Sunni trước đây. Với sự thắng thế của phái Shi’ite, Iran có thể sẽ có một lực lượng đồng minh rất đáng kể ở Iraq.
Dĩ nhiên, vẫn có người phản bác các nhận định trên với lý do chính: Bất kể những thất bại ở lãnh vực này hay lãnh vực khác, Mỹ cũng đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh khủng bố vốn mở màn sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Lực lượng khủng bố, trên cơ bản, đã bị dẹp tan, không còn là một đe dọa lớn đối với Mỹ cũng như trên thế giới nữa. Vì thế, Mỹ có thể an tâm quay về với một đối thủ mới xuất hiện ở phương Đông: Trung Quốc.
Như vậy, cuộc bàn cãi về chuyện thắng hay bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq từ năm 2003 cho đến nay vẫn còn tiếp tục và có lẽ sẽ còn tiếp tục dài dài.
Thật ra, đó cũng là điều bình thường. Chuyện thắng hay bại là một vấn đề phức tạp hơn hẳn những gì chúng ta thường nghĩ. Thường, nghĩ về chiến tranh hay chính trị, chúng ta hay tự giới hạn mình ở một biến cố hay một sự kiện nào đó. Như một cái gì biệt lập và đơn lập. Trong khi, trên thực tế, bất cứ sự kiện hay biến cố nào cũng nằm trong một chu cảnh (context) với nhiều quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều và với nhiều kích thước khác nhau, từ kích thước địa chính trị đến kích thước lịch sử. Bởi vậy, không hiếm trường hợp thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh hay thua một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thắng một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại.
Thời Chiến tranh lạnh, Mỹ hòa ở chiến tranh Triều Tiên, và có thể gọi là thua, như nhiều người đã nói, cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng lại thắng trong toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh, nghĩa là thắng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Cũng có thể nói, phần nào, Mỹ thắng Liên Xô ở cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 1979 đến 1989. Dù hai bên không hề trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng ai cũng biết suốt thời gian chín năm ấy, Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ, từ Pakistan đến Anh, Saudi Arabia (và, kể cả Trung Quốc) đã đổ tiền giúp đỡ các kháng chiến quân người Afghanistan rất nhiều. Không những giúp đỡ tiền bạc mà còn giúp vũ khí và cả việc huấn luyện quân sự, bao gồm các chiến thuật du kích và, thậm chí, các phương pháp khủng bố. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, từ đầu năm 1987, Liên Xô quyết định rút quân: Giữa năm 1988, rút một nửa, đến đầu năm 1989 thì rút toàn bộ. Phe tự do hoan hỉ xem đó như một chiến thắng.
Nhưng chiến thắng ấy, oái oăm thay, lại mở đầu cho một thất bại của Mỹ trong trận chiến chống khủng bố: Một trong những lực lượng được Mỹ giúp đỡ và huấn luyện để chống lại Liên Xô thời ấy, sau này, đã trở thành một lực lượng Hồi giáo cực đoan mang tên al-Qaeda, trong đó có cả Osama bin Laden: Chính những người ấy, vào năm 2001, đã tổ chức cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp ngay trên đất Mỹ.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nhìn chiến tranh Iraq như một trận đánh, đương nhiên là Mỹ thắng. Thắng rất dễ dàng. Quân Mỹ và đồng minh bắt đầu tấn công vào ngày 20 tháng Ba năm 2003. Đến ngày 9 tháng Tư, tức 20 ngày sau, họ đã chiếm được thủ đô Baghdad. Bên Iraq, có 9.200 binh sĩ bị giết chết; phía đồng minh, Mỹ có 139 và Anh có 33 binh sĩ bị tử vong.
Nhìn rộng hơn một tí, toàn bộ cuộc chiến tranh, từ lúc khởi chiến (tháng 3/2003) đến lúc rút quân (tháng 12/2011), cũng có thể nói Mỹ thắng. Mỹ chiếm được Iraq, bắt và treo cổ Saddam Hussein, đập đổ được chế độ độc tài, dần dần hình thành nên một chế độ dân cử tương đối dân chủ, và cuối cùng, rút quân ra khỏi Iraq một cách an toàn. Như vậy là thắng chứ còn gì nữa?
Thế nhưng, nhiều người vẫn cứ băn khoăn. Lý do đơn giản: Cần phải đặt cuộc chiến Iraq vào hai chu cảnh lớn: Một, trong một cuộc chiến tranh lớn hơn: chiến tranh chống khủng bố và độc tài; và hai, trong thế địa chính trị tại vùng Trung Đông.
Nhớ, tướng Tommy Franks của Mỹ đã đặt ra tám mục tiêu chính khi đánh Iraq năm 2003: “Một, chấm dứt chế độ Saddam Hussein. Hai, phát hiện, cô lập và tiêu hủy các loại vũ khí sát thương hàng loạt (mass destruction). Ba, tìm kiếm, bắt và trục xuất khủng bố ra khỏi Iraq. Bốn, sưu tầm tài liệu tình báo liên quan đến các mạng lưới khủng bố. Năm, sưu tầm các tài liệu liên quan đến mạng lưới vũ khí hủy diệt hàng loạt phi pháp trên phạm vi toàn cầu. Sáu, giải tỏa lệnh cấm vận và tiến hành tức khắc các cuộc viện trợ nhân đạo cho dân chúng Iraq. Bảy, bảo đảm an toàn cho các mỏ dầu khí và tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về nhân dân Iraq. Và cuối cùng, giúp người dân Iraq tạo điều kiện chuyển tiếp sang một chính phủ đại biểu do dân bầu để quản trị đất nước của họ.”
Không phải mục tiêu nào ở trên cũng được hoàn thành. Ngoài chuyện không có các loại vũ khí sát thương hàng loạt hay các mạng lưới khủng bố toàn cầu nào ở Iraq, thất bại chính của Mỹ không chừng là nằm ở mục tiêu cuối cùng. Sau khi Mỹ chiếm Iraq một cách dễ dàng, Iraq trải qua những năm tháng nội chiến triền miên. Khủng bố nối tiếp khủng bố. Chỉ riêng tại thủ đô Baghdad, người ta ước tính mỗi ngày có khoảng từ 11 đến 33 người bị giết chết trong các cuộc đặt bom ở các khu dân sự, kể cả chợ búa và đền thờ.
Về phương diện chính trị, các phe phái liên tục chống đối nhau. Đúng là Iraq đã bắt đầu xây dựng được một số nền tảng cho một chế độ dân chủ, tuy nhiên, tương lai chính trị của nước này vẫn đầy bất an.
Cái giá của cuộc chiến này khá cao. Về nhân mạng, 115.376 người Iraq bị giết chết từ năm 2003 đến 2011.
Về phía đồng minh, số binh sĩ bị chết của Mỹ là 4.488; của Anh là 179, của Ý 33, của Ba Lan 30, của Ukraine 18, Bulgaria 13, v.v.. Về tài chính, chi phí cho cuộc chiến tranh ấy, về phía Mỹ, là khoảng trên 845 tỉ đồng.
Chính vì vậy, nhiều học giả Mỹ đặt vấn đề: Một, liệu cuộc chiến tranh ấy có đáng không? Và hai, có thể xem là Mỹ thắng trận không?
Không có câu trả lời nào thật dứt khoát và thuyết phục hẳn. Eric S. Margolis, tác giả cuốn sách American Raj: Liberation or Domination? trả lời thẳng thừng: Mỹ thất bại. Fred Kaplan cho đó là một cuộc chiến tranh không cần thiết nhưng cũng cho rất khó trả lời câu hỏi ai thắng ai.
Christian Whiton, chủ tịch Hamilton Foundation, lại cho là Mỹ thành công, hơn nữa, hai lần thành công: vừa lật đổ được một chế độ được xem là độc tài và tàn bạo nhất thế giới vừa xây dựng được cơ sở cho một nền dân chủ lâu dài tại Iraq.
Một số người đề nghị chờ thời gian trả lời: Mỹ thành công nếu chính phủ dân chủ mới phôi thai ở Iraq càng ngày càng vững mạnh; ngược lại, Mỹ thất bại nếu nó sụp đổ và Iraq lại sống dưới chế độ độc tài như thời Sadam Hussein.
Gai góc hơn là vấn đề địa chính trị (geopolitics). Một trong những động cơ chính của Mỹ khi quyết định tấn công và xâm chiếm Iraq là biến Iraq thành một quốc gia dân chủ thân Mỹ, từ đó, biến nước này thành một trung tâm quyền lực của Mỹ để, một mặt, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các nước Hồi giáo Trung Đông, mặt khác, sẵn sàng trấn áp mọi cuộc chiến tranh chống Mỹ trong tương lai. Cả hai đều gắn liền với địa chính trị.
Tuy nhiên, ở cả hai khía cạnh này, dường như Mỹ không thành công, hoặc ít nhất, chưa thành công.
Thứ nhất, nền dân chủ ở Iraq còn rất mỏng manh và yếu ớt.
Thứ hai, do tính chất mỏng manh và yếu ớt ấy, Iraq cũng không thể đóng vai trò một căn cứ địa chính trị hay quân sự đáng tin cậy cho Mỹ. Sau năm 2003, Mỹ đã xây dựng Tòa Đại sứ tại Baghdad, một Tòa đại sứ lớn và tốn kém nhất của Mỹ với chi phí hơn 750 triệu trên một mảnh đất rộng trên 104 mẫu Anh, nơi, thoạt đầu, chứa đến 16.000 nhân viên, trong đó, có đến 2.000 nhân viên ngoại giao, với tham vọng xem đó như một đầu não ngoại giao và an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, với lý do nêu trên, tham vọng này dường như chỉ là một ảo tưởng.
Thứ ba, việc xâm lăng Iraq - nhất là việc không phát hiện bất cứ một thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq cũng như việc không thể tìm ra chứng cứ nào về mối quan hệ giữa Saddam Hussein và al-Qaeda vốn là những lý do chính được đưa ra để gây chiến - đã gây bất bình cho cộng đồng Hồi giáo tại Trung Đông.
Thứ tư, quan trọng hơn hết, cuộc chiến tranh Iraq dường như làm cho Iran, kẻ thù của cả Mỹ lẫn Iraq trước đây, mạnh hơn hẳn. Mạnh vì hai lý do: Một, đối thủ chính và nguy hiểm nhất của Iran là Saddam Hussein đã bị tiêu diệt; và hai, phái Shia, một giáo phái thuộc Hồi giáo đang cầm quyền tại Iran càng ngày càng phát triển mạnh, nắm rất nhiều quyền lực tại Iraq, thay cho giáo phái Sunni trước đây. Với sự thắng thế của phái Shi’ite, Iran có thể sẽ có một lực lượng đồng minh rất đáng kể ở Iraq.
Dĩ nhiên, vẫn có người phản bác các nhận định trên với lý do chính: Bất kể những thất bại ở lãnh vực này hay lãnh vực khác, Mỹ cũng đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh khủng bố vốn mở màn sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Lực lượng khủng bố, trên cơ bản, đã bị dẹp tan, không còn là một đe dọa lớn đối với Mỹ cũng như trên thế giới nữa. Vì thế, Mỹ có thể an tâm quay về với một đối thủ mới xuất hiện ở phương Đông: Trung Quốc.
Như vậy, cuộc bàn cãi về chuyện thắng hay bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq từ năm 2003 cho đến nay vẫn còn tiếp tục và có lẽ sẽ còn tiếp tục dài dài.
Thật ra, đó cũng là điều bình thường. Chuyện thắng hay bại là một vấn đề phức tạp hơn hẳn những gì chúng ta thường nghĩ. Thường, nghĩ về chiến tranh hay chính trị, chúng ta hay tự giới hạn mình ở một biến cố hay một sự kiện nào đó. Như một cái gì biệt lập và đơn lập. Trong khi, trên thực tế, bất cứ sự kiện hay biến cố nào cũng nằm trong một chu cảnh (context) với nhiều quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều và với nhiều kích thước khác nhau, từ kích thước địa chính trị đến kích thước lịch sử. Bởi vậy, không hiếm trường hợp thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh hay thua một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thắng một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại.
Thời Chiến tranh lạnh, Mỹ hòa ở chiến tranh Triều Tiên, và có thể gọi là thua, như nhiều người đã nói, cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng lại thắng trong toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh, nghĩa là thắng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Cũng có thể nói, phần nào, Mỹ thắng Liên Xô ở cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 1979 đến 1989. Dù hai bên không hề trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng ai cũng biết suốt thời gian chín năm ấy, Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ, từ Pakistan đến Anh, Saudi Arabia (và, kể cả Trung Quốc) đã đổ tiền giúp đỡ các kháng chiến quân người Afghanistan rất nhiều. Không những giúp đỡ tiền bạc mà còn giúp vũ khí và cả việc huấn luyện quân sự, bao gồm các chiến thuật du kích và, thậm chí, các phương pháp khủng bố. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, từ đầu năm 1987, Liên Xô quyết định rút quân: Giữa năm 1988, rút một nửa, đến đầu năm 1989 thì rút toàn bộ. Phe tự do hoan hỉ xem đó như một chiến thắng.
Nhưng chiến thắng ấy, oái oăm thay, lại mở đầu cho một thất bại của Mỹ trong trận chiến chống khủng bố: Một trong những lực lượng được Mỹ giúp đỡ và huấn luyện để chống lại Liên Xô thời ấy, sau này, đã trở thành một lực lượng Hồi giáo cực đoan mang tên al-Qaeda, trong đó có cả Osama bin Laden: Chính những người ấy, vào năm 2001, đã tổ chức cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp ngay trên đất Mỹ.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nguyễn Hưng Quốc
Nhà
phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ
bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt
Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về
văn học Việt Nam.
NHỮNG CA KHÚC ĐI TÌM TỰ DO VÀ QUÊ HƯƠNG NGỤC TÙ
NHỮNG CA KHÚC ĐI TÌM TỰ DO
NHẠC CHÂU ĐÌNH AN- CA SĨ NHƯ QUỲNH
NGƯỜI DI TẢN BUỒN
NHẠC NAM LỘC, CA SĨ KHÁNH LY
SAIGON ƠI VĨNH BIỆT
NHẠC SĨ VÀ CA SĨ NAM LỘC
HÃY HÁT CHO TỰ DO
NHẠC SĨ VIỆT DŨNG CA SĨ NGUYỆT ÁNH
MỘT CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG
NHẠC SĨ VIỆT DŨNG- CA SĨ KHÁNH LY
SAIGON NIỀM NHỚ KHÔNG TÊN
NHẠC SĨ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN - CA SĨ KHÁNH LY
EM VẪN MƠ MỘT NGÀY VỀ
NHẠC SĨ VÀ CA SĨ NGUYỆT ANH
TÔI MUỐN MỜI EM VỀ
NHẠC VIỆT DŨNG- CA SĨ Y PHƯƠNG
BILL LAURIE * AN OPEN LETTER
The Betrayed and Abandoned
UNTOLD STORY section — vnafmamn.com
|
I
longed for the shy quiet beauty and the warm perfumed nights of Viet
Nam. For the first time in my life I felt homesickness. This is not
right I told myself. How can you feel homesick for some place that is
not your home? But the feeling would not go away. So, I made the
final decision. I re-enlisted in the Army and came back to Viet Nam,
back to the country I knew I loved. When I returned to the Viet Nam I
had left, only a few short months before, was no more. I knew then that
I would never see that Viet Nam of 1966 again, and it saddened me
deeply.
The American soldiers were coming in great numbers then and the misunderstanding and bad feelings between Americans and Viet Namese spread and intensified. I watched with sorrow as the Americans' money infected the simple and good people of Viet Nam with the disease called greed and as the greed spread so did corruption. I watched with bitterness and anguish as America tore down the "Viet Namese" Viet Nam and built the "American" Viet Nam. This "American Viet Nam" was a beautiful Viet Nam, beautiful for war profiteers. But for everyone else it was a disgrace. It was degrading to the people of Viet Nam to have everything taken over by the Americans. It took away their pride and made them feel inferior. Before long the whole nation and people of Viet Nam had a giant inferiority complex. Those who would not feel inferior, those who still had their pride, for those it generated hatred and scorn for many years. After America took away the pride and self respect of the people of Viet Nam and replaced it with feelings of uselessness and dependence on Americans, the great leaders and politicians of my country announced that now we must "Viet Nam-ize" the war so that America can disentangle itself from the "quagmire" of Viet Nam. The Paris Peace talks were started so that Viet Nam could obtain "Peace with Honor" with "Freedom and Democracy" for the people of the Republic of Viet Nam. Finally the big day came, the "Paris Peace Accords" were signed. The people of Viet Nam once again dared to hope that, after so many years of the tears, pain, horror, death and destruction that make up this thing called war might come to an end. But I did not believe it, not for one second did I believe it would stop. My school book ideals and belief in Americans and their goodness were shattered long before, shattered somewhere between the rape of a house girl and the My Lai tragedy. I knew "those papers" were meaningless, and "those phrases" offered by the prestigious diplomats were as hollow as a rotten tree as far as the country and people of Viet Nam were concerned. I knew in my own mind that it only meant an end to America's entanglement in the quagmire that they helped create. I did have one hope, one dream left when the American and Allied Forces left Viet Nam. That dream and that hope was that America would supply Viet Nam with the needed weapons, ammunition, and equipment and that you, the people of Viet Nam, would reach deep within you and pull out your wounded pride and regain your self respect and fight on until victory over the barbarian aggressor. My dream and my hope was beginning to be fulfilled. You did mend your pride and you did regain your self respect and I rejoiced in my heart for you. Then it happened, the promises were broken, the supplies came no more. Still, you fought and died and lost your limbs for your homeland. You asked for help from those who uttered the "empty phrases" and signed the "meaningless papers" and they shunned you. Again you swallowed your pride and in desperation you pleaded. So the great humanitarian peoples of America sent a delegation from Congress to your home land. They saw the sons of rich riding their motorbikes around with their long hair and Heroin dulled eyes, they saw the war profiteers driving their expensive foreign cars and visiting night clubs. They talked with your rulers and generals, then they were experts on Viet Nam, then they had a basis for which to judge you and ease their conscience for the breaking of the promises. Now the "honorable"(?) Congressmen, being authorities on Viet Nam and it's people, made suggestions and recommendations. Some of these great lawmakers recommended no more aid to Viet Nam, some said they would only aid in the form of food and medicine. It will ease their conscience if you are killed with a full stomach instead of an empty one. One of the great humanitarian experts was quoted as saying that "Eventually the communists would prevail in Viet Nam because their aggressiveness, will and purpose presently exceeds the aggressiveness, will and purpose of the people of South Viet Nam." If this is true, I wonder who gave you a purpose and turned their back on you when the going got tough? Who pushed your "purpose" into the mud of the Mekong Delta? Who trampled your "aggressiveness" into the red dust of the highlands? Who drowned your "will" in the South China Sea off the coat of Da Nang? We know who did this don't we my friends? Yes, the U.S. delegation came and looked and talked but they didn't go to see you shivering in the cold rain, they didn't see your children with their eyes glazed in fear, they didn't hear the screams of your agony....they didn't go to see the blood coming from you open veins, they didn't see you in the last quivering spasms of your death. No tears stained their cheeks, no choking sobs wracked their bodies. They will never kneel in prayer with tears streaming from their eyes because of their sorrow for you. They went back to their safe, secure, affluent homes in America. Their families will never know hunger. They will never have to sit alone in the middle of the night an decide if they should kill their own wife and children to save them from torture should the Communist barbarians get them. They will never have to worry about the searing hot shrapnel tearing their families and friends apart. My dear friends I am afraid your pleas have fallen on deaf ears. Ears closed by the callousness and indifference that is the product of the affluence. Do not envy Americas affluence my friends, because as you can see, they have sold their soul to purchase that affluence. And so my dear friends for the past 9 years I have been with you. I have loved you and sometimes I have hated you. I have laughed with you and I have cried with you, and perhaps in the coming days I will die with you also, and if this be so be it. America! Do you want to know what Viet Nam is today? What is this Viet Nam of 1975 that you have created? Listen! A few days ago while riding to Bien Hoa in back of a small bus with my wife there were two very small children sitting all alone crying because their young mother had gone in search of her soldier husband who had fled from the Highlands, so they had to return home alone. Another woman was crying because her son had just been buried. A man crying because he lost his whole family in Hue. Another woman who showed us the picture of her husband and five children who were still trapped in Da Nang when it fell to the Communists, and as she talked the same tears and choking sobs started. I had to turn away. I could not look her in the face. All I could do was hang my head and stare at the floor in my shame. I felt her pain and sorrow choking me as I sat with tears running from my eyes and dripping to the floor. This is the Viet Nam of today. All sorrow, all pain, all blood and bones and endless, endless tears. This is the Viet Nam that you, the great humanitarian people of America, have created. The Viet Nam that you now refuse to take responsibility for and traitorously turn your back on. Every time I read the newspaper now the choking knot of sorrow comes in my throat, the tears flow from my eyes and the shame engulfs me like a dark cloud. It is not a shame I helped to create but it is a shame that I must bear because I am an American. When you uttered those "empty phrases" and signed those "meaningless papers" your breath should have been bleeding Americans, bleeding like the children of Viet Nam are bleeding. Your heart is stinking Americans, stinking like corpses that litter the "trail of tears and blood" for a hundred miles from the Highlands to the sea. You have washed your hands of Viet Nam Americans, but you have washed your filthy hands in the tears and blood of my friends and the people I love. Through your callousness, indifference, and inaction you gave your consent to the communist barbarians from the North, you gave your consent for the decimation of a nation and people you once called friends, allies, and compatriots. How bitter those words are in [my] mouth today. So all of you great good American people and legislators go to your beautiful homes and eat your good nourishing food and sit in your comfortable chairs and sip you coffee and read the evening newspaper of the horror and tragedy of Viet Nam today, and you say "that's too bad." You go to sleep in your warm comfortable beds with what you think is a clean conscience. But when you awake in the still of the night and you don't know why, you listen Americans, you listen very close, be still and listen and you may hear the poor wretched people of Viet Nam, somewhere between tracers and their pain, somewhere between shrapnel and their open vein, you will hear them call you by your "real" name. Easter has just passed. Christ said when he was nailed to the cross "Lord, forgive them for they know not what they do." You have nailed Viet Nam to the cross Americans. I do not have the compassion of Christ and I will never ask any man's God that you be forgiven, because you do know what you do, and I will never, never forgive nor forget what you have done to Viet Nam. Never again will I feel pride in being an American. Never again can I hold my head high and feel the patriotism that I felt so many years ago. Now I can only hang my head low in my shame. You have sickened me to the depths of my soul, damn you America. You have destroyed my beloved Viet Nam. P.S. I must remain anonymous for reasons of personal safety. If you feel this is worthy please see that some Viet Namese daily gets it in. I would be pleased if the people of Viet Nam could know that some one understands, [and] why. END OF LETTER
"The one who does not remember History is bound to live through it again."
George Santayana |
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ *BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC
BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH
AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
1. PHẦN I |
THÁNG
4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang
bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào bị tàn sát dã man
đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN
đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước
nhận định. Xin đa tạ quý vị!
Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận
được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) –
cựu sĩ quan QĐVNCH – sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN
giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm
các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978
– 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp.
Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để
CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người
tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn
nhân gồm cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các
CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT – MIÊN khoảng 7
cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô
nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những
nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo
giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.
VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC:
Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên
mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa
Tam Bửu là những di tích được nhà nước công nhận là di tích vào năm 1980
là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua
11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược và sát hại
hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ
cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn
thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa
đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi,
giới tính…Nhà mồ được xât dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu,
đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng
chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và
những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.
Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu
chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN – VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng
lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và
thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông
TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát
tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .
Ông TRẦN H. viết: “…CSVN đưa sư đoàn 30
CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến
thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để
chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào
chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặc. Sau đó, chúng nổi
lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổn dưới bàn tay vô
thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An
Giang, có trên 3.000 người bị chúng giết tập thể. Nay chúng cho xây một
ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu…(ngưng trích)
Ông HOÀNG QUÝ viết: “…Thời cuộc đã biến
chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng
vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc,
cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978…Tổng cộng có 3.157cả
người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại
Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những
lý do mà CS VN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm
đó…(ngưng trích).
Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE
CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald
Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà
Thị Nga nói: “Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới
bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40
terrified victims hid under the alter before being killed by grenades).
Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả
lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con chính xác là 40 người
trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đúng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi
chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa
chiềng. Tôi không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có thể
chứa nổi một lúc 40 người, trốn dưới đó.
Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả
hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các
nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra
vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo
dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến
11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính
đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:
I. TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975:
Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng – Tổng
biên tập báo Nhân Dân – và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có
ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV
Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia
MIKHAI A. SUSLOV – Trưởng phái đoàn Sô Viết – thì hầu hết các Ủy viên Bộ
Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của
Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG
ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc
Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN
nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với
Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự
nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.
II. NHỮNG CUỘC XUNG ĐỘT VŨ
TRANG GIỮA VIỆT NAM VÀ KAMPUCHEA TẠI VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM: QUÂN
ĐỘI KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977:
• Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary – Ngoại
trưởng Khmer Đỏ – sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong
buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm – Phó Thủ Tướng – và Tướng Vương Thăng
Long – Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ – khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy
sự hợp gắn bó giữa hai nước.
• Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.
• Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.
QUÂN ĐỘI KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ HAI VÀO TỈNH TÂY NINH:
• Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể
Pôn – Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính
thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng
Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn – Pốt lên đường đi Bắc Kinh
và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và
Thủ Tướng. Pôn – Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy
Thiên An Môn.
• Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn – Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
• Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.
• Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn – Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
• Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.
QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG VÀO NỘI ĐỊA KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977:
Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng
vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh
thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai
hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang
tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị
Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS
buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
QUÂN ĐỘI KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ BA VÀO NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 1978:
• Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên
giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây
Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh
Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt
Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ
sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN
NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay
Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX,
chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn
4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng
Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII
đến tăng phái cho Q.Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo
binh, thiết giáp…với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2
tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi
biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
• Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.
• Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.
TÌNH HÌNH KAMPUCHEA SAU KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN KIA BIÊN GIỚI:
• Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những
tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở
nên gây gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng
của KE PAULK – Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ – thuộc Quân khu
Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt
giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi
bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3,
5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.
• BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam – Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
• Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
• NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt – Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru…
• BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam – Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
• Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
• NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt – Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru…
III. DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI: VẠCH TRẦN 6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC:
• ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa
phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của
nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam,
đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư
đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của
Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã
tích lủy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt
Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”… nên phản ứng
của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng
đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi
niêu, xoong chảo…để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ
chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và
một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ
chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968,
dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập
trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng
để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và
bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.
• ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở
Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng
chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng
bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là
tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những
người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng,
rựa…tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các
xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán
loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!…” (Nào! Giết tụi
Việt! Bây ơi!…” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn
bà, trẻ con đâm theo trẻ con…gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ
cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo
đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiềng để đọc kinh cầu
nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ
trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?
• ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên
3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở
như thế, cách biên giới Việt – Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh
Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao
nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư
đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn
chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực
lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại
căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc
thảm sát trong suốt 11 ngày đêm mà các đơn vị chịu trách nhiệm phòng thủ
biên giới kể trên không hay biết và hoàn toàn không phản ứng gì cả khi
nghe tiếng súng nổ? Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn
IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3
sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới
phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một
đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.
• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch…và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang – bí danh Sáu Nhỏ – bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiềng, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.
• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch…và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang – bí danh Sáu Nhỏ – bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiềng, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.
…..
BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
2. PHẦN II |
Nội dung và chi tiết PHẦN I kể
trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ
CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/
1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc
2:59 PM.
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự – ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3…” đưa lên báo Lao Động Online số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự – ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3…” đưa lên báo Lao Động Online số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
• Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống
nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn – Pốt đã xua quân vượt biên giết
3.574 thường dân bằng những hình thức dã man. Để tưởng nhớ những người
dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân
nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5.
Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG
ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4
/1978. bè lũ Pôn – Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi – nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc – không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy…” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch…
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3…”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ…”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi – nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc – không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy…” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch…
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3…”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ…”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.
YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”:
Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba
Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574
người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến
25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược
ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận móc thời gian từ
18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?
Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính
xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba
Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh
quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!
Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian
từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó,
tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn
sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiền.
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA:
Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và
thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên
Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo
Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày
13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa
Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ
chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi
và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới,
còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.
Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa
nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần
TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài
cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có
đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh
quay lửa…Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi
trâu…Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:
• Cho dù tên đồ tể Pôn – Pốt và quân
Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba
Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội
truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn
Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang
cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN
mà thôi.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiền để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiền để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
Những vụ giết người tập thể như vậy,
giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn
nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ
đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay
không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN.
Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân
chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật
đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!
KẾT LUẬN:
Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI
PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về
vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG
BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng
của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ để đền tội.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của HoàngQuý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3…Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của HoàngQuý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3…Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle.
…..
BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH
AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
3. PHẦN III |
Tháng 4 năm 2010, kỷ niệm đúng 32 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG bị cái gọi là lực lượng vũ trang QĐND của CSVN tàn sát tập thể. Trong phạm vi bài nầy, tôi (tác giả) trước khi mở cuộc đối thoại với những quan điểm phản bác bài viết nầy, tôi xin nêu lên một vài điểm thắc mắc để “nhóm thầy cải” bào chữa tội ác của bọn lãnh đạo CS Hà Nội trả lời:
I. YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”: TRỐNG ĐÁNH XUÔI, KÈN THỔI NGƯỢC:
Nhà mồ Ba Chúc là di tích được Nhà nước CSVN công nhận là DI TÍCH LỊCH SỬ vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến 29/ 4/ 1978 đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã BA CHÚC. Ông HOÀNG QUÝ cũng đã xác nhận thời gian nầy của Nhà nước CSVN đưa ra và ghi rõ số nạn nhân là 3.157 người cả Việt lẫn Miên.
Nhưng, ông LỤC TÙNG đã phản bác khoảng thời gian nầy do Nhà nước CSVN đưa ra là không đúng, bằng cách trưng dẫn tài liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ghi nhận: bắt đầu từ ngày 14/ 4/ 1978 đến 25/ 4/ 1978 và con số nạn nhân là 3.574 người. Rõ ràng, yếu tố thời gian xảy ra vụ thảm sát là “tiền hậu bất nhất” trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, sai biệt trước sau 4 NGÀY để làm gì?
Ý kiến của ông Nguyễn Bình Đông trên TAKE2TANGO đưa ra:
Biến cố thảm sát Ba Chúc, tỉnh Châu Đốc cách đây 31 năm, còn 19 năm nữa sẽ viết thành sử (sau 50 năm, mới kể là sử, theo thời gian tính). Chắc chắn sẽ đi vào lịch sử Việt Nam, vì tôi viết sử nếu tôi chết sẽ có người khác viết…Trong bộ chính trị cộng sản Việt Nam đâu có ai già?
Câu hỏi được đặt ra với sử gia Nguyễn Bình Đông:
Tôi không biết sử gia Nguyễn Bình Đông căn cứ vào tiêu chuẩn nào phải chờ sau 50 năm sau mới kể là sử, theo thời gian tính? Tại sao không dám viết lại ngay “sự cố” nầy như trường hợp TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG bùng nổ vào ngày thứ bảy 17/ 2/ 1979 lúc 3 giờ 30 sáng?
Chúng tôi xét thấy không cần thiết sử gia Nguyễn Bình Đông phải chờ đợi đến 50 năm sau mới viết thành sử. Chúng tôi chỉ yêu cầu Đảng CSVN và ông ghi rõ ràng, trung thực diễn tiến biến cố thảm sát dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào tháng 4 năm 1978 với đầy đủ chiết mà đồng bào Ba Chúc đòi hỏi:
1. THỜI GIAN:
Yếu tố thời gian quan trọng nhất và phải hoàn toàn chính xác như “sự cố” “Trận chiến biên giới Việt – Hoa” kể trên. Tôi không biết các sử gia trong Bộ Chính trị CSVN giải thích thế nào về cái yếu tố thời gian “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược SAI BIỆT TRƯỚC SAU 4 NGÀY? Tại sao phải tránh né sự thật?
2. KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ BIÊN GIỚI TÂY – NAM:
Yêu cầu trưng dẫn sơ đồ trận liệt phân chia khu vực trách nhiệm phòng thủ của ba Sư đoàn chính quy QĐND: 4, 8 và 330 và 2 Trung đoàn cơ động tỉnh với những chi tiết:
KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ:
-Phòng thủ chu vi, phòng thủ chiều sâu, phòng thủ chiều ngang, phòng thủ chiều rộng, phòng thủ lưu động, phòng thủ cố định, phòng thủ các yếu điểm…
-Kế hoạch phối hợp hỏa lực, hỏa lực hổ tương yễm trợ, pháo yễm, không yễm…
CÔNG SỰ PHÒNG THỦ:
-Vị trí các công sự phòng thủ: Pháo đài, chiến lũy, đài chỉ huy, tháp canh, chiến hào, chướng ngại nhân tạo, thiên nhiên như kinh Vĩnh Tế…
HÀNH ĐỘNG PHÒNG THỦ:
-Đào giao thông hào, hầm chông, mìn bẫy, khai quang địa thế, giàn quân, phản công…
TIỀN ĐỒN CHIẾN ĐẤU:
-Thiết lập tiền đồn chiến đấu ven biên.
-Hệ thống báo động bằng cách gây tiếng động, ánh sáng hỏa châu một khi phát hiện mưu toan xâm nhập của địch quân…
-Phòng thủ cố định nội vi và phòng thủ tích cực hoạt động ngoại vi vào ban đêm…
Kế hoạch phòng thủ biên giới phía Tây Nam vùng biên giới Việt – Miên trên đây, đối với các vị tướng Tư lệnh sư đoàn 4,8 và 330, dày dạn kinh nghiệm chiến trường còn rất nhiều khuyết điểm. Với quân số chính quy và địa phương ước tính trên 30.000 quân mà những viên tướng Tư Lệnh chiến trường không đủ khả năng bảo vệ nổi dân làng BA CHÚC chỉ có khoảng 15.000 dân, để lực lượng Khmer Đỏ của Pôn Pốt tung hoành ngang dọc suốt 11 ngày đêm, thảm sát trên 3.574 thường dân vô tội mà BTL/QK 9 đặt tại Cần Thơ đã án binh bất động, không có phản ứng gì cả là một chuyện KHÔNG THỂ TIN ĐƯỢC, giống như chuyện PHONG THẦN.
Vì vậy, tôi có một vài câu hỏi được đặt ra nhờ các sử gia trong BCT/ CSVN và ông Nguyễn Bình Đông trả lời, để làm sáng tỏ “sự cố” nầy:
1. Lúc lực lượng Khmer Đỏ tràn qua biên giới Miên – Việt tàn sát dân làng Ba Chúc trong 11 ngày đêm, bắt đầu vào ngày nào: ngày 14 hay ngày 18 / 4/ 1978? Có bao nhiêu nạn bị thảm sát 3.157 hay 3.574 người? Yêu cầu giải thích rõ ràng về khoảng thời gian “tiền hậu bất nhất”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược nầy trước dư luận quần chúng.
2. Nếu đã có đủ yếu tố chính xác, tại sao Đảng CSVN không dám đúc kết, gởi lên “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” để truy tố Pôn Pốt lãnh tụ Khmer Đỏ ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY? Tôi thách thức Đảng CSVN và sử gia Nguyễn Bình Đông công khai hóa “DIỄN TIẾN CUỘC THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC CỦA QUÂN KHMER ĐỎ VÀO THÁNG 4/ 1978” trên diễn đàn với nầy với đầy đủ chi tiết, làm sáng tỏ “sựcố”nầy:
-Tên những sư đoàn thuộc lực lượng vũ trang Khmer Đỏ tham dự trận tấn công.
-Quân số ước tính bao nhiêu?
-Ai làm Tư lệnh các Sư đoàn Khmer Đỏ nầy?
-Trận tấn công bắt đầu lúc nào? Yêu cầu phải ghi rõ năm, tháng, ngày và giờ thật chính xác.
-Chiến thuật tấn công của Khmer Đỏ.
-Quân Khmer Đỏ dùng phương tiện gì để vượt qua kinh Vĩnh Tế để tấn công dân làng Ba Chúc, cũng như lúc triệt thoái về bên kia biên giới?
-Các mũi tấn công của quân Khmer Đỏ vào hệ thống phòng của đơn vị nào chịu trách nhiệm?
-Lực lượng Khmer Đỏ của Pôn Pốt đã lùa trên 3000 dân làng Ba Chúc vào những CHÙA & TRƯỜNG HỌC nào, trong 11 ngày đêm để tàn sát? Xin đánh dấu từng tọa độ của những “CHÙA & TRƯỜNG HỌC” trên bản đồ tỉnh Ba Chúc, kèm theo hình ảnh càng tốt!
-Sau khi quân Khmer Đỏ rút về bên kia biên giới, đếm được bao nhiêu xác chết và vũ khí địch bỏ lại chiến trường?
-Tổn thất về nhân mạng của lực lượng vũ trang QĐND là bao nhiêu?
-Cuộc quần thảo giữa sư đoàn 4, 8. 330 và 2 trung đoàn cơ động tỉnh và quân Khmer Đỏ trong suốt 11 ngày đêm mà sau khi thu dọn chiến trường, chỉ đếm được xác 3.574 dân làng tại hiện trường. Còn Địch và Bạn đều bình yên vô sự, không có tổn thất về nhân mạng là chuyện KHÔNG THỂ TINĐƯỢC!
II. XUẤT XỨ 1.159 HỘP SỌ NGƯỜI TRONG NHÀ MỒ BA CHÚC Ở ĐÂU RA?:
Căn cứ vào bài viết CÂU CHUYỆN NGÔI LÀNG BA CHÚC Ở BIÊN GIỚI MIÊN VIỆT của ông Hoàng Quý đưa lên lenduong.net ngày 5/02/ 2004 viết rằng: “Khoảng 1700 sọ người nhìn thấy qua cửa kiếng, phân loại theo tuổi (từ 3 tuổi trở lên), nam, nữ và không muốn được hỏa thiêu theo nghi thức thiêu của Phật giáo …ngưng trích”. Trong bài viết của ông Lục Tùng còn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên hộp sọ trưng bày trong nhà mồ.
Kể từ khi dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978 đến khi nhà mồ Ba Chúc, được Nhà nước CSVN công nhận là di tích lịch sử vào năm 1980, chỉ cách nhau có 2 năm. Với chừng ấy thời gian, xác chết của những nạn nhân chắc chắn chưa hoàn toàn phân hủy (tối thiểu phải trên 4 hoặc 5 năm). Làm sao bọn CS Việt Nam tìm đâu ra chừng ấy hộp sọ để đem trưng bài trong nhà mồ Ba Chúc?
Theo sự suy đoán của tôi: Để có 1700 hộp sọ người nầy dùng vào mục đích tuyên truyền, trước khi đem chôn xác của các nạn nhân, chánh quyền địa phương đã cho lén cắt đầu họ rồi đem chôn riêng một nơi bí mật nào đó, để mau chóng bị phân hủy. Đây là một hành động dã man có chủ đích từ trước.
Nhưng, đối với người CSVN xảo quyệt và man trá, họ giải quyết vấn đề nầy rất dễ dàng. Trước đây, khi san bằng các NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI VNCH trên khắp 4 vùng chiến thuật, họ đã cất giữ những hộp sọ của những người lính QĐVNCH vô thừa nhận, để sử dụng vào việc tuyên truyền khi cần thiết.
III. LÀNG BA CHÚC KHÔNG PHẢI LÀ MỤC TIÊU TẤN CÔNG CỦA KHMER ĐỎ:
Bọn CS Hà Nội chọn làng Ba Chúc, tỉnh An Giang để tắm máu 3157 hay 3574 đồng bào ruột thịt vào 14 hay 18 tháng 4 năm 1978, là một hành động sai lầm rất lớn về mặt tuyên truyền và sự thật trước sau gì cũng bị phơi bày ra ánh sáng. Bọn CS Hà Nội đã quên rằng, bên cạnh tên đồ tể Pôn Pốt lúc bấy giờ, luôn có mặt hàng tá cố vấn quân sự Trung Cộng chỉ đạo về mặt chánh trị và quân sự cho Pôn Pốt.
Chắc chắn bọn cố vấn Trung Cộng sẽ ngăn cản hành động phiêu lưu quân sự nầy của Pôn Pốt. Vì nếu đưa hàng ngàn quân Kmer Đỏ vượt qua kinh Vĩnh Tế để tiêu diệt dân làng Ba Chúc cách kinh Vĩnh Tế 5, 6 km, đa số là tín đồ PGHH vốn không hận thù với dân Kampuchia. Bọn cố vấn Trung Cộng thừa biết rằng muốn đưa quân vượt qua kinh Vĩnh Tế chỉ có ba cách:
• Đưa toán công binh chiến đấu áp sát biên giới Miên – Việt cùng với phương tiện để chuẩn bị lắp ráp cầu nổi.
• Lính Khmer Đỏ sẽ mang phao cá nhân lội qua kinh Vĩnh Tế.
• Dùng xuồng ghe để đưa quân vượt kinh Vĩnh Tế.
Dùng cách nào, cũng không đạt được yếu tố “BẤT NGỜ” và không thể nào lọt qua khỏi mạng lưới tình báo nhân dân của chánh quyền địa phương. Kinh Vĩnh Tế là chướng ngại vật thiên nhiên, đưa hàng ngàn quân vượt qua con kinh nầy là một hành động tự sát vì phi trường Trà Nóc và Cần thơ cách biên giới Việt – Miên khoảng 120 km đường chim bay. Nếu dùng trực thăng vận, đổ quân lên biên giới để giải tỏa áp lực địch tại làng Ba Chúc chỉ mất khoảng 1 giờ bay là cùng, còn dùng loại phi cơ MIG lên xạ kích hoặc oanh tạc là quân Khmer Đỏ sẽ thây phơi trên kinh Vĩnh Tế là cái chắc!
Trong binh pháp Tôn Tử nói: “Không có lợi, không động binh. Không được gì không dùng binh lực. Mọi hành động chính trị và quân sự phải dành cho được một lợi ích!” Với tập đoàn cố vấn Trung Cộng bên cạnh, còn lâu Pôn Pốt mới dám làm trái ý, điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt kinh Vĩnh Tế làm một phiêu lưu quân, tấn công làng Ba Chúc chỉ hao binh tổn tướng, không được lợi lộc gì cả. Cha nó lú thì chú nó khôn!
Nếu như Pôn Pốt muốn đánh Việt Nam để gây tiếng vang hoặc dằn mặt bọn CSVN. Bọn cố vấn Trung Cộng sẽ chọn Hà Tiên vì thị xã Hà Tiên trù phú, cách biên giới Miên chỉ có 5 km. Pôn Pốt sẽ điều động lực lượng Khmer Đỏ tập trung tại cảng KOMPHONG SOM rồi dùng tàu đổ bộ bất ngờ đổ quân xuống bờ biển Hà Tiên, đánh nhanh, rút gọn bằng đường biển và đường bộ về bên kia biên giới đều dễ dàng và rất thuận lợi.
IV. KẾT LUẬN:
Để trả lời những thắc mắc của sử gia Nguyễn Bình Đông về tôi (tác giả) bài viết nầy: Mục đích đưa ra bài nầy lên net để làm gì? Có thể một cá nhân, cũng có thể một tổ chức, có thể từ gián điệp Trung Cộng, Việt Cộng, PGHH hay một tổ chức nào đó…
Xin trả lời:
Mục đích duy nhất của tôi đưa bài viết này lên net: “SỰ THẬT PHẢI TRẢ LẠI CHO LỊCH SỬ” chỉ có vậy thôi!
Sử gia NBĐ chụp cho tôi cái mũ gián điệp Trung Cộng, Việt Cộng… cái chiêu rẻ tiền cũ rích này, xin để độc giả phê phán! Đồng thời nó đã chứng minh một sự thật phủ phàng: sự khốn cùng của CHỦ NGHĨA BIỆN CHỨNG. Nếu các sử gia của Đảng CSVN và NBĐ còn có chiêu nào khác hay hơn cái chiêu chụp mũ? Xin giở hết ra đi! Tôi sẽ tiếp tục đối thoại với quý vị “thầy cãi” nầy vào một dịp khác: tháng 4 năm 2011.
PHẦN IV
Tháng 4 năm 2011, kỷ niệm 33 năm ngày dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang bị cái gọi là lực lượng vũ trang QĐND tàn sát tập thể. Giữ đúng lời hứa, tôi xin giở lại HỒ SƠ TỐ CÁO TỘI ÁC CSVN TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4 NĂM 1978.
Sau một năm tìm tòi tài liệu, lục loại từng thư viện Hoa Kỳ để kiếm những tài liệu chứng minh tội ác của Pôn Pốt và lực lượng Khmer Đỏ đã tàn sát gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của họ trong chùa, rồi đốt chùa tại Kampuchia trong suốt thời gian Pôn Pốt trị vì xứ Chùa Tháp. Ngay cả cuốn MILLENNIUM CHILDREN’S HISTORY OF THE 20th CENTURY (do nhà xuất DK Publishing Book 95 Madison Avemue, NY 10016) trang 307, ghi nhận cái chết của tên lãnh tụ khát máu nầy như sau: “APRIL 1998, Pol Pot, notorious Khmer Rouge leader responsible for millions of deaths in the KILLING FIELDS OF CAMBODIA, dies at 72” (Tháng 4 năm 1998, Pol Pol, ai cũng biết là lãnh đạo của Khmer Đỏ, người chịu trách nhiệm của hàng triệu cái chết trong những CÁNH ĐỒNG TỬ THẦN ở CAMBODIA, chết lúc 72 tuổi).
Tôi có đến sinh hoạt với cộng đồng “CAMBODIAN COMMUNITY” tại hai ngôi chùa lớn trong vùng Virginia và Maryland: Cambodian Buddist Temple – 13800 New Hampshire Ave, Silver Spring, MD và chùa Wat Yarnna Rangseei Buddish Monastery 22437 Ceder Green Rd, Sterling, VA. Tôi đã gặp anh bạn M. Sok đồng bào Mỹ gốc Cambodia giới thiệu tôi với một số sư sãi trong chùa và họ đã xác nhận rằng: Trong những năm Pol Pot cai trị Cambodia, sư sãi bị bắt buộc phải hoàn tục và tuyệt đối không có chuyện lực lượng Khmer Đỏ giết người tập thể trong chùa hoặc đốt chùa. Vì vậy, tôi có thể kết luận vấn đề nầy chỉ có bọn CSVN vô thần mới dám làm cái chuyện tày trời là tàn sát dân lành trong chùa rồi phóng hỏa ĐỐT CHÙA. Tôi dám thách thức BCT/TƯ/Đảng CSVN trưng dẫn một cuốn sách, tài liệu hoặc hình ảnh nào xuất bản tại phương Tây, xác nhận rằng Pol Pốt và lực lượng Khmer Đỏ đã giết người tập thể trong chùa rồi đốt chùa ở Cambodia trong ngày Lễ hội Chol-Chnam-Thmay, như bạo quyền CSVN đã cáo buộc họ đã thảm sát dân làng Ba Chúc trong những ngày lễ kể trên.
Riêng anh Sáu Lưỡi Lam, viết bình luận rằng: Chánh quyền CS địa phương biết trước lực lượng Khmer Đỏ sẽ mở cuộc tấn công làng Ba Chúc, nên tất cả lực lượng võ trang QĐND rút lui toàn bộ về tuyến sau để Khmer Đỏ tung hoành ngang dọc suốt 11 ngày đêm, mặc tình tàn sát dân làng Ba Chúc.
Điều nầy chứng tỏ rằng:
• Lưới tình báo nhân dân của chánh quyền CS địa phương rất tinh vi. Vậy xin cho biết tên những Sư đoàn Khmer Đỏ nào sẽ mở cuộc tấn công vào làng Ba Chúc? Viên Tư lệnh Sư đoàn hay Sư đoàn Trưởng tên họ gì? Quân số mỗi sư đoàn là bao nhiêu người?
• Lực lượng Khmer Đỏ tấn công làng Ba Chúc thảm sát 3.157 hay 3.574 dân lành trong suốt 11 ngày đêm, bắt đầu từ ngày 18/4/ 1978 đến 29/4/ 1978 hay bắt đầu từ 14/4/ 1978 đến 25/4/ 1978? Xin cho biết thời gian chính xác.
• Lực lượng Khmer Đỏ chính là Lực lượng vũ trang của sư đoàn 30 (hay sư đoàn bánh tét) hóa trang thành lính Khmer Đỏ. Đó cũng là lý do tại sao Bộ Tư Lệnh/ Quân Khu 9 tại Cần thơ án binh bất động.
• Lực lượng vũ trang QĐND lùi về tuyến sau để thực hiện kế hoạch bao vây GIẾT SẠCH – ĐỐT SẠCH – PHÁ SẠCH không cho một người nào chạy thoát về phía huyện Tri Tôn.
Trước khi tạm chấm dứt bài viết nầy, tôi xin có lời nhắn với bà Hoa Hướng Dương gì đó, đừng để tên tuổi của vị Giáo sư – Tiến sĩ VÕ TÒNG XUÂN khả kính, dấy máu đồng bào vô tội làng Ba Chúc. Xin cám ơn.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH
AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
4. PHẦN KẾT |
Trong dịp khánh thành khu di tích lịch
sử Địa điểm thành lập Đoàn 125 tại ấp Suối Râm, xã Long Giao (huyện Cẩm
Mỹ), tỉnh Đồng Nai vào sáng ngày 2 tháng 1 năm 2012. VnExpress có đặt
câu hỏi với TT Hun Sen Campuchia:
-Thưa ông, tác giả Haish C. Mehta và
Julie B. Mehta của cuốn “Hun Sen – Nhân vật xuất chúng” có kể lại rằng,
ông đã “thể hiện sự phẩn nộ” khi có ý kiến đánh giá cuộc chiến 10 năm
của VN ở Campuchia như là “xâm lược”. Theo ông, vì sao lại có cách hiểu
như vậy về cuộc chiến đó?”
ĐÁP:
-Không riêng gì ông bà Mehta, mà nhiều
người từng nói với tôi như vậy. Tôi kịch liệt bác bỏ điều nầy. Sự hiện
diện của quân đội Việt Nam là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhân dân
Campuchia vì sự sống của nhân dân chúng tôi, điều đó đã dẫn đến sự hồi
sinh của Campuchia ngày hôm nay.
-Quốc vương Sihanouk cũng từng kêu gọi
sự giúp đở của Việt Nam để chống lại Lon Nol. Khi chúng tôi đang phải
đấu tranh chống lại chế độ diệt chủng Pol Pot, tại sao chúng tôi không
thể kêu gọi nhân dân VN đến giúp chúng tôi?
HỎI:
-Vậy nên hiểu thế nào về việc 30 năm sau
Liên Hợp Quốc mới tổ chức được một phiên tòa xét xử tội diệt chủng của
chế độ Khơme đỏ và tại đó một số bị cáo đã cáo buộc quân tình nguyện
Việt Nam trong việc giúp đở Campuchia là sai trái?”
ĐÁP:
-Tôi đã nghe Nuon Chea, một trong những
lãnh đạo chế độ Pol Pot được xét xử tại tòa án trong mấy tuần lễ vừa
qua, không những không nhận lỗi lầm của mình mà còn tố cáo việc nầy việc
khác. Đây chỉ là những lời tự bào chữa, nhằm làm nhẹ tội của những kẻ
sát nhân, diệt chủng mà thôi. Kẻ trộm không bao giờ thừa nhận rằng nó là
tên ăn trộm. (Nhận xét của TT Hun Sen rất chính xác. Những kẻ bán nước
cho Trung Cộng như Hun Sen và Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Tô huy
Rứa, Nguyễn Chí Vịnh… không bao giờ dám thừa nhận mình là những tên phản
quốc đã bán nước cho Tàu Cộng cả, đúng không?)
*
Tại phiên tòa của LHQ ở thủ đô Nam Vang
xét xử ba nhà lãnh đạo cao cấp trong thời Khmer Đỏ vào hôm thứ ba ngày
13/12/2011, các bị cáo trong vụ án thứ hai phải đối mặt với câu hỏi về
vai trò của mình trong chế độ cầm quyền, khiến gần 2 triệu người
Campuchia bị giết. Các cựu lãnh đạo Khmer Đỏ vẫn giữ lập trường rằng:
“VIỆT NAM LUÔN TÌM CÁCH SÁT NHẬP CAMPUCHIA VÀ NẾU KHÔNG CÓ KHMER ĐỎ THÌ
CAMPUCHIA ĐÃ BỊ VIỆT NAM NUỐT CHỬNG VỚI CHỦ TRƯƠNG DIỆT CHỦNG DÂN TỘC
CAMPUCHIA.”
Muốn biết những lời phát biểu của TT Hun
Sen và tố cáo của các nhà Lãnh đạo Khmer Đỏ cáo buộc cho Việt Nam “XÂM
LƯỢC” Campuchia đúng hay sai? Tôi xin đưa ra những dẫn chứng cụ thể
trong thời kỳ Khmer Đỏ cai trị Campuchia để quý vị độc giả nhận xét,
đánh giá và phê phán.
I. CHÁNH QUYỀN CAMPHUCHIA DÂN CHỦ:
NGÀY 17 THÁNG 4 NĂM 1975: quân Khmer Đỏ
tiến quân vào thủ đô Nam Vang. Lúc bấy giờ, trên danh nghĩa chính phủ
Campuchia dân chủ là chánh phủ Hoàng Gia Thống Nhất Quốc Gia Campuchia,
một liên minh giữa hai phe Sihanouk và Khmer Đỏ được thành lập năm 1970
tại Bắc Kinh để đối phó chánh phủ Cộng Hòa của tướng Lon Nol. Chánh phủ
đó do Sihanouk làm Quốc Trưởng, Pen Nouth Thủ Tướng, Khieu Samphan Phó
Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng, Hu Nim Bộ Trưởng Thông Tin, Hou
Youn Bộ trưởng Nội Vụ.
Thật ra, vừa đến Nam Vang, Khmer Đỏ
chánh thức nắm chủ quyền cả nước Campuchia, bắt đầu thanh toán các thành
phần đối lập, phản cách mạng và thực hiện công tác di tản dân thành phố
về nông thôn.
Đảng Cộng sản Campuchia, dưới cái tên
“Tổ Chức” (Angkar) bắt đầu cũng cố quyền hành. Ban Thường Vụ Trung Ương
Đảng lúc đó gồm: Pol Pot, Nuon Chea, Ta Mok, So Phim, Ieng Sary, Von
Verth, Son Sen và Takeu. Sau Pol Pot, Nuon Chea là nhân vật thứ hai đặc
trách Vụ Tổ Chức (chức vụ nầy tương đương với Lê Đức Thọ của CSVN)
THÁNG 7 NĂM 1975: Pol Pot triệu tập đại
hội các Bí Thư Khu Uûy để thống nhất quân đội và phân chia khu vực trách
nhiệm. Campuchia được chia ra làm 7 khu như sau:
• TA MOK trách nhiệm khu Tây Nam.
• NHIM ROS trách nhiệm khu Tây Bắc.
• KHOY THUON trách nhiệm khu Bắc.
• SO PHIM trách nhiệm khu Đông.
• KE PAUK trách nhiệm Trung Ương
• MEN SAN trách nhiệm khu Đông Bắc.
• CHU CHET trách nhiệm khu Tây.
Tất cả các Bí thư Khu ủy chấp thuận
đường lối “Cộng Sản Quá Khích” của Pol Pot. Còn Quốc Trưởng Sihanouk và
Thủ Tướng Pen Nouth chỉ là hư danh không một chút quyền hành và gần như
bị giam lỏng.
NGÀY 5 THÁNG 1 NĂM 1976: Hiến pháp chánh
thức của Campuchia ra đời, không có đoạn nào đề cập tới quyền tự do căn
bản, chỉ nói đến chính sách cưỡng bách lao động. Theo Hiến Pháp, nước
Campuchia sẽ có một Hội Đồng Chủ Tịch Nhà Nước do Quốc Hội bầu ra.
NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 1976: Quốc Hội
Campuchia được bầu ra, đa số các đại biểu là Bí thư các Quân Khu và Chi
Khu. Noun Chea được cử làm Chủ Tịch Quốc Hội. Khieu Samphan giữ chức vụ
Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước. So Phim đệ nhất Phó Chủ Tịch, Nhim Ros đệ
nhị Phó Chủ Tịch. Còn ông Sihanouk từ đó bị quản thúc.
NGÀY 12 THÁNG 4 NĂM 1976: Chánh phủ chính thức của Khmer Đỏ ra mắt. Thành phần chánh phủ như sau:
• Thủ Tướng: POL POT
• Bộ Trưởng Ngoại Giao: IENG SARY.
• Bộ Trưởng Quốc Phòng: SON SEN.
• Phó Thủ Tướng đặc trách Kinh Tế: VON VERTH.
• Bộ Trưởng Kỷ Nghệ: KHOY THUON.
• Bộ Trưởng Thông Tin: HU NIM.
• Bộ Trưởng Y Tế: THIOUM THIOEUN.
Tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ đã kết hợp
những thực nghiệm chủ nghĩa xã hội đẫm máu, rập khuôn của Stalin và Mao
Trạch Đông với những kinh nghiệm lao động nô lệ dưới thời vua Jayavarman
VII gần như điên cuồng. Nhưng, đường lối quá khích của Khmer Đỏ hơn cả
Stalin, Mao và Hitler đã gây ra thảm kịch tự diệt chủng hơn ¼ dân số
Campuchia.
Ngay từ ngày đầu tiên, song song với
công tác tiêu diệt những phần tử phản cách mạng gọi là “Ba Ngọn Núi
Quyền Lực Phản Động” là Đế Quốc – Phong Kiến và Tư sản Mại Bản. Khmer Đỏ
thực hiện ngay một cuộc cách mạng thứ hai là tiến thẳng lên XHCN và xây
dựng một quốc gia Campuchia hùng mạnh trong vòng 10 năm bằng cách áp
dụng chính sách kinh tế tập trung, cưỡng bách lao động toàn dân chúng để
xây dựng một XHCN nguyên thủy. Trong suốt 4 năm Khmer Đỏ nắm chánh
quyền, đã gây nên một không khí khủng bố đẫm máu và chết chóc trùm lên
cả nước, giống như miền Bắc XHCN Việt Nam trong chiến dịch cải cách
ruộng đất kinh hoàng từ năm 1955 – 1956
Về mặt lao động sản xuất, họ được đoàn
ngũ hóa, tổ chức thành những công đoàn, nông trường làm cả nước biến
thành một trại tập trung khổng lồ. Dân chúng phải làm mỗi ngày từ 6 giờ
sáng đến 8, 9 giờ đêm. Mục tiêu đoàn ngũ hóa cả nước được Khiêu Samphan
hoạch định trong luận án tiến sĩ tại Sorbonne năm 1959. Ông ta viết: “Sự
tổ chứccó phương pháp, tiềm năng của quần chúng nông dân sẽ làm tăng
hiệu năng sản xuất lên hàng trăm lần.”
Giống như Stalin trong thập niên 1930,
Mao Trạch Đông trong thập niên 1960 và Hồ Chí Minh khi tiếp thu miền Bắc
Việt Nam từ sau Hiệp định Geneve 1954. Chính sách hoang tưởng và quá
khích của Khmer Đỏ đã đưa đến hậu quả kinh tế vô cùng tai hại bởi những
cán bộ không có kinh nghiệm nông nghiệp và ngu dốt chỉ huy, khiến cho
lao động cả nước kiệt quệ làm mức sản xuất bị phá sản.
Pol Pot đổ lổi cho những phần tử khả
nghi phá hoại kinh tế, trong số nầy có Bộ trưởng Kinh Tế Khoy Thoun và
Bí Thư Khu Uûy khu Tây Bắc Nhim Ros vì không đạt chỉ tiêu sản xuất. Sau
cùng là những người bị tố cáo có “THÂN XÁC KHMER MÀ ĐẦU ÓC VIET NAM” kể
cả những cán bộ cao cấp như Keo Meas (Lảnh tụ Cộng Sản Campuchia kỳ cựu,
Bí thư thành ủy Nam Vang tới năm 1958, thân CSVN), Hu Nim, Von Verth.
Vì vậy, Keo Meas bị lãnh án tử hình năm 1976, mở đầu một giai đoạn cắt
đứt mọi quan hệ với Việt Nam một cách sâu rộng và công khai. Sau khi Keo
Meas bị thanh toán, tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ gồm Pol Pot, Noun Chea,
Son Sen càng tin chắc là Việt Nam đang mưu toan phá hoại đảng nhằm thôn
tính Campuchia để thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG, nhất là sau khi Việt
Nam ký thông cáo thân hữu với Lào vào tháng 12/ 1976.
Sau khi Mao Trạch Đông chết vào ngày 9/
9/ 1976, các nhà lãnh đạo mới của Bắc Kinh tái xác nhận sự ủng hộ triệt
để Đảng CS Campuchia, Pol Pot mới ra lệnh phát động chiến tranh biên
giới trên qui mô rộng lớn hơn.
II. LIÊN XÔ & TRUNG CỘNG ĐỐI ĐẦU TRÊN ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC ĐÔNG DƯƠNG:
LIÊN XÔ:
Với ý đồ bao vây Trung Cộng và suy yếu
thế lực của Hoa Kỳ tại Châu Á – Thái Bình Dương, vào tháng 6 năm 1969,
LEONID BREZHNEV đề nghị với một số quốc gia từ Trung Đông đến Nhật Bản
để hình thành một tổ chức an ninh chung, bảo vệ hòa bình trong khu vực.
Riêng ở Đông Dương, mục tiêu chiến lược của Liên Xô là hất ảnh hưởng của
Hoa Kỳ và Trung Cộng ra khỏi Biển Đông nói chung và Đông Dương nói
riêng, nhằm kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược để bành
trướng lãnh thổ Đế Quốc Xô Viết và hổ trợ cho các đảng CS Đông Dương vào
trong quỷ đạo của Liên Xô bằng cách viện trợ quân sự, kinh tế.
Sau ngày CSBV cưỡng chiếm MNVN, Lê Duẩn
đưa nước VNCS vào vòng quỷ đạo của Liên Xô chống Trung Cộng. Liên Xô
giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VNCS tài khóa 1976 và 3 tỷ mỷ kim
cho kế hoạch ngũ niên 1976 – 1980. Trong lúc đó, Bắc Kinh chỉ viện trợ
cho Hà Nội 200 triệu mỹ kim tượng trưng và cắt đứt ngân khoảng mới cho
niên khóa 1977.
TRUNG CỘNG:
Sau ngày 30/ 4/ 1975, sự sụp đổ của
chánh phủ VNCH và sự rút lui của quân đội Mỹ đã tạo nên một khoảng trống
quyền lực tại vùng Đông Nam Á khiến Trung Cộng càng quan tâm đến tình
hình an ninh trong vùng. Bị áp lực nặng nề của Liên xô ở biên giới phía
Bắc, Trung Cộng không bao giờ muốn có một nước VNCS có khuynh hướng thân
Liên Xô ở biên giới phía Nam, nhất là VNCS còn có âm mưu, toan thống
trị toàn cõi Đông Dương để trở nên một thế lực quân sự hùng mạnh.
NGÀY 27 THÁNG 9 NĂM 1976: tại diễn đàn
LHQ, Ngoại trưởng Trung Cộng là Kiều Quán Hoa một mặt tố Liên Xô muốn
thay thế Hoa Kỳ khống chế Biển Đông và một mặt khác cảnh báo các quốc
gia Đông Nam Á chớ dại “đón cọp vào ngã sau, trong khi vừa đuổi được chó
sói ra cửa trước”.
Trước đó, tháng 9 năm 1975, nhân dịp
Quốc Khánh của VNCS là dịp Trung Cộng cử tướng Trần Ích Liên, Ủy viên
BCT và Tư lệnh Quân Khu Bắc Kinh làm trưởng phái đoàn, đồng thời mang ý
nghĩa chính trị đặc biệt vì tướng Trần Ích Liên đã chỉ huy QĐND Trung
Cộng đánh nhau với quân đội Liên Xô ở biên giới vào năm 1969. Trên đường
đến Hà Nội, tướng Liên ghé thăm nhà máy gang thép Thái Nguyên do Trung
Cộng giúp xây dựng. Tại đây, tướng Liên đọc diễn văn kêu gọi đấu tranh
chống “Chủ nghĩa Bá Quyền” ám chỉ Liên Xô. Nhưng, bài diễn văn bị đục bỏ
trên báo Đảng và đài phát thanh VN. Đài phát thanh Moscow công kích
hành động của tên tướng nầy và gọi đó là hành động gây hấn với Liên Xô.
VIỆT NAM:
CUỐI THÁNG 9 NĂM 1975: Lê Duẩn và Lê
Thanh Nghị, Chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước sang thăm Bắc Kinh xin
viện trợ. Trong buổi tiếp tân, Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình đề cập đến
“Chủ nghĩa bá quyền” và ám chỉ rằng Việt Nam nên liên kết với Trung Cộng
để chống lại Liên Xô. Trong bài diễn văn đáp từ, Lê Duẫn đã không đề
cập đến “chủ nghĩa bá quyền”. Sự gián tiếp từ chối không liên kết với
Trung Cộng chống Liên Xô đưa đến kết quả là Trung Cộng từ chối viện trợ
cho VNCS.
Một tháng sau, Lê Duẩn sang Liên Xô. Tại
đây, Lê Duẩn ký với Liên Xô một thông cáo chung trong đó Việt Nam nhất
trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại. Hà Nội mong muốn được Liên Xô
thu nhận vào COMECON, HỘI ĐỒNG KINH TẾ HỖ TƯƠNG CỘNG SẢN nên Lê Duẩn đi
theo con đường Liên Xô chống Trung Cộng. Đối với Trung Cộng, Việt Nam
dứt khoát đứng trong hàng ngũ đối lập với Trung Cộng.
Tưởng cũng nên nhắc lại:
CUỐI NĂM 1976: khi Đảng Lao Động Việt
Nam nhóm Đại Hội Lần thứ IV tại Hà Nội dưới sự giám sát của lý thuyết
gia MIKHAI A. SUSLOV, Trưởng phái đoàn Xô Viết, thì đa số ủy viên trong
BCT/TƯ/Đảng CSVN đã chuyển hướng, nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư
Khoa. Ngay cả Trường Chinh củng tỏ ra ôn hòa. Riêng một mình Hoàng văn
Hoang trung thành với Bắc Kinh, bị khai trừ phải trốn sang Tàu và lãnh
án tử hình khiếm diện. Từ đó, VNCS ý thức được vị thế đối lập của mình
với Trung Cộng và lúc nào cũng đề cao cảnh giác mối đe dọa của anh chàng
láng giềng khổng lồ phương Bắc nên tập đoàn lãnh đạo Đảng CSVN không
thể đứng yên để Campuchia gây rối loạn biên giới Tây Nam với sự yểm trợ
quân sự hùng hậu của Bắc Kinh.
NGÀY 2 THÁNG 12 NĂM 1976: để củng cố an
ninh sườn biên giới Tây Bắc, Lê Duẩn sang Vạn Tượng cùng với KAYSON
PHOMVIHANE, Bí Thư Đảng Cộng Sản Lào, ký một thông báo chung “Tăng cường
tình đoàn kết gắn bó giữa Việt – Campuchia và Lào” đây là bước đầu tiên
trong kế hoạch thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG. Thông cáo chung giữa VN
và Lào đã gián tiếp hợp thức hóa sự hiện diện khoảng 40.000 bộ đội VN
trên lãnh thổ Lào nhằm cô lập đường tiếp vận giữa Trung Cộng và
Campuchia.
NGÀY 18 THÁNG 7 NĂM 1977: Sau khi tham
khảo với Mạc Tư Khoa, một phái đoàn Đảng và chánh phủ CSVN do Lê Duẩn và
Phạm văn Đồng lại sang Vạn Tượng cùng Chủ tịch Đảng Souphanouvong và
Thủ tướng Kayson Phomvihan ký hiệp ước thân hữu, trong đó có đoạn: “Hợp
tác chặt chẽ để tăng cường khả năng phòng thủ và bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của hai nước”. Hiệp ước nầy chỉ là hình thức
và công khai hóa sự hiện diện của các sư đoàn 325, 304, 968…của CSVN.
CAMPUCHIA:
Còn Campuchia đã có quá nhiều kinh
nghiệm lịch sử với Việt Nam đã ăn sâu vào trong tiềm thức của những lãnh
tụ Khmer Đỏ, nhất là Pol Pot rất nhạy cảm về vấn đề an ninh và sự toàn
vẹn lãnh thổ. Vì vậy, quân Khmer Đỏ vừa vào được Nam Vang, chiếm được
chánh quyền, Pol Pot đã đưa ra một chỉ thị 8 diểm trong đó phải trục
xuất gần 200 ngàn Việt Kiều ở Campuchia bị cưỡng bách hồi hương và tăng
cường quân đội ở biên giới Miên – Việt.
Vì vậy, đối với Campuchia, khi VN đã
cùng Lào ký những hiệp ước thân hữu, Việt Nam đã tiến thêm một bước nữa
trong việc thi hành chiến lược dài hạn của điện Kremlin là THÀNH LẬP
LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng vũ lực nếu cần… Ieng Sary đã ngầm chỉ trích
Lào đã để bộ đội VN trú đóng trên lãnh thổ Lào tạo nên mối đe dọa cho
Campuchia từ phía Bắc. Pol Pot càng thấy cần phải liên minh chặt chẽ với
Trung cộng và ra lệnh cho quân đội của các Quân Khu dọc theo biên giới
Miên – Việt sẵn sàng “phản công tự vệ” chống “XÂM LĂNG CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT
NAM”.
Sau cái chết của Mao Trạch Đông, phe quá
khích “Tứ Nhân Bang” bị thanh toán, phe ôn hòa trở lại nắm chánh quyền.
Sau 4 tháng chấn chỉnh nội bộ. Bắc Kinh tái khẳng định đường lối ngoại
giao LIÊN XÔ LÀ KẺ THÙ SỐ 1, tiếp tục ủng hộ đường lối đối ngoại CHỐNG
VIỆT NAM quyết liệt của Campuchia.
*
THÁNG 10 NĂM 1977: Như để cảnh cáo Trung
Cộng, Việt Nam công khai loan báo cuộc viếng thăm của phái đoàn quân sự
Liên Xô do tướng YEPISHEV cầm đầu. Cùng thời gian đó, Trung Cộng bắt
đầu ồ ạt chở chiến cụ từ máy truyền tin, vũ khí cá nhân cho đến đại bác
130 ly tới cảng Komphong Som trang bị cho quân đội Campuchia chuẩn bị
chống cuộc CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC của Việt Nam…
NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1978: Sau khi Liên
Xô được phép lập căn cứ quân sự tại vịnh Cam Ranh và Đà Nẵng, Liên Xô và
Việt Nam ký “HIỆP ƯỚC THÂN HỮU VÀ HỢP TÁC” . Trong đó, điều VI đặc biệt
có ghi rằng, đôi bên sẽ áp dụng các biện pháp thích nghi để bảo vệ hòa
bình và an ninh, nếu một trong hai nước bị ĐE DỌA HAY TẤN CÔNG và bật
đèn xanh cho Hà Nội tiến hành cuộc chiến tranh “XÂM LƯỢC CAMPUCHIA” để
thực hiện kế hoạch thành lập “LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG” và đặt dưới quyền
điều khiển của Hà Nội.
Theo sự tiết lộ của HOÀNG TÙNG, Tổng
Biên Tập báo Nhân Dân và Ủy Viên Chính trị đã tiết lộ tham vọng của Hà
Nội đã có ý đồ chiếm Campuchia từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Đại
hội IV Đảng Lao Động để đổi danh xưng thành ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM và
chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG
bằng cách thuyết phục và nếu cần ÁP LỰC QUÂN SỰ để Campuchia và Lào gia
nhập. Ủy Ban Trung Ương Đảng quyết định xóa chế độ Pol Pot qua từng giai
đoạn:
• Tố cáo đường lối khát máu của Khmer Đỏ.
• Xúi dân Miên nổi loạn.
• Tận dụng lá bài Xô Viết.
VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM 1977: Với sự
đồng ý và hỗ trợ vũ khí cùng với các phương tiện chiến tranh của Mạc Tư
Khoa, Hà Nội điều động 100.000 quân ồ ạt vượt biên giới tràn ngập
Campuchia và toàn thắng trong vòng 2 tuần lễ. Nhưng, bị Quốc Tế tố cáo
và lên án XÂM LƯỢC Campuchia, Hà Nội buộc phải rút quân về nước vào ngày
6 tháng 1 năm 1978.
Đó là lý do tại sao Hà Nội tạo nên tấn
thảm kịch cực kỳ dã man, tàn nhẫn và ghê tởm: Tắm máu 3.157 đồng bào
PGHH vô tội tại làng Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978, rồi đổ tội cho Khmer
Đỏ gây ra, lấy lý do tự vệ để xâm lăng Campuchia (như tôi đã trình bày ở
Phần I).
NGÀY 15 THÁNG 6 NĂM 1978: Hà Nội bắt
đầu “CHIẾN DỊCH XÂM LĂNG”. Các sư đoàn 7, 9 và 341 cùng các yểm trợ lại
tràn qua biên giới Việt Nam – Campuchia lấn chiếm lãnh thổ Campuchia vào
sâu trong nội địa từ 10 đến 40 cây số trong đó quận lỵ Prasaut. Lúc đó
là mùa mưa, Khmer Đỏ tăng cường nhiều sư đoàn từ các Quân Khu khác ra
toàn tuyến biên giới phản công… bộ đội Việt Nam được học tập để chuẩn bị
cho cuộc chiến tranh xâm lược và chiếm đóng Campuchia lâu dài. Bộ máy
chính trị và tuyên truyền lại nỗ lực tăng năng xuất chống BỌN BÁ QUYỀN
PHẢN ĐỘNG TRUNG QUỐC và BÈ LŨ POL POT, IENG SARY. Về sau, CSVN bị cô lập
về ngoại giao, Hà Nội lại chống “Đế quốc Mỹ”, “bọn quân phiệt Thái Lan”
và những “thế lực phản động Quốc tế” là những quốc gia đã kịch liệt lên
án hành động xâm lăng Campuchia của Việt Nam.
CUỐI MÙA MƯA NĂM 1978: tại mặt trận phía
Bắc Tây Ninh do BTL/ QK VII phụ trách điều động Sư đoàn 303 cơ hữu ở
Phước Long, phối hợp với SĐ 5 và Sư Đoàn 302 chiếm đóng thị xã Snoul
dùng làm địa điểm ra mắt “Mặt Trận Đoàn Kết Dân Tộc Cứu Nước Campuchia”
và Heng Samrin được cử làm chủ tịch Mặt Trận kiêm Tư lệnh Lữ đoàn 778.
ĐÊM GIÁNG SINH NĂM 1978: Bộ đội VN tràn qua lãnh thổ Campuchia bằng 4 hướng tấn công:
• HƯỚNG THỨ 1: xuất phát từ biên
giới cao nguyên, do QĐ III phụ trách gồm Sư đoàn 10, 320, 31 do tướng
Kim Tuấn chỉ huy, đánh dọc theo quốc lộ 19 & 14 tiến chiếm Stung
Treng và lãnh thổ Đông – Bắc Campuchia, đến ngày 3/ 1/ 1979 thì chiếm
được Stung Treng.
• HƯỚNG THỨ 2: xuất phát từ phía
Bắc tỉnh Tây Ninh do QK VII đảm nhiệm gồm sư đoàn 303, 302, 5 được tăng
phái lữ đoàn 12 thiết giáp, trung đoàn 26 thiết giáp, trung đoàn 262
pháo binh và những trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé,
tiến quân dọc theo quốc lộ 13 & quốc lộ 7 tiến đánh Kratié và
Kompong Cham.
• HƯỚNG THỨ 3: xuất phát từ phía
Tây Nam tỉnh Tây Ninh do QĐ IV đãm trách gồm các sư đoàn 2, 7, 9, 341
cùng lữ đoàn 22 thiết giáp, lữ đoàn 24 pháo binh, lữ đoàn 25 công binh,
tiến theo quốc lộ 1 về hường Tây, đánh chiếm bến phà Neak Luong, con
đường chiến lược gần nhất tới Nam Vang.
• HƯỚNG THỨ 4: xuất phát từ phía
Nam, tỉnh An Giang và Hà Tiên do QK IX đãm nhiệm, ngoài những đơn vị cơ
hữu: sư đoàn 4, 8, 330…còn được tăng phái binh đoàn Hương Giang do
Nguyễn Hữu An làm Tư Lệnh và Lê Linh làm chính ủy gồm: sư đoàn 304, 306,
và 325 chia làm 2 mũi tấn công:
- Mũi thứ nhất: do các sư đoàn 4
& 330 cùng với hai trung đoàn chủ lực tỉnh Hậu Giang & Đồng Tháp
tiến quân dọc theo quốc lộ 2 tiến về hướng Bắc đánh chiếm Nam Vang.
- Mũi thứ hai: gồm sư đoàn 325 và
sư đoàn 8 tiến dọc theo duyên hải đánh chiếm hải cảng Kompong Som. Còn
sư đoàn 304 làm lực lượng trừ bị cho QK IX.
Trung Cộng thay vì gởi quân qua
Campuchia giúp Khmer Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là “mưu đồ
bành trướng”, Đặng Tiểu Bình quyết định đánh thẳng vào Việt Nam bằng bộ
binh trong một thời gian giới hạn mà mục tiêu là vùng biên gới Trung –
Việt. Đặng Tiểu Bình muốn dạy cho tập đoàn lãnh tụ Bắc Bộ Phủ một bài
học quân sự đích đáng. Theo học giả King C. Chen gọi là “Chiến tranh
trừng phạt” (The Punitive War). Hành quân đánh VN vào năm 1979 được
chuẩn bị chu đáo và không hấp tấp như trường hợp Trung Cộng tham chiến ở
Triều Tiên.
Nhờ sự giúp đở vũ khí, đạn dược của
Trung Cộng mà một chế độ tàn bạo như Khmer Đỏ vẫn còn quy tụ được những
người Campuchia yêu nước. Họ không còn con đường nào khác để lựa chọn mà
phải đứng vào hàng ngũ Khmer Đỏ chống quân đội Việt Nam MỘT ĐẠO QUÂN
THỔ PHỈ và đây là bằng chứng:
NGÀY 7 THÁNG 1 NĂM 1979: toàn bộ lực
lượng QĐ 4 với xe thiết giáp mở đường, rầm rộ vượt sông, từ Neak Luong
tiến về Nam Vang bằng xe Molotova. Tới 11 giờ sáng ngày 7/ 1/ 1979 thì
đơn vị đầu tiên vào tới Nam Vang, lúc đó là một thành phố gần như bỏ
ngỏ. Trong suốt thời gian chiếm đóng, bộ đội CSVN tha hồ vơ vét chiến
lợi phẩm, cướp giật tài sản của nhân dân Campuchia, tất cả những gì mà
chúng có thể cướp được. Dân chúng MNVN đã có quá nhiều kinh nghiệm khi
quân CSBV tiến vào thủ đô Sài Gòn vào sáng ngày 30/ 4/ 1975. Hỏi tướng
Lê Đức Anh xem đã cướp được bao nhiêu tấn vàng, lùa được bao nhiêu trâu
bò, cướp được bao nhiêu tài sản của nhân dân Campuchia?
Tin quân đội VNCS đang gây rối loạn
trong thủ đô Nam Vang, Pol Pot, Noun Chia, Khieu Samphan, Son Sen rút về
mật khu. Bốn ngày sau, Ieng Sary mới tới được biên giới Thái Lan bằng
đường bộ. Tại đây, Ieng Sary lên máy bay của không quân Thái Lan bay tới
Bangkok và từ đó sang Bắc Kinh.
NGÀY 8 THÁNG 1 NĂM 1979: Đài Phát thanh
Nam Vang, loan báo Nam Vang đã được giải phóng bởi những “Lực lượng Cách
mạng và Nhân dân Campuchia”. Một Hội Đồng Cách Mạng được thành lập do
HENG SAMRIN là chủ tịch. Những ủy viên thường vụ của Đảng gồm Hun Sen,
Bou Thang, Chas Kiri, Heng Samin và Chea Soth. Khoảng 10 ngày sau, Hội
Đồng nầy do Hà Nội dựng nên ký một Hiệp Ước với VN nhằm hợp thức hóa sự
hiện diện của quân viễn chinh CSVN trên xứ Chùa Tháp.
NGÀY 13 THÁNG 1 NĂM 1979: Trong cuộc
tiếp xúc với Ieng Sary ở Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình trách cứ Khmer Đỏ đã
đẩy chiến dịch thanh lọc hàng ngũ quá trớn và khuyến cáo Khmer Đỏ phải
trọng dụng lá bài Sihanouk, tạm thời che dấu bản chất “Cộng Sản”, phải
bắt đầu đề cao lòng ái quốc và chủ nghĩa Quốc Gia. Và bí mật cử Geng
Biao, Ủy viên Bộ Chánh Trị, cùng Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long
sang Bangkok hội đàm với Thủ Tướng Kriangsak tại căn cứ không quân
Utapao. Sau khi VNCS liên minh với Liên Xô và XÂM LĂNG CAMPUCHIA, Thái
Lan không còn giữ thái độ trung lập được nữa, TT Kriangsak đồng ý để
Trung Cộng dùng lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ để duy trì cuộc
chiến chống xâm lăng.
Trong khi đó, tại New York, ông hoàng
Sihanouk, đại diện Campuchia đọc diễn văn tại Đại Hội Đồng LHQ thật xúc
động. Ông lên án cả HÀNH ĐỘNG XÂM LĂNG CỦA VN lẫn chế độ bạo tàn Pol Pot
và yêu cầu LHQ ra nghị quyết buộc VIỆT NAM PHẢI RÚT QUÂN, nhưng nghị
quyết nầy bị Liên Xô phủ quyết.
Trở lại chiến trường Camphuchia, trận
đánh tại thị xã LEACH, nằm trên quốc lộ số 5 là con đường từ Nam Vang đi
Battambang, cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km, là trận đánh quyết
định, quy mô lớn cuối cùng trên đất Campuchia kéo dài trên một tháng.
• Lực lượng tham chiến của quân
đội VNCS gồm: sư đoàn 341, 9, 31 tấn công từ 4 hướng: Hướng Bắc do SĐ
341 đãm trách. Hướng Đông do SĐ 9 từ căn cứ Amleng mới chiếm được tiến
đánh Leach. Hướng Nam do Quân khu IX phụ trách được tàu đổ bộ chở đến
tỉnh Kolong tiến đánh mặt phái Nam. Hướng Tây do SĐ 31 thuộc QĐ III, từ
biên giới Thái Lan tiến quân theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của
Leach.
• Ngay sau khi Nam Vang thất thủ,
Khmer Đỏ biến Leach thành căn cứ địa phản công. Phần lớn những lực lượng
còn lại được tập trung về đây gồm nhiều sư đoàn 264, 210, 104, 502,
260, 460. Trên thực tế, mỗi sư đoàn chưa tới 1.000 quân, chỉ có vài khẩu
pháo 105 ly và xe thiết giáp.
Lực lượng hai bên tham chiến đều bị tổn
thất nặng. Cuối cùng, vì hỏa lực kém, quân số ít, không được bổ sung
quân số nên căn cứ Leach của Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 CSVN tràn ngập vào
ngày 29 tháng 4 năm 1979. Sau khi căn cứ Leach bị thất thủ, các đơn vị
còn lại của Khmer Đỏ rút về mật khu ở PAILIN và TAXANG sát biên giới
Thái Lan, còn một số khác được phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục
du kích chiến, chống sự chiếm đóng của bộ đội VNCS xâm lược. Còn các đơn
vị CSVN bắt đầu tham gia các cuộc hành quân bình định vì thái độ hống
hách, miệt thị dân tộc bản xứ của các cán bộ lãnh đạo chính trị và quân
sự của CSVN ở Campuchia làm nhân dân Miên phản khảng quyết liệt.
NGÀY 18 THÁNG 2 NĂM 1979: Việt Nam và
Campuchia ký Hiệp Uốc Thân Hữu & Hợp Tác có giá trị 25 năm, công
khai hóa việc quân đội VNCS chiếm đóng Cộng Hòa Nhân Dân Campuchia và
chính thức đặt xứ nầy dưới ô dù quân sự của Hà Nội. Trước đó hai năm,
ngày 18/ 7/ 1977, Lào và VNCS cũng đã ký một Hiệp ước tương tự. Dưới sự
chỉ đạo của Mạc Tư Khoa, Hà Hội đã thực hiện xong LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG
bằng vũ lực.
Với khoảng 30.000 quân mà lực lượng
Khmer Đỏ vẫn còn khả năng tiếp tục cuộc chiến tranh du kích, tiêu hao
lực lượng vũ trang CSVN bằng cách phục kích, đột kích, đặt mìn bẫy, gài
chông, pháo kích, bắn sẻ… gây tổn thất nặng nề về nhân mạng cho bộ đội
viễn chinh CSVN. Bị sa lầy trên chiến trường Campuchia, tinh thần cán
binh CSVN ngày càng suy sụp trầm trọng; mặc dù, tình trạng kinh tế ở
trong nước vô cùng tồi tệ, chánh phủ CSVN phải duy trì một đạo quân viễn
chinh chiếm đóng Campuchia lên tới 200.000 quân. Cuối cùng, bị áp lực
ngoại giao quốc tế cô lập và áp lực ở trong nước, CSVN chỉ có khả năng
duy trì sự chiếm đóng Camphuchia trong vòng 10 năm buộc phải nuốt nhục
rút quân.
Trong suốt 10 năm đó, đã có hơn 50.000
thanh niên Việt Nam hy sinh và hàng chục ngàn bị tàn phế mà đa số là con
em của quân, cán, chính VNCH và MTGPMNVN. Hà Nội đã dùng chiêu “Tá đao
sát nhân” vô cùng thâm độc, mượn tay Khmer Đỏ tiêu diệt mầm mống đối
kháng chế độ CHXHCN Việt Nam sau nầy.
Trong cuộc chiến tranh tự vệ của Khmer
Đỏ và nhân dân Campuchia chống bộ đội viễn chinh Việt Nam XÂM LƯỢC của
Hà Nội là cuộc chiến tranh có chính nghĩa. Theo tạp chí Tàu cộng GENG
BIAO, có khoảng 1.500 Hoa Kiều bị kẹt lại ở Campuchia và phần đông đã
tình nguyện gia nhập hàng ngũ Khmer Đỏ. Lúc đó, Hun Sen đang giữ chức vụ
Trung Đoàn Trưởng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông, đào ngũ trước địch
quân, bỏ trốn sang VN vào cuối năm 1977 và sau nầy trở thành Thủ Tướng
bán đứng Campuchia cho Trung Cộng.
Không riêng gì Pol Pot, lãnh tụ Khmer
Đỏ, mà tất cả các lãnh tụ của các nước theo chủ nghĩa Cộng Sản như
Lenine, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh…là những
tên lãnh tụ khát máu, giết dân nhiều nhất vì thú tính hơn là vì nhu yếu
chính trị. Một nghi vấn lịch sử, Hồ Chí Minh có phải là người Việt Nam
đâu mà thương dân, yêu nước? Nông Đức Mạnh, đứa con rơi của họ Hồ, đã
thú nhận mình là người gốc VIỆT GỐC ZHUANG (Hẹ). Nếu không phải CẨU PHỤ
SANH CẨU TỬ thì sinh ra giống thú gì?
Theo sử gia STÉPHANE COURTOIS: Các nước
theo chế độ Cộng Sản đã giết trên 100 triệu người, so với 25 triệu người
do Đức Quốc Xã gây ra:
• LIÊN XÔ: giết 20 triệu dân Nga.
• TRUNG QUỐC: giết 65 triệu dân Tàu.
• BẮC HÀN: giết 2 triệu dân Hàn.
• VIỆT MINH – CỘNG SẢN: giết 1 triệu dân Việt (trên thực tế, con số nầy phải nhân lên gắp đôi.)
• CAMPUCHIA: giết 2 triệu dân Miên
• ĐÔNG ÂU: giết 1 triệu người.
• PHI CHÂU: giết 1, 7 triệu người.
III. BẰNG CHỨNG CSVN THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4/1978.
Trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của
Tôn – Tử (S Tzu, The Art of War), một binh thuyết gia nổi tiếng vào
thời Chiến Quốc bên Trung Hoa nói rằng:
KHI TẤN CÔNG ĐỊCH:
• Khi lực lượng ta đông gắp 5 lần quân địch.
• Chia cắt địch nếu lực lượng ta chỉ đông gắp đôi địch.
• Có thể đánh nếu lực lượng hai bên ngang nhau.
• Phải rút lui nếu lực lượng địch đông hơn ta.
KHI BỊ ĐỊCH TẤN CÔNG:
• Tử chiến.
• Hoãn binh.
• Đầu hàng.
• Lui Binh.
Địa danh An Lộc là trận đánh điển hình.
Từ tháng 4 đến giữa tháng 6 năm 1972, lực lượng CSBV tại chiến trường
Bình Long với khoảng 35.000 quân, hơn 100 chiến xa, 100 khẩu đại bác 130
ly, 155 ly và hỏa tiễn 122 ly, tương đương với số quân mà cộng quân đã
tung vào trận chiến Điện Biên Phủ từ ngày 13/3/1954 đến 7/5/1954. Lúc
bây giờ, tại thị xã An Lộc,Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB kiêm
Tư lệnh chiến trường Bình Long, cùng với Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh
Phó SĐ 5/BB, Đại Tá Trần văn Nhựt, Tỉnh trưởng kiêm TKT Bình Long, Đại
tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn I Dù cùng với các đơn vị
trưởng trực thuộc, tái phối trí lực lượng chịu trách nhiệm phòng thủ
trong và ngoài thị xã An Lộc. Mặc dù quân CSBV đông gắp 3,4 lần quân trú
phòng. Nhưng, sau hơn 60 ngày bị vây hãm, quân CSBV mở những đợt tấn
công ác liệt bằng bộ binh, xe tăng và những trận mưa pháo khốc liệt. Mức
độ pháo kích liên tục của quân CSBV từ 600 đến 1.000 một ngày. Có ngày,
chỉ trong 1 giờ, thị xã An Lộc phải gồng mình hứng từ 200 đến 300 quả
đạn pháo của Cộng quân.
Trong trận An Lộc lịch sử nầy, Tướng Lê
Văn Hưng chỉ huy toàn bộ lực lượng phòng thủ, tử chiến với quân CSBV,
ông chiến đấu như một dũng sĩ nêu cao truyền thống anh dũng của QLVNCH.
Trong suốt thời gian 68 ngày bị địch quân vây hãm trong hỏa ngục máu
lửa, thị xã An Lộc vẫn đứng vững nhờ quyết tâm tử thủ của Tướng Lê Văn
Hưng với câu nói đi vào lịch sử: “NGÀY NÀO TÔI CÒN, AN LỘC CÒN!” ông đã
nâng cao tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của lực lượng phòng thủ
An Lộc. Và Tướng Lê Văn Hưng được đồng bào MNVN vinh danh “ANH HÙNG AN
LỘC”.
Tưởng cũng nên nhắc lại:
ĐẦU THÁNG GIÊNG NĂM 1978: Tướng TRẦN
NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của Tướng Lê Đức Anh. Sau khi tướng Lê Đức
Anh thay tướng Trần văn Trà thì tướng Trần Nghiêm được đề bạt làm TƯ
LỆNH QUÂN KHU IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu,
gồm: SƯ ĐOÀN 4, 8 và 330 cùng với hai trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh
HẬU GIANG và ĐỒNG THÁP.
ĐẦU THÁNG 3 NĂM 1978: Tình hình biên
giới phía Tây – Nam hoàn toàn yên tỉnh. Tướng Trần Nghiêm phối trí 3 sư
đoàn cơ hữu 4, 8 và 330 cùng với trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và
Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng phủ diện địa vùng biên gới Tây – Nam. Riêng
sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ bảo vệ an ninh lãnh
thổ huyện Tri Tôn. Tổng cộng quân số ước tính tối thiểu trên 30.000
quân, đó là chưa kể lực lượng dân quân tỉnh An Giang.
Nếu như Pol Pot muốn tấn công làng BA
CHÚC, tỉnh An giang vào tháng 4 năm 1978. Pol Pot phải tập trung quân
Khmer Đỏ tối thiểu ĐÔNG GẮP ĐÔI lực lượng vũ trang CSVN chịu trách nhiệm
phòng thủ diện địa tỉnh An Giang, quân Khmer Đỏ mới có khả năng chia
cắt ba sư đoàn 3, 8, 330 và hai trung đoàn Hậu Giang và Đồng Tháp, đây
sẽ một trận chiến huyết lưu mãn địa, chồng chất thây người cho cả hai
phía lực lượng Việt Nam và Khmer Đỏ.
Pol Pot chưa đến độ điên rồ tung 60.000
quân làm một cuộc phiêu lưu quân sự, vượt qua chướng ngại vật thiên
nhiên là kinh Vĩnh Tế để tấn công, tiêu diệt dân làng Ba Chúc, một địa
bàn hoàn toàn không có lợi ích gì về mặt chiến lược quân sự cả. Nếu một
trận chiến thực sự xảy ra giữa lực lượng VNCS và Khmer Đỏ thì với trên
100.000 quân quần thảo với nhau tại làng Ba Chúc, một diện tích nhỏ hẹp
hơn cả thị xã An Lộc mà sau 11 ngày đêm tung hoành ngang dọc, thảm sát
3.157 đồng bào vô tội, rồi quân Khmer Đỏ rút toàn bộ lực lượng biến mất
về phía bên kia biên giới, không để lại dấu vết dù là một tử thi của
lính Khmer Đỏ. Quả thật, đây là một chuyện không tưởng, trừ phi Pol Pot
có pháp thuật RẢI ĐẬU THÀNH BINH giống như những nhân vật thần thoại
trong truyện PHONG THẦN và trận tấn công, thảm sát dân làng Ba Chúc đáng
được ghi vào THE GUINNESS WORLD RECORDS lịch sử chiến tranh Thế giới vì
bản chất kinh dị của nó là cả hai phía ĐỊCH và BẠN không bên nào tổn
thất về nhân mạng mà chỉ có những xác chết không đầu của những thường
dân vô tội.
IV. KẾT LUẬN:
Để làm sáng tỏ vấn đề nầy, chúng tôi đề
nghị Vn EXPRESS sau khi phỏng vấn Hun Sen, nhà “PHỊA SỬ” vĩ đại của
Campuchia, nên mở ngay một cuộc phỏng vấn tướng TRẦN NGHIÊM, nguyên Tư
lệnh QUÂN KHU IX (nhớ dẫn phóng viên Tá Lâm đi cùng). Tôi xin đặt 5 câu
hỏi ngắn gọn với tướng Trần Nghiêm như sau:
CÂU HỎI 1: Lúc đại quân
Khmer Đỏ vượt kinh Vĩnh Tế tấn công và tàn sát dân làng Ba Chúc trong
11 ngày đêm, bắt đầu vào ngày nào 14 hay 18 tháng 4 năm 1978? Yêu cầu
giải thích lý do về khoảng thời gian TIỀN HẬU BẤT NHẤT nầy, chính xác là
ngày nào? Có bao nhiêu dân làng bị thảm sát 3.157 hay 3.574 người?
CÂU HỎI 2: Danh hiệu
những Sư đoàn Khmer Đỏ tham gia trận tấn công? Ai làm Tư lệnh những Sư
đoàn Khmer Đỏ nầy? Xin đừng trả lời là tôi không biết, không nghe, không
thấy… vì chỉ cần khai thác một vài tù hàng binh hoặc thương binh Khmer
Đỏ bỏ lại chiến trường là biết ngay.
CÂU HỎI 3: Xuất xứ
1.159 hộp sọ người được trưng bày trong nhà mồ Ba Chúc ở đâu ra? Ai đã
tàn nhẫn chặt đầu các nạn nhân? Quân Khmer Đỏ hay bộ đội thuộc Sư Đoàn
330?
CÂU HỎI 4: Lúc đại quân
Khmer Đỏ ồ ạt vượt biên giới Việt – Campuchia mở cuộc tấn công, thảm
sát dân làng Ba Chúc, tung hoành ngang dọc trong suốt 11 ngày đêm, thì
lúc đó Sư đoàn 4, 8, 330 và 2 trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng
Tháp chịu trách nhiệm phòng thủ, bảo bệ an ninh lãnh thổ phía biên giới
Tây Nam, lúc đó những đơn vị nầy đang làm gì? Ở đâu? Không lẽ, QĐNDVN
anh hùng, tự hào với danh xưng “Thành đồng bảo vệ Tổ Quốc, trở ngại nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng!” Đã từng đánh thắng ba tên đế
quốc sừng sỏ NHẬT – PHÁP- MỸ; không lẽ lại rét quân Khmer Đỏ sợ đến vãi
đái trong quần, trốn chui, trốn nhủi như bầy chuột nhắt, chờ khi quân
Khmer Đỏ rút hết quân về bên kia biên giới, mới dám chường mặt trở lại
làng Ba Chúc, chặt đầu các nạn nhân, rồi chôn dấu một nơi nào đó, chờ
đến 2 năm sau mới đem những hộp sọ của nạn nhân trưng bày trong nhà mồ
Ba Chúc để đánh dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pon Pot? Hèn như
vậy sao?
CÂU HỎI 5: Tướng Trần
Nghiêm với tư cách là Tư Lệnh Quân Khu IX là người chịu trách nhiệm phối
trí lực lượng cơ hữu kể trên để bảo vệ an ninh lãnh thổ vùng biên giới
phía Tây Nam, lại có hành động tắc trách và vô trách nhiệm đến nỗi thụ
động, không hề có phản ứng gì cả. Tướng Trần Nghiêm án binh bất động vì
đã biết trước là bộ đội Sư đoàn 330 ngụy trang thành quân Khmer Đỏ để
tàn sát dân làng Ba Chúc, đúng không?
Nếu tướng Trần Nghiêm không tiện trả lời
5 câu hỏi của tôi vừa nêu trên trong lúc nầy thì khi đứng trước vành
móng ngựa trong PHIÊN TÒA LIÊN HIỆP QUỐC ở SÀI GÒN để xét xử những tội
phạm đã có hành động thảm sát dân làng Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 thì
cựu tướng Trần Nghiêm và những tên cựu Tư lệnh sư đoàn 4, 8 và 330 cũng
sẽ phải trả lời những câu hỏi nầy. Tin tôi đi, ngày đó sẽ không còn xa
đâu…
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
NGÀY QUỐC HẬN
Monday, April 29, 2013
VOA * NGÀY QUỐC HẬN
38 năm sau ngày 30 tháng 4
HOUSTON, TEXAS — Đối với người Việt Nam,
30 Tháng Tư là một ngày có lẽ không bao giờ quên được. Với những người
yêu chuộng tự do, dù ở trong nước hay hải ngoại, Tháng Tư 1975 vẫn được
nhắc đến là "Tháng Tư Đen". Trong khi nhà nước Cộng Sản coi ngày 30
tháng Tư là "ngày mừng chiến thắng" thì những người yêu chuộng tự do lại
coi đây là "Ngày Quốc Hận". Houston là một nơi có nhiều người Việt tị
nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ và năm nào người Việt cũng tổ chức kỷ niệm Ngày
30 tháng Tư rất trọng thể.
Tối ngày 28 tháng Tư năm nay, nhiều người Việt đến tham dự "Ngày Quốc Hận' trong khu Tượng Đài Chiến Sĩ vùng Tây Nam thành phố. Hiện diện trong buổi lễ, còn có các vị dân cử Việt Mỹ như dân biểu tiểu bang Hubert Võ, dân biểu liên bang Al Green, người đại diện cho vùng Houston.
Trong dịp này, dân biểu Hulbert Võ ca ngợi sự kiên trì tranh đấu cho tự do của người Việt hải ngoại:
“Người dân Việt Nam của chúng ta còn phải chịu sự kiềm chế của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, và thưa quí đồng hương, trong 38 năm sự tranh đấu của người Việt chúng ta trên toàn thế giới vẫn không ngừng nghỉ, Chúng ta mặc dù tuổi đời đã cao nhưng mà sự tranh đấu vẫn hăng say…”
Còn dân biểu Al Green nói rằng ông sẽ tiếp tục tranh đấu cho ước nguyện của cộng đồng người Việt tại Houston, là vận động cho các quyền tự do căn bản của con người tại Việt Nam:
"Chúng ta sẽ không ngồi yên cho đến khi nào có tự do phát biểu, tự do tôn giáo và tự do được thể hiện chính mình và chúng ta sẽ vận động cùng với dân chúng Việt Nam. Tôi sẽ tiếp tục làm những gì tôi có thể làm được để chứng tỏ rằng tôi ủng hộ nguyện vọng của người Việt Nam ở thành phố Houston, Texas."
Đối với nhiều người Việt, 30 tháng Tư , còn là ngày cúng giỗ cha anh đã bỏ mình trong cuộc chiến hoặc người thân mất tích trên đường tìm tự do. Với nhiều người khác, dù đã 38 năm qua, ngày này nhắc nhở sự thất vọng đau buồn, vì nhà nước Việt Nam đã mang hận thù giết chết niềm hy vọng của họ vào một nền hòa bình thống nhất đất nước.
Một người tham dự buổi lễ tưởng niệm là Bà Bùi Ngọc Dung chia sẻ nỗi thất vọng của bà sau ngày đất nước thống nhất:
“Sau 30 Tháng Tư thì lại có lo lắng khác, có những người thì lại, kẻ mất người yêu, mất chồng, mất con, rồi lại đi, bảo là đi học tập 10 ngày gì đó, chuẩn bị cơm gạo đi 10 ngày không ngờ đi biền biệt, có người đi mười mấy năm.”
Bà chia sẻ thêm về lý do bà tham dự buổi tưởng niệm "Ngày Quốc Hận":
“Ở đây mình được tự do, mình có thể nói gì mình muốn nói, nhưng mình nghĩ tới những người ở bên quê nhà, nhất là nghe anh Việt Khang, chỉ vì làm 2 bài hát để cho những người trẻ thấy được tâm trạng của anh mà bây giờ coi như là biền biệt không biết ở đâu nữa. Nghĩ tới những người đó thì thực sự mà nói cũng có những cái rất đau lòng. Nhưng mà mình biết làm gì hơn! ”
Ông Tân là một vi cao niên vừa được thân nhân bảo lãnh qua định cự tại Houston mới hơn một năm nay. Ông chia sẻ ước nguyện của những người dân trong nước đang muốn thay đổi nhưng không dám công khai nói ra ước vọng của mình:
"Dân nhu cầu (thay đổi) dữ lắm, không được mà thôi, Dân khi mô họ cũng nói chùng thôi, nói với nhau thôi, chớ không dám nói ra ngoài. Nhưng họ biết độc tài rồi, độc đảng là độc tài đó thôi. Trên là quyền hạn của hắn, dưới là mình. Hắn độc tài một đảng thôi, mình là chịu chết thôi,… Người dân họ cầu lắm, cầu thay đổi cho rồi chứ sau này khổ lắm, con em mình khổ nữa."
Ông chia sẻ thêm về sự lo ngại của ông trước tương lai nô lệ Bắc phương:
“Cái lớp tui hết rồi, trâu già cạm đất thôi, làm gì thì làm thôi, Chứ còn lớp con mình, lớp cháu mình, nô lệ lắm, Trung cộng qua nữa, nó qua nước Việt Nam mình, vây hết, từ Bắc vô Nam, anh có thấy tỉnh Bình Dương không, tỉnh Bình Dương đó, bây giờ treo cờ nó lên hết, cái gì cũng nó hết đó.”
Một đồng hương khác là ông Vương Đại thì cho rằng 38 năm qua nhà nước chưa làm gì cho người dân:
“Thật sự là chánh quyền cộng sản chưa làm gì được hết, chỉ có một ít thành phần kêu là chính quyền cao cấp là hưởng lợi thôi, còn dân chúng ngày càng nghèo đói”
Ông cũng nói thêm rằng, việc sửa đổi Hiến Pháp rất cần thiết cho sự sống còn của dân tộc:
“Chứ còn nếu mà giữ điều 4 thì tôi thấy càng ngày càng lệ thuộc Trung Cộng”
Trong khi đó, cô Vân Khanh thì ước ao mọi người Việt hải ngoại đoàn kết để xây dựng lại quê hương khi thể chế thay đổi:
“Cứ hàng năm tới ngày này tôi thấy xúc động, tôi mong muốn làm sao cho người Viêt hải ngoại thuận hòa lại với nhau để cùng đi về xây dựng lại quê hương của mình.”
Ông Nguyễn Văn Tuấn một cựu phi công của VNCH thì cho rằng, sau 38 năm CS cai trị, sự phát triển ngoài mặt của Việt Nam, chỉ là sự hào nhoáng không thật mà thôi:
“Phồn vinh giả tạo. Tôi có thể kết luận như thế, lý do là những thành phố xem chừng như có phát triển nhưng bước ra khỏi thành phố, những thành phố lớn chúng ta sẽ thấy nhan nhản, coi như đầy khắp đồng bào ta đói nghèo khổ, tiền không có mua ăn chứ đừng nói chi là thuốc, trẻ em không có trường để học….”
Với những người Việt hải ngoại, mỗi năm đến ngày 30 Tháng Tư là dịp cho những kỷ niệm đau thương trở về. 38 năm trôi qua, có lẽ hận thù không còn nhưng niềm thất vọng dường như ngày càng sâu xa hơn. Họ luôn hướng về quê mẹ mong mỏi có một sự thay đổi để tự do và nhân quyền được thực thi. Trong khi đó tại quê nhà, tất cả những lời kêu gọi cho một sự đổi mới về Tự Do, Nhân Quyền, Đa Nguyên, Đa Đảng cũng như sự bình đẳng trong xã hội đều bị coi là do những 'thế lực thù nghịch', hay những 'suy thoái chính trị' cần được 'xử lý', mặc dù người lên tiếng là những người trẻ sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi của xã hội chủ nghĩa. Viễn ảnh quê hương Việt Nam sẽ không còn nữa mà trở thành một tỉnh lỵ của Trung Quốc, ngày một gần kề. Tình trạng này đang làm mọi người đau xót cho thế hệ mai sau.
Dù không phải là một nhà chính trị nhưng lời tâm sự của bà Ngọc Dung có lẽ phản ánh một tâm tình thiết tha cho tổ quốc Việt Nam của con dân đất Việt:
“Tôi cũng tin tưởng và hy vọng một ngày không xa thì Việt Nam mình sẽ thay đổi. Nhưng mà cái trước mắt mình thì tôi phải nói tôi rất là lo sợ. Một ngày nào đó mình trở về Việt Nam thì thấy Việt Nam mình không còn là Việt Nam nữa mà mình vấn bím nói tiếng Tầu, thì không biết như thế nào. Tôi sợ một ngày nào đó không biết mình còn quê hương để về hay không, coi như thế hệ mình thì có thể mình sẽ chết ở đây nhưng mà không biết con cháu mình sau này nó còn biết nó là người Việt Nam nữa hay không!”
Tối ngày 28 tháng Tư năm nay, nhiều người Việt đến tham dự "Ngày Quốc Hận' trong khu Tượng Đài Chiến Sĩ vùng Tây Nam thành phố. Hiện diện trong buổi lễ, còn có các vị dân cử Việt Mỹ như dân biểu tiểu bang Hubert Võ, dân biểu liên bang Al Green, người đại diện cho vùng Houston.
Trong dịp này, dân biểu Hulbert Võ ca ngợi sự kiên trì tranh đấu cho tự do của người Việt hải ngoại:
“Người dân Việt Nam của chúng ta còn phải chịu sự kiềm chế của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, và thưa quí đồng hương, trong 38 năm sự tranh đấu của người Việt chúng ta trên toàn thế giới vẫn không ngừng nghỉ, Chúng ta mặc dù tuổi đời đã cao nhưng mà sự tranh đấu vẫn hăng say…”
Còn dân biểu Al Green nói rằng ông sẽ tiếp tục tranh đấu cho ước nguyện của cộng đồng người Việt tại Houston, là vận động cho các quyền tự do căn bản của con người tại Việt Nam:
"Chúng ta sẽ không ngồi yên cho đến khi nào có tự do phát biểu, tự do tôn giáo và tự do được thể hiện chính mình và chúng ta sẽ vận động cùng với dân chúng Việt Nam. Tôi sẽ tiếp tục làm những gì tôi có thể làm được để chứng tỏ rằng tôi ủng hộ nguyện vọng của người Việt Nam ở thành phố Houston, Texas."
Đối với nhiều người Việt, 30 tháng Tư , còn là ngày cúng giỗ cha anh đã bỏ mình trong cuộc chiến hoặc người thân mất tích trên đường tìm tự do. Với nhiều người khác, dù đã 38 năm qua, ngày này nhắc nhở sự thất vọng đau buồn, vì nhà nước Việt Nam đã mang hận thù giết chết niềm hy vọng của họ vào một nền hòa bình thống nhất đất nước.
Một người tham dự buổi lễ tưởng niệm là Bà Bùi Ngọc Dung chia sẻ nỗi thất vọng của bà sau ngày đất nước thống nhất:
“Sau 30 Tháng Tư thì lại có lo lắng khác, có những người thì lại, kẻ mất người yêu, mất chồng, mất con, rồi lại đi, bảo là đi học tập 10 ngày gì đó, chuẩn bị cơm gạo đi 10 ngày không ngờ đi biền biệt, có người đi mười mấy năm.”
Bà chia sẻ thêm về lý do bà tham dự buổi tưởng niệm "Ngày Quốc Hận":
“Ở đây mình được tự do, mình có thể nói gì mình muốn nói, nhưng mình nghĩ tới những người ở bên quê nhà, nhất là nghe anh Việt Khang, chỉ vì làm 2 bài hát để cho những người trẻ thấy được tâm trạng của anh mà bây giờ coi như là biền biệt không biết ở đâu nữa. Nghĩ tới những người đó thì thực sự mà nói cũng có những cái rất đau lòng. Nhưng mà mình biết làm gì hơn! ”
Ông Tân là một vi cao niên vừa được thân nhân bảo lãnh qua định cự tại Houston mới hơn một năm nay. Ông chia sẻ ước nguyện của những người dân trong nước đang muốn thay đổi nhưng không dám công khai nói ra ước vọng của mình:
"Dân nhu cầu (thay đổi) dữ lắm, không được mà thôi, Dân khi mô họ cũng nói chùng thôi, nói với nhau thôi, chớ không dám nói ra ngoài. Nhưng họ biết độc tài rồi, độc đảng là độc tài đó thôi. Trên là quyền hạn của hắn, dưới là mình. Hắn độc tài một đảng thôi, mình là chịu chết thôi,… Người dân họ cầu lắm, cầu thay đổi cho rồi chứ sau này khổ lắm, con em mình khổ nữa."
Ông chia sẻ thêm về sự lo ngại của ông trước tương lai nô lệ Bắc phương:
“Cái lớp tui hết rồi, trâu già cạm đất thôi, làm gì thì làm thôi, Chứ còn lớp con mình, lớp cháu mình, nô lệ lắm, Trung cộng qua nữa, nó qua nước Việt Nam mình, vây hết, từ Bắc vô Nam, anh có thấy tỉnh Bình Dương không, tỉnh Bình Dương đó, bây giờ treo cờ nó lên hết, cái gì cũng nó hết đó.”
Một đồng hương khác là ông Vương Đại thì cho rằng 38 năm qua nhà nước chưa làm gì cho người dân:
“Thật sự là chánh quyền cộng sản chưa làm gì được hết, chỉ có một ít thành phần kêu là chính quyền cao cấp là hưởng lợi thôi, còn dân chúng ngày càng nghèo đói”
Ông cũng nói thêm rằng, việc sửa đổi Hiến Pháp rất cần thiết cho sự sống còn của dân tộc:
“Chứ còn nếu mà giữ điều 4 thì tôi thấy càng ngày càng lệ thuộc Trung Cộng”
Trong khi đó, cô Vân Khanh thì ước ao mọi người Việt hải ngoại đoàn kết để xây dựng lại quê hương khi thể chế thay đổi:
“Cứ hàng năm tới ngày này tôi thấy xúc động, tôi mong muốn làm sao cho người Viêt hải ngoại thuận hòa lại với nhau để cùng đi về xây dựng lại quê hương của mình.”
Ông Nguyễn Văn Tuấn một cựu phi công của VNCH thì cho rằng, sau 38 năm CS cai trị, sự phát triển ngoài mặt của Việt Nam, chỉ là sự hào nhoáng không thật mà thôi:
“Phồn vinh giả tạo. Tôi có thể kết luận như thế, lý do là những thành phố xem chừng như có phát triển nhưng bước ra khỏi thành phố, những thành phố lớn chúng ta sẽ thấy nhan nhản, coi như đầy khắp đồng bào ta đói nghèo khổ, tiền không có mua ăn chứ đừng nói chi là thuốc, trẻ em không có trường để học….”
Với những người Việt hải ngoại, mỗi năm đến ngày 30 Tháng Tư là dịp cho những kỷ niệm đau thương trở về. 38 năm trôi qua, có lẽ hận thù không còn nhưng niềm thất vọng dường như ngày càng sâu xa hơn. Họ luôn hướng về quê mẹ mong mỏi có một sự thay đổi để tự do và nhân quyền được thực thi. Trong khi đó tại quê nhà, tất cả những lời kêu gọi cho một sự đổi mới về Tự Do, Nhân Quyền, Đa Nguyên, Đa Đảng cũng như sự bình đẳng trong xã hội đều bị coi là do những 'thế lực thù nghịch', hay những 'suy thoái chính trị' cần được 'xử lý', mặc dù người lên tiếng là những người trẻ sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi của xã hội chủ nghĩa. Viễn ảnh quê hương Việt Nam sẽ không còn nữa mà trở thành một tỉnh lỵ của Trung Quốc, ngày một gần kề. Tình trạng này đang làm mọi người đau xót cho thế hệ mai sau.
Dù không phải là một nhà chính trị nhưng lời tâm sự của bà Ngọc Dung có lẽ phản ánh một tâm tình thiết tha cho tổ quốc Việt Nam của con dân đất Việt:
“Tôi cũng tin tưởng và hy vọng một ngày không xa thì Việt Nam mình sẽ thay đổi. Nhưng mà cái trước mắt mình thì tôi phải nói tôi rất là lo sợ. Một ngày nào đó mình trở về Việt Nam thì thấy Việt Nam mình không còn là Việt Nam nữa mà mình vấn bím nói tiếng Tầu, thì không biết như thế nào. Tôi sợ một ngày nào đó không biết mình còn quê hương để về hay không, coi như thế hệ mình thì có thể mình sẽ chết ở đây nhưng mà không biết con cháu mình sau này nó còn biết nó là người Việt Nam nữa hay không!”
Blog / Nguyễn Hưng Quốc
Tháng Tư
Xe tăng của quân đội miền Bắc Việt Nam tiến vào dinh Ðộc Lập ngày 30/4/1975.
Tôi có tật ít nhớ ngày và nhớ tháng. Tôi chỉ nhớ thứ: Thứ hai, Thứ ba,
Thứ tư, v.v.. Có lẽ lý do chính là vì tôi dạy học. Điều quan trọng nhất
đối với người đi dạy là nhớ thứ mấy mình dạy từ mấy giờ đến mấy giờ.
Thời khóa biểu in và dán trên bức tường ngay trước mặt cũng chỉ ghi giờ
và ghi thứ. Còn ngày? Chả có gì quan trọng cả. Trừ ngày lễ, dĩ nhiên. Về
tháng, tôi không để ý mấy, chủ yếu là do thời tiết ở Úc. Xin lưu ý,
bình thường, đối với con người, tháng chỉ là một ý niệm khá trừu tượng,
chỉ có mùa là cụ thể. Bởi nó gắn liền với khí hậu. Với những cơn nóng và
cơn lạnh. Với những chiếc máy quạt (hoặc máy lạnh) và những chiếc áo
ấm. Sống ở Việt Nam từ nhỏ đến trưởng thành, với tôi, tháng giêng, chẳng
hạn, gắn liền với mùa xuân, với sự mát mẻ, với câu thơ của Xuân Diệu
“tháng giêng ngon như một cặp môi gần”; tháng sáu, bảy và tám, với sự oi
bức và với mùa nghỉ hè; tháng mười hai, với giá rét, với mùa đông và
với Giáng sinh, hoặc (theo lịch ta), với Tết. Mối quan hệ ấy đã trở
thành nếp trong đầu, hơn nữa, trên da thịt. Ở Úc thì khác. Tháng một lại
là mùa hè và là mùa nghỉ hè; tháng sáu và bảy lại dịp nghỉ mùa đông.
Mối quan hệ quen thuộc giữa tháng và mùa, bị lệch đi, chênh chao hẳn,
khiến cho tôi, dù sống ở Úc cả mấy chục năm, cứ thường xuyên bị bối rối
khi muốn nhớ đến tháng. Dĩ nhiên, nhìn trên lịch, vẫn biết. Nhưng cái
biết ấy sao mà chông chênh, rất dễ bị vụt mất. Trong nhận thức, lúc nào
cũng có cảm giác như đang bềnh bồng trong một không gian có mùa nhưng
không có tháng.
Vậy mà, mấy tuần vừa rồi, tôi cứ hay bắt gặp mình, nhất là những lúc đang lái xe, lẩm nhẩm trong đầu bài thơ này của Nguyễn Khuyến:
Tháng Tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay lả tả
Nỗi ấy biết cùng ai
Nỗi này buồn cả dạ
Biếng nhắp năm canh chầy
Gà đã sớm giục giã.
Thoạt đầu, tôi không hiểu sao mình lại nhớ và ngâm nga bài thơ ấy. Thứ nhất, ở Úc, đang giữa mùa thu, trời bắt đầu trở lạnh, chả dính dáng gì đến mùa hạ cả. Thứ hai, đó cũng không phải là một bài thơ hay của Nguyễn Khuyến. Ít nhất không hay bằng mấy bài ông viết về mùa thu. Sau, tôi mới sực nhớ, yếu tố khiến tôi bị ám ảnh không chừng chỉ nằm ở chữ “Tháng Tư”.
Có lẽ từ trong tiềm thức, tôi đang nhớ đến ngày 30 Tháng Tư.
Nhưng khi nhớ đến ngày 30/4 và câu thơ “Tháng Tư đầu mùa hạ” của Nguyễn Khuyến cùng lúc, tôi lại đâm ra nghĩ ngợi.
Với người miền Nam, và sau này, cộng đồng người Việt ở hải ngoại, biến cố 30/4 được gọi tên theo tháng: Tháng Tư, lúc chính quyền miền Nam bị sụp đổ. Thỉnh thoảng, với một số người miền Trung hoặc một số người lính tham chiến ở miền Trung, biến cố ấy còn có tên khác: Tháng Ba. Thật ra, tên Tháng Ba chỉ trở thành phổ biến chủ yếu nhờ một tác phẩm: cuốn Tháng Ba gãy súng của Cao Xuân Huy. Đó là một trong vài cuốn hồi ký chiến tranh hay nhất và được nhiều người đọc nhất ở hải ngoại. Nhà văn Cao Xuân Huy (1947-2010), Trung úy Thủy quân lục chiến, lúc ấy đang đóng quân ở Quảng Trị. Đơn vị của ông bị vỡ trận ở đó, hơn một tháng trước khi Sài Gòn thất thủ. Tuy nhiên, chữ Tháng Ba rõ ràng không phổ biến bằng chữ Tháng Tư. Gọi Tháng Tư, chưa đủ, người Việt ở hải ngoại thêm một tính từ phía sau, thành “Tháng Tư Đen”. Cụm từ “Tháng Tư Đen” trở thành nhan đề của khá nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, kể cả ca khúc, hơn nữa, của một số cuốn sách của người Tây phương, ví dụ, gần đây nhất, cuốn Black April: The Fall of South Saigon, 1973-75 của George Veith (2012). Đánh mấy chữ “tháng tư đen” trên Google, chúng ta sẽ thấy hiện lên cả trên một triệu kết quả.
Ở trong nước, đặc biệt về phía chính quyền, chữ thông dụng nhất cho biến cố này là “đại thắng mùa xuân”. Trước hết, nó gắn liền với chữ “chiến dịch mùa xuân 1975”, trên lý thuyết, bắt đầu từ ngày 4 tháng Một 1975; nhưng trên thực tế, thực sự bắt đầu từ chiến dịch Tây nguyên vào đầu tháng Ba, và kết thúc vào ngày 30/4 tại Sài Gòn. Như vậy, tính theo mùa, cuộc tổng tấn công năm 1975 bắt đầu từ mùa xuân và kết thúc vào tháng đầu tiên của mùa hạ. Toàn bộ cái gọi là “chiến dịch Hồ Chí Minh”, giai đoạn cuối cùng của cuộc tổng tấn công, diễn ra từ ngày 26 đến 30 tháng Tư đều nằm trong mùa hạ. Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức của chính quyền Việt Nam, từ truyền thông đại chúng đến sử liệu, đều gọi trận thắng cuối cùng của họ tại Sài Gòn là “đại thắng mùa xuân”. Xin lưu ý: chữ “mùa xuân” trong “chiến dịch mùa xuân” và trong “đại thắng mùa xuân” có hai hàm nghĩa khác nhau. Trong ngữ cảnh đầu, “mùa xuân” chỉ là mùa khô, thời điểm ít mưa nhất trong năm, do đó, thuận lợi cho các cuộc hành quân và việc vận tải vũ khí cũng như lương thực phục vụ cho chiến đấu. Trong ngữ cảnh sau, chữ “mùa xuân” được chọn, thay cho mùa hạ, chỉ vì nó gợi lên ấn tượng về một thời kỳ mới mẻ, tươi đẹp và đầy sức sống. “Đại thắng mùa xuân”, do đó, chắc chắn là có nhiều ý nghĩa và gợi nhiều liên tưởng hay hơn hẳn “đại thắng mùa hạ” hay “đại thắng mùa hè”, chẳng hạn. Đó là một lựa chọn vừa có tính chất tu từ vừa có tính chất chính trị.
Đối với người Việt ở hải ngoại, sự sụp đổ của miền Nam không được nhớ theo mùa, thậm chí, ít khi theo tháng: Nó được nhớ theo ngày: ngày 30 tháng Tư. Trong lịch sử Việt Nam hiện đại, không có mấy biến cố lịch sử gắn liền với một ngày cụ thể như thế. Nhớ đến Cách mạng tháng Tám, người ta nhớ tháng chứ không nhớ ngày, trừ ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình, vốn rơi vào tháng 9. Nhắc đến trận Điện Biên Phủ, người ta cũng nhớ tháng chứ không nhớ ngày. Trừ các sử gia, không mấy người nhớ ngày quân đội Pháp đầu hàng là ngày nào.
Thêm một khác biệt nữa: Với người miền Bắc, đặc biệt, với chính quyền, ngày 30/4 là một ngày kết thúc; với người miền Nam cũng như với người Việt ở hải ngoại, đó là ngày khởi đầu. Kể chuyện, bằng văn viết hoặc bằng văn nói, người Việt ở miền Bắc, nhất là những người có chức quyền, thường bắt đầu bằng cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi kháng chiến chống Mỹ, và, cuối cùng, kết thúc bằng ngày 30/4. Rất hiếm khi người ta nhắc một cách chi tiết và thanh thản về những điều xảy ra sau đó. Cái thời gọi là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa với những giá lương tiền ở miền Nam cũng như cả thời bao cấp trong cả nước nói chung đều bị làm ngơ. Báo chí chính thống tảng lờ, làm như nó không từng hiện hữu. Người Việt ở miền Nam và ở hải ngoại thì thường bắt đầu câu chuyện bằng chính cái ngày 30/4 để tiếp theo là những chuyện đổi tiền, chuyện kinh tế mới, chuyện học tập cải tạo, chuyện đánh tư sản mại bản, chuyện sổ hộ khẩu và sổ lương thực, chuyện công an khu vực, và, cuối cùng, chuyện vượt biên và có thể, chuyện hải tặc.
Với những khác biệt ấy, khác với tất cả các biến cố khác, ngày 30/4 là ngày phân hóa nhất trong lịch sử Việt Nam. Nói theo lời Võ Văn Kiệt: ngày ấy, có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn. Bắt chước cách nói quen thuộc về tình bạn quen thuộc, chúng ta cũng có thể nói: Hãy nói bạn nghĩ gì về ngày 30/4, tôi sẽ nói bạn là ai.
Rõ nhất là “bạn” thuộc về “phe thắng cuộc” hay phe thua cuộc.
Tuy nhiên, cái gọi là “phe” ở đây không phải là một đơn vị rõ ràng và thuần nhất, nhất là ở cái gọi là “phe thắng cuộc”. Nếu bên phe thua cuộc, hầu như ai cũng như ai, tất cả đều, với những mức độ khác nhau, có vô số những mất mát; bên thắng cuộc, ngược lại, hầu như chỉ có một số có chức và có quyền là được nhiều lợi lộc. Không ít người, ở miền Bắc, cảm thấy mình gần gũi với phe thua hơn phe thắng. Tôi nghe kể có người ở Hà Nội, ngay sau năm 1975, vào thăm con cháu ở Sài Gòn, cứ trách những người “thua cuộc”: “Sao bọn cháu không ra giải phóng miền Bắc mà lại để miền Bắc chiếm miền Nam thế này hở?” Trả lời Đinh Quang Anh Thái trong một cuộc phỏng vấn vào tháng Tư năm 2000, nhà văn Dương Thu Hương kể, năm 1975, vào thăm thân nhân ở Sài Gòn, trong khi những người ở miền Bắc vào đều “hớn hở cười” thì bà lại khóc. Khóc vì hai lý do chính: một, bà nhận thấy việc miền Nam thua miền Bắc đồng nghĩa với việc một “nền văn minh đã thua [một] chế độ man rợ”; và hai, vì bà thấy “tuổi xuân của [bà] đã hy sinh một cách uổng phí”. Nhận thức ấy làm cho bà từ một người thắng cuộc trở thành một người thua cuộc: Thua cuộc vì, trong suốt cả mấy chục năm, bà chỉ là nạn nhân của một nền tuyên truyền dối trá.
Bởi vậy, chữ “bạn là ai” ở trên không phải bao giờ cũng bao hàm ý nghĩa đánh giá.
Trong số các bạn thân của tôi, có hai người ở hai cực khác nhau trong kinh nghiệm về ngày 30/4. Cả hai đều là thầy giáo. Chỉ khác là một người thì lớn lên ở miền Bắc và một người thì trưởng thành ở miền Nam.
Người bạn ở miền Bắc, trước năm 1975, là bộ đội, đóng quân ở một khu rừng nào đó có lần anh kể nhưng tôi không nhớ. Anh sống từng giờ trong nguy hiểm và đói khát. Bom đạn có thể dội vào nơi anh đóng quân bất cứ lúc nào. Anh nhìn hết người bạn này đến người bạn khác chết. Rất hiếm người chết được toàn thây. Rồi bỗng dưng, một ngày, đang trên đường hành quân, anh nhận được tin Sài Gòn được “giải phóng” và chiến tranh chấm dứt. Anh nhảy cẫng lên vì mừng rỡ. Sau này, cả mấy chục năm, cứ đến ngày 30/4, anh lại có cảm giác mừng rỡ như mới thoát khỏi một cảnh hiểm nghèo và một giai đoạn dài đen tối. Nhận định của anh về chế độ xã hội chủ nghĩa và chính quyền Việt Nam thay đổi nhiều nhưng cái cảm giác mừng rỡ ấy vẫn còn hầu như nguyên vẹn. Có lần, nói chuyện với tôi, nhắc đến ngày 30/4, anh dùng chữ “giải phóng”; sau, có lẽ sực nhớ tôi là người miền Nam, không chừng áy náy, anh bèn nói: “Xin lỗi về chữ ‘giải phóng’. Nhưng thành thực mà nói, với tôi, ngày ấy là một ngày ‘giải phóng’ thực sự.”
Người bạn ở miền Nam, ngược lại, vốn là một công chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn, sau năm 1975 bị bắt đi cải tạo năm bảy năm; được thả, anh vượt biên sang Úc; và ở Úc, anh là một giáo sư. Vì nhiệt tình muốn giúp đất nước, anh về Việt Nam làm việc mấy năm, dưới danh nghĩa đại diện cho một trường đại học lớn tại Úc. Anh kể, bình thường, anh không thấy có sự khác biệt đáng kể nào giữa anh - trong tư cách một Việt kiều hay một trí thức miền Nam trước năm 1975 - với các đồng nghiệp ở Hà Nội. Có. Nhưng không đáng kể. Giới hạn trong phạm vi giáo dục, mọi sự hợp tác được tiến hành khá trôi chảy. Nhưng, cũng theo lời anh, mỗi lần đến ngày 30 tháng Tư, lòng anh lại buồn rười rượi. Anh không muốn ra đường; và ở nhà, anh cũng không muốn mở ti vi lên xem. Tất cả đều làm cho anh thấy lạc lõng: Anh nhận thấy rất rõ là anh không thuộc về đám đông chung quanh. Họ là những người chiến thắng. Họ ca ngợi chiến thắng. Còn anh lại là người chiến bại, và sau đó, là một tù nhân. Anh không oán hận. Nhưng anh thấy cay đắng.
Với tôi, cả hai đều là bạn tốt; và theo nhận xét của tôi, đều là những người tốt, đặc biệt yêu nước, lúc nào cũng tha thiết muốn làm một cái gì đó cho đất nước. Sự khác biệt của họ chỉ là sự khác biệt về kinh nghiệm.
Mà họ lại không được quyền chọn lựa kinh nghiệm ấy.
Thế nhưng những kinh nghiệm ấy lại đeo đẳng theo họ mãi. Và làm cho họ xa cách nhau.
Ít nhất là một ngày trong năm.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Vậy mà, mấy tuần vừa rồi, tôi cứ hay bắt gặp mình, nhất là những lúc đang lái xe, lẩm nhẩm trong đầu bài thơ này của Nguyễn Khuyến:
Tháng Tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay lả tả
Nỗi ấy biết cùng ai
Nỗi này buồn cả dạ
Biếng nhắp năm canh chầy
Gà đã sớm giục giã.
Thoạt đầu, tôi không hiểu sao mình lại nhớ và ngâm nga bài thơ ấy. Thứ nhất, ở Úc, đang giữa mùa thu, trời bắt đầu trở lạnh, chả dính dáng gì đến mùa hạ cả. Thứ hai, đó cũng không phải là một bài thơ hay của Nguyễn Khuyến. Ít nhất không hay bằng mấy bài ông viết về mùa thu. Sau, tôi mới sực nhớ, yếu tố khiến tôi bị ám ảnh không chừng chỉ nằm ở chữ “Tháng Tư”.
Có lẽ từ trong tiềm thức, tôi đang nhớ đến ngày 30 Tháng Tư.
Nhưng khi nhớ đến ngày 30/4 và câu thơ “Tháng Tư đầu mùa hạ” của Nguyễn Khuyến cùng lúc, tôi lại đâm ra nghĩ ngợi.
Với người miền Nam, và sau này, cộng đồng người Việt ở hải ngoại, biến cố 30/4 được gọi tên theo tháng: Tháng Tư, lúc chính quyền miền Nam bị sụp đổ. Thỉnh thoảng, với một số người miền Trung hoặc một số người lính tham chiến ở miền Trung, biến cố ấy còn có tên khác: Tháng Ba. Thật ra, tên Tháng Ba chỉ trở thành phổ biến chủ yếu nhờ một tác phẩm: cuốn Tháng Ba gãy súng của Cao Xuân Huy. Đó là một trong vài cuốn hồi ký chiến tranh hay nhất và được nhiều người đọc nhất ở hải ngoại. Nhà văn Cao Xuân Huy (1947-2010), Trung úy Thủy quân lục chiến, lúc ấy đang đóng quân ở Quảng Trị. Đơn vị của ông bị vỡ trận ở đó, hơn một tháng trước khi Sài Gòn thất thủ. Tuy nhiên, chữ Tháng Ba rõ ràng không phổ biến bằng chữ Tháng Tư. Gọi Tháng Tư, chưa đủ, người Việt ở hải ngoại thêm một tính từ phía sau, thành “Tháng Tư Đen”. Cụm từ “Tháng Tư Đen” trở thành nhan đề của khá nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, kể cả ca khúc, hơn nữa, của một số cuốn sách của người Tây phương, ví dụ, gần đây nhất, cuốn Black April: The Fall of South Saigon, 1973-75 của George Veith (2012). Đánh mấy chữ “tháng tư đen” trên Google, chúng ta sẽ thấy hiện lên cả trên một triệu kết quả.
Ở trong nước, đặc biệt về phía chính quyền, chữ thông dụng nhất cho biến cố này là “đại thắng mùa xuân”. Trước hết, nó gắn liền với chữ “chiến dịch mùa xuân 1975”, trên lý thuyết, bắt đầu từ ngày 4 tháng Một 1975; nhưng trên thực tế, thực sự bắt đầu từ chiến dịch Tây nguyên vào đầu tháng Ba, và kết thúc vào ngày 30/4 tại Sài Gòn. Như vậy, tính theo mùa, cuộc tổng tấn công năm 1975 bắt đầu từ mùa xuân và kết thúc vào tháng đầu tiên của mùa hạ. Toàn bộ cái gọi là “chiến dịch Hồ Chí Minh”, giai đoạn cuối cùng của cuộc tổng tấn công, diễn ra từ ngày 26 đến 30 tháng Tư đều nằm trong mùa hạ. Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức của chính quyền Việt Nam, từ truyền thông đại chúng đến sử liệu, đều gọi trận thắng cuối cùng của họ tại Sài Gòn là “đại thắng mùa xuân”. Xin lưu ý: chữ “mùa xuân” trong “chiến dịch mùa xuân” và trong “đại thắng mùa xuân” có hai hàm nghĩa khác nhau. Trong ngữ cảnh đầu, “mùa xuân” chỉ là mùa khô, thời điểm ít mưa nhất trong năm, do đó, thuận lợi cho các cuộc hành quân và việc vận tải vũ khí cũng như lương thực phục vụ cho chiến đấu. Trong ngữ cảnh sau, chữ “mùa xuân” được chọn, thay cho mùa hạ, chỉ vì nó gợi lên ấn tượng về một thời kỳ mới mẻ, tươi đẹp và đầy sức sống. “Đại thắng mùa xuân”, do đó, chắc chắn là có nhiều ý nghĩa và gợi nhiều liên tưởng hay hơn hẳn “đại thắng mùa hạ” hay “đại thắng mùa hè”, chẳng hạn. Đó là một lựa chọn vừa có tính chất tu từ vừa có tính chất chính trị.
Đối với người Việt ở hải ngoại, sự sụp đổ của miền Nam không được nhớ theo mùa, thậm chí, ít khi theo tháng: Nó được nhớ theo ngày: ngày 30 tháng Tư. Trong lịch sử Việt Nam hiện đại, không có mấy biến cố lịch sử gắn liền với một ngày cụ thể như thế. Nhớ đến Cách mạng tháng Tám, người ta nhớ tháng chứ không nhớ ngày, trừ ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình, vốn rơi vào tháng 9. Nhắc đến trận Điện Biên Phủ, người ta cũng nhớ tháng chứ không nhớ ngày. Trừ các sử gia, không mấy người nhớ ngày quân đội Pháp đầu hàng là ngày nào.
Thêm một khác biệt nữa: Với người miền Bắc, đặc biệt, với chính quyền, ngày 30/4 là một ngày kết thúc; với người miền Nam cũng như với người Việt ở hải ngoại, đó là ngày khởi đầu. Kể chuyện, bằng văn viết hoặc bằng văn nói, người Việt ở miền Bắc, nhất là những người có chức quyền, thường bắt đầu bằng cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi kháng chiến chống Mỹ, và, cuối cùng, kết thúc bằng ngày 30/4. Rất hiếm khi người ta nhắc một cách chi tiết và thanh thản về những điều xảy ra sau đó. Cái thời gọi là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa với những giá lương tiền ở miền Nam cũng như cả thời bao cấp trong cả nước nói chung đều bị làm ngơ. Báo chí chính thống tảng lờ, làm như nó không từng hiện hữu. Người Việt ở miền Nam và ở hải ngoại thì thường bắt đầu câu chuyện bằng chính cái ngày 30/4 để tiếp theo là những chuyện đổi tiền, chuyện kinh tế mới, chuyện học tập cải tạo, chuyện đánh tư sản mại bản, chuyện sổ hộ khẩu và sổ lương thực, chuyện công an khu vực, và, cuối cùng, chuyện vượt biên và có thể, chuyện hải tặc.
Với những khác biệt ấy, khác với tất cả các biến cố khác, ngày 30/4 là ngày phân hóa nhất trong lịch sử Việt Nam. Nói theo lời Võ Văn Kiệt: ngày ấy, có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn. Bắt chước cách nói quen thuộc về tình bạn quen thuộc, chúng ta cũng có thể nói: Hãy nói bạn nghĩ gì về ngày 30/4, tôi sẽ nói bạn là ai.
Rõ nhất là “bạn” thuộc về “phe thắng cuộc” hay phe thua cuộc.
Tuy nhiên, cái gọi là “phe” ở đây không phải là một đơn vị rõ ràng và thuần nhất, nhất là ở cái gọi là “phe thắng cuộc”. Nếu bên phe thua cuộc, hầu như ai cũng như ai, tất cả đều, với những mức độ khác nhau, có vô số những mất mát; bên thắng cuộc, ngược lại, hầu như chỉ có một số có chức và có quyền là được nhiều lợi lộc. Không ít người, ở miền Bắc, cảm thấy mình gần gũi với phe thua hơn phe thắng. Tôi nghe kể có người ở Hà Nội, ngay sau năm 1975, vào thăm con cháu ở Sài Gòn, cứ trách những người “thua cuộc”: “Sao bọn cháu không ra giải phóng miền Bắc mà lại để miền Bắc chiếm miền Nam thế này hở?” Trả lời Đinh Quang Anh Thái trong một cuộc phỏng vấn vào tháng Tư năm 2000, nhà văn Dương Thu Hương kể, năm 1975, vào thăm thân nhân ở Sài Gòn, trong khi những người ở miền Bắc vào đều “hớn hở cười” thì bà lại khóc. Khóc vì hai lý do chính: một, bà nhận thấy việc miền Nam thua miền Bắc đồng nghĩa với việc một “nền văn minh đã thua [một] chế độ man rợ”; và hai, vì bà thấy “tuổi xuân của [bà] đã hy sinh một cách uổng phí”. Nhận thức ấy làm cho bà từ một người thắng cuộc trở thành một người thua cuộc: Thua cuộc vì, trong suốt cả mấy chục năm, bà chỉ là nạn nhân của một nền tuyên truyền dối trá.
Bởi vậy, chữ “bạn là ai” ở trên không phải bao giờ cũng bao hàm ý nghĩa đánh giá.
Trong số các bạn thân của tôi, có hai người ở hai cực khác nhau trong kinh nghiệm về ngày 30/4. Cả hai đều là thầy giáo. Chỉ khác là một người thì lớn lên ở miền Bắc và một người thì trưởng thành ở miền Nam.
Người bạn ở miền Bắc, trước năm 1975, là bộ đội, đóng quân ở một khu rừng nào đó có lần anh kể nhưng tôi không nhớ. Anh sống từng giờ trong nguy hiểm và đói khát. Bom đạn có thể dội vào nơi anh đóng quân bất cứ lúc nào. Anh nhìn hết người bạn này đến người bạn khác chết. Rất hiếm người chết được toàn thây. Rồi bỗng dưng, một ngày, đang trên đường hành quân, anh nhận được tin Sài Gòn được “giải phóng” và chiến tranh chấm dứt. Anh nhảy cẫng lên vì mừng rỡ. Sau này, cả mấy chục năm, cứ đến ngày 30/4, anh lại có cảm giác mừng rỡ như mới thoát khỏi một cảnh hiểm nghèo và một giai đoạn dài đen tối. Nhận định của anh về chế độ xã hội chủ nghĩa và chính quyền Việt Nam thay đổi nhiều nhưng cái cảm giác mừng rỡ ấy vẫn còn hầu như nguyên vẹn. Có lần, nói chuyện với tôi, nhắc đến ngày 30/4, anh dùng chữ “giải phóng”; sau, có lẽ sực nhớ tôi là người miền Nam, không chừng áy náy, anh bèn nói: “Xin lỗi về chữ ‘giải phóng’. Nhưng thành thực mà nói, với tôi, ngày ấy là một ngày ‘giải phóng’ thực sự.”
Người bạn ở miền Nam, ngược lại, vốn là một công chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn, sau năm 1975 bị bắt đi cải tạo năm bảy năm; được thả, anh vượt biên sang Úc; và ở Úc, anh là một giáo sư. Vì nhiệt tình muốn giúp đất nước, anh về Việt Nam làm việc mấy năm, dưới danh nghĩa đại diện cho một trường đại học lớn tại Úc. Anh kể, bình thường, anh không thấy có sự khác biệt đáng kể nào giữa anh - trong tư cách một Việt kiều hay một trí thức miền Nam trước năm 1975 - với các đồng nghiệp ở Hà Nội. Có. Nhưng không đáng kể. Giới hạn trong phạm vi giáo dục, mọi sự hợp tác được tiến hành khá trôi chảy. Nhưng, cũng theo lời anh, mỗi lần đến ngày 30 tháng Tư, lòng anh lại buồn rười rượi. Anh không muốn ra đường; và ở nhà, anh cũng không muốn mở ti vi lên xem. Tất cả đều làm cho anh thấy lạc lõng: Anh nhận thấy rất rõ là anh không thuộc về đám đông chung quanh. Họ là những người chiến thắng. Họ ca ngợi chiến thắng. Còn anh lại là người chiến bại, và sau đó, là một tù nhân. Anh không oán hận. Nhưng anh thấy cay đắng.
Với tôi, cả hai đều là bạn tốt; và theo nhận xét của tôi, đều là những người tốt, đặc biệt yêu nước, lúc nào cũng tha thiết muốn làm một cái gì đó cho đất nước. Sự khác biệt của họ chỉ là sự khác biệt về kinh nghiệm.
Mà họ lại không được quyền chọn lựa kinh nghiệm ấy.
Thế nhưng những kinh nghiệm ấy lại đeo đẳng theo họ mãi. Và làm cho họ xa cách nhau.
Ít nhất là một ngày trong năm.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nguyễn Hưng Quốc
Nhà
phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ
bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt
Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về
văn học Việt Nam.
Blog / Trịnh Hội
Tại sao phải trốn chạy hòa bình?
Những
người Việt Nam tị nạn đi qua một chiếc tàu Hải quân Mỹ; Operation
Frequent Wind là cuộc rút quân cuối cùng ở Sài Gòn ngày 29/4/1975. (Ảnh
tư liệu của chính phủ liên bang Mỹ)
Ngày 30 Tháng Tư năm 2013 đánh dấu kỷ niệm lần thứ 38 ngày Sài Gòn
thất thủ, ngày Miền Nam Việt Nam bị Miền Bắc Cộng Sản tiêu diệt - hay
thường được nhiều người gọi là ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Nếu
không có ngày này, tôi tin rằng đã không có nhiều nhà hàng Việt Nam như
hiện nay nơi bạn ở. Và nếu không có ngày này thì chắc chắn tôi cũng đã
không có mặt hôm nay tại nơi này để nói cho các bạn rõ về những gì đã
xảy ra từ dạo đó.
Vì đã sinh sống qua gần 2 thập niên ở nước ngoài trước khi quyết định trở lại Việt Nam vào năm 2007, tôi thường được những người tôi gặp trong các chuyến đi của tôi trên thế giới hỏi tôi về thời gian tôi sinh sống ở Việt Nam trong thời kỳ hậu chiến sau năm 1975 và về tình hình đất nước hiện nay, 38 năm sau. Điều thường khiến tôi ngạc nhiên nhất là khi tôi hỏi lại họ về những gì họ đã biết về đất nước tôi thì hình như chỉ có 2 phiên bản Việt Nam được nhắc tới.
Phiên bản thứ nhất là một Việt Nam đẩy rẫy những câu chuyện kinh hoàng và những hình ảnh về một đất nước tan nát vì bị cuộc chiến do người Mỹ dẫn đầu tàn phá. Phiên bản thứ hai là một con hổ kinh tế đang trỗi dậy ở Viễn Đông, điểm đến “thời thượng” của những người trẻ trung và danh tiếng.
Brad Pitt và Angelina Jolie đã tiếp tục trở lại Việt Nam. À! trước đây không lâu họ còn nhận một em bé Việt Nam làm con nuôi và đặt tên cho em là Pax – Hòa Bình. Trong khi hàng đoàn du khách ba-lô từ Úc, châu Âu và khắp nước Mỹ đã thành tâm làm theo lời khuyên của sách hướng dẩn du lịch Lonely Planet để ghé thăm mọi nơi từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh, tên mới của Sài Gòn, để sững sờ trước nền văn hóa và cảnh sắc mỹ tú của đất nước này. Để nếm thữ hương vị một bát “phở” trước khi bắt đầu một ngày rong chơi với một ngân sách tiết kiệm. Họ đã có thể nhìn thấy tận mắt rằng bây giờ mọi thứ đều thanh bình, yên ổn và dân chúng có vẻ hạnh phúc, hài lòng với vận mệnh mới của mình
.
Hay ít ra nó cũng có vẻ như vậy.
Cho đến khi tôi cho họ biết sự thật không hẳn vậy.
Như các bạn thấy, cũng giống như 2 triệu người Việt Nam khác đã rời bỏ đất nước từ cái ngày định mệnh đó 38 năm trước đây, gia đình tôi đã đến nước Úc như những người tỵ nạn, do hậu quả của cuộc chiến Việt Nam. Sự thật chúng tôi là một phần trong cuộc vượt thoát ồ ạt đầu tiên của người Việt Nam rời bỏ quê cha đất tổ.
Mặc dù đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh với nước Trung Hoa láng giềng ở phương bắc, mặc dù đã trải qua một trăm năm đấu tranh giành độc lập chống chủ nghĩa thực dân Pháp, và mặc dù đã là nạn nhân của một nạn đói khủng khiếp do người Nhật gây ra trong Thế chiến thứ II, tiếp theo đó là Chiến tranh Việt Nam kéo dài cho đến năm 1975, người Việt nam đã luôn gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn và chấp nhận chịu đựng tất cả để chọn Việt Nam làm quê cha đất tổ.
Bất chấp mọi cuộc đổ máu. Bất chấp mọi mất mát, thiệt hại.
Nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước chúng tôi và chẳng bao lâu sau khi chiến tranh chấm dứt, người ta bắt đầu ra đi, thoạt tiên là từng nhóm nhỏ, rồi sau đó là hàng chục ngàn người. Họ đi bằng thuyền và đi bộ. Bất chấp mọi hiểm nguy trên biển cả và những gì đang chờ đợi họ tại bến bờ bên kia. Theo ước tính, từ 10% cho đến 30% tổng số thuyền nhân đã không bao giờ được đặt chân lên đất liền. Từ 1975 đến 1997, khi cuộc vượt thoát ồ ạt chấm dứt, đã có khoảng 1 triệu người Việt Nam đến được các nước lân cận.
Điều này bắt buộc phải đặt ra câu hỏi: Tại sao họ lại phải trốn chạy hòa bình?
Câu trả lời rất đơn giản. Đó là ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc và hòa bình được lập lại, sự thật và công lý chưa bao giờ thắng thế trên đất nước tôi. Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về quyền tự do hội họp và lập hội, Ông Maina Kiai, mới đây đã gọi tình trạng này là một “cơn hôn mê hòa bình” (peace coma). Rằng nhân danh hòa bình, chúng ta đã cố tình làm ngơ trước những vi phạm trắng trợn nhất về quyền con người bởi các chế độ áp bức nhất trên thế giới hiện nay, trong đó có chế độ Cộng sản Việt Nam.
Ba tháng sau ngày 30 Tháng Tư 1975, cha tôi, cùng với hàng trăm ngàn quân nhân và trí thức của Miền Nam Việt Nam đã bị tống vào các “trại cải tạo” mà không được xét xử. Ba 3 năm sau đó, ông được thả nhưng không được phép trở lại nghề dạy học; thay vào đó, giống như các gia đình khác bị buộc tội “phản cách mạng”, chúng tôi bị đuổi ra khỏi căn nhà của chúng tôi ở Sài Gòn và cưởng bách dời cư đến những nơi gọi là “các khu kinh tế mới” để nhường chỗ cho một nhà nước không tưởng mới.
Điều đó đã tạo ra làn sóng đầu tiên của thuyền nhân rời khỏi Việt Nam. Cha tôi là một trong những người này.
Kế tiếp, những người Cộng sản chiến thắng mới bắt tay vào việc quốc hữu hóa mọi doanh nghiệp và khởi sự thực hiện một chương trình kinh tế xã hội chủ nghĩa theo đó mọi tư liệu sản xuất và quyền sở hữu đất đai giờ đây đều thuộc về nhà nước thay vì các cá nhân như trước.
Điều này gây nên làn sóng người tỵ nạn thứ nhì rời bỏ Việt Nam, và đợt vượt thoát này chỉ ngừng lại khi Hà Nội nhận ra rằng việc tiếp tục thực hiện chính sách đó sẽ đưa đển chỗ sụp đổ hoàn toàn của nền kinh tế đất nước. Được hỗ trợ bởi tinh thần của chính sách “perestroika” (cải tổ) ở Liên Xô cũ vào cuối thập niên 1980, các nhà lãnh đạo đảng bắt đầu một loạt cải cách kinh tế và trong 2 thập niên qua những cải cách này đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi nạn nghèo khổ cùng cực.
Tuy nhiên chế độ xã hội và chính trị của đất nước này vẫn không có gì thay đổi và cho đến tận hôm nay, tất cả đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước và hàng trăm người bất đồng chính kiến vẫn còn bị giam cầm chỉ vì họ dám thách thức sự cai trị độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự thật là Facebook bị ngăn chặn, không một phương tiện truyền thông độc lập nào được phép hoạt động, các cuộc biểu tình phản đối bị nghiêm cấm, và những người bảo vệ nhân quyền thường xuyên bị sách nhiễu, khủng bố. Để cuối cùng một số nhân vật bất đồng chính kiến phải đào thoát để xin tỵ nạn chính trị ở các nước khác trong khi những người ở lại có thể bị kết án đến 16 năm tù vì những hoạt động ủng hộ nhân quyền của họ.
Như vậy, một sự thật phũ phàng là vẫn còn người tỵ nạn từ Việt Nam và không có hòa bình thật sự hay công lý được thực hiện trên quê hương tôi.
Bởi thế, câu hỏi mà tôi thường đặt ra là:
Tất cả những người có thiện ý từng phản đối cuộc chiến Việt Nam trong những thập niên 60 và 70 ngày nay đang ở đâu?
Phải chăng họ chẳng màng tìm hiểu những gì đã xảy ra sau đó tại Việt Nam?
Quan trọng hơn, giờ đây họ có thể làm gì để góp phần giúp cho Việt Nam trở thành một nơi tốt đẹp hơn, tự do hơn? Như họ đã từng nhiệt tình tuyên bố cách đây 4 thập niên trước.
Đây là bài viết mới nhất của tôi được đăng nguyên bản bằng tiếng Anh trên báo Asia Times tuần này. Trong tuần tới tôi mong là sẽ có những tờ báo khác đăng lại. Riêng hôm nay tôi xin gửi các bạn bài dịch này. Nếu có ý kiến gì xin các bạn cứ email cho tôi biết at: hoitrinh@hotmail.com.
* Blog của Luật sư Trịnh Hội là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Vì đã sinh sống qua gần 2 thập niên ở nước ngoài trước khi quyết định trở lại Việt Nam vào năm 2007, tôi thường được những người tôi gặp trong các chuyến đi của tôi trên thế giới hỏi tôi về thời gian tôi sinh sống ở Việt Nam trong thời kỳ hậu chiến sau năm 1975 và về tình hình đất nước hiện nay, 38 năm sau. Điều thường khiến tôi ngạc nhiên nhất là khi tôi hỏi lại họ về những gì họ đã biết về đất nước tôi thì hình như chỉ có 2 phiên bản Việt Nam được nhắc tới.
Phiên bản thứ nhất là một Việt Nam đẩy rẫy những câu chuyện kinh hoàng và những hình ảnh về một đất nước tan nát vì bị cuộc chiến do người Mỹ dẫn đầu tàn phá. Phiên bản thứ hai là một con hổ kinh tế đang trỗi dậy ở Viễn Đông, điểm đến “thời thượng” của những người trẻ trung và danh tiếng.
Brad Pitt và Angelina Jolie đã tiếp tục trở lại Việt Nam. À! trước đây không lâu họ còn nhận một em bé Việt Nam làm con nuôi và đặt tên cho em là Pax – Hòa Bình. Trong khi hàng đoàn du khách ba-lô từ Úc, châu Âu và khắp nước Mỹ đã thành tâm làm theo lời khuyên của sách hướng dẩn du lịch Lonely Planet để ghé thăm mọi nơi từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh, tên mới của Sài Gòn, để sững sờ trước nền văn hóa và cảnh sắc mỹ tú của đất nước này. Để nếm thữ hương vị một bát “phở” trước khi bắt đầu một ngày rong chơi với một ngân sách tiết kiệm. Họ đã có thể nhìn thấy tận mắt rằng bây giờ mọi thứ đều thanh bình, yên ổn và dân chúng có vẻ hạnh phúc, hài lòng với vận mệnh mới của mình
.
Hay ít ra nó cũng có vẻ như vậy.
Cho đến khi tôi cho họ biết sự thật không hẳn vậy.
Như các bạn thấy, cũng giống như 2 triệu người Việt Nam khác đã rời bỏ đất nước từ cái ngày định mệnh đó 38 năm trước đây, gia đình tôi đã đến nước Úc như những người tỵ nạn, do hậu quả của cuộc chiến Việt Nam. Sự thật chúng tôi là một phần trong cuộc vượt thoát ồ ạt đầu tiên của người Việt Nam rời bỏ quê cha đất tổ.
Mặc dù đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh với nước Trung Hoa láng giềng ở phương bắc, mặc dù đã trải qua một trăm năm đấu tranh giành độc lập chống chủ nghĩa thực dân Pháp, và mặc dù đã là nạn nhân của một nạn đói khủng khiếp do người Nhật gây ra trong Thế chiến thứ II, tiếp theo đó là Chiến tranh Việt Nam kéo dài cho đến năm 1975, người Việt nam đã luôn gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn và chấp nhận chịu đựng tất cả để chọn Việt Nam làm quê cha đất tổ.
Bất chấp mọi cuộc đổ máu. Bất chấp mọi mất mát, thiệt hại.
Nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước chúng tôi và chẳng bao lâu sau khi chiến tranh chấm dứt, người ta bắt đầu ra đi, thoạt tiên là từng nhóm nhỏ, rồi sau đó là hàng chục ngàn người. Họ đi bằng thuyền và đi bộ. Bất chấp mọi hiểm nguy trên biển cả và những gì đang chờ đợi họ tại bến bờ bên kia. Theo ước tính, từ 10% cho đến 30% tổng số thuyền nhân đã không bao giờ được đặt chân lên đất liền. Từ 1975 đến 1997, khi cuộc vượt thoát ồ ạt chấm dứt, đã có khoảng 1 triệu người Việt Nam đến được các nước lân cận.
Điều này bắt buộc phải đặt ra câu hỏi: Tại sao họ lại phải trốn chạy hòa bình?
Câu trả lời rất đơn giản. Đó là ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc và hòa bình được lập lại, sự thật và công lý chưa bao giờ thắng thế trên đất nước tôi. Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về quyền tự do hội họp và lập hội, Ông Maina Kiai, mới đây đã gọi tình trạng này là một “cơn hôn mê hòa bình” (peace coma). Rằng nhân danh hòa bình, chúng ta đã cố tình làm ngơ trước những vi phạm trắng trợn nhất về quyền con người bởi các chế độ áp bức nhất trên thế giới hiện nay, trong đó có chế độ Cộng sản Việt Nam.
Ba tháng sau ngày 30 Tháng Tư 1975, cha tôi, cùng với hàng trăm ngàn quân nhân và trí thức của Miền Nam Việt Nam đã bị tống vào các “trại cải tạo” mà không được xét xử. Ba 3 năm sau đó, ông được thả nhưng không được phép trở lại nghề dạy học; thay vào đó, giống như các gia đình khác bị buộc tội “phản cách mạng”, chúng tôi bị đuổi ra khỏi căn nhà của chúng tôi ở Sài Gòn và cưởng bách dời cư đến những nơi gọi là “các khu kinh tế mới” để nhường chỗ cho một nhà nước không tưởng mới.
Thuyền nhân Việt Nam chờ được cứu vớt.
Kế tiếp, những người Cộng sản chiến thắng mới bắt tay vào việc quốc hữu hóa mọi doanh nghiệp và khởi sự thực hiện một chương trình kinh tế xã hội chủ nghĩa theo đó mọi tư liệu sản xuất và quyền sở hữu đất đai giờ đây đều thuộc về nhà nước thay vì các cá nhân như trước.
Điều này gây nên làn sóng người tỵ nạn thứ nhì rời bỏ Việt Nam, và đợt vượt thoát này chỉ ngừng lại khi Hà Nội nhận ra rằng việc tiếp tục thực hiện chính sách đó sẽ đưa đển chỗ sụp đổ hoàn toàn của nền kinh tế đất nước. Được hỗ trợ bởi tinh thần của chính sách “perestroika” (cải tổ) ở Liên Xô cũ vào cuối thập niên 1980, các nhà lãnh đạo đảng bắt đầu một loạt cải cách kinh tế và trong 2 thập niên qua những cải cách này đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi nạn nghèo khổ cùng cực.
Tuy nhiên chế độ xã hội và chính trị của đất nước này vẫn không có gì thay đổi và cho đến tận hôm nay, tất cả đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước và hàng trăm người bất đồng chính kiến vẫn còn bị giam cầm chỉ vì họ dám thách thức sự cai trị độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự thật là Facebook bị ngăn chặn, không một phương tiện truyền thông độc lập nào được phép hoạt động, các cuộc biểu tình phản đối bị nghiêm cấm, và những người bảo vệ nhân quyền thường xuyên bị sách nhiễu, khủng bố. Để cuối cùng một số nhân vật bất đồng chính kiến phải đào thoát để xin tỵ nạn chính trị ở các nước khác trong khi những người ở lại có thể bị kết án đến 16 năm tù vì những hoạt động ủng hộ nhân quyền của họ.
Như vậy, một sự thật phũ phàng là vẫn còn người tỵ nạn từ Việt Nam và không có hòa bình thật sự hay công lý được thực hiện trên quê hương tôi.
Bởi thế, câu hỏi mà tôi thường đặt ra là:
Tất cả những người có thiện ý từng phản đối cuộc chiến Việt Nam trong những thập niên 60 và 70 ngày nay đang ở đâu?
Phải chăng họ chẳng màng tìm hiểu những gì đã xảy ra sau đó tại Việt Nam?
Quan trọng hơn, giờ đây họ có thể làm gì để góp phần giúp cho Việt Nam trở thành một nơi tốt đẹp hơn, tự do hơn? Như họ đã từng nhiệt tình tuyên bố cách đây 4 thập niên trước.
Đây là bài viết mới nhất của tôi được đăng nguyên bản bằng tiếng Anh trên báo Asia Times tuần này. Trong tuần tới tôi mong là sẽ có những tờ báo khác đăng lại. Riêng hôm nay tôi xin gửi các bạn bài dịch này. Nếu có ý kiến gì xin các bạn cứ email cho tôi biết at: hoitrinh@hotmail.com.
* Blog của Luật sư Trịnh Hội là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Trịnh Hội
Làm
sao để có thể tự giới thiệu về mình một cách tốt nhất và đúng nhất đây
hả bạn? Có lẽ bạn chỉ cần biết đại khái như thế này. Tôi sinh ra ở Đa
Kao gần cầu Bông, Sài Gòn và sang định cư ở Úc từ năm tôi 14 tuổi. Từ
lúc ra trường luật cho đến nay tôi đã sống và làm việc ở Úc, Hồng Kông,
Philippines, Mỹ, Anh Quốc và dĩ nhiên là Việt Nam...
BBC * THÁNG 4 -1975
Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?
LS Nguyễn Văn Đài
Gửi tới BBC từ Hà Nội
Cập nhật: 04:11 GMT - thứ hai, 29 tháng 4, 2013
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi,
mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng
và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một
thế giới về quân sự và kinh tế.
Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức
(cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để
thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn
được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư
bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu
sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.
Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước
Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã
xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các
nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một
chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ
cộng sản.
Hoài nghi, nuối tiếc
Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ
mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài
nghi và nuối tiếc.
"Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự."
Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn
Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó
không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi
đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng
sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự
giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và
nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975,
trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu
đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát
triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương
tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc
nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống
diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ
giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,... và trên mọi cấp độ
từ trung ương đến địa phương.
Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến
cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã
hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản
xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi
bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là
một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng
lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị
cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.
Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của riêng tác giả, một luật sư bất đồng chính kiến sống tại Hà Nội.
Bấm
Trở về đầu trang
Nhưng lòng buồn nhiều hơn vui. Gia đình bỏ lại. Bạn bè lìa xa. Lênh đênh trên biển. Con tàu không máy rồi sẽ trôi dạt về đâu?
Mỗi năm hay ra biển vào cuối tháng Tư, nhìn về quê nhà mà lòng quặn đau. Mặt trời tháng Tư chầm chậm vàng úa rồi tắt, để lại những tiếng sóng, khi nhẹ nhàng, khi bồng bềnh, nổi trôi. Như thân phận cuộc đời.
Đứng trước biển nhớ bố mẹ và các em mà rơi nước mắt.
Nhớ bạn bè thân thương thuở còn học chung với nhau mà buồn hơn cả buổi chiều tàn.
Nhớ những ngày lênh đênh không mái che. Nhớ nước
muối cùng nắng ăn sạm da mặt. Mong chờ một cơn mưa giông gột rửa. Nhớ
nắm cơm thùng phuy. Mơ được đến bến bờ.
Chiều ra biển nhớ về Subic Bay xanh cỏ. Nhớ bãi biển Guam đầy đá nhọn. Nhớ Camp Pendleton ở lều lính giữa đồi cỏ khô.
Đứng ở biển nhìn về San Francisco đêm rực rỡ ánh đèn nhớ Singapore của tháng 5-1975 khi con tàu đến đó. Không được lên bờ mà chỉ neo xa xa.
Chiều nhìn ra biển. Xa thẳm bên kia là quê nhà. Lòng thầm hát câu thương nhớ:
Sài Gòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài Gòn ơi! Thôi đã hết thời gian tuyệt vời…
[Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt, nhạc Nam Lộc]
Nhìn qua biển rộng mà nghĩ mông lung. Quê nhà sau 30-4 thay đổi thế nào?
Hoà bình đến rồi sao những con người Việt Nam còn lao ra biển lớn bất chấp thủy thần, sóng dữ.
Ở bên nhà đôi tay ngà em vục bùn đen
Ở bên nhà đôi môi mềm thu vạn tủi oán
Ở bên này sống với ác mộng
Từng đêm ngày anh ra biển rộng…
[Ở bên nhà, nhạc Phạm Duy]
Đứng nhìn biển. Bên này thấp thoáng tàu vào bến cảng.
Bên kia thuyền vượt biển. Người thân, đồng bào đang trôi dạt về đâu.
Trời mong manh ôi đời lênh đênh
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ
Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc
Lời mẹ buồn như tiếng Nam Mô…
[Lời kinh đêm, nhạc Việt Dzũng]
Chiều tháng Tư ra biển. Nhìn về quê nhà. Nơi chân trời như thấy có trại học tập cải tạo.
Như thấy các em đang lao động vinh quang.
Thấy thanh niên xuống đường càn quét văn hóa Mỹ ngụy.
Thấy công an xông vào đánh tư sản mại bản. Thấy bo bo, mì sợi.
Gửi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con quê hương quá đọa đầy…
Gửi về cho em kẹo bánh thơm ngon
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng…
[Chút quà cho quê hương, nhạc Việt Dzũng]
Bây giờ ra biển. Cuộc đời không còn nhiều nỗi buồn. Nhưng sẽ chẳng bao giờ vui. Nếu đó là ngày cuối tháng Tư.
Tác giả hiện dạy học và là một nhà báo tự do sống ở vùng Vịnh San Francisco. Bài viết thể hiện cảm nhận riêng của ông.
- chia sẻ
- Gửi cho bạn bè
- In trang này
- http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130428_camxuc_30_thang4.shtml
Cảm xúc ngày 30 tháng 4 hàng năm
Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBC Tiếng Việt từ San Jose
Cập nhật: 09:38 GMT - thứ hai, 30 tháng 4, 2012
Sáng 30-4. Cái mốc thời gian không quên trong đời tôi, và trong tim hàng triệu người Việt.
Lãnh đạo cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà ra lệnh
cho binh sĩ buông súng. Miền Nam đầu hàng miền Bắc. Cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn chấm dứt.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Mỗi năm hay ra biển vào cuối tháng Tư, nhìn về quê nhà mà lòng quặn đau. Mặt trời tháng Tư chầm chậm vàng úa rồi tắt, để lại những tiếng sóng, khi nhẹ nhàng, khi bồng bềnh, nổi trôi. Như thân phận cuộc đời.
Đứng trước biển nhớ bố mẹ và các em mà rơi nước mắt.
Nhớ bạn bè thân thương thuở còn học chung với nhau mà buồn hơn cả buổi chiều tàn.
Chiều ra biển nhớ về Subic Bay xanh cỏ. Nhớ bãi biển Guam đầy đá nhọn. Nhớ Camp Pendleton ở lều lính giữa đồi cỏ khô.
Đứng ở biển nhìn về San Francisco đêm rực rỡ ánh đèn nhớ Singapore của tháng 5-1975 khi con tàu đến đó. Không được lên bờ mà chỉ neo xa xa.
Chiều nhìn ra biển. Xa thẳm bên kia là quê nhà. Lòng thầm hát câu thương nhớ:
Sài Gòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài Gòn ơi! Thôi đã hết thời gian tuyệt vời…
[Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt, nhạc Nam Lộc]
Nhìn qua biển rộng mà nghĩ mông lung. Quê nhà sau 30-4 thay đổi thế nào?
Hoà bình đến rồi sao những con người Việt Nam còn lao ra biển lớn bất chấp thủy thần, sóng dữ.
Ở bên nhà đôi tay ngà em vục bùn đen
Ở bên nhà đôi môi mềm thu vạn tủi oán
Ở bên này sống với ác mộng
Từng đêm ngày anh ra biển rộng…
[Ở bên nhà, nhạc Phạm Duy]
Bên kia thuyền vượt biển. Người thân, đồng bào đang trôi dạt về đâu.
Trời mong manh ôi đời lênh đênh
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ
Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc
Lời mẹ buồn như tiếng Nam Mô…
[Lời kinh đêm, nhạc Việt Dzũng]
Chiều tháng Tư ra biển. Nhìn về quê nhà. Nơi chân trời như thấy có trại học tập cải tạo.
Như thấy các em đang lao động vinh quang.
Thấy thanh niên xuống đường càn quét văn hóa Mỹ ngụy.
Thấy công an xông vào đánh tư sản mại bản. Thấy bo bo, mì sợi.
Gửi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con quê hương quá đọa đầy…
Gửi về cho em kẹo bánh thơm ngon
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng…
[Chút quà cho quê hương, nhạc Việt Dzũng]
Bây giờ ra biển. Cuộc đời không còn nhiều nỗi buồn. Nhưng sẽ chẳng bao giờ vui. Nếu đó là ngày cuối tháng Tư.
Tác giả hiện dạy học và là một nhà báo tự do sống ở vùng Vịnh San Francisco. Bài viết thể hiện cảm nhận riêng của ông.
Tháng Tư nghĩ về văn hoá và áo dài
Nhà báo tự do Bùi Văn Phú
Gửi cho BBC từ California
Cập nhật: 09:22 GMT - chủ nhật, 28 tháng 4, 2013
Biến cố 30-4-1975 đã đưa hàng triệu người Việt ra nước ngoài sinh sống, đông nhất ở Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Canada, Đức.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Bỏ quê hương ra đi, nhiều người không mang theo được gì ngoài văn hoá nguồn cội đã thấm vào lòng.
Phát huy văn hóa Việt
Sau gần bốn thập niên định cư, văn hoá Việt đã có cơ hội phát huy và trở thành một phần trong sinh hoạt đời sống xã hội Mỹ.
Các hội học sinh, sinh viên gốc Việt thường tổ
chức văn nghệ dịp tháng Tư. Vùng San Francisco năm nay có văn nghệ của
học sinh trường Santa Teresa, của sinh viên San Jose City College,
Stanford, U.C. Berkeley. Các em cố gắng vẽ lên lịch sử của nước nhà, của
cộng đồng; đưa lên những nét đẹp quê hương qua điệu múa, câu hò tiếng
hát bên cạnh tiếng nhạc, điệu nhảy sống động của văn hoá Mỹ.
Trong gia đình người Việt hải ngoại vẫn có tà áo
dài, áo gấm, vẫn còn chai nước mắm, gói bún. Bữa ăn vẫn có rau mồng
tơi, rau muống, cá kho tộ, có bát phở, tô mì Quảng hay bún bò Huế.
Cạnh dàn máy ti-vi có DVD Thuý Nga, Asia hay
Duyên Dáng Việt Nam. Có tiếng hát Khánh Ly, Thanh Tuyền, Hồng Nhung,
Tuấn Ngọc, Vũ Khanh, Duy Khánh, Phi Nhung, Hương Lan, Quang Linh, Duy
Quang, Bằng Kiều, Mỹ Linh, Quang Dũng qua ca từ nhạc Trịnh Công Sơn,
Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Thanh Tùng,
Bảo Chấn, Phú Quang…
Ngày nay, trong trường cấp 3 và đại học Mỹ đề
tài chiến tranh Việt Nam vẫn được thảo luận hay nghiên cứu, nhưng không
còn làm nhức nhối lương tâm, không còn gây nhiều xúc động trong lòng thế
hệ trẻ như đã từng có đối với thế hệ cha anh. Âm hưởng của chiến tranh
mờ dần và nét văn hoá Việt đang trở nên dấu ấn trong đời sống Mỹ với
phở, bún, áo dài, Tết, bánh mì.
Văn hoá, hiểu một cách tổng quát là những sinh hoạt của một tập thể mà trang phục và thực phẩm dễ cảm nhận được nhất.
Nói đến “Tết” thì hầu như các sắc dân khác đều
biết, vì cứ độ cuối tháng Giêng tây cộng đồng Việt lại rộn ràng với chợ
hoa, hội chợ tết, cây nêu tràng pháo. Tết về có thiếu nữ mặc áo dài đội
nón lá, có áo tứ thân khăn mỏ quạ, có bánh chưng, bánh tét, mứt kẹo.
Hoa Kỳ là một quốc gia đa chủng, đa văn hoá. Mới lập quốc hơn 200 năm, có một khoảng dài lịch sử văn hoá châu Âu được xem là chính thống. Nửa thế kỷ qua nước Mỹ đã có những chính sách nhằm thăng hoa các nền văn hoá khác nhau, từ văn hoá của người châu Phi, của sắc dân Mỹ La-tinh cho đến văn hoá Hồi giáo, văn hoá Á đông.
San Francisco nổi tiếng là thành phố nhiều bản
sắc và thường xuyên có sinh hoạt đường phố. Đầu năm ta có Tết của người
Việt, người Hoa với pháo nổ rền vang. Tháng Ba với lễ hội St. Patrick
xanh thắm mầu lá. Tháng Tư dồn dập tiếng trống mừng lễ hội Hoa Anh đào.
Đầu tháng Năm với Cinco de Mayo trong tiếng nhạc mariachi rộn ràng.
Áo dài, nón lá
Mấy năm gần đây, trung tuần tháng Năm còn có hội
chợ văn hoá Á châu, nhấn mạnh đến truyền thống của những nước Đông Á
như Việt Nam, Cam Bốt, Lào, Miến Điện, Thái Lan, Hàn Quốc.
Trung tâm Văn hoá Âu Cơ đã đóng vai trò phối hợp
tổ chức lễ hội này để làm phong phú thêm cho sinh hoạt thành phố và cho
văn hoá cội nguồn Việt Nam với những áo bà ba, áo tứ thân, áo dài tung
tăng trên phố.
Trong nét đẹp của văn hoá Việt, tà áo dài và nón
lá là hình ảnh được thế giới biết đến nhiều nhất. Chiếc nón lá được
dùng khắp nơi, từ bác nông dân ra ruộng cày cấy, mẹ đi chợ, bà bán hàng
rong cho đến nữ sinh, phụ nữ ra đường đi học, đi làm cũng đội nón lá.
Huế trở nên đẹp và thơ mộng với chiếc nón bài
thơ, với áo dài nữ sinh Đồng Khánh. Sài Gòn giờ tan trường ngập tràn áo
trắng Trưng Vương, Gia Long, áo hồng Thiên Phước, áo xanh Bác Ái. Những
hình ảnh đã là dấu ấn của một thời thăng hoa nét đẹp áo dài trên quê
hương. Những tà áo đã đi vào âm nhạc, vào văn học.
Ngoài nét mỹ thuật của áo dài nón lá, hai trang phục này còn là cách bảo vệ da tốt nhất trong điều kiện khí hậu nhiệt đới.
Sau 1975, sân trường và đường phố Việt Nam không còn nhiều tà áo tung bay như trước.
Cho đến khi Việt Nam mở cửa giao thương với
phương Tây vào đầu thập niên 1990, hình ảnh áo dài được làm sống lại qua
các cuộc thi hoa hậu với những biên cải, cách tân.
"Nhưng làm sao để nhiều người Việt thích mặc áo dài là một điều khó khi ảnh hưởng văn hoá Âu Mỹ ngày càng sâu đậm tại Việt Nam."
Nhưng cách tân quá độ làm mất đi nét đẹp đơn sơ, trang nhã của áo dài.
Năm ngoái ở San Jose có trình diễn áo dài của
các nhà thiết kế Đức Hùng, Minh Hạnh, Sĩ Hoàng từ trong nước và Quang
Chánh, Debbie Nghiêm ở California, nhưng không thu hút chú ý. San Jose
Center for the Performing Arts với hai nghìn chỗ mà chỉ có chừng 500
khán giả. Ngoài bộ áo của Sĩ Hoàng thoát lên nét thanh tao của áo dài,
còn lại các nhà thiết kế khác đã làm đậm nét cung đình, quý phái cộng
thêm khăn đóng quá khổ trên đầu và lủng lẳng nhiều thứ khác khiến người
mẫu trông như nữ hoàng Ai Cập hay châu Phi. Còn áo dài của ông trưởng
ban tổ chức cắt quá ngắn nên trông như áo của người Ấn Độ.
Áo dài thực là dấu ấn của văn hoá Việt vì loại
hình trang phục này đã được triển lãm trong bảo tàng Hoa Kỳ, một lần ở
San Jose Quilt Museum vào năm 2006 và tại American Museum of Natural
History ở New York dịp Tết vừa qua.
Chuyện chọn quốc phục cho Việt Nam cũng được bàn
luận trong nước từ nhiều năm. Năm 2006, tuy chưa gọi là quốc phục nhưng
Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã mặc áo dài gấm vàng, cùng với lãnh đạo
các nước tham dự hội nghị APEC ở Hà Nội.
Đầu năm nay chuyện quốc phục lại được truyền
thông trong nước nhắc đến. Báo Đất Việt ngày 21-1-13 có bài phỏng vấn
nhà sử học Dương Trung Quốc và ông bày tỏ muốn có bộ quốc phục là khăn
đóng áo dài. Còn trên báo Đời Sống ngày 24-3-13, nhà ngoại giao Vũ Cường
cho rằng chọn quốc phục là không cần thiết vì áo dài tự bản chất đã đậm
nét văn hoá Việt vì rất nhiều người mặc, như áo kimono của người Nhật.
Ông nêu vấn đề nếu tôn vinh áo dài lên quốc phục, còn trang phục của 53
sắc dân khác thì sao?
Sau Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, chưa thấy lãnh đạo nào khác đã mặc khăn đóng áo dài trong dịp lễ hội.
Tại hải ngoại, quan chức ngoại giao Việt Nam như
Tổng lãnh sự Lê Quốc Hùng và Nguyễn Bá Hùng lại đi bước trước khi các
ông mặc khăn đóng áo dài đón Tết cùng kiều bào vùng San Francisco.
Nhưng làm sao để nhiều người Việt thích mặc áo dài là một điều khó khi ảnh hưởng văn hoá Âu Mỹ ngày càng sâu đậm tại Việt Nam.
Có thể bắt đầu từ học đường. Một chính sách đồng
phục cho học sinh, nữ sinh mặc áo dài, nam sinh quần xanh áo trắng sẽ
giúp thăng hoa áo dài trở lại và làm đẹp cho phong cảnh quê hương.
Tháng Tư nghĩ về văn hoá. Vì văn hoá là hạt mầm sẽ nở ra những bông hoa tươi đẹp.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130428_thang4_vanhoa_aodai.shtml
"Những nhà lãnh đạo đã bệ nguyên một
mô hình thể chế cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam, và cũng đã có những
nhìn nhận chỉ coi trọng vai trò của những người từ miền Bắc vào giải
phóng, tiếp quản."
Trong khi đó theo nhà nghiên cứu này những công lao, đóng góp của phe kháng chiến Nam Bộ, những người thuộc lực lượng thứ ba đã có vẻ đã bị coi nhẹ.
"Ngay từ những ngày tháng đầu đã xuất hiện những
ý kiến này khác, nhưng phải đợi tới các dấu mốc là năm 1986 khi ông
Nguyễn Văn Linh hứa hẹn đổi mới, để rồi sang những năm đầu thập niên
1990 ông Linh được cho là đã không giữ lời hứa, mà quay lưng lại với cải
cách, thì các ý kiến mạnh lên."
Ông Phương nói các cán bộ lãnh đạo thuộc các phong trào kháng chiến nam bộ, mặt trận cách mạng dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, các lực lượng bưng biền, các thành viên thuộc lực lượng thứ ba đã bắt đầu công khai lên tiếng.
"Những người như các ông Nguyễn Hộ, Trần Văn Trà, nhóm câu lạc bộ kháng chiến, rồi ông Trần Độ và nhiều người khác lên tiếng cho rằng ông Linh không giữ lời hứa," ông nói thêm.
Theo nhà nghiên cứu ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, đã bị phê phán vào thời điểm cuối thập niên 1980 - đầu 1990 là đã có hành vi trấn áp nhiều tiếng nói, trong đó có giới nhà báo, như bà Kim Hạnh, hay các đồng chí cũ như Nguyễn Hộ, hay Trần Độ v.v...
"Nguyễn Văn Linh liên kết với Trung Quốc, chấm dứt cải tổ và đó là bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam," ông Phương, nguyên Thứ trưởng Thông tin - Văn hóa của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, một tổ chức do chính quyền cộng sản Bắc Việt xây dựng nên, nói.
"Đã có sự phân hóa và cũng có những tiến triển,
nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển, mặc dù sự áp bức đã làm một số
người thay đổi thái độ, song số đông của phong trào vẫn tiếp tục vì họ
vẫn giữ được niềm tin vào sự thay đổi của đất nước, nhất là trước thực
trạng của Đảng" ông nói với BBC.
"Lẽ ra những người Cộng sản phải nhận thức được vị thế và thời cuộc của mình, và nếu họ thực sự yêu nước, thương nòi, thực sự có trách nhiệm, thì họ phải biết cần làm gì,
"Rút lui cũng là một lựa chọn, rút lui để dân tộc tiến bộ, đất nước hùng mạnh, là một lựa chọn đúng.
"Trong lịch sử những người cộng sản trước đây đã từng có lúc tuyên bố giải tán, tuyên bố rút lui, họ không nên tham quyền cố vị," nhà nghiên cứu nói.
Theo Lữ Phương, những người lãnh đạo cộng sản hiện nay đang phạm một sai lầm rất nghiêm trọng và to lớn:
"Họ đã đang dẫn đất nước tới một bờ vực của sự phá sản, suy thoái hoàn toàn, các giá trị cơ bản bị phá hoại,
"Họ đặt lợi ích của họ lên trên lợi ích chung của dân tộc, của nhân dân và đất nước, họ đang giữ chặt thể chế để không làm gì khác ngoài việc làm kinh tế cho họ, biến cả đất nước thành một cỗ máy làm ăn cho họ," nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến có thể coi là chỉ trích khá thẳng thắn.
"Họ đổi mới nửa vời, nay họ còn đang chia ra phe cánh với nhau để làm ăn, họ từ chối đổi mới chính trị đi đôi với cải tổ kinh tế. Họ coi nhân dân như kẻ thù. Rồi trong nội bộ nay họ cũng đang đấu đá, phe nọ đánh đấm phái kia quyết liệt, tanh bành...
"Họ biến đất nước thành một vũng lầy với đầy các tệ nạn từ hối lộ đến bất công, tràn lan, và hiện chưa rõ có con đường nào để thoát ra."
Nhà nghiên cứu cũng đưa ra một nhận xét nói hiện
nay đang có quan ngại trong lúc 'cùng quẫn' đảng có thể ngả theo Trung
Quốc để cố gắng có được sự hậu thuẫn, bất chấp tương lai, vận mệnh và
quyền lợi của dân tộc có thể bị thế lực ngoại bang này xâm phạm.
"Hãy xem Trung Quốc đang vào Việt Nam như thế nào, từ nhân lực cho tới doanh nghiệp, từ sản phẩm, cho tới thị trường và đồng thời họ cũng chiếm giữ, tiến chiếm, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để gặm nhấm dần dần đất đai và biển đảo của chúng ta."
"Trong khi ấy lãnh đạo Việt Nam suốt ngày nói về đoàn kết ý thức hệ, nói về giữ hòa khí và lấy cớ đó ngăn dân không cho người dân phản ứng, không cho họ lên tiếng trước thứ chủ nghĩa thực dân mới mà ai cũng nhận thấy rõ," ông Phương đưa ra bình luận có tính chất ít nhiều như cáo buộc.
"Không nên lấy số lượng để tính, những tiếng nói bất đồng từ 30/4, từ thập niên 1986, 1990 ấy vẫn âm thầm nhưng họ đang làm được một việc rất quan trọng, các tiếng nói ngày càng nhiều, như các vị Lê Hiếu Đằng, Trần Quốc Thuận, rồi nhiều vị khác nữa...
"Đó là gieo mầm, họ gieo những mầm mống để một ngày có điều kiện, đất nước sẽ có sự đổi thay.
"Số lượng không nói lên điều gì then chốt, chính những người cộng sản ngày trước, những năm 1945 khi họ làm cách mạng chống Pháp, khi họ còn trong vị trí bị trị, họ chỉ có mấy ngàn đảng viên đấy thôi."
Nhà nghiên cứu cũng cho rằng phong trào đang lớn mạnh lên rõ rệt, với nội dung bất đồng, chỉ trích, đấu tranh ngày càng quyết liệt, không khoan nhượng và triệt để hơn, bất chấp các rủi ro bị đàn áp.
"Từ các phong trào ấy, rồi gần đây mở ra, nào là
trang mạng Bauxite, những người ra kiến nghị về Thơ Trần Dần, nay phát
triển rộng khắp với nhiều nhóm khác,
"Hiện tại phong trào kiến nghị sửa hay đổi Hiến pháp cũng đang rất mạnh mẽ, quyết liệt. Còn trấn áp ư, trấn áp ngày nay so với xưa chưa là gì,
"Mà trấn áp người ta xong, bỏ tù người ta xong thì người ta ra tù lại phát biểu mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn, cho người ta đi tù là càng cấp bằng, là càng phong thánh cho người ta chứ gì," ông Lữ Phương nói.
Gần đây trong một phỏng vấn với BBC về phong trào bất đồng chính kiến và tranh đấu cho tự do dân chủ ôn hòa ở trong nước, một Bấm quan chức cao cấp trong ngạch đào tạo cán bộ lãnh đạo của Đảng cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam hiện không có đối thủ vì đối lập Bấm quá yếu và mỏng.
Phản biện lại ý kiến này, nhà bất đồng chính kiến, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang nói rằng chính do bị chế áp bằng chuyên chính vô sản của chính quyền mà phong trào có thể bị yếu, mỏng, hay có lúc bị phân chia, nhưng nhìn chung vẫn đang vận động tiến lên và có triển vọng
Còn luật sư Bấm Nguyễn Văn Đài, cũng từ Hà Nội, thì nói Đảng đông quân số, lại nắm hết các lực lượng chuyên chính từ quân đội, công an, tới tòa án và toàn bộ bộ máy chính trị, cai trị, nhưng thiếu chính nghĩa.
Trong khi vẫn theo nhà hoạt động dân chủ này, các lực lượng tranh đấu vì dân chủ tuy yếu hay mỏng, nhưng lại có tương lai vì nắm trong tay chính nghĩa và được sự ủng hộ của người dân và các phong trào tiến bộ dân chủ quốc tế.
Lê Quý Dương, đạo diễn sân khấu thế
hệ 6x từng chia sẻ một ám ảnh: năm anh 4 tuổi, B52 dội xuống Khâm Thiên,
sát nhà anh có bà già câm điếc sống một mình. mỗi khi có còi báo động
thì phải chạy qua gọi cụ. Lần ấy Dương bận lo cho mấy đứa em vì bố mẹ đi
vắng, không kịp chạy sang, khi còi báo yên anh trồi lên cũng là lúc
chứng kiến căn nhà của bà cụ chỉ còn là đống gạch vụn.
Món nợ ấy chuyển thành sự câm lặng nơi anh mỗi khi hồi ức chiến tranh trào lên. Anh mang sự câm lặng ấy vào tác phẩm, những vở kịch không lời thời anh du học Úc từng khiến khán giả bản xứ lặng đi giây lát.
Sau Dương vài năm, tôi sinh ra ngay miệng hố bom, giây phút chào đời của tôi đánh dấu bằng tiếng còi báo động. Mẹ tôi vẫn hay nửa đùa nửa thật kể rằng khi ấy, tất cả xuống hầm hết, lũ trẻ sơ sinh, vài đứa chưa được đánh số ở một hầm khác.
Khi lên, họ phát cho mỗi bà mẹ một đứa như phát bánh mì. Mẹ tôi chẳng có thời gian lẫn điều kiện để kiểm tra xem tôi có thực là con ruột của bà không.
Một buổi trưa, mẹ tôi từ nhà máy về, chạy ào vào nhà, làm đổ kềnh cả cái xe đạp vừa dựng. Bà ôm lấy chúng tôi khóc òa: Hòa bình rồi! Đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Có hàng ngàn đứa trẻ sinh ra trong năm này mang cái tên Hòa Bình, chúng không còn phải biết đến đạn bom và hầm trú ẩn.
Năm 1995, tôi có dịp đến Quảng Trị -Thừa Thiên.
Ngay sau chuyến đến thăm nghĩa trang Trường Sơn, tôi gặp một bà mẹ anh
hùng trong một ngôi làng bờ bắc sông Bến Hải mà số liệt sĩ gần bằng số
hộ dân đang cư trú.
Bà mẹ liệt sĩ đã mất chồng và hai con cho hai cuộc chiến, côi cút trong căn chòi ọp ẹp với một con heo ốm nhom.
Cát trắng không một chút màu mỡ nhưng giấu bên dưới nhiều phế liệu, nguồn thu nhập chính của dân trong vùng. Lâu lâu, một tiếng nổ vang trời lấy đi sinh mạng hay một phần cơ thể, một đứa trẻ ở độ tuổi đi học.
Trong ý thức của tôi, cuộc chiến đã thêm màu trắng, của cát, của hàng trăm ngàn bia mộ trong nghĩa trang Trường Sơn và trên mái đầu bạc, trong ánh mắt đục thủy tinh thể của những người mẹ già không còn xúc cảm kia.
Từ 1996, tôi chuyển vào Sài Gòn. Những người bạn trí thức miền Nam dần dần pha thêm cho cuộc chiến trong tôi một màu sắc khác: màu tối của những nòng súng chúc xuống đất, những bộ quân phục cởi vội vứt bên vệ đường và những đôi mắt khép của bên thất trận. Và tôi biết với họ, nó chưa bao giờ kết thúc.
Công bằng mà nói, đối với nhiều người miền Nam, ngày 30 tháng 4, vừa là nỗi đau nhưng cũng vứa chan chứa niềm vui kết thúc chiến tranh, kết thúc cảnh "đại bác đêm đêm dội về thành phố", kết thúc cảnh các cô gái đi làm, đi học đều mang vài trái chanh trong túi để đối phó với hơi lựu đạn cay của cảnh sát đi giải tán những cuộc biểu tình phản chiến diễn ra như cơm bữa trên đường phố.
Khi nơi họ sống chính là chiến trường thì chiến tranh là bất đắc dĩ, là phi nhân, rất đáng kinh sợ.
Bà ngoại tôi là Phật tử tại gia, khi cậu tôi bỏ
dở đại học Bách khoa Hà Nội để vào chiến trường miền Nam, bà tôi chỉ
nhất tâm cầu nguyện không có viên đạn nào từ súng của con mình bắn ra
làm phương hại đến một ai. Ông chú ruột có mặt trong đoàn quân giải
phóng, sau 30/4 được giữ lại trường sĩ quan Thủ Đức làm công tác đào tạo
nhưng ông nội tôi nhất quyết phản đối. Ông bảo: “đã bảo là đánh đuổi đế
quốc, Mỹ cút rồi thì về nhà, giao lại cho người dân, thế mới là chính
nghĩa!”
Men say chiến thắng của cậu và chú tôi không kéo dài bao lâu vì sau đó họ đều phải tập trung học nốt chương trình đại học và lo toan mưu sinh. 30 tháng 4 hằng năm họ tụ tập bạn bè lại uống vài vại bia với lạc rang, ôn lại mấy lần chết hụt.
30 tháng 4 của 4x, và 5x màu ly bia hơi sủi bọt.
Giới công chức bạn bè 6x, 7x, 8x của tôi nhiều năm nay đều xem 30/4 với 1/5 là chuỗi nghỉ dài, họ tranh thủ về quê, đi picnic, xông xênh hơn thì đi du lịch nước ngoài.
30 tháng 4 của họ mang màu những tấm vé.
Vừa rồi trên mạng rộ lên một phong trào nhuộm đỏ Facebook được sự hưởng ứng nhiệt tình của nhiều công chức lề phải ở tuổi trung niên, đưa đến những cuộc tranh cãi bất phân thắng bại giữa hai bên, khiến dòng Bến Hải năm xưa lại sôi sùng sục.
Vì sao chiến thắng 30 tháng 4 vẫn khiến những người ở bờ Bắc phấn khích đến thế? Câu hỏi đặt ra là nếu họ có đầy đủ thông tin, họ có ứng xử khác đi không?
Vì sao họ có thể bắt tay làm ăn với người Mỹ mà 38 năm rồi vẫn không quên được “tội ác của Mỹ-Ngụy”? Vì sao họ khao khát “làm bạn với các nước”, mong mỏi xóa bỏ cấm vận, đổ ra đường chào đón Tổng thống Mỹ mà lại ngồi mãi trên yên cương với vòng hoa chiến thắng để khoét sâu thêm nỗi đau và khoảng cách khó xóa với chính đồng bào mình - những kẻ ngã ngựa, dù chiến tranh đã kết thúc lâu lắm rồi?
Ngày 30/4 khởi đầu một trào lưu bất đồng
Cập nhật: 17:49 GMT - thứ ba, 30 tháng 4, 2013
Ngày 30/4/1975 đánh dấu mầm
mống khởi đầu của sự bất đồng trong chính nội bộ phe những người cộng
sản giành chiến thắng trong cuộc tiến chiếm Sài Gòn, theo nhà nghiên cứu
từ trong nước.
Trao đổi với BBC hôm thứ Ba từ Sài Gòn, nhà
nghiên cứu độc lập Lữ Phương nói ngay từ những ngày đầu tiên sau giải
phóng, đã xuất hiện những rạn nứt trong cách thức nhìn nhận cuộc chiến
và cách ứng xử với phần lãnh thổ mà quân đội miền Bắc vừa chiếm được từ
tay chính quyền Sài Gòn.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trong khi đó theo nhà nghiên cứu này những công lao, đóng góp của phe kháng chiến Nam Bộ, những người thuộc lực lượng thứ ba đã có vẻ đã bị coi nhẹ.
Được hỏi từ khi nào thì xuất hiện những tư tưởng
bất đồng đầu tiên trong hàng ngũ những người cộng sản tham gia điều
hành chính quyền ở miền Nam hậu giải phóng, nhà nghiên cứu nói:
"Nguyễn Văn Linh liên kết với Trung Quốc, chấm dứt cải tổ và đó là bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam"
Lữ Phương
Ông Phương nói các cán bộ lãnh đạo thuộc các phong trào kháng chiến nam bộ, mặt trận cách mạng dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, các lực lượng bưng biền, các thành viên thuộc lực lượng thứ ba đã bắt đầu công khai lên tiếng.
"Những người như các ông Nguyễn Hộ, Trần Văn Trà, nhóm câu lạc bộ kháng chiến, rồi ông Trần Độ và nhiều người khác lên tiếng cho rằng ông Linh không giữ lời hứa," ông nói thêm.
Theo nhà nghiên cứu ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, đã bị phê phán vào thời điểm cuối thập niên 1980 - đầu 1990 là đã có hành vi trấn áp nhiều tiếng nói, trong đó có giới nhà báo, như bà Kim Hạnh, hay các đồng chí cũ như Nguyễn Hộ, hay Trần Độ v.v...
"Nguyễn Văn Linh liên kết với Trung Quốc, chấm dứt cải tổ và đó là bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam," ông Phương, nguyên Thứ trưởng Thông tin - Văn hóa của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, một tổ chức do chính quyền cộng sản Bắc Việt xây dựng nên, nói.
'Bờ vực phá sản'
Ba mươi tám năm sau sự kiện 30/4, theo nhà nghiên cứu, phong trào bất đồng trong nội bộ đảng cộng sản ở miền Nam vẫn có những tiến triển đáng kể."Rút lui cũng là một lựa chọn, rút lui để dân tộc tiến bộ, đất nước hùng mạnh, là một lựa chọn đúng. Trong lịch sử những người cộng sản trước đây đã từng có lúc tuyên bố giải tán, tuyên bố rút lui"
Lữ Phương
"Lẽ ra những người Cộng sản phải nhận thức được vị thế và thời cuộc của mình, và nếu họ thực sự yêu nước, thương nòi, thực sự có trách nhiệm, thì họ phải biết cần làm gì,
"Rút lui cũng là một lựa chọn, rút lui để dân tộc tiến bộ, đất nước hùng mạnh, là một lựa chọn đúng.
"Trong lịch sử những người cộng sản trước đây đã từng có lúc tuyên bố giải tán, tuyên bố rút lui, họ không nên tham quyền cố vị," nhà nghiên cứu nói.
Theo Lữ Phương, những người lãnh đạo cộng sản hiện nay đang phạm một sai lầm rất nghiêm trọng và to lớn:
"Họ đã đang dẫn đất nước tới một bờ vực của sự phá sản, suy thoái hoàn toàn, các giá trị cơ bản bị phá hoại,
"Họ đặt lợi ích của họ lên trên lợi ích chung của dân tộc, của nhân dân và đất nước, họ đang giữ chặt thể chế để không làm gì khác ngoài việc làm kinh tế cho họ, biến cả đất nước thành một cỗ máy làm ăn cho họ," nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến có thể coi là chỉ trích khá thẳng thắn.
"Họ đổi mới nửa vời, nay họ còn đang chia ra phe cánh với nhau để làm ăn, họ từ chối đổi mới chính trị đi đôi với cải tổ kinh tế. Họ coi nhân dân như kẻ thù. Rồi trong nội bộ nay họ cũng đang đấu đá, phe nọ đánh đấm phái kia quyết liệt, tanh bành...
"Họ biến đất nước thành một vũng lầy với đầy các tệ nạn từ hối lộ đến bất công, tràn lan, và hiện chưa rõ có con đường nào để thoát ra."
"Hãy xem Trung Quốc đang vào Việt Nam như thế nào, từ nhân lực cho tới doanh nghiệp, từ sản phẩm, cho tới thị trường và đồng thời họ cũng chiếm giữ, tiến chiếm, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để gặm nhấm dần dần đất đai và biển đảo của chúng ta."
"Trong khi ấy lãnh đạo Việt Nam suốt ngày nói về đoàn kết ý thức hệ, nói về giữ hòa khí và lấy cớ đó ngăn dân không cho người dân phản ứng, không cho họ lên tiếng trước thứ chủ nghĩa thực dân mới mà ai cũng nhận thấy rõ," ông Phương đưa ra bình luận có tính chất ít nhiều như cáo buộc.
'Âm thầm gieo mầm'
Khi được hỏi liệu những nhà bất đồng xuất phát từ các cựu lãnh đạo, các đảng viên, các thành viên kháng chiến cũ nay có thể quá ít ỏi, yếu về tiếng nói và không có tương lai hay không, như một số ý kiến của giới chức chính quyền, ông Phương nói:"Không nên lấy số lượng để tính, những tiếng nói bất đồng từ 30/4, từ thập niên 1986, 1990 ấy vẫn âm thầm nhưng họ đang làm được một việc rất quan trọng, các tiếng nói ngày càng nhiều, như các vị Lê Hiếu Đằng, Trần Quốc Thuận, rồi nhiều vị khác nữa...
"Đó là gieo mầm, họ gieo những mầm mống để một ngày có điều kiện, đất nước sẽ có sự đổi thay.
"Số lượng không nói lên điều gì then chốt, chính những người cộng sản ngày trước, những năm 1945 khi họ làm cách mạng chống Pháp, khi họ còn trong vị trí bị trị, họ chỉ có mấy ngàn đảng viên đấy thôi."
Nhà nghiên cứu cũng cho rằng phong trào đang lớn mạnh lên rõ rệt, với nội dung bất đồng, chỉ trích, đấu tranh ngày càng quyết liệt, không khoan nhượng và triệt để hơn, bất chấp các rủi ro bị đàn áp.
"Mà trấn áp người ta xong, bỏ tù người ta xong thì người ta ra tù lại phát biểu mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn, cho người ta đi tù là càng cấp bằng, là càng phong thánh cho người ta chứ gì"
Lữ Phương
"Hiện tại phong trào kiến nghị sửa hay đổi Hiến pháp cũng đang rất mạnh mẽ, quyết liệt. Còn trấn áp ư, trấn áp ngày nay so với xưa chưa là gì,
"Mà trấn áp người ta xong, bỏ tù người ta xong thì người ta ra tù lại phát biểu mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn, cho người ta đi tù là càng cấp bằng, là càng phong thánh cho người ta chứ gì," ông Lữ Phương nói.
Gần đây trong một phỏng vấn với BBC về phong trào bất đồng chính kiến và tranh đấu cho tự do dân chủ ôn hòa ở trong nước, một Bấm quan chức cao cấp trong ngạch đào tạo cán bộ lãnh đạo của Đảng cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam hiện không có đối thủ vì đối lập Bấm quá yếu và mỏng.
Phản biện lại ý kiến này, nhà bất đồng chính kiến, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang nói rằng chính do bị chế áp bằng chuyên chính vô sản của chính quyền mà phong trào có thể bị yếu, mỏng, hay có lúc bị phân chia, nhưng nhìn chung vẫn đang vận động tiến lên và có triển vọng
Còn luật sư Bấm Nguyễn Văn Đài, cũng từ Hà Nội, thì nói Đảng đông quân số, lại nắm hết các lực lượng chuyên chính từ quân đội, công an, tới tòa án và toàn bộ bộ máy chính trị, cai trị, nhưng thiếu chính nghĩa.
Trong khi vẫn theo nhà hoạt động dân chủ này, các lực lượng tranh đấu vì dân chủ tuy yếu hay mỏng, nhưng lại có tương lai vì nắm trong tay chính nghĩa và được sự ủng hộ của người dân và các phong trào tiến bộ dân chủ quốc tế.
Còn một vĩ tuyến 17 trong tâm thức?
Phạm Tường Vân
Gửi tới BBC từ Sài Gòn
Cập nhật: 04:08 GMT - thứ ba, 30 tháng 4, 2013
Đâu là sự khác nhau khi viết
những tác phẩm về chiến tranh ngày hôm qua và những cuộc chiến mới xảy
ra hôm nay? Và nhân tố hoà bình sẽ nằm ở đâu trong những tác phẩm ấy?
Đến khi nào những câu chuyện hôm qua trở nên chán ngắt?
Chúng tôi vẫn hỏi nhau như vậy, khi bàn chuyện viết.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Món nợ ấy chuyển thành sự câm lặng nơi anh mỗi khi hồi ức chiến tranh trào lên. Anh mang sự câm lặng ấy vào tác phẩm, những vở kịch không lời thời anh du học Úc từng khiến khán giả bản xứ lặng đi giây lát.
Sau Dương vài năm, tôi sinh ra ngay miệng hố bom, giây phút chào đời của tôi đánh dấu bằng tiếng còi báo động. Mẹ tôi vẫn hay nửa đùa nửa thật kể rằng khi ấy, tất cả xuống hầm hết, lũ trẻ sơ sinh, vài đứa chưa được đánh số ở một hầm khác.
Khi lên, họ phát cho mỗi bà mẹ một đứa như phát bánh mì. Mẹ tôi chẳng có thời gian lẫn điều kiện để kiểm tra xem tôi có thực là con ruột của bà không.
Một buổi trưa, mẹ tôi từ nhà máy về, chạy ào vào nhà, làm đổ kềnh cả cái xe đạp vừa dựng. Bà ôm lấy chúng tôi khóc òa: Hòa bình rồi! Đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Có hàng ngàn đứa trẻ sinh ra trong năm này mang cái tên Hòa Bình, chúng không còn phải biết đến đạn bom và hầm trú ẩn.
30 tháng 4 màu gì?
"Khi nơi họ sống chính là chiến trường thì chiến tranh là bất đắc dĩ, là phi nhân, rất đáng kinh sợ."
Bà mẹ liệt sĩ đã mất chồng và hai con cho hai cuộc chiến, côi cút trong căn chòi ọp ẹp với một con heo ốm nhom.
Cát trắng không một chút màu mỡ nhưng giấu bên dưới nhiều phế liệu, nguồn thu nhập chính của dân trong vùng. Lâu lâu, một tiếng nổ vang trời lấy đi sinh mạng hay một phần cơ thể, một đứa trẻ ở độ tuổi đi học.
Trong ý thức của tôi, cuộc chiến đã thêm màu trắng, của cát, của hàng trăm ngàn bia mộ trong nghĩa trang Trường Sơn và trên mái đầu bạc, trong ánh mắt đục thủy tinh thể của những người mẹ già không còn xúc cảm kia.
Từ 1996, tôi chuyển vào Sài Gòn. Những người bạn trí thức miền Nam dần dần pha thêm cho cuộc chiến trong tôi một màu sắc khác: màu tối của những nòng súng chúc xuống đất, những bộ quân phục cởi vội vứt bên vệ đường và những đôi mắt khép của bên thất trận. Và tôi biết với họ, nó chưa bao giờ kết thúc.
Công bằng mà nói, đối với nhiều người miền Nam, ngày 30 tháng 4, vừa là nỗi đau nhưng cũng vứa chan chứa niềm vui kết thúc chiến tranh, kết thúc cảnh "đại bác đêm đêm dội về thành phố", kết thúc cảnh các cô gái đi làm, đi học đều mang vài trái chanh trong túi để đối phó với hơi lựu đạn cay của cảnh sát đi giải tán những cuộc biểu tình phản chiến diễn ra như cơm bữa trên đường phố.
Khi nơi họ sống chính là chiến trường thì chiến tranh là bất đắc dĩ, là phi nhân, rất đáng kinh sợ.
Men say chiến thắng của cậu và chú tôi không kéo dài bao lâu vì sau đó họ đều phải tập trung học nốt chương trình đại học và lo toan mưu sinh. 30 tháng 4 hằng năm họ tụ tập bạn bè lại uống vài vại bia với lạc rang, ôn lại mấy lần chết hụt.
30 tháng 4 của 4x, và 5x màu ly bia hơi sủi bọt.
Giới công chức bạn bè 6x, 7x, 8x của tôi nhiều năm nay đều xem 30/4 với 1/5 là chuỗi nghỉ dài, họ tranh thủ về quê, đi picnic, xông xênh hơn thì đi du lịch nước ngoài.
30 tháng 4 của họ mang màu những tấm vé.
Còn một vĩ tuyến 17 trong tâm thức?
Nhưng dường như vẫn có một dòng Bến Hải chảy trong tâm thức chúng ta, giữa công chức miền Nam và miền Bắc, giữa những người làm cho công ty nước ngoài hoặc doanh nghiệp tư nhân so với các công chức nhà nước.Vừa rồi trên mạng rộ lên một phong trào nhuộm đỏ Facebook được sự hưởng ứng nhiệt tình của nhiều công chức lề phải ở tuổi trung niên, đưa đến những cuộc tranh cãi bất phân thắng bại giữa hai bên, khiến dòng Bến Hải năm xưa lại sôi sùng sục.
Vì sao chiến thắng 30 tháng 4 vẫn khiến những người ở bờ Bắc phấn khích đến thế? Câu hỏi đặt ra là nếu họ có đầy đủ thông tin, họ có ứng xử khác đi không?
Vì sao họ có thể bắt tay làm ăn với người Mỹ mà 38 năm rồi vẫn không quên được “tội ác của Mỹ-Ngụy”? Vì sao họ khao khát “làm bạn với các nước”, mong mỏi xóa bỏ cấm vận, đổ ra đường chào đón Tổng thống Mỹ mà lại ngồi mãi trên yên cương với vòng hoa chiến thắng để khoét sâu thêm nỗi đau và khoảng cách khó xóa với chính đồng bào mình - những kẻ ngã ngựa, dù chiến tranh đã kết thúc lâu lắm rồi?
Trí não con người có một chức năng quái quỷ là
hoàn toàn đóng chặt cửa với tất cả những gì nó không muốn. Trong trường
hợp này, phải chăng họ cần cảm giác chiến thắng để vực dậy niềm tin cho
một cuộc chiến khác, cuộc chiến chống lại sự tụt hậu, suy thoái trong
kinh tế - văn hóa - giáo dục – đạo đức mà họ đang dự phần và đang trào
dâng dự cảm thua cuộc?
Tôi cũng có một câu chuyện để kể với bên không thắng cuộc:
Có một người lính miền Bắc, sau chiến tranh tiếp
quản một căn biệt thự của một sĩ quan VNCH, chiến lợi phẩm của anh là
chiếc bàn viết bằng sắt. Không ai biết trong đó đã được gài lại một món
quà cho bên thắng cuộc mà chỉ cần mở ngăn kéo ra là phát nổ.
Nhưng người nhận món quà đó không phải người
lính giải phóng mà là đứa con gái nhỏ lẫm chẫm biết đi. Vụ nổ không đủ
sức cướp đi sinh mạng cô bé nhưng biến em thành người tàn phế, mù hai
mắt, cụt hai tay. Tuyết – một nữ sinh giỏi, đầy nghị lực, niềm tự hào
của trường khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu Sài Gòn đã “quyết toán” món nợ
của hai bên như thế.
Đây là câu chuyện có thật về một cô gái hiện
sống bên Mỹ với một người chồng Mỹ sau một đám cưới cổ tích tốn không ít
giấy mực của cánh báo chí. Nếu bạn muốn biết thực hư cứ đến giở lại hồ
sơ của trường này.
Tôi cũng muốn hỏi những người bờ Nam con sông: như vậy đã đủ chưa, để khép lại một mối cừu thù?
Khi một phóng viên Mỹ hỏi về thái độ đối với
người Mỹ sau hai quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki,
nhiều người Nhật lớn tuổi đã đáp lại anh ta: "Cám ơn các anh đã buộc
chúng tôi dừng lại."
Thống tướng Douglas MacArthur – người đã cầm
quân đánh bại quân Nhật và chỉ huy lực lượng chiếm đóng nước Nhật hậu
chiến – chính là một trong những người được nhân dân Nhật ghi ơn cho đến
ngày nay vì đã giúp họ cải cách ruộng đất, soạn Hiến pháp, thành lập
một nền dân chủ để họ trở thành một quốc gia siêu cường.
"Cá nhân tôi nhìn nhận: một đại gia đình trải qua 38 năm dằng dặc mà huynh đệ vẫn còn chưa dứt chuyện thắng thua, thì đó là một gia đình có vấn đề về nhận thức."
Phạm Tường Vân
Sau Thế chiến II, một số người dân Nhật đã tôn kính treo hình ông – người từng đánh bại họ.
Nghĩa trang Quốc gia Arlington của Hoa Kỳ là nơi
an nghỉ của hàng ngàn binh sĩ thuộc cả hai phe Nam Bắc đã tử trận trong
cuộc Nội chiến 1865.
Cách đây vài năm, một cuộc khảo sát của Đại học
Hebrew Jerusalem cho thấy 61% người Do Thái 'hài lòng' (satisfied) với
thái độ nhận trách nhiệm của người Đức về cuộc diệt chủng năm xưa,
80% dân Israel cảm thấy quan hệ giữa hai nước là hoàn toàn bình thường.
Người Việt nghĩ gì về thái độ của những dân tộc ấy đối với cựu thù trong chiến tranh của họ?
Cá nhân tôi nhìn nhận: một đại gia đình trải qua
38 năm dằng dặc mà huynh đệ vẫn còn chưa dứt chuyện thắng thua, thì đó
là một gia đình có vấn đề về nhận thức.
Một dân tộc đau yếu khiến người ta không khỏi
hoài nghi khả năng thích ứng của nó trong kỷ nguyên tiếp theo. Liệu
chúng ta có đủ năng lực để cạnh tranh và phát triển trong thời đại mới,
sẵn sàng đối đầu với những cuộc chiến của kỷ nguyên số và siêu vi trùng
ngàn lần phức tạp hơn?
38 năm đủ để những đứa trẻ mang tên Hòa Bình hay
Thống Nhất năm xưa sinh ra những đứa con tuổi teen hôm nay, biết tư duy
như một công dân toàn cầu, giỏi công nghệ, chiếm lĩnh các mạng xã hội
để đặt cho người lớn những câu hỏi nhức nhối.
Và với chúng, câu chuyện hôm qua nhất thiết phải được kể theo lối mới.
Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả, một nhà văn, nhà báo sống tại TP Hồ Chí Minh.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
HÌNH ẢNH NGÀY QUỐC HẬN TẠI HẢI NGOẠI
Monday, April 29, 2013
HÌNH ẢNH NGÀY QUỐC HẬN TẠI HẢI NGOẠI
Nhiều người trẻ tham gia lễ tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng Tư năm
2013 - Cờ vàng VNCH vẫn tung bay khắp thế giới sau 38 năm
(VienDongDaily.Com - 29/04/2013)
WESTMINSTER
– Vào cuối tuần qua, từ khu phố Little Saigon, Nam California đến những
thành phố có người Việt sinh sống trên khắp thế giới, các cộng đồng
người Việt tị nạn cộng sản đã tổ chức lễ tưởng niệm ghi nhận ngày Quốc
Hận 30 tháng Tư lần thứ 38 kể từ ngày Cộng Sản chiếm miền Nam Việt Nam
năm 1975. Trong những buổi lễ năm nay tại Mỹ, Úc, Gia Nã Đại, Đức và
Pháp, nhiều người Việt trẻ tuổi đã tham gia cùng với các thế hệ cha mẹ,
ông bà, những người phải phải lìa xa quê hương gần bốn thập niên trước.
Lễ tưởng niệm 30 Tháng Tư tại Phoenix, Arizona ngày 27-4. (Hình: Phạm Thanh)
Tại Little Saigon, vào chiều thứ Bảy 27-4-2013, hàng ngàn đồng hương Việt Nam và các vị dân cử Mỹ - Việt cùng nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam đã có mặt trong buổi lễ Tưởng Niệm Quốc Hận do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California phối hợp với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ và các hội đoàn, đoàn thể tổ chức tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở thành phố Westminster. Vào trưa Chủ Nhật 28-4, một buổi lễ Kỷ Niệm 10 Năm Thành Lập Tượng Đài Chiến Sĩ Việt - Mỹ cũng được long trọng tổ chức tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. (Xin đọc chi tiết trong bài viết của phóng viên Thanh Phong trên trang nhất hôm nay).
Các vị lãnh đạo tôn giáo và quan khách đang dự lễ chào cờ trong buổi tưởng niệm
Quốc Hận 30 tháng Tư tại thương xá Eden, Fairfax chiều thứ Bảy. (Hình: Lê Tiến Dũng)
Bên cạnh tiểu bang California, các hội đoàn và đoàn thể ở Arizona đã tổ chức ba buổi lễ nhân dịp tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng Tư tại Phoenix, thành phố lớn nhất tiểu bang. Đầu tiên là Lễ Truy Điệu hương linh đồng bào, quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh bảo vệ tổ quốc vào chiều thứ Bảy 27-4 tại Kỳ Đài trước dinh thống đốc Arizona.
Trong ngày Chủ Nhật, vào buổi sáng cộng đồng người Việt, nhiều đoàn thể và Hội Cựu Quân Nhân QL/VNCH tại Arizona đã tổ chức lễ tưởng niệm và lễ rước quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Vào chiều cùng ngày là chương trình ca nhạc đấu tranh tưởng niệm 30 tháng Tư.
Hình ảnh biểu tình nhân ngày Quốc Hận tại quảng trường Trocadéro,
Paris ngày thứ Bảy. (Hình: Bích Xuân)
Tại tiểu bang Virginia ở miền đông Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt ở Hoa Thịnh Đốn và vùng phụ cận đã tổ chức lễ tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng Tư tại Kỳ Đài trong khu thương xá Eden, thành phố Fairfax. Vào chiều thứ Bảy 27-4, cả ngàn người cũng đã dự lễ Truy Điệu Tưởng Niệm Quân Dân Miền Nam Việt Nam tử vong trong cuộc chiến chống Cộng Sản. Qua ngày Chủ Nhật, nhiều người đã dự biểu tình trước tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn.
Trong khi đó ở Toronto, thành phố lớn nhất Gia Nã Đại, hàng trăm người đã dự lễ chào cờ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư do hội cựu quân nhân QLVNCH tỉnh bang Ontario, phối hợp với các hội đoàn bạn và cộng đồng, tổ chức tại quảng trường Nathan Phillips, trước tòa thị chính Toronto vào sáng thứ Bảy 27-4.
Một thiếu nữ dự biểu tình tại Caberra, Úc ngày thứ Bảy. (Hình: lyhuong.net)
Chương trình Quốc Hận năm nay tại Toronto còn có biểu tình tuần hành, đặt vòng hoa tưởng niệm, và văn nghệ. Lễ chào cờ năm nay có sự tham dự của Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, đại diện cho thủ tướng Harper, và nhiều dân biểu cũng như các giới chức trong chính quyền. Ban tổ chức đã tặng 300 cây dù có hình quốc kỳ VNCH dành cho những người tham dự lễ tưởng niệm.
Ngoài Bắc Mỹ, một trong những nơi có đông người Việt tham dự lễ tưởng niệm Quốc Hận nhất năm nay là tại thủ đô Canberra ở nước Úc. Theo ghi nhận trên trang mạng Lyhuong.net, hơn 2,000 đồng hương từ các thành phố lớn như Sydney, Melbourne, Adelaide, Perth và địa phương Canberra đã tập trung trước Tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam để dự lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư. Nhiều xe buýt được sử dụng để đưa người Việt từ khắp nơi đến Canberra.
Các vị đại diện các tiểu bang đã lên án CSVN đàn áp người dân, tước đoạt quyền làm người và dâng giang sơn gấm vóc cho Trung Cộng. Năm nay có sự hiện diện của anh Trương Quốc Việt, một người đã tọa kháng trước Tòa Đại Sứ CSVN từ ngày 23-4 đến cho đến nay.
Sau buổi lễ tưởng niệm, đồng hương, các viên chức địa phương, các dân biểu tiểu bang và liên bang Úc và đại diên của Hội Chiến Binh Úc Đại Lợi đã đến Đài Chiến Sĩ Úc Việt trên đường ANZAC Parade để tưởng niệm 50 năm Quân đội Hoàng Gia Úc tham chiến vào chiến trường Việt Nam để bảo vệ nền tự do của miền Nam Việt Nam.
Phút mặc niệm dành cho các nạn nhân của CSVN trong lễ tưởng niệm Quốc Hận
tại Frankfurt, Đức trưa thứ Bảy. (Hình: Trùng Dương T Nguyễn)
Trong những đồng hương dự lễ có rất nhiều sinh viên, học sinh Úc gốc Việt. Cũng rất đặc biệt năm nay, khu thương mại Sài Gòn Place ở Bankstown ở thành phố Sydney treo cờ Vàng VNCH để tưởng niệm ngày Quốc Hận.
Tại Âu Châu, cộng đồng người Việt tị nạn đã tổ chức lễ tưởng niệm tại thành phố Frankfurt, Đức vào trưa thứ Bảy. Mặc dù thời tiết xấu, hàng trăm người Việt và một số người Đức đã biểu tình trước Tòa Lãnh Sự CSVN. Chương trình tưởng niệm và biểu tình này được tổ chức bởi Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Đức và tại Frankfurt cùng liên kết với các tổ chức đoàn thể khắp nước Đức. Ban tổ chức đã phát truyền đơn bằng tiếng Việt cũng như tiếng Đức cho người tham dự. Nhiều người đã xúc động trong phút mặc niệm dành cho các nạn nhân của chế độ CSVN.
Lễ rước kỳ trong buổi lễ tưởng niệm Quốc Hận tại tòa thị chánh Toronto,
Gia Nã Đại sáng thứ Bảy. (Hình: Bùi Sơn)
Theo ghi nhận trên mạng Dân Lầm Than, tình trạng trời mưa dầm và lạnh vào ngày thứ Bảy đã không làm sờn lòng hơn 200 người Việt từ các tiểu bang xa như Berlin, Hamburg, Munchen, Bremen,.... Họ đã tụ về trước Tòa Lãnh Sự CSVN nằm trên đường Kenedy Alle thuộc thành phố Frankfurt / Main để tham dự cuộc biểu tình tưởng niệm biến cố đau thương 30 tháng Tư cách đây 38 năm. Trong những người tham dự đặc biệt nhất là sự hiện diện của cụ Nguyễn Đình Tâm tròn 90 tuổi, đến từ Berlin đã được mọi người vỗ tay trân trọng tán thưởng.
Những bài phát biểu đã nhắc đến sự việc CSVN đã giam giữ hàng vạn quân nhân VNCH trong các trại tù cải tạo, khiến cho cả triệu người phải liều mạng vượt biển để tìm tự do. Những người phát biểu cũng không quên tố cáo âm mưu chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại qua nghị quyết 36 nhằm vô hiệu hóa những nỗ lực đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ tự do thực sự.
Một chương trình hội thảo và văn nghệ đấu tranh đã diễn ra vào chiều cùng ngày tại một địa điểm trên đường Borsig Allee 40, 60388 Frankfurt am Main.
Các em học sinh thuộc Hội Học Sinh Việt Nam Úc đang dự biểu tình trước
Tòa Đại Sứ CSVN tại thủ đô Canberra hôm thứ Bảy 27-4-2013. (Hình: lyhuong.net)
Tại thủ đô Paris, Pháp vào chiều thứ Bảy, theo lời mời gọi của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia, nhiều đồng hương cùng các vị lãnh đạo tôn giáo đã cùng nhau tụ tập về quảng trường Trocadéro Paris, để dự biểu tình tưởng niệm Quốc Hận. Cũng như tại Frankfurt, Đức, ban tổ chức tại Paris đã phân phát hàng ngàn truyền đơn viết bằng ngoại ngữ dành cho người ngoại quốc. Quảng trường là nơi nhiều du khách từ khắp thế giới đến xem Tháp Eiffel. Như ở hầu hết những nơi tổ chức lễ tưởng niệm Quốc Hận cuối tuần qua, chương trình tại thủ đô Paris đã có nhiều người trẻ tham dự.
Lễ tưởng niệm 30 Tháng Tư tại Phoenix, Arizona ngày 27-4. (Hình: Phạm Thanh)
Tại Little Saigon, vào chiều thứ Bảy 27-4-2013, hàng ngàn đồng hương Việt Nam và các vị dân cử Mỹ - Việt cùng nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam đã có mặt trong buổi lễ Tưởng Niệm Quốc Hận do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California phối hợp với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ và các hội đoàn, đoàn thể tổ chức tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở thành phố Westminster. Vào trưa Chủ Nhật 28-4, một buổi lễ Kỷ Niệm 10 Năm Thành Lập Tượng Đài Chiến Sĩ Việt - Mỹ cũng được long trọng tổ chức tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. (Xin đọc chi tiết trong bài viết của phóng viên Thanh Phong trên trang nhất hôm nay).
Các vị lãnh đạo tôn giáo và quan khách đang dự lễ chào cờ trong buổi tưởng niệm
Quốc Hận 30 tháng Tư tại thương xá Eden, Fairfax chiều thứ Bảy. (Hình: Lê Tiến Dũng)
Bên cạnh tiểu bang California, các hội đoàn và đoàn thể ở Arizona đã tổ chức ba buổi lễ nhân dịp tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng Tư tại Phoenix, thành phố lớn nhất tiểu bang. Đầu tiên là Lễ Truy Điệu hương linh đồng bào, quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh bảo vệ tổ quốc vào chiều thứ Bảy 27-4 tại Kỳ Đài trước dinh thống đốc Arizona.
Trong ngày Chủ Nhật, vào buổi sáng cộng đồng người Việt, nhiều đoàn thể và Hội Cựu Quân Nhân QL/VNCH tại Arizona đã tổ chức lễ tưởng niệm và lễ rước quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Vào chiều cùng ngày là chương trình ca nhạc đấu tranh tưởng niệm 30 tháng Tư.
Hình ảnh biểu tình nhân ngày Quốc Hận tại quảng trường Trocadéro,
Paris ngày thứ Bảy. (Hình: Bích Xuân)
Tại tiểu bang Virginia ở miền đông Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt ở Hoa Thịnh Đốn và vùng phụ cận đã tổ chức lễ tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng Tư tại Kỳ Đài trong khu thương xá Eden, thành phố Fairfax. Vào chiều thứ Bảy 27-4, cả ngàn người cũng đã dự lễ Truy Điệu Tưởng Niệm Quân Dân Miền Nam Việt Nam tử vong trong cuộc chiến chống Cộng Sản. Qua ngày Chủ Nhật, nhiều người đã dự biểu tình trước tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn.
Trong khi đó ở Toronto, thành phố lớn nhất Gia Nã Đại, hàng trăm người đã dự lễ chào cờ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư do hội cựu quân nhân QLVNCH tỉnh bang Ontario, phối hợp với các hội đoàn bạn và cộng đồng, tổ chức tại quảng trường Nathan Phillips, trước tòa thị chính Toronto vào sáng thứ Bảy 27-4.
Một thiếu nữ dự biểu tình tại Caberra, Úc ngày thứ Bảy. (Hình: lyhuong.net)
Chương trình Quốc Hận năm nay tại Toronto còn có biểu tình tuần hành, đặt vòng hoa tưởng niệm, và văn nghệ. Lễ chào cờ năm nay có sự tham dự của Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, đại diện cho thủ tướng Harper, và nhiều dân biểu cũng như các giới chức trong chính quyền. Ban tổ chức đã tặng 300 cây dù có hình quốc kỳ VNCH dành cho những người tham dự lễ tưởng niệm.
Ngoài Bắc Mỹ, một trong những nơi có đông người Việt tham dự lễ tưởng niệm Quốc Hận nhất năm nay là tại thủ đô Canberra ở nước Úc. Theo ghi nhận trên trang mạng Lyhuong.net, hơn 2,000 đồng hương từ các thành phố lớn như Sydney, Melbourne, Adelaide, Perth và địa phương Canberra đã tập trung trước Tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam để dự lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư. Nhiều xe buýt được sử dụng để đưa người Việt từ khắp nơi đến Canberra.
Các vị đại diện các tiểu bang đã lên án CSVN đàn áp người dân, tước đoạt quyền làm người và dâng giang sơn gấm vóc cho Trung Cộng. Năm nay có sự hiện diện của anh Trương Quốc Việt, một người đã tọa kháng trước Tòa Đại Sứ CSVN từ ngày 23-4 đến cho đến nay.
Sau buổi lễ tưởng niệm, đồng hương, các viên chức địa phương, các dân biểu tiểu bang và liên bang Úc và đại diên của Hội Chiến Binh Úc Đại Lợi đã đến Đài Chiến Sĩ Úc Việt trên đường ANZAC Parade để tưởng niệm 50 năm Quân đội Hoàng Gia Úc tham chiến vào chiến trường Việt Nam để bảo vệ nền tự do của miền Nam Việt Nam.
Phút mặc niệm dành cho các nạn nhân của CSVN trong lễ tưởng niệm Quốc Hận
tại Frankfurt, Đức trưa thứ Bảy. (Hình: Trùng Dương T Nguyễn)
Trong những đồng hương dự lễ có rất nhiều sinh viên, học sinh Úc gốc Việt. Cũng rất đặc biệt năm nay, khu thương mại Sài Gòn Place ở Bankstown ở thành phố Sydney treo cờ Vàng VNCH để tưởng niệm ngày Quốc Hận.
Tại Âu Châu, cộng đồng người Việt tị nạn đã tổ chức lễ tưởng niệm tại thành phố Frankfurt, Đức vào trưa thứ Bảy. Mặc dù thời tiết xấu, hàng trăm người Việt và một số người Đức đã biểu tình trước Tòa Lãnh Sự CSVN. Chương trình tưởng niệm và biểu tình này được tổ chức bởi Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Đức và tại Frankfurt cùng liên kết với các tổ chức đoàn thể khắp nước Đức. Ban tổ chức đã phát truyền đơn bằng tiếng Việt cũng như tiếng Đức cho người tham dự. Nhiều người đã xúc động trong phút mặc niệm dành cho các nạn nhân của chế độ CSVN.
Lễ rước kỳ trong buổi lễ tưởng niệm Quốc Hận tại tòa thị chánh Toronto,
Gia Nã Đại sáng thứ Bảy. (Hình: Bùi Sơn)
Theo ghi nhận trên mạng Dân Lầm Than, tình trạng trời mưa dầm và lạnh vào ngày thứ Bảy đã không làm sờn lòng hơn 200 người Việt từ các tiểu bang xa như Berlin, Hamburg, Munchen, Bremen,.... Họ đã tụ về trước Tòa Lãnh Sự CSVN nằm trên đường Kenedy Alle thuộc thành phố Frankfurt / Main để tham dự cuộc biểu tình tưởng niệm biến cố đau thương 30 tháng Tư cách đây 38 năm. Trong những người tham dự đặc biệt nhất là sự hiện diện của cụ Nguyễn Đình Tâm tròn 90 tuổi, đến từ Berlin đã được mọi người vỗ tay trân trọng tán thưởng.
Những bài phát biểu đã nhắc đến sự việc CSVN đã giam giữ hàng vạn quân nhân VNCH trong các trại tù cải tạo, khiến cho cả triệu người phải liều mạng vượt biển để tìm tự do. Những người phát biểu cũng không quên tố cáo âm mưu chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại qua nghị quyết 36 nhằm vô hiệu hóa những nỗ lực đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ tự do thực sự.
Một chương trình hội thảo và văn nghệ đấu tranh đã diễn ra vào chiều cùng ngày tại một địa điểm trên đường Borsig Allee 40, 60388 Frankfurt am Main.
Tòa Đại Sứ CSVN tại thủ đô Canberra hôm thứ Bảy 27-4-2013. (Hình: lyhuong.net)
Tại thủ đô Paris, Pháp vào chiều thứ Bảy, theo lời mời gọi của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia, nhiều đồng hương cùng các vị lãnh đạo tôn giáo đã cùng nhau tụ tập về quảng trường Trocadéro Paris, để dự biểu tình tưởng niệm Quốc Hận. Cũng như tại Frankfurt, Đức, ban tổ chức tại Paris đã phân phát hàng ngàn truyền đơn viết bằng ngoại ngữ dành cho người ngoại quốc. Quảng trường là nơi nhiều du khách từ khắp thế giới đến xem Tháp Eiffel. Như ở hầu hết những nơi tổ chức lễ tưởng niệm Quốc Hận cuối tuần qua, chương trình tại thủ đô Paris đã có nhiều người trẻ tham dự.
1.- Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Canada....
2.- Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Úc Châu...
Ngày Quốc Hận trước toà đại sứ VC tại Canberra (Thủ Đô Úc
Châu)
3.- Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Đức Quốc...
Đức Quốc: Hình Ảnh Quốc Hận tại Frankfurt 27.4.2013
4.- Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Pháp Quốc....
Quốc Hận tại Trocadéro, Paris:
BIỂU TÌNH KỶ NIỆM NGÀY QUỐC HẬN 30/04 TẠI PARIS
Hôm nay thứ bảy 27/04/2013, theo lời mời
gọi của Cộng Đồng Người Việt Quốc gia tại Pháp, một số đồng hương đã
không quản ngại trời lạnh và đường sá xa xôi, cùng nhau tụ tập về quảng
trường Trocadéro Paris, để biểu tình kỷ niệm ngày Quốc hận 30/04. Có vài
điểm đặc biệt đáng chú ý:
1) Cuộc biểu tình chú trọng đưa thông
điệp đến tận tay người ngoại quốc, cho nên hàng ngàn truyền đơn đều ghi
bằng ngoại ngữ và BTC đã chọn địa điểm tại quảng trường Trocadéro để
tiếp xúc và giải thích với số đông du khách ngoại quốc qua lại.
2) Kết án cuộc buôn bán quốc gia VNCH của bọn tư bản trong sự toan tính của Hiệp định Paris 1973.
Trong lúc chờ đợi chi tiết bài tường thuật, chúng tôi cho đăng tải một số hình ảnh vừa mới nhận được.
Ba Cây Trúc
Quốc Hận Tại Paris
HÌNH ẢNH : TUẤN ANH
5.- Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Hoa Kỳ....
Đón xem tin truyền hình được chiếu trên Đài SBTN-TV vào ngày 30-4-2013 và lưu trữ trên trang chính Người Việt Tây Bắc online.
QUỐC HẬN TẠI WASHINGTON
1- Quang cảnh hội trường- với bài diễn văn chính của buổi lễ của BS Nguyễn Xuân Dũng (CĐ Tacoma/Pierce County)
2-
Ban hợp ca trong đồng phục đen xuất hiện trong buổi lễ là một hình ảnh
thật trang nghiêm và xúc động trong không khí tưởng niệm.
3- Đồng hương nhiều thành phố xa gần tham gia lễ tưởng niệm, từ Renton-Seattle, như người trẻ là DS Rosalie Nguyễn người từng có những đóng góp với Cộng Đồng Tacoma và tổ chức bầu cử, bên cạnh là Ngô Mỹ Linh, chủ tịch cộng đồng Liên Quận Hạt Snohomish và King County cùng đoàn kết cùng chung một tâm tình tưởng niệm ngày Miền Nam Việt Nam- thất thủ.4- Thị Trưởng Tacoma Mary Strickland (giữa), sau khi phát biểu đã nhận quà kỷ niệm từ cựu Đại Tá Hứa Yến Lến (trái) trước sự chứng kiến của Trưởng Ban Tổ chức, BS Nguyễn Xuân Dũng (phải).
5- Hàng ghế quan khách và đại diện các hội đoàn tổ chức trong cộng đồng ./.
3- Đồng hương nhiều thành phố xa gần tham gia lễ tưởng niệm, từ Renton-Seattle, như người trẻ là DS Rosalie Nguyễn người từng có những đóng góp với Cộng Đồng Tacoma và tổ chức bầu cử, bên cạnh là Ngô Mỹ Linh, chủ tịch cộng đồng Liên Quận Hạt Snohomish và King County cùng đoàn kết cùng chung một tâm tình tưởng niệm ngày Miền Nam Việt Nam- thất thủ.4- Thị Trưởng Tacoma Mary Strickland (giữa), sau khi phát biểu đã nhận quà kỷ niệm từ cựu Đại Tá Hứa Yến Lến (trái) trước sự chứng kiến của Trưởng Ban Tổ chức, BS Nguyễn Xuân Dũng (phải).
5- Hàng ghế quan khách và đại diện các hội đoàn tổ chức trong cộng đồng ./.
http://www.nvnorthwest.com/
QUỐC HẬN TẠI SAN JOSE, CALIFORNIA, HOA KỲ
Last edited by Phú Yên; 01-05-2011 at 09:28 AM.
Hình Ảnh Buổi Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 tại TTVH Việt Mỹ SJ (t.t)
-Quang cảnh (hàng ghế giữa) trong hội trường sau khi làm lễ Chào Cờ
-Quang cảnh (hàng ghế trái) trong hội trường sau khi làm lễ Chào Cờ
-Quang cảnh (hàng ghế phải) trong hội trường sau khi làm lễ Chào Cờ
-Quang cảnh ngồi ngoài hành lang (vì trong hội trường đông nghẹt) sau khi làm lễ Chào Cờ
-Quang cảnh đứng quanh hành lang (vì trong hội trường đông nghẹt) sau khi làm lễ Chào Cờ
-Cô Vũ Thanh Phương, một Dân Oan tại VN được định cư tại HK, nói về thân phận của người dân trong chế độ độc tài cộng sản .
-Sau khi phát biểu xong, cô Vũ Thanh Phương và anh Vũ (...) được cô Ngọc tặng khăn quàng với biểu tượng cờ HK và Cờ Vàng
- Nam Cali: Hàng Ngàn Đồng Bào Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (P. 3 & Hết)
- Nam Cali: Hàng Ngàn Đồng Bào Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (P. 2)
- Nam Cali: Hàng Ngàn Đồng Bào Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ (P. 1)
- Arizona: Hình Ảnh Tưởng Niệm Quốc Hận 30-4 Tại Tượng Đài Việt- Mỹ Arizona
- Washington, Mỹ: Hình Ảnh Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận Năm Thứ 38 tại Tacoma/Pierce County
** Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận...
- YouTube Lễ Truy Điệu, do Cô Nam Anh / NVR HD Radio thực hiện...
http://www.youtube.com/watch?v=Ca_utT6qtQc
** Hình ảnh do CH Lê Tiến Dũng (K. 4/71 Thủ Đức) thực hiện...
5.- Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Hoa Kỳ....
BMH
Washington, D.C
Uỷ Ban Tượng Đài Westminster
(The Vietnam War Memorial Board of Directors, viết tắt: VNWM) mà Chủ
Tịch là Craig H. Mandeville, phối hợp với các thành phần của Cộng đồng
người Việt tỵ nạn cộng sản trong BTC Tưởng Niệm Tháng Tư Đen và Quốc Hận
30-4 Nam Cali tổ chức tưởng niệm Anh Hùng Tử Sĩ Việt-Mỹ nhân Tháng Tư
Đen đồng thời mang tích cách Kỷ Niệm Mười Năm thành lập Tượng Đài
(2003-2013). Mặc dù có sự bất ổn trong nội tình của VNWM nhưng rồi cũng
qua đi và buổi tưởng niệm đã diễn ra tốt đẹp theo dự trù trong ngày 28
tháng Tư, 2013 tại Tượng Đài Việt Mỹ Westminster, California. Ngoài
thành phần BTC có sự phối hợp chặt chẽ của các thành phần của BTC Tưởng
Niệm Tháng Tư Đen nêu trên, còn có Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ban Tù Ca
Xuân Điềm, các hội CNS Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt.
BẤM VÀO XEM HÌNH===> LỄ TƯỞNG NIỆM ANH HÙNG TỬ SĨ VIỆT-MỸ VÀ KỶ NIỆM MƯỜI NĂM THÀNH LẬP TƯỢNG ĐÀI VIỆT MỸ WESTMINSTER
Kính thưa Quý Thầy Cô và ACE Q,
Dù đang sống kiếp tha huơng ở hải ngoại hay còn ở trên chính quê huơng Việt Nam, có lẽ không ai trong chúng ta lại không ngậm ngùi mỗi năm khi tưởng niệm đến những cuộc đổi đời, mất mát vô cùng nghiệt ngã, những lao đao mà nguòi dân nói chung và Thầy trò QGNT nói riêng đã gánh chịu sau ngày miền Nam Việt Nam rơi vào màn đen ngục tù tăm tối, 30/4/1975.
Trong mùa Lễ Quốc hận 30/4 năm nay, gia đình QGNT gồm có thầy Thọ, thầy Phu, cô Mai Dung, Cô Lộc, anh Trương, vợ chồng anh Thừa, anh Đạt, anh Phuong TL, chị Ý Thu, chị Hạnh(trong ca đoàn CLB Tình Nghệ Sỹ), Tuấn và Minh Phượng đã đến tham dự và dâng hoa tưởng niệm ngày Quốc Hận tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.
Thầy Phu và cô Dung trong chiếc áo polo trắng có phù hiệu QGNT đã dẫn đầu phái đoàn QGNT để dâng vòng hoa thật đẹp.
Thầy trò đã có một buổi tối hàn huyên tâm sự thật thân tình, khắng khít. Phần văn nghệ khá đặc sắc, nhất là những bài hát thật hùng hồn được trình diễn bởi nhóm CLB Tình Nghệ Sỹ, trong đó có chị Hạnh của chúng ta.
Trân trọng,
Võ thị Minh Phượng
BẤM VÀO XEM HÌNH===> QGNT dâng hoa tưởng niệm ngày Quốc Hận tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.
Đại Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng Tư (The 2013 Black April Commemoration) do Ban Tổ Chức Tưởng Niệm Tháng Tư Đen & Quốc Hận 30-04 Nam Cali tổ chức tối ngày 27/04/2013 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ Westminster, California. Tham dự buổi lễ có các hội đoàn, đoàn thể tại Nam California, gồm hội CNS Trưng Vương, CNS Gia Long, Đồng Hương Thân Hữu Quảng Ngãi, Quân Cán Chính VNCH QK IV-Vùng IV CT, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California, Cộng Đồng San Diego, Quân Cán Chính Tỉnh-TK Định Tường Cần Thơ, Trung Đoàn 10/SĐ 7BB, Khoá 20/VBQG, Sư Đoàn 21BB, Quân Cán Chính VNCH QK III-Vùng III CT, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Nam California, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ban Tù Ca Xuân Điềm, Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam California, Đoàn Thanh Niên Phan Bội Châu, Ban Kỹ thuật trang trí Phan Văn Chính, Kỹ thuật âm thanh Ngô Thiện Đức, v.v.. Phụ trách tổng quát: Trần Quốc Ân, Phó BTC, CĐNVQG Nam California.
BẤM VÀO XEM HÌNH===> ĐẠI LỄ TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ TẠI TƯỢNG ĐÀI CHIẾN SĨ VIỆT MỸ LITTLE SAIGON, CALIFORNIA
Bé Dương
Trong bài thơ “Dưới chân đồi Chu Pao” của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, có hai câu:
Những người lính cũ? Họ là ai?
Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Đình Bảo, Lương Quế Vượng, Mã Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Tòng, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược… đã nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, người sĩ quan Cảnh Sát đã tuẩn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai… Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu… ngày nay đã xa cố quốc nhưng lòng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi. XEM TIẾP
LỄ TƯỞNG NIỆM ANH HÙNG TỬ SĨ VIỆT-MỸ VÀ KỶ NIỆM MƯỜI NĂM THÀNH LẬP TƯỢNG ĐÀI VIỆT MỸ WESTMINSTER
HUE VUONG
BẤM VÀO XEM HÌNH===> LỄ TƯỞNG NIỆM ANH HÙNG TỬ SĨ VIỆT-MỸ VÀ KỶ NIỆM MƯỜI NĂM THÀNH LẬP TƯỢNG ĐÀI VIỆT MỸ WESTMINSTER
QGNT dâng hoa tưởng niệm ngày Quốc Hận tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.
Dù đang sống kiếp tha huơng ở hải ngoại hay còn ở trên chính quê huơng Việt Nam, có lẽ không ai trong chúng ta lại không ngậm ngùi mỗi năm khi tưởng niệm đến những cuộc đổi đời, mất mát vô cùng nghiệt ngã, những lao đao mà nguòi dân nói chung và Thầy trò QGNT nói riêng đã gánh chịu sau ngày miền Nam Việt Nam rơi vào màn đen ngục tù tăm tối, 30/4/1975.
Trong mùa Lễ Quốc hận 30/4 năm nay, gia đình QGNT gồm có thầy Thọ, thầy Phu, cô Mai Dung, Cô Lộc, anh Trương, vợ chồng anh Thừa, anh Đạt, anh Phuong TL, chị Ý Thu, chị Hạnh(trong ca đoàn CLB Tình Nghệ Sỹ), Tuấn và Minh Phượng đã đến tham dự và dâng hoa tưởng niệm ngày Quốc Hận tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.
Thầy Phu và cô Dung trong chiếc áo polo trắng có phù hiệu QGNT đã dẫn đầu phái đoàn QGNT để dâng vòng hoa thật đẹp.
Thầy trò đã có một buổi tối hàn huyên tâm sự thật thân tình, khắng khít. Phần văn nghệ khá đặc sắc, nhất là những bài hát thật hùng hồn được trình diễn bởi nhóm CLB Tình Nghệ Sỹ, trong đó có chị Hạnh của chúng ta.
Trân trọng,
Võ thị Minh Phượng
BẤM VÀO XEM HÌNH===> QGNT dâng hoa tưởng niệm ngày Quốc Hận tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.
Kỷ niệm 10 năm thành lập Tượng Đài Việt Mỹ Westminster Nam California
THIEU VO
Kính gởi Quý Niên Trưởng & Quý Chiến Hữu.
Cơ Quan quản trị Tượng Đài Chiến Sỉ Việt Mỹ tại thanh phố Westminster Nam California, đã phối hợp với Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ, Liên Hội Cựu Chiến Sỉ QL/VNCH và một số Hội Đoàn khác để tổ chức Lể Kỷ Niệm 10 năm ngày thành lập Tượng Đài Việt Mỹ tại thành phố Westminster.
Đến tham dự buổi lể có Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ, cựu Quân nhân QL/VNCH thuộc các Quân Binh chủng, các Trường Trung Học thuộc Miền Nam VN như Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trưng Vương..
Sau phần nghi thức khai mạc, thượng cờ Việt Mỹ, BTC lần lược mời các vị sau đây lên phát biểu :
-Giám Đốc Quản Lý Tượng Đài – Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ – Chủ Tịch Hội Cư Chiến Sỉ QL/VNCH - Các Hội Đoàn lần lược đặt vòng hoa trước Tượng Đài Chiến Sỉ.
Xin kính chuyển đến Quý Vị ít hinh ảnh ghi lại được trong buổi lể.
Xin mở Link để xem hình.
Trân trọng.
Thieu Vo
BẤM VÀO XEM HÌNH===> Kỹ niệm 10 thành lập Tượng Đài Việt Mỹ Westminster Nam CaliforniaVIỆT NAM ƠI! 30 THÁNG 4 NGÀY ẤY… BÂY GIỜ
Nguyễn Thu Trâm, 8406
Tôi lại viết về ngày Quốc Hận
30 tháng 4 – như một nén hương lòng kính dâng lên anh linh các chiến
sỹ, quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân. Đặc biệt,
xin thành kính tưởng nhớ những chiến sỹ, thuộc các quân binh chủng của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì quyết tâm bảo vệ nền tự do cho người dân
Nam Việt mà đã hy sinh oanh liệt trong những ngày tàn cuộc chiến vào
thánh tư đen năm 1975. Viết về ngày đau thương này của dân tộc Việt, tôi
cũng xin thành kính tri ân các vị trưởng bối là Sỹ Quan, Hạ Sỹ Quan và
quý thân hào, nhân sỹ của Việt Nam Cộng Hòa đã vì sự an nguy của chính
thể Việt Nam Cộng Hòa và của nhân dân Miền Nam mà đã hy sinh một phần
máu xương của mình trên các chiến trường và đã phải trải qua nhiều năm
tháng tù đày khổ sai trong các trại lao cải của cộng sản sau ngày mất
nước 30 tháng 4 năm 1975. Đây là một trong những lý do chính yếu thúc
dục tôi tiếp tục viết ngày quốc hận vào mỗi dịp tháng tư về.
Khi quý độc giả đang đọc những dòng chữ này,
thì trên khắp mọi miền của đất nước Việt Nam lại đang được giăng đầy
băng rôn, biểu ngữ và cờ cờ máu để ăn mừng ngày “thắng cuộc”, mừng ngày
cưỡng chiếm được hoàn toàn miền Nam, mà “Bác và đảng” gọi là giải phóng
dân tộc. May thay đa phần người dân Việt Nam ngày nay đã sáng mắt ra cả
rồi về cái chế độ cộng sản, về cái thiên đường ảo vọng Xã Hội Chủ Nghĩa,
nên những băng rôn, những cờ xí đó lại trở thành những dấu chỉ nhắc nhở
cho toàn dân về những đau thương tang tóc mà hàng triệu người Việt Nam
phải gánh chịu trong suốt cuộc chiến XEM TIẾP
ĐẠI LỄ TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ TẠI TƯỢNG ĐÀI CHIẾN SĨ VIỆT MỸ LITTLE SAIGON, CALIFORNIA
HUE VUONG
Đại Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng Tư (The 2013 Black April Commemoration) do Ban Tổ Chức Tưởng Niệm Tháng Tư Đen & Quốc Hận 30-04 Nam Cali tổ chức tối ngày 27/04/2013 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ Westminster, California. Tham dự buổi lễ có các hội đoàn, đoàn thể tại Nam California, gồm hội CNS Trưng Vương, CNS Gia Long, Đồng Hương Thân Hữu Quảng Ngãi, Quân Cán Chính VNCH QK IV-Vùng IV CT, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California, Cộng Đồng San Diego, Quân Cán Chính Tỉnh-TK Định Tường Cần Thơ, Trung Đoàn 10/SĐ 7BB, Khoá 20/VBQG, Sư Đoàn 21BB, Quân Cán Chính VNCH QK III-Vùng III CT, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Nam California, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ban Tù Ca Xuân Điềm, Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam California, Đoàn Thanh Niên Phan Bội Châu, Ban Kỹ thuật trang trí Phan Văn Chính, Kỹ thuật âm thanh Ngô Thiện Đức, v.v.. Phụ trách tổng quát: Trần Quốc Ân, Phó BTC, CĐNVQG Nam California.
BẤM VÀO XEM HÌNH===> ĐẠI LỄ TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ TẠI TƯỢNG ĐÀI CHIẾN SĨ VIỆT MỸ LITTLE SAIGON, CALIFORNIA
Đại Lể Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 tại Nam California
Thieu Vo
Kính gởi Quý Niên Trưởng & Quý Chiến Hữu.
Năm nay đại lể
tưởng niệm Quốc Hận 30/4 tại Nam California được Ban Đại Diện Cộng Đồng
Nam CA đứng ra tổ chức với sự hổ trợ của Liên Hội cựu Chiến Sỉ QL/VNCH
và một số Hội Đoàn chống Việt Cộng và tay sai.
Buổi lể được bắt đầu lúc 6:30 PM ngày 27/4/2013 và bế mạc khoảng hơn 9:00 PM cùng ngày.
Đồng hương Tỵ Nạn
Cộng Sản đến tham dự buổi lể đông hơn mọi năm, ngồi kín hết các dảy ghế
BTC sắp xếp, và các bệ đá, một số rất đông đứng rải rác trước và hai bên
hông tượng đài.
Sau phần nghi thức
khai mạc,Đại Diện BTC tuyên bố lý do buổi lể, Cảm tạ Quý Quan Khách,
Quý Vị Dân Cử Người Hoa Kỳ, và Người Mỹ góc Việt đến dự buổi lể Tưởng
Niệm Quốc Hận 30/4. Ngày đau thương của toàn dân quân Miền Nam, bị Cộng
Sản Bắc Việt đạt ách thống trị độc tài toàn trị lên toàn lảnh thổ Việt
Nam.
Quý Vị Dân Cử lần lược phát biểu cảm nghỉ của cá nhân đối với ngày Quóc Hận của Cộng Đồng Tỵ Nạn Cộng Sản.
Kế tiếp là các Hội Đoàn lần lược đạt vòng hoa trước Tượng Đài Việt Mỹ.
Các Nữ Quan dâng hoa trước bàn thờ Tổ Quóc.
Các bô lão tế lể theo các nghi thức cổ truyền, với những hồi trống chiêng ngân vang .
Sau cùng là phần Văn Nghệ giúp vui.
Xin chuyển đến Quý Vị hình ảnh ghi lại đưọc trong buổi Đại Lể nầy.
Xin mở Link dưới để xem hình.
Trân trọng.
Thieu Vo
BẤM VÀO XEM HÌNH===> Đại Lể Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 tại Nam CaliforniaQUỐC HẬN 30/4/2013 Tại Trocadéro Paris
Trả lại sự thật cho chiến sử VNCH Một Chiến Công Bị Quên Lãng
Đỗ Văn Phúc
Trận tử thủ An Lộc được xem là một trong ba trận đánh lừng danh nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè năm 1972, mà sau này được nhà văn Dù Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa”
Trận tử thủ An Lộc được xem là một trong ba trận đánh lừng danh nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè năm 1972, mà sau này được nhà văn Dù Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa”
Bốn mươi mốt năm về trước, đúng
vào 7 tháng 4, 1972, Cộng quân đã tung ba sư đoàn bộ binh (5, 7, và 9)
cùng thiết giáp ồ ạt tấn công vào thị trấn bé nhỏ An Lộc, nơi đang là
tỉnh lị của tỉnh Bình Long, chỉ cách thủ đô Sài Gòn khoảng một trăm cây
số. Mục tiêu tối hậu của Cộng Sản Hà Nội là chiếm bằng được An Lộc để
làm thủ đô cho cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt
Nam”, nhằm hỗ trợ cho mục tiêu chính trị của Hà Nội là tạo một uy thế
cho đám bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng để có tiếng nói tại Hội Nghị Paris.
Nhưng sau ba tháng bao vây tấn
công một thị trấn nhỏ bé có diện tích chỉ khoảng 4 cây số vuông, sử dụng
đến hàng chục ngàn binh sĩ, hàng trăm xe tăng tối tân, bắn hàng trăm
ngàn viên đại pháo, hoả tiễn, Cộng Quân đã chuốc lấy thảm bại và rút lui
sau khi để lại trên 10000 xác chết cộng với khoảng 25 ngàn khác bị
thương.
Trận tử thủ được xem là chấm
dứt vào ngày 7 tháng 7, 1972 khi các đơn vị tăng viện của Quân Lực VNCH
tiến vào An Lộc, bắt tay với các đơn vị phòng thủ và tiếng sung địch đã
ngưng hẳn.
Đã có nhiều bài viết về trận An
Lộc với nhiều chi tiết và nêu danh các quân nhân anh hùng đã tham gia
trận đánh. Gần đây, Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh cho ra mắt cuốn sách Chiến
Thắng An Lộc 1972 dày 418 trang vớí nhiều sử liệu đáng giá. XEM TIẾP
Những Người Lính Cũ – Đọc Để Thương Để Nhớ …
Trong bài thơ “Dưới chân đồi Chu Pao” của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, có hai câu:
“Chu Pao ai oán hờn trong gióChỉ hai câu thơ này thôi cũng đủ nói lên sự tổn thất to lớn của những người lính cũ thi hành sứ mạng bảo quốc an dân.
Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường”
Những người lính cũ? Họ là ai?
Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Đình Bảo, Lương Quế Vượng, Mã Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Tòng, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược… đã nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, người sĩ quan Cảnh Sát đã tuẩn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai… Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu… ngày nay đã xa cố quốc nhưng lòng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi. XEM TIẾP
Người Tự Do Giải Quyết Chiến Tranh Hai Miền
Vi Anh
Sắp đến ngày Quốc Hận Ba Mươi
Tháng Tư thứ 38 rồi, dư luận của người dân trong ngoài nước vẫn còn dấy
lên qua tin nhà cầm quyền CSVN cấm cọc, lấy đất của Nghĩa Trang Quân Đội
Biên Hoà, làm con đường cắt ngang nơi an nghĩ cuối cùng của gần 18 ngàn
quân nhân Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam đã vì dân chiến đấu vì nước hy
sinh. Tuy là cọc đã gỡ lên, vẫn không có giải thích minh bạch nào hết.
Điều đó cho thấy người CS giải quyết chiến tranh hai miền hoàn toàn khác
với người Tự do.
Thực vậy,Hoa kỳ và Việt Nam, hai nước đều có trải qua một cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc. Hoa Kỳ dùng tình thương xóa bỏ hận thù để chấm dứt chiến tranh, để tác động tốt cho quân sĩ, để hòa giải dân tộc và để tái tạo nội lực quốc gia. Còn VN, Cộng sản Hà nội dùng hận thù để chấm dứt chiến tranh, tạo thêm một cuộc “chiến tranh khác” trong thời hậu chiến bình yên, không súng nổ nhưng đầy tù đày, chết chóc, tỵ nạn; 38 năm sau oan nghiệt vẫn còn. XEM TIẾP
Thực vậy,Hoa kỳ và Việt Nam, hai nước đều có trải qua một cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc. Hoa Kỳ dùng tình thương xóa bỏ hận thù để chấm dứt chiến tranh, để tác động tốt cho quân sĩ, để hòa giải dân tộc và để tái tạo nội lực quốc gia. Còn VN, Cộng sản Hà nội dùng hận thù để chấm dứt chiến tranh, tạo thêm một cuộc “chiến tranh khác” trong thời hậu chiến bình yên, không súng nổ nhưng đầy tù đày, chết chóc, tỵ nạn; 38 năm sau oan nghiệt vẫn còn. XEM TIẾP
Biệt Đội Văn Nghệ cựu Chiến Binh QLVNCH tổ chức Văn Nghệ tưởng niệm Quốc Hận 30/4
Kính thưa Quý Vị.
Biẹt Đội Văn Nghệ Lực Lượng
Cựu Chiến Binh QLVNCH đã tổ chức đêm Văn Nghệ đấu tranh lúc 6:30 PM
ngày 26/4/2013 tại Thư Viện Việt Nam để tưởng niệm Quốc Hận 30/4. Đồng
Hương Tỵ Nạn Cộng Sản đến tham dự đã ngồi chật kín cả Hội Trường .
Sau phần nghi thức khai mạc,
Ban Tổ Chức, giới thiệu Quan Khách, thân hào nhân sỉ , truyền thông báo
chí cùng đồng hương về tham dự đêm văn nghệ đấu tranh, tưởng nhớ ngày
toàn thể Miền Nam VN rơi vào tay Cộng sản BV, ngày đau thương của toàn
dân Việt Nam.
Phần văn nghệ, do Biệt Đội Văn Nghệ LL cựu Chiến Binh QLVNCH biểu diển rất là xuất sắc.
Trong lúc văn nghệ đang được biểu diẻn, BTC chiêu đải đồng hương một bửa ăn nhẹ. Chi phí cho bửa ăn do một số mạnh thường quân đóng góp.
Ít hình ảnh ghi lại được, xin chuyển đến quý vị cùng xem.
Xin mở Link dưới để xem hinh.
Trân trọng.
Thieu Vo
BẤM VÀO XEM HÌNH===> Biệt Đội Văn Nghệ cựu Chiến Binh QLVNCH tổ chức Văn Nghệ tưởng niệm Quốc Hận 30/4
Quốc Hận Houston
NGÀY QUỐC HẬN 30/4 TẠI Bắc Cali
Quốc Hận Portland
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
NGÀY QUỐC HẬN
Tuesday, April 30, 2013
Ý NGHĨA NGÀY QUỐC HẬN
Ý KIẾN VỀ ÂM MƯU XÓA BỎ
NGÀY QUỐC HẬN 30-4 BỞI VIỆT GIAN & TAY SAI CS/NGOẠI BANG TRONG THÁNG
4-2013
TS Nguyễn Bá
Long
Tổng Đại Diện kiêm Phát
Ngôn Viên Hiến Chương 2000
- Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ Gốc Việt tại Hoa Kỳ, do GS Nguyễn Ngọc Bích làm chủ tịch (?), và ông Nguyễn Mậu Trinh là thành viên Ban Chấp Hành.
- Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia. Mà không phải là Cộng Đồng Người Việt tại DC - Maryland & Virginia, hay là các cơ chế cộng đồng khác.
I. THỨ NHẤT: CẢM NHẬN VỀ VỤ SJR 455 & CÁ NHÂN GS NGUYỄN NGỌC BÍCH
Đồng bào cảm nhận có một sự gì đó lắt léo bên trong, khi Nghị Quyết SJR 455 đã chỉ định (designate) ngày 30-4-2013 và những ngày 30-4 của những năm sau đó là: "South Vietnamese Recognition Day", tại Virginia.
Hai cơ chế: Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ Gốc Việt tại Hoa Kỳ (National Congress of Vietnamese Americans), Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia, và một cơ chế gián tiếp (không chủ động đứng trong vụ vận động SJR 455) là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH mà GS Nguyễn Ngọc Bích là Đại Diện (qua cuộc họp gọi là "Hội Nghị Diên Hồng" gì đó hồi tháng 11/2012 ở Nam Cali đầy những lời đàm tiếu và bàn cãi - controversial -), cho người ta thấy một vai trò nổi trội của GS Nguyễn Ngọc Bích trong nỗ lực lèo lái vụ SJR 455, rồi thì sự cố tình dịch không sát để vơ vào chữ VNCH cho Nghị Quyết này trong bản dịch tiếng Việt (SJR 455 không minh danh đề cập chữ Republic of Vietnam trong designation của họ là: "South Vietnamese Recognition Day"). Lại một sự cố ý lèo lái nữa! Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia ban đầu không có rồi sau lại có trong bản văn cuối càng làm người ta nghi ngờ về một sự lèo lái nào đó, hơn là sự vô tình đưa hay không đưa hội đoàn này vào. Tóm lại những diễn tiến bất thường trong vụ này (như dịch không sát, đưa thêm Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia vào trong bản văn cuối v.v.) cho người ta cảm nghĩ đây là những lèo lái cố tình chứ không phải vô tình. Sự kiện đưa vào Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia mà không phải là cộng đồng càng chứng tỏ sự lắt léo trong việc lèo lái sự vụ này, vì nếu đưa cộng đồng vào, thì chắc chắn đã có sự phản đối việc lấy ngày 30-4-2013 là ngày "South Vietnamese Recognition Day", vì đối với cộng đồng ngày 30-4 phải là NGÀY QUỐC HẬN chứ không thể nào là một NGÀY GÌ KHÁC! Chẳng thà TNS Dick Black và Đại Nghị Viện Virginia tự họ muốn làm gì thì làm, cộng đồng không biết; nhưng nếu đã có cộng đồng đứng tên vào, thì nhất định cộng đồng sẽ phản đối việc lấy ngày 30-4-2013 làm ngày "South Vietnamese Recognition Day", thay vì là NGÀY QUỐC HẬN hoặc Black April Day như trước nay người ta vẫn gọi thế (ngay từ đầu sau năm 75). Điều này cho thấy là GS Nguyễn Ngọc Bích và Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia không trong sáng trong vụ này. GS Nguyễn Ngọc Bích chẳng những không thèm để ý tới nguyện vọng của người Việt tị nạn luôn luôn nghĩ 30-4-1975 là NGÀY QUỐC HẬN (rất đúng!), mà ông còn muốn mệnh danh ngày 30-4 là ngày VNCH, vì ông đang là Đại Diện ỦÛy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH qua Hội Nghị Diên Hồng đầy những đàm tiếu và chỉ trích hồi tháng 11-2012 (xin xem thêm các bài của GS Nguyễn Quốc Khải và một số vị khác tranh luận về vụ việc VNCH với GS Nguyễn Ngọc Bích). Phong Trào Hiến Chương 2000 thoạt đầu ủng hộ các nỗ lực phục hồi vai trò VNCH của cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, vì nó liên hệ tới vấn đề tranh đấu cho Hoàng Sa và Trường Sa của VN (Hồ Sơ Thềm Lục Địa VNCH do cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trình lên LHQ ngày 11-5-2009, thay mặt cho trên 300 đoàn thể, cộng đồng và nhân sĩ người Việt hải ngoại, trước khi ông đột ngột qua đời vào ngày 20-5-2009). Thế nhưng sau khi ông qua đời, cơ chế VNCH do ông thành lập bị khó khăn về lãnh đạo; và đã chuyển dần từ sự đấu tranh cho đất nước đi vào qũy đạo của các mưu đồ nặng về cá nhân và phe nhóm hơn là đất nước, không loại trừ khả năng có bàn tay của các thế lực bên ngoài, và các quyền lợi về chính trị và danh vọng, qua hai gọng kềm ngoại bang và CS. Thành ra bây giờ cái gọi là VNCH không còn là một cơ chế đáng tin tưởng để tranh đấu với CS về phương diện pháp lý (tái họp các bên của Hội Nghị Paris 1973) hoặc đấu tranh cách mạng (như vận động về trong nước để giải trừ CS), mà nó đang bị vận dụng cho các mưu đồ về cá nhân và phe nhóm (chính trị sa lông) hơn là đấu tranh một mất một còn với CS! Cũng là hoạt động chính trị nhưng đối với những vị như GS Nguyễn Ngọc Bích thì người ta nghiêng về đặc tính vận dụng và mưu đồ (cá nhân, phe nhóm v.v.) hơn là một nhà lãnh đạo quyết làm cách mạng để cứu non sông, dù phải hy sinh tính mạng, như là các nhà ái quốc Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh v.v. GS Nguyễn Ngọc Bích không phải là con người đó: cứ nhìn vụ việc SJR 455 thì biết! Ông chẳng thèm nghĩ gì đến nguyện vọng của cộng đồng, ông chẳng thèm sống chết với NGÀY QUỐC HẬN, và cứ muốn dính "VNCH" (do ông làm Đại Diện của Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời) vào Nghị Quyết đó, kể cả dịch không sát, cho những mưu tính tương lai của ông.
Thành ra đồng bào và cộng đồng đừng có tin GS Nguyễn Ngọc Bích -- ông không phải là nhà cách mạng DẤN MÌNH CHO ĐẠI NGHIÃ DÂN TỘC đâu, cũng không được như ông Nguyễn Bá Cẩn, mà có thể còn trái lại là khác!
II. THỨ HAI: CỘNG ĐỒNG VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHẠY DÀI TRƯỚC NHỮNG BẤT THƯỜNG CỦA VỤ VIỆC SJR 455 & GS NGUYỄN NGỌC BÍCH
Trước phản ứng dữ dội của người Việt tị nạn (người Việt không phản đối TNS Dick Black và Đại Nghị Viện Virginia, vì nội dung của SJR 455 không có gì xấu đối với người tị nạn. Nếu mà không có dính người Việt hoặc hội đoàn Việt nào vào trong đó, thì cộng đồng người Việt sẽ tìm cách liên hệ với vị TNS và Đại Nghị Viện Virginia để xin đổi ngày 30-4 trong Nghị Quyết thành một ngày khác. Nhưng vì có dính hai hội đoàn Việt và các cá nhân trách nhiệm vận động trong vụ này (mà lại dấu cộng đồng và có những giải thích quanh co cũng như dịch thuật miễn cưỡng). Người ta nghĩ ngay là các anh này có ý vận dụng để: (1) đem ngày 30-4 như một designation có lợi cho phe nhóm các anh và mưu đồ riêng của các anh, và (2) cùng mưu đồ với VT và các nhóm khác trước đây đã từng làm mọi cách để XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN của người tị nạn (như là Ngày Diễn Hành cho Tự Do - 2005, Ngày Thuyền Nhân - 2011 v.v., đã thất bại trước đây) (xin xem thêm bài của Chiến Hữu Nguyễn Quốc Đống trong phần TÀI LIỆU THAM KHẢO ở phiá sau).
Với phản ứng dữ dội của Đồng Bào, các nhà tranh đấu, và các vi hữu (đặc biệt vi hữu Hương Saigon viết nhiều bài rất có lý, và cả GS TS Nguyễn Phúc Liên cũng lên tiếng nữa); các cộng đồng (từ Cộng Đồng DC - Maryland và Virginia tới Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ (Kháng Thư ký tên hàng chục công đồng và hội đoàn tại Hoa Kỳ), rồi Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị (Nguyễn Trung Châu), và bây giờ là Phong Trào Hiến Chương 2000. Không thấy có cộng đồng hoặc hội đoàn nào đồng tình với ông Nguyễn Ngọc Bích; kể cả BS Võ Đình Hữu và Đỗ Văn Hội cũng trong thành phần ký tên thay mặt cộng đồng chống lại. Cơn sóng
chống lại GS Nguyễn Ngọc Bích (người ta ít nói đến ông Nguyễn Mậu Trinh và Hiệp Hội Thương Mại Á Châu Virginia vì cho rằng những người này không phải là chủ động trong sự vụ, so với ông Nguyễn Ngọc Bích, và quả thật đúng như vậy) lớn đến nổi cả một bà bác sĩ hay lên lưới bênh VC mà cũng chống lại ông NNB luôn. Đáng lẽ một sự việc có lợi cho VC như vầy phải được những người ủng hộ VC ca ngợi; nhưng trường hợp của ông NNB thì không được như thế. Một vài vi hữu (cá nhân) đỡ đòn cho ông NNB yếu thế thấy rõ. Vấn đề không phải là thấy người đang mang họa mà xúm vào đánh; nhưng vấn đề là cái tai hại của chuyện ông NNB làm đối với cộng đồng, rõ ràng là có âm mưu (qua việc dịch không sát cũng như nói loanh quanh và không thông qua cộng đồng trước khi ông ta làm, nói rõ hơn là QUA MẶT CỘNG ĐỒNG!); bây giờ ông mang họa việc ông làm, do âm mưu và toan tính của ông, thì người ta phải chống ông để điều chỉnh vấn đề và để làm gương, chứ đâu bênh ông được. Người ta không xấu với ông NNB nhưng vì ông không phục vụ cộng đồng, hơn nữa lại đáp ứng đúng ý đồ có lợi cho VC, và âm mưu cá nhân, phe nhóm, cho nên người ta phải chống ông. Cơ chế Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH gì đó cần có những điều chỉnh thích hợp, chứ không thì lại bị di họa về vụ việc liên quan đến ông NNB (trong vụ SJR 455).
III. THỨ BA: ÂM MƯU XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN CỦA CS VÀ VIỆT GIAN LÀ CÓ THẬT
Việc đồng bào đứng lên chống lại việc XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN là rất đúng, vì VC và Việt Gian TRƯỚC, NAY, và SAU NÀY sẽ làm mọi cách; qua đám Hòa Hợp Hòa Giải và tay sai; cũng như rút kinh nghiệm chiêu thức NNB qua SJR 455, để sẽ tiếp tục dựa vào người Mỹ vô hiệu hóa NGÀY QUỐC HẬN của người tị nạn.
Cứ thử nghĩ họ cứ làm hoài, nay thì đặt ngày 30-4 là ngày "South Vietnamese Recognition Day", mai thì đặt ngày 30-4 là ngày gì đó, thì thét ra nếu mà có những thành phần chấp nhận các ngày này, chúng sẽ làm loãng NGÀY QUỐC HẬN đi. Do đó, biện pháp của cộng đồng VN là nếu người Mỹ, người Pháp, Người Đức, Liên Hiệp Âu Châu v.v. tự họ làm cái gì họ làm, miễn không có dính người Việt vào đó (họ muốn gọi cái gì cho ngày nào tùy ý, miễn là người Việt không biết chuyện đó); còn nếu đã có cá nhân hoặc đoàn thể người Việt dính vào mà lại qua mặt cộng đồng, như vụ GS NNB hiện nay, thì cộng đồng và đồng bào phải có biện pháp; không thể để cho bọn hoạt đầu BÁN ĐỨNG cộng đồng và đồng bào cho các âm mưu của CS và Việt Gian. Đối với trường hợp các chính phủ hoặc nghị viện các nước, các tiểu bang tự làm các nghị quyết gây tổn thương cho ngày QUỐC HẬN của chúng ta; chúng ta sẽ lập phái đoàn và ôn tồn giải thích, tìm sự thay đổi đáp ứng đúng nguyện vọng của chúng ta từ các vị dân biểu, nghị sĩ, hay chính phủ.
Cho nên phản ứng của cộng đồng và đồng bào trong vụ GS NNB tháng 4-2013 là rất đúng. Nó cho thấy quyết tâm của đồng bào giữ vững NGÀY QUỐC HẬN, không có thế lực nào phá vỡ hoặc XÓA BỎ được, và cũng là một sự ĐỨNG LÊN CỦA TẬP THỂ NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI QUAN TRỌNG để làm gửơng. Sau này CS và Việt Gian có âm mưu tính kế gì, chúng cũng phải suy đi xét lại.
Khỏi phải nói là những kẻ dính vào vụ này nhiều khả năng bị cháy, và các hội đoàn dính vào chắc chắn sẽ bị cộng đồng xa lánh nếu không tự điều chỉnh thành phần nhân sự của mình.
Dính với VC và làm tay sai cho ngoại bang là chết!, nó hiển hiện trước mắt chúng ta. Đừng có nghĩ rằng cộng đồng và đồng bào không đọc được gan ruột của kẻ làm tay sai cho CS và ngoại bang hoặc mưu đồ cá nhân và phe nhóm: dù có giải thích thế nào và ngụy biện cách nào người ta cũng biết thôi! Hễ đã làm tay sai cho CS và Việt Gian thì nó sẽ là tay sai CS và Việt Gian, vì hành động Việt Gian CS tự nó biểu hiện ra khi làm, dù có biện bạch cách mấy cũng không làm thay đổi được sự thấu hiểu của đồng bào. Cứ nhìn về Houston, TX ắt rõ!
Hải Ngoại ngày 18 tháng 4 năm 2013
TS NGUYỄN BÁ LONG
Chủ Nhiệm Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000
TÀI LIỆU THAM KHẢO (10 Tài Liệu Tham Khảo xin xem trong email kế tiếp)
Quyết Nghị SJR 455 : Âm mưu Xóa Bỏ Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 ?
Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ Phản Đối hai Ông Nguyễn Ngọc Bích , Nguyễn Mậu Trinh Về Hành Vi Tiếp Tay Vô Hiệu Hóa Ngày Quốc Hận 30/4
Cho
đến nay những người sinh hoạt trong phần đông các đảng phái chính trị
mang vỏ bọc chống Cộng đã lần lượt tự mình công khai làm công cụ cho
Việt Cộng
Nghị
Quyết SJR 455 chọn ngày 30/4 năm nay (2013) và cho những năm sau đó là
Ngày Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa do nhóm ông Nguyễn Ngọc Bích
và ông Nguyễn Mậu Trinh (Đồng Chủ Tịch CDVN vùng Vỉginia) tiếp tay với
hai ông bà Trần Tuyết Lan và Phan Đức Tính ở Richmond Virginia vận động
để quốc hội tiểu bang Virginia, chấp thuận Nghị quyết SJR 455, chọn ngày
30-4 năm nay 2013 và cho những năm sau đó, là Ngày Nam Việt Nam hay là
Ngày Việt Nam Cộng Hòa.
Đây
là một hành vi đi ngược lại nguyện vọng của tập thể Ngừơi Việt Tỵ nạn
CS tại Hải ngoại , đồng thời cũng là một hành vi phản bội lại tinh thần
đấu tranh của toàn Quân Dân Cán Chính VNCH trên dòng sử lược đấu tranh
chống chủ nghĩa vô thần của cs xâm lăng đất nứơc Việt Nam
Cũng
cần nhắc lại là trong năm 2002 Cộng Đồng Ngừơi Việt Quốc Gia tại tiểu
bang Virginia đã có Nghị Quyết SJ137 chỉ định ngày 30-4 tại Virginia là
ngày National Vietnamese Remembrance Day. Nghị
quyết này đã được cô Lữ Anh Thư và các anh chị em thuộc Tổng Đoàn TTNDH
đã vận động được vào năm 2002, do TNS Leslie Byrne bảo trợ. (xin xem
attachments)
TSN
Leslie Byrne, trong năm 2002, cũng đã bảo trợ nghị quyết SJ139
Vietnamese American Freedom Fighter Day, vinh danh ngày Quân Lực 19-6
hàng năm tại Virginia. Cho tới ngày hôm nay, VA là tiểu bang duy nhất có
nghị quyết vinh danh Ngày Quân Lực và các chiến sĩ VNCH.
Cũng
từ dạo đó, công đồng Ngừơi Việt Quốc Gia tại Virginia hằng năm tổ chức
Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30/4 và vinh danh các chiến sĩ VNCH.
Đã
có Quyết Nghị SJ37 cho ngày Quốc hận của Ngừơi việt Quốc Gia rồi thế
thì tại sao hai ông Nguyễn Ngọc Bích Nguyễn Mậu Trinh lại đi tiếp tay
với nhóm Thương Mại tại Richmond Virginia để xin một quyết Nghị khác cho
ngày Quốc hận Việt Nam. Hành động này có phải là một âm mưu XÓA BỎ NGÀY
QUỐC HẬN mà Đảng Việt Tân đã thất bại trong năm 2005??
Do
đó hành động của ông Nguyễn Ngọc Bích Nguyễn Mậu Trinh cùng hai ông Bà
Trần Tuyết Lan và Phan Đức Tính trong việc việc xin một nghị quyết có
tên khác để Vô Hiệu Hóa Nghị Quyế SJ 137 đã được ban hành trong năm 2002
là một hành vi làm lợi cho sự tuyên truyền của bọn VC trong âm mưu XÓA
BỎ NGÀY QUỐC HẬN 30/4
Nhận
xét về việc làm của hai ông Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Mậu Trinh qua
cái tổ chức Nghị Hội với sự hợp tác cổ động cho Nghị Quyết SJR 455 của
BS Võ Đình Hữu Tổ Chức Cộng Động Người Việt Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ đã
vạch trần một sự thật cho chúng tôi thấy hành vi phản bội lại cho ngừơi
tỵ Nạn csVN tại hải Ngoại đang quyết tâm đấu tranh chống bọn Cộng Sản
độc tài Đảng Trị tại VN, đồng thời nói lên hành vi Hòa Hợp Hòa Giãi với
VC trên hành vi làm lợi cho chúng trên công cuộc Vô Hiệu Hóa Ngày Quốc
Hận của Ngừơi Việt QG qua Nghị Quyết SJ 137 .
Một
cách lương thiện mà nói thì không có một tổ chức đảng phái chính trị
nào dám công khai Vô Hiệu Hóa Ngày Quốc Hận, mà chỉ có Tổ Chức Nghị Hội
của ông Nguyễn Ngọc Bích và Tổ Chức Cộng Đồng Ngừơi Việt Quốc Gia Liên
bang Hoa Kỳ mới dám tiếp tay hình thành một Nghị Quyết SJR 455 vì ở đó
họ đã có thể thú nhận chính họ là những tổ chức khiếm tật tư tưởng trên
một lập trường chao đảo trong công cuộc đấu tranh chống Cộng sản Việt
nam .
Cộng Đồng Việt Nam Tại Hoa Kỳ cực lực phản đối và tố cáo hành vi trí trá trên âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận qua qua Quyết Nghị
SJR 455 chọn ngày 30/4 năm nay (2013) và cho những năm sau đó là Ngày
Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa và cực lực lên án những tên VGCS
đã vận động cho Quyết Nghị này ra đời qua sự tiếp tay của hai ông Nguyễn
Ngọc Bích Nguyễn Mậu Trinh
Chúng tôi cũng khẩn thiết kêu gọi các cộng đồng địa phương hãy lên tiếng mạnh mẽ phản đối lại hành vi của hai ông Nguyễn
Ngọc Bích Nguyễn Mậu Trinh và nhóm thương mại tại Richmond Virginia
Trần Tuyết Lan, Phan Đức Tính cùng với Tổ Chức Lăng Ba Vi Bộ Cộng Đồng
Ngừơi Việt Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ trong việc tiếp tay cho Quyết Nghị SJR455 ra đời để Vô Hiệu Hóa Quyết Nghị SJ137
Tôn Nữ Hoàng Hoa
10/04/2013
Âm mưu Xóa Bỏ
Ngày Quốc Hận 30 tháng 4
LS.Lê Duy San
Khoảng 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, Tổng
thống Dương Văn Minh kêu gọi các binh lính Việt Nam Cộng Hòa trên Đài
phát thanh Sài Gòn, hãy bình tĩnh, không nổ súng và ai ở đứng vị trí của
người ấy để gặp Chính phủ Cách Mạng thảo luận lễ bàn giao chính quyền
trong trật tự, tránh đổ máu. Mặc dầu lời kêu gọi này không có hai chữ đầu hàng (1),
nhưng cũng đủ làm cho người nghe có cảm tưởng như cả một bầu trời đã đổ
xụp xuống đầu người dân miền Nam. Vì thế, ngày 30/4 đã được người dân
miền Nam, nhất là những người đã phải đi tù hay đi cải tạo gọi đó là
ngày Quốc Hận.
I/ Quốc Hận vì:
1/
Bị đồng minh phản bội. Thực vậy, quân đội VNCH, một quân đội thiện
chiến và can đảm, đã đẩy lui và chiến thắng quân đội nhân dân của VC
không biết bao nhiêu là trận chiến, làm cho quân đội nhân dân của VC
phải khiếp vía kinh hồn mỗi khi nghe tin có Nhẩy Dù hoặc Thủy Quân Lục
Chiến hay Biệt Động Quân tới. Vậy mà cuối cùng vì bị đồng minh phản bội
đã phải buông súng tan hàng, hàng chục Tướng Tá và hàng trăm binh sĩ đã uất hận mà tự sát vì không muốn sống nhục.
2/
Bị Việt Cộng lường gạt. Hẳn chúng ta còn nhớ, ngay sau khi nhận lời đầu
hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh vào khỏang 12 giờ trưa ngày 30/4/75,
Việt Cộng liên tục cho phát thanh chính sách hòa hợp hòa giải của
MTGPMN khiến nhiều người tin tưởng là có hòa hợp hòa giải thực sự nên đã
không còn tìm cách rời khỏi VN nữa. Một số khác, tuy đã trốn chạy khỏi
VN cũng tìm cách trở về để rồi cả trăm ngàn quân cán chính phải nuốt hận
vào tù hoặc dắt díu nhau đi học tập cải tạo cả một hai chục năm khiến
cả chục ngàn người phải chết vì bị đói, vì bệnh hoặc vì bị đầy đọa.
3/
Bị cướp đọat tài sản và bị đẩy đi kinh tế mới. Đối với những người
không phải là quân nhân hay công chức mà bọn VC gọi là “ngụy quân”,
“ngụy quyền”, chúng dùng chính sách đổi tiên và cải tạo Công Thương
Nghiệp để cướp đọat tiền bạc, tài sản và nhà cửa của người dân rồi đẩy
họ đi lên các vùng kinh tế mới khiến nhiều người uất hận phải nhẩy lầu tự tử hoặc liều chết vượt biên đi tìm tự do khiến cả trăm ngàn người phải bỏ mình ngòai biển khơi.
II/ Những âm mưu muốn xóa bỏ ngày Quốc Hận 30/4
Không
phải bọn Việt Cộng chỉ gây nên hận thù cho đồng bào miền Nam vào ngày
30/4/75. Thực ra chúng đã gây nên không biết bao nhiêu tội lỗi, óan thù
cho đồng bào cả nước từ 1945 và cho tới nay chúng vẫn còn gây không biết
bao tang thương cho đồng bào. Chúng còn bán cả đất, dâng cả biển cho
Trung Cộng. Chúng làm lơ cho Trung Cộng đưa dân tới tỉnh biên giới phía
bắc của Việt Nam để lập làng, lập ấp sinh sống. Chúng làm lơ cho tầu
Trung Cộng vào hải phận Việt Nam cướp bóc các tầu đánh cá của ngư dân
Việt Nam. Ấy vậy mà tại hải ngọai này lại có một số người Việt vô liêm
sỉ lại toan tính biến ngày Quốc Hận 30/4 thành ngày Việt Nam.
Ngày 4/4/2013, Trucie D. phổ biến bài viết của Tâm Việt, bút hiệu của ông Nguyễn Ngọc Bích về tin viện quốc hội tiểu bang Virginia, chấp thuận Nghị quyết SJR 455, chọn ngày 30-4 năm nay 2013 và cho những năm sau đó, là Ngày Nam Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa.
Thực ra thì
Thượng-viện QUYẾT-NGHỊ, với sự đồng-thuận của Hạ-viện, là Đại-nghị-viện
Virginia sẽ lấy ngày 30 tháng Tư 2013 và cùng ngày này trong những năm
kế-tiếp, làm Ngày Công Nhận Nam Việt Nam ở Virginia; Nhưng dù là Ngày Nam Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa thì cũng không thể là ngày 30/4.
Ngày
Nam Việt Nam hay ngày Việt Nam Cộng Hòa là ngày 26/10 tức ngày nền Cộng
Hòa Việt Nam được thành lập và tồn tại đến ngày 30/4/75 tức ngày miền
Nam Việt Nam bị bọn Cộng Sản Hà Nội cưỡng chiếm. Đó chính là ngày Việt
Nam Cộng Hòa bị xụp đổ. Vậy thì làm sao có thể gọi ngày 30/4 là Ngày Nam Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa ?
Làm
sao có thể gọi ngày 30/4/75 là ngày Việt Nam được khi mà chính cái ngày
này đã đưa cả nước Việt Nam chìm đắm trong ngục tù Cộng Sản. Chính cái
ngày này đã làm cho người dân VN mất hết tự do và không có nhân quyền.
Làm
sao có thể gọi ngày 30/4/75 là ngày Việt Nam được khi mà chính cái ngày
này là kết qủa của cả triệu người chết vì đi tim tự do và triệu người
khác chết vì chiến tranh do bọn Việt Cộng miền Bắc gây ra.
Đây là một âm mưu của bọn VC và VGCS muốn xóa bỏ ngày Quốc Hận. Xóa bỏ được ngày Quốc Hận là chúng xóa bỏ được hận thù của người quốc gia, xóa bỏ được làn ranh quốc cộng và thực hiện được những mục tiêu mà bọn Việt Cộng đã đề ra trong nghị quyết 36.
Chúng
ta có thể quên hận thù, nhưng chúng ta không thể quên những tội ác của
chúng (VC). Vì thế ngày 30/4 sẽ mãi mãi là ngày Quốc Hận. Chúng ta không
những phải nhớ ngày Quốc Hận 30/4 mà còn phải nhớ cho thật đầy đủ, cho
thật rõ ràng những tội ác mà bọn VC đã gây ra cho dân tộc VN để một ngày
nào đó chế độ Cộng Sản có bị tiêu vong chúng ta sẽ đưa bọn chúng ra
trước đồng bào cả nước để xét xử những tội lỗi của chúng.
Là
người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta phải cực lực phản đối Quyết Nghị
SJR 455 chọn ngày 30/4 năm nay (2013) và cho những năm sau đó là Ngày
Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa và cực lực lên án những tên VGCS
đã vận động cho Quyết Nghị này ra đời. Yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Bích phải
bạch hóa tên của những kẻ này, nếu không ông Nguyễn Ngọc Bích phải hòan
tòan chịu trách nhiệm về Quyết Nghị SJR 455.
LS.Lê Duy San
Tóm Lược Song Ngữ:
Chính Danh của Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư 1975
— Legitimacy of April 30th, 1975
Lưu Nguyễn Đạt, TS, LS
April 30, 2013
April 30, 2013
I. Chính Danh của Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư 1975 [Tóm Lược]
Danh Chính là tên gọi đúng nghĩa [accuracy], sát với sự thật [truth], căn cứ vào thực trạng [reality]. Rõ
ràng, ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là một ngày lịch sử trọng đại. Không ai
có thể chối cãi, gạt bỏ, nói ngược lại, hay quên đi. Đó là một ngày
đáng ghi nhớ, đáng bảo trọng, học hỏi như một kinh nghiệm sinh tử tối
trọng. Danh có chính, lời mới thuận, mới dễ thực thi.
1. Đối với Đảng CSVN và những Thành Phần Nhị Trùng, Cận Thị, Lú lẫn, Tự mãn
Đối
với Đảng CSVN vừa đoạt quyền và những thành phần nội tuyến hay liên kết
“giai đoạn” trên, Ngày 30 Tháng Tư được gọi là ngày vui của kẻ “thắng
cuộc”. Nhưng thực sự đó lại là ngày liên hoan giả tạo trong một chuỗi dài thủ đoạn chính trị lừa đảo, bất chính:
- Thực sự, cộc chiến Việt Nam (1955-1975) nằm trong “kế hoạch nô lệ hoá toàn cầu của cộng sản đệ tam quốc tế”. Hậu cứ cuộc chiến không phải tại Hà Nội, mà ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh;
- Hồ Chí Minh chỉ là một tay sai của khối cộng sản đệ tam quốc tế, phải tuân lệnh hay báo cáo với cấp trên, hoặc Staline, hoặc Mao. Chủ tâm ngược đãi, giết hại dân chúng nên Hồ Chí Minh chỉ là một tên “bạo chúa”, một “quân tàn tặc”.
- Kể cả “hư danh tướng” Võ Nguyên Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba trong các cuộc chiến đánh thắng quân Pháp tại miền Bắc và mặt trận Điện Biên Phủ [1954]. Sự giúp đỡ của Trung Cộng còn tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam [1963-1975].
Như vậy, ngày 30 tháng Tư 1975
- không phải là ngày “Giải phóng” Miền Nam Việt Nam vì Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam bị giải thể như một dụng cụ phế thải, không cần thiết sau khi hoàn tất sứ mạng giả tạo;
- không phải là ngày giành “độc lập” và “chủ quyền” vì đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1950 tới 1975 đã dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả nợ. Hậu quả là Việt Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ chính quyền đang mất dần vào tay Trung Cộng.
- cũng chưa phải là “Ngày Hoà Bình”, hoà giải dân tộc khi trên đất nước triệu triệu con người đi tù, đói khát, chọn lựa tẩu thoát bằng chân, bằng tàu bè, bằng nhiều cách tự sát, kể cả chọn cái chết liều lĩnh để thoát nạn trong nạn.
- và còn là ngày quân đội, cán bộ và nhân dân miền Bắc “sang mắt”, giác ngộ như cựu cán bộ CS nhà văn Dương Thu Hương đã phải khóc và công nhận “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”; như các thế hệ trẻ miền Bắc đã bị Đảng lừa; như cựu thượng tá Bùi Tín, sau khi “đào ngũ” tại Pháp, cũng phải phát động xám hối: “Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày 30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết. Để làm gì cơ chứ? Để đất nước ra nông nỗi này ư ? Độc lập, không! Tự do, không ! Chủ quyền, không ! Về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!”
Vậy đối với đảng CSVN tiếm quyền thực-dân thì ngày 30 tháng Tư đáng gọi là “Ngày CS Lừa Đảo Trường Kỳ”.
2. Đối với Hoa Kỳ
Trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ dùng Việt Nam làm thí điểm thực hiện Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine] để:
- bảo toàn an ninh cho khu vực và tránh cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo “hiệu ứng Domino”, dưới áp lực cộng sản;
- làm hao mòn đối phương bằng một cuộc chiến ngăn chặn, đề phòng, hạn chế, kéo dài;
- Nhưng phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng, và quốc sách bị mắc kẹt dưới áp lực chi phối và lạm dụng của cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].
Với cái chủ tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ trên:
- quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực” [Không-Cốt-Thắng/“No-win policy”/ như MacArthur than phiền thời chiến tranh Cao Ly/Triều Tiên]
- Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ. Dân chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Một số chính khách đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”. Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America--not on the battlefields of Vietnam].
- Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một. Đó là lý do Hiệp Định Paris được ký kết một cách ép uổng [đối với VNCH] vào năm 1973 và sau đó mọi cam kết, hứa hẹn trợ giúp quân sự, bảo trọng thành trì chống cộng tại ViệNam cũng bị nuốt lời, tẩy xoá [viện cớ Hiệp Định Paris không được Thượng Viện Hoa Kỳ chuẩn chấp].
- Vậy Ngày 30 tháng Tư 1975, khi Đại sứ Graham Martin vội vã lên trực thăng tẩu thoát khỏi Sài Gòn thì thời điểm đó có thể gọi là “Ngày Tư Bản Hoa Kỳ Dẹp-Tiệm-Danh-Dự” trên mảnh đất Việt Nam thua lỗ, đểCorporate America có dịp đầu tư vào Trung Quốc.
3. Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [VTNCS] tại Thế Giới Tự Do và Các Nạn Nhân Bị Kẹt Trong Nước
Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [VTNCS] là ai?
- Họ không phải là “Việt kiều”, người Việt ở nước ngoài, những di dân kinh tế, du sinh;
- Họ là gần 3 triệu người dân “Việt Tỵ Nạn Chính trị” ["political refugees”] bỏ trốn ra khỏi nước bằng đường bay, đường biển, đường bộ; đã từng chấp nhận mọi hoàn cảnh nguy nan, hãm hiếp, chết chóc, cốt để ra khỏi cảnh tù đày hay địa ngục trần gian của Bác và Đảng. Họ được xếp loại di dân đặc biệt, với những chứng minh thư như Parolee I-94, ODP, HO, chung gốc “political refugees”, hay “réfugiés politiques”, “exilés”, “diaspora”. Họ luôn luôn là Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vậy.
- Họ là những người Việt tứ xứ, có chung một đất nước, một chính thể tự do, bị CSVN đánh tháo từ Mùa Thu 1945, chiếm đoạt năm 1954, rồi 1975. Vậy những người VTNCS không phải là những người vô tổ quốc [apatrides], mà là những người có tổ quốc, nhưng tổ quốc của họ đã bị CS quốc tế cướp mất.
Vậy Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Thế Giới Tự do và Các Nạn Nhân Yêu Chuộng Bị Kẹt Trong Nước, ngày 30 tháng Tư 1975 phải là “Ngày Quốc Hận” vì:
- cảnh đau đớn, nhục nhã “mất nước” từ 1954;
- sự hãi hùng, oán hận trong “Tháng Tư Đen” 1975 khi người dân yêu chuộng hoà bình, cố gắng bảo vệ tự do trên mảnh đất nhân bản miền Nam Việt Nam thấy bị “đồng minh Hoa Kỳ” bội ước [breach of contract] trong “cam kết” be-bờ cộng sản, xây dựng dân chủ chân chính tại mảnh đất tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á;
- nỗi ân hận, tủi nhục khi lỡ tính, lỡ chân bị kẹt lại trong nước chìm đắm trong bể khổ của phản trắc: dân tộc bị nô lệ hoá, tù dày, ruồng bỏ, trường kỳ chậm tiến, đói khát, bóc lột, vô gia cư ngay tại xứ sở của mình.
Nếu muốn chuyển hoán nhóm chữ “Ngày Quốc Hận” của Ngày 30 tháng Tư sang ngoại ngữ thì phải cân nhắc, đi sâu vào ý nghĩa căn bản, vào cái tâm của ngữ cảnh [etymological context] đa nguyên, đa dạng trên. Đó có thể là những chữ ghép tương tự của “Vietnam Mourning Day”, “Fall of South Vietnam Memorial Day”, “Vietnam Calamity Remembrance Day” [Tưởng Niệm Ngày Quốc Nạn], “Journée Vietnamienne de Deuil National”, hay gọn gàng, sắc bén là “VC-Hatred Day” để ghi rõ sự ghét bỏ CSVN như một điều bất hạnh trọng đại; một tai ương ghê tởm về ý thức hệ thuộc tội phạm nhân loại.
- Những từ ngữ hay dịch thuật như “Remembrance Day” [Ngày Tưởng Niệm] và “Ngày Diễn Hành Cho Tự Do (“March for Freedom”) lại có vẻ quá mông lung, không đủ tầm vóc so với cảnh khốn khổ, tận cùng bi đát của Ngày 30 tháng Tư tại Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. “Tự do” ư, “Mất Mát Được Đền Bù” ư: quá đắt đối với người thoát nạn [chết chóc, hãm hiếp, mất mát, hy sinh]; quá nhỏ so với hơn 80 triệu người Việt đau khổ, bị kẹt trong nước, đang khốn đốn, thất thểu, chịu cảnh tù đày, hủy hại dưới ách đô hộ dã man, quỷ quyệt của CSVN.
- Còn gần đây, với Nghị Quyết SJR 455 “…định danh hiệu ngày 30 tháng Tư, 2013 và mỗi năm sau đó, là “Ngày công nhận người Nam Việt Nam tại Virginia”, vô hình chung, TNS Dick Black và lưỡng viện lập pháp Virginia [dưới ảnh hưởng và chỉ dẫn của hai tổ chức Virginia Asian Chamber of Commerce và the National Congress of Vietnamese Americans] đã làm một tác động sai quấy về mặt chính trị: vô tình hay cố ý, họ đã dùng thế lực “lập pháp” để ban bố một chiêu bài tuyên dương mua chuộc sắc dân [thi hành đúng vào ngày 30 tháng Tư] để làm kẹt hay làm loãng uy thế văn hoá lịch sử, giáo dục của “Ngày Quốc Hận”, mà hầu hết các tổ chức cộng đồng, các tổ chức xã hội dân sự, lẫn công dân Hoa Kỳ gốc Việt đang nặng lòng bảo trọng.
- Hơn thế nữa, Resolution SJR 455 khi “được” dịch sang tiếng Việt thành Nghị Quyết 455 đã tráo đổi danh xưng “Ngày công nhận người Nam Việt Nam tại Virginia” [South Vietnamese Recognition Day in Virginia] thành “Ngày Nam Việt Nam ” và còn “được” giải thích thêm trên mạng là “Ngày VNCH” [sic]. Rõ ràng cả hai “pháp nhân hiến định” [legal & constitutional entities] này chưa hề được ghi trong
bất cứ Nghị Quyết hay Resolution nào đã ban hành tại Virginia. Một hành
vi thiếu thiếu minh bạch, sai sự thật như vậy có chủ ý mờ ám và
sẽ không đem lại ích lợi chân chính nào cho ngày 30 tháng Tư.
Muốn hiểu sự đau đớn, tủi nhục, ghê tởm của người Việt Tỵ Nạn CS và của toàn dân Việt Nam bị CSVN đô hộ, bị Trung Cộng doạ nạt, xúc phạm, hành hạ hằng ngày thì người Mỹ, người Âu Châu và người Do Thái phải vạch rõ, coi rõ, nhớ lại vết thương đau kinh hoàng của chính họ, của dân tọc họ. Đó là
- Ngày Xâm Chiếm [Occupation Day] các Thủ Đô Âu châu bởi Đức Quốc Xả, bởi Nga Xô, trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến;
- Holocaust của toàn dân Do Thái trên khắp thế giới;
- Ngày Khủng Bố September 11 ngay tại thị trấn New York, ngay trong “lòng đất” của Hoa Kỳ.
4. KẾT LUẬN
Xin
nhắc lại và nói thật rõ: Ngày 30 tháng Tư 1975 không hề giành lại độc
lập và chủ quyền cho dân tộc, cho đất nước, khi đảng Cộng Sản Việt Nam
từ 1950 tới 1975 đã dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả
nợ. Hậu quả là Việt Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ
chính quyền đang mất dần vào tay Trung Cộng. Như vậy, không những chỉ
người dân miền Nam Việt Nam — kẻ thua trận sau ngày 30 tháng Tư 1975 —,
mà là cả dân Tộc Việt Nam đã và đang “mất nước”, mất tự do, hạnh phúc,
an sinh, mất danh dự làm người có căn cước gốc Việt chân chính, tử tế,
nhân đạo.
Sau 38 năm lang bạt khắp nơi trên thế giới, Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản và con cháu họ vẫn có
đủ thẩm quyền lịch sử, truyền thống và pháp lý để nói mình “mất nước”,
bị tước đoạt căn cước, thân phận và tài sản, và do đó có đủ tư cách kêu
gào, công bố, nhắc nhở, bảo trọng “Ngày Quốc Hận”. Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử, dân tộc bị chết oan, tù đày, nô hoá mãi mãi phải được ghi nhận là một Quốc Nạn trong dòng lịch sử Việt.
Đến
ngày nay, 38 năm sau ngày 30 tháng Tứ 1975, đa số người Việt trong và
ngoài nước không hề quên những tội ác của CSVN, những hành vi bất nhân,
những bạo hành ám hại dân, phá hoại đất nước của một chế độ tồi tệ, gian
ác, nhiễm trùng, nhiễm độc. Và đến ngày nay, đa số Người Việt Tỵ Nạn
CS không hề a tòng với kẻ phạm pháp, và cũng không hề mong muốn Cộng Sản
tiếp tục thao túng trên đất nước hay phá hủy dân tộc Việt Nam ở bất cứ
đâu.
Đảng
viên cộng-sản dù có đổi danh tính, tân trang căn cước hay nguỵ tạo nhãn
hiệu thành đại gia, mafia tư bản đỏ, họ vẫn là tai ương nhân tạo, là tệ
đoan xã hội, là nọc độc phải gạt bỏ.
Chỉ
khi CSVN cáo chung, khi toàn dân Việt Nam truy hồi lại đất nước, đòi
được lại ranh giới, núi rừng, biển đảo; truy sách lại tài sản, tự do,
nhân phẩm ngay trên xứ sở mình; và dõng dạc tuyên bố trả lại sự thật cho
lịch sử và tư tưởng Việt, chỉ lúc đó, giai đoạn đó mới hết có “Ngày Quốc Hận” trong tâm trí người Việt Nam.
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
Virginia, USA, April 27, 2013
Virginia, USA, April 27, 2013
Legitimacy of April 30th, 1975
[Translation by Phung Thi Hanh, M.A]
To give a legitimate name to an event, one must base on its accuracy, truth, and rightfulness. Undeniably, April 30th 1975
is an historic event. No one can refute, deny, nor forget it. It was
an unforgettable day to be remembered for future generations to learn
from. If the naming is truthful and accurate, then actions and words
will be well founded and legitimate.
1. In regards to the Vietnamese Communist Party and its affiliates
The
Vietnamese Communist Party and its affiliates [puppets, temporary
allies, double agents] called it “Liberation Day”, or “Victory Day”.
But, in reality, it was only a fake success obtained through deceit and
illegal political maneuvers.
- The truth is, the Vietnam War (1955-1975) was part of the “plan to enslave the world “ by the Comintern. Its headquarter was not in Hanoi, but Moscow and Peking.
- Ho Chi Minh was only a puppet of the Comintern and received direct orders from Stalin or Mao Tse Tung. Ho Chi Minh was an assassin cheating and killing his own people.
- Vo Nguyen Giap, the so-called “glorious general”, only followed plans drawn by Chinese advisors Vy Quoc Thanh and La Qui Ba in the Dien Bien Phu Battle. The Chinese Communists continued to give war aid during the invasion of South Vietnam that ended with the Fall of the South Vietnamese Regime in l975.
Therefore, April 30th 1975
- is not the Liberation of South Vietnam because the National Liberation Front was dismantled like an obsolete tool when its “false mission” was over;
- is not Independence or Sovereignty Day because the Vietnamese Communist Party (VCP) has relied heavily on Communist China in the war against South Vietnam (1950-1975) and now has to pay its debt. The result is, Vietnam and its own regime, its frontiers and coastlines, its territorial waters and islands, are slowly falling into the hands of Communist China.
- is not Peace or Reconciliation Day since millions of Vietnamese have been in captivity, millions and millions have chosen to flee the country and risk death rather than live under the communist hell.
In
reality, it is the shameful day when the army, cadres, and the people
from North Vietnam have realized that they have been duped. Former
communist member and writer Duong Thu Huong cried and confessed — “April
30th 75:
the Civil World was lost to the barbaric regime!”. Former Colonel Bui
Tin after fleeing to France wrote “I have renounced all superfluous
honors and glories, shameful medals and now feel ashamed and useless for
being the first to enter the Independence Palace in the afternoon of
April 30th.
Ridiculous, ignorant and foolish me! All that for what? So that our
country became as it is now? Independent? No! Free? No! Sovereign? No!
We are in every aspect behind one hundred other countries.”
Therefore, for the Communist Regime, April 30th should be called the “Protracted Deceit Day” since the Communists have deceived everyone, even its own party members.
2. In regards to The United States of America
The US has chosen Vietnam as an experiment for its “containment doctrine” in its Cold War to:
- secure the areas and avoid other regimes from falling under the communist oppressions by the “domino effect”.
- worn out the enemies with a protracted war.
- but, the cost of this “experiment” was way too high and got stuck under the pressures and abuses of the “military industrial complex”.
Because of the “containment doctrine” policy,
- The ARVN was only allowed to wage a defensive war both tiresome and disorganized. No one, even American generals and advisors dare to have initiatives to fight to win — due to the “No-win policy” which Gen. MacArthur complained during the Korean War.
- The total cost of the Vietnam war at a time would be considered “too costly“. People opposed the war due to high taxes and anti war demonstrations marched down the streets. It was said that the Communists “have won the Vietnam war on the streets of Washington. Indeed, “Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam”.
- Therefore, capitalist America saw no reason to invest in such a costly war. They withdrew their capitals, changed the “game” and the war ended at once! That was the reason the South Vietnamese government was coerced into signing the Paris Agreement in 1973 in which all promises of support and military aids were bluntly broken [excuse: The agreement was not ratified by the U.S. Senate].
On April 30th,
1975 when US Ambassador Graham Martin rushed to his helicopter to flee
from Saigon, that day could be called “Out of Business &
Retreat-in-Honor Day”. So that Corporate America could invest in China!
3. In regards to the Vietnamese Refugees in the free world and the Vietnamese still left behind
Who are the Vietnamese refugees?
- They are NOT “Viet Kieu” or Vietnamese living abroad, nor economic immigrants, nor foreign students .
- They are three millions “Vietnamese political refugees” who have escaped by any means, risking their lives so they don’t have to live under the diabolic Communist Regime. They are “special immigrants” with the status of “Parolee I-94”, “ODP“, or “HO”–all synonyms of “political refugees”, “diaspora”, and “exilés”. They are and will always be Vietnamese Refugees from Communists.
- They are Vietnamese from all walks of life with a same country, under a same free government which was cheated in the Autumn of 1945, defeated in 1954, and then ripped off in 1975. Therefore, the Vietnamese refugees are NOT “apatrides or stateless people”. They have a country and their country was robbed from them by international communists.
For
the majority of the Vietnamese refugees in the free world and the
Vietnamese victims still left behind in their country, April 30th 1975 should be “Ngày Quốc Hận” [“National Hatred Day”, “National Shame Day”or “Vietnam Mourning Day”] because of:
- The pain and shame to have “lost” their country since 1954;
- The fear and anger of “Black April” of 1975 when the peace loving people of South Vietnam realized that their US allies have broken their “solemn” promises to protect the areas of SEA and to build in Vietnam a stronghold of democracy to fight against Communism;
- their regrets and sorrow to live in poverty and servitude, right in their own country.
To translate “Ngày Quốc Hân” of April 30th 1975
into different languages, one has to understand fully the etymological
context and feel the complexity of the Event. It has the various
meanings of “Vietnam Mourning Day”; “Journée Vietnamienne de Deuil National“; “Fall of South Vietnam Memorial Day”; “Vietnam Calamity Remembrance Day” (Tưởng Niệm Ngày Quốc Nạn) or briefly and more accurately, “VC Hatred Day” to commemorate the horrific calamity the Vietnamese Communists have inflicted upon this country and its people.
- Words like “Remembrance Day” (Ngày Tưởng Niệm) or March for Freedom (“Ngày Diễn Hành cho Tự Do”) are too vague to express the magnitude of sufferings and pains the people of Vietnam felt on April 30th 1975.
- Recently, the Senate and the House of Delegates of the Commonwealth of Virginia have passed the State Joint Resolution # 455: “resolved by the Senate, the House of Delegates concurring, that the General Assembly designate April 30, in 2013 and in each succeeding year, asSouth Vietnamese Recognition Day in Virginia.” But under the influence and advice of the Virginia Asian Chamber of Commerce and the National Congress of Vietnamese Americans, Sen. Dick Black, the Senate, the House of Delegates concurring have made a “politically incorrect” interference: intentionally or unintentionally, they have used their legislative power to order a resolution to woe certain ethnic group (right on their April 30th) which, if executed will diminish the historic commemoration of “Ngày Quốc Hận” that communities and civil societies of Vietnamese heritage are presently observing.
c. Moreover, when Resolution SJR 455 was translated into Vietnamese language, the appellation of “South Vietnamese Recognition Day” was changed into “South Vietnam Day”. Then, it was “extended” on websites and emails to “Ngày VNCH”(sic) or “Republic of Vietnam Day”.
Clearly, these two legal and constitutional entities have not been
referred nor proclaimed in any of the resolutions in Virginia. Such an
inaccurate and untruthful translation is confusing and can hurt the
legitimate and historical meaning of April 30th 1975.
To
understand the magnitude of hurt and pain the Vietnamese refugees and
the whole nation felt under the domination of the Communist Regime and
China threat, Americans as well as Europeans and Jews should remember
and relive their own horrible calamities:
– Occupation Day in Europe by Nazy Germany and Russia Soviet Union [USSR] before and after the Second World War;
–Holocaust for Jews in all over the world;
–And lately, September 11 right in New York, in the heart of America.
4. Conclusion
Let’s repeat clearly: April 30th 1975 has never brought back Independence nor Sovereignty to Vietnam. The Vietnamese Communist Party
(VCP) has relied heavily on Chinese aid during the war and now has to
pay its debt. The consequence is, the Chinese are slowly engulfing
Vietnam, its frontiers and coastlines, its territorial waters and
islands. Even the regime is under excessive Chinese domination.
Therefore, not only the citizens of South Vietnam–the “defeated”- but
the whole nation of Vietnam has lost and is losing its country, freedom,
honor and right to happiness.
After
38 years living all over the world, the Vietnamese refugees and their
children still and should have the historic and legal right to claim
that their properties have been stolen, their identities ripped off, and
thus, shout out “Ngày Quốc Hận” and remind the world NOT to forget the
horrendous tragedy inflicted upon their nation by the Vietnamese
communists.
Indeed, on April 30th 1975, the Republic of Vietnam was coerced into a fatal end. Innocent people were wrongfully killed, jailed or deprived of their rights to live with dignity and to own property. These facts should be recorded as an unprecedented National Calamity in the history of Vietnam.
As
of today– 38 years after–the majority of Vietnamese in and out the
country have not forgotten the horrific crimes the Communists have
inflicted upon their nation. They have not forgotten the inhuman
treatments of innocent people in the reeducation camps.
The
Communist party and its members, whether they changed their identities
into red mafia capitalists, they still and will remain the enemies of
our societies; they will still be the poisonous elements we need to get
rid off.
Only
when the Vietnamese Communist Party is disintegrated, when the
Vietnamese people regain their fatherland from the Communists and from
China; when freedom and the right to happiness are given back to the
people, only then “Ngày Quốc Han” —Calamity Day or Shame Day— is no
longer in the mind of the Vietnamese people.
XIN BẤM VÀO LINK-NỐI www.vietthuc.org
MỚI TRONG NGÀY [VÀ NHIỀU BÀI KHÁC...]
30 Tháng Tư phải là “Ngày Quốc Hận” !
Ai đã đổi thành “Ngày Nam Việt Nam ” ? (*)
Đây quả là manh tâm của Việt gian
Trong thủ đoạn làm sai lạc Việt Sử !
Ngày Quốc Hận : Miền Nam bị bức tử
Ngày Việt cộng gây máu đổ, lệ trào
Tạo dâu bể bằng thú tính Hồ-Mao
Tội ác đó đâu bút nào tả xiết !
Chỉ sơ lược nỗi khổ đau dân Việt
Tháng Tư Đen miền Nam chịu ra sao :
Nào “cải tạo” Cộng tắm máu đồng bào
“Đánh tư sản” cướp hầu bao dân chúng !
“Kinh tế mới” lừa cướp nhà... trưng dụng
Đặt “chế tài” để kìm kẹp dân đen
“Tổ dân phố” bắt vào khuôn sống hèn
Đường lối đảng “hồng hơn chuyên” làm chuẩn !
Mặt khác nữa với nỗi đau “Quốc Hận”
Bao chiến sĩ đã tuẫn tiết hy sinh...
Nửa triệu người phải bỏ Nước liều mình
Tìm tự do... trong điêu linh vượt biển !
Lắm kẻ bị chết bởi cơn đột biến :
Gặp bão bùng nổi sóng cuốn thuyền con
Nạn hải tặc cướp chẳng thứ nào còn
Hoặc bị bắt tù ngay từ bến bãi !...
Ôi, Tháng Tư ! Nỗi đau dài thảm hại
Tác động liên hồi mãi tới ngày nay
Nam-Trung-Bắc đều bị Cộng đọa đày
Dưới liềm búa độc tôn quyền đảng trị !
Nay tà quyền, thằng nào cũng tiền tỷ
Chúng dựa Tàu trù dập đồng bào ta
Thậm thụt với Mỹ mong kiếm dollars
Cắt bán sơn hà chia nhau hưởng thụ !...
Việt Nam nay đã hết quyền tự chủ
Chỉ vì bày lang sói máu tanh hôi !
Bao công lao tiền nhân dựng tô bồi
Còn đâu nữa thời vàng son oanh liệt !
Nghĩ mà đau trước nghiệt oan thống thiết
Nợ-Nước-thù-nhà chưa được trả xong
Thế mà “Ai đó” lại nỡ trở lòng
Phản Tổ Quốc và người dân chống cộng !
Này những kẻ tội đồ còn tham sống
Thôi chớ âm mưu thay chữ đổi tên
Tiếp tay Việt cộng làm chuyện đớn hèn
Bóp méo lịch sử _Chỉ đen nhân cách !
Sống trên đời nên giữ danh trong sạch
Trí tâm đâu sao lại quá mê cuồng !?
Ngày Quốc Hận là để nhắc đau thương
Ngày mất Nước – Muôn đời ta phải nhớ !!!
Hoàng Trọng Thanh
30/4: NGÀY QUỐC HẬN
-(Sự thật kinh hoàng của Tháng Tư Đen)-30 Tháng Tư phải là “Ngày Quốc Hận” !
Ai đã đổi thành “Ngày Nam Việt Nam ” ? (*)
Đây quả là manh tâm của Việt gian
Trong thủ đoạn làm sai lạc Việt Sử !
Ngày Quốc Hận : Miền Nam bị bức tử
Ngày Việt cộng gây máu đổ, lệ trào
Tạo dâu bể bằng thú tính Hồ-Mao
Tội ác đó đâu bút nào tả xiết !
Chỉ sơ lược nỗi khổ đau dân Việt
Tháng Tư Đen miền Nam chịu ra sao :
Nào “cải tạo” Cộng tắm máu đồng bào
“Đánh tư sản” cướp hầu bao dân chúng !
“Kinh tế mới” lừa cướp nhà... trưng dụng
Đặt “chế tài” để kìm kẹp dân đen
“Tổ dân phố” bắt vào khuôn sống hèn
Đường lối đảng “hồng hơn chuyên” làm chuẩn !
Mặt khác nữa với nỗi đau “Quốc Hận”
Bao chiến sĩ đã tuẫn tiết hy sinh...
Nửa triệu người phải bỏ Nước liều mình
Tìm tự do... trong điêu linh vượt biển !
Lắm kẻ bị chết bởi cơn đột biến :
Gặp bão bùng nổi sóng cuốn thuyền con
Nạn hải tặc cướp chẳng thứ nào còn
Hoặc bị bắt tù ngay từ bến bãi !...
Ôi, Tháng Tư ! Nỗi đau dài thảm hại
Tác động liên hồi mãi tới ngày nay
Nam-Trung-Bắc đều bị Cộng đọa đày
Dưới liềm búa độc tôn quyền đảng trị !
Nay tà quyền, thằng nào cũng tiền tỷ
Chúng dựa Tàu trù dập đồng bào ta
Thậm thụt với Mỹ mong kiếm dollars
Cắt bán sơn hà chia nhau hưởng thụ !...
Việt Nam nay đã hết quyền tự chủ
Chỉ vì bày lang sói máu tanh hôi !
Bao công lao tiền nhân dựng tô bồi
Còn đâu nữa thời vàng son oanh liệt !
Nghĩ mà đau trước nghiệt oan thống thiết
Nợ-Nước-thù-nhà chưa được trả xong
Thế mà “Ai đó” lại nỡ trở lòng
Phản Tổ Quốc và người dân chống cộng !
Này những kẻ tội đồ còn tham sống
Thôi chớ âm mưu thay chữ đổi tên
Tiếp tay Việt cộng làm chuyện đớn hèn
Bóp méo lịch sử _Chỉ đen nhân cách !
Sống trên đời nên giữ danh trong sạch
Trí tâm đâu sao lại quá mê cuồng !?
Ngày Quốc Hận là để nhắc đau thương
Ngày mất Nước – Muôn đời ta phải nhớ !!!
Hoàng Trọng Thanh
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259
TÀI LIỆU VỀ NGÀY QUỐC HẬN
MƯỜI TÀI LIỆU PHẢN ĐỐI ÂM MƯU CỘNG SẢN XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN
MƯỜI TÀI LIỆU PHẢN ĐỐI ÂM MƯU CỘNG SẢN XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN
1) Chiến Hữu NGUYỄN QUỐC ĐỐNG
2) HƯƠNG SAIGON
3) GS TS NGUYỄN PHUC LIÊN
4) Tập Thể Người Việt tại Hoa Kỳ (KHÁNG THƯ)
5) Cộng Đồng Người Việt QG Liên Bang Hoa Kỳ (THƯ MINH XÁC)
6) Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị VN
7) Cộng Đồng VN Vùng D.C - Maryland - Virginia
8) Trả lời của Chiến Hữu ĐOầN HỮU ĐỊNH & TẠ CỰ HẢI (KIM ÂU)
9) GS NGUYỄN QUỐC KHẢI
10) PAUL VÂN (Thư Ngõ gửi ông NNB)
TÀI LIỆU THAM KHẢO (10 Tài Liệu Tham Khảo cho Phần
I)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1:
ĐỪNG
QUÊN…
NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG
4
Nguyễn Quốc
Đống
Cựu SVSQ
K.13/TVBQGVN
Ngày 11 tháng 4, 2013
Ngày 6-4-2013, cộng đồng người Việt tỵ nạn CS hải ngoại nhận được 1
"tin thật vui" phổ biến trên các diễn đàn về việc "Tiểu bang Virginia
chấp thuận Nghị Quyết SJR 455 công nhận ngày 30-4 là Ngày Nam Việt Nam".
Kèm theo tin vui này là bài viết của Tâm Việt (tức ông Nguyễn Ngọc
Bích) mang tựa đề "30/4 năm nay, Virginia đi đầu trong việc công nhận
Ngày Nam Việt Nam" ghi lại việc hình thành NQ: ai bảo trợ, ai vận động, ý
nghĩa, và phản ứng của các cộng đồng miền Đông Hoa Kỳ đối với NQ này.
Đồng hương chưng hửng nhưng kiên nhẫn đọc cho hết Bản NQ qua lời dịch
của ông NNB. Sau 22 mục XÉT VÌ, đồng hương chưa thấy có gì đáng phàn
nàn, đều là những lời tán dương người dân Nam VN, nhất là sự chiến đấu
can trường của quân đội VNCH; thảm cảnh người dân Nam VN phải chịu dưới
chế độ CS hay trên đường trốn chạy CS; sự thành công đáng khen ngợi của
người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ…. Tuy nhiên họ để ý đến phần chót của NQ :
"Thượng viện QUYẾT NGHỊ, với sự đồng thuận của Ha.-viện, Là Đại Nghị
Viện Virginia sẽ lấy ngày 30 tháng Tư 2013 và cùng ngày này trong những
năm kế tiếp, làm Ngày Công Nhận Nam Việt Nam ở Virginia; và QUYẾT NGHỊ
tiếp, Là Thư-ký Thươ.ng-viện chuyển một bản của Nghị Quyết này tới
Hiê.p-hội Thương mại Á-châu ở Virginia và Nghi.-hội Toàn quốc Người Việt
tại Hoa kỳ đặng cho những thành viên của hai tổ chức này được biết về
quyết định của Đại nghị viện Virginia về vấn đề này…." (bản dịch của ông
NNB). Đồng hương Việt hải ngoại cho là NQ 455 đi ngược lại tinh thần
của Ngày Quốc Hận 30-4 vẫn được tổ chức hàng năm nơi có đông người Việt
tỵ nạn CS sinh sống. Chúng ta thử tìm hiểu tại sao đồng hương Việt chống
đối mạnh mẽ NQ SJR 455 mặc dù nó mang nội dung ca tụng người dân Nam
Việt Nam.
1-Ý nghĩa Ngày 30-4 đối với người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại:
Tại hải ngoại, chúng ta rất quen thuộc đối với những tên gọi "Tháng Tư
Đen" và "Ngày Quốc Hận 30-4". Đây là ngày quốc gia VNCH bị bức tử, chế
độ tự do, dân chủ tại miền Nam bị sụp đổ, kết quả của chiến tranh xâm
lược do Cộng Sản miền Bắc tiến hành trong gần 20 năm (1956-1975). Vào
ngày 30-4-1975, 5 vị tướng lãnh và hàng trăm quân nhân các cấp của
QLVNCH tuẫn tiết đền nợ nước. Sau 30-4-1975, 1 trang sử mới bi thảm bắt
đầu cho mọi thành phần trong xã hội miền Nam : từ quân đến dân; giàu đến
nghèo; già đến trẻ… Quân nhân và viên chức chính quyền VNCH bị lừa vào
các trại cải tạo tập trung, người dân bị đánh tư sản, mất nhà cửa, ruộng
vườn, tài sản, bị lùa đi các vùng kinh tế mới… Chiến tranh cướp đi sinh
mạng của cả triệu quân, dân 2 miền; làm bị thương cả triệu người khác.
Khi chiến tranh gần kết thúc, khoảng tháng 3 và 4, 1975, quân và dân
miền Nam VN nằm chết la liệt trên đường chạy giặc Cộng tràn về các thành
phố. Sau khi miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn người chết trên biển cả,
hay trong rừng sâu khi tìm cách thoát khỏi chế độ CS khắc nghiệt! Nói
đến Tháng Tư Đen, Ngày Quốc Hận 30-4, người ta chỉ còn nhớ đến Máu và
Nước Mắt, đau đớn nghĩ đến cảnh nước mất, nhà tan, tương lai mù mịt! Với
những ý nghĩa nêu trên, không có tên nào thể hiện đầy đủ tinh thần của
ngày lịch sử 30-4 này bằng tên "Ngày Quốc Hận".
Sau khi thoát khỏi Việt Nam Cộng Sản, và được định cư tại quốc gia tự do
khắp 5 châu, hàng năm vào ngày 30-4, người Việt tỵ nạn CS vẫn tổ chức
Lễ Quốc Hận để tưởng niệm và tri ân các anh hùng tử sĩ vị quốc vong
thân, tưởng niệm các quân, dân, cán chính VNCH chết trong các trại tù
CS, các đồng bào chết trên đường tìm tự do. Tại các buổi lễ Quốc Hận, họ
vạch trần các tội ác của CS đối với đất nước và người dân VN để người
dân Việt và cả thế giới biết CSVN là kẻ phạm tội ác diệt chủng, giết hại
cả trăm triệu người trên thế giới. Ngày Quốc Hận 30-4 cũng là dịp để
giới trẻ trong cộng đồng học hỏi các tấm gương sáng của các thế hệ cha,
anh hầu kế thừa sự nghiệp tranh đấu vì tự do, dân chủ còn dở dang của
chúng ta.
2- Ý Nghĩa Ngày 30-4 đối với Cộng Sản Việt Nam :
30-4-1975 là ngày Bắc quân CS thôn tính được miền Nam Việt Nam . Chúng
khoe khoang "giải phóng" được miền Nam , khiến "Mỹ phải cút" và "Ngụy
phải nhào" . Hàng năm trong nước, chúng cho tổ chức các lễ hội để ăn
mừng chiến thắng, ca tụng thành quả của chiến tranh "chống Mỹ cứu nước",
ca tụng các "liệt sĩ đã quyết tử cho tổ quốc quyết sinh", ca ngợi chiến
sĩ anh hùng, tuyên dương gia đình có công với cách mạng v.v…Hẳn chúng
ta còn nhớ Sơn Hào, trong Mục Thư Độc Giả đăng trên nhật báo Người Việt,
Nam California ngày 9-7-2012 đã viết "…30-4 là ngày hội của toàn dân
đoàn kết, chiến thắng, khiến cả dân tộc vui mừng tự hào, giúp Việt Nam
có 1 nhà nước thống nhất, 1 hệ thống chính trị thống nhất.." Hắn còn láo
xược viết như sau " …chỉ có đội quân xâm lược Mỹ và bè lũ Việt gian tay
sai của Mỹ là thất thủ, là mất miền Nam, mất Saigon, còn dân tộc Việt
Nam, cả Nam lẫn Bắc là người thắng trận, thu giang sơn về một mối, chấm
dứt ách thống trị của thực dân mới…" Thậm chí tháng 12, 2012 vừa qua,
tên văn nô VC Huy Đức còn cho phát hành sách "Bên Thắng Cuộc" trong các
cộng đồng Việt hải ngoại để tuyên truyền láo khoét cho CS nhằm đầu độc
giới trẻ, là những người không có nhiều kinh nghiệm về CS. Trong nước,
trừ bọn cán bộ CS trở nên vinh thân phì gia nhờ chiếm được miền Nam trù
phú, thịnh vượng; mỗi lần 30-4 trở về, người dân miền Nam phải sống lại
những thảm cảnh của nhiều năm về trước, nén sự đau thương, và nuốt nỗi
uất hận vào trong lòng.
Tại hải ngoại, các buổi lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30-4 là cái gai chọc vào
mắt người CS. Chúng sợ nhất ngày này vì không ngày nào gợi nhớ những kỷ
niệm đau thương do CS gây ra bằng ngày này. Ngày này khiến người ta nhớ
đến cuộc chiến tranh phi nghĩa do chúng gây ra và bắt nhân dân cả 2 miền
Nam, Bắc chịu biết bao chết chóc, mất mát. Ngày này làm người dân Việt
nhớ đến các tội ác tày trời của chúng; hận chúng đưa đất nước và dân tộc
Việt vào tuyệt lộ, bần cùng hóa nhân dân miền Nam để cả nước cùng chung
số phận nghèo khó, mất tự do, mất hạnh phúc như đồng bào miền Bắc; hận
chúng đưa cả nước vào vòng nô lệ Tàu cộng để ngày nay Việt Nam mất dần
đất, biển và đảo. Mối hận này khiến người Việt tiếp tục chống cộng,
quyết tâm tranh đấu để dân chủ hóa nước nhà, và quang phục quê hương.
Từ lâu CSVN luôn tìm cách làm biến đổi ý nghĩa ngày 30-4 tại hải ngoa.i.
Chúng rất muốn mọi người quên khía cạnh bi thương của biến cố 30-4 để
tội ác của chúng từ từ được xóa nhòa. Trên một số websites, chúng ta tìm
thấy những đề nghị "không nên khóc than, buồn rầu trong ngày 30-4; cần
tổ chức các hoạt động vui tươi dễ dàng thu hút giới trẻ, nên tổ chức
việc ăn mừng tự do, là một thứ vô cùng quý báu đồng bào được thụ hưởng
tại các quốc gia tạm dung…" Thậm chí có người còn đề nghị: "Ngày 30-4,
trong nước CS ăn mừng chiến thắng, thì ở hải ngoại chúng ta ăn mừng tự
do"?! Ai là người có thể vui và ăn mừng được trong ngày 30-4? Đồng bào
miền Nam đau khổ đã đành, mà đồng bào miền Bắc cũng chẳng vui gì trừ lũ
cán bộ đầy quyền uy, thế lư.c. 30-4-1975, nhà văn Dương Thu Hương khi
theo đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, đã khóc và nói rằng
"…thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ
và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà
dân tộc Việt Nam phạm phải…"
Vì vậy nếu người dân Việt tại hải ngoại quên đi Ngày Quốc Hận 30-4,
không còn nhắc nhở đến ngày này, và không tổ chức các buổi lễ Quốc Hận
trong cộng đồng, coi như Cộng Sản VN sẽ nhổ được cái gai trong mắt, và
hoàn thành được việc "bình định" cộng đồng hải ngoa.i. Quốc Hận 30-4
không còn thì người Việt hải ngoại không còn là "người tỵ nạn chính trị"
mà chỉ còn là một "nhóm di dân, định cư" bình thường như bao nhóm dân
thiểu số khác.
3- Các nỗ lực xóa bỏ Ngày Quốc Hận của Việt Gian CS, và phản ứng của đồng hương Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại:
Năm 2004, tuần báo Trách Nhiệm, tiếng nói của Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam California, số 221 ngày 12-8-2004, có đăng 1 bài báo với tựa đề "Kế hoạch tổ chức Ngày Tự Do cho Việt Nam vào ngày 30-4-2005 tại thủ đô Washington, D.C." do 4 tổ chức sau đây đứng tên chịu trách nhiệm:
- Ủy Ban Vận Động Chính Trị Người Mỹ gốc Việt
- Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ
- Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Bắc Mỹ
Tại tiểu bang Georgia, đài Tiếng Nước Tôi (TNT) của Mặt Trận Việt Tân
cũng phát đi lời kêu gọi đồng hương tham gia "Ngày Tự Do cho VN 30-4"
(NTDCVN) tại Washington, D.C., tham dự buổi Diễn hành cho Tự Do (Freedom
March) và nhiều sinh hoạt khác. Kế hoạch ngày 30-4 năm 2005 đã làm đồng
hương Việt tỵ nạn CS nhiều nơi phẫn nộ. Ngày 30-4 là khởi đầu cho sự
kiện lịch sử: miền Nam VN mất tự do. Tại sao những người Việt tỵ nạn CS
tại hải ngoại lại chọn ngày này làm "Ngày Tự Do cho Việt Nam "? Tổ chức
Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn và các đoàn thể chống Cộng tại Minnesota lên
tiếng phản đối bằng Văn Thư ngày 18-12-2004 gửi đến Tuần báo Trách
Nhiệm nhờ phổ biến. Khối Lập Trường Chung gồm 334 tu sĩ, nhân sĩ, trí
thức, cựu quân nhân, chính trị gia, nhà văn, nhà báo ra bản tuyên bố
ngày 15-2-2005 cực lực lên án âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận 30-4. Sau đó,
Ban Tổ Chức NTDCVN đã phải đổi danh xưng "Ngày Tự Do cho VN" thành "Ngày
Tranh Đấu cho Tự Do VN". Ngày 20-3-2005, các tổ chức cộng đồng và đoàn
thể tại tiểu bang Georgia cũng ra 1 Bản Tuyên Bố, nói lên lập trường dứt
khoát "xem ngày 30-4 là Ngày Quốc Hận chứ không thể là Ngày Tự Do".
Thời gian trước đây, có một số người còn có ý kiến muốn đặt tên cho 30-4
là "Ngày Thuyền Nhân". Âm mưu này nhằm mục đích làm phai lạt đi ý nghĩa
của Ngày Quốc Hận, vô hiệu hóa hoạt động của các Hội Cựu Quân Nhân, và
làm tiêu hao tiềm lực chống cộng của người Việt hải ngoa.i. Các tay chân
của CS, những tên thân cộng, hoặc những kẻ tham lợi cam tâm làm tay sai
cho CS tìm mọi cách đổi tên ngày 30-4 để xóa tội cho CS, và từng bước
một "bình định" khối người Việt hải ngoại cương quyết giữ lằn ranh
Quốc-Cộng, không chịu hợp tác với chúng (tài liệu của tác giả Trần Gia
Phụng).
Cuối tháng 12, 2005, đài phát thanh TNT lại cho phổ biến "Thư Mời Tham
Gia Ý Kiến Chọn Ngày Tỵ Nạn VN" của Nhóm Vì Tự Do (tài liệu của tác giả
Lão Móc). 5 ngày được nêu ra cho đồng hương chọn, trong đó lại cũng có
ngày 30-4.
Đầu tháng 4, 2013, sự việc Nghị Quyết SJR số 455 được một số người Việt
tại Virginia vận động, và được Quốc hội Virginia thông qua vào cuối
tháng 2, 2013 cho thấy một nỗ lực khác để xóa tên Ngày Quốc Hận tại hải
ngoa.i. Khi tin tức về NQ được loan truyền trên các diễn đàn, đồng hương
khắp nơi bày tỏ thái độ chống đối mạnh mẽ, không chấp nhận việc Ngày
Quốc Hận 30-4 tại Virginia bị Quốc Hội Virginia tùy tiện đổi tên, mang 1
tên mới đi ngược lại tinh thần Ngày Quốc Hận của người Việt tỵ nạn CS
tại hải ngoa.i.
Theo bài viết của ông NNB (Tâm Việt), "để đón nhận tin mừng này, các
cộng đồng VN ở Miền Đông đang rủ nhau về Richmond đi diễn hành ngày 27
tháng 4 tới đây-nhằm đánh dấu một mốc mới trong cuộc đấu tranh cho chính
nghĩa VN tự do". Chương trình sinh hoạt tưởng niệm ngày 30 tháng 4 của
CĐVN vùng Washington, DC, Maryland & Virginia cũng có phần "diễn
hành đến địa điểm nhận Quyết Nghị của Virginia tưởng niệm Ngày 30 tháng
4" vào ngày 27-4-2013. Vì bị đồng hương Việt phản đối dữ dội, ngày
9-4-2013, CĐVN và LHCCS vùng Washington, DC, Maryland & Virginia
phải quyết định "không tiếp nhận NQ SJR 455 vì NQ này thay đổi tinh thần
Ngày Quốc Hận 30-4, hủy bỏ cuộc diễn hành ngày 27-4-2013 lên Richmond,
Virginia nhận NQ…" Âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận 30-4 tại hải ngoại, một
lần nữa lại thất ba.i.
4-Ai chịu trách nhiệm về NQ SJR 455 tại Virginia, chọn 30-4 làm "Ngày Nam VN"?
Thực hiện việc đổi tên ngày 30-4, khiến ngày lịch sử của người Việt nạn
nhân CS, cả trong nước lẫn hải ngoại, mang 1 ý nghĩa khác với ý nghĩa
nguyên thủy của Ngày Quốc Hận, đi ngược lại nguyện vọng của họ là một
việc làm không thể chấp nhận đươ.c. Vì vậy tất cả các âm mưu xóa Ngày
Quốc hận trong nhiều năm qua đều bị đồng hương Việt bẻ gãy, và đi đến
thất bại thảm ha.i.
Ngày 9-4-2013, ông Nguyễn Ngọc Bích, chủ tịch (?) của Nghị Hội Toàn Quốc
Người Việt tại Hoa Kỳ (National Congress of Vietnamese Americans) gửi 1
thư ngỏ bạch hóa một số điều liên quan đến bản NQ gây nhiều tranh cãi
này. Ông viết " Nghị Quyết SJ 455 KHÔNG bắt đầu từ tôi hay Nghị hội…đó
là do thiện chí của một người bạn Mỹ của VNCH chúng ta, ông Dick Black,
một cựu chiến binh TQLC đã từng tranh đấu (?) ở VN…có tham vọng…đi tìm
lại sự công bằng cho người Việt tự do chúng ta…đưa ra một nghị quyết như
SJ 455 để nhận định cho chính xác rồi buộc các sách giáo khoa phải viết
lại cho đúng sự thật…" Cũng theo ông Bích, ông Black liên lạc với một
số người Việt gồm các doanh gia và cựu quân nhân VNCH để giúp ông soạn
thảo NQ, và sau cùng mời ông Bích "tham gia vào công việc soạn thảo
(cho) có bề thế hơn". Như vậy, ông Bích đã xác nhận trách nhiệm của ông
trong việc hình thành NQ 455. Tại Virginia, một số doanh gia hay thậm
chí một số cựu quân nhân có thể không quan tâm nhiều đến vấn đề chính
trị, hay khía cạnh tế nhị của Ngày Quốc Hận đối với người Việt tỵ nạn
CS, nhưng ông NNB, với tư cách là 1 giáo sư đại học, hiểu biết nhiều về
các vấn đề chính trị, một nhà hoạt động cộng đồng nhiều năm (tổ chức
Nghị Hội của ông có 26 năm hoạt động theo lời ông viết), cựu giám đốc
đài Á Châu Tự Do (RFA), ông hẳn phải biết ý nghĩa của Ngày Quốc Hận
trong cộng đồng người Việt tỵ nạn CS. Lẽ ra ông phải cố vấn cho họ chọn 1
ngày khác, và không thể là ngày 30-4. Chuyện vô lý ở chỗ một biến cố
lịch sử đã được cộng đồng đặt tên theo ý nghĩa của nó và chọn ngày để kỷ
niệm thì không thể được đặt một tên khác, nhất là việc đặt tên mới lại
không phải do cộng đồng thực hiê.n.
Các nghị quyết về cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH đâu có mục chọn 1 ngày nào
đó để vinh danh lá cờ di sản tự do của người Mỹ gốc Việt đâu! Năm 2002,
Quốc Hội Virginia cũng từng ban hành Nghị quyết SJR 139 xác định 30-4 là
"Ngày Tưởng Niệm" trong cộng đồng người Việt tại Virginia (National
Vietnamese Remembrance Day), Nghị Quyết SJR 137 xác định Ngày Quân Lực
19-6 của VNCH là "Ngày Chiến Sĩ Tự Do Mỹ gốc Việt" (Vietnamese American
Freedom Fighters Day). Như vậy trong 2 NQ này, ngày tháng và ý nghĩa đều
không thay đổi. Khi muốn hỗ trợ cho nhân quyền tại VN, QH Virginia đã
chọn ngày 11- 5 làm "Ngày Nhân Quyền cho VN" (1 ngày mới). Nay nếu QH
Virginia muốn ca tụng thành tích của người dân Nam Việt Nam và chọn 1
ngày mang ý nghĩa này (South Vietnamese Recognition Day), đó phải là 1
ngày mới, không thể chọn 1 ngày đã có sẵn tên, và lại là ngày quan trọng
nhất trong lịch sử tỵ nạn CS của người Việt, ngày Quốc Hận 30-4. Đây là
1 sai phạm không thể chấp nhận đươ.c. Chính ra nhóm chữ "South
Vietnamese Recognition Day" trong bản tiếng Anh của QH Virginia phải
được dịch là "Ngày Vinh Danh Người Dân Miền Nam VN" chứ không phải là
"Ngày Nam Việt Nam" hay "Ngày Việt Nam Cộng Hòa" như lời dịch và giải
thích của ông NNB.
NQ SJR 455 đã không được phổ biến rộng rãi trong đồng hương; chỉ có một
số nhỏ biết được về quá trình vận đô.ng. Mọi sự được giữ bí mật vì sợ
"hỏng chuyện" (lắm thầy thối ma)! và sợ "có kẻ phá hoại" (lời ông NNB).
Tại sao ông NNB sợ NQ này sẽ hỏng chuyện? Phải chăng ông sợ chuyện năm
2005 tái diễn (kế hoạch Ngày Tự Do cho VN mà Nghị Hội của ông cũng tiếp
tay thực hiện mà không thành công)? Chính ra trong quá trình thông qua 1
NQ (chẳng hạn các nghị quyết công nhận cờ VNCH của các hội đồng thành
phố hay quốc hội tiểu bang), phải có phần "điều trần" trước ủy ban trách
nhiệm; sau buổi điều trần công khai (hearing), nếu không có lời phản
đối của người dân, dự thảo của NQ mới được đưa ra biểu quyết để xem có
được chấp thuận hay không. NQ SJR 455 liên quan đến cộng đồng người
Việt, đã được soạn thảo và thông qua mà nhiều người Việt trong cộng đồng
không hề hay biết. Chính ông NNB đã viết "…Hôm đó, TNS Dick Black cũng
"tiết lộ một tin vui đến cộng đồng chúng ta…". Một quá trình "dân chủ"
như ông NNB ca tụng tại sao phải giữ bí mật kỹ đến thế?! Hành động của
ông NNB trong quá trình hình thành NQ 455 quả không trong sáng chút nào.
Chúng ta không phủ nhận thiện chí của Quốc hội tiểu bang Virginia luôn
dẫn đầu trong việc ban hành các Nghị Quyết rất có lợi cho cộng đồng
người Việt tỵ nạn CS tại Hoa Kỳ.
Nhờ vậy mà chính nghĩa của khối người Việt hải ngoại được sáng tỏ. NQ
SJR 455 lần này cũng mang nội dung rất tích cực; chỉ có chi tiết ngày
chọn vinh danh là không hợp lý mà thôi (ngày 30-4). Việc chọn sai ngày
cũng không phải là lỗi của TNS Dick Black, một người bạn Mỹ tốt của cộng
đồng người Viê.t. Việc chọn sai ngày là lỗi của những người Việt đứng
ra thỉnh nguyện, và vận động (petitioners). Cộng đồng người Việt tại thủ
đô Washington, DC, Maryland & Virginia cần liên lạc với TNS Dick
Black, trình bày cho ông rõ điểm sai của NQ, và thỉnh nguyện việc sửa
đổi cần thiết. Nếu không làm công việc này, một số người có thể lợi dụng
Bản Nghị Quyết này, vận động các dân cử địa phương để ban hành các nghị
quyết tương tự. Thư "trần tình" của ông NNB (9-4-2013) đã nêu tên một
số người muốn xin bản Nghị Quyết SJR 455 để có cuộc vận động tương tự
tại địa phương của họ. Như vậy Ngày Quốc Hận 30-4 của người Việt tỵ nạn
CS tại Hoa Kỳ có thể sẽ "bị đổi tên" bằng nhiều nghị quyết khác, và với
thời gian ý nghĩa "Quốc Hận 30-4" sẽ bị xóa nhòa.
Kết luận, 30 tháng 4 là một ngày chúng ta không thể quên, và không ai có thể làm chúng ta quên ngày lịch sử này. "Ngày Tang" của miền Nam VN nói riêng, và của tất cả người Việt yêu chuộng tự do nói chung là ngày cần được ghi nhớ, và làm lễ tưởng niệm hàng năm. Đất nước Việt còn bị thống trị dưới chế độ độc tài CS, người dân Việt còn bị áp bức, bóc lột dưới gông cùm CS, thì mối hận này của chúng ta đối với CSVN vẫn còn tồn ta.i. Chúng ta cũng đừng quên Nghị Quyết 36 của CSVN được ban hành ngày 26-3-2004. Năm 2014 là năm CSVN sẽ tổ chức 10 năm thi hành NQ 36 tại hải ngoại, và tất nhiên chúng cần có 1 số "thành tích" để dâng Đảng. Âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận tại hải ngoại; kêu gọi hòa hợp, hòa giải cuội dù được sự tiếp tay của nhiều Việt Gian trong cộng đồng, chắc chắn không thể thành công. Chúng ta đồng ý với nhà thơ Bùi Phượng Vĩ:
NGÀY QUỐC HẬN
MÃI MÃI LÀ NGÀY QUỐC HẬN!
Kẻ học cao sao thua người ít học?
Cần bạc tiền và danh vọng mà thôi?
Kẻ thế kia giúp ích chi cho đời?
Chỉ thối nát, khiến người người xa lánh.
Ngày QUỐC HẬN sao cố tình né tránh?
Chọn cái tên chẳng dính dấp vào đâu.
Ngày Nam Việt Nam nghĩa lý thế nào? (*)
Trong cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc?
Có phải chăng đã ngậm tiền lũ giặc?
Nên cố tình muốn thay đổi danh xưng?
Khi quê hương đang khí thế bừng bừng,
Chống Việt Cộng bạo tàn và tham nhũng.
Bọn Việt Cộng đang vô cùng lúng túng,
Người nước ngoài và quốc nội vùng lên...
Tội ác gian manh chắc chắn phải đền
Không chạy thoát dẫu lưới trời lồng lô.ng.
Là con người, sống sao cho đáng sống,
Không cúi lòn, nịnh bợ lũ gian manh.
Quang Phục Quê Hương, chắc chắn sẽ thành,
Đừng nối giáo bọn mặt người dạ thú.
Ba mươi tháng tư, chúng như thú dữ,
cướp của, giết người, chẳng chút xót thương.
Thây chết ngổn ngang khắp các nẻo đường,
Hỏi có phải hôm nay ngày Quốc Hận?
Giờ các ông cớ sao còn lấn cấn?
Ba tám năm rồi đâu phải mới hôm qua!
Hay các ông muốn đổi để làm quà,
Dâng Bác, Đảng để cầu thân, thăng tiến?
Xin các ông chớ đôi co ngụy biện,
Bằng các ông bỏ sọt rác cho rồi.
Để không còn mùi xú uế tanh hôi
Làm nhơ nhớp cả tiền đồ dân tô.c.
Tháng tư về, hàng triệu người bật khóc,
Thương người thân chết tức tưởi vừa qua.
Biết bao người tan nát hết cửa nhà,
Hỏi có phải tháng tư là Quốc Hận?
Bùi Phượng Vĩ
(*) Nguyễn Ngọc Bích và đồng bo.n.
(Fwd: chinh.nghia@rocketmail.com,4/12/2013, 9.16PM)
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2:
From: huong Saigon <huongsaigon9@gmail.com>
To: BMH <amsfv@aol.com>; BICH NGUYEN <nguyennbich37726@aol.com>
Sent: Friday, April 12, 2013 8:55 AM
Subject: [Thaoluan9] Nguyễn Ngọc Bích ngày càng kém thành thật
Kính thưa quý vị,
Thưa ông Nguyễn Ngọc Bích,
Khi một người sống bằng cách "lừa người, dối mình", lâu ngày cuộc sống đó sẽ trở thành trở thành "bản tính".
Một người có học đến trình đô. PhD (?) mà không biết chấp nhận phê bình và sửa sai thì thật là đáng trách.
Tôi không có nhiều thì giờ, nhưng tôi cảm thấy cần phải viết vì lợi ích
chung của cộng đồng người Việt Tỵ nạn cs (NVTNCS). Để tránh mất thời giờ
tôi xin đi thẳng vào vấn đề:
(1) " South Vietnamese Recognition Day" không thể được dịch là "Ngày Nam
Việt Nam" và càng không thể dịch là "Ngày VNCH" mà phải dịch cho đúng ý
nghĩa của nó là "Ngày Toàn dân Miền Nam Việt Nam". Điều nầy tôi đã nói
rõ trong 2 emails trước của tôi. Thế nhưng ông Nguyễn Ngọc Bích vẫn còn
tiếp tục dùng "Ngày Nam Việt Nam" và "Ngày VNCH" trong email dưới đây
gởi cho Ông Lê Duy San và TS Hồng Lĩnh. Một lần nữa, ta không thể dịch
South Vietnamese là Ngày Nam Viet Nam và càng không thể dịch là Ngày
VNCH. Ông Nguyễn Ngọc Bích có học "ngôn ngữ học" mà dịch như thế thì đó
là một cố tình lừa mị một cách trắng trơ.n. Tiếp tục dùng sai là một
ngoan cố không thể chấp nhận, đặc biệt, là đối với một khoa bảng!
(2) Nguyễn Ngọc Bích tiếp tục lừa bịp bằng ngụy biê.n. Cái lập luận của
Nguyễn Ngọc Bích cho rằng Người Mỹ có quyền tự do lập ra ngày "South
Vietnamese Recognition Day" là lập luận dối trá trơ trẻn. Nguyễn Ngọc
Bích viết trong email dưới đây:
"Va toi xin noi them, nguoi nao trong chung ta muon (ke ca toi nua) goi
ngay 30/4 la NGAY QUOC-HAN (nhat la trong tieng Viet) thi xin cu
tiep-tuc. Nhung KHONG NEN bat nguoi My goi ngay do la NGAY QUOC-HAN CUA
HO!" [NNB]
Ông Nguyễn Ngọc Bích nên hiểu rằng NVTNCS không bao giờ muốn và bắt người Mỹ gọi ngày 30 tháng 4 là ngày gì cả. Nhưng NVTNCS cực lực phản đối hành vi gian xảo lừa mị của một nhón người tiếm danh "The National Congress of Vietnamese Americans" THỈNH NGUYỆN và VẬN ĐỘNG ÁP ĐẶT ngày 30 tháng 4 là "South Vietnamese Rcognization Daỵ"
ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ HÀNH ĐỘNG DỰA TRÊN NGUYÊN TẮC TỰ DO mà là HÀNH VI BẤT HỢP PHÁP của một số cá nhân lấy danh "The National Congress of Vietnamese Americans" để [có thể] mưu đồ cho một quyền lực chính trị nào đó.
Thiết nghĩ Vietnamese Americans nên yêu cầu vị chairman of "The National Congress of Vietnamese Americans" cho NVTNCS biết tổ chức nầy do ai bầu lên và lấy tư cách gì đại diện Vietnamese Americans thỉnh nguyện QH Virginia chỉ định ngày 30 tháng 4 là "South Vietnamese Recognition Day".
Ông Nguyễn Ngọc Bích đừng ngoan cố cho rằng đây là quyền tự do của QH Virginia. QH Virginia không áp đặt dựa trên quyền hạn của họ mà là chấp nhân THỈNH NGUYỆN của nhóm cá nhân mạo danh là
"The National Congress of Vietnamese Americans" lập ngày 30 tháng 4 là ngày "South Vietnamese Recognition Day".
Hy vọng ông Nguyễn Ngọc Bích hiểu những gì tôi nói.
(3) Ông Nguyễn Ngọc Bích khẳng định với cộng đồng NVTNCS rằng:
"Tuy-nhien, cung phai noi ngay la mot Dai-nghi-vien nhu Quoc-hoi cua Virginia khong dễ gi doi thay nhung nghi-quyet hay du-luat cua ho mot khi ho da thong quạ" (NNB)
Thưa ông NN Bích, NVTNCS không ngây thơ như ông nghĩ đâu. Ngay cả hiến pháp Hoa Kỳ còn được tu chỉnh, huống hồ chi là một Resolution của một tiểu bang, nhất là cái Resolution nầy dựa trên THỈNH NGUYỆN của một thể nhân (The National Congress of Vietnamese Americans) không thật!
(4) Ông Nguyễn Ngọc Bích luôn đặt vai trò của Ông Dick Black trong vấn đề nầỵ Ông NNB nên hiểu rằng ông Black không phải là người chủ xướng và ông ấy cũng không thể là người Petitioner. Ông ấy chỉ là insider trong QH Virginia giúp cho thỉnh nguyện của "The National Congress of Vietnamese Americans" được QH Virginia duyệt xét, bầu phiếu và chấp nhâ.n.
Một lần nữa, tôi khuyên ông NNB đừng xem thường trí thông minh của NVTNCS.
Kính
Huong Saigon
(04/12/2013)
TÀI LIỆU THAM KHẢO 3:
KHÔNG ĐƯỢC XÂM PHẠM ĐẾN
NGÀY QUỐC HẬN 30/4
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.04.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Tôi đã đọc lá thư bộïc bạch cắt nghĩa của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về
việc lấy ngày 30/4 QUỐC HẬN làm ngày MIỀN NAM VN hay NGÀY VNCH. Giáo sư
ca tụng Nghị Quyết của Quốc Hội Virginia và bên dưới bài kể lể bộïc
bạch, Giáo sư còn nói là nhiều người hỏi xin Nghị Quyết ấy, mà trong
những người này có Gs Nguyễn Chính Kết. Gs Nguyễn Chính Kết mà Gs Bích
nhắc ra làm tôi nghĩ đến trước đây sự liên hệ với Việt Tân như thế nào
và cách đây mấy năm Gs Nguyễn Chính Kết đã đề nghị Gs Nguyễn Ngọc Bích
làm Đại diện Hải ngoại cho khối 8406. Sự liên hệ với Việt Tân làm tôi
nghĩ đến trước đây chúng tôi đã phải kịch liệt phản đối âm mưu chọn ngày
QUỐC HẬN 30/4 làm NGÀY DIỄN HÀNH TỰ DO tại Hoa Thịnh Đốn, nghĩa là cũng
trong mục đích xóa ngày 30/4 QUỐC HÂ.N.
Nghe những câu trả lời của Gs.Bích trong Hội Luận về Ngày QUỐC HẬN 30/4
Hôm nay, tôi đã nghe chính Gs.Nguyễn Ngọc Bích trả lời những câu hỏi của
những quý Vị đặt ra cho Giáo sư trong HỘI LUẬN VỀ NGÀY QUỐC HẬN 30/4.
Tôi có những nhận định sau đây về cách trả lời của Giáo sư .
1) Gs.Bích tránh né việc trả lời trực tiếp và rõ rệt cho những câu hỏi
then chốt về việc chọn ngày QUỐC HẬN 30/4 gọi là ngày NAM VIỆT NAM hay
NGÀY VNCH với những câu hỏi xoay quanh vấn đề chính và then chốt như sau
:
Ông Mỹ nào đó có thiện chí ca tụng sự chiến đấu của Miền Nam VN và Giáo
sư biết ngày 30/4 là ngày QUỐC HẬN có tầm quan trọng cho Cộng Đồng VN
Hải ngoại, thế mà Giáo sư không cản ngăn việc chọn ngày 30/4, đó là vì:
(i) Một là Giáo sư có chủ trương như Việt Tân muốn xóa cái tên QUỐC HẬN ;
(ii) Hai là Giáo sư khờ khạo, ngốc nghếch chủ ý hay vô tình mà không
hiểu tầm quan trọng của ngày 30/4 QUỐC HẬN đối với chẳng những Cộng Đồng
VN tại Hoa kỳ mà còn cho các Cộng Đồng VN trên toàn Thế giới, nên không
dám lên tiếng cản Ôâng Mỹ kia chọn ngày 30/4 thành ngày Miền Nam VN hay
ngày VNCH ; (iii) Ba là Giáo sư ngu dốt đặc cán mai không biết gì về sự
UẤT HẬN sâu đậm của toàn thể Người Việt, mà câm họng không lên tiếng để
Ôâng Mỹ kia muốn chọn ngày nào thì chọn, bất kể việc đó vùi dập tâm hồn
UẤT HẬN của Người Việt Nam.
2) Thay vì trả lời trực tiếp và rõ rệt cho những câu hỏi về vấn đề then
chốt trên đây, thì Giáo sư lại trả lời lòng vòng, mà mục đích mà tôi
hiểu là Giáo sư muốn tránh né trách nhiệm làm bâ.y. Những trả lời lòng
vòng của Giáo sư Bích như sau :
a) Giáo sư ca tụng Ông Mỹ kia có thiện chí muốn nêu cao tinh thần chiến đấu của dân chúng và quân đội Miền Nam Việt Nam.
b) Giáo sư chỉ được Ông Mỹ tham khảo về những chi tiết như những con số
trong nội dung Nghị Quyết, chứ không được hỏi về tổng thể Nghị Quyết.
Đây là có ý muốn tránh né về việc Ông Mỹ muốn chọn ngày 30/4.
c) Giáo sư còn biện minh cho Ông Mỹ là nếu không chọn ngày 30/4 thì chọn
ngày nào. Ông Mỹ chỉ còn đường chọn ngày 30/4 để nói rằng ngày đó là do
Mỹ quyết định cắt mọi viện trợ cho Miền Nam Việt Nam.
d) Giáo sư còn công kích những ai hỏi rằng đây là có « bàn tay lông lá «
âm mưu muốn xóa NGÀY 30/4 QUỐC HẬN bằng cách trả lời rằng đây là những
vu khống hay nghi kỵ cho người khác.
e) Để trả lời cho thắc mắc rằng đây là vấn đề quan trọng, thế mà khi
Giáo sư được Ông Mỹ yêu cầu góp ý, thì Giáo sư lại dấu lẹm đi, mà không
thông báo việc quan trọng này cho Cộng Đồng, Giáo sư đã trả lời rằng
thông báo cho Cộng Đồng, thì lại lắm thầy thối ma, lắm cha con khó lấy
chồng. Trả lời như vậy làm người nghe có thể nghĩ rằng nếu thông báo cho
Cộng Đồng thì Giáo sư khó lòng thực hiện âm mưu « xóa ngày QUỐC HẬN
30/4 ! »
f) Sau cùng Giáo sư đã nói ra quan điểm của mình là muốn xóa hai chũ
QUỐC HẬN và muốn thay vào đó là ngày vui mừng và ngày quật cường !!!
Điều này chứng tỏ rằng lòng của Giáo sư muốn xóa hai chữ QUỐC HÂ.N.
Chính câu trả lời cuối cùng này cắt nghĩa tại sao Giáo sư đã không trả
lời trực tiếp và rõ rệt cho những câu hỏi về vấn đề then chốt là tại sao
chọn ngày 30/4 QUỐC HẬN làm ngày MIỀN NAM VIỆT NAM hay NGÀY VNCH, mà
Giáo sư chỉ trả lời lòng vòng « LẠC ĐỀ « cốt ý để tránh cái thâm ý là
muốn xóa hai chữ QUỐC HẬN mà Giáo sư vì ngu dốt hay vô tình, đã để lòi
cái đuôi cáo ra ở câu trả lời chót là muốn ngày đó là ngày vui mừng quật
cường. Thường những kẻ không có lòng trung thực, thì hỏi nhiều sẽ để
lòi cái gian ra. Tiếng La-tinh có câu « QUIDQUID LATET APPAREBIT « (Sự
gì ẩn dấu tiềm tàng, sẽ có lúc lòi ra !)
Tại Việt Nam, CSVN đã ăn mừng ngày 30/4 là ngày CHIẾN THẮNG, GIẢI PHÓNG.
Giáo sư muốn vui mừng, quật cường ngày 30/4, hãy về ăn mừng với CSVN,
thì hết phải trả lời « LẠC ĐỀ « vòng vo tam quốc !
Ngày QUỐC HẬN 30/4 là ngày phải được tôn trọng
không phải là chỉ nguyên cho Người Việt Hải ngoại,
mà cho cả Dân tộc
Ở phần trên, trong câu trả lời chót, Gs Bích đã để lòi cái đuôi chồn ra
là ông muốn ngày 30/4 là ngày vui mừng quật khởi chứ không phải là ngày
than khóc, nghĩa là Giáo sư muốn xóa hai chữ QUỐC HÂ.N. Trong lá thư
biện bạch trên Diễn Đàn, Giáo sư cũng nói rõ điều đó. Như vậy, Gs Bich
coi việc HẬN là xấu phải xóa bỏ đi. Đây là việc lầm lẫn lớn của Gs Bích.
Trong VIỆT NAM TỰ ĐIỂN của LÊ VĂN ĐỨC được hiệu đính bởi LÊ NGỌC TRỤ, do
nhà xuất bản KHAI TRÍ, thì chữ HẬN được định nghĩa là : »Giận, Oán
trong lòng : Oâm hận, Thù hận, Oán hận « . Có thể dịch ra tiếng Pháp là
HAIR. Chữ HAIR được PHÁP-VIỆT Tân Tự Điển của THANH NGHỊ dịch ra tiếng
Việt như sau : « Oán ghét, Căm thù, Căm hờn (Il hait le mensonge : Hắn
ghét nói dối).
Như vậy chữ HẬN tự nó không có gì là xấu để Gs Bích phải chủ trường xóa
bỏ chữ đó đi. Chỉ có CSVN mới ghét chữ đó vì chúng đã làm những điều tàn
ác và không muốn dân chúng Việt Nam dùng chữ HẬN để nhắc ra những tội
ác của chúng, nhất là ghi cái ngày QUỐC HẬN 30/4 này vào Lịch sử để các
thế hệ con cháu truyền lại cho nhau. Nếu Gs Bích ghét chữ HẬN có lẽ đã
bị CSVN nhồi sọ cho mà thôi hoặc là muốn chiều theo ý của CSVN.
Không những chữ HẬN tự nó không có gì đáng ghét, mà nó còn làm nền tảng
sức mạnh để con người tăng thêm ý chí đi tới mục đích cuối cùng. Câu nói
tiếng Pháp : « Il hait le mensonge : Hắn ghét nói dối « cho thấy rằng ý
chí nói sự thật cần phải có lòng ghét cay ghét đắng việc nói dối làm
sức mạnh để con người có can đảm nói sự thâ.t. Việc hận thù đối với nói
dối là nền tẳng tăng cường cho ý chí nói sự thâ.t. Nếu Gs.Bích muốn quật
cường chống Cộng, thì phải cần sự OÁN HẬN trong lòng của mọi người đối
với những tội ác của Cộng sản, thì lúc đó ý chí chống Cộng mới tăng sức
mạnh đi tới cùng.
Ngay trong Tôn Giáo, việc oán hận đối với tội lỗi cũng là điều cần thiết
để người ta tăng ý chí tránh tội lỗi. Nếu Gs.Bich là người Công Giáo và
khi xưng tộâi, phải có lòng oán ghét tội lỗi thì mới là thành thư.c.
Còn xưng tội xong, không coi tội lỗi là thù, mà còn coi là bạn, thì sẽ
tái phạm rất dễ dàng.
HẬN ai ?
Có thể là hận chính mình vì mình đã làm những điều ác trong quá khứ mà
bây giời mình phải thù oán những điều ác do mình làm ra để lấy sức mạnh
và can đảm cho ý chí quyết tâm làm điều thiê.n.
Có thể là hận những người đã gây tội ác cho mình và cho những người
chung quanh. Từ cái lòng hận của mình, còn phải phổ biến sự oán hận ấy
cho những người chung quanh để mọi người cùng một ý chí bài trừ thủ phạm
mang tội ác đến cho mọi người.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã đã đặt mối oán thù giữa người Nữ và con
rắn. Bà Eva đã nghe lời con rắn để Nhân loại phạm tội bất trung. Con rắn
tượng trưng cho quỷ làm điều ác. Người Nữ là cội nguồn Nhân loa.i. Như
vậy Nhân loại phải mang trong lòng mối HẬN đối với quỷ (con rắn) là tội
lỗi. Cái mối HẬN này là cần thiết để Nhân loại có sức mạnh mang ý chí
xua đuổi trước tiên những điều ác để sau đó thực hiện ý chí làm điều
lành.
NGÀY QUỐC HẬN 30/4
Ngày Quốc Hận 30/4 là ngày của TÂM HỒN không phải chỉ riêng cho những Người Việt buộc lòng phải bỏ nước ra đi để tỵ nạn nơi xứ người, mà còn là ngày của TÂM HỒN của cả DÂN TỘC VIỆT NAM đã và đang phải cúi đầu chịu đựng những hậu quả tàn ác của Chế độ Cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng CSVN dùng bạo lực áp đặt lên Lãnh thổ Việt Nam. Ngày 30/4 chi là một ngày tượng trưng cho muôn ngày thù oán Cộng sản đã trải qua bao chục năm trường từ khi ác tặc Hồ Chí Minh phục vụ cho Cộng sản quốc tế mang Chế độ Cộng sản ngoại lại về bắt Dân Tộc phải chịu đư.ng.
* Cái ngày Hồ Chí Minh áp đặt chủ thuyết Cộng sản ngoại lai lên Miền Bắc là ngày QUỐC HẬN
* Cái ngày bắt đầu Cải Cách Điền Địa giết bao trăm ngàn người là ngày QUỐC HÂ.N.
* Cái ngày CSVN âm mưu với Pháp chia đôi đất nước Việt Nam năm 1954 là ngày QUỐC HÂ.N.
* Ngày Tết Mậu Thân giết bao ngàn người ở Huế là ngày QUỐC HÂN
* Ngày xua quân Miền Bắc vào Miền Nam, lấy chiêu bài Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam, đặt mìn phá cầu cống, bỏ lựu đạn nổ giết những trẻ em ở
trường học, ở chợ búa làm chết dân lành… là ngày QUỐC HẬN
* Ngày Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng ký dâng Biển, Đảo cho Tầu là ngày QUỐC HÂ.N.
* Ngày Quốc Hội Hoa kỳ chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa để làm mồi cho ngày 30/4 là ngày QUỐC HẬN
* Ngày 30/4, Cộng sản Miền Bắc chiếm trọn Miền Nam là ngày QUỐC HÂ.N.
Ngày này trượng trưng cho tất cả những ngày trên đây, không phải chỉ
riêng cho những người buộc phải bỏ nước ra đi, chết chìm trên biển cả,
hay chết đói lả người trong rừng núi, mà còn chung cho cả DÂN TỘC VIỆT
NAM.
DÂN TỘC VIỆT NAM phải mang TÂM HỒN OÁN HẬN những tội ác CSVN để làm NỀN
TẢNG cho ý chí quyết đi tới cùng việc loại trừ cái Cơ chế Cộng sản ngoại
lai nhằm giải thoát DÂN TÔ.C.
Tại sao không chọn ngày Quốc Hội Mỹ quyết định
ngưng viện trợ để làm NGÀY NAM VN hay ngày VNCH ?
Trở lại những câu trả lời lòng vòng « LẠC ĐỀ « của Thầy Bích. Thầy cứ
than là khó khăn không biết chọn ngày nào cho cái Ôâng Mỹ nào đó. Việc
Ôâng Mỹ, với góp ý của Thầy Bích, chọn ngày 30/4 QUỐC HẬN là một xúc
phạm đến TÂM HỒN của cả DÂN TỘC VIỆT NAM đang oán hận những tội ác của
CSVN từ Hồ Chí Minh cho đến nay. Mối hận này làm NỀN TẢNG cho DÂN TỘC
cùng đứng lên quyết loại trừ tội ác. Chính Tôn Giáo cũng khuyên phải oán
hận những điều ác để mới thành tâm thực hiện điều lành.
Thầy Bích nói rằng Ông Mỹ bí lối không biết chọn ngày nào, nên đành phải chọn ngày 30/4 xúc phạm cả TÂM HỒN của một DÂN TÔ.C.
Tôi xin chỉ cho Thầy Bích và Ông Mỹ một ngày rất tượng trưng để mà
cho.n. Đó là chọn ngày mà QUỐC HỘI MỸ QUYẾT ĐỊNH CẮT VIỆN TRỢ CHO VNCH
làm ngày Nam Việt Nam hay ngày VNCH. Cái ngày này không những không xúc
phạm đến TÂM HỒN UẤT HẬN của Dân Tộc Việt Nam, mà còn tăng cuờng cho MỐI
HẬN mà Dân Tộc đang mang trong TÂM HỒN vâ.y.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.04.2013
TÀI LIỆU THAM KHẢO 4:
Cập Nhật KHÁNG THƯ Của Tập Thể Người Việt tại Hoa Kỳ V/V Quốc Hội Tiểu Bang Virginia Ban Hành Quyết Nghị SJR 455
Kính thưa:
- Quí Đồng Hương
- Quí Hội Đoàn, Đoàn Thể, Đảng Phái Chính Trị
- Quí Cộng Đồng Thành Viên
Quốc Hội Tiểu Bang Virginia ban hành Quyết Nghị công nhận ngày 30 tháng 04 là "Ngày Nam Việt Nam" đã gây sự phẫn nộ và tranh luận trong cộng đồng Người Việt Hải Ngoa.i.
Để tạo sức mạnh và có tiếng nói chung của những người cùng lập trường, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ kính mời quí vị ghi danh vào Kháng Thư dưới đây và nhờ phổ biến rộng rãi.
Hạn chót là ngày Chủ Nhật, 21/4/2013. Kháng Thư sẽ được gởi đến Quốc Hội VA vào tuần kế tiếp.
Chân thành cám ơn quý vị.
Huỳnh Thu Lan
CT/HĐCH/CĐNVQGHK
---------------------------
KHÁNG THƯ
Của Tập Thể Người Việt tại Hoa Kỳ
Về việc Quốc Hội Tiểu Bang Virginia Ban Hành Quyết Nghị Công Nhận Ngày 30 tháng 04 là "Ngày Nam Việt Nam"
Hoa Kỳ, ngày 12 tháng 04 năm 2013
Kính gởi: Quý vị Nghị Sĩ và Dân Biểu Quốc Hội Tiểu Bang Virginia
1000 Bank Street Richmond, VA 23219
Kính thưa quí vị,
Chúng tôi nhận được tin có một vài cá nhân đã đệ trình thư yêu cầu đặt tên "Ngày Nam Việt Nam" cho ngày Quốc Hận 30 tháng 04. Liên tiếp trong hai ngày 21 và 22 tháng 02 năm 2013, Lưỡng Viện Quốc Hội Virginia đã chấp thuận thư yêu cầu này qua Nghị Quyết SJ 455.
Thông qua Nghị quyết SJ 455 nói lên sự quan tâm đặc biệt của quý Dân Biểu tiểu bang Virginia đối với biến cố lịch sử của quê hương chúng tôi. Thay mặt các tổ chức cộng đồng và đoàn thể Việt Nam trên toàn quốc Hoa Kỳ, chúng tôi trân trọng cám ơn lòng ưu ái của quý vị.
Tuy nhiên, đối với người Việt Nam chúng tôi, ngày 30 tháng 04 năm 1975 là ngày đánh dấu một biến cố đau thương của Đất Nước và Dân Tộc Việt Nam. Vì:
Ngày 30 tháng 04 năm 1975, Việt Nam bị cộng sản hoàn toàn thống trị, mở ra một trang đen tối, bi thảm trong lịch sử Việt Nam.
Từ ngày 30 tháng 04 năm 1975, hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi.
Từ ngày 30 tháng 04 năm 1975, hàng trăm ngàn người Việt tử nạn trên đường vượt thoát chế độ cộng sản.
Từ ngày 30 tháng 04, hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà bị tập trung vào các trại tù khổ sai, mà hàng chục ngàn người đã chết vì đói khát, bệnh tật và tra tấn nhục hình.
Do đó, Ngày 30 tháng 04 đã được người Việt Nam trên toàn thế giới đặt tên là NGÀY QUỐC HẬN và tại các thành phố có đông người Việt tị nạn cộng sản, đều tổ chức Lễ Tưởng Niệm hàng năm vào ngày này.
Chúng tôi cũng biết rằng, vào năm 2002, lưỡng viện Quốc Hội Virginia đã công nhận ngày 30 tháng 04 là "National Vietnamese Remembrance Day" qua Nghị Quyết SJ 137, được bảo trợ bởi Thượng Nghị Sĩ Leslie Byrne.
Kính thưa quý vị,
Nghị Quyết SJ 455 đã không nói lên đúng cái ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 04 đối với cộng đồng Việt Nam. Cho nên, thay vì đây là tin mừng, nay trở thành một tin không vui cho tập thể người Mỹ gốc Viê.t.
Vì vậy, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu quý Dân Biểu của Lưỡng Viện Quốc Hội Virginia hãy dành Nghị Quyết này cho một dịp khác và giữ ngày 30 tháng 04 hàng năm là ngày "National Vietnamese Remembrance Day" cho đúng với ý nghĩa đích thực của nó.
Rất mong được sự giúp đỡ nhanh chóng và dứt khoát của quý vị.
Trân trọng,
Đồng ký tên:
Tổ Chức Cộng Đồng:
1. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa
Kỳ:
- Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch Hội
Đồng Đại Biểu
- Huỳnh Thu Lan, Chủ Tịch Hội Đồng
Chấp Hành
- Nguyễn Văn Tần, Chủ Tịch Hội Đồng
Giám Sát.
2. Cộng Đồng Việt Nam Tại Hoa Kỳ:
- Mạc Hồng Quang, Chủ Tịch Hội Đồng
Đại Biểu
- Tôn Nữ Hoàng Hoa, Chủ tịch Hội
Đồng Chấp Hành
3. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hạt
Tarrant - Nguyễn Kinh Luân, Chủ Tịch
4. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia
Akron, Ohio - Đinh Cao, Chủ Tịch
5. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia
Cleveland, Ohio - Đinh Cao, Chủ Tịch
6. Cộng Đồng Việt Nam Bắc California
- Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch
7. Cộng đồng Người Việt Quốc Gia
Grand Rapids, Michigan
- Phạm Hùng Kiệt, Chủ Tịch
- Dương văn Biểu, Phó Chủ Tịch Nội
Vụ
- Phước Trần, Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ
8. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia San
Antonio - Phan Quang Trọng, Chủ Tịch
9. Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn MN -
Nguyễn Quốc Đống, Chủ Tịch
10. Cộng Đồng Người Việt Saint
Cloud, MN - Nguyễn Kiếm Hoa. Đại Diện
11. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia,
Austin, Texas - Châu Kim Khánh, Chủ Tịch
12. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia,
Georgia:
- Nguyễn Minh Tuấn, Chủ Tịch Hội
Đồng Đại Biểu
- Nguyễn Trish Thùy Dương, Chủ Tịch
Ban Chấp Hành
- Ngô Thanh Lâm, Chủ Tịch Hội Đồng
Giám Sát
13. Cộng Đồng Người Việt tại San
Francisco, CA - Lê Quốc Tấn, Cựu Chủ Tịch
14. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia
Pensacola, FL - Vương v. Giàu, Cố Vấn
Hội Đoàn, Đoàn Thể, Đảng Phái Chính
Trị:
1. Hội Cựu Chiến Binh VNCH Michigan
- Nguyễn Thanh Vân, Chủ Tịch
2. Liên Trường Sĩ Quan Trừ Bị QL
VNCH - Nguyễn Hữu Nhân, Chủ Tịch
3. Khối 8406 Hoa Kỳ - Quốc Việt, Đại
Diện
4. Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị
VN/MN - Điền Minh Xuyến, Chủ Tịch
5. Hội Cựu SVSQ/TVBQGVN/MN - Ngô
Nơi, Hội trưởng
6. Hội Phụ Nữ Người Việt Quốc Gia/MN
- Nguyễn Phương Lan, Chủ Tịch
7. Văn Bút Việt Nam Hải Ngoa.i/Vùng
Tây Bắc HK - Nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn, Chủ Tịch
7. Phong Trào Hải Ngoại Yểm Trợ Quốc
Nội UK - Ngô Ngọc Hiếu, Đại Diện
8. Ủy Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc
Gia - Trương Như Phùng, Hội Trưởng
9. Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam - Nguyễn Trung Châu, Chủ Tịch
10. Hội Người Việt Cao Niên Grand
Rapids, MI:
- Nguyễn văn Dần, Hội Trưởng
- Huỳnh v. Trang, Hội Phó Nội Vụ
- Vũ Mạnh Hùng, Hội Phó Ngoại Vụ
11. Hội Phụ Nữ Trưng Vương, Grand
Rapids, MI - Phạm thị Mỹ, Hội Trưởng
12. Hội Đại Tín, Grand Rapids, MI:
- Nguyễn v. An, Hội Trưởng
- Đặng Thanh, Hội Phó
13. Hội Cựu Học Sinh Chu văn An, CA
- Lê Duy San, Hội Trưởng
14. Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường
Võ Bị Quốc Gia VN DFW - Ngô V Tuấn, Hội Trưởng
15. Hội Thủy Quân Lục Chiến DFW -
Nguyễn Trọng Tuấn, Hội Trưởng
16. Hội Phụ Nữ Quốc Gia - Nguyễn Hữu
Đoan Trang, Hội Trưởng
17. Uỷ Ban Người Việt Sacramento Yểm
Trợ Đấu Tranh Quốc Nội - Đoàn Thi, Chủ Tịch
18.Ta.p Chí Dân Văn, Germany - Lý
Trung tín, Chủ Nhiệm
19. Nguyệt San Diều Hâu - Vũ Hồng,
Chủ Nhiệm
20. Hội Hải Quân Hàng Hải Florida -
Hoàng Mộng Lương, Hội Trưởng
21. Gia Đình Nha Kỹ Thuật Florida -
Nguyễn Lâm Viên, Hội Trưởng
22. Hội Cựu Quân Nhân VNCH
Cleaveland, Ohio - Nguyễn Văn Đình, Hội Trưởng
23. Hội Phụ Nữ/GA
- Lý Thị Thái, Hội Trưởng
- Nguyễn thị Có, Hội Phó
24. Hội Đồng Hương Bạc liêu + Sóc
Trăng + Cà Mau/GA - Tiêu-KhảiĐDằng, Hội Trưởng
25. Hội Đồng Hương Quảng Trị/ GA:
- Nguyễn Minh Tuấn, Hội Trưởng
- Trần Quang Hiền, Hội Phó
26. Hội Đồng Hương Vỉnh Long/GA:
- Trần Minh Triết, Hội Trưởng
- Mai-Hoàng-Bảo, Hội Phó
27. Hội Đồng Hương Thừa Thiên +
Huế/GA:
- Hội Trưởng Hà Thúc Trình
- Nguyễn Ngọc, Hội Phó - Trần Thanh
Bảo, Hội Phó
28. Hội Đồng Hương Hậu Nghĩa/GA:
- Trần Văn Phát, Hội Trưởng
29. Hội Đồng Hương Tây Sơn +
BìnhĐDi.nh/GA - Lê Kỳ Hòa, Hội Trưởng
30. Hội Cảnh Sát Quốc Gia/GA
- Lê Văn Lòng, Hội Trưởng
- Võ Hữu Tòng, Phó Hội Trưởng
- Bùi Thành Tốt, Phó Hội Trưởng
31. Hội Thủy Quân Lục Chiến/GA -
Đoàn Văn Tịnh, Hội Trưởng
32. Hội Không Quân/GA - Võ Trung
Nhân, Hội Trưởng
33. Hội Biê.t-Kích/GA - Quách Nhung,
Hội Trưởng
34. Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng
Trị Bắc Cali - Nguyễn Châu, Hội trưởng.
35. Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Bắc Cali -
Nguyễn Châu, Tổng Thư Ký.
36. Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Vùng
Tây Bắc Hoa Kỳ - Hoàng Xuyên Anh, Cố Vấn
37. Hội Á Châu Thái Bình Dương
Georgia - Bà Đoàn Đàm Lệ, Hội Trưởng
38. Hội Sử-Học Viê.t-Nam tại
Âu-Châu_(Vietnamese historical Association in Europe)- Trúc-Lâm Nguyễn-Việt
Phúc-Lộc, Tổng thư ký
Cá nhân:
1. Nguyễn H Điền, TX
2. Phù T Giang, TX
3. Phù Đức Uy, TX
4. Nguyễn Tấn Phát, MS
5. Nguyễn H Quốc, TX
6. Lý v Hanh, MI
7. Hoàng Lan Chi, CA
8. Võ Đình Chương, Germany
9. Võ Tự Đản, CA
10. Nguyễn Ngọc Phách, TX
11. Trần Thiệu Điềm, MI
12. Vy Nguyễn, MI
13. Chung Nguyễn, MI
14. Khâm Lê, MI
15. Amie Nguyễn, MI
16. Huê Huỳnh, MI
17. Phú Phạm, MI
18. Bình Nguyễn, MI
19. Anh Hồ, MI
20. Chiến Trần. MI
21. Phan Quân, MI
22. Xung Hồ, MI
23. Bê Hoàng, MI
24. Vũ Hùng, MI
25. Trần v. Thanh, MI
26. Linh Phan, MI
27. Vân Nguyễn, MI
28. Công Huỳnh, MI
29. Võ Tuấn, MI
30. Nga Nguyễn, MI
31. Hoa Trần. MI
32. Sinh Lê, MI
33. Tài Vương, MI
34. Thái Trần, MI
35. Trang Nguyễn, MI
36. Phúc Lâm, MI
37. Hà N. Ẩn, MI
38. Võ T. Thọ, MI
39. Hòa Huỳnh, MI
40. Mai Nguyễn, MI
41. Phong Thái, AZ
42. Nguyễn N. Dung, CA
43. Minh Huynh, TX
44. Minh Nguyễn, Goergia
45. Lê Công Truyền, AZ
46. Trần Đại Trung, MI
47. Lê Ngọc Huê, NC
48. Lê Lợi - TX
49. Trang Nguyễn - TX
50. Lương Nguyễn - FL
51. Châu Nguyên - TX
52. Đức Nguyễn - TX
53. Huyền Nguyễn - TX
54. Vân Nguyễn - TX
55. Vũ Đức Nghiêm -
56. Bùi Dương Liêm - VA
57. Nguyễn thị Bé Bảy - VA
58. Nguyễn Kim Dần - Canada
59. Lưu Xuân Phước - TX
60. Trần Thị Duyên - TX
61. Cung Nhật Thành, TX
62. GS Trần Thủy Tiên, TX
63. Lyly Nguyễn - TX
64. Keny Ho - TX
65. Mai van An, CA
66. Nguyễn Vân Tùng - TX
67. Hữu Lê - AZ
68. Tài Đỗ, TX
69. Tuyên Nguyễn, TX
66. Đoàn Trọng Hiếu, NM
67. Vũ Thị Hồng Lạc, NM
68. Nhanh Phạm, KS
69. Len Do, KS
68. Manh Nguyen , CA
69. Chan Nguyen , CA
70. Peter Nguyen , CA
71. Hang Nguyen , CA
72. Gary-Ho
73. Phung Tran
74. Nguyễn Ngọc Sẵng, AZ
75. Hồ Văn Dàng, AZ
76. Nguyen Ngoc Son, AL
77. Do Kim VanDan, AL
78. Nguyen Nam Phung Vivian, AL
79. Deo Van Tran, , IA
80. Khôi Tống, TX
81. Nguyễn Hữu Châu, CA
82. Nguyễn, Julie Hạnh,CA
83. Nguyễn, Ellen, CA
84. Nguyễn Hữu Quế, CA
85. Nguyễn, Jade Hằng, CA
86. Nguyễn, Leslie, CA
87. Nguyễn, Sony, CA
88. Bà quả phụ Nguyễn Hữu Hy, CA
89. Nguyễn Phụng Hoàng
90. Nguyễn Tú Anh
91. Ngô Đoàn, CA
92. Kha Phạm, SC
93. Oanh Nguyễn, SC
94. Nguyễn Tri Quế, GA
95. Lê Thị Bửu Châu, GA
96. Hồ Lê Trấn Quốc, GA
97. Nguyễn Phụng Kiều, GA
98. Nguyễn Tri Quang, GA
99. Nguyễn Kiều Phương, GA
100. Hồ Thị Mai, GA
101. Lê Minh Nguyệt, GA
102. Nguyễn Tri Minh, GA
103. Phan Thị Hạnh, GA
...
(Danh sách này đến trưa ngày
18-4-2013 và vẫn còn tiếp tục)
TÀI LIỆU THAM KHẢO 5:
THƯ MINH XÁC Về Nghị Quyết SJR 455
của Tiểu Bang Virginia
Kính thưa Quý Vị,
Chúng tôi kính gửi đến quý vị THƯ
MINH XÁC của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ liên quan đến Nghị
Quyết SJR 455 của tiểu bang Virginia để rộng đường dư luận và xin quý vị vui
lòng phổ biến.
Thành thật cám ơn quý vị,
Trân trọng,
BS Đỗ Văn Hội
Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành
(có attach)
THƯ MINH XÁC
Về nghị quyết SJR 455 của TB
Virginia
Kính thưa:
- Quý vị Lãnh Đạo Cộng Đồng, Đoàn
Thể, Tổ Chức
- Quý Cơ Quan Truyền Thông
- Quý Đồng Hương,
Để tránh ngộ nhận, chúng tôi xin
trân trọng minh xác như sau:
1- Về nghị quyết SJR 455: Chúng tôi
hoàn toàn không có liên hệ gì đến Nghị Quyết SJR 455 của Quốc Hội tiểu bang
Virginia. Hiện nay, CĐVN vùng Hoa Thịnh Đốn đã hủy bỏ việc đón nhận nghị quyết nói
trên.
2- Về việc tham dự ngày Quốc Hận tại
Hoa Thịnh Đốn: Chúng tôi kêu gọi các Cộng Đồng Thành Viên về tham dự Tưởng Niệm
ngày Quốc Hận 30 tháng 4 lần thứ 38 do CĐVN vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức tại DC,
vì tình hình trong nước đang có nhiều biến chuyển, người Việt Hải Ngoại cần có
tiếng nói yểm trợ rộng rãi. Hơn nữa, Hoa Thịnh Đốn là thủ phủ của một cường
quốc nên tin tức sinh hoạt tại đây sẽ được phổ biến rộng rãi, kể cả về trong
nước.
Trân trọng,
Hoa Kỳ, ngày 10 tháng 4, 2013
BS Võ Đình Hữu, Chủ Tịch Hội Đồng
Đại Biểu
BS Đỗ Văn Hội, Chủ Tịch Hội Đồng
Chấp Hành
TÀI LIỆU THAM KHẢO 6
TỔNG HỘI CỰU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM
Federation of Association of Former
Vienamese Political Prisoners
4032 Stonefiel Dr, Olando, Florida
32826 , Tel : 407 250 – 4978
B Ả N T U Y Ê N B Ố
Phản Đối Âm Mưu Xóa Bỏ Ngày Quốc Hận
Qua Việc Vận Động Quốc Hội Tiểu Bang Virginia Thừa Nhận Ngày 30-4 Là "Ngày
Nam Việt Nam".
Tháng qua, Quốc Hội Tiểu Bang
Virginia đã thông qua một Nghị Quyết mang số Sj-455 để công nhận ngày 30 tháng
4 là ngày Nam Việt Nam mà theo nguyên văn là:
"Designating April 30, in 2013
ang in each succeeding year, as South Vietnamese Day in Virginiạ"
Trong những ngày qua, nhiều tổ chức
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia và đoàn thể , báo chí, cá nhân đã lên án và phê
phán rất nặng nề những người và những tổ chức đã cố tình xin Nghị Quyết này để
làm mất ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30 tháng 4.
Qua những sự kiện trên, Tổng Hội Cựu
Tù Nhân Chính Trị Việt Nam nhận định:
1. Nghị Hội Người Việt Toàn Quốc của
ông Nguyễn Ngọc Bích là một tổ chức tự phong. Không do những tổ chức &
đoàn thể người Việt hải ngọai bầu cho.n.
2. Không đủ tư cách đại diện cho
Người Việt ở Hải ngo.ai. Tổ chức này không có cơ cấu và nhân lực và cũng không
có uy tín với các tổ chức đấu tranh và đồng hương hải ngoa.i.
3. Việc ông Nguyễn Ngọc Bích mượn
danh Nghị Hội Người Việt Hải Ngoại để vận động và tự ý "đạo diễn" với
lưỡng viện Quốc Hội Tiểu Bang Virginia ban hành Nghị Quyết SJ455 chọn ngày 30
tháng 4 là Ngày Nam Việt Nam.
4. là một âm mưu thâm độc nhằm xóa
bỏ ngày lịch sử tang thương của Dân tộc Việt Nam.
5. Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 là ngày
đau thương của người dân Miền Nam, đánh dấu một trang sử bi đát nhất. Tập đoàn
cộng sản Hà Nội trắng trợn vi phạm Hiệp Định Paris xua quân nhuộm đỏ toàn thể
đất nước Việt Nam.
6. Ngày 30 tháng 4 là ngày khởi đầu
sự trả thù tàn bạo và dã man của cộng sản Hà Nội đối với Quân, Dân, Cán, Chính
Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù tâp trung.
7. Hàng triệu người bỏ nước ra đi
tìm tự do, bảy, tám chục triệu dân còn lại sống điêu linh phi dân chủ trong địa
ngục cộng sản.
8. Ngày 30 tháng 4 là ngày đại tang,
đại họa của dân miền Nam, gia đình chia ly, thất tán, tang tóc thương đau.
Người vào tù, người chết trên biển cả rừng sâu trên đường vượt thoát CS, hàng
triệu người Việt tại thành thị bị CS cưỡng cướp nhà cửa, tài sản rồi đuổi lên
vùng rừng sâu nước độc bằng mỹ danh vùng "kinh tế mới".
9. Cũng vì CS trả thù tàn bạo Quân
Dân, Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa nên khi đến bờ tự do; đã kết họp thành một tập
thể Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam bao gồm 38 khu hội ở Hoa Kỳ và nhiều Quốc
Gia trên thế giới. Là một tập thể yêu nước tiếp tục con đường đấu tranh chính
nghĩa, cùng với Dân tộc với các tổ chức yêu nước chân chính chống cộng quyết
liệt hơn suốt 20 năm qua.
Từ những nhận định trên, Tổng Hội
CTNCT Việt Nam long trọng truyên bố:
I - Hoàn toàn không chấp nhận Nghị
Quyết SJ 455. Nghị Quyết này nhằm mục đích xóa bỏ ngày Quốc Hận 30-4, đồng thời
giúp cho CSVN chạy tội trước lịch sử Dân Tô.c.
II - Nghị Quyết SJ 445 do ông Nguyễn
Ngọc Bích chủ mưu đạo diễn; chọn ngày 30 tháng 4 là Ngày Nam Việt Nam, không là
nhu cầu hay ý nguyện của những người Việt ở Tiểu Bang Virginia và đồng hương tỵ
nạn CS khắp hải ngoa.i.
III - Ngày Quốc Hận 30-4 vĩnh viễn
là ngày Quốc Hận đã đi vào lịch sử đau thương của Dân Tộc Việt Nam, không ai có
quyền thay đổi hay xóa bỏ dưới bất cứ hình thức nào nhằm vào ngày lịch sử nầy.
Chỉ có bọn Việt gian, tay sai mới có mưu đồ đen tối thực hiện NQ 36 của CSHN lũ
tay sai bán nước, phản bội Tổ Quốc.
IV - Tội ác khủng khiếp của CSHN
không thể chối cãi được, lịch sử muôn đời nguyền rủa tập đoàn thái thú cộng sản
là tội đồ của Dân Tộc Việt Nam về tội diệt chủng và tội chống nhân loa.i.
V - Việc làm sai trái trên; của một
cá nhân hay tổ chức nhằm xóa bỏ ngày 30 tháng 4 là thủ phạm, và mưu đồ đen tối
của NQ36/CS, chà đạp lên những nỗi đau thương và tinh thần chống cộng của những
người cựu Tù Nhân Chính Trị nói riêng cùng đồng bào ở trong nước và hải ngoại
nói chung.
VI - Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam tha thiết kêu gọi quý Tổ Chức và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hoa
Kỳ cùng các Quốc Gia khác trên thế giới đoàn kết, giữ vững lập trường, lý tưởng
Quốc Gia Dân Tộc và đồng thời tẩy chay những sinh hoạt của những tên Việt gian,
tổ chức lập lờ đánh lận "con đen" như Nuyễn Ngọc Bích mượn danh Nghị
Hội Người Việt Toàn Quốc để nối dáo cho giă.c.
VII - TH/CTNCT kêu gọi thành lập một
phái đoàn: gồm các tổ chức yêu nước; đến trình bày với Lưỡng Viện Quốc Hội Tiểu
Bang Virginia để yêu cầu hủy bỏ Nghị Quyết SJ 445 bởi họ không am tường, nên đã
bị những phần bất hảo "đạo diễn" vận động Quốc Hội Tiểu Bang Virginia
ban hành NQ SJ- 455 đáng tiếc, làm sai lệch khiến cộng đồng người Việt tỵ nan
CS phẩn nộ. Xem đây là một sự tổn thương đến người Việt ở hải ngọai lẫn quốc nô.i.
Orlando ngày 12-4-2013
TM Ban Chấp Hành Tổng Hội CTNCT/VN
Nguyễn Trung Châu
TÀI LIỆU THAM KHẢO 7 (không tiếp
nhận SJR 455)
CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM
VÙNG WASHINGTON D.C., MARYLAND
& VIRGINIA
P.O. Box 5055, Springfield, Virginia
22150
Tel: (877) 263-6109 - Email: congdongthudohtd@gmail.com
Số: 2213/CĐTĐ/TB
THÔNG BÁO
CHƯƠNG TRÌNH SINH HOẠT TƯỞNG NIỆM
NGÀY 30 THÁNG 4
Vì những lý do không thuận lọi cho
các sinh hoạt của Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, D.C., Maryland &
Virginia và sau khi thảo luận với Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà Vùng
Hoa Thịnh Đốn & Phụ Cận cùng các Hội Đoàn Quân Cán Cảnh trong thời gian
tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng 4, chương trình sinh hoạt của Cộng Đồng đã
phổ biến qua Thông Báo số 1813/CĐTĐ/TB nay được sửa đổi lại như sau:
1) THỨ BA 23 THÁNG 4 NĂM 2013
12:00PM: Lễ treo Cờ rũ Quốc kỳ VNCH
tại Trung Tâm Thương Mại Eden, Falls Church, Virginia.
2) THỨ BẢY 27 THÁNG 4 NĂM 2013
08:00PM: Lễ Truy Điệu Tưởng Niệm
Quân Dân Miền Nam Việt Nam tử vong.
08:30PM: Chương trình Văn Nghệ Đấu
Tranh với Ca sĩ Phương Hồng Quế cùng các ca nghệ sĩ nổi tiếng địa phương.
3) CHỦ NHỰT 28 THÁNG 4 NĂM 2013
11:00AM: Lễ Chào Cờ (không thượng
Quốc kỳ VNCH) tại Trung Tâm Thương Mại Eden.
12:30PM: Lên xe Bus đi Washington,
District of Columbia.
01:00PM: Biểu tình trước toà Đại Sứ
Cộng Sản Việt Nam.
03:00PM: Trở về lại Trung Tâm Thương
Mại Eden.
06:00PM: Cơm Tối Đoàn Kết Cộng Đồng
Việt Nam Hải Ngoa.i.
4) THỨ HAI 29 THÁNG 4 NĂM 2013
09:00AM: Vận động Quốc Hội Hoa Kỳ
của các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia.
5) THỨ BA 30 THÁNG 4 NĂM 2013
11:00AM: Lễ cầu siêu tại Chùa Giác
Hoàng, 5401 16th Street, N.W. Washington, DC 20011 cho các chiến sĩ Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh vì Tổ Quốc và đồng bào đã bỏ minh trong chiến cuộc
hay trên đường đi tìm tự do.
07:00PM: Lễ cầu hồn tại Nhà Thờ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, 915 S Wakefield Street, Arlington, VA 22204.
6) THỨ TƯ 1 THÁNG 5 NĂM 2013
06:00AM: Lễ Thượng Kỳ VNCH tại Trung
Tâm Thương Mại Eden.
Hiện Cộng Đồng Việt Nam Vùng
Washington, D.C., Maryland & Virginia và Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam
Cộng Hoà Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ Cận rất bận rộn vời việc tổ chức sinh
hoạt nêu trên nên sẽ có một Thông Cáo Chung giải thích rõ ràng vì sao không
tham dự việc tiếp nhận SJR455 tại Richmond, Virginia.
Chủ Tịch Cộng Đồng
Đoàn Hữu Định
Phổ Biến Tổng Quát
Bản sao kính gửi: ...
TÀI LIỆU THAM KHẢO 8 (không tiếp
nhận SJR 455)
30 / 4 - Ngày NAM VIỆT NAM: Trả lời
của 2 ông Đoàn Hữu Định và Tạ Cự Hải
Kim Au
Kính quý vị và ông Kim Thành
Chiều hôm qua (April 8) vào khoảng
hai giờ, chúng tôi (Kim Âu ) đã điện thoại đến ông Tạ Cự Hải một chiến hữu bằng
hữu lâu năm đang là Chủ Tịch LHCCS nói chuyện về vụ Xóa bỏ Ngày Quốc Hận và
được ông Tạ Cự Hải cho biết trong mấy ngày qua cộng đồng đã họp và ông Đoàn Hữu
Định, Tạ Cự Hải đại diện đã họp với những nhân vật đã gây ra sự kiện gồm có ông
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Mậu Trinh, và Phan Đức Tính nhiều buổi và TC CĐ
DC,MD,VA và Liên Hội CCS đã quyết định tạm thời như sau:
- Không tham gia, không ủng hộ bất
cứ công việc gì đụng chạm đến tinh thần Ngày Quốc Hận 30-4
- Không chấp nhận bất cứ nghị quyết
nào làm thay đổi tinh thần Ngày Quốc Hận 30- 4.
- Không chấp nhận một tổ chức tự
lập, tự phong hữu danh như nhóm gọi là "National Congress of Vietnamese
Americans (Nghị Hội Người Việt Toàn Quốc) của các ông Nguyễn Ngọc Bích, Mậu
Trinh, Phan Đức Tính tiếm xưng tư cách đại diện cộng đồng tỵ nạn ở Virginia.
- Không tiếp nhận SJR 455 vì cộng
đồng và liên hội không chủ trương vì việc chọn ngày 30 – 4 làm ngày Nam Vietnam
đã trở thành một sự xúc phạm đến thể diện Cộng đồng tỵ nạn Việt Nam.
Ông Tạ Cự Hải cho biết TCCĐ và Liên
Hội:
- Nhóm National Congress of
Vietnamese Americans (Nghị Hội Toàn Quốc) của các ông Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn
Mậu Trinh, Phan Đức Tính phải hủy bỏ chương trình tiếp nhận SJR 455 vào ngày
27-4.
- Họ phải xin sửa đổi nghị quyết vào
ngày tháng năm khác.
- Cộng đồng và Liên Hội yêu cầu
trong vòng ba ngày nhóm " National Congress of Vietnamese Americans"
của Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Mậu Trinh, Phan Đức Tính phải hủy bỏ chương trình
ngày 27-4-2013 đi Richmond ( nguyên do chương trình tưởng niệm của TCCĐ
DC,MA,VA có phần này do ông Nguyễn Mậu Trinh là đồng chủ tịch) và giải quyết
việc gâyra dư luận xấu trong cộng đồng tỵ na.n. Nhưng do mấy nhân vật này đang
bận công việc vận động nhân quyền v.v nên du di đến ngày Thứ Bảy sẽ họp kết
thúc.
TCCĐ và Liên Hội sẽ ra Thông Cáo
Chính Thức.
Nhìn chung âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc
Hận 30 – 4 để chạy tội của Việt Cộng trước lịch sử sẽ không bao giờ thành công.
Sự việc SJR 455 do Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Mậu Trinh có sự tiếp tay của Đỗ văn
Hội và Võ Đình Hữu gài CĐNVQGLBHK vào thế làm tay sai cho bọn Việt Tân đã thất
bại thảm ha.i.
Trân trọng
April 9/2013
Kim Âu
(Fw: paul.van3060@gmail.com, VN-Online, 4/13/2013,
12.37AM)
TÀI LIỆU THAM KHẢO 9:
Nguyễn Quốc Khải - Nhận xét về vụ
Nghị Quyết SJR 455 của Quốc Hội Virginia
From: "LanChi" <lanchi7@yahoo.com>
Date: Thursday, April 18, 2013, 1:07
PM
Ý kiến đóng góp của Ông Nguyễn Quốc
Khải, một chuyên gia kinh tế của Ngân Hàng Thế Giới(World Bank), giảng viên Đại
Học John Hopkins, một cư dân vùng thủ đô am tường sinh hoạt chính trị giao thoa
của một số nhân vật Mĩ- Viê.t.
* * *
Nhận xét về vụ Nghị Quyết SJR 455
của Quốc Hội Virginia
Nguyễn Quốc Khải
18-4-2013
Sau hai tuần lễ vụ SJR 455 được thảo
luận trên Internet, mặc dù ông Nguyễn Ngọc Bích nói dối loanh quanh, chứng cớ
đã rõ ràng rằng Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt Tại Hoa Kỳ (National Congress of
Vietnamese Americans – NCVA) là kẻ chủ mưu trong việc vận động thành lập Ngày
Công Nhận Người Dân miền Nam Việt Nam (South Vietnamese Recognition Day) vào
30/4 mỗi năm. Ông Bích cố tình dịch sai là "Ngày Miền Nam Việt Nam"
hay "Ngày VNCH".
Ngày Công Nhận Người Dân miền Nam
Việt Nam đã không có một ý nghĩa gì cả mà lại trùng vào 30/4. Hậu quả là nó sẽ
làm lu mờ và xóa dần Ngày Quốc Hận, nên ông Nguyễn Ngọc Bích bị chỉ trích nặng
nề là chuyện hợp tình hợp lý. Thay vì nhìn nhận sự sai lầm, ông Bích lại dấu
diếm, giải thích lòng vòng để chạy tôi, làm cho mọi người càng tức giận thêm.
Ông Bích quả là quá tệ khi ông Bích đổ lổi hết mọi chuyện lên đầu TNS Dick
Black của Quốc Hội Virginia. Những ai đã từng tham gia vào việc vận động hành
pháp và lập pháp Hoa Kỳ, đều thông thạo về thủ tục này. Ông Bích vô phương có
thể che mắt mọi người.
Tuy nhiên, công luận xem ra thiếu
công bằng vì mọi mũi dùi đều chĩa vào ông Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không hề
hành động với tư cách cá nhân. Trái lại, ông nhân danh NCVA để làm chuyện này.
Ngoài ông Nguyễn Ngọc Bích, trong Ban Chấp Hành còn có ông Nguyễn Mậu Trình, và
Bà Đào Thị Hợi (vợ của ông Nguyễn Nguyễn Ngọc Bích, đương kim chủ tịch NCVA).
Ngoài Ban Chấp Hành còn có Ban Cố Vấn gồm có một số vị sau đây: cụ Huỳnh Thanh
Hưng, ông Bùi Diễm, Bà Mary Chi Ray, ông Nguyễn Mạnh Hùng, … Danh sách hội viên
không liệt kê ai cả. Ông Bích có thể không hỏi ý kiến Ban Cố Vấn, nhưng buộc
lòng phải tham khảo với ít nhất hai người trong Ban Chấp Hành: ông Nguyễn Mậu
Trình, và Bà Đào Thị Hơ.i.
TS Nguyễn Phúc Liên giải thích về sự
khờ khạo, ngu dốt tai hại của ông Nguyễn Ngọc Bích trong vụ Nghị Quyết SJR 455
như sau:
Một là ông Bích "khờ khạo, ngốc
nghếch chủ ý hay vô tình mà không hiểu tầm quan trọng của ngày 30/4 Quốc Hận
đối với Cộng Đồng VN tại Hoa kỳ mà còn cho các Cộng Đồng VN trên toàn Thế giới,
nên không dám lên tiếng cản Ông Mỹ kia chọn ngày 30/4 thành ngày Miền Nam Việt
Nam hay ngày VNCH."
Hai là ông Bích "ngu dốt đặc
cán mai không biết gì về sự Uất Hận sâu đậm của toàn thể Người Việt, mà câm
họng không lên tiếng để Ông Mỹ kia muốn chọn ngày nào thì chọn, bất kể việc đó
vùi dập tâm hồn Uất Hận của Người Việt Nam."
Vào năm 2005, Nghị Hội của ông
Nguyễn Ngọc Bích cũng đã dùng 30/4 để chế biến ra Ngày Tự Do và cũng đã bị cộng
đồng người Việt ở hải ngoại phản đối kịch liê.t. Cá nhân tôi không thể hiểu
được tại sao ông Nguyễn Ngọc Bích và Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt Tại Hoa Kỳ
lại không học được bài học nào từ kinh nghiệm 8 năm trước đây. Ngu dốt không
phải là một cái tội nhưng tiếp tục ngu dốt không thể được tha thứ
("Ignorance is not a crime, but perpetuation of ignorance is.")
Tôi cũng nghĩ rằng vì thiếu hiểu
biết, không biết lượng sức mình, mà chỉ cách đây vài tháng, vào cuối năm ngoái,
Ông Nguyễn Ngọc Bích nhẩy ra thành lập chính phủ lưu vong dưới tên Ủy Ban Lãnh
Đạo Lâm Thời VNCH, nhưng không dùng tước vị tổng thống hay thủ tướng, mà chỉ
dùng danh xưng chủ ti.ch. Một người sai lầm như trong vụ Nghị Quyết SJR 455 mà
dám ra cầm đầu một chánh phủ, một quốc gia quả thực phải là một người quá liều
lĩnh. Ngoài chức vụ mới nhất là chủ tịch UBLĐLTVNCH, ông Nguyễn Ngọc Bích còn
giữ chức cố vấn, chủ tịch, phó chủ tịch của trên dưới 25 tổ chức. Một số tổ
chức có danh xưng rất lớn, như Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ hay Hội
Văn Hóa Miền Đông Bắc Hoa Kỳ chẳng hạn, nhưng hội viên không có một ai, mà
thường chỉ có một số các vị có tên trong ban cố vấn, hay ban chấp hành. Nhưng
có tên là một chuyện, còn hoạt động hay không là chuyện khác.
Chính phủ lưu vong của ông Bích chủ
trương vận động quốc tế để phục hồi Hiệp Định Paris 1973, nhắm lấy lại miền Nam
Việt Nam từ tay CSVN để tái lập VNCH. Một việc làm mà tôi cho là hoang tưởng,
làm phí sức đấu tranh và tạo thành một trò hề thế kỷ 21 cho CSVN. Cũng như trong
vụ Nghị Quyết SJR 455, ông khéo léo sử dụng từ VNCH để lôi kéo sự ủng hộ của
một số người. Cũng như vụ Nghị Quyết SJR 455, ông Nguyễn Ngọc Bích không bao
giờ tỏ ra biết phục thiện, mặc dù có sự góp ý của LS Trần Thanh Hiệp và cựu Đại
Sứ Bùi Diễm và kinh nghiệm của những người đi trước về sự thất bại trong việc
phục hồi Hiệp Định Paris vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, như GS
Vũ Quốc Thúc, GS Vương Văn Bắc, LS Nguyễn Hữu Thống, v.v. Riêng về vụ Nghị
Quyết SJR 455, một việc nhỏ nhoi, ông Bích còn làm không xong, huống chi việc
đội đá vá trời, tái lập nước VNCH ở miền Nam vĩ tuyến 17.
Cũng như trong vụ Nghị Quyết SJR
455, ông Nguyễn Ngọc Bích luôn luôn thiếu thẳng thắn trong cuộc thảo luận về
chính phủ lưu vong và Hiệp Định Paris 1973. Ông Bích thường tránh né những câu
hỏi do thảo luận viên đặt ra. Một trong những câu hỏi có thể liên quan đến Nghị
Quyết SJR 455 là việc ông Nguyễn Ngọc Bích gặp gỡ Phó Thủ Tướng kiêm Ngoại
Trưởng CSVN Phạm Gia Khiêm vào năm 2007 do văn phòng của TNS Jim Webb dàn xếp.
Từ đó đến nay, ông Bích vẫn dấu diếm cộng đồng hải ngoại về nội dung và kết quả
của cuộc gặp gỡ này.
Ông Jim Webb thời đó muốn người Việt
hợp tác với chính quyền Hà Nội và người Việt trong và ngoài nước đoàn kết chống
Trung Quốc. Người Việt ở hải ngoại có rất nhiều chuyên gia trong khi Hà Nội quá
thiếu thốn. Tôi là một trong một số người được ông mời tham dự buổi nói chuyện
thân mật tại văn phòng của ông tại Quốc Hội Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi biết về
chủ trương của ông không thích hợp, đa số chúng tôi (khoảng 5 người) không bao
giờ gặp lại ông Jim Webb nữa.
Chúng ta mong là trong khối người
Việt hải ngoại sẽ không có những chuyện tồi tệ tương tự như trên xẩy ra và
không có tệ nạn háo danh đến mức khiến cho con người trở nên mù quáng, thiếu
sáng suốt, có những hành động sai lầm thì cộng đồng chúng ta mới khá lên đươ.c.
Tôi hoàn toàn đồng ý với quyết định
của Cộng Đồng Việt Nam vùng HTĐ, MD và VA và Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH không
đồng ý biến ngày 30/4 thành Ngày VNCH hay Ngày Miền Nam Việt Nam và không tham
gia vào buổi lễ tiếp nhận Nghị Quyết SJR 455. Tôi cũng hoàn toàn hỗ trợ quyết
định của Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị không chấp nhận Nghị Quyết SJR 455 và
sẽ vận động Quốc Hội Virginia hủy bỏ nghị quyết này (Nguyễn Quốc Khải)
TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
Thư Ngõ gửi ông NGUYỄN NGỌC BÍCH
Thưa Ông Nguyễn Ngọc Bích,
Phát biểu của Ông (NNB) đã được ghi
vào biên bản/phúc trình chính thức dưới đây , đã minh nhiên tự giải thích
(self-explanatory ) về vai trò, vị trí, quan hệ của Ông từ lúc soạn thảo
(drafted) cho đến lúc ban hành phổ biến SJR-455 .
Những giải thích của Ông trên diễn
đàn và trả lời những câu hỏi trong hội luận Paltalk, đối chiếu với thực tế, cho
thấy ông tự mâu thuẩn (self-contradictory ), tự phủ nhận (selfđenial).
Ngược giòng thời gian, hàng trăm
ngàn chữ ký Thỉnh Nguyện Thư của Người Việt, đi vào Tòa Bạch Ốc, Quốc Hội Hoa
Ky, kêu gọi, đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền ở Việt Nam, đồng thới áp
lực nhà cầm quyền Công Sản phóng thích Việt Khang và những nhà đấu tranh bất
bạo đô.ng.
Chiếc bóng trùm phủ của Ông và của
ai đó đã mưu lược chuyễn hướng cuộc đấu tranh nói trên cho những mục tiêu cục
bộ, bè nhóm, vị kĩ đã dội lên sự phản đối khắp nơi, kèm theo những tiếng than
thất vọng vì hành động bội tín của tập đoàn đầu cơ chính trị.
Chúng tôi đòi hỏi sự trong sáng
(transparency) để chân lý sáng tỏ quét bóng đêm gian dối trùm phủ trên cuộc đời
bất hạnh của Người Việt Nam trong chế độ Cộng Sản.
Paul Vân
AAP staff report
RICHMOND, VA (March 6, 2013) — The
General Assembly of the State of Virginia voted unanimously to consent to
introduce a Resolution to designate April 30 as South Vietnamese Recognition
Day in Virginia.
Nguyen Ngoc Bich, founding President
of the National Congress of Vietnamese Americans, said the Resolution was
drafted by a group of dedicated friends in Richmond, in collaboration with the
National Congress of Vietnamese Americans.
"We hope that this will be the
beginning of a trend that will spread to other states as well," (NNBich)
(Paul Van <paul.van3060@gmail.com>, CNV, 4/18/13;
11.41AM)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 259