TIN TỨC HOA KỲ
Hoa Kỳ :
Cuộc chạy đua nước rút tránh để bị vỡ nợ
Biểu tình trước Quốc hội Mỹ tại Washington, yêu cầu kết thúc tình trạng tê liệt các dịch vụ công cộng. Ảnh ngày 13/10/2013
REUTERS/Jonathan Ernst
Cả thế giới đang hướng về Washington, nơi tổng thống Barack
Obama đang ráo riết tìm ra đồng thuận với Hạ viện Mỹ để đạt thỏa thuận
nâng trần nợ công. Nếu mục tiêu không thành trước ngày 17/10/2013, lần
đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, nền kinh tế số 1 trên thế giới này sẽ mất
khả năng thanh toán.
Số phận của đồng đô la và công trái phiếu Hoa Kỳ vốn được coi
là an toàn nhất thế giới, tùy thuộc vào thành công hay thất bại của cuộc
đọ sức đang diễn ra trên sân khấu chính trị Mỹ. Ngày càng có nhiều
tiếng nói đòi xét lại quy chế ngoại tệ dự trữ của đồng đô la. Các thị
trường chứng khoán thế giới đang nóng lòng chờ đợi hồi kết của cuộc đấu
giữa hành pháp và lập pháp tại Washington.
tags: Chính trị - Hoa Kỳ - Khủng hoảng - Phân tíc
Một tuần lễ mang tính « quyết định » đang mở ra với nước Mỹ. Chính
trường Mỹ chỉ còn 4 ngày để thông qua một đạo luật gồm đúng 1 trang. Văn
bản đó cho phép Hoa Kỳ nâng trần nợ công lên cao hơn mức đang quy định
là 16 700 tỷ đô la. Về mặt chính thức, nếu đạo luật đó được Hạ viện
thông qua trước ngày 17/10/2013 thì viễn cảnh nước Mỹ mất khả năng thanh
toán được xua tan. Bằng không, kinh tế Hoa Kỳ bị đe dọa lại bị suy
thoái nghiêm trọng, và theo lời giám đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, bà
Christine Lagarde, « kèm theo đó là những rối loạn dồn dập đối với toàn
thế giới ». Hậu quả còn tai hại hơn so với những gì thế giới đã phải
hứng chịu sau khủng hoảng tài chính năm 2008.
Cốt lõi của vấn đề nằm ở Hạ viện Hoa Kỳ, nơi đảng Cộng hòa chiếm đa
số và vẫn đòi gắn liện việc bỏ phiếu nâng trần nợ công với việc bỏ phiếu
thông qua dự luật tài chính 2014. Như đã biết, từ gần hai tuần qua, phe
đa số ở Hạ viện đã từ chối thông qua dự luật tài chính 2014, đẩy nước
Mỹ vào tình trạng « shutdown », nhiều cơ quan hành chính bị tê liệt. Các
vòng đàm phán giữa phủ tổng thống với Hạ viện từ ngày 01/10/2013 để
chấm dứt tình trạng bế tắc ngân sách đã liên tục thất bại.
Cùng lúc, hạn nâng trần nợ công của Hoa Kỳ ngày càng cận kề. Sự trùng
hợp của hai sự kiện này càng khiến bầu không khí tại Washington thêm
căng thẳng.
Trước một cuộc đối thoại giữa hai người điếc – là bên hành pháp và Hạ
viện, thượng viện Mỹ hôm qua (13/10/2013) buộc lòng phải can thiệp,
tránh để lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, nước Mỹ bị mất khả năng
thanh toán.
Sau cuộc thảo luận với lãnh đạo khối nghị sĩ Cộng Hòa, thượng nghị sĩ
Mitch McConnell ngày Chủ nhật, người đứng đầu đảng Dân chủ tại Thượng
viện, thượng nghị sĩ Harry Reid đã tỏ ra lạc quan về triển vọng tìm ra
được đồng thuận với đảng Cộng Hòa. Ông thông báo đôi bên sẽ thảo luận
tiếp vào hôm nay. Cho dù là cả nước Mỹ đang nghỉ phép, nhưng hôm nay
Thượng viện và kể cả Hạ viện sẽ họp lại.
Trên thực tế, đảng Cộng Hòa đã đưa ra nhiều đề nghị cả trên hồ sơ dự
luật tài chính lẫn trong vấn đề nâng trần nợ của Mỹ. Nhưng tất cả đều đã
bị Nhà Trắng bác bỏ.
Để tránh trường hợp Hoa Kỳ bị vỡ nợ, Hạ viện đề nghị nâng trần nợ
công của Mỹ, nhưng đó chỉ là một bộ luật mang tính tạm thời, có hiệu lực
cho tới ngày 22/11/2013 mà thôi. Hành động này nhằm duy trì áp lực lên
chính quyền Obama để buộc hành pháp phải tiếp tục mạnh dạn cải tổ ngân
sách và đặc biệt là đòi Washington rút lại luật bảo hiểm y tế bắt buộc
cho tất cả mọi công dân Hoa Kỳ.
Đảng Dân chủ và nhất là Nhà Trắng không thể chấp nhận những đòi hỏi
của đối lập đang chiếm đa số tại Hạ viện. Tổng thống Obama tuyên bố sẵn
sàng đối thoại với tất cả các bên để chấm dứt khủng hoảng về ngân sách,
nhưng không rút lại bộ luật bảo hiểm y tế còn được gọi là Obamacare. Hơn
nữa, cả tổng thống Obama lẫn đảng Dân chủ cùng cho rằng, việc nâng trần
nợ công trong ngắn hạn như đề nghị của bên đảng Cộng hòa không giải
quyết được thực chất của vấn đề, mà chỉ tiếp tục mở ra những cuộc đọ sức
chính trị khác tại Washington. Những tranh cãi đó càng làm mất niềm tin
nơi cường quốc kinh tế số 1 thế giới, càng đe dọa đến quy chế ngoại tệ
dự trữ của đồng đô la Mỹ.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20131014-hoa-ky-cuoc-chay-dua-nuoc-rut-tranh-de-bi-vo-no
Mỹ: Thương thảo về mức trần nợ có tiến bộ khi hạn chót gần kề
Các nhà báo vây quanh Thượng nghị sĩ Harry Reid khi ông rời văn phòng Thượng nghị sĩ Mitch McConnell, 14/10/13
CỠ CHỮ
14.10.2013
Tổng thống Barack Obama đã hoãn một cuộc họp chiều thứ Hai với các nhà
lãnh đạo của phe Dân chủ và Cộng hòa tại Quốc hội, nói rằng ông muốn
cho họ thêm thời gian để đạt được tiến bộ trong các cuộc thương thảo để
chấm dứt việc đóng cửa chính phủ Mỹ và ngăn chặn tình trạng vỡ nợ.
Lãnh đạo phe đa số Thượng viện Harry Reid của đảng Dân chủ cho biết ông
đã đạt được tiến bộ trong các cuộc thương thảo với lãnh đạo đảng Cộng
hòa Mitch McConnell. Ông Reid nói các cuộc đàm phán thiện chí đang tiếp
tục và rằng ông rất lạc quan sẽ có được một thỏa thuận trong tuần này.
Ông McConnell chia sẻ sự lạc quan với ông Reid. Ông McConnell nói ông đã
có một số trao đổi mang tính rất xây dựng. Người ta cũng thấy Chủ tịch
Hạ viện John Boehner thuộc đảng Cộng hòa rời khỏi văn phòng ông
McConnell ở Thượng viện chiều thứ Hai.
Trung tâm của các cuộc thương thảo hiện thời là đề nghị nâng hạn mức nợ
của chính phủ liên bang sang năm sau, cùng một biện pháp ngắn hạn mở cửa
lại chính phủ và cho phép bắt đầu thương thảo về ngân sách.
Nếu trần nợ không được nâng lên trước ngày thứ Năm, Mỹ có thể sẽ mất khả
năng thanh toán các khoản nợ của mình. Tổng thống Obama nói đó sẽ là
thảm họa cho nền kinh tế thế giới.
Không rõ Quốc hội thông qua kịp thời hạn thứ Năm hay không, ngay cả khi
các lãnh đạo đảng Dân chủ và Cộng hòa Thượng viện đạt được thỏa thuận
vào thứ Hai. Những nghị sĩ có chủ trương cứng rắn bảo thủ như Ted Cruz,
dân biểu Cộng hòa từ bang Texas, có thể khiến cuộc bỏ phiếu cuối cùng bị
chậm trễ.
Hạ viện cũng sẽ cần phải chuẩn thuận kế hoạch này. Các lãnh đạo đảng Cộng hòa đang chịu áp lực lớn từ phe bảo thủ không sẵn lòng nhượng bộ. Nhiều người trong số họ nói sẽ khước từ bất kỳ thỏa thuận nào không sửa lại luật chăm sóc y tế của ông Obama.
Mỹ: Nhiều bất ổn xảy ra nếu không tăng mức trần nợ đúng hạn
Bộ
trưởng Tài chính Hoa Kỳ Jack Lew tới ngày thứ Năm, chính phủ sẽ chỉ có
khoảng 30 tỉ đôla và một số thâu nhập tới từ nhiều nguồn khác nhau
Tin liên hệ
- Các công ty Mỹ quan tâm về tình trạng chính phủ đóng cửa kéo dài
- G20 kêu gọi Mỹ nhanh chóng giải quyết ngân sách, trần nợ
- Tổng thống Obama: Cần phải tránh hậu quả của một vụ vỡ nợ
- Kế hoạch Thượng viện chấm dứt khủng hoảng ngân sách thu hút sự chú ý
- Mỹ: Thượng viện họp giữa lúc ngân sách bế tắc
- Mỹ: Thỏa thuận ngân sách mơ hồ, mối đe dọa vỡ nợ gần kề
CỠ CHỮ
14.10.2013
Giới hạn trần nợ của Mỹ
- Là tổng số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay mượn để làm tròn các nghĩa vụ pháp lý hiện thời.
- Những nghĩa vụ này gồm An sinh xã hội, chương trình bảo hiểm xã hội Medicare, tiền lương quân đội, lãi suất nợ quốc gia, tiền thuế hoàn lại.
- Nâng giới hạn trần nợ không cho phép những khoản cam kết chi tiêu mới.
- Không nâng giới hạn trần nợ sẽ khiến chính phủ mất khả năng thực hiện nghĩa vụ pháp lý
-Từ năm 1960, Quốc hội đã nâng giới hạn trần nợ 78 lần.
Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ
- Là tổng số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay mượn để làm tròn các nghĩa vụ pháp lý hiện thời.
- Những nghĩa vụ này gồm An sinh xã hội, chương trình bảo hiểm xã hội Medicare, tiền lương quân đội, lãi suất nợ quốc gia, tiền thuế hoàn lại.
- Nâng giới hạn trần nợ không cho phép những khoản cam kết chi tiêu mới.
- Không nâng giới hạn trần nợ sẽ khiến chính phủ mất khả năng thực hiện nghĩa vụ pháp lý
-Từ năm 1960, Quốc hội đã nâng giới hạn trần nợ 78 lần.
Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ
Các nhà phân tích tài chánh nói rằng nếu không trả nợ đúng hạn thì việc này sẽ gây ra tình trạng rối loạn trên thị trường tài chánh quốc tế bởi vì niềm tin của các nhà đầu tư vào sự an toàn của chứng khoán Hoa Kỳ sẽ bị đổ vỡ.
Một số dân biều Hạ Viện chỉ trích về việc chi tiêu của chính phủ -hầu hết là các thành viên Đảng Cộng Hòa đối lập với Tổng thống Barack Obama- nói rằng, chính phủ phải đặt ưu tiên cho những chi trả nào cần thực hiện trước.
Nhưng nhà phân tích tài chánh Steve Bell thuộc Trung tâm Chính sách Lưỡng đảng có trụ sở tại Washington nói rằng chính phủ không muốn thực hiện những quyết định như vậy về việc trả nợ cho ai trước.
Ông Bell nói rằng đó là tất cả vấn đề, nhưng về phương diện kỹ thuật, không thể định những ưu tiên như vậy bởi vì phương cách chính phủ thanh toán hơn ba triệu hối phiếu một ngày.
Ông nói rằng, tới một lúc nào đó, chính phủ sẽ hết tiền mặt và chắc chắn là sẽ phải hoãn lại, trả dần dần cho tới khi đủ tiền để thanh toán những hối phiếu lẽ ra phải trả nhiều ngày trước đó. Ông nói rằng, khi chuyện đó xảy ra “thì đó sẽ là tình trạng không trả nợ đúng hạn.”
Bộ trưởng Tài chánh Hoa Kỳ, ông Jack Lew nói rằng tới ngày thứ Năm, chính phủ sẽ chỉ có khoảng 30 tỉ đô la có sẵn và một số thâu nhập tới từ nhiều nguồn khác nhau. Ông nói rằng, sau đó, vì tiền lời phải trả cho các chứng khoán của chính phủ và những khoản chi trả cho hưu bổng và chăm sóc sức khỏe của các công dân cao niên đáo hạn vào ngày mùng 1-11-2013, chính phủ sẽ hết tiền mau chóng.
Các nhà lãnh đạo tại Washington tiếp tục thảo luận trong một nỗ lực nhắm chấm dứt việc đóng cửa một phần chính phủ liên bang kéo dài đã hai tuần lễ cũng như việc gia tăng mức trần vay nợ để chính phủ có thể tiếp tục vay đủ tiền hầu thanh toán hối phiếu kể cả tiền lời về các chứng khoán vay của Trung Quốc, Nhật Bản và các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Thượng Viện Mỹ triệu tập phiên họp hiếm có vào Chủ nhật
Thượng nghị sĩ Harry Reid chỉ trích những nhà làm luật Cộng hòa ở Thượng Viện đã nói không trước kế hoạch của đảng Dân chủ.
CỠ CHỮ
13.10.2013
Giới hạn trần nợ của Mỹ
- Là tổng số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay mượn để làm tròn các nghĩa vụ pháp lý hiện thời.
- Những nghĩa vụ này gồm An sinh xã hội, chương trình bảo hiểm xã hội Medicare, tiền lương quân đội, lãi suất nợ quốc gia, tiền thuế hoàn lại.
- Nâng giới hạn trần nợ không cho phép những khoản cam kết chi tiêu mới.
- Không nâng giới hạn trần nợ sẽ khiến chính phủ mất khả năng thực hiện nghĩa vụ pháp lý
-Từ năm 1960, Quốc hội đã nâng giới hạn trần nợ 78 lần.
Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ
- Là tổng số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay mượn để làm tròn các nghĩa vụ pháp lý hiện thời.
- Những nghĩa vụ này gồm An sinh xã hội, chương trình bảo hiểm xã hội Medicare, tiền lương quân đội, lãi suất nợ quốc gia, tiền thuế hoàn lại.
- Nâng giới hạn trần nợ không cho phép những khoản cam kết chi tiêu mới.
- Không nâng giới hạn trần nợ sẽ khiến chính phủ mất khả năng thực hiện nghĩa vụ pháp lý
-Từ năm 1960, Quốc hội đã nâng giới hạn trần nợ 78 lần.
Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ
Trưởng nhóm Dân chủ, Thượng nghị sĩ Harry Reid nói ông và Thượng nghị sĩ Mitch McConnell, Trưởng nhóm Cộng hòa đã có một buổi họp tích cực hôm thứ Bảy, nhưng hai bên vẫn còn khoảng cách khá xa.
Thượng nghị sĩ Reid chỉ trích những nhà làm luật Cộng hòa ở Thượng Viện đã nói không trước kế hoạch của đảng Dân chủ, cho phép nâng giới hạn vay tiền của chính phủ đến sang năm.
Quỹ Tiền Tệ Quốc tế hôm thứ Bảy đã yêu cầu lãnh đạo Hoa Kỳ có “hành động
khẩn cấp để giải quyết những vấn đề tài chính ngắn hạn.”
Lời yêu cầu này cũng giống như lời yêu cầu của các nước trong nhóm G20 đưa ra trước đó một ngày.
Giám đốc Ngân hàng Thế giới, Bác sĩ Jim Yong Kim, kêu gọi các nhà làm luật Mỹ tránh để cho xảy ra cuộc khủng hoảng, nếu không, ông nói “sẽ tạo ra một sự kiện tai họa cho các nước đang phát triển,” và chính các nước phát triển cũng bị thiệt hại.
Tổng thống Obama cảnh báo kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị tổn hại nếu Hoa Kỳ không trả các món nợ đúng hạn, một chuyện lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử.
Thời hạn chót để nâng giới hạn vay nợ cho chính phủ là ngày thứ Năm.
Các nhà lãnh đạo của đảng Dân chủ tại Quốc hội đã gặp tổng thống hôm thứ Bảy để tìm giải pháp nhưng chưa có một tiến bộ nào tiến tới một thỏa hiệp.
Chính phủ Mỹ tiếp tục đóng cửa một phần, bước sang ngày thứ 13.
Tuy nhiên, có ba điểm du lịch lớn đã mở cửa lại cho du khách. Đó là tượng Nữ thần Tự do ở New York, khu đại vực Grand Canyon ở Arizona, và chân dung bốn tổng thống khắc trên Núi Rushmore ở South Dakota.
Ba nơi này được mở lại nhờ các thống đốc chịu cấp ngân khoản điều hành.
Lời yêu cầu này cũng giống như lời yêu cầu của các nước trong nhóm G20 đưa ra trước đó một ngày.
Giám đốc Ngân hàng Thế giới, Bác sĩ Jim Yong Kim, kêu gọi các nhà làm luật Mỹ tránh để cho xảy ra cuộc khủng hoảng, nếu không, ông nói “sẽ tạo ra một sự kiện tai họa cho các nước đang phát triển,” và chính các nước phát triển cũng bị thiệt hại.
Tổng thống Obama cảnh báo kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị tổn hại nếu Hoa Kỳ không trả các món nợ đúng hạn, một chuyện lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử.
Thời hạn chót để nâng giới hạn vay nợ cho chính phủ là ngày thứ Năm.
Các nhà lãnh đạo của đảng Dân chủ tại Quốc hội đã gặp tổng thống hôm thứ Bảy để tìm giải pháp nhưng chưa có một tiến bộ nào tiến tới một thỏa hiệp.
Chính phủ Mỹ tiếp tục đóng cửa một phần, bước sang ngày thứ 13.
Tuy nhiên, có ba điểm du lịch lớn đã mở cửa lại cho du khách. Đó là tượng Nữ thần Tự do ở New York, khu đại vực Grand Canyon ở Arizona, và chân dung bốn tổng thống khắc trên Núi Rushmore ở South Dakota.
Ba nơi này được mở lại nhờ các thống đốc chịu cấp ngân khoản điều hành.
Giải Nobel kinh tế 2013 được trao cho ba giáo sư Mỹ
Ảnh 3 nhà nghiên cứu đoạt giải Nobel Kinh Tế 2013: Fama, Hansen và Shiller.
REUTERS/Claudio Bresciani/TT News Agency
Vào trưa ngày 14/10/2013 Giải thưởng Nobel kinh tế vừa được
trao tặng cho ba nhà nghiên cứu người Mỹ. Hai chuyên gia Eugene Fama và
Lars Peter Hansen thuộc đại học Chicago. Người thứ ba là giáo sư Robert
Shiller, giảng dậy tại đại học Yale. Cả ba cùng nghiên cứu về những « dự báo về giá cả tài sản và chứng khoán trong tương lai ».
Dự báo sai lệch về giá cả tài sản và chứng khoán là nguy cơ dẫn
tới khủng hoảng tài chính. Giáo sư Eugene Fama, 74 tuổi, ngay từ những
năm 1960 đã chứng minh rằng rất khó dự báo về những biến động của giá cả
trong ngắn hạn, bởi vì giá trên thị trường chuyển biến rất nhanh tùy
theo những thông tin mà các bên có được.
Về phần mình, ông Robert Shiller, 67 tuổi, từ hơn 30 năm qua đã cho
thấy là riêng trên thị trường tài chính, giá cổ phiếu được dự báo một
cách chính xác hơn trong khoảng một thời gia dài (chừng vài năm). Lợi
nhuận cao trong tương lai được xem là khoản bù đắp cho việc nắm giữ tài
sản rủi ro trong những thời điểm rủi ro bất thường.
Giáo sư đại học Yale, Lars Peter Hansen, 60 tuổi đã phát triển một
phương pháp thống kê có thể phù hợp với việc thử nghiệm công thức tỷ lệ
trên vào việc định giá tài sản trên thực tế.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hoa Kỳ giải thích thêm về
công trình nghiên cứu của ba giáo sư Shiller, Fama và Hansen và vì sao
các ông này lại được trao giải Nobel kinh tế vào thời điểm này.
Tản mạn về CP Mỹ shutdown
Trưa ngày 1/10 về nhà ăn cơm tự nhiên nghe thông tin chính phủ Mỹ
đóng cửa (nguyên gốc là shutdown). Tự dưng thấy hoang mang quá, cả một
chính phủ Mỹ như thế mà ngừng hoạt động (đúng từ nguyên gốc hơn) thì còn
cái gì khủng khiếp hơn nữa. Sau đó nó là cái gì, khủng hoảng, chiến
tranh, bạo động v.v. chăng? Tưởng là vậy hóa ra không phải vậy.
Đầu tiên là tin về việc shutdown, các bạn xem ở đây
http://www.usa.gov/shutdown.shtml. Còn giờ nếu vào trang
http://www.usa.gov này thì tình trạng chính phủ hiện tại đang là Cảnh
báo (Alert) và Đóng băng (Snow & Dismissal Procedures). Và trên thực
tế, việc Chính phủ có ngừng hoạt động hay không cũng không phải là vấn
đề nghiêm trọng.
Đầu tiên, đây không phải là lần đầu tiên Chính phủ Mỹ ngừng hoạt
động, lần gần đây nhất là cách đây 13 năm khi chính phủ của Clinton còn
đương nhiệm. Chỉ khác về cách thức. Năm 2013, Chính phủ Obama ngừng vì
Quốc hội không phê chuẩn Chính sách tài khóa cuối năm; còn năm 95-96 thì
Tổng thống phủ quyết Chính sách tài khóa và đương nhiên Chính phủ không
có quyền sử dụng tiền đâm ra ngừng hoạt động.
Ở Mỹ, Chính phủ được coi như 1 tổ chức dịch vụ, hoạt động phục vụ
người dân và hoạt động bằng tiền thuế người dân đóng góp. Toàn bộ dịch
vụ công ích đó bao gồm 800.000 người làm việc và để phục vụ người dân mà
thôi. Tiền thuế của hơn 320 triệu dân đó đóng góp vào 1 ngân quỹ, hàng
năm chi tiêu bao nhiêu thì được những người đại diện của hơn 320 triệu
người đó là những ông nghị bà nghị trong Thượng viện và Hạ viện phê
chuẩn (gọi chung là Quốc hội) Nếu tiêu nhiều quá trong khi quốc khố còn
không đủ, Quốc hội không thông qua và đương nhiên toàn bộ cái tổ chức
hoạt động phục vụ người dân đó phải dừng lại.
Ở đây việc phục vụ và không phục vụ rất rõ ràng. Có lương thì làm và
không có lương thì dừng. Và việc này được công bố công khai trên website
www.usa.gov Và thế là việc đóng cửa cả 1 chính phủ quốc gia chỉ đơn
giản như là cho một tổ chức ngừng hoạt động. Rất may, một số dịch vụ
công ích khác vẫn hoạt động như là : An sinh xã hội, Dịch vụ bưu chính,
Quân đội, Quản lý không lưu, Gác tù, Gác đường biên giới và NASA (nếu
không thế thì các bác trên trạm không gian đòi về hết hay dân các nước
khác đổ xô vào Mỹ mất)
Cùng với như vậy, Chính phủ cũng dọa nạt ghê gớm người dân để họ tạo
sức ép lên các dân biểu phê chuẩn Chính sách tài khóa của họ như
- Các công trình quốc gia từ Yosemite đến the Smithsonian hay tượng Nữ thần tự do đều đóng cửa (khách du lịch đên thì đứng ngoài nhé)
- EPA là tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ an toàn sức khỏe người dân, chất thải, nguồn nước dừng hoạt động (nguy cơ uống nước bẩn cao)
- Toàn bộ nhân viên Liên bang bao gồm cả những người đang bảo vệ người dân Mỹ khỏi khủng bố, không vận đều hoạt động không lương (như vậy là CIA với FBI đều đang làm việc không lương hết)
…
- Các công trình quốc gia từ Yosemite đến the Smithsonian hay tượng Nữ thần tự do đều đóng cửa (khách du lịch đên thì đứng ngoài nhé)
- EPA là tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ an toàn sức khỏe người dân, chất thải, nguồn nước dừng hoạt động (nguy cơ uống nước bẩn cao)
- Toàn bộ nhân viên Liên bang bao gồm cả những người đang bảo vệ người dân Mỹ khỏi khủng bố, không vận đều hoạt động không lương (như vậy là CIA với FBI đều đang làm việc không lương hết)
…
Ngược lại, vào tình cảnh này chúng ta lại thấy sự lớn mạnh của khu
vực kinh tế tư nhân như thế nào. Các công viên trường học bệnh viện (chủ
yếu là của tư nhân) vẫn hoạt động bình thường. Công sở vẫn làm việc.
Thị trường chứng khoán của họ thậm chí còn lên điểm. Nhưng dù sao thì
đâu cũng sẽ vào đó. Tất cả các cuộc ngưng trệ từ trước đến giờ đều lại
quay lại như cũ, như bức tranh biếm họa này. Và ít nhất người dân Mỹ
cũng biết được tình trạng hiện tại của bộ máy phục vụ mình như thế nào
và họ sẽ phải cố gắng đóng thuế thêm ra sao để bộ máy này tiếp tục phục
vụ họ (cho dù tiêu xài cũng hơi hoang phí) nhưng họ vẫn chính là người
bầu nên chính phủ này nên cứ phải cắn răng mà
chịu đến nhiệm kì sau
thôi)
Nhìn xứ họ mà ngẫm tới xứ mình …
Nhìn xứ họ mà ngẫm tới xứ mình …
TS NGUYỄN PHÚC LIÊN * ĐÓNG TIỆM/SHUTDOWN MỸ
ĐÓNG
TIỆM/SHUTDOWN MỸ
PHẢI
HIỂU TRONG DÀI HẠN
Giáo sư Tiến sĩ
NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
10.10.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Đọc
trên Diễn Đàn, có nhiều bài viết về biến cố SHUTDOWN/ĐÓNG TIỆM tại Hoa kỳ như
cuộc chọi nhau giữa hai đảng, như một cú mà đảng Cộng Hòa chơi đảng Dân Chủ,
như một sự dằn mặt của đảng Cộng Hòa đối với TT.Obama, như một sự xuống cấp của
một nền Dân chủ… Thực ra đây là một cuộc Khủng Hoảng Ngân Sách Hoa kỳ phải được
hiểu trong một viễn tượng Kinh tế lâu dài và nhất là trong sự va chạm của hai
chủ trương Kinh tế Tư bản Tư nhân và Kinh tế Xã hội với sự can thiệp ít nhiều
của Nhà Nước.
Chủ
trương Kinh tế tư bản tư nhân
truyền
thống của Hoa kỳ
Sức mạnh Kinh tế Mỹ được xây dựng
trên chủ trương tư nhân hóa Xí nghiệp đến tối đa. Thực vậy, một số những Nhà Tù
tại Mỹ cũng được tư nhân hóa. Một số những Tổ chức Cảnh sát An ninh cho khu vụ
cũng được tư nhân hóa.
Khi dậy học về quản trị xí nghiệp,
chúng tôi đã chấp nhận định nghĩa của Hoa kỳ về một Xí nghiệp sản xuất:
“Xí
nghiệp là một Tổ chức, độc lập về Tài chánh, giới thiệu tới Thị trường trao đổi
những Sản phẩm Kinh tế nhằm thâu được LỢI NHUẬN TÀI CHÁNH TỐI ĐA“
Chính cái Mục đích tối hậu là Lợi
nhuận Tài chánh TỐI ĐA đã trở thành tiêu chuẩn cho những quyết định đường lối
quản trị như Nhân công, như Chi tiêu chẳng hạn.
Tỉ dụ
về Nhân công: Xí nghiệp Hoa kỳ quyết định sa thải người làm việc theo mức độ
Hiệu Năng (Efficacité). Về điểm này, quan điểm của Au châu (Pháp), theo Henri
FAYOL, mang tính cách nhân đạo và xã hội hơn chứ không phải chỉ xét người làm
việc theo nguyên có mức đo Hiệu Năng sản xuất. Khi Hiệu Năng người làm việc
cao, thì Xí nghiệp mới tăng được Lợi nhuận.
Tỉ dụ
về Chi tiêu: Xí nghiệp Mỹ làm việc với Thị trường trao đổi Cạnh tranh tự do. Ở
Thị trường Cạnh tranh tự do này, rất khó khăn tăng Giá bán để mong tăng Lợi
nhuận. Giáo sư Paul SAMUELSON, Nobel Kinh tế, đã nói rằng “Giá bán ở Thị trường
cạnh tranh dần dần tụt xuống tới Giá thành để triệt tiêu Lợi nhuận “. Vì vậy để
tăng được Lợi nhuận, chỉ còn cách giảm thiểu Chi tiêu cho Giá thành sản xuất,
nhất là những Chi tiêu cố định không được bao thầu bởi Thu nhập thương mại.
Ngay
cả những ý tưởng nhân đạo, xã hội cũng được chính Xí nghiệp tính toán giải
quyết theo tiêu chuẩn Lợi nhuận TỐI ĐA. Tỉ dụ Henri FORD đã nói :
“Tôi trả lương Công nhân cao để họ có thể
mua những chiếc xe hơi mà Xí nghiệp của tôi sản xuất “.
Việc
Henri FORD trả lương cao cho Công nhân không phải là vì lòng nhân đạo, vì tinh
thần xã hội của ông, mà chỉ là việc ông tính toán thương mại bán được những sản
phẩm để Xí nghiệp của ông thu được nhiều Lợi nhuận.
Đảng
Cộng Hòa theo sát Chủ trương Kinh tế Tư bản Tư nhân trên đây. Chính vì vậy mà
quyết định SHUTDOWN/ĐÓNG CỬA ngày 01.10.2013 phải được hiểu trong Chủ trương
Kinh tế/Tài chánh Tư bản Tư nhân truyền thống của nước Mỹ.
Chủ
trương Kinh tế Xã hội của Au châu
và
của TT.Obama (đảng Dân Chủ)
Sức đẩy của khuynh hướng Xã hội tại
Aâu châu đã từ Thế kỷ XIX. Sang Thế kỷ XX, Aâu châu còn bị ảnh hưởng mạnh bởi
những ý tưởng từ Khối Cộng sản. Vì ảnh hưởng này mà TT. De GAULLES đã chủ
trương việc Tham dự của Nhân Công vào Lợi nhuận của Xí nghiệp (Participation
des Ouvriers dans la Distribution des Bénéfices).
Hoa kỳ không những ở xa với tầm ảnh
hưởng này của Xã Hội Chủ nghĩa, mà còn cấm đoán những ý tưởng Xã hội Chủ nghĩa
(Cộng sản). “CHARLOT“ đã phải bỏ Hoa kỳ. Một số lớn các nước Tây Aâu theo Chủ
trương Kinh tế Xã hội, nghĩa là phải kể vấn đề nhân đạo, xã hội trong việc
quyết định quản trị những hoạt động Kinh tế của Xí nghiệp. Nhà Nước can thiệp
nhiều hơn vào sinh hoạt Kinh tế Xí nghiệp bằng những Luật lệ thuế khóa, tái
phân phối Lợi nhuận mà tầng lớp nghèo được hưởng.
Khuynh hướng Xã hội này đã làm cho
một số lớn những nước Aâu châu tích lũy chồng chất nợ công. Tình trạng nợ công
của Aâu châu hiện nay một phần là do Khuynh hướng Xã hội này gây ra.
Khi Oâng OBAMA đắc cử Tổng Thống Mỹ,
những tuyên bố của TT.Obama đã tỏ ra rõ rệt Khuynh hướng Xã hội Chủ nghĩa: thâu
thuế cao đối với người giầu, bảo hiểm sức khỏe cho mọi người và Nhà Nước phụ
giúp để mua bảo hiểm. Những lời tuyên bố này đã làm cho một số vốn Hoa kỳ chạy
ra tỵ nạn ở nước ngoài thành Offshore Funds hoặc những Lợi nhuận thu được của
những Xí nghiệp Liên quốc gia không mang về Hoa kỳ để bị đánh thuế cao.
TT.Obama công kích những cuộc Chiến
tranh thời TT.BUSH và Chính quyền của Oâng quy những nợ nần Ngân sách là từ
thời TT.BUSH. Nhưng nếu nhìn kỹ Thống kê, thì người ta thấy chính những năm của
TT.OBAMA, ngân sách Mỹ bị thâm hụt và nợ nần của Nhà Nước Hoa kỳ tăng gấp bội.
Theo
Annual Budget Deficit của Hoa kỳ, thì:
=> Thời
TT.BUSH: * Năm 2002: Deficit 200
Billions
*
Năm 2003: Deficit 400 B
*
Năm 2004: Deficit 400 B
*
Năm 2005: Deficit 300 B
*
Năm 2006: Deficit 200 B
*
Năm 2007: Deficit 200 B
*
Năm 2008: Deficit 500 B
=> Thời
TT.OBAMA: * Năm 2009: Deficit 1’400
Billions
*
Năm 2010: Deficit 1’300 B
*
Năm 2011: Deficit 1’300 B
*
Năm 2012: Deficit 1’300 B
*
Năm 2013: Deficit 1’300 B & …
Như
vậy, chỉ cần năm đầu của TT.OBAMA, mức Deficit đã gần bằng 7 năm thời TT.BUSH.
Việc thiếu hụt Ngân sách này còn tăng lên gấp bội khi mà Nhà Nước bắt đầu trợ
cấp cho mọi người nghèo mua Bảo Hiểm, thực hiện ObamaCare từ năm tới.
Tổng
số nợ công của Nhà Nước Hoa kỳ hiện nay là 16’700 Billions, trong số đó chỉ
nguyên thời TT.OBAMA đã chiếm gần 40% (6’600 Billions) của tổng số nợ công.
Tóm
lại:
* Việc
tăng thuế nhiều trên những người giầu làm thất thoát vốn Hoa kỳ ra nước ngoài
thành Offshore Funds và làm cho những Xí nghiệp Liên quốc gia không mang Lợi
nhuận về Mỹ để bị đánh thuế cao.
* Thực
hiện ObamaCare làm tăng trầm trọng Deficit
* Nợ
công sẽ vượt quá mức 16’700 Billions mà các Thế hệ trẻ sau này phải gánh chịu.
Tác
giả BÙI VĂN PHÚ đã có lý khi nhận định rằng:
“Nhiều người cho rằng Tổng
thống Obama có khuynh hướng theo xã hội chủ nghĩa. Những chính sách về thuế và
bảo hiểm y tế của ông phản ánh điều đó.
Một người Mỹ có thu nhập trên 150
nghìn đô-la một năm, 250 nghìn hay cao hơn cho một cặp vợ chồng nay sẽ phải trả
thuế nhiều hơn. Bây giờ mọi người dân lại có bảo hiểm y tế. Như thế Hoa Kỳ đang
gần giống với các nước bắc Âu, Anh, Pháp. Đó là khuynh hướng xã hội chủ nghĩa
nhằm tiến đến một xã hội công bằng hơn.”
Kết Luận
Vụ SHUTDOWN/ĐÓNG TIỆM ngày 01.10.2013 của Mỹ không phải
là trò chơi bực tức nào đó của đảng Cộng Hòa, cũng không phải là sự xuống cấp
của nền Dân Chủ Mỹ. Đảng Cộng Hòa đứng trước một viễn tượng tăng vọt Deficit
khi thực hiện ObamareCare để rồi Nợ Công Mỹ tăng vọt khiến những Tổ chức Thẩm Định Tín Dụng cho Mỹ
phải hạ thấp mức độ. Đảng Cộng Hòa phải quyết định can thiệp vào viễn tượng
Khủng hỏa Ngân Sách trong lâu dài.
Nó cũng là sự va chạm giữa hai Chủ trương Kinh tế:
* Chủ
trương Kinh tế Tư bản Tư nhân truyền thống đã làm cho Hoa kỳ làm Kinh tế với
Hiệu Năng tối đa.
* Trong khi
ấy Chủ trương Kinh tế Xã hội vốn đã làm cho Chi Tiêu Xã hội tăng (Couts sociaux
augmentent) và làm giảm Hiệu Năng Kinh tế.
Một số
những Lãnh đạo Chính trị, nếu chỉ nghĩ về ngắn hạn chiếm vị trí quyền hành, dễ
dàng tuyên bố tăng thuế người giầu và tái phân phối lợi nhuận từ người giầu cho
người nghèo. Họ dễ dàng kiếm được nhiều phiếu vì một số người nghèo sống với
hiện tại và cảm thấy khoái tỉ khi nghe những lời tuyên bố ấy.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 10.10.2013
Web: http://VietTUDAN.net
TIN TỨC TRUNG QUỐC
Bảy mối họa của Trung Quốc
Mao Trạch Đông qua lăng kính danh họa Andy Warhol.
DR
Đề tài thời sự trên các báo Pháp sáng nay 11/10/2013 khá tản
mạn. Riêng nhật báo Le Monde có nhiều bài viết nhận định về tình hình
chính trị, kinh tế và xã hội tại châu Á, đặc biệt là tại Trung Quốc. Tờ
báo có bài phân tích khá sâu sắc về chủ trương « hoài Mao » được các
lãnh đạo Trung Quốc đề xướng trong thời gian gần đây qua hàng tựa « Bảy mối họa của Trung Quốc ».
Theo François Bougon, tác giả bài viết việc trở lại với tư
tưởng Mao cho thấy sự suy yếu của dàn lãnh đạo mới của Trung Quốc, những
người không còn được hưởng tính chính đáng từ các cựu lãnh đạo tiếng
tăm, như là Giang Trạch Dân hay Hồ Cẩm Đào đã có thể làm.
Tác giả nhận định Mao Trạch Đông đã để lại di sản kế thừa quá nặng
nề. Tầm ảnh hưởng của ông lên đời sống chính trị Trung Quốc cho đến giờ
vẫn còn quá mạnh mẽ. Bất chấp những hậu quả nặng nề của cuộc Cách mạng
văn hóa và các chiến dịch thanh trừng nội bộ, đối với Đặng Tiểu Bình,
cha đẻ của các chính sách cải cách kinh tế, người sáng lập nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa chỉ phạm có 30% sai lầm, nhưng có đến 70% thành
công. Do đó, không có lý do gì để gạt bỏ tư tưởng Mao. Thế nhưng đối
những ai quan tâm đến lịch sử đất nước, đều nhận thấy là lý thuyết đưa
ra trong những năm 1980, theo đó mở cửa phát triển kinh tế sẽ đưa đến
nền dân chủ đã gặp thất bại hoàn toàn.
Giờ đây, trong năm 2013 này, người ta không khỏi tự hỏi làm thế nào
một Trung Quốc ngày càng theo chủ nghĩa tư bản lại bao quát được cả một
chủ nghĩa Mao được tái sáng tạo mới. Mà biểu tượng của hiện tượng này,
ấn bản sắp tới của Sách đỏ sẽ được bán với một cái giá 2000 nhân dân tệ
(khoảng 242 euro), một phiên bản hạng sang.
Theo François Bougon, trào lưu hoài Mao còn được các thế hệ lãnh đạo
mới sau này sử dụng để thăng tiến trên con đường sự nghiệp chính trị, mà
nhân vật điển hình là vị Bí thư đảng ủy thất sủng Trùng Khánh Bạc Hy
Lai, hiện đang bị kết án tù chung thân vì tội tham nhũng.
Giờ đây, ông Tập Cận Bình có thể ung dung thực hiện chiến dịch « hoài
Mao » mà không ngại một phe tả trong Đảng ngáng chân. Tư tưởng hoài Mao
được thể hiện rõ nét trong các bài diễn văn của chủ tịch Tập Cận Bình.
Không những ông khẳng định lập trường « quốc gia không bao giờ thay đổi
màu cờ » mà ông còn kêu gọi các cấp lãnh đạo phải ghi nhớ lời dạy của
Mao chủ tịch « phải khiêm tốn, cẩn trọng và không ngạo nghễ cũng như
liều lĩnh » và phải biết « gìn giữ một nếp sống giản dị ». Đến mức mà
giờ đây Tập Cận Bình còn được đặt cho một cái tên mới « Tân Mao Trạch
Đông ». Bởi vì, Tập Cận Bình đã từng tuyên bố là « Chúng ta không thể
nào gạt qua một bên chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, vì
như vậy sẽ làm mất đi cội rễ của chúng ta ».
Tác giả lưu ý là lời nói phải đi kèm với hành động. Bộ máy cầm quyền
chống lại những ai dám yêu cầu tôn trọng Hiến Pháp hay cân bằng quyền
lực trước sự độc tôn của Đảng. François Bougon cho hay một cuộc tấn công
đang được tiến hành nhằm « tẩy rửa » giới tiểu blog, những trang mạng
xã hội lớn, để chấn chỉnh họ lại. Theo nhận định của Thường Bình, cựu
tổng biên tập tờ Nam Phương Chu Mạt, hiện sống lưu vong tại Đức, « Đảng
đang tìm cách cải cách mạng Internet sao cho các phương tiện này trở
thành một kiểu truyền thông chính thống ».
Theo một tài liệu nội bộ, được giới truyền thông Hồng Kông tiết lộ và
được xem như là « tài liệu trung ương số 9 », Trung Quốc kêu gọi quan
chức chiến đấu chống lại « những giá trị phương Tây nguy hiểm » khi chỉ
ra 7 mối nguy : Đó là các giá trị phổ quát ca tụng nhân quyền, tự do báo
chí, xã hội dân sự, quyền công dân, chỉ trích vô hư về các sai lầm của
Đảng, giới tư sản đặc quyền và độc lập tư pháp.
Theo Bougon, chủ trương « hoài Mao », vốn dĩ đang bóp nghẹt nền xã
hội dân sự là một trong những ba lựa chọn của chế độ để đối phó với
những thách thức đề ra cho cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Hai biện
pháp còn lại là chú trọng theo mô hình Đặng Tiểu Bình. Một mặt để cho
nền thị trường tự do nở rộ. Mặt khác, hạn chế tối đa việc dân chủ hóa xã
hội.
Tác giả bài viết cũng nhận thấy rằng sự hoài Mao này cũng chứng tỏ
cho thấy sự mong manh của dàn lãnh đạo mới của Trung Quốc. Tình trạng
bấp bênh đó là một nguồn bất ổn tiềm tàng cho một quốc gia muốn vượt mặt
Hoa Kỳ trong thế kỷ XXI này.
Cuối cùng, tác giả nhận xét, bất đồng gia tăng, khủng hoảng sinh
thái, tăng trưởng kinh tế ì ạch và thách thức về đô thị hóa có thể sẽ
biến đế chế Trung Hoa thành một gã khổng lồ với đôi chân bằng đất sét.
Trung Quốc : cường quốc kinh tế, cường quốc nhập khẩu năng lượng
Về điểm này, phụ san Kinh tế và Doanh nghiệp của Le Monde cũng đồng
quan điểm. Để đi lên thành cường quốc kinh tế thứ hai, Trung Quốc giờ
đây phải đối mặt với mối đe dọa lớn mang tính chiến lược đó là vấn đề
năng lượng.
« Trung Quốc trở thành quốc gia nhập khẩu dầu hỏa hàng đầu » là hàng
tựa nhận định trên Le Monde. Theo bản báo cáo của Cơ quan quản lý thông
tin năng lượng Hoa Kỳ EIA, công bố hôm thứ Ba 08/10, cho biết nhập khẩu
tịnh của Trung Quốc trong tháng Chín vừa qua đã đạt đến mức 6,3 triệu
thùng dầu/ngày, vượt qua Mỹ 6,24 triệu thùng/ngày.
Trên thực tế, từ năm 1993, Trung Quốc đã trở thành quốc gia nhập khẩu
năng lượng, trong khi chỉ cách đó có 8 năm (tức 1985) quốc gia này còn
là nước xuất khẩu. Sự lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng hóa thạch
như (dầu hỏa, khí đốt , than đá…) tăng mạnh do mức cầu cho giao thông
và sản xuất điện tăng.
Sự phát triển ngành công nghiệp ô tô cũng làm cho nhu cầu về nhiên
liệu hóa lỏng gia tăng. Theo ước tính, trong giai đoạn 2011-2014, mức
cầu này sẽ phải tăng thêm 13% để đạt ở mức 11 triệu thùng/ ngày.
Sự lệ thuộc hoàn toàn vào năng lượng đang để lại nhiều hậu quả « đáng
ngại » về môi trường và kinh tế, theo như đánh giá của Hội đồng Năng
lượng Thế giới. Trung Quốc hiện là quốc gia thải nhiều khí cácbon nhất
trên hành tinh.
Tình thế này cũng để lại nhiều hệ quả địa chính trị. Bắc Kinh buộc
phải tìm các nguồn cung ứng tại các khu vực Trung Đông và tại quốc gia
vùng Vịnh, thậm chí các những quốc gia châu Phi. Ngoài việc phải đảm bảo
nguồn cung ứng, Trung Quốc còn phải giám sát cả các con đường vận
chuyển dầu hỏa của mình. Bắc Kinh tăng cường chiến hạm và đầu tư nhiều
vào các hải cảng nằm dọc theo con đường hàng hải nối liền châu lục đen
và vùng Vịnh với Trung Quốc.
Fukushima : « địa ngục » cho những người làm công tác tháo dỡ
Nhìn sang Nhật Bản, báo Le Monde có bài viết quan tâm đến những con
người đang âm thầm làm công tác tháo dỡ khu trung tâm hạt nhân Fukushima
bị tai nạn do sóng thần và động đất năm 2011. Tờ báo chạy tựa, «
Fukushima : trong ‘địa ngục’ của những người làm công tác tháo dỡ ».
Philippe Pons, tác giả cho biết buổi nói chuyện được diễn ra tại một
địa điểm kín đáo. Bởi vì, trao đổi với các phóng viên là một việc làm
rất mạo hiểm. Công ty tuyển dụng có thể xem như đây là cái cớ để sa thải
họ.
Theo lời thuật của những người được hỏi, nhân sự làm việc tại đây
thường xuyên thay đổi. Ngoài việc do bị nhiễm xạ ở mức cao buộc phải rời
công việc sớm, rất nhiều người cho rằng lương bổng thấp, không được
hưởng đúng mức hỗ trợ rủi ro hay lương ngoài giờ là những nguyên nhân
chính dẫn đến nhiều người phải bỏ việc tại đây, gây ra tình trạng thiếu
nhân công triền miên.
Do đó, các doanh nghiệp nhà thầu lãnh nhận việc tháo dỡ trung tâm hạt
nhân buộc phải liên tục tuyển người. Hệ quả là họ không kịp có thời
gian để đào tạo và hầu như là những người thiếu kinh nghiệm, tay nghề
non kém. Họ còn cho biết thêm là những ai có tay nghề kém nhất lại không
được bảo đảm về an toàn lao động và còn bị các nhà tuyển dụng trung
gian rút rỉa tiền lương.
Theo quan sát của Philippe Pons, thì cuộc sống của những người làm
việc tại đây thật là buồn tẻ và đơn điệu. Tại nơi họ sinh sống, đường
phố vắng vẻ như là trong một thành phố chết. Không tuyến xe lửa, cũng
không có xe buýt, ngoại trừ chuyến xe ca chở họ đi làm và chở về nhà.
Trường học cũng vắng tanh. Nhà cửa, cửa hàng và quán ăn đóng im ỉm,
không chút ánh đèn. Những người làm việc tại đây hoặc sống trong những
căn phòng tạm bợ do doanh nghiệp dựng lên, hoặc sống thuê trong những
căn nhà mà ngay chính chủ nhà cũng không muốn ở.
Tokyo phản đối lệnh cấm vận lương thực của Trung Quốc và Hàn Quốc
Cũng liên quan đến Fukushima, nhật báo kinh tế Les Echos cho hay «
Tokyo nổi dậy chống lệnh cấm vận của Trung Quốc và Hàn Quốc ».
Tờ báo cho hay hôm qua, thứ Năm 10/10, nhân cơ hội gặp mặt các đồng
nhiệm Trung Quốc và Hàn Quốc, thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã kiên
quyết đề nghị lãnh đạo hai quốc gia dỡ bỏ lệnh cấm vận lên các mặt hàng
thủy sản đến từ nhiều vùng lân cận với tỉnh Fukushima.
Theo Tokyo, lệnh cấm áp đặt lên các mặt hàng này là không có cơ sở và
phủ nhận thực tế các xét nghiệm khẳng định có rất ít cá đến từ các vùng
biển Nhật Bản bị nhiễm xạ. Les Echos nhắc lại bối cảnh sự việc. Trung
Quốc đã áp dụng lệnh cấm ngay từ khi xảy ra sự cố Fukushima. Còn đối với
Hàn Quốc, Nhật Bản đặc biệt có những phản ứng mạnh mẽ. Vịn vào lý do rò
rỉ nước nhiễm xạ, ngoài các sản phẩm đến từ tỉnh Fukushima đã bị cấm,
Seoul còn mở rộng thêm lệnh cấm nhập khẩu hải sản Nhật Bản lên 8 tỉnh
khác, đôi khi cách Fukushima đến hàng trăm km.
Ấn Độ trả giá đắt cho sự đam mê vàng
Vàng đối với người Ấn Độ cũng như người Việt Nam được xem như là yếu
tố bảo đảm cho sự phồn thịnh. Thế nhưng, đối với nền kinh tế Ấn hiện
nay, kim loại màu vàng đó đang là một trong những mối đe dọa đè nặng lên
nền kinh tế đất nước. Chủ đề này được phụ san Kinh tế và Doanh nghiệp
báo Le Monde phản ảnh lại qua bài viết « Ấn Độ và vàng, cái giá cho một
niềm đam mê ».
Việc nhập khẩu vàng ồ ạt đang ngày càng đè nặng lên cán cân thương
mại của Ấn Độ. Quốc gia Nam Á này nhập khẩu đến 1/3 lượng vàng sản xuất
trên thế giới, bỏ xa cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ. Vào thời điểm đồng rupee
bị trượt giá, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế èo uột, chính phủ lại
không có chút nỗ lực nhằm kìm hãm bớt nỗi thèm khát vàng của người dân.
Đối với chính quyền New Dehli, đây quả là một thách thức quá to lớn.
Vào cuối thập niên 2000, Ấn Độ nhập khẩu đến 1000 tấn vàng. Sự thèm khát
quả là quá đắt. Nhập khẩu vàng trong giai đoạn 2010-2011, đã ngốn của
chính phủ đến gần 40 tỷ đô-la, tức chiếm đến 10% tổng lượng nhập khẩu.
Giải thích cho sự đam mê đắt đỏ đó, Le Monde đưa ra hai lý do. Thứ
nhất, xuất phát từ tập tục cưới hỏi và các lễ hội truyền thống. Đây cũng
là dịp để người dân Ấn Độ mua sắm loại kim loại quý này. Thứ hai, xuất
phát từ những kinh nghiệm xa xưa, giờ vẫn còn in đậm trong tiềm thức của
người dân, đó là vàng được xem như là một giá trị bảo toàn tốt nhất,
dùng để phòng thân trong các trường hợp binh biến, loạn lạc (về điểm này
rất giống suy nghĩ của người Việt Nam). Vấn đề là đối với nền kinh tế,
việc trữ vàng lại được xem như một đầu tư « không sinh lợi ».
Alice Munro, giải Nobel Văn học ở tuổi 82
Trên lãnh vực văn hóa, một số báo Pháp hôm nay có bài viết về giải
Nobel Văn học 2013 được trao cho nữ sĩ người Canada, bà Alice Munro, 82
tuổi. Đa số các báo đều có chung nhận định bà là phụ nữ Canada đầu tiên
và cũng là phụ nữ thứ ba được nhận giải thưởng cao quý này.
Libération chạy tít lớn trên trang nhất « Nobel Văn học : Alice
Munro, tin vui ». Vượt qua các đối thủ nặng ký khác như nhà văn Nhật Bản
Haruki Murakami, hay như Svetlana Alexievitch, bà Alice Munro, bậc thầy
dòng tiểu thuyết mới đã được nhận giải thưởng cao quý từ Ủy ban Nobel
Thụy Điển. Sau Mạc Ngôn, một nhà văn Trung Quốc, Nobel văn học năm 2012,
đây là lần đầu tiên Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải thưởng cho một tác
giả thuộc dòng văn học đương đại. Libération đánh giá quyết định chọn
bà Munro là một sự chọn lựa mang tính chất thuần túy văn học không mang
màu sắc chính trị. Bởi vì, Alice Munro là một « bậc thầy của dòng văn
học đương đại ».
Nhật báo Công giáo La Croix, dành một góc nhỏ trên trang nhất để chạy
tựa « Tiểu thuyết gia Alice Munro được trao giải Nobel Văn học ». Cũng
như Libération, nhật báo công giáo công nhận « Alice Munro, bậc thầy
dòng truyện ngắn ». Hiếm có những tác giả đương đại nào lại có sự nghiệp
sáng chói ngang hàng với các đồng nghiệp, những tiểu thuyết gia khác :
kể từ cuối thập niên 60, nữ sĩ Alice Munro chứng tỏ sự thanh cao và cao
cả của nghề nghiệp khi tự đặt mình vào trong dòng xoáy của Goethe et
Schlegel, Balzac và Flaubert, Henry James, Tchekhov ou Sarraute. Một nữ
sĩ « kín đáo và lặng lẽ », theo như đánh giá của Le Figaro.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20131011-bay-moi-hoa-cua-trung-quoc
Chế độ Trung Quốc không tránh được sụp đổ hay bị lật đổ .
Trên đây phân tích của hai nhà trí thức có uy tín tại Bắc Kinh nhân 64
năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa : một người là thư ký
riêng của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương, một người là giáo sư đại học
Bắc Kinh.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rệu nát từ bên trong
Một sinh hoạt tưởng niệm tại Bắc Kinh, nhân ngày Quốc khánh Trung Quốc thứ 64 hôm 01/10/2013.
REUTERS/Jason Lee
Chế độ Trung Quốc không tránh được sụp đổ hay bị lật đổ .
Trên đây phân tích của hai nhà trí thức có uy tín tại Bắc Kinh nhân 64
năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa : một người là thư ký
riêng của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương, một người là giáo sư đại học
Bắc Kinh.
Trung Quốc dường như đang chiếm thế thượng phong trong mọi
lãnh vực ngoại giao đến quân sự nhờ vào nền kinh tế được xếp vào hạng
thứ hai trên thế giới. Tại thượng đỉnh APEC và ASEAN trong hai ngày 07
và 08 tháng 10, chủ tịch Trung quốc Tập Cận Bình nổi bật như ngôi sao
sáng trong khi lãnh đạo siêu cường Hoa Kỳ, Barack Obama phải vắng mặt
vì khủng hoảng chính trị và ngân sách.
Các nhà phân tích quốc tế không ngần ngại kết luận là chính sách « chuyển trục » sang Châu Á Thái Bình Dương của Mỹ gặp vấn đề và Trung Quốc với sức mạnh kinh tế, quân sự đang lên sẽ « lấp khoảng trống ».
Tuy nhiên đây không phải là nhận định của những nhà phân tích dám suy nghĩ độc lập tại Hoa lục : xem vậy mà không phải như vậy.
Công luận đã biết giải Nobel Hòa bình 2010 Lưu Hiểu Ba lãnh án 11 năm tù vì cùng với hơn 300 nhân sĩ (trong danh sách phổ biến đầu tiên) vào cuối năm 2008, công bố Hiến Chương 08 phân tích những nhược điểm của chế độ Trung Quốc và đề ra kế hoạch dân chủ hóa gồm 19 điểm để cứu nước, cứu dân và cứu đảng cầm quyền.
Vào lúc Trung Quốc rầm rộ kỷ niệm 64 năm chế độ được mệnh danh là « Cộng Hòa Nhân Dân » thì nhà ly khai Bào Đồng, nguyên là thư ký riêng của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương, nhà lãnh đạo cải cách bị cách chức vì chống biện pháp đàn áp phong trào Mùa Xuân Bắc Kinh năm 1989, khẳng định : Trung Quốc thực chất không phải là nền cộng hòa mà cũng không tôn trọng nhân dân.
Trong một bài phân tích dài với tựa đề : « Trung Quốc ăn mừng 64 năm chế độ xây dựng trên sự áp bức nhân dân » được phổ biến trên mạng của Asia News.it, nhà ly khai nhận định một cách thẳng thừng : Hệ thống chính trị Trung Quốc mang bản chất trấn áp, bất công và tham nhũng. Từ khi Trung Hoa được « giải phóng », quyền của công dân bị xem là « tà ngụy ». Dưới bảng hiệu « chuyên chế vô sản » một hệ thống độc tài khác khai sinh : đảng Cộng sản tự cho mình có toàn quyền thống trị mọi lãnh vực xã hội, kinh khiếp hơn bất kỳ chế độ phong kiến hay độc tài cá nhân nào. Nhân dân « được giải phóng » phải tuân thủ mệnh lệnh của đảng Cộng sản.
Nếu trước năm 1949, những hành vi áp bức, bóc lột được xem là phi lý thì sau ngày « giải phóng » hiện trượng thối nát đó được sống lại và được đảng tôn vinh : sau khi kích động bần cố nông tước đoạt tài sản của địa chủ thì tài sản khổng lồ này bị đảng tóm thu hết nhân danh hợp tác xã. Thực chất thì đất đai, công ty xí nghiệp được « biến hóa » thành tài sản riêng của những người gọi là cách mạng và con cháu họ dưới nhãn hiệu « tài sản xã hội chủ nghĩa » dù Mao không nói đến « chia chác » như vậy.
Đó chính là lý do sâu xa mà bộ máy tuyên truyền lờ đi giai đoạn « cướp chính quyền » mà tập trung vào chuyện bí ẩn « xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ».
Về niềm kiêu hãnh « nhờ Đảng mà Trung Quốc lên hàng cường quốc kinh tế thứ hai thế giới » thì ông Bào Đồng nhắc dân Trung Hoa hãy nhớ là trước năm 1949, Trung Quốc đã chiếm thứ hạng này, và phải mất 64 năm mới trở về thứ hạng cũ. Ông bình luận một cách mỉa mai : Phải mất 64 năm học tập, người dân Trung Hoa mới ngộ ra « sự thật » là xứng đáng được những kẻ cầm quyền hiện nay lãnh đạo. Mà « sự thật » trong chế độ này là do đảng quyết định.
Hệ quả là người dân Trung Hoa từ thế hệ này qua thế hệ khác phải chịu đựng tệ nạn tham nhũng tràn lan, nạn ô nhiễm từ trên trên trời xuống lòng đất.
Đó là « mô hình » Trung Quốc được xây dựng trong 64 năm qua. Trong khi đảng cố gắng phô bày bộ mặt phấn son với quốc tế thì trong nội bộ, họ ý thức được các nhược điểm cốt lõi này với những lời « bôi nhọ lẫn nhau » hay biện minh là « cần học hỏi thêm ».
Để kết luận, nhà ly khai Bào Đồng khẳng định ông không có ý hạ nhục chế độ, nhưng một cơ chế chính trị không chấp nhận đối kháng là một cơ chế tiêu vong, trừ phi còn có những người có tinh thần can đảm cải cách nó.
Đây cũng là nhận định của giáo sư Hạ Vệ Phương. Ông không phải là nhà ly khai hay đối lập mà là một chuyên gia luật pháp của Đại học Bắc Kinh. Trả lời phỏng vấn của nhật báo South China Morning Post, giáo sư Hạ Vệ Phương cho biết ông Tập Cận Bình đã làm giới trí thức thất vọng. Nếu không chấp nhận tự do báo chí và tư pháp độc lập để trong sạch hóa guồng máy chính quyền, thì chế độ này, theo giáo sư Hạ Vệ Phương, sẽ bị cáo chung : « Khi dân chúng mất hết niềm hy vọng, khi không còn gì để mất, thì chỉ còn giải pháp sau cùng : nổi dậy làm cách mạng ».
Các nhà phân tích quốc tế không ngần ngại kết luận là chính sách « chuyển trục » sang Châu Á Thái Bình Dương của Mỹ gặp vấn đề và Trung Quốc với sức mạnh kinh tế, quân sự đang lên sẽ « lấp khoảng trống ».
Tuy nhiên đây không phải là nhận định của những nhà phân tích dám suy nghĩ độc lập tại Hoa lục : xem vậy mà không phải như vậy.
Công luận đã biết giải Nobel Hòa bình 2010 Lưu Hiểu Ba lãnh án 11 năm tù vì cùng với hơn 300 nhân sĩ (trong danh sách phổ biến đầu tiên) vào cuối năm 2008, công bố Hiến Chương 08 phân tích những nhược điểm của chế độ Trung Quốc và đề ra kế hoạch dân chủ hóa gồm 19 điểm để cứu nước, cứu dân và cứu đảng cầm quyền.
Vào lúc Trung Quốc rầm rộ kỷ niệm 64 năm chế độ được mệnh danh là « Cộng Hòa Nhân Dân » thì nhà ly khai Bào Đồng, nguyên là thư ký riêng của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương, nhà lãnh đạo cải cách bị cách chức vì chống biện pháp đàn áp phong trào Mùa Xuân Bắc Kinh năm 1989, khẳng định : Trung Quốc thực chất không phải là nền cộng hòa mà cũng không tôn trọng nhân dân.
Trong một bài phân tích dài với tựa đề : « Trung Quốc ăn mừng 64 năm chế độ xây dựng trên sự áp bức nhân dân » được phổ biến trên mạng của Asia News.it, nhà ly khai nhận định một cách thẳng thừng : Hệ thống chính trị Trung Quốc mang bản chất trấn áp, bất công và tham nhũng. Từ khi Trung Hoa được « giải phóng », quyền của công dân bị xem là « tà ngụy ». Dưới bảng hiệu « chuyên chế vô sản » một hệ thống độc tài khác khai sinh : đảng Cộng sản tự cho mình có toàn quyền thống trị mọi lãnh vực xã hội, kinh khiếp hơn bất kỳ chế độ phong kiến hay độc tài cá nhân nào. Nhân dân « được giải phóng » phải tuân thủ mệnh lệnh của đảng Cộng sản.
Nếu trước năm 1949, những hành vi áp bức, bóc lột được xem là phi lý thì sau ngày « giải phóng » hiện trượng thối nát đó được sống lại và được đảng tôn vinh : sau khi kích động bần cố nông tước đoạt tài sản của địa chủ thì tài sản khổng lồ này bị đảng tóm thu hết nhân danh hợp tác xã. Thực chất thì đất đai, công ty xí nghiệp được « biến hóa » thành tài sản riêng của những người gọi là cách mạng và con cháu họ dưới nhãn hiệu « tài sản xã hội chủ nghĩa » dù Mao không nói đến « chia chác » như vậy.
Đó chính là lý do sâu xa mà bộ máy tuyên truyền lờ đi giai đoạn « cướp chính quyền » mà tập trung vào chuyện bí ẩn « xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ».
Về niềm kiêu hãnh « nhờ Đảng mà Trung Quốc lên hàng cường quốc kinh tế thứ hai thế giới » thì ông Bào Đồng nhắc dân Trung Hoa hãy nhớ là trước năm 1949, Trung Quốc đã chiếm thứ hạng này, và phải mất 64 năm mới trở về thứ hạng cũ. Ông bình luận một cách mỉa mai : Phải mất 64 năm học tập, người dân Trung Hoa mới ngộ ra « sự thật » là xứng đáng được những kẻ cầm quyền hiện nay lãnh đạo. Mà « sự thật » trong chế độ này là do đảng quyết định.
Hệ quả là người dân Trung Hoa từ thế hệ này qua thế hệ khác phải chịu đựng tệ nạn tham nhũng tràn lan, nạn ô nhiễm từ trên trên trời xuống lòng đất.
Đó là « mô hình » Trung Quốc được xây dựng trong 64 năm qua. Trong khi đảng cố gắng phô bày bộ mặt phấn son với quốc tế thì trong nội bộ, họ ý thức được các nhược điểm cốt lõi này với những lời « bôi nhọ lẫn nhau » hay biện minh là « cần học hỏi thêm ».
Để kết luận, nhà ly khai Bào Đồng khẳng định ông không có ý hạ nhục chế độ, nhưng một cơ chế chính trị không chấp nhận đối kháng là một cơ chế tiêu vong, trừ phi còn có những người có tinh thần can đảm cải cách nó.
Đây cũng là nhận định của giáo sư Hạ Vệ Phương. Ông không phải là nhà ly khai hay đối lập mà là một chuyên gia luật pháp của Đại học Bắc Kinh. Trả lời phỏng vấn của nhật báo South China Morning Post, giáo sư Hạ Vệ Phương cho biết ông Tập Cận Bình đã làm giới trí thức thất vọng. Nếu không chấp nhận tự do báo chí và tư pháp độc lập để trong sạch hóa guồng máy chính quyền, thì chế độ này, theo giáo sư Hạ Vệ Phương, sẽ bị cáo chung : « Khi dân chúng mất hết niềm hy vọng, khi không còn gì để mất, thì chỉ còn giải pháp sau cùng : nổi dậy làm cách mạng ».
Đảng CS Trung Quốc Sẽ Sụp Đổ Vào Năm 2016
Đảng CS Trung Quốc Sẽ Sụp Đổ Vào Năm 2016
(Xem lời bàn của Alan phía dưới)
August 13, 2013 – From: theepochtimes.com
Mặt trời mọc trên chân trời Bắc Kinh sáng sớm ngày 06 tháng 11, 2012.
Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ trong ba giai đoạn trong ba năm tới
và triều đại của nó sẽ chấm dứt vào năm 2016, theo tạp chí Hồng Kông
Frontline.
Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ qua ba giai đoạn, trong ba năm
tới, và triều đại của nó sẽ chấm dứt vào năm 2016, theo Hồng Kông
Frontline, một tạp chí chuyên mục về chính trị Trung Quốc.
Theo tạp chí Frontline, sụp đổ đầu tiên sẽ là nền kinh tế của Trung
Quốc, vào năm 2014, và tiếp theo trong năm 2015, “cơ cấu chính trị” của
Đảng sẽ bị phá hủy, và trong năm 2016, toàn xã hội sẽ sụp đổ, bài báo
nói, trích dẫn các tiền lệ lịch sử. Với một kích hoạt đủ lớn, sự sụp đổ
có thể đến sớm hơn, theo Frontline.
Các nhà kinh tế đang nhìn thấy một sự đảo ngược trong dòng chuyển lưu vốn toàn cầu—tiền đang chuyển ra khỏi Trung Quốc, có thể gây ra biến động tài chính, Frontline nói.
Các nhà kinh tế đang nhìn thấy một sự đảo ngược trong dòng chuyển lưu vốn toàn cầu—tiền đang chuyển ra khỏi Trung Quốc, có thể gây ra biến động tài chính, Frontline nói.
Trong tất cả các mối đe dọa, ba tai họa nguy hiểm nhất là những bất
động sản bong bóng, ngân hàng ngầm, và những món nợ chính quyền địa
phương, do ở sự phổ biến và quy mô rộng lớn của nó sẽ như thế nào, tiến
sĩ Frank Tian Xie, một giáo sư đại học kinh doanh tại University of
South Carolina Aiken.
Trung Quốc sẽ chứng kiến sự tăng trưởng đầu tư tiêu cực trong năm tới
và tiêm thêm tiền vào hệ thống sẽ không cải thiện tình hình nhưng vẫn
rất cần thiết cho việc duy trì chuỗi nợ địa phương, theo báo cáo.
Theo bài báo, cuộc khủng hoảng kinh tế Trung Quốc bắt nguồn từ các
vấn đề chính trị sẽ thể hiện rõ ràng trong một sự sụp đổ vào năm 2015.
Nhiều nhóm quyền lợi phức tạp ở Trung Quốc không quan tâm đến số phận
của Đảng hoặc đất nước, và chỉ tập trung vào việc tích lũy của cải,
Frontline nói.
Theo báo cáo của Hồng Kông, các nhóm quyền lợi đang sẵn sàng chứng
kiến sự kết thúc của Đảng Cộng sản Trung Quốc hơn là chạy theo những cải
cách được đề xuất bởi Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo hàng đầu khác
hiện nay, bởi vì họ đã chuẩn bị chiến lược rút lui của mình.
Như một phương sách cuối cùng để tự cứu mình, Đảng có thể sử dụng một
công ty đa quốc gia để rót tiền trở lại Trung Quốc và duy trì đồng nhân
dân tệ (yuan) của Trung Quốc trong khi chấm dứt sử dụng ngoại tệ tiền
tiết kiệm nước ngoài và trái phiếu của Mỹ, theo Tạp chí Frontline suy
đoán trong một số báo ra tháng Sáu.
Đề tài về một sự sụp đổ của Đảng đã được phổ biến trong năm qua, với
một cuốn tiểu thuyết về ngày tận thế lấy Trung Quốc làm trọng điểm, xuất
bản vào tháng Giêng, tựa đề “2014: Cuộc Sụp Đổ Lớn” trở thành một trong
những sách bán chạy nhất trong một cửa hàng Hồng Kông bán sách bị cấm.
Đại Kỷ Nguyên chuyển ngữ
Lời bàn của Alan: Đây là một tiền đề và phân tích rất “giật gân”.
Tôi nghĩ là phần lớn các chuyên gia về TQ không chia sẻ quan điểm và
kết luận này. Tuy nhiên, họ khá đồng thuận rằng Đảng Cộng Sản Trung Quốc
sẽ có một cải tổ sâu rộng trong 3 năm tới và triển vọng DCS sẽ tự biến
thể thành 2 đảng lớn là khả thi. Mặc cho danh xưng, hiện nay TQ đang áp
dụng một thể chế “kinh tế tư bản nhà nước” (hoàn toàn không có định
hướng XHCN). Với 2 đảng và những cuộc bầu cử tranh đua phiếu, nền chính
trị và kinh tế này sẽ biến dạng như thế nào? Tương lai này chắc chắn là
thú vị hơn World Cup 2014 ở Brasil. Bạn nào có máu cờ bạc, nên đặt kèo
và “odds” để thu hoạch.
http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/ng-cs-trung-quc-sp-vo-nm-2016.html Lãnh đạo Trung Quốc công khai thừa nhận : bất công xã hội không ngừng gia tăng
Bài đăng ngày 16/03/2010 Cập nhật lần cuối ngày 16/03/2010 19:23 TU
Ngồi nghe thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu nhân ngày khai mạc khoá họp Quốc Hội, ngày 05/03/2010
(Ảnh Reuters)
(Ảnh Reuters)
Hồ
sơ lớn chiếm nhiều trang các nhật báo Pháp hôm nay tiếp tục là cuộc bầu
cử cấp vùng ở Pháp, nêu bật chiến lược các đảng phái nhằm giành thắng
lợi trong vòng hai diễn ra vào ngày chủ nhật này. Bên cạnh đó, thời sự
Châu Á nổI bật trên nhật báo Le Monde với trọn một trang báo dài và một
tựa trang nhất dành cho Trung Quốc : ''Thủ tướng Ôn Gia Bảo công nhận
bất công xã hội gia tăng ở Trung Quốc'''.
Dưới tựa đề trên, Báo Le
Monde ghi nhận mối lo ngại của chính quyền Bắc Kinh trước tình trạng bất
công xã hội ngày rõ nét và thêm nghiêm trọng, có thể dẫn đến bất ổn
định. Bất công xã hội đã trở thành một chủ đề quan trọng và nằm trong
chương trình nghị sự của Quốc Hội Trung Quốc.
Thông tín viên Le
Monde tại Bắc Kinh, Bruno Philip, trích dẫn phát biểu của thủ tướng Ôn
Gia Bảo, ngày bế mạc khoá họp Quốc Hội, chủ nhật vừa qua, 14/03/2010,
xác nhận : ''Năm 2010, sẽ là một năm phức tạp nhất đối với kinh tế Trung
Quốc''.
Theo thủ tướng Ôn Gia Bảo, cho dù tăng trưởng kinh tế
Trung Quốc đạt từ 8,7% đến 10,7% trong quý tư 2009, nhưng phải tiếp tục
kích thích kinh tế theo kế hoạch hơn 400 tỷ euros đưa ra vào năm 2008.
Thủ tướng Trung Quốc nhắc lại là trong ''việc phát triển kinh tế xã hội
Trung Quốc, phải chú tâm hơn nữa đến những người nghèo, những người bị
thiệt thòi, vì họ là đa số''.
Ông Ôn Gia Bảo cũng công nhận là
'lạm phát, sự phân chia của cải quốc gia không công bằng, nạn tham
nhũng, có thể ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội và cả sự ổn định của chính
quyền. Bài báo còn trích dẫn nhận xét thẳng thắn của thủ tướng Trung
Quốc, đánh giá là ''phải mất một trăm năm hay hơn nữa để Trung Quốc trở
nên một quốc gia hiện đại''.
Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn to lớn chưa từng thấy
Trong
bài phóng sự tựa đề ''Bắc Kinh giàu có, Bắc kinh nghèo khổ'', thông tín
viên Le Monde đã minh họa cảnh chênh lệch giàu nghèo nêu bật ở trên.
Đặt chân đến một khu phố nằm cách khu Thế Vận Hội hoành tráng chỉ 15
phút, Bruno Philip đã bước vào những đường hẻm bùn lầy, nhà cửa lụp xụp,
dơ bẩn, bên cạnh các chung cư không sạch sẽ, quần áo phơi chằng
chịt, mùi thức ăn nồng nặc xông vào mũi.
Theo tác giả bài báo, nơi
đây minh hoạ cho điều mà giới truyền thông Trung Quốc đã nêu lên trong
mươi ngày vừa qua : chưa bao giờ từ ngày cải cách kinh tế khởi sự vào
cuối thập niên 70, mà chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn
lại to lớn như thế.
Bruno Philip giải thích là cho dù ở ngay thủ
đô Bắc Kinh, những người ở khu phố này toàn là đến từ nông thôn. Như
hàng trăm triệu người khác, họ đến thành thị tìm một cuộc sống sung túc
hơn và dành dụm tiền gởi về quê. Và cho dù có ở được đến bảy, tám năm
tại thủ đô, họ vẫn không được hưởng quyền lợi như những người thành thị
có hộ khẩu.
Bài báo trích dẫn ví dụ bà Lưu, một người từ Hà Nam
đến Bắc kinh từ 8 năm nay. Bà làm vệ sinh trong một chung cư, hàng tháng
lãnh được 900 yuan, nhưng phải trả tiền nhà đến 300, và có thể bị đuổi
ra khỏi chỗ ở bất cứ lúc nào.
Theo số liệu thống kê Trung Quốc vừa
công bố vào tháng 3/2010, thu nhập trung bình hàng năm của người dân
thành thị năm 2009 lên đến 17.175 yuan trong lúc thu nhập ở nông thôn
chỉ là 5.153 yuan. Vào năm 2005, thì chênh lệch chỉ ở mức 10.493 so với
3.255 nhân dân tệ.
Giới chức Trung Quốc, như ông giám đốc Trung
tâm Nghiên cứu Kinh tế Nông thôn, thuộc bộ Nông nghiệp, theo bài báo, đã
tỏ mối quan ngại về cái hố giữa nông thôn và thành thị sẽ sâu thêm nữa
khi mà chính quyền tập trung trên việc phát triển đô thị hơn là nông
thôn.
Bài báo nhắc lại là cách đây vài năm, cũng trong khoá họp
Quốc Hội mùa Xuân, trước tình hình này, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã thông
báo một chương trình cải thiện đời sống nông thôn. Năm nay thì ông hứa
800 tỷ yuan cho nông thôn, hơn ngân sách năm ngoái đến 13%.
Chế độ hộ khẩu đào sâu phân hoá giầu nghèo
Theo
Bruno Philipp, nhiều chuyên gia nước ngoài đánh giá là Trung Quốc nên
bỏ chế độ hộ khẩu. Đây là nguyên nhân gây ra tình trạng ''kỳ thị chủng
tộc'' giữa người thành thị và những người đến từ nông thôn. Những người
lao động tha phương bị bóc lột, con cái họ không thể vào những trường
học bình thường, phần đông phải đến những trường 'bất hợp pháp', nhiều
khi nằm trong danh sách những nơi bị phá hủy. Tóm lại, theo giới chuyên
gia, sự ổn định xã hội khó có thể được duy trì nếu hố chênh lệch giàu
nghèo tiếp tục sâu rộng thêm.
Còn trong giới giàu có của xã hội
Trung Quốc, bài báo ghi nhận là hiện nay số lượng triệu phú đô la ở
Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ. Những người mà tài sản ít nhất là 150 triệu
đô la hiện giờ lên đến 1000 người. Vào năm 2004, họ chỉ có khoảng 100
người mà thôi. Trong danh sách năm nay của tạp chí Mỹ Forbes, điểm qua
những người giàu nhất thế giới, có đến 68 nhà tỷ phú Trung Quốc, trong
khi danh sách năm ngoái chỉ là 28 người. Trong lãnh vực tiêu xài, mua
sắm xa xỉ phẩm hạng sang trên thế giới, người Trung Quốc giờ đây đứng
hàng thứ nhì sau người Nhật.
Trung Quốc : khách hàng đứng đầu thế giới của rượu Bordeaux
Cũng
trên mặt tiêu xài của người Trung Quốc, tờ báo kinh tế Les Echos, nhìn
thấy có một mặt hàng mà không ai ngờ là Trung Quốc sẽ trở nên khách hàng
đứng đầu thế giới : đó là rượu Bordeaux của Pháp. Theo Les Echos, dĩ
nhiên là không tính đến người Châu Âu.
Tờ báo rất ngạc nhiên vì
cách đây 10 năm thôi, không ai có thể nghĩ đến chuyện này. Thế nhưng kể
từ năm 2009, Trung Quốc đã qua mặt Hoa Kỳ, nước vốn là khách hàng hàng
đầu ngoài Châu Âu trong việc nhập rượu Pháp. Trung Quốc năm ngoái đã
nhập 138.000 hectolít rượu vang, tăng gấp đôi trong vòng 1 năm, trong
khi đó thì lượng rượu bán ra tại Pháp lại có xu hướng giảm sụt.
Les
Echos cũng không quên nêu bật sự phung phí của những kẻ giàu mới ở
Trung Quốc. Dần đây, theo bài báo, một nhà tài phiệt Trung Quốc đánh bạc
ở Macao, đã đòi bằng được một chai rượu hiếm, Cheval Blanc 1947. Giới
chủ sòng bạc phải đưa trực thăng đến lấy rượu tại Hồng Kông về phục vụ
ngay lập tức !
Phong trào Áo Đỏ gặp bế tắc tại Bangkok
Cũng
về Châu Á, hôm nay tờ Le Figaro nhìn trở lại Thái Lan, nhận thấy phe Áo
Đỏ đang lâm vào ngõ cụt tại Bangkok, tựa bài báo trang quốc tế. Theo Le
Figaro, phong trào thân Thaksin bề ngoài rất năng nổ, tạo ra cảm giác
là họ tiến tới theo một kế hoạch rõ ràng. Đấy tuy nhiên chỉ là chiến
thuật mới của phe thân Thaksin, cho dù trong thực tế họ đang lâm vào bế
tắc.
Tác giả bài báo Florence Compain giải thích là hàng chục
ngàn người kéo về Bangkok, hôm qua đã bao vây căn cứ quân sự nơi mà thủ
tướng Abhisit họp nội các, hầu gây sức ép buộc ông từ chức. Nhưng thủ
tướng Thái đã rời căn cứ bằng trực thăng và người biểu tình đã rút về
khu phố cổ, khởi điểm của họ.
Le Figaro đánh giá là nếu hiện nay
những người biểu tình Áo Đỏ vẫn tỏ thái độ hồ hởi trước những lời phát
biểu hùng hồn của giới lãnh đạo, tổ chức biểu tình, nhưng họ tỏ ra hoài
nghi về phương cách lật đổ chế độ mà họ gọi là ''đặc quyền'' ở Thái Lan.
Theo Le Figaro, rất ít khả năng thủ tướng Abhisit từ chức dưới sức ép
của đường phố.
Người dân Bangkok thì chán ngán trước các cuộc
biểu tình liên tục. Tờ báo cũng e ngại bạo động, vì trước mắt nếu không
khí không căng thẳng, nhưng với rượu và thời tiết nóng bức ở Bangkok,
phe Áo Đỏ có thể có hành động khiêu khích, gây ra bạo động để buộc chính
quyền phản ứng.
Theo bài báo trên đường phố Bangkok, chỉ có lực
lượng an ninh, hay người lao động từ nơi khác đến đây là còn ở ngoài
đường, vẫy tay chào các đoàn xe người Áo Đỏ.
Nam Phi thuê công nhân Bắc Triều Tiên
Tờ
Les Echos hôm nay trích dẫn báo Hàn Quốc Korea Herald, tiết lộ là Nam
Phi đang thuê công nhân Bắc Triều Tiên xây dựng hay trùng tu sân vân
động để đón Cúp Bóng đá Thế giới, tổ chức vào tháng sáu tới đây. Theo tờ
báo Hàn Quốc, công nhân Bắc Triều Tiên đang làm việc tại công trường
sân vận động ở Johannesburg, hay sân vận động mới tinh Mbombela, ở
Nelspruit.
Tờ báo không cho biết số lượng công nhân Bắc Triều
Tiên được đưa đến làm việc ở Nam Phi vì không có số liệu đáng tin cây,
nhưng theo tờ Korea Herald, công nhân Bắc Triều Tiên đến đấy khá nhiều.
Dĩ
nhiên theo tờ báo, việc đưa công nhân Bắc Triều Tiên đến Nam Phi là do
chính phủ Bình Nhuỡng tổ chức đề lấy ngoại tệ. Bài báo cũng nêu lên tình
hình khó khăn ở Bắc Triều Tiên, bị thiếu ngoại tệ nghiêm trọng từ khi
không xuất khẩu được vũ khí như trước và các tuyến du lịch từ Hàn Quốc
bị đình chỉ.
Đối với dân chúng, đời sống ngày càng khó khăn thêm,
giá gạo đã tăng 60 lần trong 3 tháng qua. Giá một kí lô gạo hiện là
1.300 won mới, tương đương với khoảng 7 euro.
Chủ nghĩa Mao hồi sinh tại Trung Quốc
Biểu tình trước lãnh sự quán Nhật ở Thượng Hải ngày 16/09/2012 với ảnh Mao Trạch Đông và cờ Trung Quốc.
REUTERS/Aly Song
Liên quan đến châu Á, nhật báo Le Figaro có bài đáng chú ý
mang tựa : « Bắc Kinh phục hồi chủ nghĩa Mao ». Theo báo Le Figaro, các
quan chức Trung Quốc được mời gọi phải gần gũi dân chúng hơn và thực
hiện các hành động của chủ nghĩa Mao như tự phê bình và tố giác hành vi
sai trái.
Tờ báo nhận định, những hành động phổ biến dưới thời Mao Trạch
Đông, hiện nay bị người Trung Quốc xem như đã lỗi thời. Thế nhưng, chủ
trương này vừa được chủ tịch nước Tập Cận Bình tung ra vào tuần trước
tại tỉnh Hồ Bắc.
Hàng loạt các buổi tự kiểm điểm của các lãnh đạo Trung Quốc diễn ra tại khắp nơi trên đất nước và được chiếu trên truyền hình. Mục đích là nhằm củng cố quyền lực của chủ tịch Tập Cận Bình, hình ảnh các lãnh đạo địa phương toát mồ hôi, rưng rưng nước mắt khi thú nhận những mặt trái của họ, được chiếu trên các trang mạng xã hội với đầy vẻ nhạo báng. Một quan chức thú nhận : « Tôi toát mồ hôi và suýt oà khóc nhiều lần khi lục lại trong ký ức của mình ». Một quan chức khác của tỉnh Hồ Bắc thừa nhận đã tiêu 3,3 tỷ nhân dân tệ (khoảng 400 000 euro) để mời các gương mặt ngôi sao dự buổi tiệc gala xuân.
Theo tờ Nhân dân nhật báo (tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc), chính quyền đã chuẩn bị trước các buổi xưng tội từ tháng bảy vừa qua, bằng việc thu thập khoảng 171 200 kiến nghị từ 8000 ngôi làng. Sau đó, các cán bộ phải viết báo cáo tự kiểm điểm.
Để thể hiện thiện chí khuyến khích hành động hoài Mao này, chủ tịch Tập Cận Bình đã dành ra bốn ngày rưỡi để dự các buổi tự kiểm điểm của các quan chức. Trước sự lo ngại của một số cán bộ, nhân vật số một của Trung Quốc giải thích, hành động này nhằm sửa chữa những vấn đề bê bối và xoa dịu sự lo lắng trong dân chúng. Các quan chức cũng được kêu gọi phải biết tố giác lẫn nhau.
Được bắt đầu áp dụng trong những năm 1940 dưới thời Mao Trạch Đông, hình thức này nhằm mang lại dân chủ hơn trong nội bộ Đảng khi cho phép dân chúng nêu lên ý kiến của mình. Trên thực tế, Mao Trạch Đông đã dùng hình thức này làm một công cụ đáng sợ nhằm thanh trừng trong nội bộ Đảng Cộng sản và loại bỏ những thành phần đối lập. Các hình thức này dần bị bỏ xó sau cuộc Cách mạng văn hóa. Thế nhưng, ông Tập Cận Bình lại thể hiện tinh thần hoài Mao. Hành động này nằm trong chiến dịch chống tham nhũng của ông nhằm mang lại đạo đức trong nội bộ đảng bằng cách đào thải những cán bộ ngông cuồng, chỉ lo hưởng thụ quá mức.
Bài báo còn cho biết, một số cán bộ hoảng hốt, cứ lập đi lập lại đến hơn 30 lần bản tự kiểm điểm khiến cư dân trên mạng phải phì cười. Nhiều người dân châm chọc, mỉa mai cay độc về hành động này, một số gọi màn kịch này là « ghê tởm ». Một cư dân mạng trên mạng Vi Bác (Twitter Trung Quốc) gợi ý : « Sao không bắt đầu bằng việc phê bình tài khoản cá nhân và các tài sản kếch xù của họ? »
Chính phủ Mỹ đóng cửa hoạt động do thiếu ngân sách
« Chính phủ Mỹ đóng cửa do hết ngân sách », đó là tựa lớn trên trang nhất báo Le Monde. Báo kinh tế Les Echos chạy tựa trên trang nhất : « Khủng hoảng chính trị Mỹ : đóng cửa các dịch vụ công có nguy cơ kéo dài ». Báo Le Figaro nhận định trên trang nhất : « Obama đối mặt với cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng ».
Theo báo Le Monde, đây là lần đầu tiên một chính phủ Mỹ phải đóng cửa sau 17 năm qua và là lần đóng cửa « shutdown » thứ 18 từ cuộc cải cách ngân sách vào năm 1976. Khoảng 800.000 nhân viên công chức liên bang bị thất nghiệp từ ngày 1/10. Các công viên quốc gia và một số dịch vụ công bị ngừng hoạt động sau khi quốc hội không thông qua được đạo luật ngân sách cho năm tài khóa mới, bắt đầu từ 1/10.
Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng tê liệt của chính phủ Mỹ ? Đó chính là do Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ không đạt được đồng thuận về Đạo luật Tài chính cho phép tránh được cái gọi là « bức tường ngân sách ». Các cuộc thương lượng vẫn tiếp tục, nhưng trong khi chờ đợi, nước Mỹ phải hoạt động chậm lại do hết ngân sách.
Báo Le Monde trang bên trong cũng có bài viết cho biết, tình hình khiến nhiều nhà lập pháp lo rằng vào ngày 17/10 tới, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ sẽ trễ hạn trả nợ. Mỹ sẽ không còn khả năng vay tín dụng. Vào ngày 17/10 tới đây, trừ khi Quốc hội Mỹ nâng trần nợ, nếu không Cục dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ còn 30 tỷ USD tiền mặt trong tay và rơi vào bờ vực vỡ nợ.
Ngoài ra, báo kinh tế Les Echos thì quan tâm đến sự kiện này nhiều hơn về các tác hại gây ra cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Nếu đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ vẫn cứ dậm chân tại chỗ, không đưa ra được đồng thuận trong việc nâng nợ trần thì có thể sẽ dẫn đến hậu quả kinh tế nghiêm trọng. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế : « Điều này có thể sẽ gây ra cuộc suy thoái nghiêm trọng và cuộc khủng hoảng ngân hàng nặng nề ».
Nếu chính phủ ngừng hoạt động càng lâu thì thì sẽ làm thay đổi các số liệu kinh tế, đặc biệt là càng gây thiệt hại về việc làm và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là con số đăng số lượng việc làm được tạo ra vào tháng 9 được trông đợi vào thứ sáu này, sẽ phải hoãn lại. Theo Les Echos, một ngày đóng cửa làm việc, Mỹ phải chịu mất đến 300 triệu đô la.
Người tiêu dùng, nhà kinh doanh và niềm tin của nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khiến cổ phiếu và thị trường tài chính rơi vào tình trạng hỗn loạn. Giới đầu tư càng lo ngại hơn trong trường hợp thương thuyết về « bức tường ngân sách » thất bại.
Tiêu hủy kho vũ khí hóa học tại Syria sẽ bắt đầu
Trở lại tình hình thời sự tại Syria, báo La Croix hôm nay đăng bài viết mang tựa : « Tại Syria, hoạt động tiêu hủy kho vũ khí hóa học sẽ bắt đầu ».
Tờ báo cho biết, 20 thanh tra thuộc Tổ chức cấm sử dụng vũ khí hóa học đã đến Damas vào ngày hôm qua. Họ có nhiệm vụ tiêu hủy một kho vũ khí ước tính lên đến một nghìn tấn vũ khí hóa học, trong một đất nước đang chìm trong nội chiến nghiêm trọng. Theo các chuyên gia, kho vũ khí hóa học được dàn trải trên 45 địa điểm, trong đó có 300 tấn khí độc sarin và khí mù tạt.
Bài báo nhận định, vấn đề bảo vệ an toàn cho các thanh tra và hoạt động của họ quả là một thách thức lớn, đặc biệt là tại các địa điểm đặt kho vũ khí giáp ranh với khu vực giao tranh hay phải đi qua lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của phe đối lập. Theo Công ước của Tổ chức cấm sử dụng vũ khí hóa học (OIAC), Syria có trách nhiệm hàng đầu trong việc bảo vệ an toàn cho chuyên gia thực hiện nhiệm vụ. Cũng theo Công ước quy định, Syria xem như phải đích thân tài trợ cho việc tiêu hủy kho vũ khí. Thế nhưng, Tổ chức cấm sử dụng vũ khí hóa học cũng kêu gọi các nước thành viên tự nguyện đóng góp một phần tài chính cho công việc này.
Những chênh lệch của dân số thế giới
Báo La Croix dành hồ sơ lớn cho một nghiên cứu tóm lược những đặc điểm chính của dân số thế giới được đăng vào ngày hôm nay do Viện Nghiên cứu dân số quốc gia Pháp (Ined) tiến hành.
Kết quả của nghiên cứu cho biết, hành tinh của chúng ta chứa 7 tỷ dân vào năm 2013 và sẽ tăng đến 10-11 tỷ dân vào cuối thế kỷ XXI. Điều đáng ngạc nhiên và đáng mừng là những thập niên gần đây, tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm nhanh chóng trên toàn thế giới.
Tờ báo nêu lên một số dữ liệu đáng chú ý trong nghiên cứu này. Ví dụ : có 5,227 triệu trẻ được sinh ra trong Liên hiệp châu Âu vào năm 2013. Macao, một khu hành chính đặc biệt của Trung Quốc, chỉ rộng 25 km2 nhưng hiện tại giữ kỷ lục thế giới là nơi có mật độ dân số dày nhất (22 885 người/km2).
Nigeria được xem là đất nước trẻ nhất thế giới với 50% dân số dưới 15 tuổi. Con số này là hệ quả của tỷ lệ sinh sản của phụ nữ nước này cao nhất thế giới (hơn 7 trẻ/phụ nữ). Đồng thời, đất nước châu Phi này sẽ trở thành quốc gia đông dân thứ 3 trên thế giới vào năm 2050. Tại Qatar, 87% dân số trong độ tuổi lao động.
Nhìn sang châu Á, đảo quốc Singapore nhỏ bé có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới (2 trong tổng số 1000 trẻ sơ sinh). Tờ báo nhận định, đảo quốc phía Đông Nam châu Á này có một hệ thống chăm sóc y tế khá tốt. Còn Nhật Bản không chỉ được xem là đất nước già nhất hành tinh mà dân số già đi nhanh hơn mức trông đợi (25% người Nhật ngoài 65 tuổi). Ngoài ra, đất nước mặt trời mọc còn giữ vị trí quán quân trên thế giới về tuổi thọ của người dân (86 tuổi đối với nữ và 79 đối với nam). Đó là dấu hiệu cho thấy ngành y tế được cải thiện. Trên thế giới, hiện nay, tuổi thọ trung bình lên đến 70 tuổi. Thế nhưng, tình trạng này cũng gây khó khăn cho một số quốc gia phải khốn khổ trong việc chi trả lương hưu khi tuổi thọ của người dân kéo dài.
Cuối cùng, về thu nhập bình quân đầu người, Pháp xếp thứ 21 (26 923 euro). Pháp vẫn được xem là một nước giàu có trên hành tinh vì con số này cao gấp 3 lần thu nhập bình quân của người dân trên thế giới (8632 euro). Đứng đầu bảng xếp hạng giữa các nước giàu nhất thế giới vẫn là đất nước dầu mỏ Qatar (62 522 euro).
Uống rượu, nước tăng lực nguy hiểm cho sức khỏe
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta tiêu thụ khá nhiều thức uống có chất kích thích mà không ý thức được rằng nó rất có hại cho sức khỏe. Nhiều nhật báo ra ngày hôm nay đều quan tâm đến đề tài này và gióng lên hồi chuông cảnh báo. Báo Le Monde đăng bài : « Tiêu thụ nước tăng lực có thể gây nguy hiểm ».
Ngoài ra, trên bài báo của Le Figaro, Tổ chức an toàn thực phẩm Pháp (Anses) cũng cảnh báo phụ nữ mang thai, trẻ em và thanh thiếu niên cần phải chú ý khi uống rượu, nước giải khát tăng lực có chất kích thích.
Nước uống tăng lực là thức uống có gaz, thường cho thêm các khoáng chất khác như : chất kích thích (caféine), taurine, vitamine…
Các thức uống này đều có tác dụng kích thích năng lượng người sử dụng. Để đưa ra kết luận, Tổ chức an toàn thực phẩm Pháp (Anses) đã thống kê trường hợp những người có vấn đề về sức khỏe, bị nghi ngờ có liên quan đến việc tiêu thụ loại thức uống này. Trong 200 người được thống kê, có 95 người có vấn đề về tim mạch, 74 người có vấn đề về tâm lý hành vi. Cuối cùng, có 2 trường hợp tử vong mà nguyên nhân gây tử vong được cho là rất gần với việc tiêu thụ rượu và nước tăng lực. « Đó là một thiếu nữ 16 tuổi, bị chết bất thình lình khi vừa ngừng nhảy trong một buổi tiệc », theo Tổ chức Anses. Trước đó, trong buổi tiệc, cô đã uống vừa nước tăng lực vừa rượu.
Hằng ngày, người Pháp tiêu thụ chất caféin rất nhiều, có trong cafe và trà. Đối với họ, nguy cơ bắt đầu cao khi hằng ngày, họ uống thêm loại nước tăng lực hay rượu và chơi thể thao. Theo chuyên gia của Tổ chức an toàn thực phẩm Pháp (Anses): « Nhiệt của cơ thể khó tiêu tan hơn với chất caféin ». Một hiện tượng đặc biệt xảy ra trong các hộp đêm. 32% người sử dụng nước tăng lực khi uống trong các quán bar và 41% uống trước hoặc sau khi chơi thể thao. Nếu những người này uống nhiều lần cà phê trong ngày thì nguy cơ còn tăng gấp bội.
Hàng loạt các buổi tự kiểm điểm của các lãnh đạo Trung Quốc diễn ra tại khắp nơi trên đất nước và được chiếu trên truyền hình. Mục đích là nhằm củng cố quyền lực của chủ tịch Tập Cận Bình, hình ảnh các lãnh đạo địa phương toát mồ hôi, rưng rưng nước mắt khi thú nhận những mặt trái của họ, được chiếu trên các trang mạng xã hội với đầy vẻ nhạo báng. Một quan chức thú nhận : « Tôi toát mồ hôi và suýt oà khóc nhiều lần khi lục lại trong ký ức của mình ». Một quan chức khác của tỉnh Hồ Bắc thừa nhận đã tiêu 3,3 tỷ nhân dân tệ (khoảng 400 000 euro) để mời các gương mặt ngôi sao dự buổi tiệc gala xuân.
Theo tờ Nhân dân nhật báo (tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc), chính quyền đã chuẩn bị trước các buổi xưng tội từ tháng bảy vừa qua, bằng việc thu thập khoảng 171 200 kiến nghị từ 8000 ngôi làng. Sau đó, các cán bộ phải viết báo cáo tự kiểm điểm.
Để thể hiện thiện chí khuyến khích hành động hoài Mao này, chủ tịch Tập Cận Bình đã dành ra bốn ngày rưỡi để dự các buổi tự kiểm điểm của các quan chức. Trước sự lo ngại của một số cán bộ, nhân vật số một của Trung Quốc giải thích, hành động này nhằm sửa chữa những vấn đề bê bối và xoa dịu sự lo lắng trong dân chúng. Các quan chức cũng được kêu gọi phải biết tố giác lẫn nhau.
Được bắt đầu áp dụng trong những năm 1940 dưới thời Mao Trạch Đông, hình thức này nhằm mang lại dân chủ hơn trong nội bộ Đảng khi cho phép dân chúng nêu lên ý kiến của mình. Trên thực tế, Mao Trạch Đông đã dùng hình thức này làm một công cụ đáng sợ nhằm thanh trừng trong nội bộ Đảng Cộng sản và loại bỏ những thành phần đối lập. Các hình thức này dần bị bỏ xó sau cuộc Cách mạng văn hóa. Thế nhưng, ông Tập Cận Bình lại thể hiện tinh thần hoài Mao. Hành động này nằm trong chiến dịch chống tham nhũng của ông nhằm mang lại đạo đức trong nội bộ đảng bằng cách đào thải những cán bộ ngông cuồng, chỉ lo hưởng thụ quá mức.
Bài báo còn cho biết, một số cán bộ hoảng hốt, cứ lập đi lập lại đến hơn 30 lần bản tự kiểm điểm khiến cư dân trên mạng phải phì cười. Nhiều người dân châm chọc, mỉa mai cay độc về hành động này, một số gọi màn kịch này là « ghê tởm ». Một cư dân mạng trên mạng Vi Bác (Twitter Trung Quốc) gợi ý : « Sao không bắt đầu bằng việc phê bình tài khoản cá nhân và các tài sản kếch xù của họ? »
Chính phủ Mỹ đóng cửa hoạt động do thiếu ngân sách
« Chính phủ Mỹ đóng cửa do hết ngân sách », đó là tựa lớn trên trang nhất báo Le Monde. Báo kinh tế Les Echos chạy tựa trên trang nhất : « Khủng hoảng chính trị Mỹ : đóng cửa các dịch vụ công có nguy cơ kéo dài ». Báo Le Figaro nhận định trên trang nhất : « Obama đối mặt với cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng ».
Theo báo Le Monde, đây là lần đầu tiên một chính phủ Mỹ phải đóng cửa sau 17 năm qua và là lần đóng cửa « shutdown » thứ 18 từ cuộc cải cách ngân sách vào năm 1976. Khoảng 800.000 nhân viên công chức liên bang bị thất nghiệp từ ngày 1/10. Các công viên quốc gia và một số dịch vụ công bị ngừng hoạt động sau khi quốc hội không thông qua được đạo luật ngân sách cho năm tài khóa mới, bắt đầu từ 1/10.
Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng tê liệt của chính phủ Mỹ ? Đó chính là do Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ không đạt được đồng thuận về Đạo luật Tài chính cho phép tránh được cái gọi là « bức tường ngân sách ». Các cuộc thương lượng vẫn tiếp tục, nhưng trong khi chờ đợi, nước Mỹ phải hoạt động chậm lại do hết ngân sách.
Báo Le Monde trang bên trong cũng có bài viết cho biết, tình hình khiến nhiều nhà lập pháp lo rằng vào ngày 17/10 tới, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ sẽ trễ hạn trả nợ. Mỹ sẽ không còn khả năng vay tín dụng. Vào ngày 17/10 tới đây, trừ khi Quốc hội Mỹ nâng trần nợ, nếu không Cục dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ còn 30 tỷ USD tiền mặt trong tay và rơi vào bờ vực vỡ nợ.
Ngoài ra, báo kinh tế Les Echos thì quan tâm đến sự kiện này nhiều hơn về các tác hại gây ra cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Nếu đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ vẫn cứ dậm chân tại chỗ, không đưa ra được đồng thuận trong việc nâng nợ trần thì có thể sẽ dẫn đến hậu quả kinh tế nghiêm trọng. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế : « Điều này có thể sẽ gây ra cuộc suy thoái nghiêm trọng và cuộc khủng hoảng ngân hàng nặng nề ».
Nếu chính phủ ngừng hoạt động càng lâu thì thì sẽ làm thay đổi các số liệu kinh tế, đặc biệt là càng gây thiệt hại về việc làm và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là con số đăng số lượng việc làm được tạo ra vào tháng 9 được trông đợi vào thứ sáu này, sẽ phải hoãn lại. Theo Les Echos, một ngày đóng cửa làm việc, Mỹ phải chịu mất đến 300 triệu đô la.
Người tiêu dùng, nhà kinh doanh và niềm tin của nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khiến cổ phiếu và thị trường tài chính rơi vào tình trạng hỗn loạn. Giới đầu tư càng lo ngại hơn trong trường hợp thương thuyết về « bức tường ngân sách » thất bại.
Tiêu hủy kho vũ khí hóa học tại Syria sẽ bắt đầu
Trở lại tình hình thời sự tại Syria, báo La Croix hôm nay đăng bài viết mang tựa : « Tại Syria, hoạt động tiêu hủy kho vũ khí hóa học sẽ bắt đầu ».
Tờ báo cho biết, 20 thanh tra thuộc Tổ chức cấm sử dụng vũ khí hóa học đã đến Damas vào ngày hôm qua. Họ có nhiệm vụ tiêu hủy một kho vũ khí ước tính lên đến một nghìn tấn vũ khí hóa học, trong một đất nước đang chìm trong nội chiến nghiêm trọng. Theo các chuyên gia, kho vũ khí hóa học được dàn trải trên 45 địa điểm, trong đó có 300 tấn khí độc sarin và khí mù tạt.
Bài báo nhận định, vấn đề bảo vệ an toàn cho các thanh tra và hoạt động của họ quả là một thách thức lớn, đặc biệt là tại các địa điểm đặt kho vũ khí giáp ranh với khu vực giao tranh hay phải đi qua lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của phe đối lập. Theo Công ước của Tổ chức cấm sử dụng vũ khí hóa học (OIAC), Syria có trách nhiệm hàng đầu trong việc bảo vệ an toàn cho chuyên gia thực hiện nhiệm vụ. Cũng theo Công ước quy định, Syria xem như phải đích thân tài trợ cho việc tiêu hủy kho vũ khí. Thế nhưng, Tổ chức cấm sử dụng vũ khí hóa học cũng kêu gọi các nước thành viên tự nguyện đóng góp một phần tài chính cho công việc này.
Những chênh lệch của dân số thế giới
Báo La Croix dành hồ sơ lớn cho một nghiên cứu tóm lược những đặc điểm chính của dân số thế giới được đăng vào ngày hôm nay do Viện Nghiên cứu dân số quốc gia Pháp (Ined) tiến hành.
Kết quả của nghiên cứu cho biết, hành tinh của chúng ta chứa 7 tỷ dân vào năm 2013 và sẽ tăng đến 10-11 tỷ dân vào cuối thế kỷ XXI. Điều đáng ngạc nhiên và đáng mừng là những thập niên gần đây, tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm nhanh chóng trên toàn thế giới.
Tờ báo nêu lên một số dữ liệu đáng chú ý trong nghiên cứu này. Ví dụ : có 5,227 triệu trẻ được sinh ra trong Liên hiệp châu Âu vào năm 2013. Macao, một khu hành chính đặc biệt của Trung Quốc, chỉ rộng 25 km2 nhưng hiện tại giữ kỷ lục thế giới là nơi có mật độ dân số dày nhất (22 885 người/km2).
Nigeria được xem là đất nước trẻ nhất thế giới với 50% dân số dưới 15 tuổi. Con số này là hệ quả của tỷ lệ sinh sản của phụ nữ nước này cao nhất thế giới (hơn 7 trẻ/phụ nữ). Đồng thời, đất nước châu Phi này sẽ trở thành quốc gia đông dân thứ 3 trên thế giới vào năm 2050. Tại Qatar, 87% dân số trong độ tuổi lao động.
Nhìn sang châu Á, đảo quốc Singapore nhỏ bé có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới (2 trong tổng số 1000 trẻ sơ sinh). Tờ báo nhận định, đảo quốc phía Đông Nam châu Á này có một hệ thống chăm sóc y tế khá tốt. Còn Nhật Bản không chỉ được xem là đất nước già nhất hành tinh mà dân số già đi nhanh hơn mức trông đợi (25% người Nhật ngoài 65 tuổi). Ngoài ra, đất nước mặt trời mọc còn giữ vị trí quán quân trên thế giới về tuổi thọ của người dân (86 tuổi đối với nữ và 79 đối với nam). Đó là dấu hiệu cho thấy ngành y tế được cải thiện. Trên thế giới, hiện nay, tuổi thọ trung bình lên đến 70 tuổi. Thế nhưng, tình trạng này cũng gây khó khăn cho một số quốc gia phải khốn khổ trong việc chi trả lương hưu khi tuổi thọ của người dân kéo dài.
Cuối cùng, về thu nhập bình quân đầu người, Pháp xếp thứ 21 (26 923 euro). Pháp vẫn được xem là một nước giàu có trên hành tinh vì con số này cao gấp 3 lần thu nhập bình quân của người dân trên thế giới (8632 euro). Đứng đầu bảng xếp hạng giữa các nước giàu nhất thế giới vẫn là đất nước dầu mỏ Qatar (62 522 euro).
Uống rượu, nước tăng lực nguy hiểm cho sức khỏe
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta tiêu thụ khá nhiều thức uống có chất kích thích mà không ý thức được rằng nó rất có hại cho sức khỏe. Nhiều nhật báo ra ngày hôm nay đều quan tâm đến đề tài này và gióng lên hồi chuông cảnh báo. Báo Le Monde đăng bài : « Tiêu thụ nước tăng lực có thể gây nguy hiểm ».
Ngoài ra, trên bài báo của Le Figaro, Tổ chức an toàn thực phẩm Pháp (Anses) cũng cảnh báo phụ nữ mang thai, trẻ em và thanh thiếu niên cần phải chú ý khi uống rượu, nước giải khát tăng lực có chất kích thích.
Nước uống tăng lực là thức uống có gaz, thường cho thêm các khoáng chất khác như : chất kích thích (caféine), taurine, vitamine…
Các thức uống này đều có tác dụng kích thích năng lượng người sử dụng. Để đưa ra kết luận, Tổ chức an toàn thực phẩm Pháp (Anses) đã thống kê trường hợp những người có vấn đề về sức khỏe, bị nghi ngờ có liên quan đến việc tiêu thụ loại thức uống này. Trong 200 người được thống kê, có 95 người có vấn đề về tim mạch, 74 người có vấn đề về tâm lý hành vi. Cuối cùng, có 2 trường hợp tử vong mà nguyên nhân gây tử vong được cho là rất gần với việc tiêu thụ rượu và nước tăng lực. « Đó là một thiếu nữ 16 tuổi, bị chết bất thình lình khi vừa ngừng nhảy trong một buổi tiệc », theo Tổ chức Anses. Trước đó, trong buổi tiệc, cô đã uống vừa nước tăng lực vừa rượu.
Hằng ngày, người Pháp tiêu thụ chất caféin rất nhiều, có trong cafe và trà. Đối với họ, nguy cơ bắt đầu cao khi hằng ngày, họ uống thêm loại nước tăng lực hay rượu và chơi thể thao. Theo chuyên gia của Tổ chức an toàn thực phẩm Pháp (Anses): « Nhiệt của cơ thể khó tiêu tan hơn với chất caféin ». Một hiện tượng đặc biệt xảy ra trong các hộp đêm. 32% người sử dụng nước tăng lực khi uống trong các quán bar và 41% uống trước hoặc sau khi chơi thể thao. Nếu những người này uống nhiều lần cà phê trong ngày thì nguy cơ còn tăng gấp bội.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 283
DAVID THIÊN NGỌC = VÕ NGUYÊN GIÁP =NGUYỄN CHÍ THIỆN
DAVID THIỆN NGỌC * NGƯỜI CỘNG SẢN
Đi tìm người cộng sản chân chính.
David Thiện Ngọc
Người xưa thường nói " Ngậm ngải tìm trầm" để chỉ cái quí hiếm của loài trầm mà nó thường tiềm ẩn chốn rừng thiêng nước độc khó mà tìm ra, cho nên phải dùng đến phép thuật, bùa chú..."ngải" (một loại bùa phép, mê tín trong dân gian ngày xưa) mới mong tìm đươ.c. Bởi có một điều rằng trầm là một loài quí hiếm, có công dụng để bào chế ra những phương thuốc đặc trị có ích cho con người. Hơn nữa nó tỏa mùi thơm đặc biệt khi đốt lên mà trong dân gian còn tin rằng mùi hương trầm có thể xua đuổi được tà ma quỉ ám...do đó người xưa mới ngậm ngải tìm trầm là thế.
Với lời ẩn dụ trên để chỉ cho sự khó khăn, hiếm có khi ta bới tìm trong đám bùi nhùi, bùn nhơ CSVN một người CS chân chính. Ở đây nó có một sự khập khiểng rằng, trầm cho dù là khó tìm ra nên phải "ngậm ngải", nhưng khi đã có được thì đó là vật quí giá có ích cho con người. Còn khó khăn để tìm một người CS chân chính nếu có được chăng thì cũng chưa chắc là hữu dụng cho cộng đồng dân tộc, cho xã hô.i. Do đó ta cần có nên chăng để phải cất công sàng lọc và kiếm tìm?
Bởi lẽ từ xưa đến nay trên toàn thế giới ai ai cũng rõ CS với phương châm là dối trá, bạo quyền là cương lĩnh và cướp đoạt là tôn chỉ mục đích. Lấy những thứ đó làm phương tiện và lấy hoang đường làm cứu cánh...mơ tưởng xa vời về một XHCN, CSCN, thế giới đại đồng xóa bỏ biên cương, ranh giới, mọi giá trị, mà nơi đó không còn người bóc lột người, làm việc tùy sức nhưng ăn tiêu thì tùy cần...cần cái gì có cái đó. Cái lý thuyết suông, ảo tưởng này từ ông tổ Mác-Lê đến những vị gọi là triết gia, lý luận cao cấp đến tên đảng viên xoàng nơi hè phố, góc ruộng nông thôn đã có ai là hiểu được và nói được câu nào từ giảng đường, hội trường đến bờ ruộng để chứng minh cho học thuyết đó? mà cái sự cần của người CS thật vô biên. Nào xe hơi, biệt thự, Đô La...chân dài bát ngát xa hoa...do đó chúng tận dụng triệt để những phương tiện kể trên để bằng mọi cách đạt đến đích cuối cùng của cứu cánh. Để rồi chúng trượt dài trên "hư lộ", quyết bám lấy những phương tiện nêu trên mà bảo vệ những thành quả có được trên bước đường bóc lô.t. Chúng luôn run sợ cho sự tồn vong của lâu đài đồ sộ xây dựng bằng máu xương của nhân dân trên nền cát, trên nền tảng là sự dối lừa và vô đa.o.
Chúng ta không thể hời hợt, dễ giải và cả tin...cũng chính từ những lòng tin chân chất đó mà cả thế kỷ qua dân tộc VN đắm chìm trong tăm tối, khổ đau mà không một bút giấy nào có thể lột tả ra cho hết đươ.c. Ngược lại đối với người CS luôn tiềm ẩn sự dối lừa, xảo trá và mưu ma chước quỉ.
Trên con đường phục hưng đất nước, sắp xếp lại trật tự đạo đức xã hội, lập nên nền chính trị, thể chế chính danh,hoàn mỹ hơn và thực sự là tiếng nói là tấm lòng của muôn dân ký thác...tất nhiên có muôn vàn khó khăn và trở lực, cạm bẩy cũng không loại trừ. Tuy nhiên để cho công cuộc thay da đổi thịt trên thân thể Mẹ VN thành tựu, đồng thời đem lại hạnh phúc trường tồn cho dân tộc thì cái điều căn bản đầu tiên để hướng cho hoạt động đi không chệch hướng chính là "Đa nguyên chính trị". Có được đa nguyên chính trị rồi thì chúng ta mới bước tới những bước tiếp theo. Nơi đây tôi xin mạo muội nói sơ qua về hai chữ "Đa nguyên".
"Đa nguyên " ( ngoài chính trị ra, thuật ngữ đa nguyên cũng được dùng với một số nghĩa khác trong ngữ cảnh tôn giáo, kinh tế và triết học...) luôn đồng hành với Dân Chủ, Nhân Quyền, nó là 3 ngọn đuốc sáng soi cho con đường mà mọi dân tộc bước đi để xây dựng một xã hội nhân bản và phồn vinh. Không phải đến gần đây từ "đa nguyên" mới xuất hiện để đối kháng lại với "đơn nguyên" của chế độ độc tài, độc trị mà CS áp đặt trên các nước bị nhuộm đỏ...mà nó đã có từ giữa thế kỷ thứ 4 sau công nguyên để lập nên những giá trị làm nền tảng cho những cộng đồng xã hội ngoại KiTô giáo sống thích nghi, sinh tồn trong xã hội mà lúc bấy giờ là thời hoàng kim của xã hội KiTô giáo. Chính những giá trị tinh thần của cộng đồng xã hội ngoại Ky Tô đó đã khiến cho những vị đứng đầu Giáo Hội Ki Tô đầy quyền lực chấp nhận cho một sự thỏa hiệp, một sự hòa mình sống chung với nền văn hóa đặc thù của xã hội ngoài Ki Tô tương phản với Ki Tô Giáo ( có thể gọi là đối lập) một cách hòa bình. Những giá trị đó là "Đa nguyên". Từ đó qua hàng thế kỷ xã hội đa nguyên phát triển không ngừng trong xã hội Châu Âu với phương châm "Tương đồng trong dị biệt". Sau này triết gia Pierre Abelard (1079-1142) đã nói rõ nguyên lý này rằng : " Diversa non Adversa"(tương phản nhưng không là địch thủ) và từ đó "Đơn nguyên" Ki Tô Giáo đã trở thành "Đa nguyên".
Khái niệm về "Đa nguyên" đã được các nhà chính trị, văn hào như Benjamin Constant, Alexis de Tocqueville tôn vinh như một con đường sáng để đem lại an lành, hòa bình cho xã hô.i.
Còn Nietzche thì cho rằng Đa nguyên bắt nguồn từ Đa Thần Giáo, việc tạo tác các thần linh cùng các vị Anh Hùng cùng những sự vật phản ánh bản năng phóng khoáng, đa dạng của tư tưởng con người và nó cũng là khát vọng của bản ngã, của mọi con người, của mọi tầng lớp trong xã hô.i.
William James thì cho rằng Đa Thần biểu hiện tính chất "Đa nguyên" của vũ trụ, là tổng hợp những hình thái và nguyên lý bao trùm vũ trụ.
Theo Aristote thì con người có 2 động cơ chính là quyền sở hữu và cảm tình. Hai yếu tố này không có vị trí trong xã hội "Đơn nguyên" khép kín của Platon, Hegel, Marx. Xã hội đa nguyên rộng mở trái ngược với xã hội đơn nguyên khép kín (CSCN) xem sự tự do, sở hữu cá nhân từ vật chất đến tinh thần đều là những trở lực, là thù địch với thể chế đơn nguyên độc trị.
Còn rất nhiều các triết gia, chính trị gia nổi tiếng nói về đa nguyên nữa nhưng tựu chung lại tất cả đều cùng một tư duy về đa nguyên là sự gắn kết không thể tách rời của sự sống (muôn loài) với thiên nhiên, vũ trụ luôn đa dạng muôn chiều...qua đó đa nguyên bao trùm, chất chứa tinh thần thực tiễn, đối nghịch lại với mơ hồ ảo tưởng. Đồng thời Đa nguyên song hành với phương pháp luận thực nghiệm (Pragmatisme). Có một điều ta thấy "Đa nguyên" nó gần gũi với xã hội VN hiện nay là nó "chấp nhận đối thoại", chấp nhận ý tưởng phát kiến của cá nhân không phân biệt dân tộc, tôn giáo hay quốc gia nào và nâng cao sự khiêm tốn, tự trọng, khách quan và bao dung. Đó là nền tảng của đạo đức muôn đời.
Nói tóm lại, với những nhận xét và lý luận của các triết gia, chính trị gia trên thế giới xưa nay thì ta có thể nói rằng xã hội đa nguyên là một xã hội rộng mở, nhân văn, đa diện...trái ngược với xã hội đơn nguyên, khóa chặt, độc tài thiển cận mà Platon, Hegel, Marx đã đề cao.
Từ xa xưa cũng chính cái ý tưởng của xã hội đa nguyên là nguyên nhân cho sự tan rã của các xã hội đơn nguyên khép kín mang hình thái bộ lạc, lạc hậu thiếu nhân bản và nhân văn. Cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước với sự sụp đổ của bức tường Berlin, hệ thống CNXH ở LX và Đông Âu cũng không là ngoại lệ.
Trở lại với tình hình chính trị xã hội VN thì con đường "Đa nguyên" không thể thiếu. Duy nhứt một điều dễ hiểu là Đa NguyênĐân Chủ-Nhân Quyền là ba yếu tố không thể tách rời trong một thể chế xã hội văn minh. Hơn thế nữa, một thể chế đa nguyên là thể chế của một chính quyền "pháp trị", sự quan hệ giữa người dân với chính quyền trên nền tảng pháp luật, nơi này pháp lý và vũ lực là hai gam màu tương phản với nhau. Trong đó "Tam quyền phân lập" rõ ràng, và nơi đó người dân tư tạo cho mình một khoảng trời riêng, tự quyết mà không bị áp đặt, bắt buộc hay định hướng một điều gì trên mọi phương diện, mọi hình thức.
Trong thế nước hiện nay-Lò lửa nhân quyền, tư do, dân chủ đang phừng phực cháy. Những nhà yêu nước, dân chủ của chúng ta phải có một cương lĩnh, lập trường, lập luận sáng suốt và dứt khoát. Lúc này là lúc mà kẻ xấu, kẻ cơ hội nhập nhằng thừa nước đục thả câu và vàng thau lẫn lô.n. Nơi đây tôi cũng không khiêng cưỡng với cực đoan, đố kỵ. Không tuyệt đối phải quá quan trọng về quá khứ để làm nền tảng, chất liệu mà viết nên trang sử ngày nay và làm tiền lệ cho mai sau. Tuy nhiên những vết hằn trên thân thể Mẹ VN quá đậm sâu và bị gây nên bởi cường quyền CS, bởi một bầy đàn mà nói theo dân gian là "Ngu mà lỳ" cộng thêm là một học thuyết phi nhân vô đa.o. Lấy lừa dối làm phương châm, bạo quyền làm vũ khí để thâu tóm mọi giá trị từ vật chất đến tinh thần của dân tộc VN về cho một băng nhóm, cá nhân...những việc này "Tôi không nhắc lại" (xin lỗi y-tá 3X) vì nói nữa hơi nhàm, ai cũng đã rõ.
Theo như tôi đã dẫn chứng ở trên về xã hội đa nguyên-trong đó phương châm "Tương đồng trong dị biệt" để thích nghi, sinh tồn và sống chung cùng đối lập mà áp dụng cho xã hội VN thì e rằng có nhiều điều cần suy nghĩ. Chính trong những năm 60s của thế kỷ trước, lãnh đạo đảng CSLX Khrushchev đã có đường lối bác bỏ tư tưởng sùng bái cá nhân (I.V.Stalin) và sống hòa bình với thế giới Tư Bản. Đường lối này Mao trạch Đông gọi là "chủ nghĩa xét lại". Ở VN Gs Hoàng minh Chính một lý luận gia cao cấp, giám đốc học viện Marx-Lenin đã ủng hộ tư tưởng, đường lối này và chủ trương sống chung hòa bình cùng nhân dân Miền Nam, chính phủ VNCH. Cuối cùng cả nhóm theo chủ trương của Gs Hoàng minh Chính đều bị họa với con số khoảng 300 người trong đó có 30 người là nhân vật cao cấp (theo Journal of cold war History tháng 11/2005). Số thì bị bắt tù đày, số bị khai trừ ra khỏi đảng, giam lỏng và một số nữa phải tỵ nạn chính trị ở LX. Gs Hoàng minh Chính phải chịu kinh qua 3 lần tù đày, giam giữ tổng cộng gần 20 năm.
Ông Trần xuân Bách-Ủy viên BCT TƯ đảng CSVN lúc tại vi.-với tầm nhìn bao quát và muốn có một thể chế Đa Nguyên để xã hội tốt đẹp hơn và cuối cùng ông T.X.B đón nhận một hậu quả như thế nào thì ta đã rõ.
Trung tướng Trần Độ khi còn đang tại vị là một đảng viên cao cấp đảng CSVN. Ông đã nhìn xa trông rộng và thấy được sự sai lầm, xấu xa của đảng có thể đe dọa sự tồn vong của đảng và của xã hội, ông đã có tiếng nói " Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị, kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hóa ruổng nát, tắc tị không những của cơ thể xã hội mà của cơ thể đảng nữạ". Theo ông " Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng. Nơi đây ông không hề chống đảng hay có một khuynh hướng chính trị đối lập mà muốn đảng trong sáng, mạnh mẽ hơn lên.
Chính những lời khẳng khái và ý chí này lại trở thành mũi tên bắn thẳng vào tim của chế độ, của đảng CSVN. Với sự bảo thủ và ác tâm của tập đoàn chóp bu CSVN, do đó ông đã bị khai trừ ra khỏi đảng CSVN ngày 4/1/1999 khi vừa tròn 58 tuổi đảng và sau đó cuộc đời ông phải gánh chịu và nhận lấy bao sự phủ phàng, oan khuất gây ra từ phía đảng và đến ngày cuối của đời ông, ngay trong đám tang của ông mà đảng cũng không buông tha cho một người gọi là "Đại công thần" của đảng chỉ vì có tư tưởng cách tân, muốn cho đảng mạnh mẽ, trong sáng hơn lên và cho xã hội đẹp tươi mà phải chịu cảnh nghiệt ngã. Nói như thế qua 3 dẫn chứng trên thì ta đã thấy rõ cái "Ngu mà lỳ" của CSVN như thế nào?
Ngày nay đứng trước tình hình đất nước-Thành lập các đảng mới, thực hiện "Đa nguyên", đa đảng đối lập với đảng CSVN, công khai đấu tranh tích cực, cạnh tranh lành mạnh, trong sáng rõ ràng, sòng phẳng trên vũ đài chính trị là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên như phần đầu tôi đã nói-CS xây dựng lâu đài đồ sộ trên nền cát, do đó luồng gió Đa NguyênĐân Chủ-Nhân Quyền có cơ nguy sẽ làm sụp đổ lâu đài đó cho nên nó là thế lực thù địch của CSVN. Như ai cũng biết CS thâm độc, mưu ma chước quỉ, đê hèn...không việc gì là không thể làm đươ.c. Bản chất của người CS từ trong máu khó mà tẩy sa.ch. Tuy nhiên trong thời gian qua cũng có không ít cán bộ đảng viên CSVN đã nhận ra tội lỗi của mình gây ra trong quá khứ và con đường đi theo là sai lầm và gây tác hại cho đất nước, cho nhân dân và đã cương quyết đoạn tuyệt với CS, với cái ác mà trở về với nhân dân. Những người này cần được chúng ta tôn tro.ng.
Ngược lại với những con người CS đương quyền và gọi là "trung kiên" với ý thức hệ thì hai chữ chân chính khó mà tìm ra trên thân thể họ. Trước cơn bão nhân quyền, đảng CSVN không thể ngồi yên chờ sụp đổ mà sẽ bày ra những trò xảo thuật ma quái hạ đẳng vốn có để che mắt cộng đồng thế giới hòng khỏi bị loại ra khỏi sân chơi quốc tế. Đồng thời để xì hơi quả khinh khí cầu Nhân Quyền đang căng thẳng ở VN mà thế giới đang gây áp lư.c.
Một đảng mớiđdảng DCXH hay đảng X,Y,Z nào đó sẽ được tung ra với bàn tay lông lá của loài khỉ, vượn được nối dài từ động Ba Đình là không thể loại trừ. Những đảng viên CSVN tự hào là kiên trung (với tà giáo) với hơn 40-50 tuổi đảng vẫn tự hào có nhiều thành tích và chức vụ trong cái guồng máy tà quyền phản dân hại nước, vẫn xem nhân dân Miền Nam VN là thù địch...vẫn không thấy hạt cơm của nhân dân Miền Nam nuôi mình sống và lớn lên nơi cống rãnh, gầm giường núp trốn!!!(đúng thực tế) đồng thời dạy cho mình có con chữ để rồi theo tà quyền sát hại nhân dân. Ngay trong thời điểm này lại đứng lên nói tiếng nói như là của nhân dân, về với nhân dân và có lời giống như hạch sách CS một cách gọi là...để che mắt mọi người. Tại sao mình kêu gọi đ/c đồng đội của mình quay mặt với đảng CSVN mà bản thân mình không dám công khai, thẳng thắn vứt đi những gì mà đảng đã trao cho trong cái ngày "Không cờ, không quạt" thuở đó, của một thời "cùng anh em đứng lên phất cao ngọn cờ" đồng thời " xin nằm xuống cho quê hương" ?. Trong nhân dân chắc cũng không ít người nhìn thấy cái giả dối lộ liễu hay có khi cũng làm "khổ nhục kế" trong lúc đang thập tử nhất sinh của người CS kiên trung.
Còn các ông đã từng ở vị trí chóp bu, UV BCT đảng CSVN, từng một thời ngồi ở đỉnh cao cầm vận nước sao lúc đó không có một lời phản biện như Gs H.M.Chính, Tr.T.T.Độ, T.x.Bách, Lê hồng Hà, Nguyễn hà Phan...khi đang tại vị? mà đến khi bị thất sủng về với đồng ruộng bãi bờ lại trở cờ theo gió mà nói lên những lời không đúng như trong trái tim của mình? của người CS???
Tại sao các vị ăn cơm Quốc Gia ngày xưa mà làm tay sai cho CS hơn 40 năm qua không một lời trung thực theo đạo lý đã học nơi giảng đường các trường ĐH Sài Gòn mà đến khi bị sự ghẻ lạnh của chế độ, vứt bỏ mình bên lề cuộc chơi mới dám có một chút hơi hám, ho hen cho thế sự?. Giả dụ như những lời hiện nay của các vị là thực tâm không là giả dối, không là cò mồi, tay sai...quyết tâm về với nhân dân chối bỏ tà quyền. Thì tôi xin hỏi các vị nếu như CSVN vẫn trọng dụng các vị, trao cho các vị quyền cao chức trọng, những chiếc ghế mà bạc vàng Đô La tuôn chảy vào túi tham như nước sông Sài Gòn, như cống rãnh ngày xưa các vị ngụp lặn, ẩn mình thì các vị có nói lên những lời "tính sổ" trên giường bệnh và những lời hô hào "bỏ đảng" như hiện nay đang nói hay không? Tôi cam chắc 100% là "Never" mà ngược lại các vị còn tích cực cùng tà quyền đàn áp, bóc lột dân lành, bòn rút nguyên khí Quốc Gia.
Thế sự mỗi ngày mỗi khác-Mây trời còn đổi màu theo tiết mùa, mưa nắng thì bầu trời nơi vũ đài chính trị VN cũng luôn thay đổi. Các vị múa may gì thì múa, các con buôn chính trị mua bán đổi trao gì thì trao đổi, lũ ca-ve đảng phái ngâm nga gì thì cứ ngâm...nhưng có điều các vị nên nhớ rõ rằng nhân dân VN không còn ngây thơ để bị gạt lừa như trước nữa. Thế hệ trẻ VN ngày nay thông minh, kiên cường, bất khuất chứ không vô cảm, ngủ mê như các vị tưởng. Với không gian Internet rộng mở...Nhân dân và tuổi trẻ VN sẽ có đủ sáng suốt, nhận định, phán xét những diễn biến trên vũ đài chính trị đầy phức tạp này. Những Phương Uyên, Nguyên Kha, Minh Hạnh, Phong Tần, Thanh Nghiên, Hoàng Vi, Thục Vy, Duy Thức, Việt Khang...v.v...Quí vị khi đứng trước những Anh Thư Tuấn kiệt này quí vị có lấy làm hổ thẹn? Nếu như ngày xưa các vị thức tỉnh ngay trong những buổi ban đầu theo cáo hồ gây tội ác, hay ít ra cũng vài ba chục năm về trước các vị nhận rõ con đường lầm lạc của mình mà hối lỗi với nhân dân thì ngày nay tiếng gọi, hô hào của các vị cho dù là nhỏ bé nhưng tôi tin sẽ nặng ngàn cân.
Riêng phần tôi, tôi luôn ủng hộ một đảng phái nào của các Anh Thư, Tuấn Kiệt, những nhà dân chủ VN đã và đang đổ xương máu cho nền Độc LâpĐân Chủ-Nhân Quyền Việt Nam
David Thiên Ngọc
TRẦN HỒNG TÂM * ĐIẾU VĂN VĨNH BIỆT ĐẠI TƯỚNG
ĐIẾU VĂN CỦA CỰU CHIẾN BINH CHO VÕ NGUYÊN GIÁP
Cựu Bộ Đôi Trần Hồng Tâm từ: Việt Nam
18:27_11.10.2013
Vĩnh biệt huyền thoại.
Nhìn dòng người xếp hàng chờ viếng Ông trên đường phố Hà Nội, gợi tôi nhớ đến hình ảnh người dân Bắc Hàn than khóc trong tuyết lạnh trên đường phố Bình Nhưỡng để chia tay với vị lãnh tụ kính yêu Kim Chính Nhật.
Tôi lớn lên ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đến tuổi đi bộ thì cuộc nội chiến đẫm máu Bắc – Nam kết thúc. Nhưng bất hạnh thay, chiến tranh vẫn không buông tha đất nước này. Thế hệ chúng tôi phải tham dự vào một cuộc chiến kế tiếp nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đảng gọi chúng tôi là “Quân tình nguyện”. Thế giới gọi chúng tôi là “Quân xâm lược”. Bốn năm trong đội quân do Ông chỉ huy, là khoảng thời gian đủ dài để tôi suy ngẫm về sự tàn bạo của chiến tranh và những trò đùa trên số phận con người.
Với tôi, cái lòng chảo Điện Biên chỉ là một vạc dầu oan nghiệt u mê, ấu trĩ, cuồng tín. Tôi sẽ gọi Ông là thánh nếu ông giành độc lập mà không cần phải có một Điện Biên Phủ hung tàn. Nhìn sang những quốc gia lân cận Ấn Độ, Miến Điện, Malasia, Singapor, Indonesia, người ta cũng giành độc lập mà không cần nhiều xương máu như Ông.
Bao nhiêu thế hệ trai làng quê tôi ra đi không trở lại. Có gia đình chết đến tám người con trai. Tuổi thơ của tôi ngập ngụa trong sợ hãi đớn đau, oán giận, khóc than. Nỗi kinh hoàng cứ ập đến mỗi gia đình hằng đêm khi nghe tin người thân của mình đã chết.Tôi căm ghét chiến tranh. Nhưng chiến tranh lại cứ liên miên.“Năm năm, mười năm, hai mươi năm, hoặc lâu hơn nữa…” Đất nước hoang tàn. Còn đâu là đời người, còn đâu là nòi going.
Diễn văn nhận chức của Obama có nhắc đến Khe Sanh như một niềm tự hào về sự chiến đấu ngoan cường và lòng quả cảm của người Mỹ. Tết Mậu thân cũng không đủ bằng chứng người Mỹ đã thua trong trận đánh đẫm máu này. Người Mỹ đã nhận ra sự tàn khốc của cuộc chiến. Họ hy sinh lòng kiêu hãnh để cứu vớt mạng người. Đó là một quyết định khôn ngoan và nhân đạo. Lòng nhân đạo không chỉ giành cho những công dân Mỹ, mà cho cả chúng ta. Nếu họ không làm như vậy, thì có lẽ tôi sẽ không còn ngồi đây viết những dòng này.
Tôi đã học, đọc nhiều về thiên tài quân sự của Ông, nhưng có một câu hỏi đến nay tôi vẫn không tìm thấy câu trả lời. Năm giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, người Tầu đã dùng đến 15 quân đoàn, tấn công ồ ạt trên toàn tuyến biên giới có chiều dài khoảng 1500 km, xấp xỉ với khoảng cách từ Hà Nội đến Sài Gòn, nhưng Ông không hay biết gì. Phải chăng đó là một sỉ nhục của ngành tình báo do Ông lãnh đạo. Phải chăng đó là một sai lầm của Tổng tư lệnh mà Ông đang nắm giữ.
Ông rời quân ngũ, rời trận mạc đã lâu, vậy mà càng về già Ông càng hay mặc quân phục rất chỉnh tề, thậm chí nằm trên giường bệnh cũng mang quân hàm. Cả nước này, ai không biết Ông là tướng. Nhìn lon đại tướng bốn sao ông mang trên vai áo, nhìn những huân chương ông mang đầy ngực, tôi thấy hơi lố bịch và tàn nhẫn. Bởi những huân huy chương kia đồng nghĩa với giết chóc, máu lửa, tử khí, oan hồn.
Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử. Liệu vong linh của những người đã chết có cho Ông được bình yên nơi chín suối.
Nhiều người rất mãn nguyện và nở mày nở mặt vì đám tang của Ông được đảng tổ chức trọng thị. Từng sợi tóc của Ông được chẻ làm tư để ca ngợi. Quan tài của Ông lung linh qua những khải hoàn môn. Nhưng những người dân nước Việt được ông giải phóng vẫn đang vùng vẫy trong lầm than, oan ức, bất công, tủi nhục, đói nghèo.
Tôi đốt nén nhang lòng vĩnh biệt Ông.
Vĩnh biệt những chiến công thật ra chỉ là huyền thoại.
Cựu Bộ Đôi Trần Hồng Tâm
Monday, October 14, 2013
THỤY KHUÊ * NGUYỄN CHÍ THIỆN
Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa Ngục
Hoa địa ngục là một hành trình thơ, là một hành trình sống. Hoa địa ngục
là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc
sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc. Văn
bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân
cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu
thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.
Năm 1979, một tập thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài.
1980, được in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả, chỉ biết
đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã đem tác phẩm của mình "ném vào"
toà đại sứ Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Hoa địa ngục, khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy vực[1], Quê hương tù ngục[2], v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa địa ngục do tác giả chọn.
Hoa địa ngục hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của
các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa bao giờ
được đánh giá đúng mức khi ông còn sống.
Bởi nhiều lý do, nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng người
Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả thiên cộng không chấp nhận
những câu thơ chạm đến "bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu, phần
đông không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ cực hữu, sử dụng ông
như một vũ khí, một viên đạn trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp
thơ ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối cùng chỉ còn lại một
số ít người trung thành với thi ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt
hành trình lâm nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ ông
trong im lặng.
Những thành kiến cả yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch
kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này đã tạo ra cliché
một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực đoan, quá khích, đi ra ngoài thế
giới thi ca Nguyễn Chí Thiện.
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đã thở thành sự thật.
Năm 1960, ở tuổi 21, vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án hai năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.
Năm 1966, bị tình nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11 năm, 1977 được thả.
Năm 1979 đến toà đại sứ Anh gửi hay "ném" tập thơ Hoa địa ngục, bị bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.
Trước sau tổng cộng 27 năm.Ngày 28/10/1991, Nguyễn Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự thành thật đã qua đời dưới một thế quyền mà sự giả trá đã trở thành quốc sách.
Sự thành thật nguyên thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm
cho người nghe, người đọc trong các xã hội "tân tiến" phải ngạc nhiên
vì chất men "quê mùa" còn sót lại trong con "người rừng" đã trải gần ba
mươi năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới "văn minh", Nguyễn
Chí Thiện là người tiền sử.
Làm thơ khi bắt gặp một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh lòng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể chuyện bằng thơ. Thơ ông gần với lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục.
Hoa địa ngục là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời trong xã hội cộng sản.
Người ta trách thơ ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có
nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? Còn kịp nghĩ đến việc
gọt giũa một chữ đẹp cho thơ? Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng,
ghi lại những đớn đau gào thét trong thịt da tâm não.
Bản thảo Hoa địa ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề
năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi người sắp xếp
theo một lối, hầu như vô trật tự, không theo thời gian, mà cũng không
theo chủ đề, các bản in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm
gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài.
Lối in vội này, in tất cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu
về dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở làm giảm giá trị
những bài thơ hay, nhụt chí người đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều.
Biết bao nhà thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ dở hoặc
những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần. Nguyễn Chí Thiện cũng không
ngoại lệ.
Vậy điểm đầu tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ nhà
xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập lại; rồi xếp theo chủ
đề, hoặc theo thứ tự thời gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí
Thiện: Thân phận con người trong xã hội toàn trị.
Nguyễn Chí Thiện là nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy
kiểm soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân đến tư tưởng. Hoa địa ngục vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình sống.Hoa địa ngục
là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc
sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc.
Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù
nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới
có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.
Hoa địa ngục là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn
đầy hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà bình, độc lập, sau
chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng sáng tác bài Mắt em, thơ tình, có lẽ là bài thơ đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái "thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu rung động trước đôi mắt thuyền[3]. Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong tình yêu thứ nhất:
Mắt em mềm mại con đò
Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu
Mắt em trong mát giòng sâu
Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một vườn hoa
Vắng anh, thắm nở chói loà sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957)
Người thanh niên 18 tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn còn mộng đôi mắt thuyền của Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài các "đóng nghiêm" trong khung cửa của Thâm Tâm TTKH.
Một năm sau, 1958, thơ đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau
bốn năm "giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội bây giờ nằm im, lo
sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn:
Quanh hồ liễu rủ
Giữa hồ tháp đứng âm u
Đền Ngọc Sơn không hương khói lạnh lùng
Cầu Thê Húc nằm nghe lá rụng...
Đâu những bác thầy tầu, thầy cúng
Những bà già đi lễ năm xưa?
Cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùa
Lẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958)
Lại một năm nữa trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ.
Cái sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá. Không khí âm u vượt
biên Hà Nội, trải rộng, trải dài, lan tới núi rừng, tới thượng du, tới
những bản xa nơi địa đầu hoang dã:
Vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếu
Rừng ngả dần mầu hiểm bí, âm u
Gió đìu hiu thoang thoảng lạnh hơi chiều
Sương ẩm ướt bắt đầu rơi phủ
Trong lặng vắng vút ngân dài tiếng hú
Vài cánh chim lạc lõng vội bay về
Lời tối tăm vang dậy bốn bề
Tiếng ếch nhái côn trùng trong cỏ nước
Người lữ khách giật mình chân rảo bước
Bàn mường xa có kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959)
Nhưng 1959 cũng là năm người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn
xã hội, nhìn con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được thực dân
Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ búa liềm, liệm dần cuộc đời thực
tại trong bốn bức tường độc tài của một người, một đảng.
Nguyễn Chí Thiện bắt đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một
người mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng thời cũng là ý
thức của chính mình, lần đầu tiên tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm sau
những bức bình phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo:
Tôi thường đi qua phố
Có anh chàng mù, mắt như hai cái lỗ
Kính chẳng đeo, mồm thời xệch méo
Ngậm vào tiêu, cổ nổi gân lên
Dốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rên
Mấy bài hát lăng nhăng ca ngợi Đảng
Đã mang lại ấm no và ánh sáng!
Một buổi sớm anh như choáng váng
Gục xuống đường, tiêu rớt sang bên
Tôi vội vàng chạy lại đỡ anh lên
Anh chỉ khẽ rên: Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959)
Năm 1959 đối với Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức.
Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ chính anh, mang tâm thức
anh từ vùng tối ra vùng sáng. Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ
nay, anh sẽ thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến hết tuổi
trẻ.
Năm 1960, lại một bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện
nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử cho lớp học bổ túc văn
hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa
viết Nhật đầu hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn
Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ hai quả bom nguyên
tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì đến chính trị Việt Nam, thế mà anh
bị đưa ra toà, lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền". Người con
trai 20 tuổi, bị giam vì trót dậy học trò sự thực, chưa tiên đoán được
những gì sẽ đến trong tương lai:
Nửa đời thân thế long đong
Nhà thương tù ngục xoay vòng tuổi xuân
Một năm thổ huyết hai lần
Mười năm cấm cố tiêu dần thịt da
Rừng hoang biên giới mưa sa
Hoẵng kêu nấc gịong xa xa trên ngàn
Chăn đơn khôn ấm nỗi hàn
Co lên đất tấm thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974)
1961, nẩy sinh một Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã thôi lãng mạn, đã từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh:
Có những chiều mưa buồn lạnh cóng
Giữa bùn trơn tê tím xương da
Chống cuốc nhìn rừng núi bao la
Trong bụi nước mờ mờ lẩn bóng...
Có những chiều mặt trời như lửa bỏng
Giọt mồ hôi mờ xót con ngươi
Đặt gánh phân nhìn bốn phía đất trời
Rừng núi đứng im lìm trong nắng loáCó những chiều thịt gân rời rã
... (Có những chiều, 1961)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ nhân chứng
Từ đây, Nguyễn Chí Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ
Phủ của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản. Tia mắt ánh xanh
lạ lùng ở một người châu Á ấy đã quắc lên.
Ở tuổi 23, ông viết bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người
thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về trước, nay đã có sự đổi
thay toàn diện từ lực tâm đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt,
vung lên:
Chúng tôi sống giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong mấy dẫy nhà tranh
Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp sống của con người
Của trâu, chó? So làm sao, quá khó!
Làm kiệt lực, nếu không giây trói đó
Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy cứ coi chừng
Xà lim tối, chân cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền miên đói khát
Đánh liều xơi tất cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng
Chưa có một thứ gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang
Đảng cất giấu dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn vừa khốn nạn, gian ngoa
Biết bao người chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả những loài bọ rết
Vì thuốc men, trò bịp khôi hài
Chế độ tù bóc lột một không hai
Biết bao cảnh, bao tình quằn quại
Có những kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y tế dữ hơn phòng mật thám!
Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma
...
Có những buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công an lục soát toàn thân
Thu đốt cả vật tối cần- miếng dẻ!
Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên đường cụ hứa như thế kia a?
... (Chúng tôi sống, 1962)
Chúng tôi sống, 1962, là một bản cáo trạng, một bản hùng văn,
một bức tranh cô đọng và chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù
nhân chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết, chưa bao giờ được
công bố.
Chúng tôi sống làbức tranh hiện thực rỏ máu. Sự thật này, năm
1962 không ai tin được, bởi mọi người còn chưa hết say chiến thắng Điện
Biên, còn đang hướng về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn
"phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải 40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này thành tiểu thuyết.
Nguyễn Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì vậy mà ông đã
không được đánh giá đúng mức, bởi trong số những người ca tụng Bùi Ngọc
Tấn sau này, rất nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí Thiện.
Chúng tôi sống nói lên sức sống mãnh liệt của người thanh niên
tên Chí Thiện, hiểu tại sao có sự trở mình của một ngòi bút bẩm sinh
vốn nhu mì, nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao một
thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại sau 27 năm tù.
Trong số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện rõ nét,
bởi anh là một nhà thơ, dám nghĩ, dám ghi lại ngoại cảnh và tâm cảnh
của mình. Anh bắt đầu đầu đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân
phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung:
Trời u ám, cây hay là xương xám?
Mây đục mờ, hay vải liệm mầu tang?
Gió đìu hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?
Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ ngước trông non nước mịt mù
Và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (Trời u ám, 1962)
Kể từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai trò nhân chứng
của mình. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi lại trong đầu từng cảnh sắc, từng
hình ảnh, từng chi tiết nhỏ nhoi:
Đêm rừng, rả rích mưa, phòng dột
Ôm gối ngồi run lạnh nhìn nhau
Chấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu
Thùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt
Đêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm rừng rả rích, 1962)
Mỗi trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài thơ khủng
khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp người kinh hoàng đến thế:
Trời mưa tầm tã đêm qua
Sáng nay lạc rỡ còn pha trộn bùn
Sá gì bệnh sán, bệnh giun!
Dịp may hiếm có, tùn tùn nuốt nhai
Tôi nghe rào rạo bên tai
Một nhân lạc phải trộn hai nhân bùn (Trời mưa tầm tã, 1962)
Cái đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa, không còn trọn
khối nữa, mà nó đã hoá thân, hóa chất, nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn nuốt nhai, rào rạo bên tai, một nhân lạc trộn hai nhân bùn. Nó đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ chậm mà chắc.
Vẫn chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến khác: nó dẫn
đến sự trừng trị, nó là cái cớ để cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với
quả:
Toán tôi rỡ lạc ngoài đồng
Có ông quản giáo ngồi trông đàng hoàng
Thừa cơ quản giáo trông ngang
Một anh tranh thủ vội vàng nuốt nhai
Vài nhân lạc cả vỏ ngoài
Quả tang! Báng súng nện hoài không thôi!
Mồm anh toé máu, vều môi. (Toán tôi rỡ lạc, 1963)
Chưa có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói vừa bị đánh.
Nhưng sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài, càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt hệ thần kinh người đọc.
Thơ Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời, cũng không cao
siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ bình thường, thậm chí tầm thường
nữa, nhưng chúng làm ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn trong
những con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất ngờ.
Cũng năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ lãng mạn
pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên ngôi, người thanh niên 24 tuổi,
sau ba năm tù tội, đã nghiền tan cái lãng mạng của thời mình trong những
dòng thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm mình mẩy, những vần thơ run
sợ thất thần trên đường lên máy chém:
Khi ta tới mặt trời đã nguội
Gió mùa thu trở gió may cào
Những mầm non khô cứng tế bào
Mau thay sắc mang mầu xanh rớt
Và mặt đất hoá thành mặt thớt
Và con người con cá thiu ươn
Khắp nơi nơi nhung nhúc loài lươn
Loài giun đất không quằn khi dẫm
Tình mộng đã vùi chôn một nấm
Hận thù trơ trọi sống mồ côi
Những vần thơ lãng mạn câm rồi
Còn rỏ xuống một dòng đỏ sẫm (Khi ta tới, 1963)
Những vần thơ lãng mạn câm rồi -chính là thơ bị trảm tấu, thơ
bị tử hình- là đỉnh cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc
dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ thần kinh, rút dần
xương tuỷ:
Mầu thời gian đã chuyển về sắc xám
Vị thời gian đã ngả tới mùi thiu
Nửa trang đời dập, xoá, tẩy còn lưu
Và còn đó nửa trang dài lạnh trắng...
Tim trúng độc hóa ra bầu mật đắng
Hệ thần kinh một mớ chỉ xù lông
Nửa trang đời không một chữ nào trông
Thành nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng...
...
Dông gió hết bơ phờ trong quạnh vắng
Cảnh hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu
Nửa trang đời thâm tím với bầm biêu
Lòng dột nát, nửa trang đành bỏ trắng? (Mầu thời gian, 1963)
Đã xa rồi cái buổi "mầu thời gian xanh xanh" của Đoàn Phú Tứ.
Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám, nó đã ngả mùi thiu, nó là
trái tim trúng đạn, nó là hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa
trang đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đã chết... nó là mầu tuyệt vọng
của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng của thời gian, là sự hấp hối của
một người em tập kết:
Những manh áo vảiTả tơi
Vật vã
Vào thịt da...
Em có lạnh lắm không?
Mưa gió mênh mông
Thung lũng sũng nước bùn
Bệnh xá mối đùn, ẩm mốc
Những khuôn mặt xanh vàng gầy rộc
Nhìn nhau, đờ đẫn không lời
Nhát nhát em ho
Từng miếng phổi tung rời
Bọt sùi, đỏ thắm!
Em chắc oán đời em nhiều lắm
Oán con tầu tập kết Ba Lan
Trên sóng năm nào
Đảo chao
Đưa em rời miền Nam chói nắng...
...
Sáng nay em không trống không kèn
Giã từ cuộc sống
Xác em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh gặp em, 1965)
Toàn bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa tử trong trận đồ bát quái không tìm được lối ra. Bên cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu:
Trông trâu mà khiếp cho trâu
Lở loang, tanh loét, sắc mầu nhở nham
Lệnh ban giám thị nhà giam
Mừng ngày quốc khánh cho làm thịt ăn
Tù nhân tính toán băn khoăn
Bốn mươi cân thịt, người ăn một nghìn! (Trông trâu mà, 1967)
Trong bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi người tù được hưởng 40g thịt trâu
chết bệnh. Chưa có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến
vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh loét; bên cạnh một
nghìn xác tù hom hem; bên cạnh bữa tiệc quốc khánh quái đản, lại là một
chân dung người:
Bác nằm liền sát cầu tiêu
Mùi phân nước giải sớm chiều nồng hôi
Bác ơi, bác sắp chết rồi
Bác không còn sức để ngồi được lên
Bác nằm thoi thóp khẽ rên
Bát cơm ngô, bát rau dền đặt bên
Bác thèm một miếng đường phèn
Nhà giam Cộng sản bác quên bác tù
Trưa nay cái chết lù lù
Tới khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu! (Ốm đau không thuốc, 1968)
Cuối cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Người
hấp hối và thần chết trò chuyện với nhau trong không gian âm dương giao
kết, buốt lạnh:
Nhìn thần chết hiện lên dần từng bước
Thân tù cao không có lực xô lùi
Anh chết oan, chết thảm, chết dập vùi
Hồn khổ não không thể nào siêu thoát
Đêm đêm hiện về đây lạnh toát
Bộ đồ đen, bụng phù trướng, bước đi
Anh ngước nhìn tôi, ra hiệu, chẳng nói gì
Mặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc
...
Thế đủ rồi, tôi hiểu, hãy nên lui
Thể xác anh chuột khoét đã chôn vùi
Hồn anh hãy về vui nơi cực lạc
Lưu luyến chi đời tù lao đói rạc
Sống đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâu
Chết như anh, hết khổ có chi sầu
... (Nhìn thần chết, 1968)
Trong nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế, bức nọ
để cạnh bức kia, thành cuộc triển lãm một quần hội nửa người, nửa thú,
đang sống mà đã chết. Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân
chia giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại biên, trên sông
lú, người và vật cùng bị giam trong một không gian kín, chết sống giao
thoa. Cái đói là bát cháo lú khiến người tù quên mình khi trước đã từng
là một con người:
Suất cơm tôi một hôm đánh đổ
Tôi còn đương đau khổ nhìn theo
Thì nhanh như một đàn heo
Bốn, năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau
Bốc ăn một lúc sạch làu
Miếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau! (Suất cơm tôi, 1966)
Trên bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn tại như một vong hồn:
Tôi đương sống, nhưng từ lâu đã chết
Chết trong tim, trong óc, chết tâm hồn
Cố đào lên bao thứ sớm vùi chôn
Song chúng đã xông mùi, tan rữa hết (Đoản thơ, 2)
Kẻ nhận định thơ mình đúng nhất cũng lại là tác giả. Mười năm sau khi
vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện "nhận định" thơ mình:
Thơ của tôi không phải là thơ
Mà là tiếng cuộc đời nức nở
Tiếng của nhà giam ngòm đen khép mở
Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ
Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ
Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ
Tiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sở
Tiếng dạ dầy đói lả bóp bâng quơ
Tiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơ
Tiếng bất lực trước muôn ngàn xụp lở
Toàn tiếng của cuộc đời sống dở
Và chết thời cũng dở, phải đâu thơ! (Thơ của tôi, 1970)
Năm năm sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nhì định nghiã thơ mình, khốc liệt hơn:
Thơ của tôi không có gì là đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao
Thơ của tôi không có gì cao
Như chết chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng
Nó thực như tù, như đói, như đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ (Thơ của tôi, 1975)
Không còn gì để bàn trước những lời thơ như thế. Quá khích ư? Đúng là
quá khích. Nhưng có gì quá khích hơn bị tù vì tội nói thực? Có gì quá
khích hơn sự đọa đầy đến chết vì tư tưởng? Không có gì để khen chê trước
những lời thơ như thế. Không có gì liên quan tới nghệ thuật trước những
lời thơ như thế. Không có gì hàm súc, không có gì ngụ ẩn trong những
lời thơ như thế. Phê bình đành chịu. Phê bình đành gác bút. Có lần J.P.
Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn nôn của tôi không
có nghiã lý gì. Chúng ta bảo: trước những dòng thơ tù như thế, mọi khen
chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiã. Phê bình đành á khẩu.
Trước mắt tôi, mặt trời hấp hối
Sau lưng tôi, bóng tối mịt mùng
Bên phải tôi, tù ngục chập chùng
Còn bên trái, súng nhằm tim chắn lối! (Đoản thơ, 152)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ trào phúng
Nhưng thơ Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có đớn đau
và xác chết, ông còn có những bài thơ trào phúng vẽ chân dung lãnh tụ
rất có duyên:
- Về bác Mao:
Bác Mao cân nặng tạ hai
Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm
Người dân Trung Quốc thì thầm:
"Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản thơ, 126)
- Về bác Hồ:
Bác Hồ rồi lại bác Tôn!
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác mầu hồng
Nước da các cháu nhi đồng mầu xanh... (Bác Hồ rồi lại)
- Lại về bác Hồ:
Bác Hồ tới thăm thiếu nhi
Bác cười bác hỏi chi li ngọn ngành
Việc ăn ở, việc học hành
Lao động bác dặn chấp hành tốt, nhanh
Kẹo bánh bác hứa để dành
Chủ nghiã xã hội hoàn thành sẽ cho!
Thiếu nhi khăn đỏ cổ cò
Vỗ tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác Hồ tới thăm, 1967)
- Về học thuyết Mác:
Học thuyết Mác, này đây sọt rác
Xét lại làm gì, tốt nhất vất nó đi
Sử sách sau này đỡ mất công ghi
Thêm quá nhiều trang xám xì tội ác (Đoản thơ, 169)
- Về thiên đường Mác:
Thiên đường cụ Mác dân mơ
Tỉnh ra tài sản bị vơ nhẵn rồi
Chỉ còn lại chút mồ hôi
Đổ ra vì sợ, vì nuôi Đảng rồ! (Đoản thơ, 180)
Vẽ chân dung các đại lãnh tụ như thế không phải dễ. Đó là lối thơ dân
gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ hóm hỉnh. Tính chất hóm này những
ai đã từng nghe Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái
bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về một lối thoát, dù
rất bé, về phiá mặt trời: ông là người của niềm vui, của lạc quan. Ông
thích cười nhưng cuộc đời đã làm môi ông chụm lại che kín hàm răng.
Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi, nhạo báng, thách thức,
chơi khăm, những thế quyền, những bạo lực.
Bị tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết vì tuyệt vọng.
Bên cạnh tiếng cười, thơ ông là một cõi mênh mông lệ, cõi nước mắt trong vắt như thủy tinh:
Trong muôn dòng trái đất tuôn đi
Dòng trong nhất là dòng nước mắt (Lệ, 1971)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ thời thế
Trong tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không gian
cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân, mùa hy vọng cũng chịu
cực hình như người tù phạm:
Bốn bức rào nứa
Cứa vào mùa xuân
Một cách bất nhân
Mùa xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48)
Không gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời tiết của
đất nước. Nhưng người tù không được biết gì về thời thế, về chiến tranh,
về tình cảnh dân tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải
xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù cảm nhận thời thế gián
tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ. Khi đất nước bị suy vong, khi con người
bị trấn áp, cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như một lời
cảnh giác:
Đêm bão giật, lửa loè muôn tiếng sét
Nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm
Nước từ trời cao đổ xuống ầm ầm
Cả rừng núi lồng lên gầm quát thét (Đoản thơ, 95)
Trước cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí Thiện đã hiểu
tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính mình, người mình, về chuyện nước
non tan tác:
Giận thân rồi lại giận đời
Giận thời chuyên chính, giận người hèn ngu
Giận trời, giận đất âm u
Giận sông, giận núi quân thù dọc ngang (Đoản thơ, 140)
Nguyễn Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh,
nhưng chắc ông đã hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những câu thơ sau đây đánh
dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một
mối cộng sản:
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn (Vì ấu trĩ, 1975)
Và trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ý định lật đổ
định mệnh của mình và của dân tộc. Ý chí sắt đá ấy toát thành những lời
thơ vũ bão, đặc dị, khác thường:
Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử (Trong bóng đêm, 1976)
Sau này, khi chế độ toàn trị chỉ còn là quá khứ, những Nguyễn Hữu
Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc
Tấn... sẽ trở thành chứng nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực
tiếp, thành thực về vùng đồng lầy, viết bằng những từ trần trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX:
Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thầy, phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềng
Hoạ, phúc toàn quyền của đảng (Đồng lầy, 1972)
Không ai kêu nổi một lời
Mồm dân Đảng khoá đã mười mấy năm (Gửi Bertrand Russell, 1968)
Lời thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự thật.
Bài Đồng lầy là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện đã sống, một cõi đồng lầy
với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch nhái lên làm chủ
và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cõi mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà
thơ lại phải quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm trong ám
khí đồng lầy:
Trời cao biển rộng có cũng như không!
Một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi nhơn nhơn từng đàn vang động
Những con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng!
Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy lau còm cõi đứng chen
Hơi có gió là cúi đầu rạp hết
Bát ngát xung quanh một mầu khô chết (Đồng lầy)
Cả đoạn thơ trên bị một tiếng quạ đêm rỏ xuống đồng làm tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ thần tình, chua xót, một chữ rỏ xác định phong cách thơ.
Đồng lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc đời Nguyễn Chí Thiện, từ
tuổi hai mươi, đầy tin tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa
thu:
"Mơ ước
Đợi chờ
Vĩ đại...
Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ,
Tô thắm mầu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng (Đồng lầy)
Lời thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang sắc hiện đại của Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt.
Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm hơn các bậc đàn
anh, vì ông ra đời sau, và cũng chấm dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi
ông đã nhìn thấy trước sự thật: Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường- kéo theo một chuỗi dài rùng rợn:
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng
Lời thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.
Thơ mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản cách mạng.
Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách mạng mùa thu. Ông đã nhận ra trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du nhập chính sách đấu tranh giai cấp (của Mác, qua lăng kính Mao, vào đất Việt) là một dòng lũ, bùn, cuốn trôi tổ quốc:
Một mùa thu nước lũ
Trở thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp sóng hồng man dại
Chìm trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ, mồ hôi, rớt rãi
Đi về ai nhận ra ai!
Khiếp sợ, sững sờ, tê dại!
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy)
Chỉ có Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như
thế. Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960. Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm
1970 gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. Tình cờ chăng? Phùng
và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?
Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác
Đảng lùa đi, tan tác, thương vong
Mái ngói, mái gianh, lệ thảm ròng ròng
Nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Đảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng
Dân đen tay trắng cam đành
Từ núi rừng hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Mầu áo vàng cảnh sát
Tràn lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!
Cuộc sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh
Bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại
Cái cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng lầy, 1972)
Đồng lầy là một bài thơ thời thế, bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng sản và kết án chiến tranh. Đồng lầy cũng là một bài diễn ca trong phong cách Hà Thành chính khí ca, Đại Nam quốc sử diễn ca...
Sau này, khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh giá bản
trường ca này một cách công bình hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ là một bài
thơ cần phải đọc để tìm hiểu thời đại này.
Bài Con tầu rêu, là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư tưởng.
Dùng Con tầu rêu Nguyễn Chí Thiện muốn mượn hình ảnh con tầu say (bateau ivre) của Rimbaud, để chỉ những con tầu tự do, hay sự tự do của chính mình. Thơ buồn bã như một lời tâm sự:
Con tầu say như ních chật không gian
Giữa mùa điên không biết lực điêu tàn
Xô vỡ vụn nơi ngời băng tuyết loá
Trong trắng xoá những ngày mưa tầm tã
Con tầu đau vật vã trước bờ xanh
Phiá mờ xa thôn xóm đứng yên lành
Thân tầu đã tan tành trên mũi đá.
Cay đắng quá những bến nghèo tàn tạ
Đón trông tầu lui tới, đứng buồn thiu
Khi tầu tôi men đến cũng dập dìu
Gây sóng gió đắm dìm cho nhục nhã
Ôi tiếp tới nước triều dâng vật vã
Con tầu run chưa tiến đã chờn lui
Đành một mai nơi đáy nước rêu vùi
Làm chỗ ở cho tôm, sò, ốc, cá
Tôi đã biết những đêm dài dòng dã
Con tầu câm trôi giữa đám trăng sao
Biết dừng đâu, không bóng hải cảng nào
Ra tín hiệu đón con tầu buồn bã
Tôi đã biết những bình minh đói lả
Biến sang mầu loang tím của chiều hoang
Con tầu đi, sức kiệt, lệ dòng hàng
Thương xót những mảnh tầu trôi vạn ngả... (Con tầu rêu, 1965)
Niềm tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự do đã dấy lên rất sớm, từ thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.
Con tầu tự do trong tim người tù trẻ phóng đi tìm một bến bờ,
tìm sự đồng thanh tương ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một mình.
Nó đã mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến cả các bến
nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng dìm cho tầu chìm, dường như trên
mảnh đất này, tự do là yếu tố đã bị yểm, bị mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm, người ta không cần dùng đến.
Tất cả những đắng cay của con tầu rêu, chìm dưới đáy biển, vận vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa địa ngục.
Không ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiã đúng thơ ông
bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi chép lại như lời kết của chính
tác giả về đời mình, về tự do và về thân phận dân tộc:
Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Toàn bộ thơ tôi nặng nề cay cực
Không một sắc mầu mang khí lực xanh tươi
Vần điệu nghe như quỷ khóc ma cười
Do sáng tạo tận cùng sâu đáy vực (Đoản thơ, 112, 113)
Nguyễn Chí Thiện đã chết. Một cái chết đột ngột, không ai ngờ, trừ
"tác giả". Một cái chết nhanh, trần trụi, phanh phui sự thực như thơ
ông: Cái chết đứng của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé
phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá, trong một ngoại hình
gần như vô bệnh.
Cái chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến dịch "Nguyễn
Chí Thiện thật giả, giả thật" nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong vòng nhiều
năm, dường muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn ác không
kém gì 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống dưới xã hội tự do, những kẻ
tạm gọi là "đồng hội, đồng thuyền".Khi Hồ Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa đánh, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử".
Đấy là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, còn trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng?
Sự lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người. Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng lựa chọn tiếng nào hữu tình, hữu lý; tiếng nào phản, ngụy, trắc, gian.
Trong muôn ngàn tiếng muốn tìm ra
Tiếng nào thiết tha
Tiếng nào trung thực
Hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực (Đoản thơ, 114)
Chúc thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát, tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống dài, sống mãi:
Song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sống
Âm thầm đưa tư tưởng sang sông
Qua muôn trùng hệ thống xiềng gông
Đang ra sức dựng thay cầu cống
Thoát khỏi đầu là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971)
Thụy Khuê
Paris tháng 6-8/2013
[1] DoỦy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in tại Washington DC, 1980.
[2] Do Phong trào thanh niên hành động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.
[3] Mắt thuyền: chữ của Lưu Trọng Lư.
VIỆT NAM LỊCH SỬ VÀ XÃ HỘI
Việt Nam: Người dân ở Hòa Bình bắt trói 6 cán bộ để phản đối về môi trường
Tấm ảnh lưu truyền trên mạng ngày 10/10/2013 cho thấy cảnh công an bị dân bắt trói ở Hòa Bình.
DR
Từ hôm qua 10/10/2013 cư dân mạng Việt Nam đã xôn xao vì một
tấm ảnh chụp một số công an viên mặc sắc phục bị người dân bắt trói ở
tỉnh Hòa Bình, mà nhiều người cho là ngụy tạo. Nhưng sau đó Bộ Công an
đã xác nhận việc này, và theo báo chí trong nước, thì nguyên do ban đầu
là vì người dân phản đối đào đãi vàng trái phép trên sông Bôi.
Vụ này xảy ra vào tối 8/10 tại thôn Bôi Câu, xã Kim Bôi, huyện
Kim Bôi tỉnh Hòa Bình, khi nhiều người dân xông vào bắt trói sáu cán bộ,
trong đó có ba cảnh sát môi trường, ba công an huyện và một cán bộ
Phòng Tài nguyên Môi trường huyện.
Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại viễn liên, ông Bùi Đức Thanh, Chánh văn phòng Ủy ban huyện Kim Bôi giải thích sự việc:
Trên dòng sông Bôi có rất nhiều bãi cát sỏi, nhưng muốn khai thác thì phải xin phép chính quyền. Có một số công ty vào khai thác cát sỏi trên dòng sông Bôi - nơi đây có vàng trôi nổi, vàng nhẹ thôi – thì các công ty đó đặt máng tuyển khai thác để tận thu lấy vàng luôn, còn cát sỏi để làm đường giao thông nông thôn, tức là đổ bê tông mặt đường.
Một số người dân thấy khai thác cát sỏi trái phép thì họ ra bắt, thu giữ máy, và định bắt cả chính quyền của thôn đó. Nhưng sau đó được tin như vậy thì công an và các lực lượng khác xuống nắm tình hình để giải quyết. Thế là một số phần tử quá khích ban đêm đã có uống rượu, bắt giữ cả công an huyện. Sau khi được thuyết phục thì họ đã thả công an ra.
Ngày hôm sau, Ủy ban nhân dân huyện đã họp dân để nghe những kiến nghị của dân. Tổ công tác của huyện hiện nay đang xác minh làm rõ những vấn đề của dân đang kiến nghị với chính quyền.
Cụ thể, một số việc cần làm rõ là ai cho phép khai thác khoáng sản ? Những vi phạm cần phải bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Đối với những người quá khích có vi phạm thì phải xử lý theo đúng các quy định của pháp luật hiện nay.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131011-viet-nam-nguoi-dan-o-hoa-binh-bat-troi-6-can-bo-de-phan-doi-ve-moi-truong
Trên dòng sông Bôi có rất nhiều bãi cát sỏi, nhưng muốn khai thác thì phải xin phép chính quyền. Có một số công ty vào khai thác cát sỏi trên dòng sông Bôi - nơi đây có vàng trôi nổi, vàng nhẹ thôi – thì các công ty đó đặt máng tuyển khai thác để tận thu lấy vàng luôn, còn cát sỏi để làm đường giao thông nông thôn, tức là đổ bê tông mặt đường.
Một số người dân thấy khai thác cát sỏi trái phép thì họ ra bắt, thu giữ máy, và định bắt cả chính quyền của thôn đó. Nhưng sau đó được tin như vậy thì công an và các lực lượng khác xuống nắm tình hình để giải quyết. Thế là một số phần tử quá khích ban đêm đã có uống rượu, bắt giữ cả công an huyện. Sau khi được thuyết phục thì họ đã thả công an ra.
Ngày hôm sau, Ủy ban nhân dân huyện đã họp dân để nghe những kiến nghị của dân. Tổ công tác của huyện hiện nay đang xác minh làm rõ những vấn đề của dân đang kiến nghị với chính quyền.
Cụ thể, một số việc cần làm rõ là ai cho phép khai thác khoáng sản ? Những vi phạm cần phải bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Đối với những người quá khích có vi phạm thì phải xử lý theo đúng các quy định của pháp luật hiện nay.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131011-viet-nam-nguoi-dan-o-hoa-binh-bat-troi-6-can-bo-de-phan-doi-ve-moi-truong
Paris chuẩn bị triển lãm « Một thế kỷ Pháp tại Đông Dương »
(musee-armee.fr)
Cuộc triển lãm quy mô mang tên « Đông Dương, miền đất và con người 1856-1956
» sẽ được khai mạc vào thứ Tư 16/10/2013 và kéo dài đến 26/01/2014 tại
Bảo tàng Quân đội ở Paris. Một trăm năm lịch sử hiện diện của Pháp tại
Đông Dương được vẽ lại ở đây, từ những sĩ quan hải quân đầu tiên ngược
dòng sông Mêkông vào giữa thế kỷ 19, cho đến sự kiện Điện Biên Phủ thất
thủ.
Gần 400 hiện vật, từ trang phục, bản rập, tài liệu lưu trữ,
phim, vũ khí…được đưa về từ Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Quai Branly và
kho lưu trữ của lãnh thổ hải ngoại Pháp, trưng bày trên diện tích 600
m2, làm sống lại thời kỳ Pháp đô hộ Đông Dương.
Triển lãm giới thiệu hình ảnh không chỉ những người lính và sĩ quan
viễn chinh, các nhà dân tộc học, địa lý học Pháp, mà cả các chiến binh
Đông Dương chiến đấu chống lại quân Pháp, và những người lính Việt Minh
cuối cùng đã đè bẹp lực lượng Pháp vào tháng 5/1954 trong trận đánh Điện
Biên Phủ.
Tướng Christian Baptiste, giám đốc Bảo tàng Quân đội nhấn mạnh : « Bảo
tàng không muốn đóng vai trò luật sư hay công tố, mà chỉ trình bày tất
cả, với phương pháp giải thích và minh họa một cách khoa học » về những thời kỳ đôi khi khủng khiếp của lịch sử thuộc địa.
Ban đầu, chính phủ Pháp muốn đặt chân vào châu Á để mở ra thị trường
Trung Hoa, chống lại ảnh hưởng của Anh. Hai bộ triều phục lộng lẫy bằng
lụa thêu của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương tượng trưng cho cuộc kháng chiến
của người dân Việt trước cuộc xâm lăng của Pháp. Lúc đầu còn do dự,
nhưng sau Hoàng đế Napoléon đệ tam đã xuôi theo ý định chiếm đóng thuộc
địa.
Những tấm bản đồ đầu tiên của thung lũng Mêkông và các vùng biên minh
họa nhiều thập kỷ hiện diện. Sau quân đội, đến lượt các nhà truyền giáo
và công chức, phụ trách quản lý và khai thác mảnh đất thuộc địa. Những
bộ quân phục và vũ khí nhắc nhở rằng hàng chục ngàn tay súng Đông Dương
đã chiến đấu tại Pháp và châu Âu trong hai cuộc đại chiến thế giới.
Christophe Bertrand, một trong những người chịu trách nhiệm triển lãm nhận xét : « Sau năm 1945, chiến tranh Đông Dương không còn là một cuộc chiến thuộc địa cổ điển, mà trong khuôn khổ chiến tranh lạnh ».
Tại Pháp, người ta nói về một cuộc « chiến tranh bẩn thỉu ».
Một tấm áp-phích của đảng Cộng sản Pháp vào thời đó, được chưng trong
gian cuối triển lãm, kêu gọi chấm dứt tình trạng thù địch : « Đã quá đủ tang tóc, đã quá nhiều tiền bạc bị lãng phí ».Cuộc phiêu lưu trở thành thảm họa đối với mấy ngàn người lính Pháp sống sót sau trận Điện Biên Phủ. Những dạng hình ốm đói nằm dài trên những chiếc băng-ca, được ghi lại trong những thước phim lưu trữ của quân đội và vài chục tấm ảnh minh chứng cho giai đoạn này.
Ở gian cuối triển lãm, một bức ảnh đen trắng khổ thật to nhắc lại rằng hồi kết của cuộc chiến Đông Dương đánh dấu sự khởi đầu của chiến tranh Việt Nam, những người lính Mỹ thay chân lính Pháp.
Cuộc triển lãm của Bảo tàng Quân đội mở đầu cho « Mùa Đông Dương », có sự tham gia của Bảo tàng Guimet ở Paris và Bảo tàng Thập niên 30 ở Boulogne-Billancourt.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131012-paris-chuan-bi-trien-lam-%C2%AB-mot-the-ky-phap-tai-dong-duong-%C2%BB
Phỏng vấn đại sứ Pháp về hồi ký « La Marseillaise của Tướng Giáp »
« Bài La Marseillaise của Tướng Giáp », đó là tựa
cuốn hồi ký của ông Claude Blanchemaison về thời kỳ ông làm đại sứ Cộng
hòa Pháp tại Việt Nam, từ 1989 đến 1995. Cuốn sách ra mắt bạn đọc trong
những ngày tới. Vào đúng ngày Việt Nam tổ chức quốc tang cho Tướng Giáp,
RFI phỏng vấn cựu đại sứ Pháp.
- Chào ông Blanchemasion, ông đã từng là đại sứ Pháp tại
Việt Nam và là tác giả cuốn Hồi ký nói về Tướng Giáp, tựa đề « Bài La
Marsaillaise của tướng Giáp ». Ông viết là ông có ấn tượng mạnh trong
lần đầu gặp Tướng Giáp ? Phải chăng bởi vì đó là một nhân vật lịch sử
nổi tiếng, một nhà quân sự tài ba ?
Vâng đó là một nhân vật thần bí của thế kỷ XX và ông vừa mới qua đời
cách nay vài ngày. Riêng mình ông đã viết lên nhiều chương sử. Ông là
hiện thân cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất Việt Nam.
Tôi đến Việt Nam đảm nhiệm chức đại sứ Pháp vào tháng Ba 1989. Tướng
Giáp lúc đó là Phó Thủ tướng và tôi đã nhanh chóng gặp ông, bởi vì tôi
tới gặp các thành viên của chính phủ Việt Nam. Đúng là khi thấy tôi
tương đối xúc động, Tướng Giáp đã tìm cách làm cho tôi thoải mái. Ông
nói tiếng Pháp một cách hoàn hảo. Ông nói đến Victor Hugo, các nhà văn
cổ điển Pháp. Ông cũng tìm cách tỏ ra thân mật, dễ gần. Ông muốn thể
hiện tinh thần cởi mở. Đó là thời kỳ chính phủ Việt Nam tiến hành « đổi
mới », mở cửa về kinh tế. Ông mong muốn các doanh nghiệp Châu Âu, nhất
là Pháp, tới Việt Nam.
Có chứ, nhưng không phải trong lần gặp đầu tiên. Tôi đã gặp Tướng
Giáp nhiều lần trong 4 năm là đại sứ tại Việt Nam, bởi vì tôi đi cùng
với nhiều nhiều chính trị gia, nhà báo đến gặp ông. Và đúng là khi được
hỏi về trận Điện Biên Phủ, Tướng Giáp nói rằng, thực ra, kế hoạch quân
sự của Tướng Navarre tương đối tốt, bởi vì, kế hoạch này giống như con
nhím, có hỏa lực rất mạnh và nếu như đối phương mở các đợt tấn công ồ
ạt, liên tục, có phần nào theo như lời khuyên của một số cố vấn quân sự
Trung Quốc, như đã từng làm tại Triều Tiên, chắc chắn là đối phương sẽ
bị nghiền nát tại Điện Biên Phủ.
Thế nhưng, Tướng Giáp áp dụng một chiến thuật hơi khác một chút,
chiến thuật dùng giao thông hào, đường hầm để tiếp cận và đương nhiên,
kết hợp với việc dùng hỏa lực pháo binh. Việc sử dụng pháo binh gây ngạc
nhiên, vì ông đã thành công trong việc đưa các khẩu pháo, do Trung Quốc
sản xuất, lên các đỉnh núi vây quanh Điện Biên Phủ.
- Tướng Giáp được tôn kính tại Việt Nam và kẻ thù kính nể, vì đó
là một thiên tài quân sự. Nhưng sau sự nghiệp quân sự, Tướng Giáp chưa
bao giờ là chính trị gia hàng đầu tại Việt Nam. Tại sao lại như vậy ?
Ông đúng là một thiên tài quân sự và tôi xin nói thêm là Tướng Giáp
không hề theo học một trường đào tạo quân sự nào cả. Ông đọc rất nhiều,
biết rất rõ các chiến dịch quân sự của Napoléon mà ông gọi là Bonaparte.
Ông cũng đọc Clovis và đương nhiên là sách của các chiến lược gia Trung
Hoa. Ông biết rõ lịch sử quan hệ Trung-Việt.
Khi tôi gặp Tướng Giáp vào năm 1989, ông là Phó Thủ tướng phụ trách
khoa học kỹ thuật. Như vậy, ông có một vai trò lãnh đạo. Lúc đó, ông
không còn là ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1982, ông
không được bầu lại, nhưng ông vẫn là thành viên Chính phủ, giữ chức Phó
Thủ tướng cho đến cuối năm 1991. Như vậy, trong hai năm đầu nhiệm kỳ của
tôi, Tướng Giáp vẫn có vai trò chính trị, nhưng không phải trong nhóm
lãnh đạo cao nhất, không phải là ủy viên Bộ Chính trị.
Vậy tại sao ông không có vị trí cao hơn trong chính quyền ? Trước
hết, ông đã cao tuổi. Khi tôi gặp ông lần đầu, ông vẫn còn sắc sảo nhưng
đã 78 tuổi. Mặt khác, cũng có những phe phái khác nhau trong chính
quyền và phe mạnh hơn đã gạt ông ra khỏi trung tâm quyền lực.
- Nhưng phải chăng Tướng Giáp vẫn có một vai trò quan trọng, ở hậu trường, ông đã có một số chuyến công du nước ngoài để phục vụ chế độ ?
Đương nhiên, ông vẫn có vai trò quan trọng. Ông đã gặp rất nhiều khách quốc tế. Ngay cả sau này, khi tôi rời Việt Nam vào năm 1995, Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Năm 1995, Tướng Giáp đã tiếp McNamara. Ông này tới Việt Nam để thảo luận với Tướng Giáp một số chi tiết cụ thể trong lịch sử chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
- Sách của ông có tựa : Bài ca La Marseillaise của Tướng Giáp, phần nào có vẻ mang tính khiêu khích và gắn liền với một sự kiện xẩy ra ít lâu, sau khi ông đến làm đại sứ : Đó là lễ kỷ niệm 200 năm cuộc Cách mạng Pháp, 14/07/1989 ?
Đúng vậy, 14/07/1989. Đương nhiên, tất cả các sứ quán Pháp ở nước
ngoài đều tổ chức nhiều hoạt động để chào mừng ngày Quốc khánh và đặc
biệt là kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp.
Vài giờ trước khi tiếp khách tại sứ quán Pháp, tôi nhận được điện
thoại từ Bộ Ngoại giao Việt Nam cho tôi biết và làm tôi ngạc nhiên, là
Tướng Giáp – Phó Thủ tướng - đã quyết định đến dự lễ Quốc khánh. Đương
nhiên, ông được mời vì ông là thành viên Chính phủ. Ông đã tới sứ quán
vào khoảng sáu giờ tối, trên chiếc xe Volga mầu đen. Ông mặc dân sự. Đây
là điều không bình thường bởi vì người ta thường thấy ông trong bộ quân
phục. Ông cùng phu nhân đến sứ quán Pháp. Tôi đã tiếp Tướng Giáp trong
nhà riêng của đại sứ. Ông nói đến các nhà văn Pháp, hỏi mượn một vài
quyển sách. Ông cho biết là khó có được các sách mới. Thế rồi, chúng tôi
ra khu vườn của sứ quán, nơi có các khách mời khác, gần 2000 người,
dưới cái nóng của mùa hè.
Theo thông lệ, quốc ca hai nước nổi lên. Lúc đó, Tướng Giáp nói khẽ
với tôi là ông rất thích bài La Marsaillaise, vì đó là một bài ca cách
mạng. Sau đó, quả thực là tôi nghe thấy ông hát phần điệp khúc của bài
La Marseillaise. Đó là điều ngạc nhiên. http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131014-phong-van-dai-su-phap-cblanchemaison-ve-hoi-ky-%C2%AB-la-marseillaise-cua-tuong-giap-%C2%BB
Kinh nghiệm quy hoạch của Pháp trong dự án khu đô thị Thủ Thiêm
NEXT
Nghe
Thêm vào danh mục của tôi
Tải về
Embed
Dự án quy hoạch công viên bờ sông Thủ Thiêm
Deso
Vào cuối năm nay, cơ quan thương mại của Pháp Ubifrance, chuyên
trợ giúp cho các doanh nghiệp Pháp trong việc tìm kiếm khách hàng và
đối tác ở các nước, sẽ tổ chức một cuộc hội thảo chủ đề “ Các kiến trúc
sư Pháp ở Việt Nam”.
Với một dân số tiếp tục tăng đều đặn và với tốc độ đô thị hóa
nhanh chóng, Việt Nam đang có nhu cầu xây dựng rất lớn, với nhiều dự án
xây các khu nhà ở, trung tâm thương mại, bệnh viện, khách sạn, ... .
Việt Nam cũng là một quốc gia mang nhiều dấu ấn kiến trúc của Pháp và
hiện nay các kiến trúc sư Pháp cũng tham gia rất nhiều vào các công
trình lớn, như dự án tuyến đường sắt đô thị ở Hà Nội ( Tư vấn lập dự án
tuyến Nhổn - ga Hà Nội là công ty tư vấn Systra của Pháp ), hay khu đô
thị mới Thủ Thiêm ở Sài Gòn.Đặc biệt các kiến trúc sư Pháp mang lại cho Việt Nam những kinh nghiệm rất cần thiết về mặt kiến trúc và thiết kế đô thị mang tính bền vững, vốn vẫn được quốc tế đánh giá rất cao.
Một trong những công ty Pháp tham gia vào công trình khu đô thị mới Thủ Thiêm là công ty kiến trúc DeSo. Công ty này được thành lập năm 2005 và đã bắt đầu có mặt ở Việt Nam từ tháng 4 năm 2008. Đây cũng là thời điểm mà công ty tham dự và đoạt giải nhất cuộc thi Ý tưởng quy họach Quảng trường Trung tâm Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại công ty đang phối hợp với Ban Quản lý Thủ Thiêm và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm hoàn tất kế hoạch chi tiết xây dựng Quảng trường Trung tâm và Công viên bờ sông tại khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn kiến trúc sư Nguyễn Khánh Duy, trưởng văn phòng kiến trúc MSNk và cũng là một trong những cộng sự viên của công ty Deso:
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131014-kinh-nghiem-quy-hoach-cua-phap-trong-du-an-khu-do-thi-thu-thiem
Cuộc sống trong khu 'ổ chuột' ở Sài Gòn
Theo VnExpress - | 12/12/2012 10:59 Chia sẻ:
Việc làm không ổn định, cuộc sống cơ cực tồn tại nhiều năm nay khiến người dân sống ven sông ở quận 8, TP.HCM không biết đến bao giờ mới có thể thay đổi.
Những ngôi nhà tạm bợ tồn tại hàng chục năm nay. Phần lớn cư dân ở
đây là lao động nghèo, người không có hộ khẩu hoặc từ các vùng khác đến.
Chưa đến tuổi đi học nên bé Hoàng Phúc (3 tuổi, cháu ngoại bà Vui) chỉ loanh quanh trong nhà với bà và mẹ.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 283
No comments:
Post a Comment