NGUYỄN HỘ, NGƯỜI CỘNG SẢN GIÁC NGỘ
Một trí thức, người từng gắn bó
với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhận định ông Nguyễn
Hộ là một con người "quyết liệt".
Ông Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu của phe
cộng sản miền Nam Việt Nam nhưng ly khai khỏi hệ thống quyền
lực hậu chiến, vừa qua đời hôm 01/07.
Ông là một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, từng giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và phong trào công đoàn.
Tuy nhiên, bất mãn vì cái mà ông xem là sự thoái hóa của Đảng sau 1975, ông Nguyễn Hộ sau này kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Nói
chuyện với BBC từ Sài Gòn, nhà nghiên cứu Lữ Phương, từng là thứ trưởng
Văn hoá của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam,
đặt trường hợp Nguyễn Hộ trong bối cảnh Đổi mới thập niên 1980.
Lữ Phương:
Trong thời kỳ Đổi mới, ông ấy đòi hỏi dân chủ. Do thôi thúc từ phong
trào cải tổ ở Liên Xô, ông đứng ra tập hợp anh em đảng viên cựu kháng
chiến. Thái độ của ông rất triệt để, cho rằng phải từ bỏ chủ nghĩa cộng
sản (CNCS) mà chuyển sang chủ nghĩa tư bản (CNTB). Ông nói ngày xưa nếu
CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu
đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Ông ấy in ấn ra báo, viết cả
những bài tiểu luận. Sau khi ông Linh [Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh] phê
phán, cả phong trào bị dập, ông ấy vẫn chống lại. Tờ báo bị đóng cửa
không xuất bản ở Sài Gòn, ông xuống miền Tây nhờ anh em in cho. Rồi ông
bị bắt, quản chế tại gia cùng một số đồng chí.
Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu cũng rất kiên cường.
Ông nói ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu
Lữ Phương
BBC:Thay đổi quan điểm chính trị của ông Nguyễn Hộ phát xuất từ cảm hứng nào?
Cá tính của ông rất quyết liệt. Vì thế ngày xưa, ông trung thành đến cùng, dù phải tù đày. Nhưng sang thời Đổi mới, cảm hứng lớn nhất là từ Gorbachev, sau đó là sự sụp đổ của "Phe Ta". Nói chung cả tôi và các anh em khác bấy giờ đều lấy cảm hứng từ đó để nhìn lại mọi vấn đề. Phong trào văn nghệ phê phán, như tờ Văn Nghệ, đều khởi đầu từ cải tổ bên Liên Xô.
Khi ông Linh lên làm Tổng Bí thư, cởi trói cho văn nghệ sĩ,
khiến anh em như Trần Độ, Nguyên Ngọc đi theo ông Linh cả. Nhưng khi ông
Linh thấy Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ông quay ngoắt lại đánh anh em.
Bao nhiêu người ngày xưa là lính theo ông, bây giờ thay vì trao đổi thảo
luận, ông đánh. Từ Liên Xô, ông ngả sang Trung Quốc để cứu chủ nghĩa xã
hội.
Đám lính tráng theo ông phản ứng rất dữ, đến khoảng 1992
khi tờ Cửa Việt bị đóng cửa, phong trào coi như chấm dứt. Nhưng riêng
ông Hộ, một công thần, vẫn phản ứng dữ dội.
BBC:Ông Võ Văn Kiệt đã từng đến thăm và nói chuyện với ông Nguyễn Hộ. Theo ông, ông Kiệt nhìn nhận ông Hộ thế nào?
Ông
Kiệt không chủ trương như ông Hộ. Ông ấy muốn đổi mới từ bên trong,
nương theo guồng máy mình tạo ra, êm thắm chuyển hóa nó khi có điều
kiện. Ông Kiệt mềm, ôn hòa khôn ngoan, trái hẳn ông Hộ bộc trực. Nhiều
khi họp, ông ấy vỗ bàn, ông la, ông hét.
Sau này ông Kiệt cũng
đến thăm. Ông Hộ có nói ông nấu cà ri cho ông Kiệt ăn, hai bên chia sẻ
thông cảm, nhưng mỗi người có cách phản ứng khác nhau.
BBC:Phong trào đổi mới 20 năm trước so với ngày hôm nay có gì khác, thưa ông?
Tính
chất công khai, quyết liệt bây giờ hơn xa ngày trước. Lúc đó, bao nhiêu
năm bị đè nén. Sang 1986, Đảng cầm đầu đổi mới. Chưa bao giờ có một
tổng bí thư nói với nghệ sĩ nhiệt tình như ông Linh. Mọi sự bung ra là
do Đảng đầu têu, mở cửa cho anh em.
Nhưng sau đó, Đảng trói lại một lần nữa, làm phong trào xẹp xuống.
Bây
giờ không được bùng nổ vì Đảng chưa cho phép. Nhưng phong trào hiện nay
có sức mạnh tiềm tàng, dữ dội hơn xưa vì tự thân nó âm ỉ, tự nó tìm
cách nương theo những đổi thay của thế giới và xã hội Việt Nam.
Ví
dụ phong trào phản đối bauxite rất tuyệt vời. Không phải là cái gì
ngoài luồng, dựa dẫm bên ngoài mà tự thân nó tìm được biện pháp thích
hợp, phải chăng mà cũng quyết liệt. Cái mới lần này là Đảng không thể
ban ơn, cởi trói cho anh. Bây giờ xã hội đang tự cởi trói mình.
Bấm
Bấm vào đây để xem ý kiến độc giả.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/07/090704_nguyenho_luphuong.shtml
Lữ Phương nói về Nguyễn Hộ
Một trí thức, người từng gắn bó
với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhận định ông Nguyễn
Hộ là một con người "quyết liệt".
Ông Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu của phe cộng sản miền Nam Việt Nam nhưng ly khai khỏi hệ thống quyền lực hậu chiến, vừa qua đời hôm 01/07.
Ông là một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, từng giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và phong trào công đoàn.
Tuy nhiên, bất mãn vì cái mà ông xem là sự thoái hóa của Đảng sau 1975, ông Nguyễn Hộ sau này kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Nói chuyện với BBC từ Sài Gòn, nhà nghiên cứu Lữ Phương, từng là thứ trưởng Văn hoá của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đặt trường hợp Nguyễn Hộ trong bối cảnh Đổi mới thập niên 1980.
Ông Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu của phe cộng sản miền Nam Việt Nam nhưng ly khai khỏi hệ thống quyền lực hậu chiến, vừa qua đời hôm 01/07.
Ông là một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, từng giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và phong trào công đoàn.
Tuy nhiên, bất mãn vì cái mà ông xem là sự thoái hóa của Đảng sau 1975, ông Nguyễn Hộ sau này kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Nói chuyện với BBC từ Sài Gòn, nhà nghiên cứu Lữ Phương, từng là thứ trưởng Văn hoá của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đặt trường hợp Nguyễn Hộ trong bối cảnh Đổi mới thập niên 1980.
Một thời lịch sử với Nguyễn Hộ
Chia rẽ về tư tưởng
trrong hàng ngũ những người cộng sản sau 1975 đã đưa đến sự ly
khai hơn 10 năm sau đó của ông Nguyễn Hộ, một nhà cách mạng kỳ cựu
của miền Nam Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở chỗ đó, trước
điều ông coi là sự thoái hóa của Đảng thời hậu chiến, ông Nguyễn
Hộ, nguyên Chủ tịch mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh,
đã kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và bị bắt, bị quản thúc tại gia và
theo dõi cho đến khi qua đời.BBC xin giới thiệu đoạn trích sau từ một blog viết hồi tháng Tư 2008 ghi lại lời kể của chính ông về giai đoạn từ bỏ con đường của đảng cầm quyền ở Việt Nam:
Giữa năm 1987, tôi được cơ quan cho nghỉ hưu
lúc tôi 71 tuổi. Liền sau đó Câu lạc bộ kháng chiến thành phố ra đời.
Tôi tham gia hoạt động với tư cách Chủ nhiệm câu lạc bộ. Kể ra, ngay từ
đầu, anh em kháng chiến thiết tha xin lập hội những người kháng chiến
thì bị thành ủy và UBND thành phố từ chối và chỉ cho phép thành lập Câu
lạc bộ những người kháng chiến mà thôi, mặc dù điều 67 của hiến pháp
còn ghi rành rành các quyền tự do của công dân: tự do hội họp, tự do
lập hội....Tất nhiên, tổ chức hội và tổ chức Câu lạc bộ có thực sự khác
nhau về nội dung, quyền hạn và phạm vi hoạt động. Tuy vậy, dựa vào nội
dung quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố về nhiệm vụ, quyền hạn
của Câu lạc bộ kháng chiến:
- Tập họp những người kháng chiến trong hai thời kỳ (chống Pháp và chống Mỹ) nhằm phát huy truyền thống yêu nước trong nhân dân ta.
- Ðóng góp vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN.
- Ðoàn kết tương trợ giúp đở lẫn nhau trong cuộc sống.
Những người tham gia Câu lạc bộ kháng chiến đã
tiến hành hoạt động bằng các hình thức: hội thảo, mít tinh, kiến nghị,
viết báo, ra báo nhằm các mục tiêu cụ thể chống tiêu cực, quan liêu, cửa
quyền, ức hiếp trù dập quần chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn
nhau vì đặc quyền, đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ đảng và nhà nước,
ngoài ra xây dựng tổ chức, phát triển hội viên, thực hiện đoàn kết
tương trợ, thăm hỏi chăm sóc gia đình kháng chiến, thương binh liệt sĩ.
Với tinh thần đấu tranh chống trì trệ, tiêu cực nói trên, Câu lạc bộ kháng chiến thành phố đã kiến nghị:
- Bộ chính trị và Ban bí thư trung ương đảng cần có sự kiểm điểm định kỳ, phê tự phê về sự lãnh đạo của mình trước ban chấp hành trung ương để qua đó điều chỉnh, kiện toàn cơ quan lãnh đạo: ai có đủ đức, tài thì tiếp tục phát huy, còn ai không đủ đức, tài thì cần cho rút lui để đưa người có đức có tài thay thế, chứ không thể cứ "sống lâu lên lão làng".
- Không nên 'độc diễn' khi quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (1988) mà nên có một số người ra ứng cử chức vụ nói trên với chương trình hành động cụ thể của mình. Quốc hội sẽ chọn một chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong số các ứng viên ấy bằng lá phiếu kín của mình.
- Quốc hội cần cách chức một số bộ, thứ trưởng có liên quan không làm tròn trách nhiệm, dẫn đến hậu quả là có trên 10 triệu người ở miền Bắc bị đói năm 1987, và nhân dân cả nước sống cơ cực kéo dài...
Thế nhưng đối với lãnh đạo (đảng và nhà nước)
các cuộc đấu tranh bằng hình thức nói trên của Câu lạc bộ kháng chiến
thành phố là một sự đe dọa. Do đó, lãnh đạo đã tìm mọi cách hạn chế,
ngăn chặn các hoạt động của Câu lạc bộ như: không cho hội thảo, mít
tinh hoặc có hội thảo, mít tinh nhưng số người dự ít thôi; tịch thu ấn
bản để câu lạc bộ không ra báo được. Trước khó khăn đó, với tinh thần
bám chặt các quyền tự do dân chủ của công dân đã ghi rõ trong hiến pháp
như: tự do ngôn luận, tự do báo chí... anh em Câu lạc bộ phải cấp tốc
đem bài vở chạy xuống Mỹ Tho - Tiền Giang để nhờ giúp đỡ.
Tại đây, anh em địa phương rất nhiệt tình, hì
hục suốt ngày đêm làm xong ấn bản lần thứ hai thì lại được lệnh của Ban
tuyên huấn tỉnh uỷ là không được in báo cho Câu lạc bộ kháng chiến
thành phố. Thế là anh em Câu lạc bộ phải chạy xuống Cần Thơ - Hậu Giang
cầu cứu với ấn bản có sẳn. Nhờ sự thông cảm và tận tình của anh em địa
phương, chỉ trong vài ngày, 20 ngàn tờ báo 'Truyền thống kháng chiến'
đã được in ra. Sở Văn hóa Thông tin ra lệnh tịch thu tờ báo số 03 nầy
đang được phát hành và sau cùng cơ quan chính quyền đóng của vĩnh viễn
báo 'Truyền thống kháng chiến'. Tờ báo được nhiều cảm tình của đông đảo
bạn đọc luôn luôn chờ đón.
Kế hoạch đàn áp
Ngay lúc ấy, trung ương đảng cộng sản Việt Nam
đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và bí thư thành uỷ Võ Trần Chí
cùng nhiều cán bộ khác kể cả Trần Văn Trà, Trần Bạch Ðằng đã họp bàn kế
hoạch tỉ mỉ nhằm đàn áp câu lạc bộ kháng chiến thành phố và nhiều nơi
khác. Ý kiến phát biểu, lên án, buộc tội câu lạc bộ kháng chiến thành
phố của Trần Văn Trà, Trần Bạch Ðằng trong cuộc họp nói trên được in ra
và phát hành khắp cả nước. Thế là, liền sau đó CLBKC/TP bị cấm hoạt
động. Một câu lạc bộ kháng chiến mới với ban chủ nhiệm mới - như một
thứ 'kiểng' trang trí, hình thành nhằm vô hiệu hóa, tê liệt hóa phong
trào đấu tranh chống tiêu cực, suy thóai trong hàng ngũ đảng và nhà
nước vừa mới dâng lên và cũng nhằm củng cố chế độ độc tài, phản dân
chủ.
Trước không khí ngột ngạt ấy, tôi đã quyết định
rời bỏ thành phố về sống ở nông thôn để tiếp tục cuộc đấu tranh vì dân
chủ tự do, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân đến hơi thở cuối cùng. Ngày
21/03/1990, tôi rời khỏi Sài Gòn cũng là ngày tôi ly khai đảng cộng sản
Việt Nam. Ðảng mà sau 54 năm đeo đuổi cách mạng (với tư cách đảng
viên) của tôi, nay đã trở thành vô nghĩa. Sau cái ngày đáng ghi nhớ ấy
khoảng hơn một tháng, một số anh em CLBKC/TP gồm: Tạ Bá Tòng (Tám Cần),
Hồ Văn Hiếu (Hồ Hiếu), Ðỗ Trung Hiếu (Mười Anh) bị bắt, cả Lê Ðình
Mạnh - người ủng hộ tích cực CLBKCTP cũng bị bắt sau đó.
Vào cuối tháng 08/90, Phó chủ tịch hội đồng bộ
trưởng Võ Văn Kiệt đi gặp tôi ở vùng Phú Giáo - miền Ðông Nam Bộ, cách
Sài Gòn khoảng 60 cây số, tại cái chòi sản suất của nông dân. Ông Kiệt
hỏi tôi: "Thế nầy là sao? ". Tôi trả lời: "Thành phố ngột ngạt quá, tôi
về nông thôn ở cho khỏe". Ông Kiệt nói: "Anh cứ về thành phố ai làm gì
anh". Tôi đáp: "Rất tiếc, phải chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng
thì tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. Còn bây giờ thì đã muộn rồi,
bởi vì dưới sự lãnh đạo của trung ương ÐCSVN lúc bấy giờ đứng đầu là
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cùng các ông: Mai Chí Thọ, Võ Trần Chí,
Trần Trọng Tân, Trần Văn Trà, Trần Bạch Ðằng... cả nước được chỉ đạo,
phổ biến rằng tôi (Nguyễn Hộ) là tên phản động, gián điệp, móc nối với
CIA, nối giáo cho giặc, tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền chống
đảng, chống nhà nước.
Lập tổ chức quần chúng (CLBKCTP) chống đảng, lật
đổ chính quyền, ăn tiền của Mỹ, chủ trương đa nguyên, đa đảng nhằm lật
đổ đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng đảng cộng
sản Việt Nam đã đạp tôi xuống tận bùn đen, chôn vùi cả cuộc đời cách
mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy
được.Tình hình như vậy tôi trở về thành phố làm gì trừ khi đất nước
Việt Nam có dân chủ tự do thật sự. Do đó tôi quyết sống ở thôn quê cho
đến ngày cuối cùng của đời tôi."
Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiệt diễn ra từ 7
giờ 30 phút sáng đến 11 giờ trưa thì kết thúc và chia tay. Ðược biết là
từ sau lần gặp gỡ đó, ông Kiệt tỏ ra phấn khởi và nhắn muốn gặp tôi lần
thứ hai ở một địa điễm nào đó gần Sài Gòn để tiện việc đi lại. Khi
được tin nầy, tôi có viết thư trả lời cho ông Kiệt rằng cuộc gặp gỡ
lần thứ hai không cần thiết.
Sau đó, khoảng nửa tháng thì tôi bị bắt
(07/09/90) trên sông Sài Gòn vào lúc 7 giờ sáng khi tôi bơi xuồng vừa
cặp vào bờ, định bước lên vào đám ruộng cạnh đó để hái rau má, rau đắng
về ăn. Ðúng vào thời điểm ấy, một chiếc ghe lớn đang chạy trên sông
lại cặp sát xuồng tôi, trong đó có 6-7 thanh niên khỏe mạnh. Bỗng có
tiếng hỏi to:"Bác ơi! bác có thấy một chiếc ghe nhỏ chạy ngang qua đây
không?" "Không!" tôi trả lời. Liền đó có tiếng hét to: "Ðúng nó rồi!".
Lúc bấy giờ, tôi mới biết là ghe của công an và
nghe tiếng súng lên cò rốp rốp. Tức thời có hai công an cường tráng,
tay cầm súng đã nạp đạn nhảy xuống mũi xuồng nơi tôi đang đứng. Tôi
bình tĩnh hỏi:"Mấy chú muốn gì?". "Muốn gì về sở thì biết" tiếng trả
lời xấc xược của một công an. Hai công an đồng loạt nắm tay tôi, kéo
mạnh ra phía sau rồi còng ngay. Họ điều động tôi sát chiếc ghe lớn có
tấm ván dài bắt từ mũi ghe xuống đáy. Họ xô mạnh tôi chúi mũi và tuột
xuống đáy ghe. Ghe nổ máy chạy dọc con sông lên hướng Tây Bắc độ 15
phút thì rẽ vào rạch nhỏ đi sâu đến bến. Tại đây có chiếc xe hơi nhỏ
đậu sẵn. Tôi được điều lên xe và đổi còng từ phía sau ra phía trước,
với bộ y phục: quần xà lỏn đen và cái áo đen ngắn tay đã xuống màu, hai
bên có hai công an ngồi sát và một công an khác ngồi phía trước. Sau
nửa giờ xe chạy thì đến nơi. Người ta đưa tôi vào một nhà lá trống
trải, không có cửa. Tôi được ngồi nghỉ trên cái gường gỗ nhỏ có trải
chiếc chiếu cũ. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng chính lực lượng công
an huyện Củ Chi đã săn bắt tôi (tất nhiên theo lệnh của Sở Công an
Thành phố và Bộ Nội vụ).
Củ Chi tôi rất quen thuộc và thân thiết - đã
gợi lên trong đầu óc tôi biết bao cảm nghĩ: Củ Chi địa đạo, bom đìa,
pháo bầy, Củ Chi tan nát, anh dũng, chịu đựng, gian khổ, hy sinh, nước
mắt đau thương xen lẫn với nụ cười chiến thắng mà bản thân tôi trong
một số năm chia xẻ đắng cay, ngọt bùi cùng đồng bào Củ Chi trong cuộc
chiến tranh không cân xứng, vô cùng ác liệt giữa Mỹ và Việt Nam; hoặc
nó gợi nhớ cho tôi bao nhiêu những kỷ niệm tốt đẹp trong hoà bình
(1975-1989): đi thăm và uỷ lạo anh em thanh niên xung phong đang lao
động xây dựng công trình thuỷ lợi Kênh Ðông Củ Chi để đưa nước từ hồ
Dầu Tiếng về tưới cho hàng ngàn héc ta ruộng lâu nay thiếu nước của
huyện; đi thăm và uỷ lạo các gia đình có công với cách mạng, gia đình
thương binh liệt sĩ trong những ngày kỷ niệm lịch sử; hoặc đi thăm và
tặng quà cho các thiếu nhi, học sinh nghèo của huyện; đi dự lễ trao
tặng nhà tình nghĩa của ban, ngành, đoàn thể, cơ sở kinh doanh, sản
suất cho gia đình đối tượng chính sách trong huyện. Ôi! Ý nghĩ sao mà
miên man.
'Tư tưởng tôi bay bổng'
Ðúng 4 giờ rưỡi chiều hôm đó, tôi được đưa lên ô
tô để về Sài Gòn. Trước và sau xe tôi còn có mấy xe khác đầy nhân viên
công an. Khi đèn đường thành phố rực sáng thì xe tôi đến cơ quan Bộ nội
vụ (tức Tổng Nha Cảnh Sát cũ trước đây). Tôi ngồi ở cơ quan nội vụ hơn
1 giờ thì được đưa thẳng lên Xuân Lộc (Ðồng Nai), có nhiều xe công an
hộ tống. Hơn 10 giờ đêm thì tới Xuân Lộc, tôi được đưa đến một nhà
trống (nhà tròn) của k4 với một bán đội công an võ trang đầy đủ. Ðược
một tuần, người ta đưa tôi trở về thành phố quản thúc tại Bình Triệu, ở
một địa điểm đối diện với cư xá Thanh Ða. Sau hơn bốn tháng sống biệt
lập luôn luôn có một tiểu đội công an canh giữ, tôi được đưa về quản
thúc tại gia vào đúng ngày 30 tết nguyên đán (đần năm 1991) từ đó về sau
nầy.
Khi gặp tôi tại ba địa điểm nói trên, các ông:
Võ Văn Kiệt (Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng), Mai Chí Thọ (Bộ trưởng
bộ nội vụ), Võ Trần Chí (Bí thư thanh uỷ), Võ Viết Thanh (Thứ trưởng bộ
nội vụ), Nguyễn Võ Danh (Phó bí thư thành uỷ), Trần Văn Thanh (Thành
uỷ viên) ... đều bảo tôi phải làm kiểm điểm (để qua đó lãnh đạo sẽ xem
xét và giải quyết vấn đề của tôi theo cách giải quyết nội bộ). Nhưng
tôi nghĩ: tôi không có tội lỗi gì trong hành động của mình - hoạt động
câu lạc bộ kháng chiến, không lẽ đấu tranh chống tiêu cực (theo chủ
trương, nghị quyết của ÐCSVN): chống tham nhũng, chống quan liêu cửa
quyền, ức hiếp, trù dập, hãm hại quần chúng; chống tư tưởng bè phái,
bao che cho nhau, những người đã gây biết bao tác hại cho nhân dân, đất
nước, không đức, không tài mà cứ ngồi lì ở cương vị lãnh đạo; đấu
tranh chống tiêu cực, suy thoái như vậy là hành động phản cách mạng,
phản động, nối giáo cho giặc sao? Do đó, tôi không làm kiểm điểm mà chỉ
phát biểu quan điểm của mình về tình hình chung trong nước và sự lãnh
đạo của đảng cộng sản Việt Nam. (trên 20 trang)
Kiểm điểm là mang tính chất nội bộ. Còn đây là
việc hoàn toàn khác hẳn: người ta chĩa súng vào tôi, bắt còng tôi, đem
giam và quản thúc. Như vậy, vấn đề đã đi quá xa, còn đâu là nội bộ nữa,
vì tôi bị coi là kẻ thù của ÐCSVN rồi kia mà. Cho nên điều chủ yếu của
tôi là chờ được đưa ra tòa xét xử, xem tôi đã phạm tội gì, nặng cỡ nào
với những chứng cớ chính xác của nó. Khi tôi bị bắt không hề có lệnh
của tòa án hay Viện kiểm sát. Hơn nữa, đã trên hai năm bị quản thúc,
vấn đề của tôi chưa được phơi bày trước ánh sáng công lý.
Ðiều đó cho
thấy ở Việt Nam hiến pháp, luật pháp bị chà đạp cỡ nào.
Câu lạc bộ kháng chiến thành phố bị đàn áp, tôi
bị bắt cũng như một số anh em khác trước đó. Chúng tôi được nếm mùi
còng sắt của ÐCSVN - cũng giống như còng sắt của đế quốc ngày xưa - rồi
bị giam, bị quản thúc, trở thành người hoàn toàn mất tự do, cách ly
với thế giới bên ngoài. Ðó là điều bất hạnh.
Tuy nhiên, vì tôi đã ly khai ÐCSVN lúc tôi rời
thành phố về sống ở nông thôn (21/03/90), nên hơn lúc nào hết, về tinh
thần và tư tưởng, tôi thấy mình hoàn toàn tự do, hoàn toàn được giải
phóng. Bây giờ, trên đầu tôi không còn bị kẹp chặc bởi cái "kềm sắt"
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, của đảng cộng sản nữa. Do đó, nó cho phép
tôi dám nhìn thẳng vào sự thật và dám chỉ ra sự thật, đặc biệt trong
tình hình sụp đổ của Ðông Âu và sự tan rã của Liên Xô.
Khác với trước đây, khi còn là đảng viên của
đảng cộng sản Việt Nam - một thứ tù binh của đảng - tôi chỉ biết nói và
suy nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ. Còn hiện nay, tôi
suy nghĩ rất thoải mái, không bị một sự hạn chế nào khi tư tưởng của
tôi đã thực sự được giải phóng - tư tưởng đã bay bổng. Bởi vậy, tôi tự
phát hiện cho mình nhiều điều lý thú mà bạn đọc sẽ có dịp tìm thấy
trong bài viết nầy của tôi.
Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có
hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Ðảo (anh ruột) - Ðại tá quân đội nhân dân Việt
Nam - hy sinh ngày 09/01/66 trong trận ném bom tấn công đầu tiên của
quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Cũ Chi); Trần Thị Thiệt (vợ tôi) -
cán bộ phụ nữ Sài Gòn - bị bắt và bị đánh chết tại Tổng Nha Cảnh Sát
hồi Tết Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận rằng, chúng tôi đã chọn
sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường
cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn
lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu,
nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Ðó là điều sỉ
nhục.
Giữa tôi và bài viết của tôi là một thể thống
nhất dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng "lột xác" đã diễn ra trong đầu
óc tôi. Vậy xin mời bạn hãy đọc tiếp. Cám ơn.
Nguyễn Hộ
Bùi Minh Quốc nói về ông Nguyễn Hộ
Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu, người cuối đời ly khai khỏi Đảng Cộng sản, vừa qua đời hôm 01/07.
Sinh năm 1916, ông ban đầu làm thợ máy ở xưởng đóng tàu Ba Son sau đó gia nhập đảng cộng sản năm 1937.
Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt và trải qua 5 năm ở trại giam Côn Đảo đến 1945.
Ra tù, ông quay về Sài Gòn, tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp và sau này là chính phủ miền Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Mặc dù cả cuộc đời gắn bó với cách mạng, ông Nguyễn Hộ bắt đầu bị Đảng Cộng sản phê phán khi thành lập Câu lạc bộ Kháng chiến cũ năm 1987 và ra tờ Truyền thống Kháng chiến (được ba số thì bị tịch thu).
Ông Nguyễn Hộ cùng nhiều cựu chiến binh miền Nam khi đó kêu gọi Bộ Chính trị "cần có sự kiểm điểm định kỳ" và "trả quyền dân chủ cho nhân dân".
Sau 1991, có thời gian ông bị bắt và rồi bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.
Nhà văn Bùi Minh Quốc kể lại với BBC một số kỷ niệm về ông Nguyễn Hộ, người mà ông gọi là "đã không để thiết chế chính trị làm cho mình thoái hóa".
Sinh năm 1916, ông ban đầu làm thợ máy ở xưởng đóng tàu Ba Son sau đó gia nhập đảng cộng sản năm 1937.
Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt và trải qua 5 năm ở trại giam Côn Đảo đến 1945.
Ra tù, ông quay về Sài Gòn, tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp và sau này là chính phủ miền Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Mặc dù cả cuộc đời gắn bó với cách mạng, ông Nguyễn Hộ bắt đầu bị Đảng Cộng sản phê phán khi thành lập Câu lạc bộ Kháng chiến cũ năm 1987 và ra tờ Truyền thống Kháng chiến (được ba số thì bị tịch thu).
Ông Nguyễn Hộ cùng nhiều cựu chiến binh miền Nam khi đó kêu gọi Bộ Chính trị "cần có sự kiểm điểm định kỳ" và "trả quyền dân chủ cho nhân dân".
Sau 1991, có thời gian ông bị bắt và rồi bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.
Nhà văn Bùi Minh Quốc kể lại với BBC một số kỷ niệm về ông Nguyễn Hộ, người mà ông gọi là "đã không để thiết chế chính trị làm cho mình thoái hóa".
TS. Nguyễn Thanh Giang nói về Nguyễn Hộ
Ông Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu, người cuối đời ly khai khỏi Đảng Cộng sản, vừa qua đời hôm 01/07.
Ông là một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, từng giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và phong trào công đoàn.
Tuy nhiên, bất mãn vì cái mà ông xem là sự thoái hóa của Đảng sau 1975, ông Nguyễn Hộ sau này kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Vì những hành động của mình, ông bị bắt, bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.
Nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội nói ông Nguyễn Hộ là một người rất quyết liệt:Ông là một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, từng giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và phong trào công đoàn.
Tuy nhiên, bất mãn vì cái mà ông xem là sự thoái hóa của Đảng sau 1975, ông Nguyễn Hộ sau này kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Vì những hành động của mình, ông bị bắt, bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.
"Như nhiều nhà cách mạng lão thành khác, Trần Độ, Lê Hồng Hà, Hoàng Minh Chính, cụ thấy lý tưởng ban đầu của mình không những không đạt được mà bị phản bội."
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2009/07/090703_nguyenthanhgiang_nguyenho.shtml
Bùi Minh Quốc nói về ông Nguyễn Hộ
Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu, người cuối đời ly khai khỏi Đảng Cộng sản, vừa qua đời hôm 01/07.
Sinh năm 1916, ông ban đầu làm thợ máy ở xưởng đóng tàu Ba Son sau đó gia nhập đảng cộng sản năm 1937.
Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt và trải qua 5 năm ở trại giam Côn Đảo đến 1945.
Ra tù, ông quay về Sài Gòn, tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp và sau này là chính phủ miền Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Mặc dù cả cuộc đời gắn bó với cách mạng, ông Nguyễn Hộ bắt đầu bị Đảng Cộng sản phê phán khi thành lập Câu lạc bộ Kháng chiến cũ năm 1987 và ra tờ Truyền thống Kháng chiến (được ba số thì bị tịch thu).
Ông Nguyễn Hộ cùng nhiều cựu chiến binh miền Nam khi đó kêu gọi Bộ Chính trị "cần có sự kiểm điểm định kỳ" và "trả quyền dân chủ cho nhân dân".
Sau 1991, có thời gian ông bị bắt và rồi bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.
Nhà văn Bùi Minh Quốc kể lại với BBC một số kỷ niệm về ông Nguyễn Hộ, người mà ông gọi là "đã không để thiết chế chính trị làm cho mình thoái hóa".
Sinh năm 1916, ông ban đầu làm thợ máy ở xưởng đóng tàu Ba Son sau đó gia nhập đảng cộng sản năm 1937.
Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt và trải qua 5 năm ở trại giam Côn Đảo đến 1945.
Ra tù, ông quay về Sài Gòn, tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp và sau này là chính phủ miền Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Mặc dù cả cuộc đời gắn bó với cách mạng, ông Nguyễn Hộ bắt đầu bị Đảng Cộng sản phê phán khi thành lập Câu lạc bộ Kháng chiến cũ năm 1987 và ra tờ Truyền thống Kháng chiến (được ba số thì bị tịch thu).
Ông Nguyễn Hộ cùng nhiều cựu chiến binh miền Nam khi đó kêu gọi Bộ Chính trị "cần có sự kiểm điểm định kỳ" và "trả quyền dân chủ cho nhân dân".
Sau 1991, có thời gian ông bị bắt và rồi bị quản thúc tại gia và theo dõi cho đến khi qua đời.
Nhà văn Bùi Minh Quốc kể lại với BBC một số kỷ niệm về ông Nguyễn Hộ, người mà ông gọi là "đã không để thiết chế chính trị làm cho mình thoái hóa".
TRẦN ĐỘ * NGƯỜI CỘNG SẢN GIÁC NGỘ
Tướng Trần Độ 'trung thành với dân'
Cập nhật: 13:40 GMT - thứ năm, 8 tháng 8, 2013
Media Player
Nhân kỷ niệm ngày mất cố Trung
tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trần Độ (9/8/2002), một người quen
biết không cho rằng ông là nhà "đối lập trung thành" của Đảng.
Ông bị khai trừ khỏi Đảng vì bất đồng chính
kiến, mặc dù chức vụ cuối cùng của ông là Ủy viên TW Đảng kiêm Phó Chủ
tịch Quốc hội.Nói chuyện với đài BBC, ông Lê Hồng Hà, từ Hà Nội, nhận xét những tư tưởng của Tướng Độ là tiến bộ, trí tuệ, có tính phê phán nhắm vào việc dân chủ hóa đất nước.
Ông Hồng Hà không cho rằng Tướng Độ là một nhà "đối lập trung thành" của Đảng, mà chỉ "trung thành với dân, với nước".
Ông Hà cũng cho rằng cách thức đóng góp cho đổi mới thể chế và chính trị khi vẫn còn giữ thẻ Đảng của Tướng Độ vẫn còn mang tính thời sự.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/08/130808_lehongha_on_trando.shtml
Cập nhật: 16:28 GMT - thứ năm, 8 tháng 8, 2013
Tuần này đánh dấu 13 năm
ngày mất của Tướng Trần Độ (9/8/2002), một công thần của Đảng Cộng sản
nhưng về cuối đời, bị Đảng khai trừ khi ông kêu gọi thay đổi hệ thống
chính trị.
Trong một thời gian dài, tên của vị Trung tướng vẫn là cấm kỵ ở trong nước.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trước đó, năm 2007, tập một cuốn Chuyện Tướng Độ được NXB Quân đội Nhân dân ấn hành.
Nhưng các cuốn sách, cũng như một số bài báo về Trần Độ trên báo chí chính thống, đều không nhắc gì đến sự thay đổi lập trường của ông sau này.
Nói chuyện với BBC hôm 8/8, một nhà bất đồng chính kiến lão thành quen biết Tướng Độ cho rằng Việt Nam nên tổ chức một hội thào đánh giá đóng góp tư tưởng, thân thế và sự nghiệp của vị tướng này.
'Dũng cảm'
Ông Hồng Hà đưa ra đánh giá của mình về vị tướng này: "Trên tất cả các cương vị mà ông ấy phụ trách, ông đều hoàn thành những nhiệm vụ một cách rất xuất sắc."Nhưng bởi vì ý kiến của ông ấy, ông ấy thấy cái gì sai của Đảng và những gì sai của chính quyền ở đất nước này, ông ấy phát biểu ý kiến.
"Phải nói rằng những ý kiến ông ấy phát biểu rất giỏi, dũng cảm và trí tuệ. Nhưng vì ông phát biểu phê phán người ta, lãnh đạo như thế, thì lãnh đạo tự ái, không thể chấp nhận được, kỷ luật ông ấy.
"Với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, việc Viện Sử học tổ chức Hội thảo có lẽ còn chưa thích hợp, chưa làm được bởi vì trong lãnh đạo hiện nay còn một số người nhận định các vấn đề chưa đủ rõ"
Ông Lê Hồng Hà
Trước câu hỏi, nhà nước hay các cơ quan chuyên môn như Viện Sử học có nên tổ chức Hội thảo về Tướng Độ, sau hơn mười năm ông qua đời, ông Hồng Hà nói:
"Với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, việc Viện Sử học tổ chức Hội thảo có lẽ còn chưa thích hợp, chưa làm được bởi vì trong lãnh đạo hiện nay còn một số người nhận định các vấn đề chưa đủ rõ.
"Người ta vẫn thành kiến, người ta cho rằng ông Trần Độ tuy rằng có những ý kiến đúng nhưng không đúng nguyên tắc, phát biểu không đúng nguyên tắc, này nọ.
"Tôi thấy rằng các nhận xét đó của người ta còn rất là sai... Theo tôi thấy là nên nhưng mà đánh giá của lãnh đạo hiện nay có thể chưa chấp nhận. Hiện nay, người ta còn có nhiều vấn đề còn chưa ổn."
'Trung thành với nhân dân'
Ông Hà cho rằng Trần Độ không phải là nhà "đối lập trung thành" của Đảng mà thay vào đó ông là một người "trung thành với dân, với nước."Ông nói: "Ông Trần Độ trung thành không phải là trung thành với Đảng. Ông Trần Độ là trung thành với Tổ quốc, nhân dân.
"Chính vì ông ấy phê phán như thế, ông ấy mới bị thành kiến và ông ấy mới bị đối xử kỷ luật các thứ này nọ."
Tướng Độ, sinh năm 1923, kinh qua nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền cộng sản Bắc Việt và từng nắm các chức vụ quan trọng hậu chiến như Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương kiêm Thứ trưởng Văn hóa.
Ông bị khai trừ khỏi Đảng vì bất đồng chính kiến, mặc dù chức vụ cuối cùng của ông là Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội.
"Hiện nay rất nhiều cán bộ đang ở trong tình hình ấy. Người ta vẫn là Đảng viên, nhưng người ta vẫn phê phán một cách khá mạnh mẽ."
Ông Lê Hồng Hà
"Trong tình hình của lúc đó, ông Trần Độ chưa ra khỏi Đảng, cái đó là dũng cảm thôi, và sau đó ông ấy bị khai trừ.
"Trong khi ông còn là Đảng viên, còn là cương vị này, cương vị khác, ông phát biểu ý kiến, phê phán những cái sai của Đảng.
"Thì trong điều kiện lúc bấy giờ, thế là thích hợp, là đúng đắn, chứ không phải là bây giờ là nhất định phải ra khỏi Đảng.
"Người ta vẫn cứ là Đảng viên, nhưng người ta phát biểu ý kiến, hiện nay rất nhiều cán bộ đang ở trong tình hình ấy.
"Người ta vẫn là Đảng viên, nhưng người ta vẫn phê phán một cách khá mạnh mẽ," ông nói với BBC.
THANH LÃNG * PHÊ BÌNH VĂN HỌC
*
NHỮNG VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932 Thanh Lãng
A - Đặc tính chung thế hệ 1932
B - Sinh hoạt Phê bình văn học thế hệ 1932
C - Những Vụ Án Văn Học Thế Hệ 1932 :
1 - Vụ Án Báo Chí / 2 - Vụ Án Cũ và Mới / 3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim
/ 4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi / 5 - Vụ Án Quốc Học
/ 6 - Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới
D - Mặt trận bênh thơ mới (1) / Mặt trận bênh thơ mới (2) / Mặt trận bênh thơ mới (3)
E - Phản ứng làng thơ cũ / F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
uesday, October 25, 2016
TRUYỆN NGUYỄN VĂN SÂM - NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI
NGUYỄN VĂN SÂM * NHỮNG CÂY CẦU
Những
Cây Cầu Trong Ước Mơ…
Nguyễn Văn Sâm
Tặng
cư sĩ Nguyên Giác, NVS
1.
Tôi
chạm mặt Sáu Huê ở sân sau của Sở khi còn đương lum khum khóa cái xe đạp cà
tàng nhưng cũng có thể bị thổi mất của
mình. Tới để nói về chuyện lương hướng chậm trễ cả ba tháng nay ấy mà! Tiền túi
cắp ca cắp củm lâu nay đã cạn, tiền vay mượn đầu nầy đầu nọ đã bắt đầu khó
khăn, bị nhẹ nhàng từ chối ở nhiều mối rồi. Tính lên đây xoay đở ai đó chút đỉnh
sống qua ngày chờ Sở nhận được tiền từ trên rót về rồi mới tính tiếp.
Giữa
đám cô thầy đồng cảnh đương lao nhao xầm xì, tôi được Sáu Huê kéo vai, bộ như
thân thiết lắm, nói nhỏ: ‘Chút xíu nữa anh Khâm có huởn huởn lên văn phòng tôi,
mình bàn chút việc’. Khi nói Sáu Huê kê
miệng hô bịt răng vàng của anh gần sát mặt tôi, mùi nước phở nhiều hồi và mùi hành
Tây sống còn thoảng bay, khiến tôi khó chịu, cây tăm anh ngậm nơi khóe miệng
khi nói như có chưn tay đánh đu qua lại từ mép nầy tới mép kia của hai tảng môi
đen làm tôi ớn ớn xương sống. Hình như những người gốc ở trỏng ra hay ở bển về,
đều thích ngậm tăm sau khi ăn sáng, và có tài vặt về chuyện làm xiệc với cây tăm
trên miệng!
Tôi
né mặt ra chút đỉnh, ậm ờ.
Trước
khi về, tôi tạt vô phòng Sáu Huê thì anh ta không có mặt, người phó phòng nào đó
trao lại cho tôi một phong thơ mỏng, có đóng dấu Khẩn & Mật. Tưởng gì, té ra là quyết định cử đi dạy lớp Bình Dân
Học Vụ, xóa nạn mù chữ ở xã Mỹ Tú mỗi tuần ba tối cho tới khi có quyết định mới.
Tôi
bỏ bàn toán vô đầu khi đọc quyết định. Mỗi tuần dạy 3 tối, từ 6 giờ tới tám giờ
rưỡi thì về tới nhà xấp xỉ 10 giờ khuya cha nó rồi. Tối mịt, chỉ còn lăn đùn ra
ngủ chớ nghỉ ngơi mẹ gì nữa! Thêm từ nhà
tôi tới trường, qua khỏi Xóm Giữa một đổi khá xa, tuốt ở trong ngọn, thì cũng ngót nghét cả chục cây số ngàn, chắc như
bắp bận về sẽ không còn chiếc xe ôm nào. Phải đạp xe đạp đi đi về về thôi. Vậy
thì còn khổ dài dài cho chưn cẳng, cho bàn tọa trơ xương teo thịt lâu nay!
Hoặc
là bỏ dạy hoặc là ép xác. Bỏ dạy thì phải đối phó với rất nhiều chuyện, từ chuyện
hộ khẩu tới chuyện hồi hương, chuyện mua nhu yếu phẩm, ôi hằm bà lằng xắn cấu đủ
thứ trong đó có chuyện ba tôi là nguỵ quân, đương đi học tập nhưng ông còn đứng
tên căn nhà vợ chồng con cái tôi đương ở, tôi có thể bị đuổi ra bất cứ lúc nào.
Thôi, trời sanh thì trời dưỡng, chịu khó hành xác đi dạy thí mấy tháng coi sao. Dạy nít nhỏ 6, 7 năm nay cũng
quen quá rồi, đâu thử dạy người lớn coi khác giống gì!
2.
Khâm bước vô lớp, gần ba mươi học trò già
phần lớn đã ngồi sẵn sàng đâu vô đó rồi. Nhiều người tằng hắng để lấy lại bình tĩnh, mấy
ông xồn xồn ở cuối lớp ghiền thuốc kinh niên cũng lật đật dụi sau khi hít dài hơi
chót, giữ tàn trong một tấm giấy nhựt trình nho nhỏ, xếp cẩn thận bỏ vô túi rồi
mới chịu ngồi xuống len lén ngó thầy để đánh giá.
Khâm
chào cả lớp, nói lên vài câu than thở là mình sẽ đạp xe tới đạp xe về, cực nhọc
lắm, xin các cô các bác chăm học giùm.
Đừng nói là mình già học nay quên mai, đừng nói là hồi nào tới giờ quen cầm cuốc, cầm dao bây giờ cầm viết thì khó khăn, lọng cọng. Khâm thao thao về ước mơ được làm thầy của mình lúc nhỏ, giờ xin cô bác nên có ước mơ đọc được báo chí sách vỡ để biết những chuyện xảy ra trên thế giới chung quanh. Có ước mơ, có quyết tâm, có sự nhứt định làm cho được thì sẽ được thôi. Chuyện gì cũng phải học mới biết.
Anh nói như diễn thuyết: Điều khó không phải là học, cũng không phải là tìm thời giờ rảnh rang để học, điều khó là thắng sự chần chờ, can đãm bước qua sự cù nhầy của chính mình để hăng hái học.
Đừng nói là mình già học nay quên mai, đừng nói là hồi nào tới giờ quen cầm cuốc, cầm dao bây giờ cầm viết thì khó khăn, lọng cọng. Khâm thao thao về ước mơ được làm thầy của mình lúc nhỏ, giờ xin cô bác nên có ước mơ đọc được báo chí sách vỡ để biết những chuyện xảy ra trên thế giới chung quanh. Có ước mơ, có quyết tâm, có sự nhứt định làm cho được thì sẽ được thôi. Chuyện gì cũng phải học mới biết.
Anh nói như diễn thuyết: Điều khó không phải là học, cũng không phải là tìm thời giờ rảnh rang để học, điều khó là thắng sự chần chờ, can đãm bước qua sự cù nhầy của chính mình để hăng hái học.
Có
tiếng của một bà ứng lên, không cần phép tắc gì:
‘Thầy
nói coi bộ dễ ợt mà tui thấy khó dàng mây. Tui tính đi học lớp nầy năm ba bận rồi
mà bận nào thì cũng như có ông bà khuất mày khuất mặt cản lái cản mũi biểu đừng.
Lúc thì có bầu đứa lớn, lúc thì mang bì con nhỏ kế, lúc thì thằng Tư còn đỏ hỏn, lúc thì ông nhà
tui bịnh rề rề… rồi bây giờ đây hai con heo đương độ lớn phải lo kiếm món ăn
cho chúng nó, nội cái vụ xắt chuối với trộn cám không cũng đủ hết ngày giờ. Còn
lo đi làm rẫy nữa, bỏ lún sao được! Ông tui hồi sanh tiền, có ghi tên mà học trậm
trầy trậm trật, thuộc được bao nhiêu chữ đâu, không đầy lá mít, nhom nhem ba chữ
rồi cũng quên tuốt…’
Khâm
mỉm cười, ngoại giao:
‘Nhín
giờ chỗ nầy chút đỉnh, kéo giờ chỗ kia chút xíu thì sẽ có thời gian học thôi bác
à! Như ông bà mình nói: khéo ăn thì no, khéo
co thì ấm, mình khéo hà tiện thời giờ của các công chuyện phải làm thì té thời giờ cho chuyện mình muốn làm.’
Khâm
vừa nói vừa đưa tay lấy viên phấn, quay mặt vô bảng:
‘Lớp
nầy bà con đã biết viết biết đọc chút đỉnh rồi thì mình học ý nghĩa trong sách
vỡ, chỉ tập viết để chữ được đẹp thôi, không có tập đánh vần nên cũng gọn, mình
sẽ học những điều có ích lợi cho cuộc sống…’
Anh
chỉ vô một ông ngồi tuốt gần vách, nảy giờ coi bộ lao chao, nhờ đọc câu anh vừa
viết.
‘Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có
thương con chồng.’ Chú Tám He đọc coi bộ hơi suông suông rồi, không cần ai
đốt pháo sau lưng cũng bình luận lớn giọng: ‘Đúng quá rồi, bánh đúc mềm, sao có
xương được. Còn má ghẻ thì ối thôi, nói bắt mệt, trăm người như một, ghét con
chồng thậm tệ, hành hạ tụi nó thấy mà phát thương luôn. Xóm Láng The của mình đây
nè, tui không cần nói tên ai nhưng bà con đều biết là có ba bốn bà mẹ ghẻ hành
hạ con chồng thiếu điều muốn giết cho tụi nó chết.’
Lớp
hơi ồn ào, mấy bà phản đối, mấy ông được dịp cười phá, châm chọc. Khâm đưa tay
ra dấu im lặng:
‘Tôi đưa ra câu nầy là có mục đích. Ca dao tục ngữ là mấy câu nói của ông bà mình truyền qua từ bao nhiêu đời trước, do nhận xét từ kinh nghiệm đời sống chung quanh họ, điều đúng do đó thì nhiều, nhưng điều sai không phải không có. Mẹ ghẻ thương con chồng thiếu giống gì ở đời nầy. Nít nhỏ không có mẹ ruột, không ai săn sóc, ta thương không hết, sao lại hành hạ nó, sao lại đành tâm ghét bỏ nó. Mà Trời sanh mỗi người mỗi tánh, có người ghét con ghẻ thì cũng có bà thương con chồng. Sao lại quơ đủa cả nắm, sao lại trói hết cả bầy bỏ vô một giỏ… Khi ta ghét trẻ con là ta nhỏ mọn, hẹp hòi.’
‘Tôi đưa ra câu nầy là có mục đích. Ca dao tục ngữ là mấy câu nói của ông bà mình truyền qua từ bao nhiêu đời trước, do nhận xét từ kinh nghiệm đời sống chung quanh họ, điều đúng do đó thì nhiều, nhưng điều sai không phải không có. Mẹ ghẻ thương con chồng thiếu giống gì ở đời nầy. Nít nhỏ không có mẹ ruột, không ai săn sóc, ta thương không hết, sao lại hành hạ nó, sao lại đành tâm ghét bỏ nó. Mà Trời sanh mỗi người mỗi tánh, có người ghét con ghẻ thì cũng có bà thương con chồng. Sao lại quơ đủa cả nắm, sao lại trói hết cả bầy bỏ vô một giỏ… Khi ta ghét trẻ con là ta nhỏ mọn, hẹp hòi.’
Bên
góc mặt một thanh niên chừng 17, 18 tuổi chồm lên bàn giơ tay thiệt cao, phấn
khởi, Khâm cho cậu ta nói:
‘Con
tên Tèo. Hai Tèo. Xin nói. Người ty tiện là người xấu xa. Má con không sanh ra con
nhưng có ghét con đâu. Con cũng được cưng như bao nhiêu con ruột của những nhà
chung quanh. Hoan hô Má Ba! Hoan hô! ’ Thằng Tèo vừa hoan hô vừa chỉ vô người đàn
bà than không có thời giờ hồi nảy…
Cả
lớp vỗ tay rần rần… Khâm nhấn mạnh về sự sai lầm của ca dao tục ngữ chẳng hạn
như câu áo mặc sao qua khỏi đầu. Con
cái có thể khôn hơn cha mẹ chứ sao không, đời bây giờ người ta được đi học, được
đọc báo xem sách nên kiến thức mở mang nhiều, khôn hơn cha mẹ là lẽ bình thường
thôi. Còn nữa, chẳng hạn như câu: Con vua
thì lại làm vua. Con sãi ở chùa lại quét lá đa.
Đâu chắc là đúng. Con cháu vua đi xe lôi, chạy xe ôm cũng chật đường. Trẻ con lúc nhỏ sống trong chùa, trong Cô Nhi Viện, sau ra đời thành công đâu phải là hiếm…
Đâu chắc là đúng. Con cháu vua đi xe lôi, chạy xe ôm cũng chật đường. Trẻ con lúc nhỏ sống trong chùa, trong Cô Nhi Viện, sau ra đời thành công đâu phải là hiếm…
Khâm
mừng là buổi học đầu tiên vui vẻ, thuận lợi. Lớp học kết thúc trong nét mặt luyến
tiếc thời giờ qua mau của từng người.
3.
Bữa hôm đó lớp tan mà hai mẹ con Bác Ba
và thằng Tèo cứ lẩn xẩn theo Khâm hoài. Họ cứ nháy nhó nhau, đùn đẩy qua lại,
như là muốn nói gì đó với Khâm. Cuối cùng Bác Ba nói:
‘Không
nói dấu gì thầy. Mẹ con tôi trước khi vô lớp có ghé chợ mua sáu cái hột vịt Bắc
Thảo tính về ngày mai cả gia đình ăn mừng mới mua đuợc bốn con heo con, xin kiếng
cho thầy 2 cái để tỏ lòng biết ơn thầy cực khổ chỉ dạy chúng tôi.’
Khâm
cảm động, nhưng từ chối khéo:
‘Cám
ơn thiếm Ba. Thiếm giữ lại cho gia đình. Tôi xin được không nhận vì gan tôi yếu,
không dùng được trứng vịt trứng gà. Anh nói dối thêm: ‘Thường tôi ăn ngã về
chay nên dùng nhiều rau củ, không dám dùng trứng.’
Người
đàn bà hơi ngỡ ngàng, nhưng cũng từ tốn bỏ hai trứng vịt kia vô lại với số còn
lại trong giỏ.
Khâm
vỗ vai thằng Tèo:
‘Em
Tèo, Em nói với Má Ba là không nên ăn nhiều trứng vịt Bắc Thảo. Nó ngon vì lạ
miệng nhưng rất độc hại vì có thể họ làm theo một quy trình có tác dụng xấu cho
sức khoẻ người tiêu dùng. Đó là họ ngâm trong nước pha Sulfit đồng để cho trứng mau đổi màu đen và tròng trắng sớm có màu
trong suốt như rau câu.
…Sulfit đồng làm cho trứng ăn được trong
vòng nửa tháng còn bó vôi trộn trấu theo cách thường phải mất hơn ba tháng… Ăn
nhiều trứng làm theo kiểu tốc hành sẽ bị ung thư gan vì chất Sulfit đồng vô cơ thể mình thì tích tụ lại
chờ ngày giờ phát tán chớ không bị thải ra….
Hai
người học trò của Khâm le lưỡi, tỏ ý hiểu.
Sẵn
đà Khâm nói thêm:
‘Ông
bà mình nói: Bịnh tùng khẩu nhập nghĩa
là bịnh theo thức ăn mà vô mình con người, ăn những món tuy ngon miệng, tuy
sang trọng nhưng hoặc dơ dáy, hoặc chứa những thành phần độc hại thì chẳng khác
gì tự tử từ từ, chẳng hạn như ăn nhiều bột ngọt, bột nêm, nhiều đường, nhiều muối,
ăn lạp xưởng, ăn mắm sống, ăn bánh canh giò heo có nhiều da nhiều mỡ, ăn dưa đầu
heo chua, ăn phá lấu, lòng heo, ăn chao ăn tương quá mặn, dùng dấm hóa học…
Thằng
Tèo cười lớn:
‘Mấy
món đó trừ tương với chao, may quá gia đình con vì nghèo chạy ăn từng bữa nên đương
nhiên đã cữ, thầy khỏi lo.’
Khâm
thấy mình hơi dài dòng, anh kết thúc bài giảng ngoài giờ học của mình:
‘Nói
chung ăn nên chọn món lành, món sạch hơn là món ngon miệng, món sang trọng, mắc
tiền mà cầu kỳ. Món càng ngon miệng càng có hại cho người ăn.’
Thằng
Tèo biện luận:
‘Thầy
nói vậy, chẳng lẽ cả nước ăn những món đó bấy lâu nay đều chết hết?’
Khâm
cười hiền, từ tốn:
‘Không
chết hết, nhưng mọi người đều bị chết từ từ, nghĩa là giảm tuổi sống trên đời năm
bảy năm, có khi cả chục năm. Làm cho một hai người chết liền thì bị tội giết người
nhưng làm cho nhiều người chết từ từ vì những món ăn có hại thì được làm giàu
cho nên thiên hạ cứ vô tư mà làm, hãnh diện mà làm…’
Thằng
Tèo đưa hai tay ra bắt tay Khâm tỏ ý tâm phục khẩu phục thầy mình:
‘Thầy
là ngôi sao chỉ đường cho cả lớp được biết đâu là chuyện đúng sai. Con cám ơn
thầy nhiều.’
Khâm
thấy thằng Tèo đã trưởng thành qua câu nói đó. Anh cũng cảm thấy tội nghiệp cho
những người dân ở xã trên ngọn nầy. Họ dốt và bị bịt mắt bấy lâu nay nên sống
quờ quạng, tự đốt bớt đời sống của mình mà không hay biết.
4.
Khâm làm tài khôn dẫn người đồng nghiệp
nữ mắt đỏ hoe vô phòng Sáu Huê khiếu nại. Thường thì Sáu Huê niềm nỡ, nhưng hôm nay như biết trước chuyện hơi khó khăn anh ngồi
chễm chệ sau bàn giấy kềnh càng, mặt
nghiêm nghị, lạnh lùng.
Cô
giáo Trang ngồi rút lại trong ghế coi nhỏ nhít làm sao, rụt rè thưa gởi:
‘Thưa,
nhờ anh Sáu cho em được đổi qua xã khác dạy, chớ ở đây có ngày bà ta giết chết
em.’
Sáu
Huê đổi thế ngồi, tay chống càm, tay kia cầm cây viết bic quay quay như giởn chơi
với nó.
‘…
Em Đức, con của bà ta không chịu học, bài không thuộc, không nộp bài cho về nhà
làm, tập thì rách nát dơ dáy… Hôm qua em Đức lại nghịch, lấy dây cột tóc của bạn
gái ngồi trước mặt, cột vô chưn bàn. Con nhỏ vô tình đứng dậy, đau quá, khóc. Em
giận mới khẻ tay nó mấy cái mà nó đã bỏ chạy về nhà. Má nó, bà vợ ông chủ tịch
xã xách dao bầu xắt chuối chạy vô lớp xỉa xói em, đòi chém chết cô giáo ngụy
quen thói khủng bố con của cách mạng. Em càng cắt nghĩa thì bà càng nổi giận giơ
dao xỉa, giá vô mặt em nói là không muốn thấy em ở xã nầy nữa. May mà có anh Hiệu
Trưởng và mấy thầy cô giáo khác can gián không thôi thì em không biết số phận của
mình ra sao.’
Sáu
Huê tỉnh bơ, cười cười:
‘Mà
cô giáo ngụy có bị sứt mẻ… chút xíu nào không cà! Thôi đừng làm cho chuyện om xòm
thêm nữa. Về dạy bình thường đi. Tôi sẽ gọi điện nói chuyện với chồng bà ta. Tôi
cũng cho rút thằng Đức, học trò cưng của em qua lớp khác, nhưng em Trang không đi
đâu hết. Phòng Giáo Dục Quận với nhân dân trong Quận phải gắn bó, có đâu mà
chuyện mới có chút nị đã làm cho tầy huầy…’
Và
Sáu Huê lịch sự xin lỗi tôi ra ngoài uống nước trà ngồi chờ để anh ta chỉ đạo
việc nầy riêng với cô Trang.
Tôi
ra sân hút thuốc chờ đợi. Tôi hơi chủ quan mới đi với Trang vô phòng của Sáu Huê,
thường mấy chuyện như thế nầy Sở không muốn có người thứ ba nhúng tay vô.
Mười
lăm phút sau, tôi hút tàn hai điếu thuốc, Trang bước ra ngó tôi kín đáo lắc đầu,
mặt buồn buồn. Tôi biết là cô giáo ngụy nầy sẽ còn chịu đựng những giông tố cô linh
cảm trước nhưng không thể làm gì được. Cũng như số phận những người khác đương
dật dờ trên quê hương nầy thôi. ‘Người ta’
có những cách giải quyết khác.
5.
Tối Thứ Hai thằng Tèo tới lớp với cái mặt
trầy trụa băng dán tùm lum và một cánh tay gảy bó bột treo trên cổ. Nó cười vô
tư với Khâm, miệng mở rộng chằng hoạt:
‘Thầy
đừng lo! Con thử nhào xuống coi sông sâu hay cạn vậy mà. Sông cạn sợt, đi bộ ở
dưới còn được, nước chỉ mới tới cần cổ nhưng mà có nhiều cây nhọn, nhiều gạch đá
quá! Lại trơn lù bấu víu vô đâu cũng không được!’ Nó lại cười lớn hơn.
‘Bữa
đó bộ quắc cần câu sao mà nhảy xuống cầu bắt cá?’
‘Cầu
nhỏ mà cao quá cở, chạy vừa mới lên chưa hết dốc, thấy hai mẹ con chị nọ cuốc bộ
lên gần hết dốc đầu kia, thằng nhỏ thấy xe mình phóng tới, nó hết hồn giựt tay
má nó ra vụt chạy bất kể, con lo sợ cho nó nên quên sợ cho mình. Hên là không hất
hai mẹ con họ xuống sông, cầu đâu có lan can đâu nà, trống trơn nên lọt xuống dễ
dàng….’
‘Tèo
quên câu Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi…
mà cẩn thận chạy chầm chậm khi qua cầu…’
‘Cầu
tre thì đã không sao rồi thầy! Họ góp tiền của dân trong xã xây cầu xi măng, nhưng
làm cho có, bề ngang nhỏ quá, chất lượng
kém, nhiều chỗ sát mé bị sứt mẻ làm cho mình chạy xe cũng khó khăn. Tai nạn hà
rầm đó thầy, hai tháng trước có một đứa con gái 9, 10 tuổi té cầu chết. Con cái đầu xỉa thuốc kiểu nầy là nhẹ…’
Rồi
nó vừa tâm sự vừa triết lý:
‘Nước
mình nhiều sông, nhiều rạch, cần phải thông thương bằng thiệt nhiều cầu, để dân
chúng bên nầy dễ liên lạc được với bên kia vậy mà. Còn không thôi ai ở đâu ở đó,
tới bao giờ người ta mới mở mắt thân thiện với những người không phải ở khu xóm
mình. Con mơ ước có thiệt nhiều những cây cầu đơn sơ nhưng chắc chắn bắc qua sông
qua rạch, trước là mở đường lưu thông, sau là nối tình người. Con mơ, con mơ… nước
mình có những cây cầu chắc chắn như mấy xứ nghèo chung quanh. Dân chúng họ coi
lẩm rẩm vậy mà may mắn, những cây cầu bên xứ họ làm cho cuộc sống dễ chịu hơn,
không làm cho người ta té sông, không làm cho con nít chết đuối…’
Thằng
Tèo nói như bà nhập, Khâm kêu nó về
chỗ ba hồi bốn chập nó mới về chỗ ngồi, mắt lim dim chắc là mơ những cây cầu vững
vàng để thanh niên như nó chạy xe khỏi nhào xuống sông mất công đo coi nước sâu hay cạn…
6.
Nửa năm sau, Khâm đi thăm Sáu Huê trong
phòng cấp cứu bịnh viện tỉnh.
Người
đàn ông lớn con, mạnh khỏe da mặt hồng hào ngày xưa đã thành một con bịnh đương
đi xuống tuyệt cùng dường dốc của sức khỏe: ốm o, xanh xao và không cử động được
nhiều, dây nhợ chằng chịt ở mũi, ở tay.
Sáu
Huê ứa nước mắt thều thào trong cổ họng:
“Tiếc
là ngày trước anh Khâm khuyên tôi đừng hút thuốc, nên cữ rượu và bớt trác táng
nhưng tôi cười khinh dễ bỏ qua khi thấy mình mạnh khỏe, tôi cữ cái húp nước, ít hút thuốc lúc làm việc
nhưng đi karaoke nhiều hơn. Mà anh biết
đó, vô trỏng là rượu như nước và biết bao nhiêu thứ khác dưng tới miệng không
thể ngó lơ được. Cứ nói mình không phải là thánh nên xã cảng…. bây giờ….’
Khâm
khuyên anh Sáu đừng nói nhiều, tịnh dưỡng và báo tin buồn là cô giáo Trang bị
nhiều áp lực nên đã vượt biên cho tới bây giờ hơn 3 tháng rồi mà không nghe tin
tức gì. Có thể là chuyện không may đã xảy ra cho cô ta….
Khâm
nói mà không dám nhìn Sáu Huê, anh ngó qua cái màn mỏng che ơ hờ cửa sổ. Ngoài
kia trời nắng u u buồn.
Sáu
Huê thở dài, day mặt vô vách, sợi dây nylon chuyền nước biển trên cánh tay trái
anh, vướng víu, Khâm sửa lại. Dầu sao Sáu Huê vẫn tốt hơn nhiều người khác đương
quyền mà Khâm biết.
Anh
nói để người bịnh vui lòng khi nhìn trong phòng chỉ có hai giường sạch sẽ với
hai bịnh nhơn, người nuôi bịnh chỉ ngồi ngoài hành lang hay đứng lớ ngớ trước cửa
phòng, không dám vô:
‘Bịnh
viện nầy cao cấp, anh lại thuộc diện tiêu chuẩn cao, chắc chắn rồi sớm muộn gì cũng
bình phục…’
Nụ
cười buồn tuy héo hắt nhưng cũng nở trên mặt Sáu Huê dầu là một thoáng rất mau:
‘Chuyến
nầy về tôi tu. Tu theo hai cách, đi chùa,
sống lành mạnh hơn và giải quyết công việc hợp lý hơn.’ Tiếp
theo câu nói là tiếng thở dài và cơn ho xé phổi của Sáu Huê. Khâm kéo tấm mền
che cái bụng bự óc ách mềm nhũng của anh ta.
‘Anh
là gạch nối giữa người cũ và người mới. Chúng tôi cám ơn anh nhiều. Anh nghĩ
coi nếu gặp người khó khăn hơn chúng tôi còn khổ biết bao nhiêu.’
Hình
như Sáu Huê hiểu câu nói của Khâm là câu trách ngầm nên nhắm mắt lại, phân trần:
‘Áp
lực từ nhiều phía anh ơi. Áp lực mạnh lắm! Cơ chế anh ơi. Cơ chế như gọng kềm sắt!
Có những quyết định mình cảm thấy bất công mà không ký là không xong đâu. Chuyến
nầy hết bịnh về tôi nguyện sẽ làm cây cầu nối
kết giữa những người hai bên sông vì cho tới bây giờ phải nói là thiếu sự
thông cảm giữa chúng tôi với các anh. Phải có những cây cầu và có nhiều người
thong thả đi qua cầu, đem chuyện của bên mình chia xẻ với bên kia. Phải hiểu
nhau vì lâu nay xa lạ do sống trụ ở hai bên bờ, không có phương cách giao tiếp..…’
Khâm
ứa nước mắt. Câu nói của người sắp chết là câu nói thiệt lòng, nhưng Trời ạ, bi
thương quá đổi, như tiếng của con chim cố gắng hết sức hót lần chót. ‘Chúng ta
hai bên chưa tương thông. Cần phải có những cây cầu, cây cầu tượng trưng, nhưng
mà là cây cầu.’
Và
chuyện té sông của thằng Hai Tèo nhảy vô trong trí làm cho những giọt nước mắt
của Khâm đột ngột rớt lên chéo mền buông thỏng của Sáu Huê. Khâm bước như chạy ra
khỏi phòng bịnh nhân, mắt còn ràn rụa, bất chấp những cái nhìn nửa ngạc nhiên nửa
khinh khỉnh của nhiều người trong Sở vừa mới tới để làm bổn phận viếng thăm xếp
lớn. Khâm nói với chính mình:
‘Vâng!
Rất cần những cây cầu. Và rất cần người qua lại. Càng nhiều càng tốt.’
Nguyễn Văn Sâm
Victorville,
CA June 18- 23/ 2013
NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI
Khai mạc Ngày Giới trẻ Công giáo thế giới
Cập nhật: 03:57 GMT - thứ tư, 24 tháng 7, 2013
Khoảng 400.000 tín đồ Thiên
chúa giáo La Mã đã tham gia vào một thánh lễ trên bãi biển
Copacabana ở thành phố Rio de Janeiro của Brazil để mở màn Ngày
Giới trẻ Thế giới.
Tâm điểm của sự kiện này sẽ là chuyến thăm của Giáo hoàng Francis vào thứ Năm ngày 25/7.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Ông chào đón các tín đồ đến với lễ hội kéo dài năm ngày, dự kiến sẽ thu hút khoảng 1,5 triệu người trên khắp thế giới.
Trong khi đó, Giáo hoàng Francis không có chương trình chính thức gì trong ngày 23/7 và dành thời gian ở dinh thự riêng.
Dự kiến Ngài sẽ chào đón các tín đồ trên bãi biển Copacabana vào ngày 25/7.
Cúp điện đột xuất
Khi gần đến giờ khai mạc, giao thông ở Rio trở nên hỗn loạn sau khi hệ thống xe điện ngầm dừng chạy vì cúp điện.Hai tuyến xe điện ngầm của thành phố đã bị tê liệt trong hai giờ đồng hồ sau đường dây tải điện bị vỡ, thông cáo của Sở xe điện ngầm Rio cho biết.
Rất nhiều tín đồ muốn đến dự thánh lễ khai mạc đã bị mắc kẹt trong khi những người khác thì chen chúc nhau lên xe buýt và taxi hướng ra bãi biển.
Cảnh sát đã phải can thiệp để ngăn cản một nhóm hành khách giận dữ không cho họ ào vào một trong những nhà ga tàu điện ngầm chính, một đài phát thanh địa phương tường thuật.
Nhiều người đã chặn đoàn xe của Đức Giáo hoàng đang chạy trên đường phố Rio và chìa tay vào bên trong xe của Ngài qua cửa kính để mở.
“Thư ký của Đức Giáo hoàng nói với tôi
rằng ông ta rất kinh sợ nhưng Ngài vẫn nở nụ cười,” Cha Federico
Lombardi, phát ngôn nhân Vatican, nói với các phóng viên.
Trước đó Đức Giáo hoàng đã được bà Dilma
Rousseff, tổng thống nước chủ nhà, tiếp đón chính thức tại
Dinh Thống đốc của bang Rio.
Tuy nhiên ở bên ngoài, cảnh sát đã bắn hơi
cay để giải tán đám đông đang biểu tình phản đối chính phủ
cũng như chi phí cho chuyến thăm của Giáo hoàng.
Vào thứ Tư ngày 24/7, Ngài sẽ đến viếng đền thờ Đức Mẹ Aparecida ở bang Sao Paulo.
Một thiết bị nổ tự chế đã được phát
hiện ở nơi này hôm Chủ nhật 21/7. Tuy nhiên giới chức địa phương
cho biết nó chỉ có ‘sức công phá nhỏ’ và không ở gần chỗ
giáo hoàng và các tín đồ dự kiến sẽ đến thăm.
Linh mục Lombardi sau đó nói rằng việc này không gây quan ngại.
Theo yêu cầu của chính Đức Giáo hoàng,
Ngài cũng sẽ đến thăm một bệnh viện ở Rio vào ngày 24/7 là
sẽ nói chuyện với những thanh niên đang được cai nghiện ma túy
tại đây.
Trước sự hiện diện cuả hằng trăm giám mục và khoảng 300 ngàn thanh
niên thiếu nữ từ khắp nơi qui tụ về đây, cây Thập Giá Giới Trẻ và bức
linh ảnh Đức Mẹ đã được rước lên một khán đài vĩ đại mới được dựng lên
trên bãi biển, trong một khung cảnh ca nhạc và ánh sáng muôn màu.
Cuộc rước hai biểu hiệu cuả giới trẻ đã đi
qua một rừng cờ cuả các quốc gia trên thế giới, trong đó có sự hiện diện
cuả lá cờ vàng Việt Nam, đi đồng hành với bức linh ảnh một đoạn đường
dài.
Đức Tổng Giám Mục Orani Tempesta của Rio de Janeiro, chủ sự buổi lễ,
đã chào đón khách hành hương và thúc giục họ truyền bá niềm vui và sự
bình an của Chúa Giêsu Chúa Kitô cho toàn thế giới.
“Hãy đi vào thành phố, làm chứng cho Chúa
Giêsu Kitô, cam kết với thế giới mới”, Đức Tổng Giám Mục Tempesta lên
tiệng hô hào trong bài giảng.
“Hãy lây lan đến tất cả mọi người niềm vui và sự bình an của Chúa
Kitô, và như những người lính canh buổi sáng, hãy làm việc cho sự đổi
mới của thế giới trong ánh sáng hướng dẫn của Thiên Chúa.”
Nhân danh là người đứng đầu của Giáo Hội trong thành phố chủ nhà, Đức
Tổng Giám Mục Tempesta chào đón những người hành hương Ngày Giới trẻ
Thế giới rằng “thành phố kỳ diệu này trở nên đẹp hơn với sự hiện diện
của quí bạn.”
Trần Mạnh Trác
NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI
Ngày Giới Trẻ 2013: ít tín hữu hơn, nhưng nhiều cảm nghiệm mạnh mẽ hơn 7/22/2013 4:37:09 PM Con số khách hành hương tham dự Ngày Giới Trẻ tại Rio hiện đang là đề tài được nhiều người bàn tán. Ban tổ chức dự trù trên dưới 2 triệu người tham dự, nhưng cho tới nay, số người chính thức đăng ký chưa tới 400,000 người.
Báo chí Tây Phương vẫn mang não trạng riêng của họ khi bàn tới con số này. Với họ, số tiền tối đa trên dưới 200 dollars cho một tuần đại hội gồm cả ăn uống, di chuyển và chỗ ở chẳng là bao, ai cũng có thể “đăng ký” được để tham dự chính thức. Thành thử không đăng ký nghĩa là không tham dự. Nhưng ở một nước vẫn còn rất nhiều người nghèo như Ba Tây, số tiền ấy không nhỏ, khiến đa số chắc chắn sẽ chọn giải pháp “dự cọp” như người ta quen đọc báo cọp vậy, nghĩa là vẫn tham dự dưới một hình thức bất chính thức nào đó... Nói cho cùng, dù họ có ở nhà đi chăng nữa, họ vẫn có thể tham dự qua truyền thanh, truyền hình, qua bất cứ phương tiện truyền thông rẻ tiền nào, miễn là hòa mình với đoàn người đông đảo tại Rio để lắng nghe người con đầu tiên của miền đất của họ lên tiếng với họ lần đầu tiên ngay trên miền đất này. Con số tham dự vì thế là con số không thể đếm được, một con số vô hình.
Đức Phanxicô, khi tới chủ tọa Ngày Giới Trẻ tại Rio, chắc chắn là người không chỉ nhìn vào con số hữu hình những người tham dự. Bởi nếu không, ngài đã khuyến khích người đồng hương Á Căn Đình của ngài, bất chấp cảnh nghèo, vẫn “hãnh tiến” mua vé máy bay tới Rôma dự lễ đăng quang của người con đầu tiên của đất nước trên “ngai” Phêrô!
Riêng phái đoàn Hoa Kỳ lần này chỉ gồm 9,500 khách hành hương, rất ít so với con số 29,000 người tham dự Ngày Giới Trẻ Madrid năm 2011, ít hơn cả con số 15,000 người tham dự Ngày Giới Trẻ Sydney năm 2008, và 24,000 người tham dự Ngày Giới Trẻ Cologne năm 2005. Một trong các yếu tố tạo nên sự giảm sút này đã được nhận diện là tiền, tức chi phí di chuyển tới Rio. Yếu tố thứ hai là an ninh, tiếp theo nhiều vụ biểu tình chống chính phủ Ba Tây vừa qua.
Dù thế, Christopher Bellitto, một sử gia Giáo Hội tại Đại Học Kean ở Union, N.J., cho rằng bất kể số người tham dự là bao nhiêu, địa điểm tổ chức năm nay và sự hiện diện của Đức Phanxicô trên diễn đàn thế giới chắc chắn sẽ làm cho Ngày Giới Trẻ 2013 thành một biến cố đáng nhớ.
“Đây sẽ là một lễ hội đặc biệt, một thứ trở về quê hương đối với vị giáo hoàng đầu tiên của Châu Mỹ La Tinh. Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã trở thành một loại tập hợp có tính động viên (pep rally) đối với Đạo Công Giáo”.
Tại những cuộc tập hợp trước đây, Đức Bênêđíctô từng lên tiếng chống lại ý niệm coi Ngày Giới Trẻ Thế Giới như một cuộc tập hợp thế tục hay một buổi trình diễn nhạc rock, như người ta vốn mô tả, vì việc tăng cường đức tin Công Giáo lúc nào cũng là phần chính của biến cố và càng là như thế đối với trường hợp Ba Tây. Theo Nghị Hội Pew, năm 1970, tỷ lệ người Công Giáo Ba Tây là 92% dân số, hiện nay, tỷ lệ ấy tròm trèm vào khoảng 65%. Từ năm 2000 tới năm 2010, dân số Công Giáo giảm mất 2 triệu, trong khi con số Thệ Phản tăng từ 26 lên 42 triệu người, chiếm 22% dân số.
Theo Bellito, chỉ trong vòng vài tháng đầu trong triều giáo hoàng của ngài, Đức Phanxicô đã mạnh mẽ khuyến khích người Công Giáo truyền giảng Tin Mừng và đã nhiều lần ngỏ lời với người Công Giáo bỏ đạo cũng như người vô thần và người thuộc các niềm tin khác. Trong các cuộc thăm dò dư luận, ngài được cả người Công Giáo lẫn người không Công Giáo đánh giá rất cao, nhờ văn phong và nhân cách phi truyền thống của ngài. Hai yếu tố này chắc chắn sẽ dành được nhiều cảm tình cho Giáo Hội nhân chuyến viếng thăm lần đầu của ngài tại Ba Tây.
Trước khi lên đường, Đức Phanxicô đã nói rõ ngài sẽ không sử dụng chiếc giáo hoàng xa bít bùng quen thuộc, và sẽ chỉ dùng chiếc jeep mui trần mà thôi, như ngài vẫn dùng tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô ở Rôma. Trong chuyến tông du lần này, ngài sẽ vượt đoạn đường 120 dặm từ Rio tới Aparecida để kính viếng Đức Mẹ, lên tiếng với cư dân một khu ổ chuộc tại Rio và thăm các bệnh nhân AIDS, thăm người nghèo và các tù nhân trẻ tuổi.
Bellito cho rằng: Đức Phanxicô cũng giống Đức Gioan Phaolô II, là vị giáo hoàng hướng ngoại, một đặc điểm sẽ được chú ý nhiều khi ngài lên diễn đàn tại Ba Tây. Năm nay, chắc chắn sẽ có nhiều nghị lực hơn chỉ vì Đức Phanxicô chơi trên sân nhà, có thể nói như thế. Chắc chắn ngài không bị trói buộc bởi truyền thống. Điều ngài làm chắc chắn sẽ gây bất ngờ.
Đối với các người trẻ hành hương như Calderon thuộc một giáo xứ ở Brooklyn, New York, Ngày Giới Trẻ Thế Giới luôn là dịp để suy niệm và gắn bó. “Quả là kỳ diệu được gặp gỡ người khắp thế giới, những người hoàn toàn cởi mở trong việc chia sẻ đức tin. Thoạt đầu, bạn có thể lo lắng, vì có quá nhiều việc phải lo khiến bạn bối rối. Nhưng khi gặp Đức Giáo Hoàng, bạn sẽ cảm thấy vừa thanh thản vừa rất phấn khích, thậm chí đầy yêu thương nữa”.
Người hành hương 2013 đối diện với cảnh nghèo
Không Ngày Giới Trẻ Thế Giới nào lưu tâm tới cảnh nghèo bằng Ngày Giới Trẻ năm nay tại Rio. Điều này dễ hiểu, một phần vì giới trẻ thế giới, dù muốn dù không, một là họ sẽ được Đức Phanxicô nhắc nhở khi ngài đích thân tới thăm khu ổ chuột tại Rio hai là chính họ sẽ được gặp người nghèo ngay tại Rio, thậm chí ngay tại những nơi họ học giáo lý. Đàng khác Châu Mỹ La Tinh cũng là châu lục sáng chế ra thuật ngữ bất hủ, từng trở thành câu tâm niệm trong học thuyết xã hội Công Giáo của thế kỷ 20: ưu tiên chọn người nghèo.
Điều ấy khiến những bài tường thuật của Cha Tuấn mấy ngày nay trên Vietcatholic thu hút được rất nhiều người đọc. Không như những tường thuật có tính phèng la, huênh hoang hãnh tiến, nhằm nói về mình của một số người, kể cả người lãnh đạo các nhóm hành hương. Nhóm Cha Tuấn quả đã nắm bắt được tinh thần Rio 2013.
Một nhóm khác đến từ Miệt Dưới, miệt Down Under của quả địa cầu, là nhóm của Tổng Giáo Phận Sydney, của Đại Học Công Giáo Úc và của các trường Công Giáo khắp Sydney. Trong hai ngày tiền đại hội, họ đã dừng chân để giúp xây một nhà nguyện, một trung tâm sinh hoạt và nhiều bậc thang đá trộn và nhiều lối đi tại Pamplona Alta, một khu phố tồi tàn bên ngoài thủ đô Lima của Peru. Đây là nơi cư trú của hơn 400,000 người nghèo, người rời cư hoặc bị chiếm đất, gồm cả phụ nữ và trẻ em.
Nhiều nhóm hành hương xuất phát từ Sydney vốn đã đến thẳng Lima vào tuần rồi và bắt tay ngay vào việc xây dựng một nhà nguyện và một trung tâm sinh hoạt tại khu ổ chuột. Các nhóm khác, như nhóm 62 người do Đức HY Pell trực tiếp hướng dẫn, sau khi thăm Nhà Thờ Chánh Tòa Lima và thăm đền thờ Thánh Nữ Rôsa thành Lima, đã tham gia dự án này từ hôm thứ Tư.
Các bậc thang bằng đá trộn sẽ làm cho cuộc sống dễ chịu và an toàn hơn đối với các gia đình sống trên những sườn đồi tại các khu tồi tàn của Lima.
Ngày Giáo Phận vốn đã là đặc điểm của các Ngày Giới Trẻ Thế Giới trước đây, nhưng đối với ngày Giới Trẻ Thế Giới lần này tại Rio, các khách hành hương được khuyến khích tham dự các kinh nghiệm hòa mình (immersion) và các dự án truyền giáo vùng xa nhằm tạo ra các thay đổi tích cực đối với cuộc sống của những cộng đoàn nghèo nhất trên thế giới.
Phái đoàn Úc gồm 1,500 người trẻ và 300 nhà lãnh đạo nhóm, các tu sĩ, linh mục và giám mục cùng đi với họ đều là những người khỏe mạnh về thể lý, nhưng phải khai phá đất đá trong cái giá lạnh giữa mùa đông trên những sườn đồi dốc của khu ổ chuột Pamplona, trước khi xây được những bậc thang bằng đá trộn hay nhà nguyện và trung tâm sinh hoạt, quả không phải là việc dễ.
Ashlee Payne, thuộc Trường Đại Học Công Giáo Úc, một trong các thiện nguyện viên tại Pamplona, cho hay: “Nhưng nó cũng rất phấn khích”. Cô đang học để trở thành một cô giáo. Theo cô, với lòng yêu ngành giáo dục và khả năng của ngành này, tập chú của cô là các trẻ em của khu ổ chuột. Cô mong các em sẽ theo chân các người hành hương của Ngày Giới Trẻ Thế Giới trong việc giúp các cư dân của các cộng đoàn đang khốn khổ vì cảnh nghèo này.
Gertrude Lancanilao, cũng là một sinh viên của ĐHCG Úc và là một lãnh tụ của YFC của vùng Đông Sydney, cho rằng “phần lớn chúng tôi thức dậy đau cả mình mẩy và rất mệt, nhưng tinh thần thì rất vui tươi. Đối với tôi, điều nổi bật trong mấy ngày qua là cảm thức hân hoan và hy vọng mà tôi biết chắc do Chúa Kitô mang tới”.
Gertrude cho biết khi các nhóm hành hương họp nhau để kể lại kinh nghiệm của họ, mọi người đều đồng ý là khu ổ chuột đã biến thành một khu đẹp đẽ hơn. “Đây là nơi đem lại vẻ đẹp cho cho tâm hồn người ta. Không phải chỉ vì ngôi nhà nguyện, việc làm chung hay các trẻ em mà vì tình yêu. Chính tình yêu đem đến hy vọng và do đó, thật nhiều hân hoan”.
Dân số Pamplona hiện lên tới 400,000 người, không kém dân số một thành phố lớn. Như trên đã nói, họ là những người rời cư và bị cướp đất, phải sống trong những túp lều xiêu vẹo làm bằng bất cứ vật liệu gì lượm được. Pamplona không có nước máy, không có cống rãnh, không có điện và cũng không có cả cây cối để giữ đất truồi trong mùa đông hay cho bóng mát trong mùa hè.
Phần lớn cư dân của Pamplona là dân cày buộc phải rời đất đai của họ để tránh bách hại và bất an. Bất chấp cảnh nghèo và cuộc sống cam go, các người hành hương Sydney thấy đây là những cộng đoàn hết sức sinh động, nơi ai cũng sẵn sàng giúp người khác và là nơi, cùng với các mạng lưới xã hội, họ đã thiết lập được một hạ tầng cơ sở cơ bản, các trung tâm nhỏ để hội họp, thậm chí cả trường học cho con em của họ nữa.
Chính vì thế, người hành hương đã hết mình đến gặp gỡ họ. Càng tới gần khu ổ chuột, đường càng dốc và càng hẹp lại. Người hành hương đành xuống xe, cuốc bộ 300 mét để leo dốc lên tận khu dân cư.
Không những rất dốc, đường đi còn phủ đất sét trơn trượt, trên đó, không một cây cối nào có thể mọc được bên cạnh sỏi đá, đá tảng rải rác khắp nơi.
Mark Rix, trưởng ngành truyền thông của Sở Giáo Dục Công Giáo Sydney, người cùng đi với nhóm hành hương của các trường Công Giáo cho hay: Cảnh nghèo ở đây rất não lòng và cực kỳ thách thức. Nhưng không làm các nhóm hành hương nản lòng. Một trong các việc đầu tiên là dựng lên một khung gỗ gồm 43 bậc thang trước khi đổ đá và xi măng vào từ dưới lên tận đỉnh. Không có dây chuyển, không có xe tải chở xi măng hay côngkrít trộn. Thay vào đó, chỉ mang bao tay làm vườn, thùng nhựa và các can xăng biến cải, các nhóm đã lập hàng dài để chuyển khối đá và xi măng này từ dưới lên trên.
Ngày Giới Trẻ Thế Giới còn mấy ngày nữa mới tới và tới tại quốc gia láng giềng, nhưng người trẻ hành hương của Sydney quả đã bắt đầu sống tinh thần Ngày Giới Trẻ năm 2013 ngay tại Pamplona này rồi. Rix cho rằng: “Đối với tất cả chúng tôi, du hành tới Ngày Giới Trẻ Thế Giới là một ân phúc. Hôm nay, chúng tôi đã đền đáp ân phúc ấy”.
Vũ Văn An
ĐỨC GIÁO HOÀNG NHÂN BẢN FRANCIS
TỪ LỜI CỦA ĐỨC
GIÁO HOÀNG NHÂN BẢN FRANCIS, NGƯỜI CÔNG GIÁO VN PHẢI LÀM GÌ?
Thân Gửi người Công
giáo đang sống ở Việt nam .
Trong chuyến công
du đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Francis đến khai mạc Ngày giới trẻ Thế Giới
(WYD) tại Brazil. Ngài đã đến thăm một khu “ổ chuột” tại Varginha, a favela in
north Rio de Janeiro , trong bối cảnh của những người nghèo đang biểu tình
đòi hỏi sự thay đổi, cải cách xã hội và ngài đã tuyên bố như
sau:
Trích:
“I know [you are] often disappointed with news of corruption and with people who, instead of seeking the common good, seek their own benefit,” he told the young people of Brazil.
“…Do not be discouraged, do not lose confidence, reality can change, man can change.”HT./
Khi bất công xã hội được tôn vinh, khoảng cách giữa người nghèo và giàu qúa cách biệt thì Xã hội không bao giờ có An Bình .
Sống dưới chế độ csVN, từ ngày được gọi là thống nhất đất nước, đã có bao điều bất công, tàn ác của đảng cộng sản VN phủ lên đầu những người dân thấp cổ bé miệng, đất nước csVN đã sản sinh ra một lớp “quí tộc” mới, cướp đất , cướp nhà dân, buôn bán phụ nữ ra ngoại quốc v.v…..
Người dân Việt Nam và nhất là người công giáo Việt Nam còn chờ gì nữa !!!??? Hãy đứng lên đòi lại quyền sống, quyền làm người đích thực của mình như lời huấn dụ của Đứa Giáo Hoàng Francis đã nói với giới trẻ Brazil ! Hãy can đảm, đừng đánh mất niềm tin, thực trạng sẽ thay đổi và con Người có thể làm thay đổi được mọi thứ.
Hãy can đảm lên những Thanh thiếu niên công giáo Việt Nam !
(Fw: t tran <zigzag928@yahoo.com>, CNV, 7/26/13, 11.00PM)
VỢ TÔI KHÔNG ĐI LÀM
VỢ TÔI KHÔNG ĐI LÀM
Một nhà báo phỏng vấn một độc giả.
-Hiện nay bạn làm gì?
-Tôi làm thư ký cho một ngân hàng.
-Anh đi làm thế bà chị làm gì?
-Nhà tôi không làm gì cả. Bà chỉ lo nội trợ thôi.
-Thế ai lo việc ăn sáng cho cả nhà?
-Bà vợ tôi lo vì bả không đi làm.
-Thế vợ anh dậy lúc mấy giờ để lo bữa ăn sáng?
-Nhà tôi dậy khoảng 5 giờ, lo lau nhà, lau bếp rồi lo bữa ăn sáng.
-Thế các con của bạn đi học bằng phương tiện nào?
- Vì bả không đi làm nên phải đem các con đi học.
-Sau khi đem các con đi học, chị nhà làm gì?
- Vì bả không đi làm nên sau khi đem các con đến trường, bả đi chợ, rồi về làm cá thịt, nấu cơm và giặt rủ quần áo.
-Buổi chiều, khi anh đi làm về thì anh làm gì?
-Cả ngày làm mệt nên tôi nghỉ ngơi. Hoặc ngồi đọc báo, xem TV, nghe nhạc.
-Còn vợ anh làm gì?
- Vì nhà tôi ở nhà, không đi làm nên nhà tôi phải lo cơm nước, săn sóc lũ trẻ,và ăn xong thì dọn chén bát. Sau đó, bả dạy các con học rồi cho các con đi ngủ.
HÀ LỊCH THIỆP * VĂN HÓA
Bạn ơi,
Sở dĩ người Việt Nam trong nước xuống dốc về mọi mặt, và thê thảm nhất là về mặt Đức Dục như bạn đã nêu trong bài nhận định không phải lỗi do con người Việt Nam đâu, mà là do cái tên mặt cáo họ Hồ tên Tặc và đồng bọn đã du nhập cái tà thuyết loài khỉ vượn về quê hương cho nên dân tình ngày nay mới như vậy.
Tại sao cũng là con người Việt, khi sống ở hải ngoại thì khác về mọi mặt với người trong nước. Cũng bởi cách "trồng người" của lũ đầu trâu mặt ngựa đấy.
Bây giờ muốn tìm lại những lối sống và cách ăn, cách nói của người dân Việt như trước khi xuất hiện tên mặt cáo họ Hồ và cái đảng cướp ngày, chỉ còn cách toàn dân vùng dậy noi gương người hùng Đoàn Văn Vươn dẹp tan cái đảng thúi tha này đi thì mới có cơ tìm lại những cái hay cái đẹp trở về với dân tộc.
Chưa đầy một thế kỷ mà cái đảng Việt cộng nó tàn phá hết những cai hay, cái tốt, cái đẹp của ông cha đã xây dựng hơn 4 ngàn năm trong bao nhiêu đời truyền lại cho con cháu.
Bọn Việt cộng phải gánh chịu mọi trách nhiệm và phải trả lại tất cả những gì chúng đã cướp, đã phá hoại trên quê hương.
Thân chào Bạn.
SGM
Sở dĩ người Việt Nam trong nước xuống dốc về mọi mặt, và thê thảm nhất là về mặt Đức Dục như bạn đã nêu trong bài nhận định không phải lỗi do con người Việt Nam đâu, mà là do cái tên mặt cáo họ Hồ tên Tặc và đồng bọn đã du nhập cái tà thuyết loài khỉ vượn về quê hương cho nên dân tình ngày nay mới như vậy.
Tại sao cũng là con người Việt, khi sống ở hải ngoại thì khác về mọi mặt với người trong nước. Cũng bởi cách "trồng người" của lũ đầu trâu mặt ngựa đấy.
Bây giờ muốn tìm lại những lối sống và cách ăn, cách nói của người dân Việt như trước khi xuất hiện tên mặt cáo họ Hồ và cái đảng cướp ngày, chỉ còn cách toàn dân vùng dậy noi gương người hùng Đoàn Văn Vươn dẹp tan cái đảng thúi tha này đi thì mới có cơ tìm lại những cái hay cái đẹp trở về với dân tộc.
Chưa đầy một thế kỷ mà cái đảng Việt cộng nó tàn phá hết những cai hay, cái tốt, cái đẹp của ông cha đã xây dựng hơn 4 ngàn năm trong bao nhiêu đời truyền lại cho con cháu.
Bọn Việt cộng phải gánh chịu mọi trách nhiệm và phải trả lại tất cả những gì chúng đã cướp, đã phá hoại trên quê hương.
Thân chào Bạn.
SGM
*************
Mẫu chuyện về Nghệ thuật sống :Làm ơn, xin lỗi và cám ơn
Người Việt ta luôn tự hào là có bốn ngàn năm văn hiến. Thực ra, đã gần năm ngàn năm. Chính xác là 4907 (?), bước vào năm Mậu Dần (?).
Thế nhưng, chữ nhưng oan nghiệt, thế giới “bảo” chúng ta không biết nói làm ơn, xin lỗi và cám ơn trong cuộc sống hàng ngày.
Làm ơn, xin lỗi và cám ơn là những câu nói thường xuyên của người Hoa Kỳ.
Mở cửa dùm cô gái khệ nệ bê mấy bịch đồ vừa mua đang đi ra khỏi cửa hàng, cô gái nhoẻn miệng cười, “Thank you.” Lượm dùm cây viết cô thư ký lỡ tay đánh rớt, cô thư ký, “Thank you.” Chồng nhờ vợ đưa dùm con dao để ông thái thịt làm bếp, cô vợ với tay lấy con dao đưa cho ông, ông chồng, “Thank you, honey.” Nhường cụ bà bước lên xe buýt khi xe vừa đậu tại bến, bà lão, “Thank you.” Cô bé bật dùm ngọn đèn cho ông bố, ông bố ”Thank you.”
Nhất nhất, hầu hết dân Mỹ, nếu không muốn nói là tất cả đều sẵn sàng câu cám ơn cho người làm dùm mình việc gì đó, dù là việc rất nhỏ.
Tại một quán cà phê sáng chủ nhật đông đúc khách hàng, đi lại khó khăn, lỡ tay đụng người bên cạnh, "I am sorry." Tại một “night club,” vừa biết nhảy đầm nên… lỡ nhịp đạp trúng chân người tình, anh kép, “Sorry, baby.” Trên xe buýt, một chàng ngồi giữa hàng ghế, tới bến xe gần nhà, xe buýt dừng lại cho chàng xuống. Chàng trai trẻ nhìn mọi người hiền hòa, “Excuse me,” chờ mấy người ngồi đầu hàng ghế xếp đôi chân gọn lại hoặc tạm thời đứng lên bước ra ngoài, nhường lối cho chàng đi. Ra khỏi hàng ghế, chàng nhìn mấy người đó, “Thank you,” trước khi bước xuống xe buýt. Người cha đã hứa mà vì công việc bận rộn không đưa con đi coi trận đấu bóng rổ cuối tuần, ông bố, “Sorry, son.” Cô vợ ngồi trước máy tính miệt mài đánh máy cho xong bản báo cáo phải nộp gấp cho xếp sáng sớm mai. Anh chồng thương vợ tới bóp nhẹ vai nàng nhưng có lẽ hơi mạnh tay (chắc là không phải mượn dịp để… trả thù). Cô vợ, "Ái da, đau anh." Anh chồng vội vàng, “Honey, I’m sorry.”
Cũng vậy, nhất nhất, người Hoa Kỳ đều biết xin lỗi khi làm một việc gì đó không phải, không đúng đối với những người xung quanh bất kể lớn nhỏ, dù chỉ là lầm lỡ, không cố ý.
Cùng với cám ơn và xin lỗi, hai từ làm ơn cũng được người Mỹ thường xuyên sử dụng. Ví dụ, “Honey, please get me a cup of coffee;" hay, "Would you please go to the market and buy me a box of chocolate. I’m hungry;" hoặc, "Can you do me a favor, get me (something).” Cần người khác làm gì cho mình, dù là việc nhỏ, họ đều nói làm ơn, làm dùm tôi chuyện này chuyện kia, nha.
Thêm một điều nữa là họ không soi mói, không xía vào chuyện cá nhân không phải của họ. Đèn nhà ai nấy rạng, đêm nhà nào nấy tối. Ai cũng ráng giữ lịch sự tối thiểu. Chúng ta phải tập để bỏ thói xấu tọc mạch, ngồi lê đôi mách, kể tội, nói xấu nhau. Có gì thắc mắc, cứ việc hỏi thẳng và chất vấn đương sự để làm sáng tỏ sự việc, không nên đi kể lể, kết tội với những người không liên hệ làm mất sự kết đoàn không cần thiết, nhất là sinh hoạt trong cùng một tổ chức.
Hồi tôi mới qua Mỹ, bắt đầu bay ở Hồng Kông, và máy bay đáp xuống phi trường San Francisco lúc trời vừa sáng. Lúc đó bên Hồng Kông cũng đã bắt đầu đêm. Được dạy người Tây phương rất lịch sự nên dù buồn ngủ cũng phải ráng nhướng mắt lên, chịu không nổi lâu lâu cũng ngủ gật. Mỗi lần gật một cái là tôi vội vàng banh mắt ra, rồi lén nhìn chung quanh coi có ai… cười mình không. Thấy thiên hạ tỉnh bơ. Cô gái ngồi gần tôi thì chúi mũi vào quyển sách; ông già ngồi cách một hàng ghế cũng bâng quơ nhìn những con chim sắt lên xuống trên bầu trời sẫm mây đen, chắc đang bận lo con cái ông lái xe về từ phi trường có gặp mưa lớn hay không; mấy người khác xa xa cũng chẳng ai để ý. Nhưng tôi vì tự ái… dân tộc, nhất quyết chỉ… gật chứ không chịu nằm dài ra mấy băng ghế ngủ tạm, sợ Mỹ họ cười, nhưng họ lại nhất định không thèm cười mới chết mình chứ. Kể ra thì mình cũng chỉ lo hão đấy nhỉ.
Còn các cơ quan nhà nước thì sao? Cũng vậy. Các văn phòng trong tòa thị chính đều mở và đóng cửa đúng giờ. Nhân viên chính quyền thì niềm nở, lịch sự với dân chúng tới xin giấy tờ hoặc xin giúp đỡ, vì họ đúng là đầy tớ, ăn lương từ tiền thuế của nhân dân, nên phải phục vụ nhân dân đúng mực. Lộn xộn là bị đuổi việc, hoặc xếp của họ cũng bị chất vấn, cảnh cáo và bị đuổi, không có đặc ân hoặc miễn trừ cho ai cả. Tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, từ tổng thống đến anh nghị viên một thành phố nhỏ miền quê, đều là công bộc nhân dân. Chỉ nhân dân mới có quyền truất phế họ qua lá phiếu.
Còn bên Nhật, một dân tộc Á Châu, thì sao? Tôi không sống ở Nhật mà chỉ quá cảnh vài tiếng đồng hồ chuyển tiếp. Đây là những gì tôi mục kích. Trên đường về Việt Nam, chúng tôi phải đổi chuyến bay ở Nhật và phải đợi khoảng năm, sáu tiếng, có tuyến xe buýt đưa về tới khách sạn gần phi trường. Sau khi check-in, định đem hành lý lên phòng, đã thấy mấy cô nhân viên khách sạn đẩy một chiếc xe nhỏ tới chuẩn bị chất hành lý lên xe. Vốn sẵn tính “ga-lăng” từ trời Tây, tôi định giúp cô nhấc mấy cái vali lên xe, cô nhân viên còn khá trẻ và nhỏ con, mỉm cười xua tay, như bảo tôi chớ động vào, để cô làm. Tôi chưa hết ngạc nhiên cô đã nhanh nhẹn xếp mấy vali lên xe đẩy đi. Chúng tôi lẽo đẽo im lặng đi theo. Lên tới phòng, cô chờ tôi mở cửa phòng rồi đẩy vô, sau đó lại mỉm cười gật đầu chào rồi đi giật lùi. Ra khỏi phòng mới xoay lưng lại bước tới trước. Lúc rời khách sạn, chúng tôi được các cô nhân viên đưa tiễn bằng cách cúi rạp đầu chào đoàn người trên xe. Còn tại phi trường tôi chứng kiến cảnh một nhân viên nữ của một hãng máy bay nào đó chạy bộ khá nhanh, trên tay cầm một tấm bảng nhỏ, có lẽ là tên của một hành khách nào đó sắp trễ chuyến bay mà cô phải đi tìm chăng.
Nói chung, các nhân viên người Nhật rất tận tụy, vui vẻ, nhiệt tình với hành khách trên máy bay cũng như ở phi trường, tuy cách giao tế của họ có khác chúng ta. Riêng với chính họ thì rất tự giác, nghiêm khắc và kỷ luật. Không có gì để ngạc nhiên khi Nhật bước lên hàng cường quốc đứng thứ nhì chỉ thua Mỹ, sau ba mươi năm xây dựng đất nước từ hoang tàn và đổ nát cuối Thế chiến thứ hai. Chúng ta rất nên học những đức tính tốt này của người Nhật, để ít ra, mọi người tự giác mà không biến những lễ hội hoa thành cảnh cướp giật trắng trợn, vừa gây phản cảm, vừa làm ô danh Việt Nam, ít gì cũng từng hãnh diện là con rồng cháu tiên, tức có cốt cách thanh cao, lịch sự, cư xử có văn hóa với nhau.Thế còn Việt Nam ta thì sao?
Tôi nhận thấy các nhân viên hàng không Việt Nam ít cười, lạnh nhạt, dù nhiều cô cũng trẻ trung, sáng sủa, đẹp mắt, nhưng khá thường bẳn gắt và thiếu lễ độ với hành khách khi họ yêu cầu làm dùm một việc gì đó (mấy năm sau này không biết đã khá lên chưa). Các cán bộ hải quan đa số cũng thế. Ai cho tiền thì còn tươi nét mặt. Ai không cho thì tỏ vẻ khó chịu, hạch sách. Ô hay, đây là công việc phục vụ chứ đâu phải quan trên đâu nào. Mà dù có là quan trên cũng vẫn là đầy tớ nhân dân chứ! Đấy là còn dính dáng tới chính trị chút xíu, chưa nói tới phép lịch sự xã giao thường ngày giữa con người với nhau trong một xã hội văn minh, tự hào là có vài ngàn năm văn hiến.
Có một trường hợp tôi thấy tích cực, là trên đường về lại Hoa Kỳ cũng ghé nghỉ ở Nhật ba tiếng nhưng không được ở khách sạn. Sợ lạnh, tôi có xin phép anh tiếp viên hàng không, còn rất trẻ, chưa tới 30, được giữ cái mền nhỏ trên máy bay. Anh mỉm cười, dạ, lễ phép gật đầu.
Đa số những ai có dịp ra nước ngoài cũng đều đồng ý là trẻ em ở hải ngoại, nói chung, ngoan ngoãn hơn trẻ em trong nước. Chúng biết nói làm ơn khi cần gì, biết xin lỗi khi sai trái và biết cám ơn khi được giúp. Nói như vậy không phải là để so sánh, trịch thượng, hay khiêu khích, nhưng để chúng ta học hỏi và cố gắng thực hành. Việc gì cũng phải có làm mới quen. Lập đi lập lại riết sẽ thành một thói quen tốt, mang lại lợi ích cho cả xã hội, cư xử với nhau cho có văn hóa và sống bên nhau trong một nếp sống văn minh. Ngay cả người lớn đối xử với nhau cũng chưa thực sự có văn hóa, như nhà nước vẫn kêu gọi. Đã có những câu chuyện vui: trong nhà hàng hoặc vũ trường, các cô Việt Nam dễ dàng tìm ra trong các chàng trai cùng đi với nhau, ai là Việt kiều. Các cô bảo chỉ có anh (Việt kiều) là nói cám ơn khi em bưng nước ra mà thôi!Không lẽ các chàng “Việt nội” lại để mất mặt bầu cua với các nàng vậy sao?
Và không phải chỉ người lớn với nhau chúng ta mới cư xử như thế. Cũng hãy, “Con làm giúp mẹ chuyện này,” vẫn hay hơn là, “Lấy cho tao con dao, còn đứng đó hả, tát cho bỏ mẹ mày bây giờ.” “Bỏ mẹ mày,” tức là bỏ… chính mình chứ còn ai nữa!
Hãy biết nhận lỗi với nhau khi lầm lỡ, và xin lỗi cả với những người vai nhỏ hơn mình. Đừng cho rằng tao là bố thì chúng mày phải nghe, không được cãi, và lúc nào tao cũng đúng! Nói rộng ra cho toàn xã hội, chính quyền, nhà nứớc, đảng cầm quyền thì cũng vậy... là cha mẹ, là đỉnh cao trí tuệ, bao giờ cũng đúng (?) Nhưng quên rằng, nhân dân là ông bà. Mà ông bà thì có quyền sai khiến cha mẹ chứ, phải không?
Hãy cám ơn nhau hằng ngày trong cuộc sống, từ những việc hàm ơn nhỏ nhất, để cuộc sống mỗi người và cả xã hội được thăng hoa lên hơn.
Hãy chứng minh cho thế giới thấy rằng chúng ta là một dân tộc đã có hàng ngàn năm văn hiến, bằng những phép cư xử, giao tiếp văn minh với nhau trong xã hội: Làm ơn, xin lỗi và cám ơn lẫn nhau mỗi ngày.Hà Lịch Thiệp
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
THUYỀN NHÂN 1975 - SƯ ĐOÀN III
LÊ VY * THUYỀN NHÂN 1975
Báo La Croix nhìn lại lịch sử thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975
Người Việt tại trại tị nạn Pulau Bidong, Malaysia. Trại này có khoảng 36.000 người tị nạn Việt Nam (08/1979).
UN Photo/John Isaac
Trong loạt bài mùa hè nói về những con tàu chở di dân đã đánh
dấu lịch sử thế giới, báo La Croix hôm nay dẫn độc giả quay trở lại
thời kỳ người dân Việt Nam ồ ạt vượt biên sau khi Sài Gòn sụp đổ năm
1975. Tờ báo đặc biệt đề cập đến con tàu huyền thoại mang tên « Đảo ánh
sáng ».
Con tàu này đã đưa hàng nghìn người Việt Nam thời bấy giờ vượt
biên, chạy trốn chế độ cộng sản. Nhờ vào con tàu, hàng nghìn thuyền nhân
Việt Nam đã làm lại cuộc đời. Đây là nơi dùng làm bệnh viện để chữa
bệnh cho những người vượt biên. Đồng thời, con tàu còn chứng kiến nhiều
giây phút trọng đại của người Việt, như một số đôi đã nên duyên vợ chồng
trên chuyến tàu này.
La Croix nhắc lại lịch sử và bối cảnh của việc hàng nghìn người Việt
Nam chạy trốn khỏi đất nước lúc bấy giờ. Ngày 08/11/1978, người Pháp hay
tin chiếc tàu chở hàng Hai Hong chở 2 564 thuyền nhân miền Nam Việt
Nam, nhưng không có một đất nước châu Á nào chấp nhận đón tiếp. Đây chỉ
là một trong nhiều con tàu khác. Vào thời kỳ đó, có hàng trăm nghìn
thuyền nhân muốn rời khỏi miền Nam Việt Nam, lãnh thổ trước đây được Hoa
Kỳ yểm trợ và sau đó bị chế độ cộng sản miền Bắc Việt Nam chiếm vào năm
1975.
Vài ngày sau khi Sài Gòn thất thủ, vào tháng 5/1975, 3743 người Việt
Nam đầu tiên đến Hồng Kông. Để cứu giúp họ, một số trí thức Paris đã
nghĩ đến việc lập ra « chiếc tàu cho người Việt Nam ». Một số đã từng
ủng hộ miền Bắc trong cuộc chiến chống quân Mỹ. Trong một bản tin thời
sự trên truyền hình, nghệ sĩ Yves Montand phát biểu : « Người Việt Nam
đang chết chìm, nên chúng ta phải giúp họ ». Từ đó, chiếc tàu « Đảo ánh
sáng » ra đời để đến biển Đông cứu vớt người Việt.
Vào tháng 7/1979, một hội nghị được tổ chức tại Genève để bàn về số
phận của những người vượt biên Việt Nam. Hội nghị này lập ra một Hiệp
ước giữa Việt Nam, các nước Đông Nam Á cho tỵ nạn trong thời gian đầu và
các nước cho phép định cư lâu dài. Indonesia và Philippines thành lập
các trung tâm tị nạn tạm thời. Việt Nam hứa hẹn cho phép những người
vượt biên có tổ chức. Các nước thứ ba sẽ tăng tốc trong việc tái định cư
dân Việt Nam lâu dài.
Từ 07/1979 đến 07/1982, hơn 20 nước như Mỹ, Úc, Pháp và Canada đã tái
định cư 623 800 người Đông Dương tị nạn. Về phía mình, chính quyền Việt
Nam cho phép người Việt ra đi nếu họ muốn. Trong năm 1984, có 30 000
người Việt ra đi theo dạng này. Hội nghị này tổ chức việc gửi tàu đến
một số nước không tiếp nhận người tị nạn để cứu vớt họ. Trong 5 tháng
đầu năm 1979, 81 tàu chuyên chở tổng cộng 4 031 người trên biển, trong
đó có con tàu « Đảo ánh sáng ». Từ năm 1975 đến năm 1990, 67 000 người
Việt Nam được cứu vớt trên biển.
Thuyền trưởng con tàu « Đảo ánh sáng » nhận xét : « Người Việt Nam
thật sự làm tôi bất ngờ. Có nhiều tài năng khác nhau. Họ rất có tổ chức,
có phẩm cách và muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn ». Theo báo La
Croix thì Hoa Kỳ là đất nước mà người dân Việt Nam muốn được đến định cư
nhiều nhất.
Trung Quốc : sữa ngoại nhiễm khuẩn, các bà mẹ vỡ mộng
Hết các vụ tai tiếng sữa nội địa Trung Quốc nhiễm khuẩn, giờ đây lại
đến các nhãn hiệu sữa ngoại tại Trung Quốc. Báo Le Figaro trong mục kinh
tế chú ý tình hình này qua bài viết : « Một vụ bê bối sữa mới làm lung lay cả Trung Quốc ».
Tờ báo nhận định, hiện nay, các bậc cha mẹ Trung Quốc không còn biết
phải tìm đến loại sữa nào. Do uy tín của sữa nội địa đã mất từ lâu, các
bậc phụ huynh tìm đến các loại sữa ngoại, cho dù với giá đắt hơn, nhưng
bây giờ lại đến lượt các hiệu sữa này gặp phải bê bối.
Hôm qua 07/08/2013, tổng giám đốc hãng sữa Fonterra của New Zealand
đã khẳng định một số sản phẩm nhiễm vi khuẩn có thể gây chứng liệt và
gây tử vong cho trẻ sơ sinh đã được thu hồi khỏi thị trường sữa. Vụ bê
bối này đã bắt đầu khiến các bà mẹ lo ngại khi mua sữa ngoại. Từ thứ hai
vừa rồi, tổng giám đốc hãng sữa Fonterra, Theo Spierings đã giải
thích và xin lỗi người tiêu dùng ở Bắc Kinh.
Thêm vào đó, Fonterra cùng với hai hãng sữa phương Tây khác còn bị
phạt nặng vì đã nâng giá trên thị trường. Tờ báo nhận định, đây là tuần
lễ đen tối của các công ty sữa ngoại. Hãng sữa Mead Johnson Nutrition
của Mỹ phải trả 33 tỷ đô la.
Sự trùng hợp giữa vụ bê bối của hãng Fonterra vừa xảy ra cùng lúc với
chiến dịch phạt các công ty sữa đã nâng giá sản phẩm trên thị trường,
chủ yếu là các hãng ngoại quốc làm một số người nghi ngờ đây là chiến
dịch của Trung Quốc nhằm làm bại hoại danh tiếng của các hãng sữa ngoại.
Thứ hai 05/08/2013, tờ Nhân dân nhật báo đã đăng nhiều bài đánh bóng
lại tên tuổi các hãng sữa nội. Một giáo sư đại học phát biểu : « Đây
không phải là việc thiên vị ai cả mà là vấn đề về sức khỏe cộng đồng ».
Theo nhận định của các cư dân mạng, cuộc khủng hoảng khiến không ai
tin vào sữa ngoại nữa, nhưng không có nghĩa là nó vực dậy uy tín của
các hãng sữa nội Trung Quốc. Một blogger nhận xét : « Fonterra đã nhìn
nhận trách nhiệm của mình. Nhưng khi một công ty Trung Quốc đứng trước
một vấn đề chất lượng, thì họ luôn tìm cách tránh né và không thừa nhận
».
Nhật báo động rò rỉ chất phóng xạ tại Fukushima
Sự cố rò rỉ chất phóng xạ tại Fukushima, Nhật Bản tiếp tục được báo chí Pháp hôm nay quan tâm. Báo Le Monde thông báo : « 300 tấn nước nhiễm chất phóng xạ chảy ra biển hàng ngày ». Tờ báo nhận định : « thái độ chối bỏ và che đậy của tập đoàn Tepco chỉ làm cho dân chúng thêm lo ngại ». Báo Le Figaro cũng đăng bài : « Nhật báo động rò rỉ chất phóng xạ tại Fukushima ».
Báo Libération thì dành hai trang lớn nói về đề tài này qua bài viết : « Fukushima lại trở thành đề tài trung tâm ».
Thủ tướng Nhật Shinzo Abe cho biết : « Thay vì dựa vào tập đoàn Tepco,
chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp ». Ông còn nói thêm là muốn đảm bảo
rằng « tập đoàn điện lực Tepco quản lý một cách phù hợp việc tẩy rửa
trung tâm hạt nhân ». Công việc này có lẽ sẽ phải kéo dài hơn 40 năm và
tốn hết 11 tỷ đô la. Số tiền dành cho việc này vẫn chưa được công bố,
nhưng nó sẽ có tác động đến ngân sách năm 2014.
Paul J.Scalise, nhà kinh tế học và chuyên gia năng lượng tại đại học
Tokyo phân tích : « Ngay sau khi xảy ra sự cố Fukushima, Tepco đã nhận
được khoản vay 200 tỷ yên (15,5 tỷ euro) từ 4 ngân hàng lớn nhất Nhật
Bản. Tuy nhiên, số tiền đó không đủ, vì Tepco còn phải chi tiêu cho việc
nhập khẩu dầu hỏa và bồi thường cho nạn nhân của tai nạn. Để có được số
tiền này, chỉ có thể tăng giá điện, mà hiện tại giá điện tại Nhật đã
thuộc loại cao nhất thế giới ». Tờ báo đặt câu hỏi : tại sao lại không
nhờ thế giới trợ giúp ? Câu trả lời là Nhật xem đây là vấn đề danh dự
của đất nước, theo như phân tích của Alieen Mioko Smith, giám đốc tổ
chức chống hạt nhân GreenAction.
Mỹ-Nga : hơi hướng chiến tranh lạnh
Việc Nga cấp giấy tị nạn cho cựu nhân viên tư vấn Mỹ Snowden gây
nhiều sóng gió cho mối quan hệ Mỹ-Nga vốn đã không êm thấm. Ngày hôm
nay, báo chí đồng loạt quan tâm đến việc tổng thống Mỹ Obama hủy chuyến
công du đến Nga gặp tổng thống Putin trước thềm hội nghị G20 sẽ diễn ra
tại St-Pétersbourg đầu tháng 9.
Nguyên nhân, theo báo Le Figaro, là thiếu « tiến triển » trong mối
quan hệ song phương giữa hai nước. Đặc biệt là quyết định của Nga cho
phép Snowden tị nạn làm cho Washington thịnh nộ. Tờ báo dùng từ « thất
vọng » để chỉ thái độ của Nga. Trên trang nhất báo Le Figaro chạy dòng
tựa : « Tức giận, tổng thống Obama hủy cuộc gặp tổng thống Putin ».
Báo L’Humanité cũng quan tâm đến sự kiện này qua bài viết : « Snowden : Obama dỗi Putin ».
Báo La Croix thì nhận định : việc tổng thống Obama hủy cuộc gặp tổng
thống Putin giống như một cái tát mạnh vào chủ nhân điện Kremlin. Giữa
hai nước, căng thẳng đã dâng cao trên mọi hồ sơ. Hơn nữa, những mối bất
hòa gần đây nhất giữa hai nước là trên lĩnh vực kinh tế. Washington cáo
buộc Matxcơva đã không tôn trọng các cam kết từ khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Nhưng tờ báo nhấn mạnh rằng các căng thẳng về tự do nhân quyền mới là
con sóng lớn nhất trong mối quan hệ song phương. Gần đây nhất là vụ kết
án nhà đối lập Navalny và luật cấm tuyên truyền đồng tính với trẻ vị
thành niên. Quốc hội Mỹ lo ngại về hậu quả của đạo luật này tại thế vận
hội mùa đông vào tháng 2/2014. Một số vận động viên hay cổ động viên có
thể bị bắt giữ nếu họ vô tình đề cập đến chủ đề đồng tính một cách quá
thẳng thắn. Báo Libération thì nhận định thấy hơi hướng của một cuộc
chiến tranh lạnh giữa Obama và Putin.
Cháy rừng tại khu vực Địa Trung Hải tăng
Trong hồ sơ môi trường, báo le Monde hôm nay quan tâm đến khí hậu và
điều kiện sinh sống đang gây nên những nguy cơ cháy rừng tại khu vực Địa
Trung Hải. Theo tờ báo, tại vùng Valence, thuộc Tây Ban Nha, trong vòng
40 năm qua, các vụ cháy rừng đã tăng gấp đôi và diện tích rừng bị cháy
đen tăng gấp 8 lần.
Báo Le Monde cho biết mỗi mùa hè, rừng Địa Trung Hải bị cháy nghiêm
trọng. Trong 5 quốc gia châu Âu bị thiệt hại, nặng nhất là Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Pháp, Ý và Hy Lạp, trung bình 500 000 hecta bị ngọn lửa
thiêu rụi hàng năm. Về phía Pháp, do được ưu đãi có mưa nhiều về mùa
xuân, nên tương đối ít bị cháy đầu năm này, với chưa đầy 700 hecta bị
cháy trong số 424 vụ.
Báo Le Monde nhận định trong các thập niên tới, nạn cháy rừng còn gia
tăng hơn nữa. Có hai nguyên nhân. Thứ nhất là do khí hậu trái đất nóng
lên, biểu hiện là nắng hạn kéo dài. Thứ hai là mật độ thành thị cao.
Người dân bỏ nông thôn lên thành thị. Đất đai canh tác thu hẹp, đất bị
bỏ hoang và sau đó thành rừng. Tóm lại, cháy rừng gia tăng là do các
nguyên nhân thay đổi khí hậu, xã hội và kinh tế. Đây là kết quả của công
trình nghiên cứu châu Âu (FUME) sẽ được công bố vào cuối tháng 11.
Kinh tế Pháp bị thiệt hại do thiên tai gây nên
Báo kinh tế Les Echos hôm nay cũng đặc biệt quan tâm đến thảm họa
thiên nhiên gây thiệt hại cho nền kinh tế Pháp qua bài viết : « Các cơn giông đánh lên kinh tế của nhiều tỉnh thành ».
Theo tờ báo, sấm sét, giông gió, mưa đá đã hủy hoại hàng nghìn hecta
đất trồng trọt từ 15 ngày nay. Phía Tây Nam của Pháp, hàng nghìn hộ gia
đình không có điện để xài.
ĐẶNG CHÍ HÙNG * NHỮNG KẺ CƯỚP NGÀY
Những sự thật cần phải biết (phần 13): Những kẻ cướp ngày
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Kính thưa bạn đọc!
Trong “Bản cáo trạng tội ác của cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh”
phần 5 tôi đã gửi tới bạn đọc tội ác của cộng sản trong việc cướp tài
sản của đồng bào thông qua đánh tư sản hoặc đẩy đi vùng kinh tế mới. Đó
là bản cáo trạng nên sự việc đó phải thu gọn để gửi tới các cơ quan như
LHQ, tòa án hình sự quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này. Tôi xin trình
bày cụ thể những âm mưu của đảng và điểm mặt những kẻ chủ mưu cũng như
trực tiếp điều hành cộm cán.
Sau khi đánh cho “Mỹ cút – Ngụy nhào” để đến nỗi bà Dương Thu Hương –
một cán binh theo đoàn quân vào Sài Gòn đã phải thốt lên “kẻ chiến thắng
là kẻ man rợ” thì đảng cộng sản bắt đầu thực hiện chính sách cướp ngày
của mình. Đứng đầu chủ mưu cũng như thực hiện âm mưu của đảng cộng sản
là Đỗ Mười, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và tầng dưới là Võ Văn
Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng… Tất cả chỉ một mục tiêu đó là đem của cải của
người dân Miền Nam về miền Bắc làm của cải cho đảng mà ngay chính nhân
dân Miền Bắc cũng không được thừa hưởng. Trong cuốn hồi ký “Đại Học Máu” của
Hà Thúc Sinh đã mô tả sau năm 1975, mặc dù cướp được kho thuốc khổng lồ
của VNCH nhưng người dân Miền Nam, Miền Bắc và cả bộ đội cộng sản cũng
không có thuốc để dùng đành chờ chết trước những căn bệnh rất đơn giản
như kiết lỵ. . trong khi đó đảng lại viện trợ cho một nước Venezuela xa
xôi mấy tầu thuốc loan báo trên đài như một hành động anh hùng của đảng.
Những kẻ cướp ngày của chính nhân dân Việt Nam đã dùng chính tài sản
cướp được của nhân dân để vinh thân phì gia và cũng đồng thời tô điểm
cho bộ mặt toàn son phấn rẻ tiền của đảng cộng sản.
I. Cướp Tài sản của nhân dân và đẩy dân đi “kinh tế mới”:
Để cướp đoạt tài sản và tiền của thì đảng cộng sản đã tiến hành chính
sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản của nhân dân dưới mỹ từ
“đánh gian thương”, “tiểu tư sản”. Hậu quả đó là hàng triệu người bị
cướp nhà giao cho cán bộ, bị mất cơ nghiệp và bị đẩy đi kinh tế mới. Kết
quả X-2 và X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, Mai Chí Thọ. . . thu
được khoảng hơn 4. 000 kg vàng, gần 1. 200. 000 đô la, và một khối
lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi,TiVi, tủ lạnh, đến
bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho,
để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải. Xin quý vị theo dõi
những chứng cứ dưới đây để thấy được sự thật này.
Đánh tư sản sau năm 1975 |
Thứ nhất, trong cuốn sách “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy
Đức có đề cập đến chiến dịch cướp bóc này. Tác giả Huy Đức đã viết ở
Chương iii - Đánh tư sản như sau: “Sau khi hàng trăm ngàn binh lính
đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì
đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch
đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ
giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp
dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã
phải trải qua hai lần bị “đánh”.
“Chiến dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố
Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có
chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú
Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy;
Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc
quyền xuất cảng cà phê... ”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối
tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.
Rồi cũng chính Huy Đức - một cựu nhà báo cộng sản cho biết thêm: “Tối
10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của
Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn
tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền
mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một
cơ sở chăn nuôi gồm “7. 000 con gà, thu hoạch 4. 000 trứng mỗi ngày”120 ở
Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật
hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra
nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp
cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”
Ngoài bắt bớ ra, nhà cầm quyền cộng sản còn tiến hành chính sách đổi
tiền để vơ vét tiền vào túi dưới hình thức: cướp trắng. Tác giả Huy Đức
mô tả sự kiện đổi tiển như sau: “Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận
định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về
mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và
đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn
mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ
Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà
Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ
tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị
trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián
điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương
tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.
Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100. 000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn
cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới
Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể
được đổi mỗi người 15. 000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương
nghiệp, vận tải được đổi 100. 000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi
từ 100. 000 đến 500. 000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.
000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải
quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền hơn mức được
đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết
kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.”
Song song với đánh tư sản và đổi tiền, chính quyền cộng sản còn áp dụng biện pháp “Cải
tạo công thương nghiệp tư doanh” mà tác giả Huy Đức Miêu tả như sau:
“Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có
nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh.
Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một
chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một
chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.” [1].
Thứ hai, trong lịch sử thì sự kiện vơ vét tiền của nhân
dân sau năm 1975 ở Việt Nam không phải là lần đầu tiên. Lần đầu tiên
phải là cuộc cải cách ruộng đất vì theo thống kê chính thức của nhà nước
Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho
biết là đã có 172. 008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông
(trong đó có 123. 266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Lần thứ
hai này, đánh “tư sản mại bản”, tịch thu tài sản hàng triệu người, đuổi
người dân đi “kinh tế mới”, vào “hợp tác xã”. Nền kinh tế bị thiệt hại
kinh hoàng, TRỰC TIẾP gây ra nạn THUYỀN NHÂN chưa từng có trong lịch sử
nhân loại, từ 100 ngàn đến 300 ngàn người bỏ mạng ngoài biển khơi.
Trên báo tuổi trẻ online của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có bài viết
về một người từng tham gia chiến dịch cướp bóc của quần chúng nhân dân
Miền Nam. Bài viết có đoạn trích như sau: “Sau tháng 4-1975, nhà báo
Đinh Phong cùng nhóm phóng viên truyền hình túc trực ngày đêm theo những
tổ công tác làm công việc “kê biên tài sản” của những nhà tư sản Sài
Gòn ở chợ Bến Thành, chợ Tạ Thu Thâu... Đó là một thời điểm khó quên
nhưng ai cũng muốn quên. Ông Đinh Phong (ủy viên Ủy ban MTTQ VN TP. HCM,
nguyên phó giám đốc Đài truyền hình TP. HCM) hồi tưởng về những ngày
ông và nhiều đồng nghiệp được ban tuyên huấn giao những nhiệm vụ đặc
biệt nhưng bí mật đến phút cuối cùng. Ngay cả cái tên của những chiến
dịch này cũng được mã hóa thành X1, X2. . . Những tổ công tác mật được
gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh
doanh, những gia đình giàu có phải “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng
đầu của chiến dịch này là bí mật. Những nhà tư sản chỉ bàng hoàng nhận
biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt,
đọc quyết định “kê biên tài sản”.” [2]
Thứ ba, cũng nói về con số thống kê “thành tích” cướp bóc
của nhân dân Miền Nam, Trong cuốn sách “Thông tin lịch sử của TP. HCM”
của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết: “Cho đến ngày giải phóng 1975,
Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn nhất miền Nam,
nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Nam. Nơi đây
tập trung hơn 38. 000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ,
trong đó có 766 công ty và 8. 548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu
hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí
nghiệp, sau năm 1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt
cải tạo công thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171
tư sản mại bản, 59 tư sản thương nghiệp cỡ lớn... ”
Trên thực tế ở Việt Nam thì việc “quốc hữu hóa” chính là việc nhà cầm
quyền cộng sản cướp của dân rồi đem làm tài sản riêng cho đảng viên và
các quan chức lãnh đạo thụ hưởng. [3]
Thứ tư, Đi kèm với chính sách đánh tư bản là chính sách
dồn nhân dân vào những vùng hoang sơ, rừng thiêng nước độc sau khi đảng
đã cướp hết tài san và nhà cửa của nhân dân. Đảng cộng sản không cung
cấp phương tiện sản xuất và nhà cửa cho nhân dân. Trái lại còn đẩy họ đi
khỏi thành phố lao động khổ sai với nhãn mác “đi vùng kinh tế mới”.
Dân đi kinh tế mới sau 1975
Đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế mới
Bắt học sinh xuống đường "bài trừ văn hóa phản động"
Một thanh niên bị bắt đeo bảng trước
ngực và đi lòng vòng địa phương nơi cư trú, dưới sự giám sát của bộ đội
cộng sản. Tội danh: Nhảy đầm. Sau đó còn phải thọ án 1 năm trong trại
cải tạo.
Và đây là điển hình cho cái gọi là "Tòa án nhân dân"
Thứ năm, Hãy cùng đọc bức thư sau đây của một gia đình là
nạn nhân cộng sản đang sống tại Việt Nam để chúng ta thấy sau năm 1975
đảng cộng sản đã cướp những gì của nhân dân:
“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN
Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) đảng CSVN
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đảng CSVN cầm quyền.
Chúng tôi có tên dưới đây:
Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai.
Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng Nam.
Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hoà II
Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải, Nguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc.
Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon
Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW đảng CSVN
Ngày trước miền Nam 1975, gia đình chúng tôi chưa được cách mạng giải
phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có đất làm ăn khấm khá chưa biết làm
thuê làm mướn là gì. Trong thời đó những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư
người Nhật, Hàn Quốc vào miền Nam làm thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ
thuộc vào người dân Việt Nam. Sau năm 1975, miền Nam được cách mạng giải
phóng khỏi ách nô lệ, đảng hô hào nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp
công nhân và nông dân. Chính lá cờ đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa,
liềm. Sự thật có phải như vậy không? Thưa, sự thật rất phũ phàng! Sau
khi chiếm được miền Nam là cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại
bản thì gia đình chúng tôi bị mất nhà, mất đất. Trong khi chúng tôi có
tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị lấy nhà và bị đuổi đi vùng sâu nước
độc để khai phá đất hoang làm ăn. Do những cơn sốt rét vàng da, có những
gia đình chết phân nửa, có những gia đình phải chết hết. Khi trở về
thành phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng vườn của mình thì bị cán bộ đảng
viên thu. Điều này chúng tôi có nói sai đâụ Những villa nhà lầu hiện nay
là nhà của đảng viên, thì thử hỏi cha ông của mấy ông này mua nhà đất
từ thời nào để lại cho mấy ông đảng viên này, nếu không phải cướp của
chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc đời chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị
cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi cũng bị cướp. Những gia đình chúng
tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang được vài ba mẫu đất làm ăn, cuộc
sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại theo đuổi theo người dân nghèo
chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi đầu tư rước ngoại bang vào, lại
tiếp tục lấy đất của chúng tôị Bằng nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp
gian manh quỷ quyệt, trù dập vu khống chụp mũ.” [4]
II. Nạn thuyền nhân vượt biển:
Thuyền nhân đang lênh đênh tìm đường thoát khỏi cộng sản |
Chính vì cướp sạch kinh tế, nhà cửa và đày đọa quân dân cán chính VNCH
mà đảng cộng sản Việt Nam đã đây người dân Miền Nam tới nạn "thuyền
nhân" để kiếm tìm sự sống mới. Trên thực tê không chỉ có X1 và X3 đánh
kinh tế, nhà cầm quyền cộng sản còn dùng X2 để đánh văn nghệ sỹ không
theo cộng sản. Chính vì thế toàn Miền Nam là một trại tù khổng lồ, người
dân đã phải chấp nhận đánh đổi mạng sống trên những con thuyền lênh
đênh ngoài khơi để trốn chạy cộng sản. Bạn đọc có thể tìm hiểu về chiến
dịch X2 qua bài viết của một người nạn nhân:
“Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng
sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1
trước đó "đánh" tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người
Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ
Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy
Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có
hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc,
Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa
số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài
người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ
còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở
thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử
hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia
Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là
mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.” Trích bài viết: “Những ngày tháng tù đày không thể quên” của tác giả Thanh Thương Hoàng.
Thậm chí khi tác giả này đã ra tù và có chính sách HO thì cũng bị nhà
cầm quyền cộng sản gây khó dễ: “Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng
vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn
Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà
Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng
ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn
có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết
bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị
triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp - một thứ
công dân hạng bét - ngay trên quê hương đất nước mình.” [5]
Nạn thuyền nhân đã bắt đầu sau khi nhà cầm quyền cộng sản trả thù quân
dân cán chính VNCH và cướp đi nguồn sống của nhân dân Miền Nam. Xin quý
vị có thể đọc những tài liệu sau đây để thấy rõ điều đó.
Thứ nhất, trên VOA Việt ngữ đã có bài viết thống kê về con số thuyền nhân và những người không may mắn như sau: “Sau
biến cố 30 tháng 4 năm 1975 - và trong cả hai thập niên kế tiếp - hàng
triệu người Việt đã vượt biển, vượt biên tìm tự do. Ngày nay, người ta
thường chú ý đến tập thể cựu thuyền nhân, 'bộ nhân' đã sống sót và định
cư thành công ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Cũng trong hai thập niên đen
tối ấy, trên 300 ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tử nạn trong rừng sâu,
trên biển cả và tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Rải rác khắp nơi tại
các trại tị nạn cũ - từ Thái Lan, Malaysia đến Indonesia và Philippines,
hàng ngàn ngôi mộ thuyền nhân đã bị bỏ quên - cho đến khi tổ chức Văn
khố Thuyền nhân Việt Nam phát động chương trình thăm viếng và trùng tu
mộ phần cho những đồng bào xấu số.”
Đây là những con số biết nói cho thấy cộng sản là loài thú dữ đã gây nên
cảnh tang thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi kính mong
quý vị xem xét và làm rõ tội ác tày trời này của cộng sản Việt Nam. [6]
Khu mộ tưởng niệm các thuyền nhân tị nạn ở Galang.
Thứ hai, trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang
tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 yearsof Humanitarian
Action,” viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt
động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn
Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và
lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã
vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà
Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của
Thế Kỷ 20”. Cuốn sách cho biết:
“Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu
đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón
nhận 5. 000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4.
000 tị nạn, Tân Gia Ba 1, 800 người, và có khoảng 1. 250 người cũng đã
đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ
máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực
hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới,
và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo,
những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm
1977, đã có trên 15. 000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng
Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính
sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam
Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng
tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi
thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các
tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Vào cuối năm 1978, đã có 62. 000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại
các nước Đông Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54. 000
thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị
nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái
Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm
người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị
xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong
trên biển cả cũng đã gia tăng.
Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số
thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem
cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải
chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia
nhau từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từmiếng vải thấm mưa, để
đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm
về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc
nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với
hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con
người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ
của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao
nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi
người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh
trên đại dương.
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê
thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc
vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế
giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng
ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này,
các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện
quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là
Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile
deLumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm
1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả
trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”
Thứ ba, theo cuốn video tài liệu của Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển về con tầu J. Charcot, sau 20 ngày tìm vớt ngoài khơi Việt Nam: “tầu
đã vớt được 520 người, thành phần tuổi tác như sau: Từ 14 đến 30 tuổi
có 269 người, tức 51, 73%. Học trò có 224 em, gồm 136 nam, 88 nữ, chiếm
43, 08%. Người trên 50 tuổi chỉ có 11 người, chiếm 2, 11%. Người có nghề
nghiệp là 218 người, chiếm 41, 92% gồm 154 đàn ông và chỉ có 64 đàn
bà... Với thành phần trẻ chiếm đa số và nhất là giới học trò đã làm cho
Thế giới rúng động ở mức độ khinh hoàng về cuộc ra đi của người Việt.
Hàng trăm ký giả, các nhà xã hội và tôn giáo thiện nguyện đổ xô về Đông
Nam Á quan sát thảm nạn thuyền nhân khi những chiếc tầu chở hàng ngàn
thuyền nhân đổ bộ lên đảo hoang Pulau Bidong, Galang...” [7]
Thứ tư, trên trang chính của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam
có đăng tải lại một trong những thảm kịch của thuyền nhân Việt Nam chạy
trốn cộng sản: “Sáng 1-12-1978, bão lớn kéo đến. Chẳng bao lâu sau
tầu chìm. 170 người thiệt mạng. 150 người sống sót. 123 thi hài được
chon chồng chất 4 lớp lên nhau trong nghĩa trang Cherang Ruku. 46 thi
hài khác được mai tang 3 ngày sau đó tại nghĩa trang Balai Bachok, cách
Cherang Ruku 30km về hướng Bắc”. [8]
Thứ năm, cho đến ngày hôm nay, sau hơn 80 năm cai trị Việt
nam thì đảng cộng sản vẫn còn những người ra biển tìm tự do. Xin quý vị
chú ý đến bài báo trên RFA sau đây: “Hiện nay vẫn còn có những người
Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng thuyền như phong trào thuyền nhân vượt
biển cách đây gần 40 năm sau thời điểm 1975. Hãng thông tấn AP hôm nay
loan tin tính đến lúc này trong năm nay có 460 người Việt Nam tìm đến
được bến bờ nước Úc. Đây là con số bằng cả năm năm qua gộp lại. Tàu chở
thuyền nhân Việt Nam mới nhất đến được đảo Christmas Island của Úc là
vào hồi tháng trước. Chiếc tàu có số hiệu đăng ký tại tỉnh Kiên Giang.
Đây là tỉnh có khoảng cách đến đảo ChirstmasIsland hơn 2300 kilomet...
Một thuyền nhân có tên Trương Chí Liêm 23 tuổi khi AP liên lạc được qua
điện thoại từ Trung Tâm Giam giữ Người Nhập cư Villawood, nằm ở ngoại vi
Sydney, cho biết là anh ta thà chết ở trại chứ không để bị cưỡng bức về
lại Việt Nam. Người này rời Việt Nam cách đây 5 năm và bị bắt giam ở
Indonesia 18 tháng khi đang trên đường tìm đến Úc.” [9]
Thứ sáu, còn rất nhiều bằng chứng về thuyền nhân Việt Nam,
chúng tôi xin gửi đến ban đọc những đường links đến cácvideo mô tả một
trong những sự kiện bi thương của dân tộc Việt nam chúng tôi mà đảng
cộng sản chính là những kẻ thủ ác.
Đôi mắt thất thần của những người Việt trong trại tỵ nạn
BẠN ĐỌC HÃY ĐỌC BÀI VIẾT CỦA GABRIELE VENZKY TRÊN BÁO DIE ZEIT (THỜI
ĐẠI) ĐÃ GIẢI CỨU 275 NGƯỜI VIỆT NAM TỊ NẠN VỀ ĐẾN HAMBURG ĐỂ THẤY THÊM
SỰ THẬT HÃI HÙNG VỀ TỘI ÁC CỘNG SẢN: “Câu chuyện bắt đầu năm 1978.
Cuộc chiến tranh Việt nam đã kết thúc được 3 năm. Cảnh tượng những máy
bay trực thăng Mỹ cuối cùng cất cánh bay khỏi Sài gòn, dưới càng máy bay
còn bám theo bao nhiêu con người hoảng loạn tột độ vẫn còn hằn sâu
trong tâm trí chúng ta, và cả làn sóng tị nạn sau đó. Và bây giờ thì
dòng người ra đi khỏi Việt nam vẫn không muốn dứt, lần này họ tìm cách
vượt biển.
Họ đi trên những chiếc thuyền chài nhỏ và chen chúc đến nghẹt thở
hướng về một phương trời vô vọng, không cả bản đồ và compas, cuối cùng
sóng đánh trôi dạt đâu đó vào các bờ biển Đông nam châu Á, vào những mỏm
đá bên bờ biển Hồng kông, nếu là may mắn. Nhiều người không gặp may. Họ
bị hãm hiếp, đánh chết hay bị ném xuống biển và chết đuối. Cứ hai
thuyền chở tị nạn vào vùng biển Thái lan thì một thuyền bị cướp. Cứ ba
người thì một người bỏ mạng trên đường, người ta tính ra khoảng một nửa
triệu người đã chết như thế.” [10]
Tuy nạn thuyền nhân là có thật và ai cũng biết đó là do cộng sản gây
nên, nhưng đảng cộng sản đã phủ nhận nó bằng những lời ngụy biện. Trên
báo Quân Đội Nhân Dân – cộng sản ngày 31-8-2007, tướng Nguyễn Đình Ước
viện trưởng Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam phát biểu “nạn thuyền nhân là
chuyện có thật” nhưng nguyên nhân vì “sau chiến tranh, đất nước bị tàn
phá nặng nề mà Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế”. Viên tướng
này diễn tả xã hội Việt Nam hoàn toàn tốt đẹp, không có chuyện bức chế
bất kỳ ai, không có nỗi thống khổ nào và khẳng định nạn thuyền nhân là
“âm mưu hậu chiến của Mỹ”, bởi sau khi cấm vận gây khó khăn kinh tế cho
Việt Nam, “họ lại kích động, đưa ra viễn cảnh thiên đường ở bên ngoài
gây nên tình trạng có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất nước ra đi.
Không ít người đã thiệt mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn đưa
người vượt biên trái phép lừa gạt giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh
nhưng là hệ quả do những chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài. ”.
Nhưng thử hỏi đảng cộng sản và ông Ước là tại sao cho đến ngày hôm nay,
sau 38 năm cướp được trọn vẹn Miền Nam mà vẫn có thuyền nhân, vẫn có
người tỵ nạ trên đất Thái, Nga, Mã Lai…? Liệu đảng còn đổ thừa cho ai
nữa?
III. Điểm mặt một số gương mặt kẻ cướp:
Đảng cộng sản chính là tội đồ của dân tộc gây nên chiến tranh và cướp
bóc. Tội đánh cướp nhà cửa, tài sản… của nhân dân rồi đẩy họ đi kinh tế
mới hoặc lênh đênh trên thuyền tại Biển Đông cũng không là ngoại lệ. Nổi
bật trong số những trùm sò của đảng, xin điểm mặt một số kẻ cướp ngày
tiêu biểu.
Thứ nhất, chính Mai Chí Thọ trong 1 bài phỏng vấn đăng
trên tờ báo điện tử cộng sản Vietbao.vn đã thừa nhận những hành động
cướp bóc của mình một cách công khai: “Trầm ngâm một lát, bác Tám Cao
(Mai Chí Thọ) đúc kết: “Sau chiến thắng 30/4/1975 với chủ trương
“Tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”, ngay sau khi giải phóng,
TW đã giao nhiệm vụ cho TP. HCM phải bắt tay ngay vào chiến dịch mang bí
số X1 và X2 với nội dung “Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” vẫn được
quen gọi là “Đánh tư sản mại bản”. Chiến dịch X1, thì tạm được bởi chúng
ta thực hiện cải tạo những tư sản có liên quan tới đế quốc, dù trong số
họ không ít người chỉ thuần túy “làm kinh tế”.”
Rồi cũng chính Mai Chí Thọ thừa nhận: “Nhưng đến nửa chừng rà soát
lại gần 2. 000 “đối tượng X2”, thì chỉ đúng có... 3 đối tượng! Chủ
trương duy ý chí này đã làm sa sút ghê gớm, biến dạng diện mạo cũng như
nội lực của thành phố, xóa đi hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có
của “Hòn ngọc Viễn Đông... ”Không khí cải tạo ồ ạt, tịch thu, tịch
biên tài sản của các đối tượng “X1, X2”, đem về đổ dồn, chất đống đầy
các kho không chứa xuể, phải tấp táp đâu đó, sau một thời gian ngắn,
những tài sản này phần thì biến mất, số còn lại hư hỏng trở thành một
đống đổ nát khổng lồ...
Đồng bào hãy nhớ đây là một tên cướp ngày
Từ một thành phố hưởng thụ, một Trung tâm công nghiệp lớn nhất, vậy mà
chỉ sau mấy năm khi “Chiến dịch X1, X2” đi qua, toàn bộ nền sản xuất
công nghiệp của thành phố bị tê liệt tới mức cạn cùng: Nguyên vật liệu
không còn, viện trợ từ các phía bị cắt đứt, cơ sở vật chất xuống cấp
nhanh chóng, máy móc phương tiện “đắp chiếu” ngủ triền miên hết năm này
sang năm khác. Nền kinh tế của thành phố như thoi thóp, lạm phát gia
tăng chóng mặt từ 15, 3% đến 31% vào năm 1979; từ 20% năm 1980 đến 40%
năm 1981, cộng với thiên tai, mất mùa, tăng viện cho cuộc chiến phía Tây
Nam, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng. Rồi dịch bệnh tràn lan,
phương tiện, thuốc men thiếu thốn đủ thứ khiến cho đời sống người dân
ngày càng lâm vào cảnh cùng cực. Có nhiều người không chịu đựng nổi phải
vượt biên.”
Qua những gì chính Mai Chí Thọ lúc đó là giám đốc công an Sài Gòn thừa
nhận đã cho thấy hậu quả khủng khiếp mà cộng sản gây ra cho nhân dân
Việt Nam. Đây là tội ác không thể tha thứ. [11]
Thứ hai, cũng là gương mặt cộm cán chủ mưu cùng Mai Chí
Thọ là Đỗ Mười. Chính Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã
nói thẳng với Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Uỷ viên Bộ chính trị
là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai
cũng được… Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Trích “Làm
người là khó” – Đoàn Duy Thành – cựu phó thủ tướng nhà cầm quyền cộng
sản).Ông Đoàn Duy Thành cho biết Pham Văn Đồng đánh giá về cải tạo công
thương Nghiệp của Đỗ Mười: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn
Đỗ Mười thì sao?”. Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói: “Chỉ có phá !”.
Khi chiến dịch X-3 đã bắt đầu.
Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 – CP, và triển
khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố
Sài Gòn (đã bị đổi tên thành Tp. HCM) và các tỉnh phía Nam. Đỗ Mườinói: “Từ
sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy
quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây
giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa
tư bản, tay sai đế quốc Mỹ… Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập
đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn
nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn
tác oai tác quái phá chúng ta… Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra.
Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy
lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt
kiếm miếng ăn …”
Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm:
“Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân
nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn – sê- vích,
có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
7 giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to
nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh
của Ủy ban nhân dân thành phố. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ
Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau đó, xác nhận
“Chiến dịch X-3”, bắt đầu. Và Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán,
nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách
đã được lên từ trước.
Đỗ Mười và đàn em Võ Văn Kiệt vui mừng vì cướp được của nhân dân Miền nam
Thứ ba, Lê Đức Thọ nắm toàn quyền thực sự trong đảng CSVN từ đại hội 3
năm 1960 với sự đồng tình của tổng bí thư Lê Duẩn. Không ai có thể ngờ
vực uy quyền tuyệt đối của Thọ, được gọi một cách kinh sợ là Sáu Búa.
Theo hồi ký "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" của ông Nguyễn Văn Trấn (xuất bản
năm 1993), uy quyền của Thọ lớn đến nỗi ông có thể cấm cả ông Hồ phát
biểu trong một hội nghị mà ông Hồ cũng đành chịu. Được ông Trấn hỏi về
ông Lê Đức Thọ, ông Tôn Đức Thắng, chủ tịch nước, thú nhận một cách mộc
mạc: "Đ. M. , tao cũng sợ nó!". Theo nhiều nhân chứng, Thọ từng xác
quyết nhiều lần: "đảng là tao!". Mặc dù Thọ không chính thức là nhân vật
số 1 trong đảng; trong danh sách Bộ Chính Trị ông chỉ đứng hàng thứ
năm, sau các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng. Nhưng
Thọ lại là người nắm bộ máy đảng và là nhân vật quyền lực nhất. Thọ có
thể bắt giam những cộng sự viên của các nhân vật này mà không ai dám
chống lại hoặc đích thân chỉ huy những công tác quan trọng nhất của chế
độ khi cần: Giám sát Hội Nghị Paris và trực tiếp thương thuyết với Mỹ;
Chỉ huy cuộc tổng tấn công dứt điểm chiếm Miền Nam năm 1975 với vai trò
chính ủy. Và chính quyền lực của Lê Đức Thọ đã giúp không nhỏ cho đảng
CSVN có những hành động khủng khiếp như Cải cách ruộng đất; Phát động
cuộc chiến với Miền Nam; Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968; Chiến dịch
mùa hè đỏ lửa 1972. Tất cả những sai lầm đó gây thiệt hại ghê gớm cho
đảng và chế độ, đồng thời cũng là những thảm kịch đối với Việt Nam. Đặc
biệt là sau năm 1975, Thọ cũng tham gia vào việc quyết định “đánh tư
sản” tại Miền Nam. Trong văn kiện đại hội đảng năm 1979 chính Thọ đã
khẳng định: “Với đường lối đúng đăn của bộ chính trị và toàn đảng,
chúng ta đã quét sạch được lũ tư bản mại bản và lấy lại những gì của
chúng…”
Hãy nhớ lấy đây cũng là gương mặt của tên cướp ngày
Thứ tư, Cũng cần phải nói qua câu chuyện của Nguyễn Tấn Dũng. Năm 1964
Nguyễn tấn Dũng đang học lớp 6 thì vào bưng theo du kích để khủng bố
nhân dân. Trong bưng Dũng vừa “đánh Mĩ cứu nước” vừa theo học bổ túc văn
hóa. Đến năm 1975 tốt nghiệp Y sĩ nhân dân và về đảm nhiệm chức vụ Thủ
trưởng bệnh viện huyện Hà Tiên. Vừa phấn đấu để lập thành tích, vừa học
hỏi để phục vụ tốt cho đảng, Dũng đã chứng tỏ là đảng viên trung kiên và
là thành phần trí thức nòng cốt, tài sản hiếm quí của đảng. Nhờ sự học
uyên bác trong quản lý kinh tế nên Dũng đã được đảng tin tưởng và giao
cho trọng trách Trưởng ban tiêu diệt tư sản mại bản tỉnh Rạch giá. Trong
đợt đánh tư sản mại bản năm 1978 tỉnh Rạch giá dưới sự chỉ đạo của Dũng
đã đạt thành tịch vượt chỉ tiêu, nêu cao ngọn cờ đầu trong công tác
tiêu diệt tư sản. Sau đó được Dũng được đề bạt nên Thiếu tướng CA nhân
dân tỉnh và đã lập thành tích rực rỡ nhờ bắt trọn ổ “phản động” Trần văn
Bá. Sự kiện Dũng phong tướng cho Bùi Tuyết Minh tại Kiên Giang vừa qua
chính là sự trả ơn cho mánh khóe làm ăn của 3 Dũng khi còn ở Rạch Giá.
Xin xem thêm “Trùm mật vụ bắt người vượt biên trở thành 'bà tướng đầu tiên' của ngành CA” của tác giả Bảng Đỏ Danlambao [12]
Đây là một tên cướp ngày của cộng sản
IV. Kết Luận:
Sau khi cướp sạch tài sản của nhân dân Việt Nam thì đảng cộng sản tiếp
tục đẩy họ ra biển với cái chết lên đến 9/10. Những chính sách tàn bạo
của đảng cộng sản là không thể bao biện và hết sức tàn ác. Không những
thế, để xóa nhòa tội ác của mình đảng cộng sản còn tiếp tục gây tội ác
với cả những thuyền nhân đã chết. Theo tờ Jakarta post ngày 20/6/2005
cho biêt là chủ tịch nước của cộng sản Việt Nam đã yêu cầu Indonexia phá
bỏ văn bia thuyền nhân bằng tuyên bố “Khẩn cấp đập tượng đài” vì lý
do”Xúc phạm tới Việt Nam” và cho rằng những nạn nhân chết thảm trên Biển
Đông là do: “Chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài”.
Ngày hôm nay, những sự thật đã phơi bày, đảng cộng sản đã cho thấy mình
là một đảng cướp ngay từ nhũng ngày đầu khi cướp chính quyền của cụ Trần
Trọng Kim, cướp thành quả của nhân dân thông qua “đóng góp cho cách
mạng” và CCRĐ. Không còn cách nào khác toàn thể đồng bào trong và ngoài
nước phải đứng lên tố cáo tội ác của cộng sản để lật đổ bọn cướp ngày đã
hơn 80 năm qua cướp bóc của dân tộc Việt Nam.
02/8/2013
___________________________________-
Chú thích:
[1]. http://chauxuannguyen.org/2012/12/15/ben-thang-cuoc-phan-i-mien-nam-chuong-iii-danh-tu-san-huy-duc/
[5]. http://khungtroisaomai.com/forums/viewtopic. php?f=9&t=7699
[6]. http://www.voatiengviet.com/content/ky-niem-ngay-30-thang-4-thuyen-nhan-viet-nam-tu-nan/1651015. html
THẾ HUY * SƯ ĐOÀN III
Trả lại sự thật cho
lịch-sử về việc Sư-Đoàn 3 BB
lui quân tại Quảng-Trị vào Muà Hè Đỏ Lửa 1972
lui quân tại Quảng-Trị vào Muà Hè Đỏ Lửa 1972
THẾ HUY,
Paris
Năm nay,tháng 7/2010, trong dịp nghỉ hè tại Mỹ,chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư-đoàn 3BB cư-ngụ tại vùng Nam California.Trong cuộc trao đổi,anh em nhắc lại kỷ niệm của những ngày binh-lửa,trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3 trên “Đại Lộ Kinh-Hoàng” năm 1972. Sự kiện đó đã khơi lại trong tôi nỗi bẽ bàng, đắng-cay về một trận đánh oan-khiên tới độ phi-lý mà các đơn-vị trú-phòng tại đây đã phải gánh-chịu và đấy cũng là những băn-khoăn, thắc mắc nằm sâu trong ký-ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua.
Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên-cứu và Kế hoạch Đặc-biệt, dưới quyền Tr/tá Phạm-Đức-Lợi (1) thuộc Phân Khối Không-Ảnh/Phòng 2/Bộ Tổng Tham-Mưu.
Nhiệm-vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn-biến,mọi đổi thay trên toàn lãnh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Mòn HCM.Trung bình mỗi tuần,chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa kỳ cung-cấp.
Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu,Thủ-Tướng Khiêm và Đ.Tướng Viên nắm rất rõ tình-hình và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng Phi-Quân-Sự.
Ba vị lãnh đạo cao nhất đã được chúng tôi đệ trình những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 vì từ mùa thu 1971,VC đã ráo riết đưa hàng đoàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ trình mới từ đường mòn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi-quân-Sự.Con đường này đã được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72
.Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác nhận sự kiện đó.VC còn thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS. Điều đó có nghĩa là các căn-cứ hoả lực cuả ta tại vùng Nam Bến-Hải đều nằm trong tầm pháo cuả VC.
Mỗi chiều thứ sáu, Đại-tá Phạm-ngọc-Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết trình trước ba vị lãnh-đạo quân sự cao nhất cuả VNCH về tình hình QS tại toà nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt-động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục. Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi-quân-Sự phía Nam mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh gì,mặc dù nhiều lần chúng tôi đã xin Không Quân HK oanh-kích. Sự bỏ ngỏ và thái-độ khó hiểu cuả các giới chức Việt/Mỹ lúc đó đã làm cho chúng tôi hết sức kinh-ngạc.
· I. Mạn
đàm với Chuẩn-tướng Vũ-văn-Giai,Cựu Tư-lệnh SĐ3BB:
Cuộc trò truyện với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc tìm hiểu thêm để
viết về những điều đã khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua. Bởi
vậy,tôi ngỏ ý muốn gặpTướng Giai để biết them về những điều mà tôi nghĩ rằng
chỉ có ông mới trả lời chính xác được. Bốn ngày sau,vào trung tuần tháng
7/2010,tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California. Đi cùng
với tôi là Tr/tá Nguyễn-tri-Tấn,cựu tr/đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3. Khi VC tấn
công qua sông Bến Hải, ông Tấn là tiểu-đoàn-trưởng TĐ3/2/SĐ3. Ông là người rất
gần gũi với Tướng Giai vì đã cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào
trước đây.
Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử-dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn-cứ hoả lực tại vùng nam vĩ-tuyến 17.Do đó,chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn-cứ này do Hoa kỳ hay VN trấn giữ thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm.
Về việc VC sửa soạn tấn-công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước,nhưng trong cương-vị của mình, ông không thể làm gì hơn được. Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau vì theo họ, lực lượng trú phòng cuả ta không thể đương cự được. Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng-xuân-Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm;Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng.Ngược lại,ông Lãm muốn SĐ3 giữ nguyên vị-trí, dù áp-lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt.
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH.SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH.Do đó,Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm-trách.Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại tá Lê đức Đạt,TL/SĐ22 vì ông không được cảm tình cuả John Paul Vann, người cố vấn Mỹ “rất đặc biệt” tại Quân-đoàn 2 lúc đó.
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn-công và với tình hình sôi động như vậy,SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng-trừ-bị hay không; Tướng Giai xác-nhận là các đơn-vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu.Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác.
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle,Tư-lệnh Không-quân Mỹ tại Thái-bình-Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức,lột lon và truy-tố!.
Cũng trong cuộc mạn đàm này,chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển cuả tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris, và từ trước năm 1971,hai bên đã thoả thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt-Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải.Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản “Đề nghị mục tiêu oanh kích” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV cuả Mỹ ở Sàigon,vào thời điểm đó, đã không được thực hiện. Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hoả lực và các đơn vị phòng thủ cuả VNCH tại phiá nam cuả vùng PQS.Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là “Tiền đồn chống Cộng” cuả Thế giới Tự Do.Tổng Thống Thiệu, Đ.T.Viên dư biết các sự kiện đó,nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?
Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC.
Chúng tôi hỏi là:Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn-công vào vùng hoả tuyến, niên-trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư-đoàn tân-lập với một quân số phức-tạp như SĐ3/BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng,pháo yểm trợ mạnh-mẽ; là một sai lầm nghiêm-trọng của Bộ TTM ở Sàigon hay không? Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười,một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc-động. Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa. Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận,nhưng chỉ it lâu sau đó,bị tước đoạt binh-quyền và khi VC chiếm được Miền Nam, ông lại bị Cộng Sản đọa đầy thêm 13 năm nữa. Ông hiện sống âm thầm, ẩn-dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khoẻ cũng không được khả quan lắm.
Có lẽ vì định mệnh,khi BTL SĐ3/BB di chuyển về căn cứ Hoà Khánh tại phiá nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Sàigon ra tăng cường cho P2/SĐ3.Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3,tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân “lấn đất giành dân” trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/01/1973. Trong gần ba năm,tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn cuả các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào.
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa.Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung.Nguyên tắc “một đổi một” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện. Điều đó có nghĩa:VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết!. Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng.Ai chịu trách nhiệm về việc này?
Tại Ngã Ba Huế,tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21-22/3/75. Đúng một tuần lễ sau, lúc 00giờ20 ngày 29/3/75,tôi cũng là một trong những người sau cùng rời Căn cứ Hoà Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng. Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Sàigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô cuả VNCH rơi vào tay CS.
Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử-dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn-cứ hoả lực tại vùng nam vĩ-tuyến 17.Do đó,chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn-cứ này do Hoa kỳ hay VN trấn giữ thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm.
Về việc VC sửa soạn tấn-công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước,nhưng trong cương-vị của mình, ông không thể làm gì hơn được. Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau vì theo họ, lực lượng trú phòng cuả ta không thể đương cự được. Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng-xuân-Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm;Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng.Ngược lại,ông Lãm muốn SĐ3 giữ nguyên vị-trí, dù áp-lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt.
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH.SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH.Do đó,Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm-trách.Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại tá Lê đức Đạt,TL/SĐ22 vì ông không được cảm tình cuả John Paul Vann, người cố vấn Mỹ “rất đặc biệt” tại Quân-đoàn 2 lúc đó.
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn-công và với tình hình sôi động như vậy,SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng-trừ-bị hay không; Tướng Giai xác-nhận là các đơn-vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu.Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác.
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle,Tư-lệnh Không-quân Mỹ tại Thái-bình-Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức,lột lon và truy-tố!.
Cũng trong cuộc mạn đàm này,chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển cuả tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris, và từ trước năm 1971,hai bên đã thoả thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt-Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải.Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản “Đề nghị mục tiêu oanh kích” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV cuả Mỹ ở Sàigon,vào thời điểm đó, đã không được thực hiện. Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hoả lực và các đơn vị phòng thủ cuả VNCH tại phiá nam cuả vùng PQS.Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là “Tiền đồn chống Cộng” cuả Thế giới Tự Do.Tổng Thống Thiệu, Đ.T.Viên dư biết các sự kiện đó,nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?
Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC.
Chúng tôi hỏi là:Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn-công vào vùng hoả tuyến, niên-trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư-đoàn tân-lập với một quân số phức-tạp như SĐ3/BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng,pháo yểm trợ mạnh-mẽ; là một sai lầm nghiêm-trọng của Bộ TTM ở Sàigon hay không? Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười,một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc-động. Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa. Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận,nhưng chỉ it lâu sau đó,bị tước đoạt binh-quyền và khi VC chiếm được Miền Nam, ông lại bị Cộng Sản đọa đầy thêm 13 năm nữa. Ông hiện sống âm thầm, ẩn-dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khoẻ cũng không được khả quan lắm.
Có lẽ vì định mệnh,khi BTL SĐ3/BB di chuyển về căn cứ Hoà Khánh tại phiá nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Sàigon ra tăng cường cho P2/SĐ3.Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3,tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân “lấn đất giành dân” trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/01/1973. Trong gần ba năm,tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn cuả các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào.
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa.Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung.Nguyên tắc “một đổi một” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện. Điều đó có nghĩa:VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết!. Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng.Ai chịu trách nhiệm về việc này?
Tại Ngã Ba Huế,tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21-22/3/75. Đúng một tuần lễ sau, lúc 00giờ20 ngày 29/3/75,tôi cũng là một trong những người sau cùng rời Căn cứ Hoà Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng. Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Sàigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô cuả VNCH rơi vào tay CS.
· II.
Phân-tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phố trí của SĐ3/BB khỏi
Quảng-Trị năm 1972:
Chúng tôi không nhắc lại chi-tiết của các trận đánh vì trong suốt mấy chục năm
qua, nhiều tác-giả tham-dự trong biến cố này đã viết khá đầy đủ.Hơn nữa, đó
cũng không phải là chủ-đích của bài viết này.
Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại,dù huy-hoàng hay chua xót tới đâu,chúng ta cũng có thể phân-tích và nhận-định một cách khách-quan để từ đấy, rút ra những kinh-nghiệm hữu-ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng cuả ông cha chúng.
Để nhìn vấn-đề một cách trung-thực và chính xác hơn,chúng ta phải nhìn từ “góc cạnh chính trị” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó.Tuy nhiên, trên bình-diện thuần túy quân-sự,qua việc thất bại ấy,chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau:
Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại,dù huy-hoàng hay chua xót tới đâu,chúng ta cũng có thể phân-tích và nhận-định một cách khách-quan để từ đấy, rút ra những kinh-nghiệm hữu-ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng cuả ông cha chúng.
Để nhìn vấn-đề một cách trung-thực và chính xác hơn,chúng ta phải nhìn từ “góc cạnh chính trị” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó.Tuy nhiên, trên bình-diện thuần túy quân-sự,qua việc thất bại ấy,chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau:
1. Thành phần:
Thành phần chủ-lực cuả SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1.Đặc biệt ,Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn.Khi được chuyển qua SĐ3 thì 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2.Đây là một đơn vị dạn dày tác-chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến.Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 thì mỗi trung đoàn có một tiểu đoàn còn lại cuảTr/Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BB;số còn lại là các tân binh quân-dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến-trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng,pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu thì việc thất trận không làm ai ngạc nhiên.Vả lại,chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn-vị tăng phái đã phải đối-đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số, và chiến trường đã được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước.
2. Tinh-thần và khả
năng chiến đấu:
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn-cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn ngập.Ngay sau đó,việc đầu hàng của Tr/tá Đính,Tr/đoàn trưởng tr/đoàn 56 tại căn-cứ Tân-Lâm cùng 1500 binh-sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác.Hiện-tượng này đã được lập lại trong cuộc di-tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước.
Tóm lại,với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy,cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát cuả các cấp chỉ-huy.Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động cuả Tướng Giai.Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang ,giao động hết mức.
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn-cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn ngập.Ngay sau đó,việc đầu hàng của Tr/tá Đính,Tr/đoàn trưởng tr/đoàn 56 tại căn-cứ Tân-Lâm cùng 1500 binh-sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác.Hiện-tượng này đã được lập lại trong cuộc di-tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước.
Tóm lại,với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy,cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát cuả các cấp chỉ-huy.Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động cuả Tướng Giai.Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang ,giao động hết mức.
3. Các yếu-tố chính-trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:
Trước tình hình hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngày QĐ đảo chính lật đổ chính-phủ Đệ Nhất Cộng Hoà,người Mỹ đến VN “gọi là” để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin-tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng cuả võ khí.
QĐ Mỹ đã chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đã thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung-cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN.Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược cuả cuộc chiến tranh du-kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi,chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc. Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến.Giả dụ,nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông,quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên-giới các nước bên cạnh.Qua hình-thái chiến tranh ấy,VC đã làm cho người Mỹ chán nản vì bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính.
Bản chất cuả người Mỹ là mau chán,tiết kiệm thời gian.Làm việc gì họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất bởi vậy cuối năm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đã nghĩ đến việc rút quân. Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC bắt đầu tấn công QLVNCH trong những ngày đầu cuả Tết Mậu Thân 1968 đã một phần chứng minh điều đó.Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan tình báo Mỹ không biết gì về cuộc Tổng-công-Kích này trước khi nó xảy ra.Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ,nhưng những người lãnh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lý,lịch sử,truyền thống và văn hoá của người bản xứ.Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt cuả QĐ Mỹ ở VN đã tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là một cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT vì cuộc chiến VN đã bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN.Mỗi năm CSQT đã chi ra hàng trăm triệu mỹ kim về lãnh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phiá VC.Các cuộc biểu tình chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương. Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH.
Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài,hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi,không liên hệ gì đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc phòng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Đã thế, họ còn bị cả thế giới lên án thì việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên.Hơn nữa,phe đối lập tại Thượng và Hạ Viện Mỹ đả kích chính phủ để kiếm phiếu trong các muà bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN. Được sự viện trợ và thúc đẩy cuả CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất cuả mỗi bên ngày một lớn.Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lý gì, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đình họ phải lo lắng nên họ đòi chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con cuả họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ.
4. Mục tiêu cuả chính phủ HK khi tham chiến tại VN:
Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân,do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lãnh thổ cuả mình vì sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn. Đó là lý do khiến HK tham dự vào 2 cuộc thế chiến ở phiá bên kia bán cầu và ở Cao Ly .
Sau thế chiến thứ 2,khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng.Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do,Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách cuả mình để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế,chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp,Anh,Tây-ban-Nha,Bồ đào Nha đã làm từ cuối thế kỷ thứ 19.Riêng tại VN,trong cuộc chiến vừa qua,HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chặn CSQT bành trướng về phía ĐNA vì theo quan điểm của Mỹ lúc ấy,họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ thì các nước lân bang cuả VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo cuả CS.VNCH chấp nhận HK là đồng minh vì cả hai có cùng một chủ đích chống CS.Vả lại,ngoài HK ra,VNCH không còn một lựa chọn nào khác.Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đã đưọc nói đến ở trên.
5. Lý do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:
Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi cuả quần chúng,chính phủ Mỹ còn nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về võ khí để thắng trong cuộc chiến VN thì Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng. Lúc ấy điểm nóng cuả chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt Trung. Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn. Hơn nữa,hơn ai hết,bằng những hình ảnh chụp bằng phi-cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh,HK biết rất rõ rằng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến vì sự xung đột về ý-thức-hệ, và vì cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT. Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phiá nam vì vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ. Qua chiến lược đó,VNCH bắt buộc trở thành “vật hy sinh để tế thần”, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc Tế vì Mỹ muốn làm vừa lòng “người bạn mới”. Đó là kết quả cuả chính sách”ngoại giao bóng bàn” cuả Henry Kissinger và Richard Nixon .Tình nghiã đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt!. VNCH bị bức tử.
Hai mươi năm sau,Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ. Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố tại Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ. Trong bối cảnh ấy, HK lại tìm mọi cách để làm thân với VC để tìm một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu hầu cân bằng cán cân thế lực tại khu vực này của thế giới.
· III.Kết
Luận:
Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH. Họ có thể đúng nếu trên lãnh vực bang giao
QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa,Lễ,
Trí,Tín.Tiếc rằng,điều đó sẽ không bao trở thành sự thật như một quy-ước bắt mọi
người phải tôn trọng nên mỗi quốc gia đều làm những gì có lợi nhất cho mình.Hơn
ai hết,HK đã từ lâu theo đuổi chủ trương ấy. Tôi không nhớ tên một nhà lãnh đạo
nào đó của HK đã thẳng thắn xác định ngụ ý rằng HK không có Bạn,cũng không có
Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết.
Cuộc chiến VN đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân cuả SĐ3/BB tại Vùng Hoả Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung cuả cả Dân Tộc.
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !!.
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ-TƯỞNG TỰ DO.Chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ cuả những chiến hữu đã bị đọa đầy,khổ nhục sau cuộc chiến đấu “oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ” để bảo vệ Đất Nước.
THẾ HUY, Paris.
Viết xong tại California ngày 19/7/2010.
Cuộc chiến VN đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân cuả SĐ3/BB tại Vùng Hoả Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung cuả cả Dân Tộc.
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !!.
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ-TƯỞNG TỰ DO.Chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ cuả những chiến hữu đã bị đọa đầy,khổ nhục sau cuộc chiến đấu “oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ” để bảo vệ Đất Nước.
THẾ HUY, Paris.
Viết xong tại California ngày 19/7/2010.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
uesday, October 25, 2016
MÙA XUÂN HÀ NỘI - SƠN TRUNG : THƠ- PHẬT GIÁO TẠI Ý
SVEN HANSEN * MÙA XUÂN HÀ NỘI
Mùa xuân mầu hồng của Hà Nội
Sven Hansen bình luận
Hồng Ân dịch
Lối xử lý phóng khoáng đối với người đồng tính
luyến ái che dấu tình trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam. Nhưng mánh
lới này có hậu ý chính trị.
Daumen hoch: Regenbogenflagge auf der Viet Pride.
Bild: reuters – Đưa ngón cái lên (ngụ ý: một việc tuyệt vời): cờ cầu
vồng (biểu tượng cho sư khoan dung) trong cuộc diển hành xe đạp, xe gắn
máy đặt tên „Kiêu Hãnh Việt Nam“. Ảnh của Reuters
Tại Việt Nam ai hy vọng sẽ có canh tân dân chủ bên
cạnh nền kinh tế cởi mở đều bị thất vọng cay đắng. Mặc dù trong quốc hội
có một vài đại biểu không là đảng viên đảng CS, Việt Nam vẫn là nước
độc tài đảng trị. Đảng Cộng Sản giữ độc quyền và kiểm duyệt các phương
tiện truyền thông.
Các blogger đối kháng bị kết án tù nặng nề. Mới đây
nhà nước còn tuyên bố kể từ ngày một tháng chín mọi người chỉ được trao
đổi trên mạng tin tức riêng tư, không được nói đến hoặc bình luận các
bài báo. Rõ ràng là đảng Cộng Sản, từng có tiếng bê bối về kinh tế và
tham nhũng, đang sợ dân, vì với kỹ thuật truyển thông hiện đại dân càng
ngày càng dám nói thẳng về chính trị.
Khá nhạc nhiên là quan chức Việt Nam nay lại dễ dãi
với mầu hồng (chú thích: đối với người Âu Tây mầu hồng ngụ ý đồng tính
luyến ái). Họ cho phép người đồng tính luyến ái diễn hành và lại còn
đưa vấn đề hôn nhân đồng tính ra quốc hội thảo luận. Tuy hôn nhân đồng
tính chưa được công nhận, nhưng Việt Nam không theo chủ trương của các
nước khác trong vùng là chỉ bỏ dần dẩn điều cấm kỵ này, mà Việt Nam lạị
đứng lên dẫn đầu phong trào.
Nhưng có điều cay đắng ở đây là lãnh đạo Việt Nam
xử dụng cuộc thảo luận đề tài phóng khoáng cho các người đống tính nam,
nữ, các người lưỡng tình dục và chuyển đối giới tính để tạo bộ mặt tự do
phóng khoáng cho chính mình hầu làm giảm nhẹ đi các lời phê bình chỉ
trích việc chà đạp mọi quyền tự do dân chủ tại Việt Nam. Điều này hêt
sức thuận lợi cho Việt Nam. Việt Nam đang ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền
của Liên Hiệp Quốc, có nghĩa là nhờ thế Việt Nam sẽ có tiếng tốt trên
sân khấu quốc tế.
Nhờ mùa xuân mầu hồng, chế độ Hà Nội không tốn gì nhiều mà lại được
tiếng tự do phóng khoáng và từ đó rảnh tay thi hành các biện pháp cứng
rắn trong lãnh vực nhân quyền.
*****Nguồn nguyên bản tiếng Đức:
http://www.taz.de/Kommentar-Gay-Pride-Vietnam/!121252/
http://changevietnam.wordpress.com/2013/08/07/mua-xuan-mau-hong-cua-ha-noi/
SƠN TRUNG * CHUYỂN LUÂN
CHUYỂN LUÂN
Nước đi ra biển là mưa về nguồn. (Tản Đà)
Ai bảo đi là chết?
Ai bảo chết là hết?
Không phải đi là chết
Không phải chết là hết.
Tất cả là chuyển đổi vô cùng
Trong luân hồi vô thủy đến vô chung.
Nếu bạn thấy cái vỏ rắn,
Treo lửng lơ trên cành dâu
Xin bạn đừng u sầu,
Vì con rắn không chết
Nó chỉ thay lớp vỏ
Nó sống rất hạnh phúc
Trong thiên đưòng rừng sâu
Hay vương quốc đại dương
Bạn ơi, Hãy nhìn xem
Những giòng nước muôn phương
Trăm sông nghìn suối đều chảy về đại dương
Trong vài giờ hay vài ngày,
Nước sông, nước biển thành mây trắng, mây đen bay
Về chốn cũ
Về chốn cũ
Thăm rừng xanh
Thăm núi đỏ
Thăm đồng bằng
Bằng cơn mưa lũ
Hay hạt mưa bụi bay...
TRANFORMATION
Qui a dit:" Partir c'est mourir?
Et mourir c'est finir?
Non! Non!
Partir ce n'est pas mourir
Et mourir ce n' est pas finir.
Mais devenir
Et transformer
Si vous voyez dans un buisson
Une peau séchée d'une vipère
Ne pleurez pas de sa vie éphémère
Parce qu'il ne meut pas
Parce qu'il ne meut pas
Il est vivant dans une grande rivière
Ou dans une profonde vallée
Ou dans une dense forêt
Il a abandonné son peau vieux
Pour obtenir un nouveau exterieur
Il est hereux
Dans ses nouveaux temps et ses nouveaux lieux .
Ou dans une profonde vallée
Ou dans une dense forêt
Il a abandonné son peau vieux
Pour obtenir un nouveau exterieur
Il est hereux
Dans ses nouveaux temps et ses nouveaux lieux .
Notre vie come la vie de l'eau
La rizière ou le lac est son natale berceau
Un jour elle se deplace et vit dans la rivière ou le ruisseau.
Et il faut se jetter sans cesse dans la mer.
Mais dans quelques secondes, quelques heures, ou quelques jours
À son tour
À son tour
Elle reviendra à son lac et sa rizière
Sous la forme de nuage et de la pluie
L'home ne perd rien
Et il n'obtient rien
Mais il change bien
C'est la loi de la vie
NGUYỄN THIÊN -THỤ * PHẬT GIÁO TẠI NƯỚC Ý
PHẬT GIÁO TẠI ITALY
I. LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ITALY
Nước Ý là một nước cộng hòa, diện tích301,338 km2, dân số hơn 60,8 triệu.Đa số theo Thiên chúa giáo La Mã, chiếm 87,8 % dân số. Hồi giái có khoảng 0,8 triệu đến 1,5 triệu, có 70,000 theo đạo Sikh, 70,000 Ấn độ giáo, và 50.000 Phật giáo.
Phật giáo tại Ý thuộc hai nhóm chính là Phật giáo Nguyên Thủy, Vajrayana và Phật giáo Đại Thừa. Phật giáo tại Ý đã thành lập Liên đoàn Phật giáo Ý( the Italian Buddhist Union -Unione Buddhista Italiana: UBI), thuộc Liên đoàn Phật giáo Âu châu( the European Buddhist Union). UBI thành lập tại Milan năm 1985, và được Tổng Thống Ý chấp nhận năm 1991. Giáo hội Phật giáo Nichiren Buddhism được Viện Phật học Italian Buddhist Institute Soka Gakkai (Istituto Buddista Italiano Soka Gakkai, SGI-ITALIA), thành lập năm 1998 và được Tổng thống Ý chấp nhận năm 2000. Hội Phật giáo Ý có 60 ngàn hội viên, tức 0,1% dân số, và có 10,000 trung tâm Phật giáo.
II. KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TẠI Ý
1. VIỆN LAMA TZONG KHAPA
Viện Istituto Lama Tzong Khapa (ILTK) ở Pomaia, một làng ở Tuscany, tại nước Ý Italy , 40 km cách Paris, là một chi nhánh của Tổ chức Bảo tồn Đại Thừa ( Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition - FPMT), là một chi nhánh của mạng quốc tế của trung tâm Phật Pháp Gelugpa) Trung tâm mang tên Tsongkhapa, là tên của người thành lập tu viện Gelugpa của giáo hội Phật giáo Tây Tạng. Ngài Đạt Lai Lạt Ma thỉnh thoảng dạy ở đấy.
Viện này thành lập năm 1977 do những người thành lập nên FPMT, đó là Lamas Thubten Yeshe và Thubten Zopa Rinpoche Viện Lama Tzong Khapa dạy nhiều môn Phật học Tây Tạng bằng tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ Âu châu tại Ý . Viện này mở ra chương trình Master 6 năm, trước kia 7 năm để đào tạo giáo sư cho Viện.
Istituto Lama Tzong KhapaVia Poggiberna, 15
56040 Pomaia (Pisa)
Italia
For more information and to register for a course: segreteria@iltk.it
For more information about the regular Buddhist courses and study programs: educationcoordinator@iltk.it
56040 Pomaia (Pisa)
Italia
For more information and to register for a course: segreteria@iltk.it
For more information about the regular Buddhist courses and study programs: educationcoordinator@iltk.it
Tháp tại cửa Viện Lama Tzong Khapa
Istituto Lama Tzong Khapa
2. TU VIÊN SANTACITTARAMA
Santacittarama là tiếng Ý có nghĩa là Tu viện Phật giáo Nguyên Thủy ở gấn La Mã theo truyền thống Thái Lan tu trong rừng của Ajahn Chah . Mùa Xuân năm 1990, Ngài Ajahn Sumedho khiến hai tỳ khưu Ý pháp danh Ajahn Thanavaro (naylà Mario Thanavaro) và Anagarika John Angelori queản lý một ngôi nhà nhỏ gần làng Sezze-Romano ở phía nam La Mã. Sau nhờ sự trợ giúp của cộng đồng Thái , hai ông tìm được một chỗ thich hợp ở Poggio Nativo trong vùng quê đẹp đẽ ở Sabina , và xây dựng thành một tu viện vào năm 1997 ở Nam La Mã, có hai khu riêng biệt, một tòa nhà dành cho du khách, và một tỏa nhà trong rừng cho các tỳ khưu. Bà Natchari Thananan, phu nhân đại sứ Thái tại Ý đã gây quỹ xây chùa.
Địa chỉ:
2. TU VIÊN SANTACITTARAMA
Santacittarama là tiếng Ý có nghĩa là Tu viện Phật giáo Nguyên Thủy ở gấn La Mã theo truyền thống Thái Lan tu trong rừng của Ajahn Chah . Mùa Xuân năm 1990, Ngài Ajahn Sumedho khiến hai tỳ khưu Ý pháp danh Ajahn Thanavaro (naylà Mario Thanavaro) và Anagarika John Angelori queản lý một ngôi nhà nhỏ gần làng Sezze-Romano ở phía nam La Mã. Sau nhờ sự trợ giúp của cộng đồng Thái , hai ông tìm được một chỗ thich hợp ở Poggio Nativo trong vùng quê đẹp đẽ ở Sabina , và xây dựng thành một tu viện vào năm 1997 ở Nam La Mã, có hai khu riêng biệt, một tòa nhà dành cho du khách, và một tỏa nhà trong rừng cho các tỳ khưu. Bà Natchari Thananan, phu nhân đại sứ Thái tại Ý đã gây quỹ xây chùa.
Địa chỉ:
Santacittarama, 02030 Frasso Sabino RI, Italy.
Telephone: (+39) 0765 872 186 (Tues-Sun, 7:30-10:30am)
Fax:(+39) 06 233 238 629
Email:sangha@santacittarama.org
3. CHÙA LANKARAMAYA
Lankarama Vihara - Via Pienza 8, MILAN - ITALY
TEL . 0039-0289305295, FAX . 0039-0289305295
milano@lankaramaya.com
5. LIÊN HỘI PHẬT GIÁO Ý (UBI - Unione Buddhista Italiana ), Roma.
Telephone: (+39) 0765 872 186 (Tues-Sun, 7:30-10:30am)
Fax:(+39) 06 233 238 629
Email:sangha@santacittarama.org
3. CHÙA LANKARAMAYA
Đây là chùa Phật giáo Nguyên Thủy của người Sri Lanka , thuộc hội Phật
giáo Sri Lanka- Milano --ONLUS (Sri Lanka Buddhist Association –Milano
O.N.L.U.S), thành lập năm 1996.
TEL . 0039-0289305295, FAX . 0039-0289305295
milano@lankaramaya.com
4.TRUNG TÂM THIỀN ARCO (Centro Zen l'Arco) , Roma.
Trung tâm Thiền này là tập thiền theo phái Tào Động Nhật bản . Trung tâm này là chi nhánh của Trung tâm Thiền San Francisco Zen Center
do Shunryu
Suzuki Roshi (là tác giả hai quyển sách nổi tiếng là Zen Mind, và Beginner's Mind). Có cách tọa thiền, hành thiền, tụng kinh...
Trung tâm dạy lý thuyết và thực hành liên quan đến Thiền.
Trung tâm Thiền này hoạt động từ ngày 8 tháng 12 , năm 2009, mở cửa cho
thường dân và người tu thiền. Nơi đây có thầy hướng dẫn là Dario
Girolami.
(Centro Zen l'Arco
Piazza Dante 15 - 00185 Roma
Telefono
06.70497919)
info@romazen.it
5. LIÊN HỘI PHẬT GIÁO Ý (UBI - Unione Buddhista Italiana ), Roma.
Casella Postale 10351
Roma EUR - 00144 Roma
Roma EUR - 00144 Roma
+ 39.349-2543115
email: ubi.italia(at)tiscali.it
Liên hội (Unione Buddhista
Italiana, UBI) có 39 hội đoàn là thành viên của Liên đoàn. Liên hội này
là một tổ chức tôn giáo, văn hóa và từ thiện. Liên hội không đại diện
cho một tông phái nào, liên hội tập họp mọi hoạt động để bảo tồn và tôn
trọng mọi tông phái.
Phật giáo là tôn giáo thứ ba sau Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Có 100
ngàn Phật tử, chiếm 0, 2% dân số. Tuy nhiên mỗi ngày một gia tăng.
Liên hội Phật giáo Ý (L'Union Bouddhiste Italienne) bao gồm các tông phái Theravâda, Mahâyâna, Vajrayâna),
thành lập năm 1985 và được quốc gia công nhận là một tôn giáo vào năm
1991. Liên đoàn là thành viên của Liên đoàn Phật giáo Âu Châu, có 70
ngàn Phật tử, trong đó có 50 ngàn người Ý,
L'Institut Bouddhiste Italien Soka Gakkai (école de référence : le bouddhisme Nichiren), fondé en 1998 sur les cendres de l'Association Italienne Nichiren Shoshu et reconnu par un décret du Président de la République en 2000. Cette organisation compte environ 33 000 adhérents. En France, la Soka
L’Unione Buddhista Italiana
Unione
Buddhista Italiana
Via
Euripide, 137
00125 Roma
Tel.:
349-2543115
E-mail: ubi.italia@tiscali.it
6. HOA NGHĨA TỰ (華義寺 Hua Yi Si)
Đây là chùa của cộng đồng Trung Quốc tại Roma,Ý Đại Lợi. Hoa là Trung Quốc, Nghĩa (Nghĩa Đại Lợi) là nước Ý, nghĩa là chùa của người Hoa ở Ý Đại Lợi, và cũng có nghĩa là tình hữu nghĩ Hoa Ý thắm thiết, dài lâu.
Tri khách các ( Nơi tiếp khách)
Thiền đường
9. CHÙA VIÊN Ý
Đây là chùa của cộng đồng Trung Quốc tại Roma,Ý Đại Lợi. Hoa là Trung Quốc, Nghĩa (Nghĩa Đại Lợi) là nước Ý, nghĩa là chùa của người Hoa ở Ý Đại Lợi, và cũng có nghĩa là tình hữu nghĩ Hoa Ý thắm thiết, dài lâu.
Ngôi chùa Phật Giáo lớn nhất Châu Âu ở
Rome vừa được khánh thành vào hôm 31/3/2013 với sự hiện diện của Thị
Trưởng thành phố Gianni Alemnno và hàng ngàn thành viên của cộng đồng
người Hoa cùng các nhà sư Tây Tạng.
Tọa lạc giữa khu vực Via Om ở Tor Tre Teste, chùa Hua Yi Si được thiết kế với phong cách một ngôi chùa đúng nghĩa.
Chùa do cộng đồng người Hoa cúng dường xây dựng mà ông Thị Trưởng Alemanno mô tả là giúp “tăng sự bình yên và hài hòa với phần còn lại của thành Rome”.
Ông Alemanno ca ngợi ngôi chùa như là
“một kỷ lục về sự khoan dung tôn giáo trong thành phố của chúng ta.
Chúng ta có ngôi đền Hồi Giáo lớn nhất châu Âu và giờ là đến một ngôi
chùa Phật Giáo”.
Cộng
đồng người Hoa sống ở thành phố và các khu vực ở thành Rome khoảng 5.000
đến 7.000 người và hầu hết họ đến từ một vùng đặc biệt của tỉnh Chiết
Giang thuộc miền nam Trung Hoa.
Vào năm 2005, ngôi chùa Phật Giáo Trung
Hoa đầu tiên được thánh thành ở Châu Âu nằm ở khu Ferruccio 8, gần tháp
Pizza Vittoria thuộc vùng Esquilino của thành phố.
Ngôi thánh đường Hồi Giáo tọa lạc ở vùng
Acqua Acetosa, dưới chân Monti Parioli và đó là trung tâm văn hóa Hồi
Giáo Ý. Được thiết kế bởi kiến trúc sư Paolo Portoghesi, công trình do
23 quốc gia Hồi Giáo tài trợ, hầu hết là từ Saudi Arabia (Ả-rập Xê-út)
và được khánh thành vào năm 1995.
Đại hùng bửu điện ( Điện chính)
Thiền đường
9. CHÙA VIÊN Ý
Đây là ngôi chùa Việt Nam ở Roma, Italia.
Địa chỉ:
Via Fossalunga 08 - 35020 Poverara- Padova.
Tel : 39049- 5855406
E mail: thichhanhbao@yahoo.com
Trụ trì:
Đại đức Thích Hạnh Bảo
Địa chỉ:
Via Fossalunga 08 - 35020 Poverara- Padova.
Tel : 39049- 5855406
E mail: thichhanhbao@yahoo.com
Trụ trì:
Đại đức Thích Hạnh Bảo
III. KẾT LUẬN
Ý Đại Lợi là kinh đô của Thiên Chúa giáo.Thế mà tại đây Phật giáo cũng có được một số chùa chiền.
Có lẽ do Thiên địa chuyển luân, vạn vật tương tề.Trước đây Thiên Chúa
giáo truyền bá khắp Á Phi, nay thì tôn giáo Á Phi có tác động trở lại
Âu Mỹ. Tiểu hòa đồng sẽ đi đến đại hòa đồng, thế giới sẽ mở rộng, sẽ
khoan dung, sẽ chấp nhận, sẽ không còn kỳ thị, không còn hận thù để thực
hiện từ bi, bác ái của các đấng Thiêng Liêng cao cả.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - PHAN
LÝ ĐƯƠNG NHIÊN * NGUYỄN TRƯỜNG TỘ LÀ DANH NHÂN VIỆT NAM?
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ LÀ DANH NHÂN VIỆT NAM?
Lý Đương Nhiên
bản in | ¿ Xem Mục Lục | 20 tháng 2, 2009 |
Nhân đọc sachhiem.net giới thiệu bốn bài viết tôn phong ông Nguyễn Trường Tộ; tôi có một vài ý kiến hy vọng thêm chút ánh sáng trong việc xác định lại vị trí của ông Nguyễn Trường Tộ trong dòng lịch sử nước nhà.
Vào tháng 10/1858, ông Nguyễn Trường Tộ cùng Giám mục Gauthier đến Đà Nẵng gặp quân Pháp. Ở đây đã có nhiều người Pháp, trong đó có Giám mục Pellerin áp lực quân Pháp tấn công Huế. Sau đó Nguyễn Trường Tộ cùng Giám mục Gauthier sang Hong Kong. Ở đó ông Tộ có dịp đọc Tân Thư của Tàu và tận mắt nhìn thấy văn minh của nước Anh.
Năm 1861, ông Tộ về Saigòn trên chiến hạm của Charner, không phải để đi kháng chiến, nhưng về làm việc cho Pháp với chức Thông ngôn. Sau đó ông viết vài bản điều trần gửi cho vua Tự Đức, ông trở thành người yêu nước? và Danh nhân Việt Nam?
Nguyễn Trường Tộ ít được người biết đến, cho tới khi tờ Nam Phong khởi đăng bài của các ông Sở Cuồng Lê Dư, Lê Thước, Nguyễn Trọng Thuật. Họ đã biến Nguyễn Trường Tộ một người vô danh trở nên một nhân vật lịch sử. Tiếp đến, ông Từ Ngọc Nguyễn Lân đã viết và cho nhà xuất bản Viễn Đệ xuất bản vào năm 1941 ở Huế cuốn “Nguyễn Trường Tộ”. Giai đoạn này, ông Đào Đăng Vĩ dịch ít bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cho đăng ở báo "La Patrie Annamite". Không biết ông đã tìm thấy ở đâu hay ai đã cung cấp cho ông những bản điều trần đó để ông dịch. Tiếp đó, ông Vĩ đã viết và cho xuất bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ et Son Temps”.
Hai mươi năm sau, năm 1961, ông Đặng Huy Vận và Chương Thâu đã viết chung và cho xuất bản cuốn “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ 19”. Thời gian này, tập san “Nghiên cứu Lịch sử” cũng cho đăng một số bài của các ông Văn Tân Hoàng Văn Nọn, Hoàng Nam, Hồ Hữu Phước, Đặng Huy Vận, Chương Thâu và bà Phạm Thị Minh Lệ,…
Trong thời gian này, ở trong Nam không có quyển sách nào viết về Nguyễn Trường Tộ được xuất bản, nhưng có nhiều bài viết tôn vinh Nguyễn Trường Tộ trên các tạp chí Văn Đàn và Văn Hoá Á Châu,…Ngoài ra Tinh Việt Văn Đoàn còn thành lập “Hội phát triển tinh thần Nguyễn Trường Tộ”. Còn trên tạp chí Trình Bầy của chủ nhiệm Thế Nguyên Trần Gia Thoại có đăng một bài ca ngợi Nguyễn Trường Tộ là bài “Nội dung các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ” của sử gia Nguyễn Khắc Ngữ đăng trong số 33-35, từ tháng 12 năm 1971 đến tháng 2 năm 1972.
Đến năm 1988, Lm Trương Bá Cần cho xuất bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” ( tập I). Đây là cuốn sách đầy đủ nhất từ trước tới nay. Năm 1991, Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm thành phố Hồ Chí Minh cho tái bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” (Tập I – con người) của linh mục Trương Bá Cần. Đến năm 1992, Trung Tâm Hán Nôm thành phố Hồ Chí Minh cho ra cuốn “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” do nhiều người viết. Ở hải ngoại, năm 1998 nhóm Giao Điểm cho ra mắt quyển “Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo”.
Những bài viết về ông đa số (ngoại trừ cuốn “Nguyễn Trường Tộ Thực chất con người và di thảo” của Giao Điểm xuất bản) là đã dành cho ông nhiều thiện cảm . Đọc bản tiểu sử của ông Tộ, do ông Lê Thước công bố: “Ông bị bệnh chết trẻ, ông có học nhưng không được đi thi vì là người Gia Tô, ông có tài mà không được trọng dụng, vì thế mà ai không trạnh lòng thương cảm.” Nhưng có một số người đã ca tụng, tôn vinh ông quá lố, quá đáng, đi đến chỗ không thật và bất xứng. Chiều hướng này ció thể tìm thấy trong các bài như của ông Lê Thước đã cho rằng: “Tư tưởng của người , học thức của người vượt quá xa người đương thời mấy vạn lần”; ông Nguyễn trọng Thuật đánh giá: “Nguyễn Trường Tộ ngang với Khang Hữu Vi của Tàu”; còn ông Từ Ngọc Nguyễn Lân cho rằng: “Người Việt Nam sáng suốt nhất trong thời kỳ lịch sử rối ren nhất trong lịch sử Việt Nam, một nhà đại học vấn, đại kiến thức, đại tư tưởng và đại nghị luận. Một người như thế đáng được cả quốc dân tôn sùng, tượng đồng bia đá kể còn ít.” Có người còn cho rằng: “Ông là bậc kỳ tài, có những tư tưởng tân tiến và một tấm lòng sâu nặng vì nước vì dân”. Có người lại hỏi: “Tại sao vua quan thời Tự Đức không biết nghe theo Nguyễn Trường Tộ, nếu không bổ nhiệm ông làm thủ tướng toàn quyền như hiệp sĩ Toà Thánh Ngô Đình Diệm sau này thì cũng phải mời ông vào ngôi vị cố vấn khoa học kỹ thuật tối cao cho vua quan triều đình”…
Đa số người viết đề cao vai trò canh tân của Nguyễn Trường Tộ thì nội dung trong bài phải đả, phải công kích, mạt sát triều đình Tự Đức như phản động, ngu dốt, phong kiến, bảo thủ, cổ hủ,… không chịu nghe lời canh tân của Nguyễn Trường Tộ nên mới mất nước vào tay thực dân Pháp. Có người còn viết bịa ra là phái đoàn Nguyễn Trường Tộ đi sứ sang Pháp, lúc trở về có tường trình cho vua Tự Đức biết văn minh của nước Pháp như “lấy nước ở tường ra”, “đèn cháy ngược” thế mà vua Tự Đức còn u mê không chịu nghe lời ông Nguyễn Trường Tộ mà canh tân đất nước. Luận cứ này còn đem cả vào trường học giảng dạy cho học sinh nữa.
Vua Tự Đức chết năm 1883, ông Phạm Phú Thứ chết năm 1882, ông Nguyễn Trường Tộ chết năm 1871. Tất cả những vị nêu trên cũng như trên toàn cầu, vào giai đoạn đó, chưa có ai biết hình thù cái bóng đèn điện nó ra sao. Cái bóng điện được thắp sáng lần đầu tiên ở trên trái đất này là ở trong phòng thí nghiệm của ông Thomas Edison, vào ngày 19 tháng 10 năm 1879, cháy liên tục đến ngày 21 tháng 10 năm 1879, ông cho tăng voltage, nó tắt liền (At 1:30PM on October 21, Edison decided to increase the voltage. Not until then did the bulb burned out). Phải qua giai đoạn thiết lập nhà máy làm bóng điện, nhà máy phát điện, trạm biến điện, cột điện, contact, dây chuyền điện…
Đến cuối thế kỷ 19, các thành phố Mỹ và Châu Âu mới được thắp sáng khắp thành phố và tư gia vào ban đêm. Ở Việt Nam đèn điện được thắp sáng lần đầu tiên tại Phủ Thống sứ Pháp ở Hà Nội vào năm 1895. Như vậy, thời ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn trường Tộ làm gì có đèn cháy ngược? Điều này chỉ là tuyên truyền láo thôi.(1)
TIỂU SỬ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
Về năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ, Lm Trương Bá Cần đã viết như
sau: “Về năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ thì theo Lê Thước trong bài
trong bài Nguyễn Trường Tộ tiên sinh, tiểu sử đăng trong Nam Phong số
102 và hầu hết các tác giả tiếp sau đó đều nói Nguyễn Trường Tộ sinh năm
1828, Minh Mạng năm thứ 9. Riêng Nguyễn Trường Cửu, con trai Nguyễn
Trường Tộ, trong sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, không nói năm sinh, nhưng
nói mất ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức 24… thọ 41 tuổi. Hiện nay chúng ta không có đủ tài liệu để xác định một cách chắc chắn về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ. Nhưng nếu ông năm Tự Đức 24, tức năm 1871, và thọ 41 tuổi, thì năm sinh phải là 1830 chứ không thể là 1828. Ngày mất, là tuổi thọ của một người, thường được gia đình truyền đạt một cách chuẩn xác. Trong bài tiểu sử của ông Tộ do ông Lê Thước công bố là năm 1860 ông Tộ đã 33 tuổi. Trong bài viết của ông Đinh Văn Chấp có cho biết ông Tộ sinh năm 1828 và chết lúc 43 tuổi.
Ông Tộ mất lúc ông Nguyễn Trường Cửu vừa được 18 tháng, còn quá nhỏ, chưa thể nào đàm thoại chuyện trò gì với bố được, và lúc lấy vợ có thể ông Tộ nói bớt tuổi để cho người phối ngẫu vui là ông chồng còn trẻ thì sao? Cho nên ông Tộ sinh năm 1828 hay 1830 tôi cũng chưa tin, có thể tuổi ông còn cao hơn nữa. Trước năm 1858, ông Tộ đã là linh mục. Ông Nguyễn Hoàng sinh năm 1839, mãi đến năm 1868, tức 29 tuổi mới được thụ phong linh mục. Căn cứ vào đó, có thể ông Tộ sinh năm 1828 hay 1827, hay 1826 chứ khó có thể ông Tộ sinh năm 1830 được.
Trong Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ ghi năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ là năm 1827. Trong Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển của giáo sư Trịnh Văn Thanh, giáo sư sinh ngữ trường Jean Jaques Rousseau và Leuret ở Saigon, đã bỏ ra 10 năm để hòan thành tác phẩm và nhờ sinh ngữ, có thể ông đọc được tài liệu của Hội Truyền Giáo hay ở đâu đó, mới biết được năm sanh của Nguyễn Trường Tộ là năm 1818. Năm sanh này có vẻ hợp lý , vì lẽ sau đây:
- Trong Di Thảo số 6, ông Tộ viết: Nhân vì chân tôi bị tê bại sắp thành kẻ phế nhân, nằm ngửa ra mà viết, tinh thần buồn bã rối loạn, tự biết nói năng không thứ tự. - Trong Di Thảo số 7, ông Tộ cho biết: Tôi hiện nay bị bệnh tê thấp chưa khỏi - Trong Di Thảo số 8, ông Tộ viết: Tôi trước đây bị ốm nằm ở Gia Định, điều dưỡng đã gần hai năm, nay 10 phần đã giảm 5, 6
Những điều ông Tộ cho chúng ta biết ngày nay y khoa gọi là bệnh phong thấp cấp tính, tiếng Pháp gọi là rhumatisme articulaire aigue, tiếng Anh là acute articular rheumatism. Bệnh phong thấp hay tê thấp thường xẩy ra ở người lớn tuổi, khoảng 45 trở lên. Nếu không có thuốc chữa thì tim sẽ yếu dần, đi đến chỗ chết trong khoảng 10 năm. Như vậy ông Tộ bị tê thấp từ cuối năm 1863 hay đầu năm 1864 và ông Tộ qua đời năm 1871, nghĩa là sau 7 năm bị bệnh. Căn cứ vào bệnh lý của ông Nguyễn Trường Tộ, ông Tộ mất vào năm 53 tuổi, nghĩa là năm sanh của ông Tộ là năm 1818 là có lý hơn.
Trong tờ trình của Tỉnh Thần Nghệ An của ba ông Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản, Trần Nhượng đăng trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” năm 1988, Lm Trương Bá Cần, trang 478 và quyển tái bản năm 1991, nơi trang 189, đây là tờ trình lên vua Tự Đức của tỉnh thần Nghệ An, do lệnh của vua hỏi thăm tung tích của Hậu, Tộ. Sau khi tiếp chuyện với giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier), ba ông Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đảm và Trần Nhượng đã viết tờ trình lên vua Tự Đức như sau:
- Lại nói tên Trường Tộ biết khá nhiều về tình thế nước ta, nay lại là đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch, xử lý trong các giấy tờ qua lại đều do y cả (quyển xuất bản 1988, trang 478).
- Lại nói tên Trường biết khá nhiều tình thế nước ta, nay là đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch, xử lý các giấy tờ qua lại đều do y cả (quyển tái bản năm 1991, trang 189). Tên Trường Tộ này còn là tên Trường, bỏ đi chữ Tộ.
Thần hỏi: Gia Hậu đề cập đến Trường Tộ là người như thế nào vậy?
Đáp: Tên Trường Tộ trước là linh mục. Từ khi thuyền Tây đến Gia Định thì phần kém đạo hạnh, lệch lạc ra ngoài phạm vi đạo trưởng, năng lui tới Tây soái tìm vui (quyển xuất bản năm 1991, trang 189) như trên bỏ đi chữ Tộ.
Tờ trình này viết vào ngày 26-4-1870. Giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier) có thể không ưa Tộ, không còn trọng dụng ông Tộ nữa nên tiết lộ cho triều đình ta những gì trước đã được giữ kín từ lâu về ông Tộ, gọi ông Tộ là kiến trúc sư, có trí nhớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc….Bây giờ ông Tộ làm việc cho Pháp ngạch thông ngôn lên đến hạng nhất, lại là cựu linh mục kém đạo hạnh, là người phản bội tráo trở khi giám mục Hậu nói: Gia Hậu nhân y nói người Tây tráo trở nên lấy câu này mà gọi người đa đoan đó tên là Trường”.
Lại nói: Y đã vốn theo tả đạo, làm đạo trưởng, chẳng biết gì mà bàn lếu láo đến công việc thật là không phải (trang 189-478). Trước, giám mục Hậu đánh bóng cho ông Tộ là kiến trúc sư, có trí nhớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc. Đến năm 1870, Nguyễn Trường Tộ được giám mục Hậu cho biết là linh mục kém đạo đức, là thông ngôn cho Pháp, chẳng biết gí mà nghị bàn lếu láo đến công việc thật là không phải, kẻ tráo trở…
Người ta cũng ngạc nhiên rằng một người làm việc cẩn trọng như Lm Trương Bá Cần mà chỉ mới ba năm sau ông đã sửa đổi lịch sử. Ông cố che giấu chức vụ linh mục cho Nguyễn Trường Tộ, không biết có ẩn ý gì? Ông viết: “Giáo sĩ (tức là bác sĩ Hernaiz) không phải là một linh mục hay giáo sĩ tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi là giáo sĩ, như Nguyễn Trường Tộ cũng được gọi là giáo sĩ. Người giáo hữu đều có nhiệm vụ tông đồ truyền đạo, lôi kéo được nhiều người ngu ngốc theo đạo thì được giấy ban khen.” Như vậy thì tất cả giáo dân đều được gọi là giáo sĩ không thể phân biệt là trí thức mới được gọi là giáo sĩ, như vậy là sai.
Các cụ ta gọi ông đạo trưởng Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ để phân biệt hai chữ tu sĩ cho các tôn giáo khác là có ẩn ý trong đó có giáo dở , gươm giáo và giáo gian. Cũng như ở phương tây người ta gọi Jesuit là thầy tu Dòng Tên, vì những công tác họ làm lưu manh lươn lẹo nên sau này Tự Điển có thêm nghĩa chữ Jesuit như sau: “Người hay mưu đồ, người hay mập mờ nước đôi, người đạo đức giả, người giảo quyệt”. Vì Nguyễn Trường Tộ là đạo trưởng tức linh mục từ trước năm 1858 nên ông phải có thời gian vào học chủng viện. Vì thế bản lý lịch, tiểu sử viết về Nguyễn Trường Tộ của ông Lê Thước và Nguyễn Trường Cửu là giả mạo ngụy tạo vào đầu thế kỷ 20 mà thôi.
LINH MỤC NGUYỄN TRƯỜNG TỘ LÀ NGƯỜI YÊU NƯỚC?
Linh mục Nguyễn Trường Tộ là người Gia-Tô, lúc sanh ra được đem ra
nhà thờ để chịu phép rửa tội (baptême). Ghi tên vào sổ đạo của giáo xứ,
địa phận để được gia nhập một quốc gia mới là quốc gia Vatican. Nước
Vatican bao giờ cũng ở trên quốc gia trên trần thế, nơi đã sinh ra chỉ
là tạm bợ. Mà nước Vatican là đồng minh với nuớc Pháp nên ông ta đã về
cộng tác, làm việc với người Pháp. Cho nên linh mục Trương Bá Cần đã
không ngượng ngùng khi viết: "Đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về
Saigon (làm việc cho Pháp) với hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu
nhập được của mình để giúp đất nước(?) canh tân, tự cường tự lực ngõ hầu
tránh được hoạ mất nước” (NTT, tập I, trang 220.) Ở vị thế đó, rất khó mà
xét định được ông Tộ có là người yêu nước nồng nàn hay không. Còn với đại
khối phi Gia-Tô, lòng yêu nước được chứng tỏ khi có ngoại xâm là lăn xả
vào cuộc kháng chiến để đánh quân ngoại xâm để bảo vệ đất nước, hoặc cầm
kiếm cầm súng, hoặc cầm bút như cụ Nguyễn Đình Chiểu, cụ Phan Văn Trị,
hoặc lao động yểm trợ chiến trường….Giặc đến nhà đàn bà còn phải đánh
huống hồ là nam nhi. Tác giả bài thơ nổi tiếng “HỒ TRƯỜNG” là ông Nguyễn Bá Trác cũng bôn ba nơi hải ngoại để tìm đường phục quốc. Nhưng về sau tuyệt vọng phải về nước làm việc cho Pháp. Nguyễn Thái Bạt, người đã du học ở Nhật, đã từng cùng với cụ Phan Bội Châu dựng bia kỷ niệm ông Asaba Sakitaro ân nhân cách mạng Việt Nam. Ông đã tuyệt tích không ai biết tin tức gì cả. Về sau, được biết ông đã đổi tên là Nguyễn Phong Di làm việc ở toà khâm sứ Huế (Hồi Ký Đặng Thái Mai, trang 236). Trong ba người làm việc với Pháp này, không biết lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ có thể so sánh với hai ông Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được không?
Nói về trí tuệ, nếu Nguyễn Trường Tộ viết điều trần gửi lên vua Tự Đức trước năm 1858, nghĩa là trước khi đi Hồng Kông đọc tân thư của Tàu, thì ông là mới là người thông minh kiệt xuất, khỏi phải bàn cãi, chẳng ai thắc mắc nghi ngờ gì nữa. Trước Nguyễn trường Tộ có ông Vũ Duy Khuê thời vua Minh Mạng đã đề nghị mở các hải cảng cho người ngoại quốc vào buôn bán và cho tự do tôn giáo. Vua Minh Mạng đã đồng ý cho người ngoại quốc vào tự do buôn bán. Còn về tôn giáo, vua Minh Mạng cử một phái đoàn sang Pháp điều đình. Phái đoàn chỉ được vài bộ trưởng tiếp, còn các giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo thì chống đối, tố cáo vua Minh Mạng tàn ác, vô nhân đạo. Họ trông mong chính phủ Pháp đem chiến hạm qua biểu dương ở biển Đông. Phái đoàn trở về Việt Nam thì vua Minh Mạng đã mất, vua Thiệu Trị lên thay.
Năm 1847, Lapierre và Rigault de Genouilly đem chiến thuyền đến Đà Nẵng bắn đắm 5 thuyền đồng của ta. Trong “Dương Sự Thuỷ Mạt” có cho biết tên 5 tầu đó là: Kim Đằng, Phấn Bằng, Linh Phụng, Thọ Hạc, Vân Bằng. Đến thời Tự Đức, năm 1851, ông Phạm Phú Thứ qua Macao, sang Hàng Phố, đến Quảng Châu đã tận mắt nhìn thấy hàng hoá của Tây phương tràn ngập, bày la liệt và thuyền máy nhiều tầng của Tây phương chạy trên sông. Lẽ dĩ nhiên đi chuyến này về có tường trình cho vua Tự Đức những điều đã thấy. Năm 1856, khi làm việc ở Nghệ An, ông đã hướng dẫn cho thợ đóng một chiếc tầu vận tải đường biển kiểu mới và một chiếc tầu đồng đặt tên là Thủy Nhạc. Ông đã thi hành thuyết tri hành hợp nhất, ông đã được vua Tự Đức khen thưởng bốn lần. Ngoài ra còn các bản điều trần của các ông Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Nghĩa, Lê Danh Đề, Nguyễn Tiến Thọ, Hoàng văn Tuyển, Trần Tiễn Thành,… về các vấn đề cấp bách như cách thức tuyển người, định cư dân chúng, phân chia ruộng đất, việc miễn giảm thuế, luyện tập quân sĩ, dùng đồ nội hoá, khai thác mỏ, đúc súng,…
Vua Tự Đức ban hành dụ ruộng đất không được bỏ hoang, cho phép Chu Triệu Kỳ người Trung Hoa khai thác mỏ vàng An Bảo ở Thái Nguyên,…Vua Tự Đức còn là vị vua thông minh ham tìm hiểu, ông đã nhờ các thương gia Tàu mua sách báo. Ông thường đọc báo ngoại quốc viết bằng chữ Hán như Hong Kong Daily Press, Pekin Gazette và có thể các sách tân thư của Tàu. Vì thế , sau này, ông Phạm Phú Thứ lập nhà in, nhà xuất bản Hải Học Đường in một số tân thư của Tàu như:
- Bác Vật Tân Biên (khảo cứu về các môn khoa học tự nhiên) - Khai Môn Yếu Pháp (phương pháp khai mỏ) - Hàng Hải Kim Châm (kỹ thuật đi biển) - Vạn Quốc Công Pháp (công pháp các nước) - Và cuốn Tây Hành Nhật Ký ( nhật ký đi Tây của ông)
Ông còn định in các cuốn: Địa cầu Thuyết Lực, Danh Hoàn Chi Lược, Cách Vật Nhập Môn, nhưng bị triệu về kinh, công việc bị bỏ dở và sau đó ông mất ngày 5-2-1882.
Theo sách ông Chương Thâu trang 14 cho biết từ lúc vua Tự Đức lên ngôi cho đến năm 1862, đã có 40 vụ dân chúng nổi loạn và các vụ nổi loạn này phần nhiều do sự xúi giục của bàn tay lông lá. Bản báo cáo ngày 3-6-1859 trong châu bản triều Tự Đức, trang 51 cho biết, trên rừng thì dân thiểu số hoành hành, cướp của giết người, và trong làng xã thì dân theo đạo Gia Tô nổi lên làm loạn, ngoài biển thì tàu Pháp và thuyền Tầu Ô đánh phá. Thù trong giặc ngoài, triều đình chỉ còn có con đường tái lập an ninh và lo chống đỡ, đâu có thì giờ lo đến việc canh tân xứ sở nữa.
Kể từ tháng 4 năm 1863, khi các bản điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ gửi lên, vua Tự Đức có lẽ đã đọc các tân thư của Tàu rồi nên đã phê: Nguyễn Trường Tộ quá tin những điều y đề nghị…tại sao lại thúc giục nhiều thế, khi mà các phương pháp cũ của Trẫm đã rất đủ để điều khiển quốc gia rồi” ( Lịch sử Việt Nam quyển 2, trang 62)
Muốn thực hiện các dự án lớn có tính cách lâu dài thì đất nước phải có an ninh, phải có tài chánh, phải có người có khả năng chuyên môn, mà người nắm vững vấn đề đó là vua Tự Đức.
Một người ngoại quốc, tiến sĩ Yoshihary Tsuboi, sau khi đọc các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã phê bình: Nguyễn Trường Tộ đề nghị đi vay tiền của các thương gia Hương Cảng, nhưng không bao giờ ông đề nghị một giải pháp nào tạo ra các nguồn kinh phí thật sự (Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885, trang 277- Nguyên tác: L’empire Vietnamien face à la Frace et à la Chine 1847-1885 do Nguyễn Đình Đầu dịch ra Việt ngữ).
Hiện nay các nước đi vay tiền của ngoại quốc để phát triển quốc gia, các quốc gia này còn được hưởng lợi nhờ cuộc chiến Việt Nam, thế mà vay tiền lời còn không trả nổi, chưa nói đến trả vào vốn. Đó là Thái Lan, Đại Hàn, Nam Dương, Mã Lai Á, các nước đó đang trên đường đi đến phá sản. Nói thì dễ, làm mới khó.
Trong bài viết của tiến sĩ Vĩnh Sinh có đăng trong sách này đã trưng dẫn nhà đại tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ đã mượn ý mượn tư tưởng của Từ Kế Dư trong “Doanh Hoàn Chi Lụợc” và Ngụy Nguyên trong “Hải Quốc Đồ Chi”.
Tháng tư năm 1863, Nguyễn Trường Tộ bắt đầu gửi bản điều trần đầu tiên “Thiên hạ đại thế luận” đề nghị triều đình ta hoà với Pháp: Sự thế hiện nay chỉ có hoà. Hoà thì trên không cưỡng lại ý Trời, dưới có thể làm cho dân đỡ khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không kể xiết”.
Nhiều người ca tụng ông Nguyễn Trường Tộ là người thông minh lạ thường, là bậc kỳ tài trong thiên hạ, thế mà, ông làm thông ngôn cho Charner lại không biết Charner khẳng định: “Nếu chúng ta đứng vững ở đất Nam Kỳ và tạo ra đây một trung tâm buôn bán quan trọng thì chúng ta không thể chiếm lấy Saigon mà thôi. Quyền lợi của chúng ta đòi hỏi phải bành trướng giao dịch ra toàn Nam Kỳ, một xứ gồm những tỉnh phì nhiêu nhất, giầu nhất của vương quốc này” (Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, trang 75).
Ông làm việc cho Pháp ở Sài Gòn từ năm 1861 há không biết ngày 5 tháng 5, 1862, phái đoàn của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn ký một hiệp ước hòa bình và hữu nghị với Pháp và Tây Ban Nha? Trong hiệp ước này có một điều khoản quan trọng là: "Triều đình nước Nam không được tự ý cắt đất giảng hoà với bất cứ nước nào nếu chưa được Pháp ưng thuận.” Đây chắc là ông cố vấn cho Pháp để chặt đứt những đề nghị của ông có trong điều trần sau này: “Dùng ngoại giao với Anh để nhờ Anh đánh Pháp” “Nhờ kẻ khác để ly gián họ” “Nhờ người khác để đánh họ”. Như vậy, nếu triều đình nhượng cho Anh hay Mỹ hay Đức hải cảng Đà Nẵng để dùng họ đánh Pháp đâu còn thực hiện nữa mà ông cứ viết điều trần làm gì? Đúng như giám mục Gauthier gọi, ông là tên tráo trở!
Chưa đủ quân số, chưa đủ phuơng tiện để dứt điểm thành phố Huế, ngày 10 tháng 6 năm 1859, Pháp đã nhờ một người Trung Hoa tên là Lý Thuận Nhất đưa một bức thư cầu hòa cho triều đình vua Tự Đức. Triều thần họp bàn, đa số chủ trương hòa, có người còn chủ trương hòa vô điều kiện như Lê Chí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao và Nguyễn Hào. Kết qủa là triều đình ta đã đồng ý ký Hiệp Ước Hòa Bình Và Hữu Nghị vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn. Như vậy đến tháng 4 năm 1863 ông mới viết điều trần đề nghị hòa với Pháp nghĩa là làm sao, trong khi triều đình Tự Đức đã chủ trương từ lâu rồi và đã ký Hiệp Ước Hòa Bình với Pháp và Tây Ban Nha ngày 5 tháng 6 năm 1862, trước đó một năm rồi?
Ông Tộ đề nghị nhà vua nên dùng giám mục, linh mục Pháp gíup canh tân đất nước. Vua Tự Đức đã phê: “Liệu có giúp được không?” Trong Di Thảo 12, ông Tộ báo tin giám mục Gauthier có thể nhận giúp đi Pháp thuê thợ thày và mua máy móc để mở trường huấn luyện về nghề nghiệp. Vua Tự Đức đã mời giám mục Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ về Huế, đón rước có lọng che như các quan lớn trong triều đình. Theo đề nghị của giám mục nên cho một số giáo sĩ biết ngoại ngữ sang Pháp học một năm để giúp dạy ứng dụng. Nguyễn Trường Tộ đề nghị Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều , Nguyễn Lâu,…Tất cả đề xuất của Nguyễn Trường Tộ đều được triều đình nghe theo.
Đến Pháp, ông Tộ không áp dụng kế hoạch ngoại giao, vào toà đại sứ Anh hay Đức để vận động họ đánh Pháp cứu nước mà chỉ đi liên lạc với hội khai thác mỏ. Ông không chịu đi gặp lãnh tụ đảng đối lập ở Pháp để thực thi kế họach như ông đã viết, làm áp lực với Pháp. Được dịp để thi thố tài năng cứu nước, ông không làm, tri hành không hợp nhất, thành ra chỉ là thằng nói phét thôi.
Ông bảo nhờ giám mục, linh mục để canh tân đất nước thì vua Tự Đức đã thực thi, nhờ giám mục Gauthier và ông mở trường dạy nghề. Kết quả ra sao? Ông đem về được hai linh mục (chỉ có bằng cử nhân văn chương mà thôi, chứ không có bằng và kiến thức khoa học như NTT viết trong tờ trình): Lm Thông (Montrousies) và Lm Đông (Renault) để làm giáo sư và truyền đạo hợp pháp. Giáo sĩ Hernatz điếc nặng, đến Việt Nam mấy ngày rồi về Pháp. Ông Ca Xanh biết sửa thuyền máy nhưng đòi lương quá cao không thể thuê mươn được. Đem về chỉ có bốn giáo sư, cả thảy chỉ còn lại chỉ còn lại hai người, nhưng không có người nào có đủ tiêu chuẩn thì mở trường cái gì?
Ông cổ võ nên hoà với Pháp là thượng sách, ông đang ở bên Pháp, thống đốc La Grandière đem quân lấy luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ở Pháp, ông viết nhăng viết cuội bản “Tế cấp bát điều” gửi về, không một lời phản đối hay có văn thư phản đối chính phủ Pháp, bộ Ngọai giao Pháp về việc Pháp đã phản bội hòa ước ký ngày 5-6-1862, ngang nhiên chiếm ba tỉnh miền tây Nam Kỳ. Lòng yêu nước của ông để đâu, và như vậy ông có là người yêu nước không?
Trong Nguyễn Trường Tộ, Tập I, trang 67, Lm Trương Bá Cần cho biết trong Di Thảo số 51, ông Tộ cho biết: “Hiện còn ba bốn tập trình bầy sự việc, xin đợi 6 tháng gửi lên”. Như thế là Nguyễn Trường Tộ còn viết thêm ba bản văn nữa, văn bản số 54 đang dở dang…và từ trần ngày 22-11-1871. Bây giờ có tới 58 bản điều trần cơ. Vậy bản dư ai là người viết?
Trong “Thiên hạ đại thế luận”, ông Tộ viết: “Hơn nữa ở Âu Châu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt.” Đây là bản điều trần giả, có thể người ở thế kỷ 20 viết ra cho mới có hai chữ “xe sắt”. Chiếc xe sắt đầu tiên được thế giới biết đến là do Anh chế tạo vào năm 1914, thời ông Nguyễn Trường Tộ làm gì có động cơ nổ, thì Pháp làm gì mà có xe sắt? Nên biết rằng những văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có hiện nay đều là những bản được sao chép lại (Nguyễn trường Tộ của Trương Bá Cần trang 105).
Trong sách của Chương Thâu, trang 18, còn cho biết có rất nhiều bản điều trần quan trọng. Bản điều trần số 55 còn đưa Nguyễn Trường Tộ thành nhà tiên tri (!) “nhưng nước ta có một nước mạnh như vậy ở bên cạnh cũng rất đáng lo” ý chỉ đại chiến thứ hai, quân đội Nhật sang chiếm nước ta. Nhưng thời đó nước Nhật đã có cái gì chứng tỏ là canh tân đâu? Ông Tộ chết năm 1871, năm 1872 nước Nhật mới bắt đầu làm đường xe lửa Tokyo-Osaka và năm 1871 phái đoàn lãnh đạo thượng tầng của Nhật gồm 50 người đi tham quan ở Tây phương 1 năm 10 tháng để học hỏi hầu về nước thực hiện kế hoạch canh tân. Lúc bấy giờ nước Nhật đã có cái gì chứng tỏ canh tân thành công đâu mà ông Tộ biết trước được nước Nhật mạnh? Bản điều trần này có thể được viết ra vào năm 1941, thời ông Từ Ngọc Nguyễn Lân, ở gần có cha Cadière, đang ra sức đánh bóng nhân vật Nguyễn Trường Tộ, và lúc này quân Nhật đã có mặt ở Việt Nam.
Ba mươi năm sau, năm 1971, ông Đào Đăng Vỹ viết trong Bách Khoa số 359 ngày 15-12-1971 một bài viết: “Xã hội Nguyễn Trường Tộ và xã hội Y Đằng Bác Văn” để đính chính về việc Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ gặp nhau chỉ là truyền thuyết do các cụ kể lại không có gì chính xác và cho biết hòan cảnh nước Việt lúc bấy giờ thì dầu không bị xâm chiếm cũng khó tiến bộ mau chóng và hùng mạnh như Nhật Bản được. Ông Vĩnh Sinh cũng chứng minh Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ không thể gặp nhau được (chỗ nầy Vĩnh Sính cũng "ba phải" khi viết rằng NTT và Y Đằng Bác Văn gặp nhau trong tư tưởng). Năm 1863, Ito Hirobumi mới 22 tuổi, còn đang đi học ở Anh là người chưa có chức vụ chưa là nhà canh tân, chưa là Tể tướng và nước Nhật chưa thống nhất. Mãi đến năm 1868 nước Nhật mới thống nhất và bắt đầu nghỉ đến chuyện canh tân, thì làm sao Nguyễn Trường Tô biết được mà viết điều trần theo gương Nhật Bản để canh tân?. Như vậy câu nói sau đây cũng chỉ là đồ ngụy tạo: “Kể tài trí thì ông hơn tôi nhiều, nhưng cứ tình thế hai nước ta, thì tôi sẽ thành công dễ dàng mà ông sẽ hòa tòan thất bại.”
Ngòai ra cũng nên nhớ rằng mấy bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ gửi lên vua Tự Đức cũng chỉ có mấy người được đọc như Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tri Phương, …đâu có phổ biến ra ngoài cho dân chúng được đọc đâu. Thế mà sau này nhiều bài viết đã tán hươu tán vượn là “những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ ít gây được ảnh hưởng rộng lớn trong nhân dân vì thiếu một tầng lớp tư sản trong xã hội,” v.v…
Ngày nay bao nhiêu người Việt ở hải ngoại gửi đề nghị về cho nhà nước Việt Nam, người ở ngoài cuộc có ai được đọc, được biết đâu?
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ HỤT LÀM VUA
Pháp đánh Đà Nẵng, ông Tộ hẳn đã được hứa hẹn của các giám mục
Pellerin và Gauthier về tương lai sẽ được đóng vai trò quan trọng nào
đó. Chủ trương của Pháp là đánh chiếm Huế, lật đổ triều Nguyễn để thiết
lập tân trào. Sử dụng các thầy tu, kẻ giảng để thiết lập một guồng máy
hành chánh với sự trợ lực của 600,000 (sáu trăm ngàn) giáo dân Gia Tô.
Giám mục Pellerin còn thuyết trình cho Ủy Ban Cochinchine (Ủy Ban Nghiên
cứu về Nam Bộ), giám mục nói rằng: “Chỉ cần tấn công bất kỳ một chỗ nào
trên đất An Nam thì người Gia Tô ở đấy cũng sẽ ngả theo quân đội Pháp để
chống lại các quan lại An Nam”. Khi Rigault de Genouilly tấn công Đà
Nẵng không thấy giáo dân đâu cả như lời giám mục Pellerin đã thuyết
trình. Quân Pháp lên bộ bị quân dân ta chặn đánh thiệt hại nhiều. Trong “Dương Sự Thủy Mạt” có ghi: “Nguyễn Tri Phương cho đắp luỹ từ bờ biển đến ngoài luỹ Phúc Ninh-Thạc Giản, đào hố hình chữ “phẩm’, cắm chông nhọn, phủ cát rơm lên trên, một mặt cho quân mai phục bên ngoài thành Điện Hải. Quân Tây Dương chia ba ngã tiến đến, phục binh ta vùng dậy đánh, quân Tây sụp hố, bị quân ta bắn phải tháo chạy. Các quân sĩ đều được thưởng tiền, mỗi người 100 quan”. Tháng 9 năm 1858, quân và dân Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất, đá lấp sông Vĩnh Điện để ngăn chặn đường tiến của giặc vào kinh đô. Rigault de Genouilly có 800 quân gồm 300 quân Tagals (lính đánh thuê Phi Luật Tân) từ chối hành quân chờ ngày hồi hương, chỉ còn 500 quân phòng thủ.
Tháng 10 năm 1858, ông Tộ cùng giám mục Gauthier đến Đà Nẵng gặp quân Pháp, ở đây có giám mục Pellerin, linh mục Croc, có tên Việt là cố Hoà biết tiếng Việt, áp lực quân Pháp tấn công Huế cho chóng dứt điểm (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, trang 22). Rigault de Genouilly hiểu rõ tình hình không thể tấn công được nên đã từ chối, vả lại có lẽ ông mất cảm tình với các giáo sĩ người Pháp cho tin không chính xác. Ngoài ra Rigault de Genouilly có chủ trương hợp lý : “Không thể lật đổ vua hiện tại để đưa một người Gia Tô lên cai trị dân chúng không theo đạo có tỉ lệ 200/1” (Paris Xuân 96 của Nguyên Vũ, trang 194). Nguyễn Trường Tộ đã cởi áo linh mục, có thể đóng vai hiệp sĩ Toà Thánh lên lãnh đạo Việt Nam thay vua Tự Đức nhưng đã không được như ý. Cởi áo linh mục, Nguyễn Trường Tộ chỉ còn được giáo dân gọi là Thầy Lân mà thôi.
Về làm việc với Pháp, ông Nguyễn Trường Tộ cũng nghĩ sẽ được đóng một chức vụ quan trọng nào đó. Nhưng Pháp đã không tin dùng, chỉ cho chức vụ thông ngôn nên ông bất mãn. Ông hụt làm vua, hụt làm tể tướng nên quay ra viết mấy bản điều trần (theo những điều học được của người khác như đã chứng minh ở trên) để lấy lòng vua quan nhà Nguyễn như “Biểu tạ ơn vua” (NTT, trang 282), “Ngôi vua là quí , chức quan là trọng” (NTT, trang 174), “Tâm sự với Trần Tiễn Thành” (NTT, trang 170), “Lại tâm sự với Trần Tiễn Thành” (NTT, trang 184) để chứng tỏ mình là người yêu nước, để làm thân với vua quan trong triều đình để giữ mạng sống. Thật ra trong các bản “điều trần (nói là của NTT) không có điều gì có thể gọi là canh tân, đổi mới mà chỉ dung chữ “đổi mới , canh tân, thực dụng v.v”... để che đậy những hậu ý khác của ông ta
Lý lịch cá nhân của Nguyễn Trường Tộ cũng mù mờ. Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1827, 1828, 1830, 1818? Chết năm 41 hay 43 tuôi? Không ai xác định đưoợc – Nguyễn Trường Tô học ở đâu? Nguyễn Trường Tộ viết bao nhiêu bản điều trần: 7 bản, 14 bản, 18 bản, 40 bản? Trong sách Trương Bá Cần cho biết có 58 bản, và cũng trong sách đó Trương Bá Cần lại viết, Nguyễn Trường Tộ đang viết dỡ bản điều trần 54 thì chết. Ở San Jose, Cali, có Trần Thu Vân tức Trân Thị Bông Giấy có cho biết trong một bài viết về Nguyễn Trường Tộ có 155 bản điều trần. Vậy thì Nguyễn Trường Tộ thật sự viết bao nhiêu bản điều trần? Không ai xác định được. Lý lịch như vậy là bất minh không rõ ràng. Bản chất và hiện tượng của Nguyễn Trường Tộ đã chứng tỏ ông không phải là người yêu nước. Ông làm việc cho Pháp tức là địch quân, rồi ông viết mấy bản điều trần gởi lên vua Tự Đức chỉ có giá trị vất vào xọt rác. Chứng Minh:
Trần Tiễn Thành nhận xét về Nguyễn Trương Tộ sau đây: “Cái khoản này năm trước y cũng đã trình bầy chưa tiện thi hành, nay lại đề cập, viện dẫn lý thế hiện tại và điển cố biện thuyết, chẳng qua chỉ là muốn tỏ ra có lòng vì mình mà thôi. Nhưng bác đi vì thời sự khó thực hành, đó là ý kiến đã được thương nghị cùng thần Nguyễn Tri Phương, thần Phạm Phú Thứ, tất cả đồng ý như vậy” (Nguyễn Trường Tộ tập I, Trang 65-66) Bác đi vì thời sự khó thực hành thì vứt vào thùng rác vì không dùng đến nó nữa, thế thôi.
Muốn tôn phong một người thì người đó lý lịch phải trong sáng, việc làm và công trình phải có ích lợi cho xã hội, cho dân tộc, cho quốc gia.
Ông Nguyễn Trường Tộ làm việc cho địch quân chống lại tổ quốc của mình, công trạng với quốc gia dân tộc không có gì, lý lịch thì bất minh. Thế mà các ông Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Đình Chú viết sách, viết bài ca tụng thì đúng các ông là những người không biết ngượng, nếu không phải là hồ đồ bộp chộp.
GHI CHÚ:
(1) Trong quyển Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân nơi trang 170 có
ghi: “Ngày 18/9/1863 phái bộ đi thăm viên quan Đại Học sĩ, đi thăm rừng
Boulogne, hồ dẫn nước sông Seine, nơi thắng cảnh ở ngoại thành Paris.
Đến tối , phái bộ được đưa đi dao phố, đèn điện sáng như ban ngày.” Đây là dịch sai không có đèn điện vì trên thế giới vào thời đó chưa có đèn điện. Đèn sáng đó là đèn gas nhân tạo do người Anh sáng chế vào năm 1844. Họ thắp sáng cả con đường có Lâu Đài của Hoàng gia Anh ở. Người Pháp ở gần nước Anh cũng được hưởng sáng chế đó, họ cũng lập nhà máy làm Gas nhân tạo.
Ngày 25/9/1863, phái bộ đi thăm cơ sở làm khí đốt, sứ thần Phạm Phú Thứ ghi chép qui trình sản xuất và giá tiền rẽ hơn dùng đèn dầu, đèn sáp.
Xin nhắn “Hội đồng hương Quảng Nam – Đà Nẵng nếu có tái bản “Phạm Phú Thứ Với Tư Tưởng Canh Tân “ thì xin sửa chữa cho đúng.
Lý Đương Nhiên
Tuesday, August 6, 2013
PHAN * MA
Góc của Phan: Ma có tuổi không?
- Details
- Created on Tuesday, 06 August 2013 02:51
Đó là câu hỏi đã hình thành trong tôi, và ám ảnh từ khi còn bé đến tận bây giờ.
Nguyên gia đình tôi có cái xưởng cung cấp chuối cho quân đội Mỹ từ những năm 1960, nhưng căn nhà được xem như nhà chánh của gia đình lại cách nơi làm ăn của cha mẹ tôi đến có cả chục cây số. Vậy là mỗi chiều, người anh thứ ba trong gia đình, chở ba đứa nhỏ về nhà giao cho bà vú lo tắm rửa, cho ăn, và đi ngủ. Sáng lại chở ra nơi cha mẹ tôi làm ăn, để chúng tôi ăn sáng và đi học.
Một sáng giáp tết, trời se se lạnh. Mới 4 giờ sáng, anh ba tôi đã dựng đầu xắp nhỏ dậy để anh chở đi. Vì hôm đó đến hẹn xưởng nhà giao hàng cho lính Mỹ.
Năm đó tôi mới 5, 6 tuổi, được anh ba tôi cho ngồi trước bình xăng cái xe Honda 67, dài như con ngựa đen. Tôi ngồi lọt thỏm trong lòng anh tôi, để có thể ngủ tiếp mà không sợ té. Anh tôi lái xe một tay, tay trái ôm thằng em nhỏ ngủ mê với hương đồng gió nội...
Nhà tôi đã là căn nhà cuối xóm, nhưng còn phải băng qua bãi đất trống, như cái bán đảo, bao bọc bởi sông lớn. Bãi đất này sau năm 1968, lính Mỹ và lính Nhảy dù Việt Nam lập căn cứ để bảo vệ Sài Gòn.
Băng qua bãi đất trống chứa cả tuổi thơ tôi với đàn dế và những cánh diều, xe anh ba tôi quẹo phải để ra con đường đất đỏ, hai bên là đồng lúa bát ngát, xa xa có những gò mả xưa, chơ lơ trong đồng - là thế giới huyền bí của tuổi thơ!
Xe chạy một hồi mới ra hương lộ 34. Lại quẹo phải, và băng qua nghĩa trang Thánh Tâm mới tới khu phố chợ - là nơi cha mẹ tôi có xưởng cưa xẻ gỗ và đóng thùng đựng chuối; có nhiều công nhân lựa chuối...
Tôi nhớ cái buổi sáng trời se se lạnh ấy, khi xe anh ba tôi vừa băng qua hết bãi đất trống, (như cái bán đảo kể trên). Anh tôi quẹo phải, ngã ba cách sau nhà bác Ba bò một miếng ruộng không lớn, nhưng bác Ba chăm bón kỹ nên lúa xanh rì. (Bác Ba có nuôi ba con bò nên gọi là bác Ba bò).
Ở đầu lộ đỏ, nơi có cái miệng cống lớn, hôm ấy tôi thấy một người con gái tóc dài, chừng mười 16 tuổi, mặc áo bà ba màu nâu như chú tiểu trong chùa, màu nâu của áo đã bạc thếch. Cô mặc quần đen... như nhiều cô gái nông thôn khác, có điều cô khác những bà chị trong xóm là tôi không thấy cô đứng trên hai chân như bình thường! Và điều khác thứ hai là gương mặt cô trắng, nhưng phẳng lì như cái bánh tráng sữa. Không có hai hốc mắt, không có xống mũi, và khóe miệng gì hết...
Chẳng biết sao cái buổi sáng trời se se lạnh lạnh ấy, trăng muộn còn ve vãn đọt dừa nhà bác Ba bò... tôi lại không ngủ gà ngủ gật, ngủ gục trong vòng tay anh ba tôi. Mà mắt tôi ráo hoảnh để căng ra nhìn cho kỹ người con gái dị thường.
Anh ba tôi đã dùng tay trái (là tay rảnh) vì tay phải của anh phải giữ tay ga. Bàn tay hộ pháp của người anh lớn trong nhà đã che mắt tôi lại. Nhưng dù sao tôi cũng đã thấy cô gái ấy! Cô chỉ đứng lặng thinh trên miệng cống lớn...
Rồi chiến sự bùng lên sau Tết Mậu Thân. Anh ba tôi đi lính. Ở khu nhà xưa Việt cộng về đêm đêm nên cha mẹ tôi rút hết đám nhỏ về phố chợ. Căn nhà từ đường khép cửa; dẹp hết chuồng trại chăn nuôi gia súc; ruộng vườn bỏ hoang...
Tới sau năm 1975. Tôi chưa thực sự lớn nhưng cái lì lợm thuở nhỏ đã tới hồi xài được. Mẹ tôi giao việc cho là: Sau chiều tan học thì về nhà phố ăn cơm. Nhưng sau đó phải về nhà chánh ngủ đêm để coi nhà. Nhớ lại bao nhiêu căn nhà của cha tôi đã bị tịch thu. Chỉ riêng căn nhà được xem như nhà từ đường hương hỏa là mẹ tôi lanh trí, sang tên cho người lính tài xế, đồng thời là đệ tử ruột của ông già, nên còn giữ được. Từ hôm anh báo tin cho mẹ tôi hay là nhà thường bị trộm cắp về đêm, mẹ tôi giao cho tôi công việc mỗi đêm phải trở về nhà cũ ngủ, để coi nhà.
Một mình tôi với đêm khuya trong căn nhà tuổi nhỏ đã điêu tàn, bàn thờ váng nhện, tường vôi thấm mưa loang lổ, rêu phong phủ mờ những đường xưa lối cũ loanh quanh mảnh vườn tuổi nhỏ... nhà không đèn đuốc và gian bếp lạnh tanh; cây vú sữa già, che mát cái bàn ăn ngoài trời đã chết gục xuống thềm xưa hoang phế... Nhiều đêm tôi đã khóc lặng lẽ vì nỗi buồn đã đến quá sớm trong đời.
Rồi cũng một đêm giáp tết, trời se se lạnh, đồng trơ gốc rạ và trăng mờ ảo lắm, tôi từ nhà bạn trở về nhà mình để ngủ. Một mình tôi lặng bước trên con lộ đỏ, một mình. Bất chợt tôi lạnh suốt sống lưng khi miệng cống lớn hiện ra trước mặt, và cô gái năm xưa cũng đứng lặng thinh ở đó.
Tôi không thể quay lại. Cái hỗn danh thuở nhỏ là “thằng trời gầm” khiến chết bỏ chứ không quay đầu lại. Tôi hít một hơi thật sâu, rồi nín thở, bước tới. Trong đầu tôi tính toán nhanh, theo chú Chín hớt tóc, (là thương phế binh VNCH). Chú từng lý giải với tôi: mình là người sống, có phần hồn và phần xác. Trong khi con ma chỉ còn phần hồn, xác đã tiêu tan. Tính sơ sơ ma đã thua người một nửa thì cớ gì mày phải sợ ma?
Tôi cũng nhớ sư cô ngoài chùa có nói: Ma là phần hồn của người đã chết nhưng chưa siêu thoát được. Họ cũng cần nơi ăn chốn ở. Con đừng phá phách chỗ thờ của họ, thì họ chả làm gì để hại mình...
Nhớ nhanh để an tâm, lên tinh thần, thì nhớ vậy! Nhưng tôi cũng đặt ra trường hợp: Nhỡ mình đi tới lúc chạm mặt mà cô ấy không chịu biến mất thì sao, mình phải làm sao? Năm xưa, đèn xe Honda 67 sáng quắc là thế mà cô ấy cứ đứng yên đó, chứ có biến đi đâu!...
Khi “tôi với nàng” đã thu ngắn khoảng cách đến tôi nhận diện được gương mặt bánh tráng sữa của cô. Tôi không đủ can đảm để nhìn thẳng vào mặt cô ấy nữa! Tôi cúi gầm, bước đi. Nếu cô ta tấn công thì tôi đã thủ sẵn cái túi xách, có vài cuốn tập vở trong ấy của mình để chống trả, rồi bỏ chạy thôi, chứ biết làm sao...
Nhưng phải nói là muốn khụy gối khi đi ngang qua mặt nhau, vì cô ấy không có phản ứng gì, nên càng sợ. Không biết cô ta ra chiêu lúc nào mà hóa giải, mới lại càng sợ dữ! Rồi thì tôi đã mất điều khiển đôi chân của mình. Đôi chân đá banh của tôi tăng tốc lúc nào, ra sao, hoàn toàn không biết. Tôi thở hồn hển khi tin chắc là mình đã đến ngã ba (nhà bác Ba bò). Tôi dừng lại thở, nhìn lại miệng cống lớn. Cô gái năm xưa vẫn đứng đó – như một bóng mờ trong đêm se lạnh, trăng pha sương trùng phủ nỗi cô đơn... tôi không thấy sợ nữa mà lòng thương cảm dâng tràn.
Nhiều đêm không ngủ trong căn nhà hoang liêu. Ôm nỗi buồn tương lai, nỗi buồn gia đình tan tác muôn phương... những đêm trăng suông xuyên qua cành lá, hay đêm mưa sụt sùi, ếch, nhái, ểnh ương kêu tha thiết một điệu sầu vô vọng. Có đêm tôi dùng cái túi ny-lon lớn mà tôi nhặt được như một sự may mắn trong thời mảnh giấy vụn cũng có người nhặt ngay để bán ve chai. Tôi khoét ba lỗ trên cái túi ny-lon ấy để thành cái áo mưa. Và tôi đội mưa mà đi. Do hấp lực của cô gái có gương mặt bánh tráng sữa, hay chỉ là thằng nhỏ tuyệt vọng. Tôi lang thang trong mưa đêm, sương khuya, đi ra miệng cống lớn để... chả thấy gì nữa!
Rồi thời gian qua đi. Đời sống trôi theo cơm áo gạo tiền khi tôi đã lớn. Tôi xa “vùng ngoại ô, tôi có căn nhà xưa” ấy thật lâu. Xa đến biệt xứ nhiều năm không về. Nhưng một đêm hàn huyên với anh ba tôi. Hiện ở Pennsylvania. Không ngờ ngày đó đã xa bây giờ đến anh tôi đã có cháu ngoại.
Sau nhà anh cũng là cánh rừng mang nhiều huyễn hoặc. Không khí vùng đông bắc Hoa Kỳ lại hay sương sớm khi nắng chiều tan... Tôi bỗng nhớ cô gái đứng trên miệng cống lớn; cô gái có gương mặt bánh tráng sữa năm xưa. Tôi hỏi anh ba tôi, và anh nói:
“... mày nhắc tao mới nhớ! Theo bác Tư thợ mộc - là người địa phương ở đó lâu nhất. Tao từng hỏi, và bác Tư nói: Từ thời tây, cô gái ấy bị lính tây hãm hiếp gì đó, đến chết. Rồi vùi thây cô ấy xuống cống lớn. Nên cứ trái gió trở trời là cô ấy hiện về. Nhưng đứng đó thôi chứ chẳng làm gì ai. Bác Tư cũng gặp hoài vì bác ưa đi câu đêm...
Tôi nói: “À. Ra vậy! Mấy chục năm rồi. Em cứ nói là có dịp sẽ hỏi anh. Nhưng anh em gặp nhau lại bù khú nên có nhớ gì đâu!... Cũng tội nghiệp cô ấy quá ha!”
Tôi nói xong, nhìn ra cánh rừng sau nhà anh ba tôi. Sương chiều xuống lãng đãng bìa rừng huyễn hoặc. Không biết bao người từ châu Âu di dân đến đây đã chết oan, nên hồn không siêu thoát được, nên sương chiều u uẩn hơn những nơi phố chợ...
Tiếng anh ba tôi đã già nên lai rai kể chuyện:
“... mày còn nhớ thằng Hào (con ông chín Chóc) không?”
“Làm sao em quên nó được! Em với nó là bạn học. Nhưng có thù!”
“Mày để bụng chi những chuyện hồi nhỏ đó nữa!”
“En ghét nó ỷ con cán bộ, nên huênh hoang. Học thì dở, chỉ giỏi làm ăng-ten cho thầy, cô để kiếm điểm lên lớp...”
“Có muốn nghe chuyện thằng Hào, thì tao kể cho nghe?”
“Cái thằng hèn ấy... Nhưng nó giàu lắm rồi phải không?”
“Nó giàu nhất xứ rồi mày ơi! Nhưng kệ nó đi. Tao kể chuyện nó sắp phá sản cho mày hả dạ...”
“Nói đi! Sao anh biết?”
“Tao có thể nói là bây giờ mày về. Mày không tài nào hình dung ra được xóm làng gì nữa. Hoàn toàn không còn ruộng vườn, sông rạch... gì nữa. Tứ bề xung quanh nhà mình chỉ toàn nhà lầu, với đường nhựa... bon bon xe hơi sang cả của bọn con ông cháu cha.
Sài Gòn bây giờ, ở ngoại thành mới ngon. Nên khu nhà mình – đất tính bạc triệu đô la không à! Và thằng Hào nhờ thế lực, lại ranh mãnh nên giàu vô địch. Nó còn nể mặt tao là bạn anh của nó. Hôm tao về, nó có đến thăm. Vì tao với anh nó là bạn bè thuở trước. Nhưng thằng anh nó chết vì vượt biên lâu rồi. Và (cả vợ chồng nó) mời tao đến nhà chơi.
Hôm sau tao đến chơi cho biết, thật là một căn biệt thự lộng lẫy. Vợ nó hệch hạc, nhà quê, trong cái vỏ hiện đại nên cứ sao sao ấy! Vợ chồng nó dẫn tao đi xem nhà, rồi mời ăn cơm.
Tới trà dư tửu hậu tao mới hỏi: Tụi em cúng cái gì mà bày ở chân cầu thang – có vẻ trang trọng quá vậy?
Trời ơi, không ngờ con vợ thằng Hào như nước vỡ đập. Nó tuôn ra như vỡ bờ cho tao nghe... Khu nhà nó thành nhà phố hồi nào không nhớ. Nhưng thằng Hào mua luôn bốn căn để xây biệt thự. Thằng Hào chỉ biết địa thế làm ăn, mở tiệm vàng.
Trong khi con vợ coi thầy thì thầy bà nào đó đã nói: Phong thủy không tốt. Có mạch nước thoát, nên tiền ra như nước chứ không phải tiền vô như nước đâu mà mừng! Thầy nào coi để cho xây cất là chưa đủ tay nghề... đại khái vậy!
Vợ nó sợ xanh mặt, đòi bán đất. Thằng Hào cứ nhất định xây nhà lớn. Dưới mở tiệm vàng, trên lầu để ở. Nhưng con vợ không dám xuống nhà ban đêm. Vì mỗi khi có việc phải xuống nhà ban đêm, nó đều thấy dưới chân cầu thang là cái miệng cống lớn, có cô gái mặt sữa, phẳng lì. Cô gái chừng mười mấy tuổi cứ đứng ở đó!
Nó làm dữ lắm, thằng Hào mới cho nó rước thầy cúng, thầy bùa, thầy ngải gì đó! Về lập đàn cúng tế, trừ ma diệt quỷ! Nhưng cứ dỡ giàn là lại thấy như thường...
Bây giờ, con vợ quyết định bán nhà để thôi hết của. Nhưng thằng Hào còn tiếc rẻ địa thế làm ăn.
Vợ thằng Hào hỏi anh về nơi đây ngày xưa! Anh nửa muốn nói thật cho nó biết; nửa lại không nói được vì sợ thằng Hào hiểu lầm là anh dựng chuyện để vợ nó làm dữ thêm. Đòi bán nhà...”
Sau chuyến đi thăm anh bên Pennsylvania về. Câu hỏi từng ám ảnh tôi từ sau lần giáp mặt cô gái mặt sữa. Năm đó tôi đã 15, 16 tuổi. Tính từ lần đầu gặp nhau, tôi mới 5, 6 tuổi. Nhưng cô ấy vẫn thế! Dù trước tôi, anh ba tôi cũng từng gặp cô đôi lần. Trước nữa, có bác Tư thợ mộc đã gặp cô hoài... Nhưng ai cũng chỉ thấy như thế! Cô vẫn thế. Vậy ma có tuổi không?...
Phan
Nguyên gia đình tôi có cái xưởng cung cấp chuối cho quân đội Mỹ từ những năm 1960, nhưng căn nhà được xem như nhà chánh của gia đình lại cách nơi làm ăn của cha mẹ tôi đến có cả chục cây số. Vậy là mỗi chiều, người anh thứ ba trong gia đình, chở ba đứa nhỏ về nhà giao cho bà vú lo tắm rửa, cho ăn, và đi ngủ. Sáng lại chở ra nơi cha mẹ tôi làm ăn, để chúng tôi ăn sáng và đi học.
Một sáng giáp tết, trời se se lạnh. Mới 4 giờ sáng, anh ba tôi đã dựng đầu xắp nhỏ dậy để anh chở đi. Vì hôm đó đến hẹn xưởng nhà giao hàng cho lính Mỹ.
Năm đó tôi mới 5, 6 tuổi, được anh ba tôi cho ngồi trước bình xăng cái xe Honda 67, dài như con ngựa đen. Tôi ngồi lọt thỏm trong lòng anh tôi, để có thể ngủ tiếp mà không sợ té. Anh tôi lái xe một tay, tay trái ôm thằng em nhỏ ngủ mê với hương đồng gió nội...
Nhà tôi đã là căn nhà cuối xóm, nhưng còn phải băng qua bãi đất trống, như cái bán đảo, bao bọc bởi sông lớn. Bãi đất này sau năm 1968, lính Mỹ và lính Nhảy dù Việt Nam lập căn cứ để bảo vệ Sài Gòn.
Băng qua bãi đất trống chứa cả tuổi thơ tôi với đàn dế và những cánh diều, xe anh ba tôi quẹo phải để ra con đường đất đỏ, hai bên là đồng lúa bát ngát, xa xa có những gò mả xưa, chơ lơ trong đồng - là thế giới huyền bí của tuổi thơ!
Xe chạy một hồi mới ra hương lộ 34. Lại quẹo phải, và băng qua nghĩa trang Thánh Tâm mới tới khu phố chợ - là nơi cha mẹ tôi có xưởng cưa xẻ gỗ và đóng thùng đựng chuối; có nhiều công nhân lựa chuối...
Tôi nhớ cái buổi sáng trời se se lạnh ấy, khi xe anh ba tôi vừa băng qua hết bãi đất trống, (như cái bán đảo kể trên). Anh tôi quẹo phải, ngã ba cách sau nhà bác Ba bò một miếng ruộng không lớn, nhưng bác Ba chăm bón kỹ nên lúa xanh rì. (Bác Ba có nuôi ba con bò nên gọi là bác Ba bò).
Ở đầu lộ đỏ, nơi có cái miệng cống lớn, hôm ấy tôi thấy một người con gái tóc dài, chừng mười 16 tuổi, mặc áo bà ba màu nâu như chú tiểu trong chùa, màu nâu của áo đã bạc thếch. Cô mặc quần đen... như nhiều cô gái nông thôn khác, có điều cô khác những bà chị trong xóm là tôi không thấy cô đứng trên hai chân như bình thường! Và điều khác thứ hai là gương mặt cô trắng, nhưng phẳng lì như cái bánh tráng sữa. Không có hai hốc mắt, không có xống mũi, và khóe miệng gì hết...
Chẳng biết sao cái buổi sáng trời se se lạnh lạnh ấy, trăng muộn còn ve vãn đọt dừa nhà bác Ba bò... tôi lại không ngủ gà ngủ gật, ngủ gục trong vòng tay anh ba tôi. Mà mắt tôi ráo hoảnh để căng ra nhìn cho kỹ người con gái dị thường.
Anh ba tôi đã dùng tay trái (là tay rảnh) vì tay phải của anh phải giữ tay ga. Bàn tay hộ pháp của người anh lớn trong nhà đã che mắt tôi lại. Nhưng dù sao tôi cũng đã thấy cô gái ấy! Cô chỉ đứng lặng thinh trên miệng cống lớn...
Rồi chiến sự bùng lên sau Tết Mậu Thân. Anh ba tôi đi lính. Ở khu nhà xưa Việt cộng về đêm đêm nên cha mẹ tôi rút hết đám nhỏ về phố chợ. Căn nhà từ đường khép cửa; dẹp hết chuồng trại chăn nuôi gia súc; ruộng vườn bỏ hoang...
Tới sau năm 1975. Tôi chưa thực sự lớn nhưng cái lì lợm thuở nhỏ đã tới hồi xài được. Mẹ tôi giao việc cho là: Sau chiều tan học thì về nhà phố ăn cơm. Nhưng sau đó phải về nhà chánh ngủ đêm để coi nhà. Nhớ lại bao nhiêu căn nhà của cha tôi đã bị tịch thu. Chỉ riêng căn nhà được xem như nhà từ đường hương hỏa là mẹ tôi lanh trí, sang tên cho người lính tài xế, đồng thời là đệ tử ruột của ông già, nên còn giữ được. Từ hôm anh báo tin cho mẹ tôi hay là nhà thường bị trộm cắp về đêm, mẹ tôi giao cho tôi công việc mỗi đêm phải trở về nhà cũ ngủ, để coi nhà.
Một mình tôi với đêm khuya trong căn nhà tuổi nhỏ đã điêu tàn, bàn thờ váng nhện, tường vôi thấm mưa loang lổ, rêu phong phủ mờ những đường xưa lối cũ loanh quanh mảnh vườn tuổi nhỏ... nhà không đèn đuốc và gian bếp lạnh tanh; cây vú sữa già, che mát cái bàn ăn ngoài trời đã chết gục xuống thềm xưa hoang phế... Nhiều đêm tôi đã khóc lặng lẽ vì nỗi buồn đã đến quá sớm trong đời.
Rồi cũng một đêm giáp tết, trời se se lạnh, đồng trơ gốc rạ và trăng mờ ảo lắm, tôi từ nhà bạn trở về nhà mình để ngủ. Một mình tôi lặng bước trên con lộ đỏ, một mình. Bất chợt tôi lạnh suốt sống lưng khi miệng cống lớn hiện ra trước mặt, và cô gái năm xưa cũng đứng lặng thinh ở đó.
Tôi không thể quay lại. Cái hỗn danh thuở nhỏ là “thằng trời gầm” khiến chết bỏ chứ không quay đầu lại. Tôi hít một hơi thật sâu, rồi nín thở, bước tới. Trong đầu tôi tính toán nhanh, theo chú Chín hớt tóc, (là thương phế binh VNCH). Chú từng lý giải với tôi: mình là người sống, có phần hồn và phần xác. Trong khi con ma chỉ còn phần hồn, xác đã tiêu tan. Tính sơ sơ ma đã thua người một nửa thì cớ gì mày phải sợ ma?
Tôi cũng nhớ sư cô ngoài chùa có nói: Ma là phần hồn của người đã chết nhưng chưa siêu thoát được. Họ cũng cần nơi ăn chốn ở. Con đừng phá phách chỗ thờ của họ, thì họ chả làm gì để hại mình...
Nhớ nhanh để an tâm, lên tinh thần, thì nhớ vậy! Nhưng tôi cũng đặt ra trường hợp: Nhỡ mình đi tới lúc chạm mặt mà cô ấy không chịu biến mất thì sao, mình phải làm sao? Năm xưa, đèn xe Honda 67 sáng quắc là thế mà cô ấy cứ đứng yên đó, chứ có biến đi đâu!...
Khi “tôi với nàng” đã thu ngắn khoảng cách đến tôi nhận diện được gương mặt bánh tráng sữa của cô. Tôi không đủ can đảm để nhìn thẳng vào mặt cô ấy nữa! Tôi cúi gầm, bước đi. Nếu cô ta tấn công thì tôi đã thủ sẵn cái túi xách, có vài cuốn tập vở trong ấy của mình để chống trả, rồi bỏ chạy thôi, chứ biết làm sao...
Nhưng phải nói là muốn khụy gối khi đi ngang qua mặt nhau, vì cô ấy không có phản ứng gì, nên càng sợ. Không biết cô ta ra chiêu lúc nào mà hóa giải, mới lại càng sợ dữ! Rồi thì tôi đã mất điều khiển đôi chân của mình. Đôi chân đá banh của tôi tăng tốc lúc nào, ra sao, hoàn toàn không biết. Tôi thở hồn hển khi tin chắc là mình đã đến ngã ba (nhà bác Ba bò). Tôi dừng lại thở, nhìn lại miệng cống lớn. Cô gái năm xưa vẫn đứng đó – như một bóng mờ trong đêm se lạnh, trăng pha sương trùng phủ nỗi cô đơn... tôi không thấy sợ nữa mà lòng thương cảm dâng tràn.
Nhiều đêm không ngủ trong căn nhà hoang liêu. Ôm nỗi buồn tương lai, nỗi buồn gia đình tan tác muôn phương... những đêm trăng suông xuyên qua cành lá, hay đêm mưa sụt sùi, ếch, nhái, ểnh ương kêu tha thiết một điệu sầu vô vọng. Có đêm tôi dùng cái túi ny-lon lớn mà tôi nhặt được như một sự may mắn trong thời mảnh giấy vụn cũng có người nhặt ngay để bán ve chai. Tôi khoét ba lỗ trên cái túi ny-lon ấy để thành cái áo mưa. Và tôi đội mưa mà đi. Do hấp lực của cô gái có gương mặt bánh tráng sữa, hay chỉ là thằng nhỏ tuyệt vọng. Tôi lang thang trong mưa đêm, sương khuya, đi ra miệng cống lớn để... chả thấy gì nữa!
Rồi thời gian qua đi. Đời sống trôi theo cơm áo gạo tiền khi tôi đã lớn. Tôi xa “vùng ngoại ô, tôi có căn nhà xưa” ấy thật lâu. Xa đến biệt xứ nhiều năm không về. Nhưng một đêm hàn huyên với anh ba tôi. Hiện ở Pennsylvania. Không ngờ ngày đó đã xa bây giờ đến anh tôi đã có cháu ngoại.
Sau nhà anh cũng là cánh rừng mang nhiều huyễn hoặc. Không khí vùng đông bắc Hoa Kỳ lại hay sương sớm khi nắng chiều tan... Tôi bỗng nhớ cô gái đứng trên miệng cống lớn; cô gái có gương mặt bánh tráng sữa năm xưa. Tôi hỏi anh ba tôi, và anh nói:
“... mày nhắc tao mới nhớ! Theo bác Tư thợ mộc - là người địa phương ở đó lâu nhất. Tao từng hỏi, và bác Tư nói: Từ thời tây, cô gái ấy bị lính tây hãm hiếp gì đó, đến chết. Rồi vùi thây cô ấy xuống cống lớn. Nên cứ trái gió trở trời là cô ấy hiện về. Nhưng đứng đó thôi chứ chẳng làm gì ai. Bác Tư cũng gặp hoài vì bác ưa đi câu đêm...
Tôi nói: “À. Ra vậy! Mấy chục năm rồi. Em cứ nói là có dịp sẽ hỏi anh. Nhưng anh em gặp nhau lại bù khú nên có nhớ gì đâu!... Cũng tội nghiệp cô ấy quá ha!”
Tôi nói xong, nhìn ra cánh rừng sau nhà anh ba tôi. Sương chiều xuống lãng đãng bìa rừng huyễn hoặc. Không biết bao người từ châu Âu di dân đến đây đã chết oan, nên hồn không siêu thoát được, nên sương chiều u uẩn hơn những nơi phố chợ...
Tiếng anh ba tôi đã già nên lai rai kể chuyện:
“... mày còn nhớ thằng Hào (con ông chín Chóc) không?”
“Làm sao em quên nó được! Em với nó là bạn học. Nhưng có thù!”
“Mày để bụng chi những chuyện hồi nhỏ đó nữa!”
“En ghét nó ỷ con cán bộ, nên huênh hoang. Học thì dở, chỉ giỏi làm ăng-ten cho thầy, cô để kiếm điểm lên lớp...”
“Có muốn nghe chuyện thằng Hào, thì tao kể cho nghe?”
“Cái thằng hèn ấy... Nhưng nó giàu lắm rồi phải không?”
“Nó giàu nhất xứ rồi mày ơi! Nhưng kệ nó đi. Tao kể chuyện nó sắp phá sản cho mày hả dạ...”
“Nói đi! Sao anh biết?”
“Tao có thể nói là bây giờ mày về. Mày không tài nào hình dung ra được xóm làng gì nữa. Hoàn toàn không còn ruộng vườn, sông rạch... gì nữa. Tứ bề xung quanh nhà mình chỉ toàn nhà lầu, với đường nhựa... bon bon xe hơi sang cả của bọn con ông cháu cha.
Sài Gòn bây giờ, ở ngoại thành mới ngon. Nên khu nhà mình – đất tính bạc triệu đô la không à! Và thằng Hào nhờ thế lực, lại ranh mãnh nên giàu vô địch. Nó còn nể mặt tao là bạn anh của nó. Hôm tao về, nó có đến thăm. Vì tao với anh nó là bạn bè thuở trước. Nhưng thằng anh nó chết vì vượt biên lâu rồi. Và (cả vợ chồng nó) mời tao đến nhà chơi.
Hôm sau tao đến chơi cho biết, thật là một căn biệt thự lộng lẫy. Vợ nó hệch hạc, nhà quê, trong cái vỏ hiện đại nên cứ sao sao ấy! Vợ chồng nó dẫn tao đi xem nhà, rồi mời ăn cơm.
Tới trà dư tửu hậu tao mới hỏi: Tụi em cúng cái gì mà bày ở chân cầu thang – có vẻ trang trọng quá vậy?
Trời ơi, không ngờ con vợ thằng Hào như nước vỡ đập. Nó tuôn ra như vỡ bờ cho tao nghe... Khu nhà nó thành nhà phố hồi nào không nhớ. Nhưng thằng Hào mua luôn bốn căn để xây biệt thự. Thằng Hào chỉ biết địa thế làm ăn, mở tiệm vàng.
Trong khi con vợ coi thầy thì thầy bà nào đó đã nói: Phong thủy không tốt. Có mạch nước thoát, nên tiền ra như nước chứ không phải tiền vô như nước đâu mà mừng! Thầy nào coi để cho xây cất là chưa đủ tay nghề... đại khái vậy!
Vợ nó sợ xanh mặt, đòi bán đất. Thằng Hào cứ nhất định xây nhà lớn. Dưới mở tiệm vàng, trên lầu để ở. Nhưng con vợ không dám xuống nhà ban đêm. Vì mỗi khi có việc phải xuống nhà ban đêm, nó đều thấy dưới chân cầu thang là cái miệng cống lớn, có cô gái mặt sữa, phẳng lì. Cô gái chừng mười mấy tuổi cứ đứng ở đó!
Nó làm dữ lắm, thằng Hào mới cho nó rước thầy cúng, thầy bùa, thầy ngải gì đó! Về lập đàn cúng tế, trừ ma diệt quỷ! Nhưng cứ dỡ giàn là lại thấy như thường...
Bây giờ, con vợ quyết định bán nhà để thôi hết của. Nhưng thằng Hào còn tiếc rẻ địa thế làm ăn.
Vợ thằng Hào hỏi anh về nơi đây ngày xưa! Anh nửa muốn nói thật cho nó biết; nửa lại không nói được vì sợ thằng Hào hiểu lầm là anh dựng chuyện để vợ nó làm dữ thêm. Đòi bán nhà...”
Sau chuyến đi thăm anh bên Pennsylvania về. Câu hỏi từng ám ảnh tôi từ sau lần giáp mặt cô gái mặt sữa. Năm đó tôi đã 15, 16 tuổi. Tính từ lần đầu gặp nhau, tôi mới 5, 6 tuổi. Nhưng cô ấy vẫn thế! Dù trước tôi, anh ba tôi cũng từng gặp cô đôi lần. Trước nữa, có bác Tư thợ mộc đã gặp cô hoài... Nhưng ai cũng chỉ thấy như thế! Cô vẫn thế. Vậy ma có tuổi không?...
Phan
ĐẶNG CHÍ HÙNG * TRƯỜNG CHINH
Những sự thật cần phải biết (phần 14) - Trường Chính - Kẻ vong bản
Đặng Chí Hùng (Danlambao) -
Lịch sử và hiện tại đã chỉ ra rằng một đảng vô thần, vô tổ quốc và độc
tài đã tạo ra những con người độc ác đến ghê sợ trong đó có Trường
Chinh. Ngày hôm nay chúng ta phải trả lại sự thật của lịch sử để cho
người dân thấy rằng họ đã bị đảng tập hợp bởi những kẻ độc ác, táng tận
lương tâm lừa dối suốt 80 năm qua...
*
Trường Chinh (1907 - 1988) tên thật là Đặng Xuân Khu. Theo thông tin từ website của trường THCS Trường Chinh cho biết thông tin về Trường Chinh: “Là
nhà chính khách cách mạng, nhà thơ, bút danh Sóng Hồng, biệt hiệu
Trường Chinh (biệt hiệu này dùng như tên gọi). Ông sinh ngày 09/02/1907
tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Xuân
Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định)... Tại Hội nghị Trung ương lần
thứ 8 (1941) ông được cử làm Tổng bí thư Đảng, đồng thời làm chủ bút các
báo Giải Phóng, Cờ Giải Phóng và Tạp Chí Cộng Sản... Sau Cách mạng
Tháng Tám thành công, ông được cử vào nhiều chức vụ quan trọng của Đảng
và Nhà nước như: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị,
Tổng bí thư, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đến năm 1981, ông là
Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tháng 7/1987, ông được bầu làm Tổng bí thư
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tháng 12 cùng năm, ông được đề cử làm cố vấn Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.” (1)
Hồ Chí Minh và những đàn em cộng sản của mình. Từ trái qua:
Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh.
Trên thực tế Trường Chinh là đàn em của Hồ Chí Minh và là một trong
những tội đồ của dân tộc Việt Nam. Xét trên khía cạnh tội ác thì tất cả
các lãnh đạo cộng sản đều có tội với dân tộc, với đất nước. Tuy nhiên
mỗi người có những tội lỗi đặc thù khác nhau. Ở con người của Trường
Chinh trong bài viết này nổi bật lên tội lỗi đó là một kẻ Vong bản. Điều
này thể hiện ở hai sự việc sẽ được trình bày dưới đây.
I. Đồng mưu với Hồ Chí Minh để Hán hóa Việt Nam:
Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã chủ trương bán nước
và tiến hành Hán hóa Việt Nam, làm tay sai cho Trung cộng. Bạn đọc có
thể tìm hiểu kỹ hơn ở “Những sự thật không thể chối bỏ” phần 2, 9, 10, 11, 12 trên Danlambao.
Phục vụ đắc lực cho âm mưu Hán hóa Việt Nam đó chính là Trường Chinh.
Để minh chứng cho sự kiện này chúng ta cùng tìm hiểu các chứng cứ sau
đây.
Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462, năm thứ 3, 1951, Âm lịch
22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành
tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài Gòn, có bài
mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký như sau:
ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
NĂM THỨ VII
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
Hỡi đồng bào thân mến!
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt
Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung
quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!
Tại sao ta lại truyền bá trong dân
chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực
dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế?
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn
cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy -
và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho
của Trung Quốc.
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta -
mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như
thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì
đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta!
Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ
bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất
là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu!!!
Ta hãy trở về phương pháp này, trước
nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam
yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học,
phát minh v.v...
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!
Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
Trường Chinh
Tổng thư ký đảng Lao Động
Đây là một văn bản cho thấy đảng cộng sản chủ trương bán nước và Hán hóa
dân tộc, kêu gọi làm chư hầu rõ rệt nhất cho Trung cộng. Việc này là
một sự cho thấy rõ nét âm mưu Hán hóa của đảng cộng sản trong vô vàn
hành động khác. Tuy nhiên sẽ có nhiều ý kiến cho rằng sự có mặt của sắc
lệnh kêu gọi kia chỉ là một thứ bịa đặt nhằm bôi nhọ đảng cộng sản.
Nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi đã có những bằng chứng khẳng định
sự có mặt của văn bản do Trường Chinh ký là thật.
Thứ nhất, số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng
Việt thuộc Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum - London). Bạn đọc
hoàn toàn có thể kiểm chứng. Chúng ta cũng phải nhìn nhận về tờ báo
Tiếng Dội như sau. Các văn bản, bài báo được lưu trữ trong văn khố của
các nhà nước có tiến bộ như Anh, Mỹ, Pháp... đều là những tác phẩm có
giá trị về mặt nội dung cũng như sự thật lịch sử được nghiên cứu và chọn
lọc kỹ lưỡng. Sự việc được lưu trữ trong văn khố của viện bảo tàng nước
Anh cho thấy tính xác thực của bài báo nói trên trong tờ báo Tiếng Dội.
Đó là bằng chứng đầu tiên cho thấy sự tồn tại sắc lệnh của ông Trường
Chinh là có thật.
Thứ hai, hiện nay tại Trung tâm lưu giữ quốc gia I,
Việt Nam có một văn bản lưu giữ như nội dung bài báo Tiếng Dội cho
đăng. Văn bản này được lưu giữ trong kho văn thư trước năm 1945 của đảng
cộng sản Việt Nam. Văn bản tuy mất một phần dưới góc do yếu tố thời
gian không thể thấy được chữ ký của ai nhưng trên đầu của sắc lệnh ghi
rõ do đảng Lao động Việt Nam (tên khác của đảng cộng sản) ban hành. Việc
không thấy chữ ký của ai không quan trọng lắm vì nó có ghi rõ là của
đảng Lao động và được trung tâm lưu trữ quốc gia lưu trữ nên nó không
thể vô giá trị. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm tại trung tâm lưu trữ quốc
gia I tại Hà Nội về sắc lệnh kêu gọi nói trên.
Thứ ba, sẽ là thiếu sót nếu chỉ có 2 bằng chứng trên đây
để khẳng định việc tồn tại sắc lệnh kêu gọi của ông Trường Chinh là sự
thật. Thêm bằng chứng sau đây sẽ khẳng định chắc chắn về điều đó với bạn
đọc. Vì đảng cộng sản hay có thói quen thủ tiêu bằng chứng về tội ác và
sai lầm của mình nên thêm một nguồn tài liệu có thể khẳng định điều
này. Trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi”
bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn
trang 126 nói về quan hệ với Việt Nam. Đoạn đó có đoạn tạm dịch như
sau:
“Mao chủ tịch đánh giá việc Việt Minh
đã từng muốn dùng tiếng Trung Quốc thay cho chữ quốc ngữ Việt Nam là một
hành động cho thấy trước sau gì Việt Nam sẽ thuộc về chúng ta, ít nhất
là về văn hóa”.
Từ đoạn này chúng ta có thể thấy Mao đã biết chủ trương dùng tiếng Hoa
của Việt Minh (lúc đó mang tên đảng Lao động Việt Nam). Thời điểm tác
giả Hà Cẩn nêu trong cuốn sách của mình là lúc Mao vẫn chỉ gọi đảng cộng
sản Việt Nam là Việt Minh trùng khớp với thời điểm và cách dùng trong
quy phạm của sắc lệnh kêu gọi của Trường Chính đòi nhân dân Việt Nam học
tiếng Hoa.
Thứ tư, để khẳng định thêm về con người của Trường Chinh
và vai trò của Trường Chinh trong bức thư kêu gọi bỏ Việt theo Tàu thì
một cuốn sách của tác giả đảng viên đảng cộng sản Pháp - D. Olivier cho
biết: “Chính phủ của đảng Lao Động Việt
Nam đã được chính quyển cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa hậu thuẫn
rất nhiều. Đã có thời điểm tổng thư ký đảng Lao Động là ông Trường Chinh
thay mặt đảng chủ trương cho người dân Việt nam học chữ Hán như là một
thứ quốc ngữ...” (Trích trang 95 cuốn “Đông Dương và người Pháp” - xuất bản năm 1987).
Trường Chinh đọc báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VI của Đảng CS tháng 12-1986.
Thứ năm, bản thân con người của Trường Chinh là một con
người có tư tưởng thân Trung cộng và là người vâng lời Hồ Chí Minh gần
như tuyệt đối. Trường Chinh là người tích cực nhất trong vụ cải cách ruộng đất mà Hồ học từ Trung cộng. Việc thực thi một cách chặt chẽ các chủ trương của Tàu và Hồ Chí Minh đã biến Trường Chinh thành một tên tội đồ trong CCRĐ.
Điều này khác hẳn với tư tưởng của ông Duẩn trong việc quan hệ với
Trung cộng. Rõ ràng ngay cả bản chất con người Trường Chinh cũng cho
thấy ông ta yêu Trung cộng như lãnh tụ của ông ta. Để thấy rõ nét vai
trò là đàn em của Hồ trong cải cách ruộng đất chúng ta có thể đọc lại “Những sự thật không thể chối bỏ” phần 5 và lưu ý: “Cấp
trung ương: do tổng bí thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân
Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương
(đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung ương
đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc Cải
cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng đi học ở
Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ
Cải cách Ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.”
Đấu tố CCRĐ
Và đặc biệt trong vụ án của bà Cát Hanh Long thì Trường Chinh cũng cho
thấy bản chất khát máu cũng như quỵ lụy Hồ Chí Minh như thế nào. Trong
Hồi ký “Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn”,
nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc
bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3
điều làm sai chính sách là:
(1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố;
(2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố;
(3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là
"...bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo
lý thông thường của người Việt Nam".
Ông Đoàn Duy Thành viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi
được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị
Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘ Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được
một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một
phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố
vấn Trường Chinh và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Và thế là cái chết đã đến với bà Năm.
Bữa cơm tại Tỉn Keo ATK gồm Hồ Chí Minh,
Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp tiễn Lê Đức Thọ
vào Nam. Ảnh tư liệu trưng bày tại Bảo tàng ATK Định Hóa.
Trường Chinh và Hồ Chí Minh
Sắc lệnh kêu gọi của Trường Chinh thể hiện dã tâm biến Việt Nam thành
một tỉnh của Trung cộng của đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy bản chất
vong bản của Trường Chinh đã thể hiện rõ ở luận cứ này vì dám kêu gọi bỏ
chữ viết dân tộc đi theo chữ của Trung cộng.
II. Sát hại cha mẹ và thân nhân
Bản chất vong bản của Trường Chinh còn thể hiện ở việc ông ta đấu tố để
bức hại cha mẹ cũng như thân nhân của mình. Xin theo dõi một số dẫn
chứng sau đây để thấy rõ điều này.
Thứ nhất, Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu có liên
hệ về gia tộc với Bác sĩ Đặng Vũ Lạc làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường,
Nam Định. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc là một vị bác sĩ kỳ cựu của Đông Dương, tốt
nghiệp ở Pháp, đã điều hành dưỡng đường Henry Copin ở Hà Nội là nhà
thương tư lớn nhất vào thuở ấy. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc cũng là người đề
xướng thành lập Hội Bác sĩ Đông Dương. Nhà thương Henry Copin ở phố Hàng
Cỏ, Hà Nội là nơi tụ hội của hàng ngũ đảng viên Đại Việt. Người em ruột
của Bác sĩ Đặng Vũ Lạc là Đặng Thị Khiêm, có chồng là Ông cả Nguyễn Tư
Tề, nên thường được gọi là Bà cả Tề. Bà là Đảng viên điều hành Xứ bộ Bắc
Việt của đảng. Khi Trường Chinh bị đuổi học về nhà đi lang thang, Bà Cả
thương tình con cháu đem về chăm sóc và lo việc vợ con và thăm nuôi
những lần Trường Chinh bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò.
Tác giả Quang Minh trong quyển sử Đại Việt Quốc dân đảng đã viết rằng hệ
phái bên Bác sĩ Đặng Vũ Lạc học hành và làm ăn phát đạt nên được dân
trong làng Hành Thiện và cả phủ Xuân Trường vị nể, nhưng (trang 19 sđd):
“Trái lại, Trường Chinh thì học hành không ra gì còn bị sa sút...
cho nên có sự ganh tị ở địa phương đã lâu. Đến khi Cộng sản chiếm được
chánh quyền, Trường Chinh ra lệnh thủ tiêu một lần bảy (07) người thanh
niên trí thức của họ Đặng Vũ đã theo Đại Việt: 1- Đặng Vũ Căn, 2- Đặng
Vũ Toại, 3- Đặng Vũ Lệ, 4- Đặng Vũ Kha, 5- Đặng Vũ Tân, 6- Đặng Vũ Định,
7- Đặng Vũ Úy.”
Thứ hai, lúc khởi đầu chiến dịch CCRĐ năm 1952, chính
Trường Chinh - Đặng Xuân Khu đã đấu tố cả cha mẹ của mình khiến ngoài
dân gian có câu vè truyền tụng (trích bài của Ban biên tập Báo Nguyệt
San Tự do Ngôn luận, số 40, ngày 1-12-2007): “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ
Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng. Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn
hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu”.
Khu ở đây chính là Đặng Xuân Khu - Trường Chinh!.
Thứ ba, tác giả Minh Võ tên thật là Vũ Đức Minh, sinh năm
1931 tại Nam Định (đồng hương với Trường Chinh) và hiện đang sinh sống
tại San Diego, California. Ông nguyên là Tổng thư ký Nguyệt san Tinh Thần,
và cũng là dịch giả nhiều cuốn sách từ Anh và Pháp ngữ sang tiếng Việt
về các vấn đề tôn giáo, chính trị, văn học, lịch sử, tâm lý giáo dục.
Tác giả đã giữ nhiều trách nhiệm quan trọng trong ngành truyền thông
trước 1975. Sau năm 1975, tác giả bị cộng sản giam tù 10 năm. Một số tác
phẩm: Sách lược xâm lăng của cộng sản, Sài Gòn, 1963, Ngô Đình Diệm lời
khen tiếng chê, Thông Vũ, 1968, 1998, 2002... Trong bài viết của ông có
tựa đề “Con tố cha, vợ tố chồng” có đoạn viết: “Trong
lịch sử dân tộc VN, chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên cách quái
đản như trong thời kỳ CCRD. Con cái phải bịa chuyện gian dối đấu tố cha
mẹ (mà Trường Chinh đã đấu tố cha ruột đến chết để làm gương).” (2)
Thứ tư, trong cuốn sách “Quê hương niềm đau và nỗi nhớ” của
tác giả Huy Vũ (nguyên quán làng Bản Nguyên, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú
Thọ. Theo gia đình di cư vào Nam 1955. Đậu Tú Tài I và II ban Toán năm
1957 và 1958. Là Thí nghiệm viên của Chương Trình Diệt Trừ Sốt Rét từ
năm 1959 tới 1963. Đậu Cử Nhân Luật năm 1964). Trong chương 8 của cuốn
sách có tên là - Chiến Dịch Đấu Tố Địa Chủ ở Làng Tôi có viết: “Đặc
biệt họ cũng nêu ra một tấm gương sáng chói để tôi noi theo là ông
Trường Chinh, tuy là con trai của một đại địa chủ, song vẫn được tiếp
tục giữ chức vụ Tổng Bí Thư đảng Lao Động Việt Nam. Rất tiếc là chiến
dịch PT/PĐQC/ĐTCĐC ở làng tôi đã xảy ra trước làng Hành Thiện của cụ
thân sinh ra ông Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Nếu sau, chắc chắn chúng còn cho tôi biết thêm ông Trường Chinh đã tố khổ bố ông ta như thế nào.”
Và để kể về sự kiện Trường Chinh đấu tố cha mẹ cũng như một trường hợp
tương tự ở ngoại thành Hà Nội thì nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã viết một
bài thơ khá não lòng:
“Được nghe bà kể khổ
Con thấy đời con thật đáng chết
Con đã đi bóc lột để nuôi bà
Con bây giờ không dám nhận là cha
Dù bà là do con đẻ ra
Con, thành phần địa chủ thối tha
Trước nhân dân, trước Đảng, trước bà
Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội”.
Cải cách và đấu tố
Thứ năm, ngay cả những người giúp đỡ và nuôi giấu mình thì
Trường Chinh cũng sẵn sàng giết hại không chút gớm tay. Trong cuộc
Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần (Nguyên Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính Hà
Nội. Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là 1 cán bộ trung cấp. Ông
từng là bí thư quận ủy ngoại thành Hà Nội trước khi ra công khai, trở
thành phó chủ tịch ủy ban hành chính Hà Nội vào năm 1954. Ông thấu hiểu
từng bước của cuộc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa
sai sau đó tại ngoại thành HN. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva) về
sự chuẩn bị của đảng cộng sản và nhà nước VNDCCH trước khi bắt đầu cuộc
Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát
Thanh Long từng gây xôn xao dư luận một thời. Xin đọc đoạn phỏng vấn
như sau:
PV: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951
và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi
là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn
bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng,
làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh
quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng
trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà
bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân,
nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân
dân - kẻ địch của nhân dân.
Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất
lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể
tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư
tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu,
mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có
nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo
một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các
đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh
quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng
trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà
bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân,
nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân
dân - kẻ địch của nhân dân.
Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi
muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa
Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt
Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc
sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó.
Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn
sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ
của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về
quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu
Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải
cách ruộng đất.
Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là
hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy
ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách
ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới
các đoàn là các đội cải cách ruộng đất.
PV: Xin ông nói rõ thêm về đội
cải cách ruộng đất, là những người trực tiếp thực hiện và dân chúng còn
mô tả là có quyền hành hơn cả Trời. Nhất đội nhì Trời kia mà.
Ông Nguyễn Minh Cần: Mỗi đội cải
cách ruộng đất, theo xã to hay nhỏ gồm khoảng 30 hoặc 40 người. Phần
nhiều là những người ở các địa phương khác, tức là họ giữ một nguyên tắc
là không để cho người địa phương nơi nào phải đi làm cải cách ruộng đất
ở nơi ấy. Vì họ sợ như vậy sẽ tạo điều kiện bao che cho tổ chức cũ, bao
che cho địa chủ quen biết v.v... Đấy là một nguyên tắc.
Như vậy là cả một đạo quân để đi làm cải
cách ruộng đất. Bây giờ để chuẩn bị một bước thứ ba nữa tức là chuẩn bị
mặt chính sách. Năm 1952, Bộ chính trị tổ chức làm thí điểm cải cách
ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là một tình căn
cứ của Việt Minh thời kỳ bấy giờ. Trong lần thí nghiệm này có 1 sự kiện
động trời: tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn gọi
là Cát Thanh Long)
PV: Thưa ông, vụ án này nổi tiếng lắm, ông vui lòng kể thêm 1 số chi tiết về vụ án này.
Ông Nguyễn Minh Cần: Bà là một người mà thời kỳ trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông lớn nhất của đảng CS lúc bấy giờ là ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Thanh Nghị và ông Lê Giảng.
Còn trong thời kỳ "Tuần lễ vàng", là sau
khi đã có chính phủ VNDCCH rồi thì gia đình bà đã dâng nộp 100 lạng vàng
cho chính quyền mới. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con trai
làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà lại bị quy là địa chủ, cường hào gian
ác và bị đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình
Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương do
Trường Chinh cầm đầu đã duyệt và thường vụ trung ương, tức là bộ chính
trị cũng đã chuẩn y và tất nhiên cả ông HCM lúc bấy giờ cũng biết sự
kiện đó chớ không phải không. Nhưng họ lại lạnh lùng chuẩn y một án tử
hình như vậy.
Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất
nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người
CS! Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh
tụ CS, nó báo hiệu trước 1 tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc
lúc bấy giờ.
PV: Xin được hỏi thêm ông về vụ
xử tử bà Cát Thanh Long. Về sau mỗi khi tòa án tuyên án tử hình thì án
được thi hành liền. Thế tại sao án tử hình của bà Cát Thanh Long lại còn
phải đưa lên trên để xin ý kiến?
Ông Nguyễn Minh Cần: Vì đây là thí
điểm đầu tiên, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho nên có sự thận trọng. Về
sau này thì lại khác, tức là quyết định của tòa án là bắn luôn.
Từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4/12/1953 thì
kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa I, tại đó chủ tịch HCM đọc báo cáo "tình
hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất". Đến ngày 4/12 thì quốc
hội nhất trí thông qua luật cải cách ruộng đất và chủ tịch HCM đã ký sắc
lệnh ban hành luật. Từ đó bắt đầu các đợt cải cách ruộng đất
Lúc đầu, mỗi đợt cải cách ruộng đất thì ở
một vùng, số lượng xã ít hơn, nhưng dần dần thì mở rộng ra. Đến năm
1956, tức là đợt 5 là đợt cuối cùng, diễn ra ở hầu hết các đồng bằng Bắc
bộ và các vùng trước đây Pháp chiếm (3)
Bà Cát Hanh Long - Nguyễn Thị Năm và các con
Qua đoạn phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần cho thấy lúc đó quyền sinh sát
nằm trong tay Hồ Chí Minh và Trường Chinh nhưng họ lại ra tay giết hại
chính những người cưu mang mình. Đó là một điều vong bản và bất nhân.
III. Kết luận:
Con người có hai điều chính yếu để kết luận tội vong bản đó là phản bội
dân tộc, tổ quốc và phản bội, giết hại cha mẹ và người thân. Chính vì
tham quyền lực mà Trường Chinh đã thực hiện cả hai điều này. Và như vậy
thì Trường Chinh đích thực là kẻ vong bản không hơn không kém.
Lịch sử và hiện tại đã chỉ ra rằng một đảng vô thần, vô tổ quốc và độc
tài đã tạo ra những con người độc ác đến ghê sợ trong đó có Trường
Chinh. Ngày hôm nay chúng ta phải trả lại sự thật của lịch sử để cho
người dân thấy rằng họ đã bị đảng tập hợp bởi những kẻ độc ác, táng tận
lương tâm lừa dối suốt 80 năm qua. Đó chính là lẽ phải mà chúng ta cần
phải thực hiện.
6/8/2013
____________________________________
Chia sẻ bài viết:
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 274
No comments:
Post a Comment