Tuesday, June 11, 2013
HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC
Sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Ðức tự
thiêu: 50 năm nhìn lại
Hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu tại một ngã tư đông đúc ở Sài Gòn, ngày 11/6/1963. (AP/ Malcolm Browne)
Ngày 11/6/1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức thể hiện sự phản đối đầy bi
phẫn bằng việc tẩm xăng tự thiêu ngay giữa một giao lộ đông đúc ở Sài
Gòn.
Vụ việc diễn ra trong bối cảnh căng thẳng sục sôi giữa Phật giáo miền Nam và chính quyền Ngô Đình Diệm, một người theo Công giáo và bị cho là có những hành động đàn áp Phật giáo.
Sự kiện này có thể đã không được cả thế giới biết tới nếu không nhờ ký giả Malcolm Browne của hãng tin AP.
Ông Malcome Browne khi đó đang là Trưởng văn phòng của AP tại Sài Gòn và đã tác nghiệp ở Việt Nam được 3 năm.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí TIME, ông Browne thuật lại rằng vào thời điểm đó quan hệ giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm trở nên xấu hơn, nhất là sau sự kiện cảnh sát ở Huế dùng vũ lực với Phật tử biểu tình phản đối việc chính quyền cấm treo Phật kỳ trong ngày Lễ Phật Đản.
Ông Browne nói lúc bấy giờ ông quan tâm nhiều hơn đến người theo Phật giáo ở Việt Nam vì ông dự cảm rằng họ sẽ là những người làm biến chuyển thế cuộc.
Mùa xuân năm 1963, giới tăng sư ngụ ý rằng họ sẽ thể hiện một sự phản kháng chưa từng có. Ông Browne nói họ còn gọi điện thoại đánh tiếng với báo giới nước ngoài vào đêm hôm trước rằng một “điều gì đó rất quan trọng” sắp sửa xảy ra.
Cảnh báo này bị hầu hết các nhà báo phớt lờ vì trước đây cũng đã có những lời đe dọa tương tự, nhưng ông Browne vẫn quyết định xách theo máy ảnh vào sáng hôm sau.
Nhận xét về quyết định này của ông Browne, Richard Pyle, Trưởng văn phòng AP ở Sài Gòn từ năm 1970 đến năm 1973, nói:
“Malcolm chụp ảnh với khả năng nhìn xa trông rộng xuất sắc. Tôi biết là Horst Fass, chủ biên nhiếp ảnh của Malcolm, từng nói với anh ấy rằng đi đâu cũng phải xách theo máy chụp ảnh và đó là lý do tại sao Malcolm xách máy theo vào hôm đó. Nếu Horst Fass mà biết Malcolm không mang máy, ông ta sẽ nhảy dựng lên mắng nhiếc. Và một phóng viên người Việt nữa tên Ha Van Tran đi cùng Malcolm cũng mang theo máy. Vậy là AP có 2 máy chụp ảnh ở đó và không hãng nào có máy ảnh cả.”
‘Ký ức kinh hoàng’
Khi ông Browne đến ngôi chùa nơi các tăng ni đang tề tựu, ông thấy mọi thứ có vẻ đang được tiến hành. Họ đang tụng kinh cầu siêu. Ông biết rằng lần này họ không nói suông.
Rồi theo hiệu lệnh của những người lãnh đạo, tất cả tăng ni đổ ra đường và tuần hành về trung tâm Sài Gòn.
Khi đến ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám), họ đứng thành vòng tròn vây quanh chiếc xe Austin Westminster màu xanh dẫn đầu đoàn tuần hành trong suốt chặng đường.
Ông Browne thuật lại chi tiết những diễn biến sau đó trong một cuộc phỏng vấn do AP thực hiện:
Vụ việc diễn ra trong bối cảnh căng thẳng sục sôi giữa Phật giáo miền Nam và chính quyền Ngô Đình Diệm, một người theo Công giáo và bị cho là có những hành động đàn áp Phật giáo.
Sự kiện này có thể đã không được cả thế giới biết tới nếu không nhờ ký giả Malcolm Browne của hãng tin AP.
Ông Malcome Browne khi đó đang là Trưởng văn phòng của AP tại Sài Gòn và đã tác nghiệp ở Việt Nam được 3 năm.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí TIME, ông Browne thuật lại rằng vào thời điểm đó quan hệ giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm trở nên xấu hơn, nhất là sau sự kiện cảnh sát ở Huế dùng vũ lực với Phật tử biểu tình phản đối việc chính quyền cấm treo Phật kỳ trong ngày Lễ Phật Đản.
Ông Browne nói lúc bấy giờ ông quan tâm nhiều hơn đến người theo Phật giáo ở Việt Nam vì ông dự cảm rằng họ sẽ là những người làm biến chuyển thế cuộc.
Mùa xuân năm 1963, giới tăng sư ngụ ý rằng họ sẽ thể hiện một sự phản kháng chưa từng có. Ông Browne nói họ còn gọi điện thoại đánh tiếng với báo giới nước ngoài vào đêm hôm trước rằng một “điều gì đó rất quan trọng” sắp sửa xảy ra.
Cảnh báo này bị hầu hết các nhà báo phớt lờ vì trước đây cũng đã có những lời đe dọa tương tự, nhưng ông Browne vẫn quyết định xách theo máy ảnh vào sáng hôm sau.
Nhận xét về quyết định này của ông Browne, Richard Pyle, Trưởng văn phòng AP ở Sài Gòn từ năm 1970 đến năm 1973, nói:
“Malcolm chụp ảnh với khả năng nhìn xa trông rộng xuất sắc. Tôi biết là Horst Fass, chủ biên nhiếp ảnh của Malcolm, từng nói với anh ấy rằng đi đâu cũng phải xách theo máy chụp ảnh và đó là lý do tại sao Malcolm xách máy theo vào hôm đó. Nếu Horst Fass mà biết Malcolm không mang máy, ông ta sẽ nhảy dựng lên mắng nhiếc. Và một phóng viên người Việt nữa tên Ha Van Tran đi cùng Malcolm cũng mang theo máy. Vậy là AP có 2 máy chụp ảnh ở đó và không hãng nào có máy ảnh cả.”
‘Ký ức kinh hoàng’
Khi ông Browne đến ngôi chùa nơi các tăng ni đang tề tựu, ông thấy mọi thứ có vẻ đang được tiến hành. Họ đang tụng kinh cầu siêu. Ông biết rằng lần này họ không nói suông.
Rồi theo hiệu lệnh của những người lãnh đạo, tất cả tăng ni đổ ra đường và tuần hành về trung tâm Sài Gòn.
Khi đến ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám), họ đứng thành vòng tròn vây quanh chiếc xe Austin Westminster màu xanh dẫn đầu đoàn tuần hành trong suốt chặng đường.
Ông Browne thuật lại chi tiết những diễn biến sau đó trong một cuộc phỏng vấn do AP thực hiện:
Phóng viên Malcolm Browne phỏng vấn hòa thượng Quảng Liên, phát ngôn viên chính của chùa Xá Lợi, ngày 27/6/1963.
“Và một vị cao tăng bước ra khỏi xe, người mà sau này tôi mới biết tên là Thích Quảng Đức, rồi thêm hai vị sư trẻ tuổi khác. Hai người họ dìu ông ấy ra giữa vòng tròn, đặt một cái gối xuống đường rải nhựa. Quả là ký
ức kinh hoàng! Một người họ quay trở lại xe và lấy ra một can nhựa
polyethylene đựng đầy xăng màu hồng, sau này tôi mới biết là có pha thêm
nhiên liệu máy bay phản lực để cháy lâu hơn, rồi người này đổ xăng từ
trên đầu xuống và lùi lại mấy bước.
Ngay lúc đó, vị hòa thượng rút ra một hộp diêm, quẹt một que và thả nó rơi vào lòng. Ngọn lửa lập tức phừng lên trùm kín cả thân người. Mặt ông ấy nhăn nhúm lại. Nhìn nét mặt ấy là biết ông ấy đang đau đớn khôn xiết nhưng ông ấy không kêu lên một tiếng. Tôi nghĩ ông ấy tự thiêu khoảng 10 phút, có lẽ lâu hơn một chút, nhưng cảm thấy như kéo dài đến vô tận vậy. Tất nhiên, cả giao lộ nồng lên mùi thịt cháy và tăng ni thì khóc than kêu gào. Xe cứu hỏa tới và cố len qua vòng người, nhưng mấy vị sư lao tới chèn người dưới bánh xe trước và nằm ra giữa đường, nên thành ra xe muốn tiến lên chỉ có cách là cán qua người họ. Mọi thứ diễn ra khi tôi đang chụp ảnh.”
Lúc đó trong đầu ông Browne chỉ nghĩ đến việc phải chụp như thế nào để làm nổi bật đối tượng. Trả lời phỏng vấn của TIME, ông nói:
“Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến việc đối tượng chụp là đối tượng tự phát sáng nên phải chỉnh khẩu độ ống kính về f10 hoặc đại loại thế. Tôi dùng máy chụp ảnh rẻ tiền của Nhật tên là Petri. Tôi dùng rất thạo máy này nên tôi muốn đoan chắc rằng không những phải chỉnh chế độ chụp cho đúng mỗi lần bấm máy mà còn phải canh cho chuẩn, rồi còn phải thao tác thật nhanh để theo kịp diễn tiến. Tôi xài khoảng 10 cuộn phim vì chụp luôn tay.”
Phản ứng và hệ quả
Biết mình đã chụp được những bức ảnh quan trọng, phóng viên Malcolm Browne tức tốc gửi phim qua văn phòng AP ở Manila, Philippines, nơi có thiết bị đánh điện bằng radio gửi về trụ sở AP ở Mỹ.
Và khi AP công bố bức ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức ngồi kiết già giữa ngọn lửa ngùn ngụt, cả thế giới choáng váng.
Được biết Tổng thống Mỹ Kennedy khi nhìn thấy bức ảnh đã nói: “Không bức ảnh thời sự nào trong lịch sử khơi lên nhiều cảm xúc khắp thế giới như bức ảnh đó.”
AP nói bức ảnh này đã khiến chính quyền Kennedy nghiêm túc xem xét lại chính sách ủng hộ của Mỹ đối với chế độ Ngô Đình Diệm.
Ông Hal Buell, Giám đốc Nhiếp ảnh của AP đánh giá:
“Bức ảnh của Malcolm đưa cuộc chiến ở Việt Nam lên trang nhất, và nó ở đó trong suốt hơn 10 năm. Bức ảnh đó gây sốc và khiến người ta chú ý đến mức người ta bắt đầu hỏi, ‘Việt Nam này là nước nào? Chuyện gì xảy ra ở đó? Bao nhiêu người Mỹ ở đó?’ Tất cả những câu hỏi kiểu như vậy.”
Đến tháng 11 năm 1963, ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị ám sát cùng với người em trai Ngô Đình Nhu trong một cuộc đảo chính khi cuộc khủng hoảng Phật giáo ngày càng trầm trọng.
Từ năm 1964, Mỹ can dự sâu hơn vào cuộc chiến ở Việt Nam và mãi cho đến năm 1975 mới rút đi hoàn toàn khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Bức ảnh mang về cho Malcolm Browne giải thưởng Ảnh Báo chí Thế giới của Năm năm 1963. Năm 1964, Browne giành luôn giải Pulitzer danh giá cho tường trình của ông về cuộc chiến ở Việt Nam và vụ lật đổ ông Diệm.
Malcolm Browne sau này rời AP về làm việc với báo The New York Times.
Ông qua đời vào ngày 27 tháng 8 năm 2012 tại Mỹ, thọ 81 tuổi.
Ngay lúc đó, vị hòa thượng rút ra một hộp diêm, quẹt một que và thả nó rơi vào lòng. Ngọn lửa lập tức phừng lên trùm kín cả thân người. Mặt ông ấy nhăn nhúm lại. Nhìn nét mặt ấy là biết ông ấy đang đau đớn khôn xiết nhưng ông ấy không kêu lên một tiếng. Tôi nghĩ ông ấy tự thiêu khoảng 10 phút, có lẽ lâu hơn một chút, nhưng cảm thấy như kéo dài đến vô tận vậy. Tất nhiên, cả giao lộ nồng lên mùi thịt cháy và tăng ni thì khóc than kêu gào. Xe cứu hỏa tới và cố len qua vòng người, nhưng mấy vị sư lao tới chèn người dưới bánh xe trước và nằm ra giữa đường, nên thành ra xe muốn tiến lên chỉ có cách là cán qua người họ. Mọi thứ diễn ra khi tôi đang chụp ảnh.”
Lúc đó trong đầu ông Browne chỉ nghĩ đến việc phải chụp như thế nào để làm nổi bật đối tượng. Trả lời phỏng vấn của TIME, ông nói:
“Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến việc đối tượng chụp là đối tượng tự phát sáng nên phải chỉnh khẩu độ ống kính về f10 hoặc đại loại thế. Tôi dùng máy chụp ảnh rẻ tiền của Nhật tên là Petri. Tôi dùng rất thạo máy này nên tôi muốn đoan chắc rằng không những phải chỉnh chế độ chụp cho đúng mỗi lần bấm máy mà còn phải canh cho chuẩn, rồi còn phải thao tác thật nhanh để theo kịp diễn tiến. Tôi xài khoảng 10 cuộn phim vì chụp luôn tay.”
Phản ứng và hệ quả
Biết mình đã chụp được những bức ảnh quan trọng, phóng viên Malcolm Browne tức tốc gửi phim qua văn phòng AP ở Manila, Philippines, nơi có thiết bị đánh điện bằng radio gửi về trụ sở AP ở Mỹ.
Và khi AP công bố bức ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức ngồi kiết già giữa ngọn lửa ngùn ngụt, cả thế giới choáng váng.
Được biết Tổng thống Mỹ Kennedy khi nhìn thấy bức ảnh đã nói: “Không bức ảnh thời sự nào trong lịch sử khơi lên nhiều cảm xúc khắp thế giới như bức ảnh đó.”
AP nói bức ảnh này đã khiến chính quyền Kennedy nghiêm túc xem xét lại chính sách ủng hộ của Mỹ đối với chế độ Ngô Đình Diệm.
Ông Hal Buell, Giám đốc Nhiếp ảnh của AP đánh giá:
“Bức ảnh của Malcolm đưa cuộc chiến ở Việt Nam lên trang nhất, và nó ở đó trong suốt hơn 10 năm. Bức ảnh đó gây sốc và khiến người ta chú ý đến mức người ta bắt đầu hỏi, ‘Việt Nam này là nước nào? Chuyện gì xảy ra ở đó? Bao nhiêu người Mỹ ở đó?’ Tất cả những câu hỏi kiểu như vậy.”
Đến tháng 11 năm 1963, ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị ám sát cùng với người em trai Ngô Đình Nhu trong một cuộc đảo chính khi cuộc khủng hoảng Phật giáo ngày càng trầm trọng.
Từ năm 1964, Mỹ can dự sâu hơn vào cuộc chiến ở Việt Nam và mãi cho đến năm 1975 mới rút đi hoàn toàn khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Bức ảnh mang về cho Malcolm Browne giải thưởng Ảnh Báo chí Thế giới của Năm năm 1963. Năm 1964, Browne giành luôn giải Pulitzer danh giá cho tường trình của ông về cuộc chiến ở Việt Nam và vụ lật đổ ông Diệm.
Malcolm Browne sau này rời AP về làm việc với báo The New York Times.
Ông qua đời vào ngày 27 tháng 8 năm 2012 tại Mỹ, thọ 81 tuổi.
· Hồ Sơ Mật Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về Cuộc Chiến VN
· Giải Mật Ngày 13-6-2011
Dịch theo bản văn từ trang nhà của Đại Học Mount Holyoke College:
https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon2/pent6.htm
(LỜI NGƯỜI DỊCH: The Pentagon Papers là tên gọi tắt một hồ sơ tối mật về Cuộc Chiến Việt Nam; theo Wikipedia, hồ sơ này tên chính thức là “United States – Vietnam Relations, 1945–1967: A Study Prepared by the Department of Defense” (Quan Hệ Mỹ-Việt, 1945–1967: Cuộc Nghiên Cứu Thực Hiện Bởi Bộ Quốc Phòng). Hồ sơ này được giải mật và phổ biến công khai năm 2011.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara thành lập Ban Đặc Nhiệm Nghiên Cứu Về Việt Nam ngày 17-6-1967, có nhiệm vụ viết một “tự điển bách khoa về Cuộc Chiến Việt Nam,” mà theo ông là để lưu hồ sơ cho các sử gia và để ngăn cản các sai lầm chính sách trong các chính phủ Hoa Kỳ tương lai.
Hồ sơ này thực hiện bởi 36 nhà phân tích – phân nửa là các sĩ quan đương nhiệm lúc đó, phần còn lại là các học giả và các viên chức dân sự liên bang — phần lớn dựa vào các hồ sơ có sẵn trong Bộ Quốc Phòng. Hồ sơ gồm 3,000 trang phân tích lịch sử, và 4,000 trang tài liệu gốc của chính phủ, soạn thành 47 tập, và xếp loại “Top Secret – Sensitive” (“Tối Mật — Nhạy Cảm.” Chữ “nhạy cảm” chỉ có nghĩa là việc phổ biến hồ sơ sẽ làm chính phủ Mỹ mất mặt.)
Ban Đặc Nhiệm in hồ sơ làm 15 ấn bản duy nhất. Ngày giải mật và phổ biến tới các thư viện Tổng Thống, và tới Trung Tâm Giải Mật Quốc Gia của Văn Khố Liên Bang là ngày 13-6-2011.
Sau đây là bản dịch về tình hình Phật Giáo Việt Nam thời gian từ ngày 8-5-1963 tới ngày 21-8-1963, nằm trong “Chapter 4, ‘The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-November, 1963’ pp.201-276” thuộc Tập 2.
Một số ghi nhận về hồ sơ này trong bối cảnh từ ngày 8-5-1963 cho tới ngày 21-8-1963:
- Ông Diệm biệt đãi Thiên Chúa Giáo, kỳ thị Phật Giáo;
- Thảm sát ở Huế ngày 8-5-1963 xảy ra tình cờ, bất ngờ;
- Trách nhiệm thảm sát ở Huế là do chính quyền Huế, nhưng ông Diệm đổ tội cho VC;
- Biểu tình ngày 3-6-1963 bị đàn áp bằng hơi cay, Mỹ nghi có hơi độc mustard gas;
- Cuộc vị pháp thiêu thân của HT Thích Quảng Đức gây chấn động toàn cầu;
- Thông Cáo Chung 16-6-1963 không được ông Diệm thực thi, và bị ông Nhu phá;
- Cao điểm sự tráo trở của chính phủ ông Diệm là cuộc tổng bố ráp các chùa toàn quốc ngày 21-8-1963, bắt 1.400 nhà sư trong đó có Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết (Hội chủ của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam) và Thượng Tọa Thích Tâm Châu (Ủy ban Liên phái Phật Giáo).
(Độc giả có thể đọc thêm nguyên bản Anh văn kèm dưới đây, sau bản dịch tiếng Việt. Bản dịch thực hiện bởi Cư Sĩ Nguyên Giác)
—————————–
BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT
Nguyên Giác
Sự kiện tại Huế ngày 8 tháng 5-1963 — một sự kiện dẫn tới những gì được gọi là cuộc khủng hoảng Phật giáo và khởi sự cho một chuỗi sự kiện đã tận cùng dẫn tới việc lật đổ chế độ ông Diệm và hạ sát anh em nhà Ngô – đã xảy ra một cách tình cờ và bất ngờ.
Không ai thấy trước rằng sự kiện Huế sẽ khởi lên một vận động đối lập toàn quốc có khả năng gần như tất cả những người dị biệt chính kiến và không Cộng sản tại Nam Việt Nam. Một cách quan trọng hơn, lúc đó chưa ai nhận ra đúng về mức độ bất mãn của dân Việt Nam đối với chính phủ ông Diệm, cũng như về mức độ mục nát chính trị trong chế độ, một chế độ không còn khả năng đối phó với sự bất mãn rộng lớn.
Cội nguồn tôn giáo của sự kiện này có thể dò tới cuộc di cư đông đảo của người tỵ nạn Thiên Chúa Giáo ra khỏi Bắc Việt Nam sau khi Pháp thua trận năm 1954. Khoảng một triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo rời bỏ Miền Bắc và định cư ở Miền Nam. Ông Diệm — một cách hiển nhiên, vì động cơ tôn giáo và nhân đạo, và với ý định tuyển một hậu thuẫn chính trị từ đồng đạo của ông – đã biệt đãi những người tỵ nạn Thiên Chúa Giáo này qua việc cấp đất, cứu trợ và hỗ trợ, cấp giấy phép thương mại và xuất nhập cảng, ưu tiên tuyển làm công chức, và các biệt đãi khác từ chính phủ. Bởi vì ông Diệm có thể dựa vào sự trung thành của họ, họ được điền vào gần như tất cả các chức vụ quân sự và dân sự quan trọng.
Như một định chế, Giáo Hội Thiên Chúa Giáo hưởng một quy chế pháp lý đặc biệt. Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục là anh và là cố vấn của ông Diệm. Nhưng trước năm 1962, không có kỳ thị minh bạch chống người Phật Tử. Tuy nhiên, tại Nam Việt Nam nơi có từ 3 tới 4 triệu Phật Tử tu học và có 80% dân số là Phật Tử trên danh nghĩa, chính sách của ông Diệm – thiên vị Thiên Chúa Giáo, độc tài toàn trị, và kỳ thị tôn giáo – đã làm ngún cháy sự bất mãn.
Vào tháng 4-1963, chính phủ ra lệnh các quan cấp tỉnh thực hiện một lệnh cấm, nguyên đã có từ lâu nhưng thường bị bỏ lơ, về treo cờ tôn giáo. Lệnh này đưa ra vừa sau những lễ hội được khuyến khích chính thức tại Huế để kỷ niệm 25 năm ngày ông Ngô Đình Thục được tấn phong Tổng Giám Mục Huế, mà trong dịp đó cờ Vatican treo đầy khắp. Lệnh này cũng đưa ra, như đã xảy ra, vừa trước ngày Phật Đản (ngày 8 tháng 5-1963), một Đại Lễ Phật Giáo.
Huế, cố đô của Việt Nam, lúc đó là trung tâm thực sự duy nhất về học Phật và học bổng về tu học Phật Giáo tại Việt Nam, và đại học nơi đây (Huế) từ lâu là một trung tâm của những bất đồng khuynh tả. Không ngạc nhiên gì, lúc đó, Phật Tử Huế đã treo cờ của họ bất chấp lệnh cấm và, khi chính quyền địa phương ra vẻ như đã nhượng bộ về lệnh cấm treo cờ, Phật Tử biểu lộ cứng rắn hơn để sẽ tổ chức một cuộc tụ họp đông người theo lịch trình trước đó đã định vào ngày 8 tháng 5 để mừng Phật Đản.
Nhìn thấy cuộc tụ họp đông người đó như một thách thức đối với ảnh hưởng của gia đình họ Ngô (Huế cũng là thủ đô lãnh địa chính trị của Ngô Đình Cẩn, em của ông Diệm) và đối với chính quyền địa phương, các viên chức địa phương tìm cách giải tán đám đông. Khi các nỗ lực ban đầu không có kết quả, Phó Tỉnh Trưởng (cũng là giáo dân Thiên Chúa Giáo) ra lệnh cho lính của ông nổ súng. Thế là dẫn tới hỗn loạn, 9 người bị giết, trong đó có vài trẻ em, và 14 người bị thương. Xe bọc sắt được cho là đã cán lên một số nạn nhân. Chính quyền ông Diệm sau đó loan tin rằng một cán bộ Việt Cộng đã ném một quả lựu đạn vào đám đông và rằng các nạn nhân bị giẫm đạp bởi đám đông hỗn loạn. Chính phủ ông Diệm nhất quyết không chịu nhận trách nhiệm, ngay cả khi các quan sát viên độc lập đưa ra các đoạn phim cho thấy quân chính phủ bắn vào đám đông.
Cá tính quan lại của ông Diệm không cho phép ông xử lý cuộc khủng hoảng này với sự linh động và tế nhị cần thiết. Ông Diệm không có thể công khai nhận trách nhiệm về thảm kịch và tìm sự hòa giải với những Phật Tử giận dữ. Ông còn tin rằng sự mất mặt công khai như thế sẽ làm suy yếu thẩm quyền cai trị của ông, hiển nhiên đối với sự kiện rằng không nhà lãnh đạo thời hiện đại nào có thể từ lâu đã bỏ mặc sự bất mãn lớn lao như thế bất kể rằng đạo đức cá nhân riêng ông có thể tốt như thế nào. Do vậy chính phủ bám chặt vào cách giải thích riêng về chuyện đã xảy ra.
Ngày kế tiếp ở Huế, hơn 10,000 người biểu tình để phản đối cuộc thảm sát. Đó là cuộc biểu tình đầu tiên của một chuỗi dài những biểu tình mà Phật Tử dùng để áp lực chế độ ông Diệm trong 4 tháng kế tiếp. Phật Tử đã mau chóng tự tổ chức, và vào ngày 10 tháng 5-1963, bản Tuyên Ngôn của các chức sắc Phật Giáo trình lên chính phủ, yêu cầu được tự do treo cờcủa họ, được bình đẳng về pháp lý với Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, xin ngưng việc bắt bớ, xin tự do trong việc hành đạo, và xin bồi thường các nạn nhân sự kiện ngày 8 tháng 5-1963 cùng với trừng phạt những kẻ trách nhiệm.
Năm nguyện vọng này chính thức trình lên Tổng Thống Diệm ngày 15 tháng 5-1963, và Phật Tử đã tổ chức buổi họp báo đầu tiên của họ sau buổi trao Tuyên Ngôn đó. Những cuộc tuyệt thực và những buổi họp liên tục cho hết tháng 5, nhưng ông Diệm tiếp tục trì trệ trong việc giải quyết vấn đề và gây bất mãn thêm.
Vào ngày 30-5-1963, khoảng 350 nhà sư Phật Giáo biểu tình trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn, và cuộc tuyệt thực 48 giờ được loan báo. Vào ngày 3-6-1963, một cuộc biểu tình ở Huế bị giải tán bằng hơi cay và nhiều người bị phỏng, dẫn tới các cáo buộc rằng lính ông Diệm đã sử dụng hơi độc mustard gas (LND: mustard gas là chất lỏng gây phỏng da và cơ, có thể chết người, được dùng làm vũ khí hóa học từ Thế Chiến I). Vào ngày 4-6, chính phủ loan báo bổ nhiệm một ủy ban liên bộ chỉ huy bởi Phó Tổng Thống Thơ để giải quyết vấn đề tôn giáo, nhưng vào lúc này cử chỉ đó có lẽ đã quá trễ. Phần lớn dân số thành thị đã tham dự những cuộc biểu tình Phật Giáo, nhận ra trong họ sự khởi đầu của đối lập chính trị chân thực đối với ông Diệm. Vào ngày 8-6, bà Nhu làm tệ hại vấn đề thêm khi loan báo rằng Phật Tử đã bị trà trộn bởi Việt Cộng.
Trong suốt những ngày đầu của khủng hoảng, giới truyền thông Mỹ đã theo sát các sự kiện và gây sự chú ý với thế giới. Vào ngày 11-6, truyền thông được nhắn trước để tới một ngã tư một phố chính vào buổi trưa. Trong khi đoán là sẽ có cuộc biểu tình nữa, họ kinh hoàng chứng kiến cuộc tự thiêu đầu tiên thực hiện bởi một nhà sư. Cái chết phựt lửa của Hòa thượng Thích Quảng Đức gây chấn động thế giới và Nam Việt Nam.
Những cuộc thương thuyết trước đó đã diễn ra giữa ủy ban của Phó Tổng Thống Thơ và Phật Tử có từ ngày 5-6-1963, với những chất vấn cay đắng công khai về thiện chí của cả hai bên. Sau cuộc tự thiêu, chính phủ Mỹ tăng cường áp lực lên chính phủ ông Diệm để làm dịu lòng người Phật Tử, và để đưa tình hình chính trị đang suy sụp trở lại trong tầm kiểm soát.
Cuối cùng, vào ngày 16-6-1963, bản Thông Cáo Chung giữa Phật Giáo và chính phủ ông Diệm được phổ biến, liệt kê các đồng thuận thương thuyết, nhưng không quy trách nhiệm đối với sự kiện ngày 8-5-1963 (LND: không quy trách nhiệm cho chính phủ, chỉ hứa điều tra xem cá nhân viên chức nào có lỗi). Tuy nhiên, trận đàn áp biểu tình dữ dội ngày kế tiếp đã làm hỏng mất tinh thần của sự hòa giải. Trong phần của họ, vợ chồng Ngô Đình Nhu tức khắc phá hoại sự hòa giải bằng cách bí mật huy động các lực lượng thanh niên do chính phủ đỡ đầu đấu tố bản Thông Cáo Chung. Vào cuối tháng 6, thấy rõ rằng Thông Cáo Chung không phải là cử chỉ chân thực của sự hòa giải từ phía ông Diệm, nhưng chỉ là một nỗ lực để làm dịu Hoa Kỳ và là một tờ giấy về sự chia rẽ ngày càng lớn trong chính trị nội bộ.
Sự thiếu niềm tin có căn cứ về phía chính phủ trong Thông Cáo Chung Ngày 16-6-1963 đã làm mất uy tín chính sách trung dung để hòa giải mà giới lãnh đạo cao cấp Phật Giáo đã theo đuổi cho tới khi đó. Vào cuối tháng 6, quyền lãnh đạo phong trào Phật Giáo trao sang cho một nhóm vị sư trẻ hơn, quyết liệt hơn, với mục tiêu chính trị vươn xa hơn. Các vị sư này đã vận dụng chính trị khéo léo và thông minh một đợt thủy triêù đang dâng cao từ phía dân chúng ủng hộ.
Những cuộc biểu tình và tụ tập đông người có kế hoạch kỹ lưỡng được kèm với cuộc vận động truyền thông từ giới đối lập của chế độ ông Diệm. Hiểu tầm quan trọng của truyền thông báo chí Hoa Kỳ, các vị sư này kết giao với phóng viên Mỹ, thông báo họ về những cuộc biểu tình và tụ tập, và cẩn trọng tính thời điểm hoạt động sao cho được giới truyền thông tường thuật rộng rãi tối đa. Không ngạc nhiên gì, gia đình họ Ngô phản ứng bằng cách đàn áp dữ dội hơn đối với các nhà hoạt động Phật Giáo, và với chỉ trích cay đắng hơn và ngay cả hăm dọa các phóng viên Mỹ.
Đầu tháng 7-1963, ủy ban của Phó Tổng Thống Thơ loan báo rằng một cuộc điều tra sơ khởi về sự kiện ngày 8-5-1963 đã xác định rằng những cái chết là do hành động khủng bố của Việt Cộng. Phẫn nộ, những người Phật Tử lên án kết luận đó và tăng cường các hoạt động phản đối của họ. Vào ngày 19-7-1963, dưới áp lực Hoa Kỳ, ông Diệm đọc bài diễn văn trên đài phát thanh, ngắn chỉ 2 phút đồng hồ, mặt ngoài là bày tỏ hòa giải với Phật Tử, nhưng được viết sẵn và trình bày một cách lạnh lùng như để phá hủy trước bất kỳ ảnh hưởng nào mà các đồng thuận nhỏ nhoi đã loan báo có thể có.
Về phía trong chế độ, ông Nhu và vợ nặng nề chỉ trích ông Diệm đã nhượng bộ áp lực Phật Giáo. Bà Nhu công khai chế giễu cuộc tự thiêu là “nướng thịt,” tố cáo các lãnh đạo Phật Giáo bị trà trộn bởi người Cộng sản, và mô tả các cuộc biểu tình là do Việt Cộng kích động. Cả ông Nhu và vợ ra sức công khai, và riêng tư, làm suy yếu các nỗ lực vốn đã yếu của ông Diệm trong việc tương nhượng với Phật Tử, và có tin đồn khởi sự loan ra trong tháng 7 rằng ông Nhu đang xem xét một cú đảo chánh lật đổ ông anh.
Một Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt đề ngày 10-7-1963 kết luận với tiên đoán rằng nếu chế độ ông Diệm không làm gì để thực hiện bản Thông Cáo Chung 16-6-1963 và làm dịu người Phật Tử, nhiều phần là những cuộc biểu tình trong mùa hè sẽ lan rộng với nhiều khả năng sẽ có một nỗ lực đảo chánh từ người không cộng sản (LND: Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt này đã dịch ở Thư Viện Hoa Sen http://tinyurl.com/TVHS-TBDB).
(Hồ sơ 21) Vào giữa tháng 8-1963, một tuần trước khi ông Nhu tung ra cuộc tổng bố ráp nhắm vào các chùa ở Sài Gòn và nơi khác, Sở Tình Báo Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ CIA đã bắt đầu nhận thấy có bất mãn biểu lộ trong giới công chức và quân nhân:
“Từ khi những mâu thuẫn giữa Phật Tử và chố độ ông Diệm bùng phát ngày 8-5-1963, đã có một loạt các bản phúc trình cho thấy không chỉ sự mưu tính và bày tỏ bất mãn tăng dày đặc giữa những người không Cộng Sản trước giờ vẫn chỉ trích ông Diệm, mà sự bất ổn hiển lộ trở lại và sự căm ghét ngày càng tăng trong giới công chức và quân nhân về cách ông Diệm xử lý về mâu thuẫn này.”
Bản đánh giá này tiếp tục mô tả chi tiết nhiều tin đồn, xuất hiện ít nhất từ cuối tháng 6, về các âm mưu đảo chánh. Nhưng ông Nhu, trong một hành động táo bạo nhằm gây kinh hoảng những người âm mưu đảo chánh, và để làm họ bất ngờ, đã triệu tập các tướng lãnh cao cấp vào ngày 11-7-1963, nặng nề khiển trách họ đã không có hành động nào để đè bẹp sự nổi loạn, và chất vấn sự trung thành của họ đối với chế độ. Hành động của ông Nhu như dường đã tạm thời làm khựng lại tất cả các kế hoạch về một cuộc lật đổ. CIA cũng báo cáo về tin đồn rằng chính ông Nhu đang lên kế hoạch một “cuộc đảo chánh giả” để thu hút ra và rồi đàn áp người Phật Tử.
Trong tháng 8-1963, Phật Tử hoạt động tới mức căng thẳng mới; các vị sư tự thiêu vào ngày 5, ngày 15, và ngày 18. Không khí chính trị căng thẳng tại Sài Gòn vào giữa tháng 8-1963 cho các nhà quan sát Hoa Kỳ thấy rằng cuộc chạm trán đang diễn tiến. Tuy nhiên, khi cuộc chạm trán xảy ra, trong cuộc tổng bố ráp ngày 21-8-1963 nhắm vào các chùa, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ hoàn toàn bất ngờ.
HẾT BẢN DỊCH
*
NGUYÊN VĂN ANH NGỮ
The Pentagon Papers
Gravel Edition
Volume 2
Chapter 4, “The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-November, 1963,” pp. 201-276.
(Boston: Beacon Press, 1971)
Section 1, pp. 201-232
(SNIPPED)
II. THE BUDDHIST CRISIS: MAY 8-AUGUST 21
A. THE CRISIS ERUPTS
The incident in Hue on May 8, 1963, that precipitated what came to be called the Buddhist crisis, and that started the chain of events that ultimately led to the overthrow of the Diem regime and the murder of the Ngo brothers, happened both inadvertently and unexpectedly. No one then foresaw that it would generate a national opposition movement capable of rallying virtually all non-communist dissidence in South Vietnam. More importantly, no one then appreciated the degree of alienation of Vietnam’s people from their government, nor the extent of the political decay within the regime, a regime no longer capable of coping with popular discontent.
The religious origins of the incident are traceable to the massive flight of Catholic refugees from North Vietnam after the French defeat in 1954. An estimated one million Catholics fled the North and resettled in the South. Diem, animated, no doubt, by religious as well as humanitarian sympathy, and with an eye to recruiting political support from his coreligionists, accorded these Catholic refugees preferential treatment in land redistribution, relief and assistance, commercial and export-import licenses, government employment, and other GVN largess. Because Diem could rely on their loyalty, they came to fill almost all important civilian and military positions. As an institution, the Catholic Church enjoyed a special legal status. The Catholic primate, Ngo Dinh Thuc, was Diem’s brother and advisor. But prior to 1962, there had been no outright discrimination against Buddhists. However, among South Vietnam’s 3-4 million practicing Buddhists and the 80% of the population who were nominal Buddhists, the regime’s favoritism, authoritarianism, and discrimination created a smoldering resentment.
In April 1963, the government ordered provincial officials to enforce a longstanding but generally ignored ban on the public display of religious flags. The order came just after the officially encouraged celebrations in Hue commemorating the 25th anniversary of the ordination of Ngo Dinh Thuc, the Archbishop of Hue, during which Papal flags had been prominently flown. The order also came, as it happened, just prior to Buddha’s birthday (May 8)-a major Buddhist festival. Hue, an old provincial capital of Vietnam, was the only real center of Buddhist learning and scholarship in Vietnam and its university had long been a center of left-wing dissidence. Not surprisingly, then, the Buddhists in Hue defiantly flew their flags in spite of the order and, when the local administration appeared to have backed down on the ban, were emboldened to hold a previously scheduled mass meeting on May 8 to commemorate Buddha’s birthday. Seeing the demonstration as a challenge to family prestige (Hue was also the capital of the political fief of another Diem brother, Ngo Dinh Can) and to government authority, local officials tried to disperse the crowds. When preliminary efforts produced no results, the Catholic deputy province chief ordered his troops to fire. In the ensuing melee, nine persons were killed, including some children, and fourteen were injured. Armored vehicles allegedly crushed some of the victims. The Diem government subsequently put out a story that a Viet Cong agent had thrown a grenade into the crowd and that the victims had been crushed in a stampede. It steadfastly refused to admit responsibility even when neutral observers produced films showing government troops firing on the crowd.
Diem’s mandarin character would not permit him to handle this crisis with the kind of flexibility and finesse it required. He was incapable of publicly acknowledging responsibility for the tragedy and seeking to conciliate the angry Buddhists. He was convinced that such a public loss of face would undermine his authority to rule, oblivious to the fact that no modern ruler can long ignore massive popular disaffection whatever his own particular personal virtues may be. So the government clung tenaciously to its version of what had occurred.
The following day in Hue over 10,000 people demonstrated in protest of the killings. It was the first of the long series of protest activities with which the Buddhists were to pressure the regime in the next four months. The Buddhists rapidly organized themselves, and on May 10, a manifesto of the Buddhist clergy was transmitted to the government demanding freedom to fly their flag, legal equality with the Catholic Church, an end of arrests and freedom to practice their beliefs, and indemnification of the victims of the May 8th incident with punishment for its perpetrators. These five demands were officially presented to President Diem on May 15, and the Buddhists held their first press conference after the meeting. Publicized hunger strikes and meetings continued throughout May, but Diem continued to drag his feet on placating the dissenters or settling issues. On May 30, about 350 Buddhist monks demonstrated in front of the National Assembly in Saigon, and a 48-hour hunger strike was announced. On June 3, a demonstration in Hue was broken up with tear gas and several people were burned, prompting charges that the troops had used mustard gas. On June 4, the government announced the appointment of an interministerial committee headed by Vice President Tho to resolve the religious issue, but by this time such gestures were probably too late. Large portions of the urban population had rallied to the Buddhist protest, recognizing in it the beginnings of genuine political opposition to Diem. On June 8, Mme. Nhu exacerbated the problem by announcing that the Buddhists were infiltrated by communists.
Throughout the early days of the crisis, the U.S. press had closely covered the events and brought them to the attention of the world. On June 11, the press was tipped off to be at a downtown intersection at noon. Expecting another protest demonstration, they were horrified to witness the first burning suicide by a Buddhist monk. Thich Quang Duc’s fiery death shocked the world and electrified South Vietnam.
Negotiations had been taking place between Vice President Tho’s committee and the Buddhists since June 5, with considerable acrimonious public questioning of good faith by both sides. After the suicide, the U.S. intensified its already considerable pressure on the government to mollify the Buddhists, and to bring the deteriorating political situation under control. Finally, on June 16, a joint GVN-Buddhist communique was released outlining the elements of a settlement, but affixing no responsibility for the May 8 incident. Violent suppression by the GVN of rioting the next day, however, abrogated the spirit of the agreement. The Nhus, for their part, immediately undertook to sabotage the agreement by secretly calling on the GVN-sponsored youth organizations to denounce it. By late June, it was apparent that the agreement was not meant as a genuine gesture of conciliation by Diem, but was only an effort to appease the U.S. and paper over a steadily widening fissure in internal politics.
The evident lack of faith on the part of the government in the June 16 agreement discredited the conciliatory policy of moderation that the older Buddhist leadership had followed until that time. In late June, leadership of the Buddhist movement passed to a younger, more radical set of monks, with more far-reaching political objectives. They made intelligent and skillful political use of a rising tide of popular support. Carefully planned mass meetings and demonstrations were accompanied with an aggressive press campaign of opposition to the regime. Seizing on the importance of American news media, they cultivated U.S. newsmen, tipped them off to demonstrations and rallies, and carefully timed their activities to get maximum press coverage. Not surprisingly, the Ngo family reacted with ever more severe suppression to the Buddhist activists, and with acrimonious criticism and even threats to the American newsmen.
Early in July, Vice President Tho’s committee announced that a preliminary investigation of the May 8 incident had confirmed that the deaths were the result of an act of Viet Cong terrorism. Outraged, the Buddhists denounced the findings and intensified their protest activities. On July 19, under U.S. pressure, Diem made a brief two-minute radio address, ostensibly an expression of conciliation to the Buddhists, but so written and coldly delivered as to destroy in advance any effect its announced minor concessions might have had.
Within the regime, Nhu and his wife were severely criticizing Diem for caving in under Buddhist pressure. Mme. Nhu publicly ridiculed the Buddhist suicide as a “barbecue,” accused the Buddhist leaders of being infiltrated with communists, and construed the protest movement as Viet Cong inspired. Both Nhu and his wife worked publicly and privately to undermine Diem’s feeble efforts at compromise with the Buddhists, and rumors that Nhu was considering a coup against his brother began to circulate in July.
A U.S. Special National Intelligence Estimate on July 10 concluded with the perceptive prediction that if the Diem regime did nothing to implement the June 16 agreement and to appease the Buddhists, the likelihood of a summer of demonstrations was great, with the strong possibility of a non-communist coup attempt. [Doc. 21] By mid-August a week before Nhu launched general raids on Buddhist pagodas in Saigon and elsewhere, the CIA had begun to note malaise in the bureaucracy and the army:
Since the Buddhist dispute with the Diem government erupted on 8 May, there have been a series of reports indicating not only intensified plotting and grumbling among Diem’s traditional non-Communist critics, but renewed restiveness and growing disaffection in official civilian and military circles over Diem’s handling of the dispute.
This estimate went on to detail numerous rumors of coup plots in existence since at least late June. But Nhu, in a bold move designed to frighten coup plotters, and to throw them off guard, had called in the senior generals on July 11, reprimanded them for not having taken action to squelch revolt, and questioned their loyalty to the regime. Nhu’s move seemed to have temporarily set back all plans for an overthrow. CIA also reported rumors that Nhu himself was planning a “false coup” to draw out and then crush the Buddhists.
In August, Buddhist militancy reached new intensity; monks burned themselves to death on the 5th, 15th, and 18th. The taut political atmosphere in Saigon in mid-August should have suggested to U.S. observers that a showdown was on the way. When the showdown came, however, in the August 21 raids on the pagodas, the U.S. mission was apparently caught almost completely off guard.
B. THE U.S. “NO ALTERNATIVES TO DIEM” POLICY
(SNIPPED)
**********
Nguồn:
CHUYỂN HÓA
Ý-NGHĨA CUỘC TỰ-THIÊU CỦA
THƯỢNG-TỌA THÍCH QUẢNG ĐỨC
Năm nay, Phật-Lịch 2557 (Dương-Lịch
2013, Âm-Lịch Quý Tỵ), Mùa Phật-Đản có thêm một tiết-mục đặc-biệt; đó là
Phật-Tử khắp nơi chuẩn-bị làm Lễ Kỷ-Niệm 50 năm Cuộc Tự-Thiêu của cố Thượng-Tọa
Thích Quảng-Đức – biến-cố lịch-sử xảy ra vào ngày 11/6 Dương-Lịch 1963 (20/4
Âm-Lịch Quý-Mão).
Cũng như
trong các dịp khác, mỗi khi nhắc đến Cuộc Tự-Thiêu cúng dường Đạo-Pháp, nói lên
nguyện-vọng Tự-Do Tín-Ngưỡng và Bình-Đẳng Tôn-Giáo, của cố Thượng-Tọa Thích
Quảng-Đức, đồng-hương Việt-Nam ở Hải-Ngoại lại chia ra làm hai phe, kịch-liệt
tranh-cãi nhau – bên bênh, bên chống – nêu nổi bật lên tình-trạng chia-rẽ trong
thành-phần năng/hiếu-động giữa giới tín-đồ Phật-Giáo với giới tín-hữu
Ky-Tô-Giáo La-Mã.
*
Trong
bài-viết này, tôi chỉ thu gọn vấn-đề trong một chủ-điểm duy-nhất, đó là ý-nghĩa
của các dòng chữ – tiếng Ý – mà người xem đọc thấy trên màn-ảnh của một đoạn
video mà anh Matthew Tran nói là "DVD của một ký-giả Ý" và hướng mũi
tấn-công vào một mình Lê
Xuân Nhuận bằng cách nhấn mạnh:
"... Video cũa LXN là
video LXN dã ăn cắp cũa một ký giã Ý-dại Lợi (YDL) rồi cắt bõ những fần
KHÔNG CÓ LỢI cho việc ngụy tạo: như các fần ghi chú closed caption
bằng tiếng Ý..." và " Việc anh LXN che zấu zi ngôn cũa TT
Thích Quãng Dức -- qua một DVD cũa một ký giã Ý .. bị tui
khám fá và dưa ra ánh sáng -- khi TT TQĐức muốn noái: Ngài fãn dối
việc vi fạm giáo diều cũa Fật Giáo là: Fật Giáo cấm sát sinh .. kễ cã
chính bãn thân mình ..(tự hũy hoại thân thễ, tự thiêu: self-immolation).
VIDEO language Ý:
Mời xem VIDEO trên dây dễ chứng minh
là tôi dã không bày dặt ra."
|
*
Nguyên tôi có
đưa lên mạng một đoạn video mà tôi tình-cờ xem được, chiếu cảnh Thượng-Tọa Thích Quảng Đức tự-thiêu mà có lực-lượng Cảnh-Sát
của Việt-Nam Cộng-Hòa giữ-gìn trật-tự, không cho đồng-bào vào ngăn-cản cuộc
tự-thiêu – tức là Cảnh-Sát của Nền Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa đã bảo-vệ cuộc
tự-thiêu ấy, công-khai và chính-thức ủng-hộ cuộc tranh-đấu của Phật-Tử Việt-Nam
chống lại chế-độ kỳ-thị tôn-giáo của chính-quyền Ngô Đình Diệm.
(xin mở các links này:)
Bo Tat Thich Quang Duc (Monge Budista suicidio)
akilasantus
Uploaded on Nov 28,
2008 (Akilasantus đăng lên ngày
28/11/2008)
Bo Tat Thich Quang Duc (Monge Budista suicidio)
magnotus
Uploaded on Jun 19, 2010 (Magnotus đăng lên ngày 19/6/2010)
Không hiểu
tại sao mà đoạn video ấy lại không có các dòng ghi-chú (closed caption) nên anh
Matthew Tran bảo là tôi "ăn cắp" của ký-giả Ý rồi "loại bỏ closed
caption không có lợi cho mình".
Anh Matthew
Tran liền đưa lên mạng một đoạn video khác, mà anh cho là "của một ký giả Ý
thu hình được trong giai đoạn bọn gian sư Ấn
Quang thực hiện để giết TT Thích Quảng Đức". (xin mở link này:)
Thích Quảng Đức
Roberto Italia
Uploaded on Jun 21, 2009 (Roberto Italia đăng lên ngày 21/6/2009)
Tôi xem lại
thì thấy cũng chính là đoạn video ấy (có Cảnh
Sát giúp giữ trật-tự cho Cuộc Tự-Thiêu) mà có thêm các dòng ghi-chú (closed
caption) bằng tiếng Ý mà thôi.
Vậy thì
vấn-đề cốt-lõi chỉ là: các dòng closed caption ấy nói lên điều gì.
Theo
anh Matthew Tran thì ý-nghĩa của chúng là: cố Thượng-Tọa Thích Quảng Đức
"muốn nói: Ngài phản đối việc vi phạm giáo điều của Phật Giáo là: Phật
Giáo cấm sát sinh... kể cả chính bản thân minh... (tự hủy hoại thân thể, tự
thiêu: self-immolation)."
*
Tôi dùng Google dịch thử các dòng chữ Ý liên-quan ra tiếng
Việt thì có kết-quả như sau:
1=
"Prima di chiudere i miei occhi e andare verso la visione
di Buddha
prego il Presidente di essere compassionevole verso il popolo
della nazione e incoraggi l'eguaglianza religiosa "Thích
Quảng Đức =
"Before I close my eyes and go towards the vision of Buddha
please the President to be
compassionate toward the people of the nation and encourages religious equality
"Thich Quang Duc
"Trước khi tôi nhắm mắt và
L'immolazione non deve essere considerato suicidio, vietato dal
Buddhismo, in quanto privo delle caratteristiche del suicidio
Queste sono mancanza di coraggio di vivere, sanso di sconfitta
nella vita e perdita di ogni speranza =
The sacrifice should not be considered suicide, which is prohibited
by Buddhism, as it lacks the characteristics of suicide
These are lack of courage to live, sanso of defeat in life and loss
of all hope
in Thích Quảng Đức al contrario
c'era coraggio e ottimismo che il gesto potesse produrre una evoluzione
positiva nella società
Infine non era nemmeno un atto di protesta, nella lettera lasciata
non si lanciano accuse o recriminazioni,
ma un gesto volta a toccare i cuori e mostrare la situazione per
quella che è. In questo si tratta di un atto di compassione =
Thich Quang Duc in the contrary there was courage and optimism that
the gesture could produce a positive evolution in society
Finally, it was not even an act of protest, in the letter left not
throw accusations or recriminations
but a gesture intended to touch the hearts and show the situation
for what it is. In this it is an act of compassion
Dopo la morte, il corpo di Thích Quảng Đức fu nuovamente cremato.
Il fatto che tra le ceneri fosse ritrovato intatto il cuore
convinse definitivamente i buddhisti del valore della sua
compassione e da allore viene venerato come bodhisattva =
After death, the body of Thich Quang Duc was cremated again. The
fact that in the ashes was found intact heart
Buddhists finally convinced of the value of his compassion and
allore is revered as a bodhisattva
-----
2=
atto di compassione di
un monaco che si fa bruciare vivo =
act of compassion of a
monaco you do burn alive
-----
3=
Thich Quang Duc: "Antes de cerrar
los ojos y dirigirme hacia la figura de Buda, suplico respetuosamente al
presidente Ngô Đình Diệm que tenga compasión de los habitantes de la nación y
que desarrolle una igualdad religiosa... Llamo a los venerables reverendos,
miembros de la sangha y predicadores budistas para que se organicen y hagan
ofrendas con el objetivo de proteger el budismo."
[Om Mani Padme Hum. No hagas nada
dañino; Haz solo el bien, Entrena tu mente: Esta es la enseñanza del Buda. =
Thich Quang Duc: "Before closing
the eyes and head toward the figure of the Buddha, respectfully beg to
President Ngô Đình Diệm to have compassion on the people of the nation and to
develop a religious equality ... I call on the venerable reverends, members of
the sangha and Buddhist preachers to organize and make offerings in order to
protect Buddhism. "
[Om Mani Padme Hum. Do not do anything
harmful, Do only good, Train Your Mind: This is the teaching of the Buddha.
-----
4=
Protesto
silencioso Thich Quang Duc, nascido em 1897, foi um monge budista vietnamita
que se sacrificou até a morte numa rua movimentada de Saigon em 11 de junho de
1963. Seu ato foi repetido por outros monges. Enquanto seu corpo ardia sob as
chamas, o monge manteve-se completamente imóvel. Não gritou, nem sequer fez um
pequeno ruído. Thich Quang Duc protestava contra a maneira que a sociedade
oprimia a religião Budista em seu país. Após sua morte, seu corpo foi cremado
conforme à tradição budista. Durante a cremação seu coração manteve-se intacto,
pelo que foi considerado como quase santo e seu coração foi transladado aos
cuidados do Banco de Reserva do Vietnã como relíquia. =
Silent protest Thich Quang Duc, born in 1897,
was a Vietnamese Buddhist monk who sacrificed himself to death on a busy street
in Saigon on June 11, 1963. His act was repeated by other monks. As his body
burned in the flames, the monk remained completely motionless. Not screamed,
even made a small noise. Thich Quang Duc was protesting the way that society
oppressing the Buddhist religion in his country. After his death, his body was
cremated according to Buddhist tradition. During the cremation his heart
remained intact, it was considered almost holy and his heart was transferred to
the care of the Reserve Bank of Vietnam as relic
*
Tóm lại, vì anh
Matthew Tran cứ quyết "thắng" tôi (một cá-nhân Lê Xuân Nhuận) về một chuyện nhỏ – là mấy
dòng chữ ghi-chú tiếng Ý trong đoạn video Cuộc Tự-Thiêu của cố Thượng-Tọa Thích
Quảng Đức – nên anh ấy không những đã không "thắng" tôi mà lại còn
"thua" cả cộng-đồng (mọi người xem đoạn video ấy) về một chuyện lớn –
là (1) Cảnh-Sát của Đệ-Nhất Cộng-Hòa đã đứng về phía Phật-Tử Tranh-Đấu chống
độc-tài kỳ-thị tôn-giáo, và (2) viên "ký giả Ý" (tác-giả
"DVD" ấy) qua các dòng chữ ghi-chú tiếng Ý đã xác-nhận Chính-Nghĩa
của Phong-Trào quần-chúng Nam Việt-Nam chống chế-độ Ngô Đình Diệm, mà đỉnh điểm là Cuộc
Tự-Nguyện Tự-Thiêu của cố Thượng-Tọa Thích Quảng-Đức vậy.
From: Fanxico Tran <vneagle_11@yahoo.com>
Sent: Friday, February 3, 2012 6:53 AM Subject: Matthew Trần:......// Lê-Xuân-Nhuận, Tên Việt Gian Lộ Mặt
Cùng quý thân hữu dộc
giã chân chính,
- Việc anh LXN che zấu
zi ngôn cũa TT Thích Quãng Dức -- qua một DVD
cũa một ký giã Ý .. bị tui khám fá và dưa ra ánh sáng --khi TT
TQĐức muốn noái: Ngài
fãn dối việc vi fạm giáo điều cũa Fật Giáo là: Fật Giáo cấm sát sinh .. kễ cã chính bãn thân mình ..(tự hũy hoại
thân thễ, tự thiêu: self-immolation).
VIDEO
language Ý:
Mời xem VIDEO trên dây dễ chứng minh là tôi dã
không bày dặt ra.
From: Matthew Tran
Subject: Video clip Lê Xuân Nhuận (LXN) cho là người ta zàn zựng sau nầy, chính là cũa một ký-giã Ý thu dược rồi anh ta sữa lại (loại bõ fần closed caption không có lợi cho mình) trong giai doạn bọn gian sư Ấn Quang thực hiện.
Date: Sunday, March 14, 2010, 2:03 PM
Matthew Trần:
- Video
clip Lê Xuân Nhuận (LXN) cho là người ta zàn zựng sau nầy, chính là cũa
một ký-giã Ý thu hình dược trong giai
doạn bọn gian sư Ấn Quang thực hiện dễ giết TT Thích Quãng Dức, LXN
sữa lại (loại bõ fần closed caption không có lợi cho
mình)
Theo tôi -- và xin mọi người
quan sát --
- Video cũa LXN là video
LXN dã ăn cắp cũa một ký giã Ý-dại Lợi (YDL) rồi cắt bõ những fần KHÔNG CÓ
LỢI cho việc ngụy tạo: như các fần ghi chú closed
caption bằng tiếng Ý .. zài cã trang. Tôi dã fỗ biến rồi. Tui không
hiễu dược tiếng Ý ..nhưng căn cứ vào cách zan zối cũa LXN.. cắt bõ
fần closed caption cũng dã cho thấy: "lạy ông tui ỡ bụi nầy rồi" . ...
- Cái video cũa ký giã Ý
thu hình từ góc dường (quây lưng vào tòa Dại Sứ Cao Mên) ..dứng trên fần lề dường..
sau lưng dám tăng nhân dang bao quanh vị trí TT TQD bị dốt. Video nầy bị LXN ăn cắp và edit bằng cách loại bõ hoàn toàn
fần closed caption không có lợi cho zã. ...
Matthew Trần
|
Xem thêm:
Monday, June 10, 2013
VĂN QUANG * HỘI CHỨNG BẤT ĐỘNG
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
Hội chứng “bất động”
Ở VN bây giờ thêm một hội
chứng mới gọi là “hội chứng bất động”, nó được hình thành bởi cái thị trường
bất động sản đang chết cứng, không nhúc nhích. Dù có được “kích cầu” mạnh mẽ, dù
có được vài “cú hích”, mạnh hơn tàu hỏa đẩy đi, nó vẫn nằm chết dí. Nói rõ hơn
là đủ các thứ nhà đất đóng băng, nhà giàu chết trên đống tài sản của mình, nhà
nghèo không có tiền mua nhà, nhà kha khá loại công tư chức còm vẫn cứ đợi nhà
xuống giá nữa. Mặc dù mọi “phân khúc”– tức là mọi kiểu nhà từ những tòa cao ốc
đồ sộ đến biệt thự tiền tỉ, cho đến nhà chung cư, nhà bình dân – đã xuống giá, “vừa bán vừa năn nỉ” cũng chẳng
ai mua. Họ vẫn đợi và đợi giá xuống nữa. Khách hàng được dịp bắt ép doanh
nghiệp để trả thù trước kia ông ép giá tôi, ông mua rẻ bán đắt, bây giờ là thời
cơ tôi ép ông, phải hạ giá nữa cũng chẳng có gì là “oan uổng”. Thế nên hai anh cùng đứng hầm hè nhìn nhau, cái
“hội chứng bất động” ra đời.
Thật ra, cái hội chứng này đã
có từ lâu, nó hiện diện trong nhiều mặt của xã hội. Nhiều bạn chê dân VN vô
tình, vô cảm, đôi khi là “vô lương tâm”
thí dụ gặp cướp giữa đường không ai chịu nhảy vào tiếp cứu, gặp tai nạn giữa
đường ngó mặt làm lơ… Nhưng bạn thông cảm cho là đã có những người vì can thiệp
vào đám cướp mà bị trả thù, bị đâm lòi ruột, can thiệp vào vụ tai nạn rồi bị
gán ngang xương là người gây ra tai nạn, nhảy vào đám đánh lộn, quay ra bị mất
bóp… Thế nên cái sự “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” đã thành đồ cổ.
Sự “bất động”, sự vô cảm trở thành có lý. Nhất là trong thời buổi người khôn
của khó này, mọi người đều phải chạy gạo kiếm cơm, ít người còn thì giờ để lo
chuyện “thiên hạ sự”. Mấy ông rảnh rang thì bận ngồi tán dóc ở quán cà phê, bận
làm “áp phe”, bận “việc quan ngoài quán” nên chẳng ai chịu nhúc nhích.
Tuy nhiên những chuyện nhỏ ấy
chưa quan trọng bằng những chuyện lớn của các quan. Hội chứng bất động này mới
đáng sợ.
Chuyện bình thường
Chuyện đất đai, nhà cửa là
thứ chuyện “muôn năm” trong toàn quốc khiến người dân vác đơn đi kiện từ năm
này qua năm khác, thậm chí nằm lỳ ở các
thành phố lớn quyết tâm chờ được giải quyết, nhưng hầu như chẳng có vụ nào “dứt
điểm” được cả, nó cứ lằng nhằng đá qua đá về như kiểu đội bóng Barcelona chơi
kiểu tiki-taka mãi chẳng chịu sút vào khung thành. Anh nào sốt ruột hết cơm gạo
nằm vạ thì cứ về nhà chờ và chờ, nhà nước hoan nghênh vì không làm mất “an ninh
trật tự”! Thứ chuyện đó ở VN đã trở thành chuyện bình thường.
Tham nhũng hối lộ ư? Chuyện
cổ tích. Cướp của giết người ư? Chuyện vặt. Con gái mới lớn nứt mắt đã bị dụ
sang Campuchia đánh bạc, bố mẹ lo tiền sang chuộc ư? Chuyện nhỏ. Chuyện mua dâm
bán dâm của hoa khôi hoa hậu rồi lây lan đến nữ sinh, các “madam” bắt chước tụi
nhỏ, đi tìm thú vui cũng chỉ là thứ chuyện bình thường. Khách du lịch bị chém
vô tội vạ khiến họ khinh miệt dân tộc mình, một đi không trở lại ư? Cái thứ
chuyện “quốc nhục” đó xảy ra từ lâu lắm rồi, bây giờ mới biết thì “hơi muộn”.
Hàng trăm thứ chuyện bình thường như thế trong một xã hội có nhiều điều không
bình thường.
Nhà hợp pháp bỗng chốc thành bất hợp
pháp
Vậy mà có những thứ chuyện ai
cũng biết, ai cũng thấy, ai cũng thắc mắc mà chẳng biết anh nào đúng và chẳng
biết xử thế nào cho phải, đành “bất động”. Cái thứ “bất động” này cũng nằm
trong “bất động sản”, nhưng không phải là thứ cần rao bán mà là thứ có dính
dáng tới pháp luật. Anh có tiền bỏ ra mua đất, có giấy tờ đàng hoàng, bỗng chốc
bị “soi mói” đó là đất rừng phòng hộ, cấm làm nhà. Thế là đất nhà của mình bỗng
dưng trở thành vi phạm pháp luật, phải đập bỏ. Nhưng đập bỏ một ngôi nhà cấp ba
cấp bốn chắc sẽ không khó khăn gì, có thể được bồi thường một khoản tiền nhỏ là xong hoặc có khi chính
quyền địa phương biết mình cấp phép sai, xin chủ nhân “thông cảm” cũng huề cả làng.
Nhưng đập phá một ngôi nhà “vĩ đại” có chủ quyền không phải là chuyện dễ, sẽ có
đủ thứ chuyện phiền phức. Cơ quan này “đá” cơ quan kia, ông này nói đúng pháp
luật, ông kia nói nhà làm “lậu”, ông nào cũng nhân danh “nhà nước” nên chẳng
biết ông nào đúng, ông nào sai. Một bằng chứng điển hình cho thấy tình trạng
bát nháo này kèm theo nhiều quy định, nhiều luật lệ lạ đời chưa từng có trên
thế giới.
Xây nhà trên đất rừng cứ bình chân như
vại
Chỉ tính riêng huyện Sóc Sơn,
huyện Ba Vì ( Hà Nội), đã có hàng loạt sai phạm về đất đai. Thanh tra Chính phủ phát hiện một con số sai
phạm khổng lồ tại chín xã và Lâm trường Sóc Sơn. Có 336 gia đình dân chuyển
nhượng đất lâm nghiệp, diện tích gần 300 hecta, 659 gia đình xây dựng các công
trình trên đất lâm nghiệp.
Hàng trăm ngôi biệt thự đẹp
đẽ, trang trại rộng lớn mọc lên giữa cảnh núi rừng mát mẻ nên thơ. Tiếc thay,
đó lại là bức tranh xấu xí và đáng buồn về quản lý của chính quyền địa phương, mặc
dân tự ý mua bán, chuyển nhượng đất rừng, chuyển đổi sai mục đích sử dụng.
Hai trường hợp điển hình được
báo chí đưa ra, theo kết luận của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
Đó là biệt thự của gia đình ca sĩ Mỹ Linh, và Việt phủ của họa sĩ Thành Chương.
Trớ trêu và hài hước nhất, Việt phủ Thành Chương nhiều năm qua, từng đón nhiều
quan khách trong nước và quốc tế, được một số bảo tàng, tổ chức văn hóa ghi
nhận như một địa chỉ văn hóa của VN, từng được “khảo sát” để làm nơi du lịch
1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Không biết các quan chức Hà
Nội, khi đến thăm Việt phủ, có ai băn khoăn đặt câu hỏi, vì sao Việt phủ lại
được xây dựng “hoành tráng” đến vậy ở ngay trên đất rừng đặc dụng. Từ ngày bắt
đầu xây dựng “tòa lâu đài như cung điện nguy nga” này đến ngày hoàn tất là bao
nhiêu năm và bao nhiêu người, bao nhiêu quan chức đã từng đến chân đến đây,
không lẽ không ai biết đó là khu rừng đặc dụng? Các quan chức ở địa phương ngày
nào cũng nhìn thấy Việt Phủ và có thể đã từng được đón tiếp long trọng, được
“vui chơi” trong “biệt phủ” này, chắc nhiều vị thừa biết đó là khu xây dựng
trái phép, nhưng cứ “bất động” cho nó vui vẻ cả làng.
Ông “nhà nước” này đá ông “nhà nước” kia
Tạm bỏ qua những biệt thự,
những trang trại lẻ tẻ, hãy xét đến trường hợp hai “đại gia” rất nổi tiếng
trong làng văn nghệ Hà Nội với những công trình vô cùng đồ sộ, bạn có hàng
triệu Mỹ kim cũng chưa chắc đã làm được.
Gần chục năm trôi qua rồi,
Việt phủ Thành Chương và biệt thự gia đình ca sĩ Mỹ Linh đang êm ấm, bỗng nhiên
bị dư luận xôn xao, người bênh kẻ chống um xùm, bởi họ vốn là những người nổi
tiếng. Chứ còn có không ít biệt thự, nhà ở nữa, đâu phải chỉ có hai nghệ sĩ có tên
tuổi này. Như anh trai, chị gái ca sĩ Mỹ Linh cũng lại có những sai phạm tương
tự được phát hiện trong khi thanh tra.
Vụ việc trở nên phức tạp, rối
tinh rối mù, bởi ngay cơ quan chức năng, quản lý nhà nước các cấp, còn mâu
thuẫn nhau trong sự nhìn nhận một vụ việc, thì người dân làm sao hiểu đúng hay
sai? Và ngay chính cơ quan quản lý còn sai phạm, nói gì đến người dân?
Khi Thanh tra Sở Tài nguyên
và Môi trường Hà Nội kết luận, vụ việc trên là xây sai phép, thì ông Chủ tịch
UBND xã Minh Phú (xã có biệt thự của gia đình ca sĩ Mỹ Linh) lại bác bỏ ngay
kết luận của Thanh tra Sở.
Còn ông Chủ tịch UBND huyện
Sóc Sơn cho biết, diện tích rừng đặc dụng và phòng hộ (nơi có Việt phủ Thành
Chương) không thuộc quyền quản lý của UBND huyện, mà thuộc Công ty Lâm trường
Sóc Sơn, Ban Quản lý rừng phòng hộ và đặc dụng. Thế nhưng Công ty Lâm nghiệp
Sóc Sơn, cũng đang có nhiều sai phạm về sử dụng đất không đúng mục đích.
Ngay từ năm 2005, UBND TP Hà
Nội đã có văn bản chỉ thị giải quyết (trong khi biệt thự to đùng của gia đình
ca sĩ Mỹ Linh mãi năm 2009 mới xây). Nếu các quan địa phương thi hành nghiêm
lệnh trên thì chẳng ai dám bén mảng đến xây nhà, dù là nhà cấp 4. Vậy mà tám
năm trôi qua, không hiểu các ngành, các cấp quản lý chính quyền Sóc Sơn làm gì?
Hay các bác mắc bệnh trên bảo dưới không nghe?
Nếu có bệnh thì cần chữa trị
đến nơi đến chốn, chứ bây giờ đã thành hội chứng “bất động” của không ít cấp
quản lý chính quyền địa phương? “Bất động” về trách nhiệm quản lý, về ý thức
bổn phận cán bộ công quyền? Chả lẽ lại có cả ngành đào tạo những “nhà bất động
học”?
Đằng sau những ngôi biệt thự
lộng lẫy, đẹp đẽ đó, chuyện gì đã diễn ra? Thôi, tôi chẳng nói thêm làm gì, độc
giả lại mắng “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”!
Luật kỳ cục nhất thế giới: “phạt rồi cho
để nguyên”
Xã hội nào cũng có luật pháp,
tuy nhiên, hiện nay nhiều người Việt lại sống theo... lệ.
Lệ làng, lệ xã, lệ phố, lệ
phường, và bây giờ có lệ... rừng? Còn nếu người dân phải theo luật, lại là thứ
“luật” bất thành văn: phạt cho...tồn tại. Nói rõ ra là cứ việc làm nhà
trái phép, khi làm xong “được” mấy ông chính quyền địa phương phạt một khoản
tiền rồi nghiễm nhiên thành hợp pháp. Đúng là một tin mừng cho mấy ông cần nhà
lớn, nhà nhiều tầng giữa thành phố.
Cái “luật” này xem ra rất
được các quan và các đại gia ưa chuộng từ thành thị đến miền rừng núi. Hãy
nhìn, ngay tại TP Sài Gòn, công trình cao ốc trên đảo Kim Cương (P. Bình Trưng
Tây, Q2), tổng diện tích xây dựng trái phép lên đến gần 3000 m2. Tòa nhà cao ốc
BMC trên đường Võ Văn Kiệt, xây trái phép hơn 270 m2... Tất cả vẫn bình an vô
sự!
Còn nếu xử quan chức vi phạm,
hãy thử nhìn lên Ba Vì mà xem. Trung bình mỗi năm, Ba Vì có hơn 100 công chức
bị kỷ luật với hình thức cảnh cáo, khiến trách, kiểm điểm, trong đó sai phạm
liên quan đất đai tới 40%. Thế nhưng quan chức bị kỷ luật cứ kỷ luật, biệt thự
cứ xây và cứ hiên ngang đứng vững trên đất rừng như không có chuyện gì xảy ra.
Có lẽ chuyện này chỉ có ở VN.
Việt phủ Thành Chương sẽ phá bỏ hay giữ
lại?
Việc tất cả các công trình
xây dựng nhà cửa trên đất rừng đặc dụng rõ ràng đã vi phạm pháp luật trầm
trọng. Hiện tại các cơ quan có trách nhiệm vẫn đang xúc tiến nghiên cứu tìm
cách giải quyết các trường hợp vi phạm cho hợp tình hợp lý nhất. Tuy nhiên, sự
quan tâm đặc biệt được dành cho “số phận” của Việt phủ Thành Chương, khi UBND
Thành phố Hà Nội đã giao cho Sở xây dựng và UBND huyện Sóc Sơn rà soát các công
trình xây dựng trên đất lâm nghiệp thuộc huyện Sóc Sơn quản lý, sau đó sẽ báo
cáo, đề nghị cách giải quyết lên Thành phố trước ngày 15/6/2013. Chính vì
thế hôm nay, gần đến ngày “phán quyết” đó, tôi mới mang chuyện này ra tường
thuật với bạn đọc.
Đây là bài toán hóc búa, không chỉ cho các cơ quan chức năng, bởi những hoạt động được cho là sai phạm đã diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật gần chục năm qua, chưa nói trong số đó, Việt phủ Thành Chương là một điểm du lịch văn hóa nổi tiếng đã từng đón tiếp biết bao nhiêu du khách trong nước và quốc tế đến thăm viếng.
Đây là bài toán hóc búa, không chỉ cho các cơ quan chức năng, bởi những hoạt động được cho là sai phạm đã diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật gần chục năm qua, chưa nói trong số đó, Việt phủ Thành Chương là một điểm du lịch văn hóa nổi tiếng đã từng đón tiếp biết bao nhiêu du khách trong nước và quốc tế đến thăm viếng.
Vài nét về Việt Phủ Thành Chương
Việt phủ Thành Chương được xây dựng năm 2001 trên một diện tích rộng 10 ngàn mét vuông với rất nhiều những công trình mang dáng dấp cổ kính, kiến trúc đặc trưng của các vùng miền như Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; những ngôi nhà cổ kính được “bê nguyên xi” từ những làng quê về Việt phủ, trong lúc đời sống nông thôn ngày càng phát triển, những ngôi nhà cao tầng, bê tông được mọc lên và dấu tích của những căn nhà gỗ lợp ngói âm dương… đã dần biến mất.
Ngoài ra còn hàng vạn cổ vật quý hiếm cũng như nhưng vật dụng quen thuộc đối với đời sống nông thôn được trưng bày ở Việt phủ như là một nơi giới thiệu tâm hồn Việt qua nhiều thế hệ. Công trình hoàn toàn do ông Thành Chương vẽ kiểu và bỏ tiền xây dựng, được hoàn thành vào năm 2003 gây nên sự chú ý đặc biệt cho công chúng, đặc biệt với những người yêu thích thể loại du lịch văn hóa, thích tìm hiểu những giá trị văn hóa cộng đồng cũng như phong tục, tập quán của các miền quê Việt Nam. Một công trình mà ngay cả những cơ quan gọi là Văn hóa cũng chưa làm được hoặc chẳng buồn nghĩ tới.
Việt phủ Thành Chương được xây dựng năm 2001 trên một diện tích rộng 10 ngàn mét vuông với rất nhiều những công trình mang dáng dấp cổ kính, kiến trúc đặc trưng của các vùng miền như Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; những ngôi nhà cổ kính được “bê nguyên xi” từ những làng quê về Việt phủ, trong lúc đời sống nông thôn ngày càng phát triển, những ngôi nhà cao tầng, bê tông được mọc lên và dấu tích của những căn nhà gỗ lợp ngói âm dương… đã dần biến mất.
Ngoài ra còn hàng vạn cổ vật quý hiếm cũng như nhưng vật dụng quen thuộc đối với đời sống nông thôn được trưng bày ở Việt phủ như là một nơi giới thiệu tâm hồn Việt qua nhiều thế hệ. Công trình hoàn toàn do ông Thành Chương vẽ kiểu và bỏ tiền xây dựng, được hoàn thành vào năm 2003 gây nên sự chú ý đặc biệt cho công chúng, đặc biệt với những người yêu thích thể loại du lịch văn hóa, thích tìm hiểu những giá trị văn hóa cộng đồng cũng như phong tục, tập quán của các miền quê Việt Nam. Một công trình mà ngay cả những cơ quan gọi là Văn hóa cũng chưa làm được hoặc chẳng buồn nghĩ tới.
Vì thế, khi thông tin Việt
phủ Thành Chương bị kết luận là công trình sai phạm thì đã có rất nhiều những ý
kiến trái chiều tranh luận về vấn đề có nên tiếp tục để Việt phủ tồn tại. Đã có
những luật sư và những nghệ sỹ lên tiếng về việc này. Đa phần các ý kiến đều
cho rằng việc xử vi phạm của Việt phủ Thành Chương không hề dễ. Bởi nếu vi
phạm, thì đã vi phạm từ 10 năm nay, vậy mà không có bất cứ một cơ quan quản lý
nào lên tiếng. Ngay cả việc xử phạt vi phạm hành chính thì cũng chỉ có hiệu lực
trong vòng 2 năm kể từ khi vi phạm.
Công trình Việt phủ Thành Chương đã tồn tại 10 năm kể từ khi nó hoàn thành cộng thêm 3 năm xây dựng với biết bao nhiêu công sức, tiền bạc và tâm huyết của họa sỹ Thành Chương đã đổ vào để xây dựng. Vì thế, để đưa ra một bài toán “xử” sao cho hợp lý hợp tình là chuyện không hề giản dị đối với các cơ quan có thẩm quyền.
Công trình Việt phủ Thành Chương đã tồn tại 10 năm kể từ khi nó hoàn thành cộng thêm 3 năm xây dựng với biết bao nhiêu công sức, tiền bạc và tâm huyết của họa sỹ Thành Chương đã đổ vào để xây dựng. Vì thế, để đưa ra một bài toán “xử” sao cho hợp lý hợp tình là chuyện không hề giản dị đối với các cơ quan có thẩm quyền.
Trong khi ông Thành Chương
nói sẵn sàng hiến lại Việt phủ cho nhà nước. Nhưng nói gì thì nói, dù có hiến
lại thì việc xây công trình trên đất rừng đặc dụng vẫn là vi phạm pháp luật.
Chẳng lẽ lại dở cái “chiêu bài” phạt tí tiền rồi cho để nguyên? Còn hàng trăm
nhà cửa, biệt thự khác thì sao? Hơi khó đấy!
Còn trang trại lớn của vợ
chồng ca sĩ Mỹ Linh cũng vậy, trong kết luận thanh tra đã khẳng định việc UBND
huyện Sóc Sơn giao 200 m2 đất rừng cho vợ chồng Mỹ Linh - Anh Quân xây nhà là
trái với quy định của Nghị định 01. Việc sử dụng phần đất còn lại trong đó phải
đúng mục đích. Chúng tôi khẳng định việc xây dựng nhà trên đất rừng của ca
sĩ Mỹ Linh là sai phép. Vậy có phải đập bỏ không?
Xin trả lại danh hiệu Di tích quốc gia
cho nhà nước
Nếu ở Sóc Sơn, Ba Vì, đó là
bệnh trên bảo dưới không nghe, thì ở Di sản văn hóa quốc gia như làng Đường
Lâm đang vang lên tiếng kêu thất vọng của người dân thức tỉnh cả xã hội, đó là
sự...bất động trước nỗi khổ của người dân bị ngược đãi.
Dư luận đang ầm ĩ
và choáng váng với chi tiết chưa từng có trong lịch sử Việt Nam: gần 80 người
dân làng cổ Đường Lâm (Di tích Quốc gia làng cổ đầu tiên của VN) đã bất bình ký
vào một lá đơn thống thiết, gửi lên UBND TP Hà Nội, Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch để xin… trả lại danh hiệu “Di tích quốc gia” cho nhà nước.
Lý do là bà con
quá khổ sở sau gần 10 năm được “tôn vinh” rồi được người ta tổ chức kinh doanh
du lịch trên quê mình. Tiền tỷ thu về túi ai đó. Còn khổ sở, đày ải, bức bí, bị
đối xử nhẫn tâm và hung hãn thì gần mười ngàn con dân phải gánh chịu!
Dư luận đang sôi
sục vì cách hành sự quái ác này, ở đây tôi chỉ trích lời nhà báo Lãng Quân
vốn là dân làng
Đường Lâm diễn tả trung thực về những gì mắt thấy tai nghe, về những gì đã và
đang xảy ra trong làng mình.
Cách hành xử quái ác của các
quan làng quan xã
Ông Lang Quân viết: Tôi về quê nghỉ lễ vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 -2013
vừa qua, thấy bà con dắt díu nhau đến nhà, gửi nhà báo một lá đơn. Có người
chắp tay vái tôi, rằng hãy làm một cái gì đó cho dân, chúng tôi không biết kêu
vào ai nữa cả. Chúng tôi đã đợi đến bạc tóc vì những lời hứa suông, chỉ hứa và
hứa.
Lá đơn lúc đó mới có 7 người ký (nay đã có hơn 80 người ký), nội dung: Xin
trả lại danh hiệu Di tích quốc gia cho Nhà nước. Vì người Đường Lâm đang khổ
quá, ô nhiễm, kẹt đường, ồn ào vì du khách; mà người ta kinh doanh du lịch trên
quê tôi, di sản của chúng tôi và cha ông chúng tôi, nhưng lại không cho người
quê tôi một xu nào.
Cái quan trọng hơn là họ “ra quy tắc” xây dựng rất ghê gớm: Cấm làm nhà
hai tầng, tum chống nóng nhô lên cũng chặt. (Tum là một phần mái nhà được làm
thêm như cái chuồng nuôi chim cu- NV). Họ cưỡng chế phá nhà dân rầm rầm cả đêm,
cả ngày, cột nhà đổ, khổ chủ Hà Thị Khanh rú lên “ối cha mẹ ơi”, rồi người thân
phải khênh bà đi nơi khác trong trạng thái ngất xỉu, kẻo nhìn cảnh đó bà sẽ tự
tử. Con trai bà thì (như bà kể) mua 20 lít xăng về để tự thiêu hay chống lại
cán bộ, khiến bà càng hoang mang. Vài người “hô” trả lại danh hiệu làng cổ thì
bị công an bắt, nhốt suốt mấy hôm.
Mỗi nhà có vài chục đến trăm mét vuông đất, có nhà cấp bốn, bếp, chuồng gà
lợn trâu bò, khu vệ sinh…; rồi con cái lấy vợ, cắt mỗi đứa một gian. Có nhà, ba
bốn cặp vợ chồng trong một căn nhà cấp bốn toen hoẻn, với ba bốn cái bếp, ba
bốn nhà vệ sinh và ba bốn cây rơm, chuồng trâu bò... Tháng 4 năm 2013, Phó Chủ
tịch UBND thị xã Sơn Tây - bà Phan Thị Hảo - đã ký thông báo yêu cầu tự tháo
dỡ, thậm chí, dự tính sẽ yêu cầu xã tiếp tục cưỡng chế phá một số công trình
của dân.
Chị Oanh - làm nghề bán cá ở chợ Mía, nhà ở thôn Mông Phụ - gặp tôi, khóc:
“Con trai lấy vợ, đẻ con, hai cặp vợ chồng ở trong căn nhà bé tẹo. Nó là nhà cổ
thì bảo vệ cho cam, đằng này nhà tôi mới xây 10 năm thôi, nhà gạch, lợp phi-brô
xi-măng chứ báu bở gì. Tôi làm cái tum chống nóng, thế mà họ bắt tháo dỡ, tôi
dỡ rồi; họ vẫn cắt điện, cắt nước của tôi đã 2,5 tháng rồi. Hôm qua (đầu tháng
5/2013), tôi lên nhà chủ tịch, phó chủ tịch xã xin cấp lại nước mà vẫn chưa
được!
Nhân
viên thanh tra xây dựng hết sức hung hãn
Ông Kiều Văn Triệu, ngoài 80 tuổi, là một bậc túc nho nổi tiếng của làng
cổ. Con trai ông vừa gọi một xe cát định sửa lại cái nhà vệ sinh, lập tức có 6
anh cán bộ trờ xe máy đến, mặt đằng đằng sát khí hỏi giấy tờ, đơn xin, vặn hỏi giấy
phép xây dựng đâu? Rồi họ dọa cắt điện, cắt nước, tóm cổ bất cứ anh thợ nào đến
làm việc. Ông Triệu cười chua chát, ối giời ơi, tôi làm cái lỗ để đi đái mà nhà
nước tốn mất 6 anh cán bộ đi lên đi xuống hỏi đủ thứ văn bản giấy tờ thế này ư?
Thế thì Nhà nước “lỗ” tiền trả lương cho nhà các bác quá nhỉ. Cái hố xí nhà tôi
có phải là cổ vật hay di sản cổ gì không mà các vị bảo tồn ghê thế?
Xã có 10 ngôi nhà cổ, phải bảo tồn nghiêm ngặt. Bảo vệ không gian của
làng, cũng đồng ý. Nhưng cái gì không đáng bảo vệ, cái hố xí bé tẹo của dân,
nay sửa sang để phục vụ nhu cầu sống tối thiểu, thì đừng hạch sách nữa, được
không? Lãnh đạo xã, những người có trách nhiệm ở thị xã đều công nhận bất bình
của dân là chính đáng, là có thật. Bà con bảo, “chúng tôi như đang sống trong
sự lùng sục, sự áp chế thẳng tay của một số nhân viên “thanh tra xây dựng” hết
sức hung hãn!”.
Điều vô
lý hơn nữa
Đấy là mới chỉ kể sơ sơ về cách hành dân của quan làng quan xã, còn những
điều vô lý hơn nữa.
Đến giờ cơ quan chức năng vẫn chưa hề hoàn thành cái quy hoạch làng cổ.
Chưa có cả quy chế chính thức trong xây dựng ở làng (quy chế đã tạm thời gần
chục năm rồi!). Người dân xin phép thì được xây nhà thế nào, vật liệu gì, cao
bao nhiêu mét, kiến trúc ra sao? Nghe các câu hỏi ấy, cán bộ quản lý chỉ biết
cười chua xót: “Chưa có quy chế, chưa có tiêu chuẩn”. Bà con không được hưởng
lợi, lối làm du lịch úi xùi, người dân đơn phương bị áp chế những quy định vô
lý…
Đó là những lời trần tình của chính người trong làng Đường Lâm.
Chưa biết các cơ quan chức năng Hà Nội sẽ giải quyết chuyện này như thế
nào cho dân đỡ khốn khổ vì cái danh hiệu Di tích quốc gia này.
Văn Quang – 07-6-2013
Hình:
01- Việt phủ Thành Chương
02- Phiá trong biệt phủ Thành
Chương, phá hay không phá?
06- Ngôi nhà của chị Oanh bị
cắt hết điện nước
07- Nhà lầu mới của cán bộ và
các nhà quản lý tàn phá nét cổ kính của làng cổ Đường Lâm.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0265
TRUYỆN - VIỆT CỘNG
TRẦN DŨNG MINH DÂN * ĐỪNG BAO GIỜ
ĐỪNG BAO GIỜ
Tôi ngồi ẩn mình dưới tàng cây rậm rạp sau sân chùa, tránh cái nắng oi ả của mùa hè. Hôm nay ngày thường, mọi người đi làm cả, cảnh chùa im lặng một cách trang nghiêm. Nhân tiện có công việc đi ngang qua chùa, tôi tạt vào viếng cốt và thắp cho ông bác một nén hương để tưởng nhớ đến bác mình. Tôi thường thích ngồi một mình yên lặng như thế, đầu óc như thể hồi mới sinh, mắt thấy cảnh, cảm nhận được hình ảnh nhưng chưa biết nói, trong đầu chưa có những biểu tượng tạo thành ý nghĩ hay tư tưởng! Những lúc như thế, tôi thấy tâm hồn có phần nào an lạc bình yên hơn.
Ngồi lơ đãng như vậy một lúc lâu, tôi chợt thấy bóng người đang lui cui dọn dẹp phía hông mé nhà kho. Để ý kỹ, tôi nhận ra đó là người đàn ông khoảng lứa tuổi ngoài 30 mà tôi thỉnh thoảng vẫn gặp làm công quả cho chùa. Mồ hôi người đàn ông đổ nhễ nhại dưới cái nóng bức của mùa hè, nhưng anh ta vẫn lẳng lặng làm không tỏ vẻ một chút nào khó chịu cả. Tôi ngồi nhìn anh ta làm việc, lòng thầm cảm phục.
Người đàn ông bất chợt nhìn thấy tôi. Anh ta cười, vẫy tay chào.
Tôi nói lớn:
- Nghỉ tay, uống miếng nước đã!
Người đàn ông khựng lại, ngẫm nghĩ, cúi xuống xách chai nước suối dưới đất rồi đi lại phía tôi ngồi.
Tôi đứng lên, bắt tay tự giới thiệu tên mình.
- Chào anh, tôi là Minh.
- Dạ, tôi tên Hiếu.
- Hôm nay anh không phải đi làm à?
Tôi ngắm Hiếu trong khi chờ đợi câu trả lời. Tuy với làn da hơi rám nắng, cùng với một mái tóc cắt ngắn, Hiếu có một khuôn mặt sáng sủa dù ẩn hiện nhiều nét suy tư. Đôi bàn tay gầy gầy thanh nhã chứng tỏ không phải làm việc lao động nhiều.
- Thưa anh không. Tôi nghỉ thứ Ba, không làm việc. Còn anh, sao hôm nay không đi làm à?
- Tôi có vài công việc riêng cần phải làm nên lấy ngày nghỉ hôm nay. Xong việc, đi ngang chùa nên ghé vào đây thăm cốt ông bác. Tôi thỉnh thoảng đi chùa vẫn thấy anh. Anh chắc thường làm công quả ở đây đã lâu?
- Dạ, cũng được vài năm, thưa anh. Sắp tới lễ Vu Lan rồi, tôi soạn lại nhà kho lấy những vật dụng cần thiết, để sẵn đó cho họ. Mỗi người một tay.
- Ừ nhỉ. Anh không nhắc thì tôi cũng quên khuấy đi mất, rằm tháng 7 sắp tới rồi! Trông anh còn trẻ, chắc còn bà cụ?
Hiếu chợt khựng lại, giọng nhỏ đi.
- Thưa anh không. Mẹ tôi mất cách đây được vài năm.
- Tôi xin lỗi.
- Dạ, không hề chi.
Tôi ngẫm nghĩ, miệng nói thầm "Hiếu, Hiếu ...". Tôi đã có nghe ai đó nói tới cái tên này, và đang cố nhớ là đã nghe ở đâu.
- A! Tôi có nghe mẹ tôi thỉnh thoảng nói ở chùa có một anh bác sĩ trẻ hay đến làm công quả, cho chùa tiền và chữa bệnh cho người đồng hương lấy tiền rất rẻ, gặp người nghèo thì chữa miễn phí, không biết có phải là anh không?
Hiếu cười ngượng ngập.
- Dạ, bà cụ anh nói quá lời. Tôi chỉ làm những gì khả năng cho phép.
Tôi tiếp lời:
- Mẹ tôi và mọi người ở đây quý mến anh lắm. Được một người trẻ công danh thành toại trong cộng đồng cũng là điều quý rồi, huống hồ thay vì hưởng thụ, vinh thân phì gia, anh còn nghĩ đến cộng đồng, giúp đỡ cộng đồng thì quá tốt. Tôi nói điều này bằng cả thực lòng, chẳng phải nói cho anh vui.
- Dạ, cám ơn anh. Tôi cũng chỉ xin đóng góp phần nào mà thôi. Một mình tôi thì cũng chẳng làm gì được nhiều nếu không có những sự tiếp tay và góp sức của những người khác. Người cho $100, người cho $5 đồng, $10 đồng ... người làm trong nhà bếp, người chăm lo vườn, người lo giấy tờ thủ tục hành chánh v.v... một người thì chắc chắn không thể nào làm xuể được từng ấy công việc.
Tôi đổi đề tài đối thoại, để cho Hiếu được thoải mái, hỏi về những khóa tu thiền sắp tới do chùa tổ chức, những lớp học tiếng Việt v.v...
Ngồi nói chuyện được một lát, Hiếu xin phép quay trở lại làm tiếp công việc dang dở, tôi bảo để tôi phụ một tay khuân dọn cho nhanh chóng, thêm phần có hai người vừa làm vừa nói chuyện đỡ nhàm chán hơn. Hiếu vui vẻ cám ơn tôi.
Công việc xong thì cũng khoảng 5 giờ chiều. Tôi từ giã Hiếu và hẹn gặp lại trong ngày Vu Lan.
o0o
Khi tôi chở mẹ tôi tới thì chùa cũng đã có khá đông người. Một cô bé nhỏ tuổi mà tôi thường thấy trong gia đình Phật Tử của chùa chạy lại, chẳng cả hỏi, cài trên ngực áo tôi một bông đỏ rồi nhoẻn một nụ cười thật dễ thương chúc tôi may mắn còn mẹ. Tôi mỉm cười sung sướng.
Mẹ tôi dặn dò tôi vài điều như sẽ về lúc mấy giờ, nếu muốn kiếm mẹ tôi thì có thể kiếm bà ở đâu... rồi vội vã đi về hướng nhà bếp để tiếp tay với những người bạn trong Ban Hộ Niệm của bà trong đó.
Tôi đảo mắt nhìn xung quanh, có những người mang đóa hoa đỏ cài trước ngực và có những người cài đóa hoa trắng, những người mà thân mẫu đã qua đời. Tôi chợt nhớ đến Hiếu, nhớ đến người bác sĩ trẻ hay làm công quả cho chùa. Tôi định bụng sẽ để ý kiếm Hiếu. Tôi đi vội về phía khán đài để giúp ban tổ chức văn nghệ khuân ghế ra cho khán giả ngồi và sắp đặt chương trình.
Không khí nhà chùa hôm nay đâu đâu cũng nhộn nhịp, mọi người cười nói vui vẻ. Tiếng thầy trụ trì đang sang sảng thuyết pháp vọng lại từ chính điện. Các em nhỏ trong ban vũ tíu tít gọi nhau để chuẩn bị cho chương trình văn nghệ. Những tà áo dài đủ mầu sắc thỉnh thoảng có dịp gì đó trong năm mới được mang ra mặc. Mọi người rạng rỡ trong ngày báo hiếu.
Khi trời trở chiều, tôi kiếm mẹ tôi, chở bà về lo nấu nướng để cúng bái ở nhà. Tôi vẫn chưa thấy Hiếu. Tôi chợt nhớ là người hẹn gặp nhau ở chùa là tôi và Hiếu chỉ cười, không nói.
o0o
Sau ngày Vu Lan tôi gặp Hiếu đôi lần ở chùa, những lúc như thế, chúng tôi thường thảo luận về các kinh điển nhà Phật. Hiếu có một trí nhớ rất dai, thuộc làu làu những câu kinh hoặc đoạn kinh. Tôi vốn thuộc loại "dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm", thuộc loại ưa ngủ chứ chẳng phải tướng học trò gì cả, chẳng nhớ gì nhiều. Nhưng có điều khi nghe Hiếu đọc các câu kinh, tôi hiểu thế nào nói ra như vậy khiến nhiều lúc Hiếu kinh ngạc và thường khen tôi là người có căn cơ, chắc những kiếp trước có tu tập gì rồi.
Chúng tôi lại tưởng tượng ra những kiếp trước ra sao để trêu chọc nhau và ngày càng trở nên thân nhau hơn. Thú thật tới lúc đó, tôi cũng chẳng biết gì nhiều về bản thân cũng như gia đình của Hiếu. Tính tôi vốn không tò mò, ai thích kể cho mình nghe thì kể, tôi không hỏi và cũng không lấy đó làm điều quan tâm. Cho đến một hôm...
- Chiều thứ Bẩy này ông có rảnh không?
Ngẫm nghĩ một chốc, tôi trả lời Hiếu:
- Rảnh. Có chuyện gì không?
- Tôi định mời ông đến nhà ăn giỗ bà cụ.
- Ừ, nhưng ông phải chỉ đường cho tôi hay cho tôi địa chỉ. Ông định mấy giờ?
- Khoảng 7 giờ chiều được không? Sáng tôi còn ở phòng mạch. Để tôi vẽ đường đến cho ông sau.
- Ừ, cứ định như vậy đi.
Chiều thứ Bẩy tôi đến nhà Hiếu, một căn nhà nhỏ tọa lạc trong một khu vực yên lặng, hơi xa thành phố. Khi tôi tới, Hiếu đã cúng bái xong rồi, đang ngồi chờ tôi. Tôi đến bàn thờ, thắp nén nhang tỏ lòng tôn kính người quá cố. Nhìn di ảnh, mẹ của Hiếu là một người đàn bà khắc khổ, trông có vẻ lam lũ dù tấm ảnh chụp lúc còn khá trẻ. Duy chỉ có cặp mắt, cặp mắt thật buồn, cặp mắt của một người chịu đựng và hy sinh.
Kế bên di ảnh là một bức ảnh của một người đàn ông mặc quân phục, da sạm nắng mà tôi đoán là cha của Hiếu. Điểm làm tôi ngạc nhiên, tôi là người khách duy nhất mà Hiếu mời! Không một người nào khác, ngoài tôi và Hiếu! Ngoài hai bức di ảnh trên bàn thờ, trong nhà không treo một tấm hình nào khác. Đồ đạc bầy biện rất đơn sơ nhưng gọn gàng và sạch sẽ. Nhìn qua, ai cũng có thể đoán được phần nào tâm lý của người chủ nhà.
Trong bữa ăn, Hiếu vui vẻ cười nói huyên thuyên nhiều hơn bình thường. Không biết có phải vì chút rượu vang hay đã lâu trong bữa ăn mới có người cho Hiếu nói chuyện, hoặc vì một lý do nào đó mà Hiếu cố che dấu để quên đi?
Dùng cơm xong, chúng tôi ra phòng khách ngồi uống cà phê, nói chuyện. Lúc này Hiếu lại trở nên ít nói, có vẻ trầm ngâm tư lự, thành thử tôi cứ phải khơi chuyện.
- Ông ở một mình, sao không lấy vợ cho có không khí gia đình? Tôi đi làm về còn có cha mẹ, anh em, ông định ở như vầy đến bao giờ? Vả lại, cỡ người như ông đâu phải là khó lấy vợ!
Hiếu im lặng một hồi lâu rồi trả lời:
- Tôi cũng đã từng lập gia đình rồi.
Tôi nhìn Hiếu không nói. Hiếu tiếp tục kể:
- Tôi lấy vợ cách đây ba năm, ăn ở với nhau được gần một năm thì chúng tôi xa nhau. Chẳng phải lỗi tại Thy, lỗi tại tôi thì đúng hơn. Dầu sao đi nữa thì chúng tôi cũng đã ly dị. Như có dịp để tâm sự, Hiếu miên man kể cho tôi nghe.
- Bố của tôi là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông thuộc đơn vị tác chiến nên nay đây mai đó, vì vậy ông không muốn mẹ tôi theo. Khi tôi ra đời, lớn lên trong tình thương của mẹ, ít khi thấy mặt cha. Gia đình bên nội cũng như bên ngoại, tôi đều không biết vì bố mẹ tôi thương nhau không có sự đồng ý của cả hai gia đình vốn ghét nhau từ lâu. Mẹ tôi bị gia đình mình từ và gia đình bố tôi không nhận, nhưng vì thương yêu nhau nên bố mẹ tôi bất chấp tất cả để được gần nhau.
Lấy nhau một thời gian ngắn thì bố tôi nhập ngũ, mẹ tôi bắt đầu cuộc sống xa chồng, một thân một mình và có mang tôi. Không nói thì ông cũng có thể tưởng tượng được lúc đó mẹ tôi khổ sở đến thế nào. Bên nội, bên ngoại ngoảnh mặt nhất định không chịu nhìn. Chỉ tội bà ngoại tôi, thương con nhưng sợ chồng, lâu lâu lén lút gặp mẹ tôi và dấm dúi cho ít tiền. Mẹ tôi phải buôn thúng bán bưng để tự nuôi thân và chờ ngày sinh con.
Ngày tôi ra đời, tôi là nguồn sống của bà. Tôi lớn lên trong sự hy sinh cơ cực của mẹ tôi, nhưng ngày đó tôi còn quá nhỏ để nhận thức được sự hy sinh của mẹ mình. Tôi không biết phải diễn tả thế nào để nói lên được sự vui sướng của mẹ tôi mỗi khi bố tôi về phép, không còn gì sung sướng hơn cho người đàn bà khi thấy chồng mình, con mình và mình được quây quần chung một nhà. Đôi khi mẹ tôi đi xe đò, mang tôi lên đơn vị thăm chồng. Bố tôi vừa mừng vì được gặp vợ con, vừa lo vì đường xá xa xôi, mất an ninh.
Sau khi Cộng Sản chiếm Miền Nam, bố tôi bị chúng bắt đi cải tạo hay đi tù thì đúng hơn! Họ chuyển bố tôi ra Bắc. Mẹ tôi lặn lội ra ngoài đó thăm chồng nhưng họ cho biết bố tôi đã bị bệnh chết! Một người đồng tù đã lén cho mẹ tôi biết là bố tôi đã bị hành hạ đến chết và cho mẹ tôi biết ngày bố tôi bị giết!
Trở vào Nam, đau đớn vì bố tôi bị giết, mẹ tôi lại phải chứng kiến cảnh tôi bị ngược đãi ở trường học vì có cha là lính ngụy. Mẹ tôi tìm cách vượt biên vì tương lai của tôi. Tôi vốn hiếu học lại có trí nhớ dai. Sau khi bán hết tất cả đồ đạc, tom góp được một khoản tiền, mẹ tôi đưa tôi xuống Rạch Giá để tìm đường đi.
Dừng lại, Hiếu nuốt nước bọt một cách khó khăn rồi kể tiếp:
- Trời cũng thương nên chuyến đầu đi lọt dù trải bao gian nan trên biển cả. Nếu không lọt thì cũng chẳng bao giờ còn tiền để đi những chuyến sau. Cuối cùng mẹ tôi và tôi đến Mã Lai. Không một nước nào nhận, nước sau cùng là Mỹ, họ nhận mẹ con tôi, một họ đạo Tin Lành bảo trợ cho vào Mỹ.
Đến Mỹ, không có nghề chuyên môn, tiếng Anh lại không biết, mẹ tôi vào làm phụ bếp trong một nhà hàng. Ai sai gì làm đó, một tuần bẩy ngày. Tối về mẹ tôi lại gò lưng may, ráp những tay áo, lấy tiền theo từng cái. Còn tôi chẳng phải lo lắng gì ngoài việc ăn học. Tôi học dễ dàng, từ trung học lên đại học rồi thi vào trường thuốc, ra trường và đi thực tập. Trong thời gian thực tập, tôi gặp Thy cũng thực tập cùng một nhà thương. Chúng tôi quen nhau và tình cảm nẩy sinh.
Cha mẹ của Thy cũng là bác sĩ từ Việt Nam, qua đây thi lại, thực tập lại rồi ra hành nghề. Nói chung gia đình Thy thuộc giai cấp trưởng giả. Họ biết cách ăn nói, xã giao rất lịch thiệp. Gia đình Thy rất quý mến tôi, mọi người ai cũng mong chúng tôi thành vợ thành chồng cả. Đời tôi thật sung sướng. Năm cuối thực tập, chúng tôi quyết định lấy nhau. Tôi đưa mẹ tôi đến nhà bố mẹ Thy dùng cơm tối để nói chuyện chung thân cho hai đứa tôi. Trong bữa cơm với gia đình Thy ...
Giọng Hiếu trở nên khó khăn, ngập ngừng.
- Tôi chợt nhận thấy sự quê mùa của mẹ tôi khi ngồi chung bàn với gia đình Thy. Từ cái tóc, cách ăn mặc, lối ăn uống... Khi bố mẹ Thy nói chuyện, hỏi mẹ tôi những chuyện thông thường, mặt mẹ tôi ngớ ra, trắng bệch, giọng nói trở nên run rẩy, sợ hãi... Tôi... Hiếu nói nhỏ nhỏ, giọng run run trong cuống họng.
- Tôi... lúc đó cảm thấy xấu hổ. Tôi xấu hổ vì sự quê mùa, thiếu kiến thức của mẹ mình khi so sánh với người khác. Tôi trở nên tức giận mẹ tôi và có nhiều cử chỉ hỗn láo với mẹ trong suốt bữa ăn! Mẹ tôi im lặng, lúc về nhà bà luôn miệng xin lỗi tôi, đã làm tôi mất thể diện.
Đám cưới chúng tôi diễn tiến như dự định. Tôi càng tức tối trong ngày cưới khi thấy sự quê kệch, luống cuống của mẹ mình. Khách toàn là khách sang trọng. Lúc đó, tôi giận mẹ tôi vô cùng, tại sao những việc đơn giản như thế mà cũng không biết. Tôi gay gắt với mẹ tôi đến nỗi có lúc mẹ tôi vừa run vừa chẩy nước mắt vì sợ không vừa ý tôi!
Mẹ tôi về ở với vợ chồng chúng tôi. Thy có nhiều lúc khiếm nhã với mẹ của tôi, những lúc đó tôi lại tức tối mẹ tôi, tại sao những chuyện như vậy mà cũng không biết để người khác coi thường. Mẹ tôi trở nên sợ hãi, bà cố tránh chúng tôi, cả ngày bà trốn trong phòng. Chỉ những lúc ăn cơm bà mới phải ra, ăn vội ăn vàng rồi lại vào phòng. Mà đồ ăn nào vừa ý bà! Mẹ tôi ăn không có cơm đâu được. Đồ ăn thường là đồ kho, đồ xào. Thy lớn từ bé ở đây, lại thích ăn như người Mỹ. Tôi thì sao cũng được nhưng lúc đó tôi lại muốn tập cho mẹ tôi thay đổi! Chúng tôi đã bắt mẹ tôi nghỉ làm trước khi lấy nhau. Không lẽ cả hai vợ chồng là bác sĩ mà mẹ thì làm phụ bếp!
Ở như vậy được vài tháng thì mẹ tôi bỏ đi. Bà đi vì sợ vì bà, vì sự quê kệch của bà mà vợ chồng tôi sẽ mất hạnh phúc. Tôi không hiểu lúc đó tôi là con người hay là con vật! Tôi không mảy may quan tâm. Tôi nghĩ mẹ tôi đã từng tự lập từ hồi trẻ đến giờ, không có tôi mẹ tôi cũng không sao, nhất là mẹ tôi nói mẹ tôi dọn về ở với một người bạn. Thy cũng vậy. Chẳng trách Thy được. Tôi là con mà đối xử với mẹ mình như vậy, trách sao được người con dâu! Tôi có hỗn láo với mẹ tôi thì Thy mới dám coi thường mẹ tôi chứ! Mấy tháng sau...
Giọng Hiếu trở nên run rẩy, cố kìm hãm sự xúc động. Mắt ngấn lệ ngước lên nhìn hình mẹ.
- Mấy tháng sau, một nhân viên cảnh sát đến gõ cửa báo cho tôi biết mẹ tôi đã qua đời. Như tiếng sét đánh ngang tai, tôi không tin! Tôi vội vã chạy đến nhà xác. Xác mẹ tôi nằm đó, những nét nhăn hằn trên trán, những sự khổ cực hy sinh của mẹ tôi mà tôi cho là dấu tích của sự quê mùa. Tôi đã lầm ...
Hiếu nức nở khóc.
- Làm sao mẹ tôi có thể sống thiếu tôi! Tôi là nguồn sống của bà mà! Tất cả sinh lực, ý chí phấn đấu trước kia là vì tương lai của tôi, là vì tôi! Không có tôi bên cạnh, không có đứa con trai thương yêu của bà bên cạnh, bà chẳng còn thiết gì! Tinh thần bà suy sụp, thể xác khô kiệt. Mẹ tôi lại sống một mình, chẳng phải với người quen như tôi tưởng. Trong khi đó vợ chồng tôi mải mê làm việc, lo làm giầu!
Tội này tôi làm sao rửa hết được! Tại sao tôi không nghĩ những lúc mẹ tôi khổ cực ở xó bếp để tôi được ăn miếng ngon, đến trường mặc những bộ quần áo mới! Tại sao tôi không nghĩ mẹ tôi còng lưng may những buổi tối để tôi có cái xe, thay vì bà ngồi đọc sách báo để tăng kiến thức như tôi mong muốn, cho tôi khỏi xấu hổ. Mẹ tôi chịu ngu dốt để cho tôi khôn, mẹ tôi quê mùa để tôi được thanh lịch mà tôi lại coi thường, khinh chê mẹ tôi! Sau khi chôn cất mẹ tôi. Tôi và Thy ly dị nhau chẳng bao lâu sau đó vì thấy Thy tôi lại nghĩ đến mẹ tôi.
Tôi dọn về tiểu bang này để khỏi phải thấy những cảnh quen cũ.
Ông thấy đó, ngày lễ Vu Lan tôi không dám lên chùa vì sợ thấy cảnh hiếu thảo của người con đối với mẹ của họ, sợ thấy cảnh những người còn các bậc từ mẫu. Tôi làm công quả hy vọng hương hồn mẹ tôi vui lòng, những công việc mà bà rất muốn làm nhưng đã không làm được vì dành hết thời giờ cho tôi. Tôi bố thí, cúng dường với tâm ý hồi hướng công đức cho mẹ tôi dù biết rằng nên hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh. Công ơn mẹ tôi sâu dầy, lúc sống tôi đã không trả được, ít ra cũng làm nguôi ngoai phần nào hương hồn người khi đã mất.
Hiếu nhìn ảnh mẹ mình, nước mắt dàn dụa, miệng lẩm bẩm:
- Mẹ ơi, tội này con làm sao rửa hết được.
Tôi ngồi chẩy nước mắt nhìn Hiếu. Một tâm hồn đau khổ, đang quằn quại trước mặt tôi. Hiếu tiễn tôi ra cửa, miệng nói khe khẽ:
- Đừng bao giờ để hối hận như tôi ông nhé. Phúc thay cho những kẻ còn mẹ!
Tôi không trả lời, nắm tay Hiếu bóp mạnh.
Trần Dzũng Minh Dân
CHUYỆN CƯỜI
GIA ĐÌNH LĂNG NHĂNG
- Ba! cưới con Nhung xóm dưới cho con nhé
- Xụyt, đâu được, nó là em mày đó
- Vậy con Vân đầu ngõ nhà mình
- Cũng không luôn, nó cũng là em một cha khác mẹ với mày luôn
- Vậy con Lan ở xóm ngoài
- Cũng không, nó cũng là em mày
.................................................. ....
- Mẹ, ba lăng nhăng lắm, xử ba đi mẹ, mấy con nhỏ lối xóm con muốn cưới mà ba không đồng ý vì đứa nào cũng đều là em cùng cha khác mẹ với con.
Mẹ: - giời ơi là giời, mày cưới đại đi, mày cũng đâu phải là con của ổng đâu mà sợ
- Xụyt, đâu được, nó là em mày đó
- Vậy con Vân đầu ngõ nhà mình
- Cũng không luôn, nó cũng là em một cha khác mẹ với mày luôn
- Vậy con Lan ở xóm ngoài
- Cũng không, nó cũng là em mày
.................................................. ....
- Mẹ, ba lăng nhăng lắm, xử ba đi mẹ, mấy con nhỏ lối xóm con muốn cưới mà ba không đồng ý vì đứa nào cũng đều là em cùng cha khác mẹ với con.
Mẹ: - giời ơi là giời, mày cưới đại đi, mày cũng đâu phải là con của ổng đâu mà sợ
Uống sữa quá Đát
Một ngày
nọ, tất cả bà con, bạn bè và người thân đựơc mời dựmột đám cưới của một
chàng thanh niên rất trẽ và đẹp trai, cô dâu gần 80 tuổi nhưng rất giàu
có ( tỉ phú )Và có bão
hiểm nhân thọ đến mấy triệu đô la
Ai cũng
nói chàng rể cưới bà tỉ phú vì tiền, mọi người đều lo cho bà già chẵng
bao lâu sẽ chết để lại gia tài kết xù cho kẽ đào mõ, chứ có yêu đương gì
đâu !!!
Sau tiệc
cưới, chú rể trẻ và cô dâu già tỉ phú đi hưỡng tuần trăng mật. Đêm đầu
tiên, cô dâu và chú rể động phòng ai cũng lo sợ cho bà già, e rằng sẽ bị
chàng rể đang sung làm
cho bà già nếu không chết cũng phải lết!!!
Nhưng sáng hôm sau chú rể trẻ lăn đùng ra chết, tất cã mọi người quá đổi ngạc nhiên!!
Sau khi bác sĩ giám định lý do và khám tử thi , khiến cho chú rể chết:
Kết quả là:
- Chú rể trẻ chết vì "Ngộ Độc : Uống sữa quá Đát"
Hai anh chàng cầm kết quả xét nghiệm từ bệnh viện ra vừa đi vừa khóc.
Một anh hỏi:
- Cậu thế nào?
- Bác sĩ kết luận với tớ là “Bó Tay”.
- Ăn thua gì, tớ còn tệ hơn, bác sĩ ghi trong sổ khám bệnh của tớ là: “Ruột Lòi Tới Háng”.
Nói rồi cả hai ôm nhau khóc hu hu. Cô y tá đi ngang thấy vậy hỏi lý do bèn mượn kết quả xét nghiệm của 2 người, đọc rồi bảo:
- Các cậu hiểu nhầm rồi, bác sĩ viết tắt “BT là Bình thường”, còn “RLTH là Rối Loạn Tiêu Hóa”.
Bỏ Tật Tò Mò
Có một người đàn ông đi ngang qua bên hông tường của một bệnh viện tâm thần nọ, bỗng nhiên anh ta nghe thấy ai đếm 99...99...99 và lập lại nhiều lần như vậy. Tò mò anh ta bèn trèo lên xem thì......."BỐP"... một cú đập như trời giáng vào đầu làm anh ta té lăn quay. Vừa lồm cồm bò dậy, anh ta đã nghe sau tường có tiếng đếm 100....100....100.
Có một người đàn ông đi ngang qua bên hông tường của một bệnh viện tâm thần nọ, bỗng nhiên anh ta nghe thấy ai đếm 99...99...99 và lập lại nhiều lần như vậy. Tò mò anh ta bèn trèo lên xem thì......."BỐP"... một cú đập như trời giáng vào đầu làm anh ta té lăn quay. Vừa lồm cồm bò dậy, anh ta đã nghe sau tường có tiếng đếm 100....100....100.
Chim nói được nhiều thứ tiếng
Ông khách tới hàng chim.
Bà bán chim quảng cáo chim bà nói được nhiều thứ tiếng.
Ông khách liền hỏi một con chim rất đẹp: "Comment allez - vous ?"
Chim trả lời: "Ca va bien, merci."
Ông khách hỏi tiếp: "How are you?"
Chim đáp: "I'm fine, thank you."
Ông khách hỏi tiếng Mễ: "Como estas?"
Chim trả lời: "Muy bien."
Ông khách hỏi bằng tiếng Việt: "Mầy khoẻ không?"
Chim bực mình đáp: "Đ.M. hỏi nhiều quá!"
Thử Ðiện
Tại một trạm điện cao thế, anh công nhân đang sữa chữa trên nóc trạm kêu anh công nhân đứng dưới đất:
- Ê, cậu có thấy 4 sợi dây đang thòng xuống không? Thấy rồi hả, cầm lấy 2 trong 4 sợi coi! Có cảm giác gì không?
- Không cảm giác gì hết!
- Tốt! Đừng đụng vào 2 sợi dây kia, điện cao thế sờ vào là cháy thành than đó!
Vẫn Khỏe Như Xưa
Hai cụ ông ngồi trò chuyện trong công viên. Một cụ than thở vì sức khỏe dạo này giảm sút trầm trọng.
Ông Thứ I: "Mọi khi đi bộ hai chục cây số mà chưa thấy mệt, nhưng nay chỉ đi có mười chín cây số là thở không ra hơi rồi !"
Ông thứ II tiếp lời: "Còn tôi sức khỏe vẫn như xưa, không có gì thay đổi. Hồi trẻ, tôi không thể nào vác nổi một bao gạo một tạ, bây giờ vẫn thế!"
Hai Anh Tù
Một già 90 tuổi, một trẻ khoảng hai mươi mấy, vừa ngồi gỡ ghẻ, vừa hàn huyên tâm sự.
Anh tù già hỏi: "Mầy làm gì ở tù ?"
Anh tù trẻ: "Tui bỏ vợ....."
Anh tù già ngắt lời: "Tao sống từng tuổi này, hơn 90 tuổi, chưa nghe luật pháp nào lạ kỳ vậy, bỏ vợ mà cũng đi tù à ?"
Anh tù trẻ: "Tui chưa nói dứt mà ông nhảy vô miệng tui. Nghe kỹ nè: Tui bỏ vợ tui từ lầu ba xuống, ông nội à ! Còn ông sao đi tù vậy ?"
Anh tù già: "Tao bị con nhỏ trong xóm, đáng tuổi cháu nội, thưa tội hiếp dâm nó."
Anh tù trẻ: "Chời ! Năm nay ông 90 tuổi rồi thì còn xí quách đâu nữa mà hiếp dâm !"
Anh tù già: "Thì bị người ta chê tao già hết xí quách, Cho nên lúc con nhỏ hàng xóm vu khống, tao mừng quá nhận tội luôn. Cho con đào tao nó biết
Bác Tám Đi Xe Bus
Một hôm bác Tám đi Saigon thăm cháu. Sau khi tới xa cảng, bác lên xe bus ngồi thảnh thơi ngắm cảnh.
Xe chạy được một đoạn, người bán vé hô to:
- Nguyễn đình Chiểu... xuống ...
Xe bus từ từ ngừng lại và có một người khách đi xuống.
Xe tiếp tục chạy, vài phút sau bác Tám lại nghe :
- Phan đăng Lưu ...xuống.
Xe lại ngừng và có người bước xuống cứ thế bác Tám nghe liên tục :
- Hai bà Trưng ... Xuống ...
- Ngô gia Tự ... xuống ...
- Lê thánh Tôn ... xuống ...
Cứ thế xe tiếp tục cuộc hành trình.
Tới tối khi xe về bãi đậu, người bán vé ngạc nhiên khi thấy bác vẫn còn ngồi trên xe, hỏi:
- Sao bác còn ngồi đây ?!!!
- Thằng mắc dịch từ sớm tới giờ mầy có kêu tên tao đâu mà tao biết đường mà xuống !!!
Cà phê sáng ở La mã
Bốn ông và một bà già cùng thưởng thức cà phê sáng ở Công trường Thánh Peter (La Mã).
Ông thứ nhất nói: "Con tôi làm Linh Mục, cho nên khi hắn vào trong phòng, mọi người chào
“Thưa Cha”.
Ông thứ hai nhỏ nhẹ, "Con tôi làm Giám mục. Khi hắn vào phòng mọi người chào
“Tạ Ơn Cha”.
Ông thứ ba lịch sự nói, "Con tôi làm Hồng Y". Khi nó đi đến trước mặt, mọi người cúi đầu chào
“Thưa Đức Giáo chủ”.
Ông thứ tư giọng hãnh diện, "Con tôi làm Giáo hoàng. Khi nhìn thấy nó mọi người đều gọi:
“Đức Thánh Cha”.
Thấy bà già vẫn nhấp nháp cà phê trong im lặng, cả bốn ông hỏi
"Bà đã nghe về mấy đứa con của chúng tôi chưa...?"
Lúc bấy giờ bà ta mới bình thản lên tiếng,
"Tôi có đứa con gái,
Người mảnh khảnh, chân dài
Vòng ngực 150"
Vòng eo 60"
Vòng hông 90"
Nhưng bất kể mặc áo đỏ, áo trắng hay không mặc gì.
Khi nó bước vào phòng, mọi người đều la lên,
" CHÚA ƠI !!!!!!! "
Ông thứ nhất nói: "Con tôi làm Linh Mục, cho nên khi hắn vào trong phòng, mọi người chào
“Thưa Cha”.
Ông thứ hai nhỏ nhẹ, "Con tôi làm Giám mục. Khi hắn vào phòng mọi người chào
“Tạ Ơn Cha”.
Ông thứ ba lịch sự nói, "Con tôi làm Hồng Y". Khi nó đi đến trước mặt, mọi người cúi đầu chào
“Thưa Đức Giáo chủ”.
Ông thứ tư giọng hãnh diện, "Con tôi làm Giáo hoàng. Khi nhìn thấy nó mọi người đều gọi:
“Đức Thánh Cha”.
Thấy bà già vẫn nhấp nháp cà phê trong im lặng, cả bốn ông hỏi
"Bà đã nghe về mấy đứa con của chúng tôi chưa...?"
Lúc bấy giờ bà ta mới bình thản lên tiếng,
"Tôi có đứa con gái,
Người mảnh khảnh, chân dài
Vòng ngực 150"
Vòng eo 60"
Vòng hông 90"
Nhưng bất kể mặc áo đỏ, áo trắng hay không mặc gì.
Khi nó bước vào phòng, mọi người đều la lên,
" CHÚA ƠI !!!!!!! "
Bạn gái tâm sự
Chị Châu hỏi chị Mỹ: "Chồng chị có thương chị hông?"
Chị Mỹ: "Hông, mỗi lần chị vào xe thì ảnh đi vòng qua mở và đóng cửa xe."
Chị Châu: "Như vậy là ảnh thương chị chứ!"
Chị Mỹ: "Hổng phải, ảnh sợ chị mở cửa ra đụng xe khác làm trầy xe ảnh."
Chị Mỹ: "Còn em?"
Chị Châu: "Chồng em thương em lắm! "
Chị Mỹ: "Sao em biết?"
Chị Châu: "Ảnh nói ảnh thích ngủ với em thôi, không thích ngủ với ai hết."
Chị Mỹ: " Tại sao vậy?"
Chị Châu: "Ảnh nói ngủ với em, ảnh ngủ một giấc tới sáng, còn ngủ với mấy bà khác thì ảnh cứ thức dậy nhiều lần, mệt muốn chết!"
Méc
Cha hỏi con trai: "Con thấy mẹ nói chuyện gì với ông phát thư ?"
Con trai: "Con thấy mẹ chửi ông phát thư đó ba ?"
Cha: "Chửi sao con ?"
Con trai: "Mẹ nhéo má ổng rồi mẹ chửi đồ quỷ, nhìn cái mặt thấy ghét !"
Con trai: "Con thấy mẹ chửi ông phát thư đó ba ?"
Cha: "Chửi sao con ?"
Con trai: "Mẹ nhéo má ổng rồi mẹ chửi đồ quỷ, nhìn cái mặt thấy ghét !"
TÀI LIỆU QUỐC HỘI VIỆT NAM BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM NGÀY 10-6-2013
Lá phiếu tín nhiệm có ý nghĩa gì?
-
Vào ngày 25/05, tức một ngày trước khi bị bắt, ông Trương Duy Nhất đã đưa lên trang blog Một góc nhìn khác và facebook của mình bài viết 'Bỏ phiếu cùng quốc hội'. Một số công dân mạng mô tả điều họ gọi là vì bài này mà Trương Duy Nhất đã bị "túm".
Bài có đoạn viết: ..."Trong khi chờ đợi cuộc bỏ phiếu cũng như kết quả từ quốc hội, để so sánh sự tín nhiệm trong quốc hội với sự tín nhiệm ngoài dân chúng, ít nhất là trong bạn đọc của website Một góc nhìn khác, tôi mở “thùng phiếu điện tử” này để bạn đọc tiến hành hưởng ứng cùng quốc hội, bỏ phiếu cùng quốc hội.
"Cuộc bỏ phiếu dành cho bạn đọc trên website Một góc nhìn khác chỉ tiến hành với 12 chức danh gồm: Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch quốc hội, các Phó Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng và các Phó thủ tướng.
"Quốc hội chỉ bỏ phiếu theo 3 khung: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp. Không có mức “không tín nhiệm”. Vì thế, để công bằng, cuộc bỏ phiếu trên “thùng phiếu điện tử” của Một góc nhìn khác sẽ gồm 4 mức: tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp và không tín nhiệm"...
Và ông Trương Duy Nhất đã đưa kết quả bỏ phiếu mà bạn đọc tham gia. Kết quả ông đưa lên cho thấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có mức "không tín nhiệm" cao nhất (76%) và người có mức "không tín nhiệm" thấp nhất là bà Nguyễn Thị Kim Ngân (21%).cách đây 5 giờ 12 phút từ BBC tiếng Việt
-
Nhà báo Huy Đức ( Osin HuyDuc): Chúng ta có quyền đòi hỏi cao hơn, nhưng theo tôi, thiết kế ba cấp độ tín nhiệm là một lựa chọn thông minh trong môi trường chính trị Việt Nam. Nên nhớ là phải mất 12 năm, kể từ khi quyền này được đưa vào Luật Tổ chức Quốc hội, 11-2001, Quốc hội mới có cơ hội để tập dượt và tỷ lệ phiếu cũng cho thấy các đại biểu đã không hoàn toàn là nghị gật. Tôi nghĩ, chúng ta nên "đọc" ý chí của Quốc hội một cách "chính trị" hơn, tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" cho thấy ai được tín nhiệm và ai đã bị Quốc hội bất tín nhiệm. Vấn đề là Bộ chính trị sẽ để huề cả làng hay thay thế vài ba bộ trưởng có số phiếu "tín nhiệm cao" dưới 50% để cho người dân Việt Nam vui thêm mấy bữa.cách đây 3 giờ 41 phút từ Osin Huy Duc qua Facebook
-
Tuan Pham, Facebook: Thực ra việc lấy phiếu tín nhiệm không phải là một bước lùi. Lạc quan mà nói, đây là một tín hiệu tích cực cho tương lai của dân quyền, dân chủ ở VN. Đó cũng là một động thái được thúc đẩy bởi yêu cầu từ cuộc sống, những bức xúc của dư luận XH, của cộng đồng mạng...
Chắc chắn không lâu nữa thế hệ lãnh đạo già cỗi của VN cũng phải nghỉ hưu. Thay thế vào sẽ là những nhân tố trẻ, càng ngày càng trẻ. Rồi những người chưa từng tham gia chiến tranh, được du học nước ngoài sẽ lãnh đạo, tư duy cởi mở hơn, thực tế hơn... Lúc đó việc QH bỏ phiếu tín nhiệm sẽ không còn là trò đùa nữa.
Hiện tại cũng đã thấy những tín hiệu tích cực về một bước đệm chuyển giao quyền lực ở VN, một lực lượng với những cái tên khả quan hơn như Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Bá Thanh, Vương Đình Huệ...
Dưới quy luật vận động của XH, cái mà đảng gọi là "tự diễn biến" sẽ xảy ra. Tất cả những gì trở ngại, kể cả ĐCS cũng sẽ bị những trí thức trẻ theo chủ nghĩa dân tộc gạt ra bên lề để tiến lên.
Có lẽ con đường của chúng ta không phải là quay lại quá khứ với niềm nuối tiếc chế độ VNCH. Con đường của chúng ta là chính tuổi trẻ của VN.cách đây 3 giờ 41 phút từ Tuan Pham qua Facebook
-
Khanh Nguyen, Facebook: Bỏ phiếu tín nhiệm thế này thì giống anh chàng hỏi người yêu "Em có yêu anh không? và em chỉ có 3 lựa chọn trả lời; A: Yêu rất nhiều, B: Yêu vừa vừa và C: yêu ít ít, còn nói “không yêu” là chết với anh nhá”. Cái “tình yêu” kiểu này thì sao mà “tín nhiệm” cho nổi.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/rolling_news/2013/06/130611_phan_ung_lay_phieu_tin_nhiem.shtml
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “thoát hiểm” sau cuộc bỏ phiếu tín nhiệm
8 giờ 35 phút sáng ngày thứ Ba 11/6, kết quả lấy phiếu tín nhiệm
các chức danh chủ chốt do Quốc hội bầu và phê chuẩn đã được công bố
trước Quốc hội.
Theo thể thức bình chọn, kết quả bỏ phiếu được chia thành 3 loại: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp.
Người dẫn đầu về số phiếu “tín nhiệm cao” là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch Quốc Hội, được 372 trên tổng số 492 đại biểu tín nhiệm.
Trong khi đó, người đứng đầu về số phiếu “tín nhiệm thấp” là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình với 209 phiếu bầu, chỉ đạt chưa tới 18% “tín nhiệm cao.”
Ở 3 vị trí lãnh đạo cao cấp, số phiếu “tín nhiệm cao” dành cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là 330, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng 328 phiếu và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 210 phiếu.
Xét về số phiếu “tín nhiệm thấp”, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có tỷ lệ 32%, thua xa mức tín nhiệm của hai ông Trương Tấn Sang (gần 6%) và Nguyễn Sinh Hùng (hơn 5%).
Mặc dù, với lần bỏ phiếu này, Thủ tướng Việt Nam đã vượt qua ngưỡng “nguy hiểm”, song nhiều nhà phân tích cho thấy quan điểm thờ ơ từ các đại biểu Quốc hội với ông Dũng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đình trệ và nợ xấu chất chồng.
Bản tin của Reuters trích lời Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà kinh tế cho biết kết quả bỏ phiếu phản ánh sự bất mãn của người dân trước cách thức quản lý nền kinh tế và hệ thống ngân hàng yếu kém. Đồng thời, với 1/3 số phiếu “tín nhiệm thấp” mà Thủ tướng Dũng có được, chứng tỏ hình ảnh của một nhà lãnh đạo đang bị hoen ố vì hàng loạt những vụ tham nhũng cũng như tình hình kinh tế còn quá khó khăn.
Mặc dù kết quả lấy phiếu được đánh giá là khách quan nhưng nhiều đại biểu quốc hội còn băn khoăn với cách thức tiến hành, đặc biệt là việc đưa ra 3 mức độ tín nhiệm và lấy phiếu đồng loạt. Đồng thời, nhiều đại biểu cũng cho rằng thông tin về hoạt động của các người được lấy phiếu, đặc biệt là khối quản lý điều hành vẫn chưa rõ ràng.
Hơn nữa, những lĩnh vực như Ngoại giao, Quốc phòng thông tin cũng thường bị hạn chế, thế nên, kết quả bỏ phiếu chỉ phản ánh sự tin cậy của các đại biểu hơn là dựa trên những thông tin thực tế được cung cấp.
Một số người khác lại nhận xét rằng chỉ nên áp dụng hình thức “tín nhiệm” và “không tín nhiệm” như các quốc gia khác đang áp dụng mà thôi.
Theo thể thức bình chọn, kết quả bỏ phiếu được chia thành 3 loại: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp.
Người dẫn đầu về số phiếu “tín nhiệm cao” là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch Quốc Hội, được 372 trên tổng số 492 đại biểu tín nhiệm.
Trong khi đó, người đứng đầu về số phiếu “tín nhiệm thấp” là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình với 209 phiếu bầu, chỉ đạt chưa tới 18% “tín nhiệm cao.”
Ở 3 vị trí lãnh đạo cao cấp, số phiếu “tín nhiệm cao” dành cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là 330, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng 328 phiếu và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 210 phiếu.
Xét về số phiếu “tín nhiệm thấp”, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có tỷ lệ 32%, thua xa mức tín nhiệm của hai ông Trương Tấn Sang (gần 6%) và Nguyễn Sinh Hùng (hơn 5%).
Lần đầu tiên
Đây là cuộc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Quốc hội bầu và phê chuẩn lần đầu tiên diễn ra tại Việt Nam, bắt nguồn từ lời yêu cầu của Chủ tịch nước năm ngoái đòi hỏi các giới chức Việt Nam cần nâng cao năng lực chịu trách nhiệm trong bối cảnh chế độ toàn trị của Việt Nam tìm giải pháp hóa giải sự phẫn nộ của công chúng trước nạn tham nhũng hoành hành và khả năng điều hành yếu kém.Kết quả bỏ phiếu phản ánh sự bất mãn của người dân trước cách thức quản lý nền kinh tế và hệ thống ngân hàng yếu kém. - TS Nguyễn Quang ATheo luật Quốc hội, bất kỳ một chức danh chủ chốt nào có số phiếu bầu “tín nhiệm thấp” trên 2/3 sẽ buộc phải từ chức hoặc nếu không có được sự ủng hộ của một nửa số đại biểu Quốc hội trong hai năm liên tiếp cũng phải từ chức.
Mặc dù, với lần bỏ phiếu này, Thủ tướng Việt Nam đã vượt qua ngưỡng “nguy hiểm”, song nhiều nhà phân tích cho thấy quan điểm thờ ơ từ các đại biểu Quốc hội với ông Dũng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đình trệ và nợ xấu chất chồng.
Bản tin của Reuters trích lời Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà kinh tế cho biết kết quả bỏ phiếu phản ánh sự bất mãn của người dân trước cách thức quản lý nền kinh tế và hệ thống ngân hàng yếu kém. Đồng thời, với 1/3 số phiếu “tín nhiệm thấp” mà Thủ tướng Dũng có được, chứng tỏ hình ảnh của một nhà lãnh đạo đang bị hoen ố vì hàng loạt những vụ tham nhũng cũng như tình hình kinh tế còn quá khó khăn.
Chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo?
Kết quả khá tương phản khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có tới 330 phiếu “tín nhiệm cao” và chỉ có 28 phiếu “tín nhiệm thấp”, điều này một lần nữa cho thấy mối hoài nghi của công chúng về sự chia rẽ phe cánh giữa Thủ tướng và Chủ tịch nước.Mặc dù kết quả lấy phiếu được đánh giá là khách quan nhưng nhiều đại biểu quốc hội còn băn khoăn với cách thức tiến hành, đặc biệt là việc đưa ra 3 mức độ tín nhiệm và lấy phiếu đồng loạt. Đồng thời, nhiều đại biểu cũng cho rằng thông tin về hoạt động của các người được lấy phiếu, đặc biệt là khối quản lý điều hành vẫn chưa rõ ràng.
Hơn nữa, những lĩnh vực như Ngoại giao, Quốc phòng thông tin cũng thường bị hạn chế, thế nên, kết quả bỏ phiếu chỉ phản ánh sự tin cậy của các đại biểu hơn là dựa trên những thông tin thực tế được cung cấp.
Một số người khác lại nhận xét rằng chỉ nên áp dụng hình thức “tín nhiệm” và “không tín nhiệm” như các quốc gia khác đang áp dụng mà thôi.
Tin, bài liên quan
- Lấy phiếu tín nhiệm: tiến bộ hay đối phó?
- Kết quả cuộc lấy phiếu tín nhiệm các lãnh đạo VN
- Giới tranh đấu trong nước nghĩ gì về kết quả bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo?
- Giới Bloggers nhận định về bài phát biểu của TT Nguyễn Tấn Dũng
- Giới Bloggers nhận định về bài phát biểu của TT Nguyễn Tấn Dũng
- Về bài phát biểu của TT Nguyễn Tấn Dũng
- Thủ tướng Việt Nam thăm Cộng hòa Belarus
- Số phận ông Vươn, con đường ông Dũng
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là diễn giả chính ở Đối thoại Shangri-La
Lấy phiếu tín nhiệm: tiến bộ hay đối phó?
Chế độ Việt Nam hiện đang trong bối cảnh lòng dân ngao ngán vì nạn tham nhũng và sự sa sút của nền kinh tế. Việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc Hội đối với 47 chức danh chủ chốt là dấu hiệu tiến bộ dân chủ hay là sự đối phó xảo thuật?
Tín nhiệm cao, tín nhiệm thấp…
Lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động của mình, Quốc hội nước Việt Nam Cộng sản sử dụng quyền giám sát tối cao đối với những chức danh chủ chốt do Quốc hội bầu và phê chuẩn.Tuy vậy thủ tục lấy phiếu tín nhiệm được thực hiện không mang những ý nghĩa của vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm ở các nước dân chủ theo thể chế tam quyền phân lập.
Nếu như ở các nước, một chính phủ qua chức danh lãnh đạo thí dụ là Thủ tướng, khi điều hành kém hay phạm lỗi có thể phải đối diện thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm của Quốc hội, lá phiếu sẽ chỉ là tín nhiệm và bất tín nhiệm và kết quả rất rõ ràng.
Trong khi đó việc lấy phiếu tín nhiệm ở Việt Nam lại là đánh giá tín nhiệm qua 3 mức là tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp. Có thể hiểu ba mức tín nhiệm này nói chung vẫn là tín nhiệm.
Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TP.HCM nhận định:
Tôi nghĩ đây là cách đối phó với dư luận phê phán vấn đề dân chủ, vấn đề này nọ mà thôi.-- Luật gia Lê Hiếu Đằng“Bản thân tôi không tin nó có hiệu quả gì, bởi vì trên hết là Đảng lãnh đạo thành ra Đảng sẽ quyết định mọi việc dù là tín nhiệm hay không tín nhiệm.
Nhưng tôi nghĩ là đáng lẽ chỉ có 2 mức thôi, tín nhiệm hay không tín nhiệm, chứ còn ba mức tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp nghĩa là sao, nếu người ta không tín nhiệm thì bỏ vào đâu.
Thành ra tôi nghĩ đây là cách đối phó với dư luận phê phán vấn đề dân chủ, vấn đề này nọ mà thôi.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi về cuộc bỏ phiếu lấy tín nhiệm vừa được Quốc hội Việt Nam thực hiện công bố kết quả và với thủ tục rất khác lạ với thế giới. Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nhận định:
“Thực ra cũng phải đánh giá đây là lần đầu tiên mà Quốc hội ở Việt Nam có tổ chức lấy phiếu lấy ý kiến như vậy, so với bao nhiêu năm trước đây chưa làm được thì cũng có thể coi đây là một chút bước tiến về dân chủ, theo cách qua đó Quốc hội là đại biểu của dân, đại diện cho cử tri có thể lên tiếng đánh giá những người lãnh đạo giữ những chức vụ do Quốc hội bầu ra.
Tuy nhiên cách làm này cũng chưa được như mong muốn của nhiều người, tôi cho là đây là bước đầu tiên thì tạm chấp nhận như vậy.
Nhưng mà mong rằng sau này Quốc hội có thể áp dụng các biện pháp khác phù hợp hơn, có thể như cách ở các nước khác đã làm và nó sẽ có được những kết quả thể hiện được đầy đủ hơn những đánh giá của mọi người và yêu cầu của cử tri đối với các chức vụ khác nhau.”
Đây là lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam tổ chức lấy phiếu lấy ý kiến như vậy, so với bao nhiêu năm trước đây chưa làm được thì cũng có thể coi đây là một chút bước tiến về dân chủ.-- Bà Phạm Chi Lan
Chẳng thà không có
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, Luật gia Lê Hiếu Đằng nói là từ kết quả Quốc hội công bố, tất cả thành viên Chính phủ kể cả những người có thể nói là quản lý tồi tệ nhất thì vẫn đạt được mức tín nhiệm, hai mức đánh giá tín nhiệm cao và tín nhiệm thì cũng đều vượt qua được.Trong khi đó thì thực tế tình hình kinh tế xã hội ngày càng xuống, kinh tế rất nguy ngập, đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp.
Rồi đối với việc Trung Quốc bành trướng xâm lược thì thái độ rất ỡm ờ, phải đặt câu hỏi về vấn đề này. Luật gia Lê Hiếu Đằng tiếp lời:
“Tôi nghĩ, chẳng thà không bày ra việc bỏ phiếu tín nhiệm này, còn bày ra thì phải đúng với ý nghĩa bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Bởi vì thật ra theo Luật Bầu cử và Tổ chức Quốc hội cũng như Luật bầu cử và Tổ chức Hội đồng Nhân dân thì chỉ có hai mức tín nhiệm và bất tín nhiệm thôi, nếu không tín nhiệm thì người ta bãi miễn, còn tín nhiệm thì anh còn ở lại.
Do đó tôi nghĩ là cái cách làm này không đi đến đâu cả.”
Giới quan sát chính trị có chung nhận định là mọi sự cải cách ở Việt Nam đều rất chậm từ kinh tế cho đến chính trị. Chế độ toàn trị của Việt Nam khiến cho một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm thí dụ với chức danh Thủ tướng là rất khó xảy ra.
Do vậy Nghị quyết 35 của Quốc hội về lấy phiếu tín nhiệm các nhà lãnh đạo do Quốc hội bầu như Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và các chức danh chủ chốt khác gộp chung 47 vị được cho là một sáng kiến độc đáo, giữa bối cảnh nhân dân nghi ngờ chế độ, còn hàng ngũ lãnh đạo chia rẽ.
Đặc biệt nữa, đây không phải một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm theo ý nghĩ thông thường trên thế giới. Luật gia Lê hiếu Đằng nhận định:
“Bằng phương pháp này, anh muốn chứng tỏ cho dân anh cũng dân chủ, bằng cách bỏ phiếu để đo mức tín nhiệm này nọ. Nhưng cuối cùng là đâu vẫn hoàn đấy, không có ai bị bất tín nhiệm cả.
Cái này mang tính hình thức là không ổn. Nhưng nó cũng có một điểm, với những vị giữ vị trí chủ chốt mà số phiếu tín nhiệm thấp lại quá cao thì nó cũng có ảnh hưởng nhất định tới uy tín, tuy không bị bất tín nhiệm bị mất ghế… Nó chỉ có phần đó thôi.”
Sự nhìn nhận của Quốc hội
Theo kết quả được Quốc hội công bố sáng ngày 11/06, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị đánh giá thấp hơn Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/confidence-vote-nn-06112013152930.html
Các lãnh đạo Việt Nam đều « sống sót » qua cửa bỏ phiếu tín nhiệm
Quốc hội Việt Nam
Reuters
Ngày 11/6/2013, Quốc hội Việt Nam đã công bố kết quả cuộc bỏ
phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo cao nhất của cơ quan hành pháp
và lập pháp. Tất cả 47 lãnh đạo được đưa ra đánh giá đều « thóat hiểm »
qua vòng bỏ phiếu tín nhiệm trong bối cảnh đất nước đang lâm vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng, tham nhũng tràn lan.
Báo chí chính thức ca ngợi đây là là một việc làm « lịch sử
». Giới quan sát nhận thấy không bất ngờ về kết quả cuộc bỏ phiếu tín
nhiệm lần đầu ở Quốc hội.Các đại biểu Quốc hội bỏ phiếu đánh giá trên ba mức độ : « tín nhiệm cao », « tín nhiệm » và « tín nhiệm thấp ». Các chức danh như chủ tịch và phó chủ tịch nước, chủ tịch và phó chủ tịch Quốc hội đều được nhiều phiếu « tín nhiệm cao ». Dư luận chú ý nhiều vào thủ tướng chính phủ và các thành viên của chính phủ, những người chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc quản lý kinh tế xã hội của đất nước.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đạt được 68% phiếu « tín nhiệm cao » và « tín nhiệm », 32% phiếu « tính nhiệm thấp ». Những lãnh đạo ngành như thống đốc Ngân hàng, bộ trưởng Giáo dục, Y tế hay Giao thông vận tải đều có số « phiếu tín nhiệm thấp » cao.
Quyết định bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo được Quốc hội thông qua từ kỳ họp tháng 11/2012, được thực hiện trong kỳ họp này lần đầu sau khi đã được cơ quan lãnh đạo đảng chỉ đạo đồng ý.
Trên nguyên tắc, những người có quá nửa số đại biểu đánh giá "tín nhiệm thấp" được khuyến cáo nên xin từ chức. Người có trên 2/3 đại biểu đánh giá « tín nhiệm thấp » thì Quốc hội có thể bỏ phiếu để bãi chức ngay. Nhưng trong lần lấy phiếu tín nhiệm đầu tiên này, tất cả 47 chức danh lãnh đạo đều « thoát hiểm » không đạt tỷ lệ quá bán để có thể phải chịu những hình thức kỷ luật nào đó.
Giới quan sát chính trị tại Việt Nam đều tỏ ra không bất ngờ với kết quả của cuộc bỏ phiếu bởi đều biết rằng 90% các đại biểu Quốc hội là đảng viên và cơ quan hành pháp của Việt Nam vẫn luôn là nơi để thông qua các quyết định của đảng Cộng sản.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng là Ban chấp hành Trung ương qua các hội nghị gần đây (Hội nghị Trung ương 6 và 7) đều không muốn kỷ luật ai về trách nhiệm để tình trạng kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng và tham nhũng tràn lan như hiện nay.
Từ Hà Nội, tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhận xét các tiêu chí đặt ra trên tờ phiếu đã cho thấy phần nào kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo Việt Nam lần này :
Tiến sĩ Nguyễn Quang A - Hà
Những thách thức đối với giới lãnh đạo Việt Nam
Từ
trái: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Tin liên hệ
- Phiếu tín nhiệm: Lời cảnh báo đối với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng?
- Lãnh đạo Việt Nam đối mặt với cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đầu tiên
- Sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu: 50 năm nhìn lại
- Nhiều lời kêu gọi tuyệt thực để ủng hộ Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ
- Các đạo diễn Việt Nam lên tiếng về bộ phim 'Bụi đời Chợ Lớn' bị cấm
- Giáo sư Tương Lai: Lãnh đạo Việt Nam quá quỳ lụy Trung Quốc
- Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ hứa thúc đẩy VN trả tự do cho Phương Uyên, Nguyên Kha
- Hoa Kỳ: Việt Nam ‘thụt lùi’ về nhân quyền
- Hải quân Việt-Trung thiết lập đường dây nóng
Những thách thức đối với giới lãnh đạo Việt Nam
Giữa lúc Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ tiếp tục cuộc tuyệt thực trong một nhà tù ở Việt Nam, và các nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước cũng như ở ngoài nước cũng tổ chức tuyệt thực để ủng hộ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, và kêu gọi sự chú ý của quốc tế tới chính sách của nhà nước Việt Nam đàn áp những tiếng nói bất đồng, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc Phòng Australia, nhận định rằng chính sách cứng rắn hơn đối với giới bất đồng, một phần, là do những đấu đá trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông nhận định là có bất mãn sâu xa trong công chúng, và giới lãnh đạo Việt Nam đang đương đầu với một “thách thức về mặt đạo đức” phải giải quyết, và “đáp ứng một cách thuận lợi, nếu không sẽ khó tránh khỏi những nghi vấn về tính chính đáng của chế độ”. Từ Australia, Giáo sư Thayer dành cho Ban Việt Ngữ cuộc phỏng vấn sau đây.
Tình hình tại Việt Nam ngày càng tệ hại hơn kể từ sau Đại Hội Đảng
Cộng Sản mới nhất. Trong năm nay, không biết bao nhiêu người đã bị bắt
giữ...Khi ông Nguyễn Tấn Dũng 'sống sót' qua cuộc biểu quyết đòi kỷ luật
'đồng chí X' hồi năm ngoái, ông đã cam kết sẽ xử lý các trang blog, và
ông ấy đã thực hiện...
Giáo sư Carl Thayer.
Giáo sư Thayer: “Vâng, rõ ràng tình hình tại Việt Nam ngày càng tệ hại hơn kể từ sau Đại Hội Đảng Cộng Sản mới nhất. Trong năm nay, không biết là bao nhiêu người đã bị bắt giữ. Sự thể này phản ánh hai điều: thứ nhất, có nhiều người bước qua giới hạn đỏ để đặt ra những vấn đề mà chế độ không muốn được nêu lên, nhưng quan trọng hơn, theo tôi, đó là kết quả của cuộc giằng co bên trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Khi ông Nguyễn Tấn Dũng 'sống sót' qua cuộc biểu quyết đòi kỷ luật 'đồng chí X' hồi năm ngoái, ông đã cam kết sẽ xử lý các trang blog, và ông ấy đã thực hiện lời hứa của ông. Thế cho nên tôi tin rằng điều đó có thể được phản ánh trong cuộc biểu quyết tín nhiệm ông tại quốc hội.”
VOA: Thưa tại sao giới lãnh đạo Việt Nam lại nhắm nhiều nhất vào các blogger?
Giáo sư Thayer: “Bởi vì các blogger chỉ trích những lĩnh vực nhạy cảm đối với chính quyền, như lòng ái quốc của họ, tinh thần quốc gia của họ khi đối mặt với Trung Quốc, và một số blogger khác thì đặt ra những nghi vấn về tham nhũng và các mạng lưới gia đình của các quan chức, và một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm là những đấu đá trong nội bộ Đảng Cộng Sản. Chính vì vậy mà các blogger, nhà báo và một số người khác đang phải trả một cái giá rất đắt.”
Sự phẫn nộ ngày càng lan rộng, và nó đang len lỏi vào cuộc tranh luận
vì cách quản lý nền kinh tế của ông Thủ Tướng bị những người khác bên
trong Đảng Cộng Sản đả kích...
Giáo sư Thayer.
Giáo sư Thayer: “Đúng, bởi vì sự phẫn nộ ngày càng lan rộng, và nó đang len lỏi vào cuộc tranh luận vì cách quản lý nền kinh tế của ông Thủ Tướng bị những người khác bên trong Đảng Cộng Sản đả kích. Vấn đề này lại được nêu lên rộng rãi hơn trong những giới khác và lại liên quan tới những vấn đề khác nữa, khiến họ cảm thấy bất an. Họ muốn giữ kín tất cả mọi chuyện trong nội bộ đảng hơn là tiết lộ các vấn đề ấy ra bên ngoài.”
Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà cầm bức tranh tự hoạ của TS Vũ 1 ngày trước khi ông tuyệt thực.
Giáo sư Thayer: “Những hành động như thế chưa từng xảy ra trong quá khứ, trước đây cũng có một vài người, thường là đang ở tù, tuyệt thực để phản đối các điều kiện trong nhà tù, nhưng điều mà chúng ta chứng kiến ở đây là ngày càng nhiều người hơn trong thành phần chính trị ưu tú, nhất là trong giới những cựu cố vấn của các Thủ Tướng tiền nhiệm, đã bị gạt sang bên lề, rồi các công dân khác theo chân họ, từ những người ký tên vào bản kiến nghị để sửa đổi Hiến Pháp cho đến những người khác...Ngoài ra cách đối phó với những sinh viên trẻ tuổi yêu nước có ý kiến bất đồng, những người tìm cách dùng pháp luật để chống lại chính phủ...Có một nỗi bực dọc là: sự thể rồi sẽ dẫn tới kết cuộc nào? Đâu là giải pháp để giải quyết vấn đề? Liệu Hiến Pháp có được sửa đổi để cho phép quyền tự do ngôn luận? Câu trả lời có thể là “Không”, rồi người ta sẽ chỉ đãi bôi cho có chuyện trong khi nỗi bất mãn đã âm ỉ từ năm 2008 tới nay, từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới. Tôi thực sự tin là có bất mãn sâu xa. Việt Nam không có một hệ thống đại nghị, không có một cách dễ dàng nào để có thể thay đổi chính phủ, hay ngay cả các Bộ trưởng, để giải quyết những khiếu nại của người dân.”
VOA: Giáo sư không tin tiến trình tham khảo ý dân để sửa đổi Hiến Pháp là một nỗ lực thành thực hướng tới dân chủ hóa, mà chỉ là một màn diễn mà thôi?
Hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đứng trước phiên tòa tỉnh Long An, ngày 16/5/2013.
VOA: Thế thì tình hình này sẽ đi tới đâu?
Giáo sư Thayer: “Tôi không tin là nó sẽ dẫn tới một “mùa xuân Việt Nam” hay “mùa Xuân Ả Rập”, tôi không tin là điều đó xảy ra, nhưng nỗi bức xúc sẽ trào dâng. Tôi không tin là chế độ cầm quyền ở Việt Nam đoàn kết, như tôi đã nói có những đấu đá trong nội bộ, có bất đồng ý kiến rộng rãi trong các thành phần chính trị ưu tú về cách làm sao xử lý những vấn đề đó.
Họ (chính phủ) muốn đây là một cơ hội để tái khẳng định quyền cai trị
của chế độ, rằng nhiều người dân đưa đề nghị là bởi vì họ ủng hộ tiến
trình này, nhưng khi phải đối đầu với một bản Hiến Pháp thay thế, với
những lời kêu gọi sửa đổi Điều 4 Hiến Pháp thì chế độ cảm thấy rất là
không thoải mái.
Giáo sư Carl Thayer.
Giáo sư Thayer: “Đây là một thách thức về đạo đức mà chế độ phải đáp ứng, và đáp ứng một cách tích cực, nếu không muốn người ta đặt ra những nghi vấn về tính chính đáng của chế độ. Chúng ta phải chờ xem nó dẫn tới đâu, liệu các đại biểu quốc hội có đủ can trường, đủ can đảm về mặt đạo đức để biểu quyết “Không tín nhiệm ”hay không? Chúng ta còn phải chờ xem. ”
Hoài Hương-VOA
http://www.voatiengviet.com/content/gs-thayer-noi-ve-nhung-thach-thuc-doi-voi-gioi-lanh-dao-vietnam/1679618.html
Kết quả bỏ phiếu tín nhiệm: Chủ tịch nước vượt lên dẫn trước thủ tướng
CTV Danlambao
– Hôm 10/6/2013, 492 đại biểu quốc hội vừa tham gia bỏ phiếu tín nhiệm
đối với 47 vị trí lãnh đạo cấp cao trong bộ máy nhà nước. Đây là lần đầu
tiên quốc hội tham gia lấy phiếu tín nhiệm. Việc bỏ phiếu được chia làm
3 mức độ, gồm Tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp đối với từng
chức danh chủ chốt.
Kết quả cuộc lấy phiếu tín nhiệm đã được công bố sáng nay, 11/6/2013.
Theo đó, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đạt 330 phiếu tín nhiệm cao,
trong khi đó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạt được 210 phiếu.
Trong số 47 chức danh lấy phiếu tín nhiệm, tân ủy viên bộ chính trị -
phó chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân dẫn đầu với 372 phiếu tín
nhiệm cao. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình ‘đội sổ’ chót
bảng, chỉ có 88 phiếu tín nhiệm cao và 209 phiếu tín nhiệm thấp.
Nhìn chung, kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm cho thấy uy tín của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng và các vị trí chủ chốt thân Thủ tướng bị giảm sút
nghiêm trọng.
Dưới đây là kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt vừa được công bố:
Chia sẻ bài viết:
STT
|
Họ & tên
|
Chức vụ
|
Tỷ lệ được tín nhiệm
| ||
Tín nhiệm cao
|
Tín nhiệm
|
Tín nhiệm thấp
| |||
1
|
Ông Trương Tấn Sang
|
Chủ tịch nước
|
330
|
133
|
28
|
2
|
Bà Nguyễn Thị Doan
|
Phó chủ tịch nước
|
263
|
215
|
13
|
3
|
Ông Nguyễn Sinh Hùng
|
Chủ tịch Quốc hội
|
328
|
139
|
25
|
4
|
Ông Uông Chu Lưu
|
Phó chủ tịch Quốc hội
|
323
|
155
|
13
|
5
|
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân
|
Phó chủ tịch Quốc hội
|
372
|
104
|
14
|
6
|
Bà Tòng Thị Phóng
|
Phó chủ tịch Quốc hội
|
322
|
145
|
24
|
7
|
Ông Huỳnh Ngọc Sơn
|
Phó chủ tịch Quốc hội
|
252
|
217
|
22
|
8
|
Ông Phan Xuân Dũng
|
Chủ nhiệm UB KHCN&MT
|
234
|
235
|
22
|
9
|
Ông Nguyễn Văn Giàu
|
Chủ nhiệm UB Kinh tế
|
273
|
204
|
15
|
10
|
Ông Trần Văn Hằng
|
Chủ nhiệm UB Đối ngoại
|
253
|
229
|
9
|
11
|
Ông Phùng Quốc Hiển
|
Chủ nhiệm UB Tài chính - ngân sách
|
291
|
189
|
11
|
12
|
Ông Nguyễn Văn Hiện
|
Chủ nhiệm UB Tư pháp
|
210
|
253
|
28
|
13
|
Ông Nguyễn Kim Khoa
|
Chủ nhiệm UB Quốc phòng - an ninh
|
267
|
215
|
9
|
14
|
Ông Phan Trung Lý
|
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật
|
294
|
180
|
18
|
15
|
Bà Trương Thị Mai
|
Chủ nhiệm UB CVĐXH
|
335
|
151
|
6
|
16
|
Bà Nguyễn Thị Nương
|
Trưởng ban Công tác đại biểu
|
292
|
183
|
17
|
17
|
Ông Nguyễn Hạnh Phúc
|
Chủ nhiệm VPQH
|
286
|
194
|
12
|
18
|
Ông Ksor Phước
|
Chủ tịch Hội đồng dân tộc
|
260
|
204
|
28
|
19
|
Ông Đào Trọng Thi
|
Chủ nhiệm UB VH, GD, TN, TN&NĐ
|
241
|
232
|
19
|
20
|
Ông Nguyễn Tấn Dũng
|
Thủ tướng Chính phủ
|
210
|
122
|
160
|
21
|
Ông Hoàng Trung Hải
|
Phó thủ tướng Chính phủ
|
186
|
261
|
44
|
22
|
Ông Nguyễn Thiện Nhân
|
Phó thủ tướng Chính phủ
|
196
|
230
|
65
|
23
|
Ông Vũ Văn Ninh
|
Phó thủ tướng Chính phủ
|
167
|
264
|
59
|
24
|
Ông Nguyễn Xuân Phúc
|
Phó thủ tướng Chính phủ
|
248
|
207
|
35
|
25
|
Ông Hoàng Tuấn Anh
|
Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL
|
90
|
288
|
116
|
26
|
Ông Nguyễn Thái Bình
|
Bộ trưởng Bộ Nội vụ
|
125
|
274
|
92
|
27
|
Ông Nguyễn Văn Bình
|
Thống đốc NHNN VN
|
88
|
194
|
209
|
28
|
Bà Phạm Thị Hải Chuyền
|
Bộ trưởng Bộ LĐ,TB&XH
|
105
|
276
|
111
|
29
|
Ông Hà Hùng Cường
|
Bộ trưởng Bộ Tư pháp
|
176
|
280
|
36
|
30
|
Ông Trịnh Đình Dũng
|
Bộ trưởng Bộ Xây dựng
|
131
|
261
|
100
|
31
|
Ông Vũ Đức Đam
|
Chủ nhiệm VPCP
|
215
|
245
|
29
|
32
|
Ông Vũ Huy Hoàng
|
Bộ trưởng Bộ Công thương
|
112
|
251
|
128
|
33
|
Ông Phạm Vũ Luận
|
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
|
86
|
229
|
177
|
34
|
Ông Phạm Bình Minh
|
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
|
238
|
233
|
21
|
35
|
Ông Cao Đức Phát
|
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT
|
184
|
249
|
58
|
36
|
Ông Giàng Seo Phử
|
Chủ nhiệm UB Dân tộc
|
158
|
270
|
63
|
37
|
Ông Trần Đại Quang
|
Bộ trưởng Bộ Công an
| 273 |
183
|
24
|
38
|
Ông Nguyễn Minh Quang
|
Bộ trưởng Bộ TN&MT
|
133
|
304
|
42
|
39
|
Ông Nguyễn Quân
|
Bộ trưởng Bộ KH&CN
|
123
|
304
|
43
|
40
|
Ông Nguyễn Bắc Son
|
Bộ trưởng Bộ TT&TT
|
121
|
281
|
77
|
41
|
Ông Phùng Quang Thanh
|
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
|
323
|
144
|
13
|
42
|
Ông Đinh La Thăng
|
Bộ trưởng Bộ GTVT
|
186
|
198
|
99
|
43
|
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến
|
Bộ trưởng Bộ Y tế
|
108
|
228
|
146
|
44
|
Ông Huỳnh Phong Tranh
|
Tổng Thanh tra Chính phủ
|
164
|
241
|
87
|
45
|
Ông Bùi Quang Vinh
|
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư
|
231
|
205
|
46
|
46
|
Ông Trương Hòa Bình
|
Chánh án TAND tối cao
|
195
|
260
|
34
|
47
|
Ông Nguyễn Hòa Bình
|
Viện trưởng VKSND tối cao
|
198
|
269
|
23
|
DÂN LÀM BÁO
Tổng hợp và thống kê thể diện nhà cầm quyền Lần Thứ Nhất
Tổng hợp thể diện nhà cầm quyền CHXHCNVN qua kết quả tín nhiệm 47 chức danh chủ chốt
Tổng số phiếu lý thuyết: 23.124 (có 492 cái máy bầu)
Tổng số phiếu hợp lệ : 23.006, lỗi: 118 (không đáng kể)
Tổng số phiếu TNC : 10.156 = 44.15%
Tổng số phiếu TN : 10.318 = 44.85%
Tổng số phiếu TNT : 2.532 = 11.01%
Cộng 100%
Tổng thể là rất tồi tệ, tín nhiệm cao không vượt nổi 45% (tệ),
Tín nhiệm giữa chỉ là 45% (bình quân chủ nghĩa)
Còn TNT thì phụ thuộc hai con số trên.
60-30-10 là đẹp.
Top ten (10 đỉnh) tín nhiệm cao (tốt):
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Phó chủ tịch Quốc hội 372 75,61%
Bà Trương Thị Mai Chủ nhiệm UB CVĐXH 335 68,09%
Ông Trương Tấn Sang Chủ tịch nước 330 67,07%
Ông Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội 328 66,67%
Ông Uông Chu Lưu Phó chủ tịch Quốc hội 323 65,65%
Ông Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 323 65,65%
Bà Tòng Thị Phóng Phó chủ tịch Quốc hội 322 65,45%
Ông Phan Trung Lý Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật 294 59,76%
Bà Nguyễn Thị Nương Trưởng ban Công tác đại biểu 292 59,35%
Ông Phùng Quốc Hiển Chủ nhiệm UB TC - ngân sách 291 59,15%
Bottom ten (10 đáy) tín nhiệm cao (xấu):
Ông Nguyễn Minh Quang Bộ trưởng Bộ TN&MT 83 16,87%
Ông Phạm Vũ Luận Bộ trưởng Bộ GD&ĐT 86 17,48%
Ông Nguyễn Văn Bình Thống đốc NHNN VN 88 17,89%
Ông Hoàng Tuấn Anh Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL 90 18,29%
Bà Phạm Thị Hải Chuyền Bộ trưởng Bộ LĐ,TB&XH 105 21,34%
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến Bộ trưởng Bộ Y tế 108 21,95%
Ông Vũ Huy Hoàng Bộ trưởng Bộ Công thương 112 22,76%
Ông Nguyễn Bắc Son Bộ trưởng Bộ TT&TT 121 24,59%
Ông Nguyễn Thái Bình Bộ trưởng Bộ Nội vụ 125 25,41%
Ông Trịnh Đình Dũng Bộ trưởng Bộ Xây dựng 131 26,63%
Top ten (10 đỉnh) tín nhiệm thấp (xấu):
Ông Nguyễn Văn Bình Thống đốc NHNN VN 209 42,48%
Ông Phạm Vũ Luận Bộ trưởng Bộ GD&ĐT 177 35,98%
Ông Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng Chính phủ 160 32,52%
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến Bộ trưởng Bộ Y tế 146 29,67%
Ông Vũ Huy Hoàng Bộ trưởng Bộ Công thương 128 26,02%
Ông Hoàng Tuấn Anh Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL 116 23,58%
Bà Phạm Thị Hải Chuyền Bộ trưởng Bộ LĐ,TB&XH 111 22,56%
Ông Nguyễn Minh Quang Bộ trưởng Bộ TN&MT 104 21,14%
Ông Trịnh Đình Dũng Bộ trưởng Bộ Xây dựng 100 20,33%
Ông Đinh La Thăng Bộ trưởng Bộ GTVT 99 20,12%
Bottom ten (10 đáy) tín nhiệm thấp (tốt):
Bà Trương Thị Mai Chủ nhiệm UB CVĐXH 6 1,22%
Ông Trần Văn Hằng Chủ nhiệm UB Đối ngoại 9 1,83%
Ông Nguyễn Kim Khoa Chủ nhiệm UB Quốc phòng - an ninh 9 1,83%
Ông Phùng Quốc Hiển Chủ nhiệm UB Tài chính - ngân sách 11 2,24%
Ông Nguyễn Hạnh Phúc Chủ nhiệm VPQH 12 2,44%
Bà Nguyễn Thị Doan Phó chủ tịch nước 13 2,64%
Ông Uông Chu Lưu Phó chủ tịch Quốc hội 13 2,64%
Ông Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 13 2,64%
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Phó chủ tịch Quốc hội 14 2,85%
Ông Nguyễn Văn Giàu Chủ nhiệm UB Kinh tế 15 3,05%
Mà đó là việc của quốc dân quốc hội, chỉ trộm bình tý thôi.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265
No comments:
Post a Comment