Tuesday, September 3, 2013
KHÁNH LY * HỒI KÝ
- KHÁNH LY * CHUYỆN KỂ SAU 20 NĂM
- Created on Monday, 02 September 2013 02:55
Ca sĩ Khánh Ly
Đó là năm 1964, tôi và các con đang ở thành phố Dalat. Tôi vừa 18 tuổi, hai con, một gái, một trai. Ba mẹ con sống với nhau hồn nhiên như cây cỏ trong ngôi nhà hai từng rộng lớn vắng người, trên một ngôi đồi mà người ở đó gọi là đồi Miên – tên ông nội hai đứa nhỏ. Nhà không cổng ngõ, không hàng rào, đồi rộng thênh thang, từ hông nhà ngó
xuống, là một thung lũng nhỏ xanh rì, nhìn mông ra xa thấp thoáng đâu đó mầu đỏ của ngói bên cạnh những vườn trồng rau quả xanh ngắt, tiệp với màu của lá cỏ. Nổi lên trên màu xanh mượt mà như tấm áo dạ hội bằng nhung, tôi có thể biết được đó là những vườn hoa.
Thuở đó, Dalat đẹp lắm. Người ta bảo Dalat đẹp bởi có 4 mùa giống như Hà Nội nên con gái Dalat tuy ít người xuất sắc nhưng ai nấy đều xinh xắn với nước da trắng hồng, mái tóc đen dày óng mượt. Tất cả đều vô tư, hồn nhiên và hiền lành. Các bà bán hàng trong chợ, dù là bán mắm cá, cũng mặc áo dài, bán đậu hủ rong cũng áo dài, bán ngô nướng lúc nửa khuya, bán mì Quảng, xôi gà cũng áo dài, hai má cứ ửng hồng lên bên cạnh bếp lửa.
Dalat có 4 mùa nhưng mùa nào cũng mát vào ban ngày, lạnh về đêm, chính thế, người ta mới thú vị khi cầm cái ngô nướng thoa mỡ hành còn nóng hổi, người ta mới cảm thấy cái nhẹ nhõm khi bước ra từ những phòng tắm nước nóng, xê xế rạp ciné Ngọc Hiệp. Bước qua bên kia đường, người ta có thể ghé vào tiệm cháo vịt, tiết canh vịt, gỏi vịt và ngay bên hông tiệm thịt vịt, cái quán mì Quảng nhỏ xíu, mái che là một vài tấm ván ép ghép với 4 cái ghế. Hai vợ chồng người bán mì Quảng tay thoăn thoắt đơm bún, chan nước hay dọn dẹp cái mặt bàn cũng chỉ là một tấm gỗ dài. Người bán vui cười nhìn khách xuýt xoa ăn trong cái nóng của bún, cái lạnh của con phố về khuya, vắng người.
Điều chắc chắn phải nói là người Dalat hiền. Hiền như nước mưa, nước suối. Hiền như cây trái tốt tươi. Hiền như hoa như gió. Như tiếng chuông reo bốn mùa. Hiền như bãi xe lam dăm ba chiếc im lìm nơi bến đậu. Hiền như những cơn mưa bất ngờ bay nghiêng qua thành phố, không hề làm rối chân khách bộ hành. Những con đường vắng lặng. Những ngôi biệt thự nằm xa nhau, không tường bao bộc, chỉ có hoa và hoa dưới những cây thông rải rác, tưởng như mọc vô tình không người săn sóc. Ấy thế mà trong cái vô tình gần như hoang dã ấy, luôn có những lúc rộ lên tiếng cười rộn ràng ngây thơ. Đời sống đẹp và đáng sống biết bao nhiêu.
Trước đó 2 năm, nói chính xác là vào tháng 11 năm 1962, khi tôi lên Dalat tìm sống, cùng đi trên chuyến xe đò Minh Trung với tôi, là chị Ngân Hà, một ca sĩ đẹp và được biết đến, không hiểu vì sao chị bỏ Sài Gòn ra đi. Lúc đó, người ta chưa nói đến chiến tranh. Sài Gòn đất rộng, người ít. Đời sống dễ dàng, người dân miền Nam chơn chất như ngọn lúa đồng bằng, cá tôm sông lạch, con đường Tự Do, sáng, trưa, chiều, tối chỉ khoảng trên một chục khách bộ hành, xích lô vài chiếc thông thả đạp như thi sĩ thơ thẩn tìm nàng thơ. Taxi cũng thỉnh thoảng ghé qua đỗ người xuống. Hình như Sài Gòn rất bằng lòng với nhịp sống thong thả, nhàn hạ. Thói quen của miền Nam trù phú đụng đâu cũng có cái ăn.
Tôi nhận lời lên hát cho Night Club ở Dalat với giá 2500 đồng một tháng, có cơm hai bữa và ngủ chung với các chị ở vũ trường, nếu không muốn về nhà. Kể ra thì không nhiều nhưng cũng chẳng hẹp gì lúc đó, lương Trung Úy cũng chỉ được như thế thôi. Ông bà nội của hai đứa nhỏ ở đó, tôi có cả nguyên một từng dưới rộng thênh thang. Hình như đây là kiểu nhà sàn lúc khởi thủy cất lên, nhưng rồi sẵn cột, xây thêm thành nhà hai tầng, chưa kể chung quanh đất trống, không trồng trọt gì ngoài mấy cây ổi, mấy giàn xu. Bên nội dường như chẳng ai để ý gì đến mấy mẹ con tôi ngoài chị Lê Quyên. Vài tháng sau, tiền lương được tăng, tôi tìm một người giữ con và ngày ngày nhảy xe lam, xe đò ra chợ Dalat.
Từ ngày di cư vào Nam, dẫu mới có 10 tuổi, tôi phải trông em, giặt quần áo, đi chợ rồi mới đi học. Mấy anh chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau nhưng lại chẳng bao giờ có thì giờ hay có chuyện gì để chia sẻ với nhau. Nói tóm lại, tuổi thơ của tôi hoàn toàn mờ nhạt, không có gì đáng ghi nhớ trong sinh hoạt gia đình, ngoại trừ ông bố đêm nào cũng say rượu và bà mẹ hết ca cẩm chồng đến mắng chửi con. Dalat chính là khoảng trời tôi mơ ước, tưởng chừng như cuộc sống ngừng lại ở đó… Nhưng không. Cuộc đời tôi bắt đầu. Từ đó, ở đó.
Vũ trường Night Club dọn ra hôtel Du Parc, cạnh Nhà Thờ Chánh Toà, Bưu điện và đài phát thanh Dalat. Bà chủ vũ trường là một người Việt Hoa, có một đứa con lai không biết lai gì, khoảng 6, 7 tuổi. Bà mướn một căn phòng ngay bên kia đường cho các chị vũ nữ ở, có người nấu cơm. Tôi thường ngủ lại đây vì khuya chẳng có ai đưa tôi về tận Chi Lăng. Trong căn nhà nhỏ này, tuyệt không có bóng dáng một người đàn ông, thế nên tôi thích ngủ lại để sáng hôm sau đi chợ rồi mới về nhà, mang đồ ăn, bánh kẹo và chơi với con rồi chiều tối, lại đi xe lam đến Vũ Trường. Căn phố đó nằm cạnh quán café Myosotis, không biết bây giờ có còn không.
Night Club là Vũ Trường duy nhất ở Dalat. Với khí hậu lành lạnh về đêm là nơi giải trí lý tưởng của thành phố du lịch, vậy mà khách khứa cũng không có bao nhiêu. Lính Mỹ, cấp cố vấn, mới được vào thị xã chơi chứ những cậu học trò vừa mới hết Trung Học, rời gia đình đến một đất nước xa lạ, nên có vẻ sợ sệt. Người của thành phố, muốn đi, sợ gặp người quen, khó chối tội với vợ, thế nên ban nhạc đêm đêm cứ chơi những bản nhạc trữ tình, chúng tôi vẫn hát, các chị ngồi uống nước tán gẫu hoặc nhảy với nhau. Mỗi đêm vài ba bàn khách. Mọi người bình thản nhìn nhau, chờ ngày cuối tuần. Có những đêm Vũ Trường gần đóng cửa, một băng Không Quân áo bay đen khăn quàng cổ màu tím hoa cà, bất ngờ xuất hiện đứng thành một hàng dài nơi cửa. Nhà hàng không chạy lại đón khách. Chúng tôi không ai ngạc nhiên. Chuyện này xảy ra thường. Tôi lặng lẽ lên sân khấu, ban nhạc hiểu ý chơi bài “Gửi gió cho mây ngàn bay”. Tôi hát xong, những chiếc khăn quàng màu tím hoa cà lặng lẽ quay ra, đi vào đêm tối, nơi các anh từ đó bước ra. Không bao giờ hỏi nhưng tôi biết một phi vụ vừa hoàn tất.
Những đêm trời lạnh, mưa rất nhẹ, không gì thú vị hơn ngồi hát hay nghe một tình khúc Tiền Chiến. Những người lính Mỹ non trẻ kia đang miệt mài bước nhảy, cố quên đi nỗi buồn xa nhà, nỗi lo sợ súng đạn trên mảnh đất mà họ không bao giờ hiểu được vì sao họ đến đây. Họ lại càng không hiểu ý nghĩa của khúc hát kia. Chỉ biết trong đêm lạnh, khúc hát buồn, tiếng hát còn non trẻ với những ước mơ chưa thành hình và nỗi lòng khắc khoải của kẻ xa nhà quấn quít lấy nhau ấm áp chia sẻ đến không ngờ. Nhiều năm sau, nếu những người lính ấy còn sống mà trở về, chắc chẳng bao giờ họ nghĩ đến cái vũ trường xưa, nơi thành phố có những cơn mưa bất ngờ nghiêng nghiêng bay trên con phố vắng người vào những đêm gió lạnh. Cũng có thể họ đã không bao giờ trở về để mà nhớ.
Tôi không sống với gia đình nhiều. Tôi không có bạn gái. Bạn của anh tôi cũng là bạn của tôi. Chúng tôi gọi nhau bằng …chú và xưng tôi, không có anh em gì cả. Có lẽ thế, tính tôi không hề có chút dịu dàng nào cho đến khi có con và chỉ dành cho con. Có lẽ thế, tôi dễ sống chung với các chị vũ nữ mà tôi thật sự quý mến như một gia đình. Các tay …anh hùng hảo hán ở Sàigòn, Dalat hình như cũng rất quý tôi, đứa em gái lạc loài, lờ khờ trong thế giới muôn mặt về đêm. Chẳng ai hỏi tôi từ đâu đến, con cái nhà ai. Tôi cũng không tò mò về cuộc sống của các chị vũ nữ.
Thời bấy giờ, giới vũ nữ là giới làm rất nhiều tiền và rất nhiều người có học. Họ chỉ trở thành vũ nữ để giúp gia đình trong khoảng thì giờ rỗi rảnh. Công việc của các chị ấy là nhảy với khách hàng, những người đi Vũ Trường một mình, những người mới biết khiêu vũ. Thời 60, khiêu vũ là một nghệ thuật. Mọi người nhẩy lấy đẹp, nhẩy biểu diễn. Khiêu vũ là một nghệ thuật, không hề có ý đen tối, lợi dụng. Khách đến Vũ Trường và vũ nữ đối xử với nhau lịch sự. Có những chị nổi tiếng chỉ vì nhẩy giỏi, nhẩy đẹp. Các chị không đi đêm với khách, tôi biết vì tôi ở cùng các chị một nhà.
Vũ Trường đóng cửa, ai muốn đi ăn đêm thì thường chạy tới tiệm xôi gà trước mặt khách sạn Thủy Tiên, sau lưng tiệm bánh mỳ Xương Ký đầu con dốc Hàm Nghi. Chủ quán là cặp vợ chồng trẻ, con ông bà Bắc Hương cơm tám, giò chả nằm gần café Tùng – ông bà chủ quán xôi này hiện đang ở Porland, Oregon - nhiều đêm, vừa thấy mặt tôi, cô vợ da trắng, má hồng cười như hoa nở, hét toáng lên… Đùi Khánh Ly… Phao câu Khánh Ly… câu rao ngắn gọn làm ai cũng quay lại nhìn tôi cười. Và tôi không hề cảm thấy ngượng ngùng, sà ngay vào hàng cầm chiếc đùi gà, miếng phao câu béo ngậy, đĩa xôi trắng dẽo thơm phức mỡ hành. Ở một thành phố nhỏ như Dalat, ai cũng biết mặt nhau.
Cùng đi ăn với chúng tôi là một số các …anh hùng có tên tuổi. Những cái tên ngộ nghĩnh đôi khi do thành tích mà có. Các bạn ấy còn trẻ, có người trạc tuổi tôi, có người lớn hơn nhưng ai cũng làm mặt nghiêm, lạnh lùng ít nói. Họ làm ra vậy giữa chốn đông người, thật ra, họ dễ thương, sống có tình nghĩa. Họ có bổn phận bảo vệ nhà hàng, các chị vũ nữ, ca nhạc sĩ. Mấy ông say xỉn quậy phá, gây gỗ, họ là người giải quyết, giảng hoà hoặc mời các ông đi về chứ không bao giờ họ gây chuyện rắc rối cho nhà hàng. Giới giang hồ, các chị vũ nữ và ca nhạc sĩ vì thế mà gần nhau, thương nhau và luôn bênh vực cho nhau. Thời đó, dưới mắt tôi, họ là những người hùng. Cách sống của giới này ảnh hưởng đến lối sống và cách suy nghĩ của tôi không ít.
Tôi hát chưa ra gì nhưng lại được nhiều người thương thế nên cuộc sống mấy mẹ con coi bộ cũng đỡ khổ. Tôi mua quần áo đẹp nhất Dalat cho con tôi ở tiệm Au Printemps. Tôi sục vào lầu trên của chợ Hoà Bình, nơi bán quần áo cũ của Mỹ - hàng viện trợ - tìm mua áo da, váy len, giầy bốt. Diện vào, ai dám nói là quần áo cũ. Tôi thường tới quán café nơi Bích Ly, chị cả của ban CBC ngồi giữ két, nói dóc. Bích Ly và tôi hình như bằng tuổi nhau hoặc Ly kém tôi một tuổi gì đó. Hai đứa cùng tên Ly, cùng đen đen như nhau, giọng cũng khào khào giống nhau nên bắt chuyện gớm lắm… Giờ gặp lại trên xứ Mỹ, hai đứa vẫn tưởng như đang ngồi trong quán café ở Dalat.
Thời đó, tôi mới 18 tuổi, còn ham ăn, ham chơi. Chẳng có gì thú vị cho bằng quăng giày dép, chân không, đi, chạy, nhẩy khắp Đồi Cù, xuống Toà Tổng Giám mục, men theo con đường Tình Yêu dẫn lên Toà Tỉnh rồi lại lên Đồi Cù nằm khểnh dưới gốc thông hoặc thẳng tay chân trên bãi cỏ thênh thang nhìn ngắm mây trời. Không nhớ đến ai cũng không cần biết mình là ai, ngày mai sẽ ra sao. Không nhớ ai thật, không cả yêu đương. Không hề nghĩ đến gia đình và Saigon. Tôi thương các con song thường tự hỏi vì sao tôi có chúng trong khi tôi chẳng có một chuẩn bị nào, chưa hề có một khái niệm về gia đình. Những lúc lang thang trên Đồi Cù, cùng các bạn gái đắm chìm dưới suối Liên Khương, tôi ước ao trở lại tuổi 14, 15. Có lẽ, tôi sẽ bắt đầu cuộc đời của tôi một cách khác.
40 năm trước, đó là ý nghĩ của một thiếu phụ tuổi 18, nằm ngủ quên dưới gốc thông già. Buổi trưa nắng vàng chan hoà trên cỏ lá, tiếng thông reo ngân dài, bất tận như một lời ru buồn. Lời ru âm thầm đi vào giấc ngủ và ở lại đó. Lời ru buồn. Rất buồn…
Ngày di cư tôi, tôi mới 9, 10 tuổi.Chưa kịp làm quen với Sài Gòn, còn đang lạ lùng với cách nói cười rộn ràng rất Nam kỳ, còn thích thú xé tờ giấy một đồng làm hai, gọi là 5 cắc đủ mua một ly đá nhận xi-rô, đã theo gia đình lên Dalat. Đó là năm 1956. Bố tôi – tức dượng nếu gọi theo tiếng miền Nam, tôi gọi dượng bằng bố theo lời mẹ tôi dặn – làm việc ở Ty cảnh sát Dalat. Gia đình tôi ở một biệt thự khu Chi Lăng. Căn nhà nằm lưng chừng con dốc ngắn và tất cả đều xây một kiểu giống nhau. Tôi chưa bao giờ đi hết con dốc đó để biết còn gì phía sau vì tôi bắt đầu đi học.
Trường tiểu học Phan Chu Trinh nằm ngay một ngã tư.Trước mặt nó là khu đất trống có con đường nhỏ dẫn vào đồi Bà Miên, nơi mà ít năm sau này, lại chính là nơi mẹ con tôi ở. Con đường đó cũng đưa vào trường Đại Học Quân Sự và khoảng đất trống trước mặt trường Phan Chu Trinh năm nào nay đã xây đầy những biệt thự của các ông Tướng. Căn đầu tiên là nhà của tướng Thái Quang Hoàng, cách 2 căn là tướng Đỗ Cao Trí. Tôi vào học lớp một vì chuyển qua chương trình Việt, nên chẳng hiểu gì cả, thậm chí không biết đọc tiếng Việt, trong khi chị tôi, chị Lệ Yến, lại được bố mẹ tôi cho học tại trường Domaine de Marie, chương trình Pháp-Việt.
Từ nhà đến trường không xa lắm mà cũng không gần. Tôi đi bộ lúc đi và cả lúc về. Bấy giờ, ngoài Ngọc Anh, tôi biết mình có thêm 3 đứa em nữa. Duyên Hải, Tố Loan, Tố Uyên. Sau giờ đi học, tôi làm những gì mẹ tôi bảo làm nhưng thường trốn nhà ra hồ Chi Lăng chơi. Chân không mang giày dép, thơ thẩn đi quanh tụt xuống ven hồ mò ốc hoặc lượm …cứt để chơi – tôi tưởng đó là thuốc tể như của bà nội. Ở đó có một biệt thự to lắm. Người ta bảo nguyên khu Chi Lăng này, ngày xưa dành cho người Pháp, và các căn biệt thự của chúng tôi cũng vậy! Cái Hotel Chi Lăng với cái giếng nước giả xây trước mặt cũng là nơi người Pháp thường đến nghỉ hè. Thời đó chưa có tên Chi Lăng mà là Saint Benoit. Mãi sau này vẫn còn những người gọi thế.
Tan học tôi thường không đi theo đường chính mà chui qua những bụi cây, những hàng thông, những khóm lay-ơn đủ màu mọc khắp mọi nơi nhưng không bao giờ tôi bẻ hoa, chỉ tìm loài dây leo để đem về chơi nhảy dây. Bố mẹ tôi ít khi nhìn thấy tôi, ông bà gần như không để ý, không hỏi đến nếu không có gì để sai bảo, dặn dò. Tôi lại cảm thấy khoái hơn dù đôi lúc cũng tủi thân khi không được mẹ ngó ngàng.
Ngoài con đường từ nhà đến trường và ngược lại, ngoài khung cảnh yên tĩnh của hồ Chi Lăng, tôi chui xuống cái rảnh nước chảy quanh nhà, đắp đất trồng bắp cải từ những cuống cải già bị cắt bỏ, có chút xíu mầm, mà tôi tưởng là sẽ sống được. Tôi có thể lang thang trong những khoảng đất trồng đầy cỏ dại để tìm hái trái mâm xôi, bứt dây rừng, xuống hồ Chi Lăng vọc nước, bắt ốc, hoặc ngồi dưới cái rảnh nước ấy cả ngày, nếu không có ai tìm.
Qua đến năm 1957, gia đình tôi phải chuyển về Saigon. Hơn một năm ở Dalat, có một vài điều đã khắc sâu vào tâm trí non nớt của tôi và không bao giờ tôi quên. Nó là những vết cháy dẫu đến ngàn năm vẫn còn hằn dấu…. Trước ngày di cư, Hà-nội mở một Hội Chợ, ở đâu thì tôi không nhớ nhưng có lẽ do người Pháp tổ chức sau khi hội nghị Genève được ký kết. Tôi đi hội chợ với một thằng nhỏ ở cùng đường, tên nó tôi còn nhớ, nó là thằng Đồng. Hội Chợ thì thường có nhiều trò chơi, vậy mà tôi chỉ nhớ là có một gian hàng nhỏ có dựng sân khấu cho mọi người thi hát, tôi đã leo lên và hát bài “Thơ Ngây”…. Khi ấy em còn thơ ngây, đôi mắt chưa vướng lệ sầu …, rồi leo xuống lủi mất tiêu. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cất tiếng hát. Lúc còn học nội trú St Marie, tôi cũng được lên sân khấu, chỉ đội lốt làm con thỏ mà thôi, nhưng trước đó, trước đó gần chục năm…
….Tôi sinh ra vào một buổi chiều ngày 6 tháng 3 năm 1945 tại nhà thương Bạch Mai. Ba ngày sau đảo chính Nhật, dân Hà-nội sơ tán về các vùng xa thành phố, bố mẹ tôi cũng mang chị em tôi chạy ra khỏi Hà-nội.Mới có 3 ngày, tôi làm sao biết được những gì đã xảy ra nhưng khi hơn 1 tuổi, tôi đã nhận biết và nhớ cho đến ngày hôm nay và một vài sự việc mà lúc nào tôi cũng tưởng như còn rất mới… Hai chị em chúng tôi được gánh đi, mỗi đứa ngồi một cái thúng, chị Yến được chú Tích cõng. Cùng vài người nữa, cả nhà tôi cứ xuyên rừng, lội sông, lội suối, trèo đồi, trèo núi mà đi. Một ngày trên đường đi gặp ngôi chùa hoang, mẹ tôi đặt tôi nằm trên cái bệ cao và kết quả là tôi ngã xuống giập cằm vào cái bệ xi-măng. Vết thương sâu lắm, ăn cơm lòi cả cơm ra ngoài. Bố tôi lấy vải trắng băng lại và buộc trên đầu. Vết sẹo khá dài vẫn còn đây. Bố tôi đã làm dữ vì với ông, tôi là…hòn ngọc đen yêu quý của ông.
Cả nhà tôi cứ đi mãi như thế, càng ngày càng xa Hà-nội. Chỉ thấy rừng và rừng. Đoàn người đi cùng với gia đình tôi thưa dần, chẳng biết họ đi đâu. Một lần qua sông trên một cái mảng ghép bằng các thanh tre, lúc chuyển đám trẻ con xuống, tôi là đứa bị rớt xuống sông, chắc không phải là sông vì tôi còn nhớ nước ở đó có màu như đen, đen một cách kỳ cục lắm chứ không phải là xanh thẫm khiến mình tưởng là đen. Bố tôi nhảy xuống vớt tôi lên và khi qua tới bờ bên kia mới biết được cái người chèo mảnh đó chuyên giết người lấy tiền vì anh ta biết là dân Hà-nội sơ tán, ít nhiều gì cũng có tiền hay vàng. Qua suối cũng khổ, bố tôi phải cột dây thừng ngang bụng, mọi người ở lại giữ đầu mối dây, bố tôi lội qua con suối rộng, nước đổ từ trên cao tung toé dữ dằn, sùng sục giữa những tảng đá đầy rên trơn trợt. Qua tới bờ bên kia, bố tôi tìm cây cột dây rồi lại lội ngược trở qua. Người lớn buộc trẻ con trên lưng và cứ nắm sợi dây ấy lần từng bước. Tôi là người được bố cột trên lưng.
Có những ngày qua khỏi cánh rừng lại thấy làng mạc ruộng vườn. Trời thì rét. Bố tôi ủ tôi trong chiếc áo Trấn Thủ dầy cộm vào những trại gà, tìm những cái trứng mới đẻ còn ấm, bố chọc 2 đầu trứng cho tôi húp sống. Có những chiều bố công kênh tôi trên vai đi giữa những ruộng lúa xanh rì, ghé vào quán lá, mua cho tôi cái kẹo bột nhỏ xíu, tôi cứ ở trên lưng, trên vai ông và bố tôi vừa đi vừa nói …bố đánh ton – ton đánh bố …Hết trại gà, hết nhà cửa ruộng vườn, gia đình tôi lại xuyên rừng mà đi. Tôi nhớ có một đêm, trời tối lắm, chẳng ai nhìn thấy ai, tất cả nằm mọp ở một cửa rừng ngong ngóng nhìn vào đêm tối… lâu lắm, lâu lắm…bỗng có ánh đèn loé lên ở xa chớp tắt 2,3 lần, thế là bố tôi lại ôm tôi lao theo hướng ánh sáng đó. Tất cả mọi người đều chạy, ngậm tăm mà chạy… Sau này, mẹ tôi bảo để tránh Tây và tránh cả Cộng sản nữa, vì gặp phe nào lúc đó, mình cũng chết.
Từ lúc chạy khỏi Hà-nội, tôi mới có 3 ngày tuổi.Tôi lớn lên dần trong rừng sâu, ăn khoai sắn độn cơm vì chỉ bố tôi là được ăn cơm trắng. Tôi lớn lên trên lưng, trên vai, trên chiếc áo Trấn Thủ của ông và quan trọng hơn cả là trong tiếng đàn, tiếng hát của ông. Tôi không còn nhớ ông hát hay ra sao nhưng chắc chắn là không dở và tiếng đàn của ông, tiếng đàn măng-đô-lin cùng với tiếng hát…Trên đồi xanh, chiều đã xuống dần. Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng… đã đi vào trái tim non nớt của tôi và ở lại đó vĩnh viễn. Chắc chắn ông cũng không thể ngờ rằng, những ca khúc ông hát cho đứa con gái xấu xí của ông ngày đó, lại có lúc mở ra cánh cửa định mệnh gần như dành sẵn cho nó, đứa con chịu nhiều thiệt thòi nhất trong gia đình, chắc chắn bố tôi cũng không hề nghĩ rằng, những ca khúc buồn bã ấy sẽ ảnh hưởng như thế nào trên cuộc đời của tôi. Bố tôi lại càng không bao giờ nghĩ đến cái lúc ông nằm xuống và ra đi trong cơn điên loạn, không một người thân bên cạnh, trong trại tù Lý Ba Sơ, giữa rừng thiêng nước độc. Những câu nói cuối cùng trong cơn điên loạn vẫn cứ là lời ông dành cho vợ con mà tôi là đứa con ông thương nhất.
… Từ chương trình Pháp tôi được học 5 năm tại Hà-nội, nay chuyển qua chương trình Việt, tôi chẳng hiểu gì. Kể ra thì vô lý vì tôi học lại từ đầu nghĩa là từ lớp Năm, có gì khó khăn, mà không thể hiểu được, nhưng rõ ràng là, chữ nghĩa không hề chui vào đầu tôi ngoài môn học thuộc lòng. Tôi nhớ ngôi trường cũ đẹp thênh thang, cái sân chân vuông vứa có một cây xoài khá lớn ở một góc. Tôi nhớ cái buồng ngủ như trại lính với 3 dãy giường giống hệt nhau. Mỗi chân giường là một cái ghế trên đó để sẵn chiếc váy xanh nước biển đậm, áo sơ-mi trắng bóng có dây cài ngang và đôi vớ trắng. Màn trắng, chăn gối, niệm trắng. Đêm đến các sơ Pháp bỏ tóc dài quá lưng, tay cầm tràng hạt vừa đi vừa kiểm soát, vừa đọc kinh. Lạy Chúa, trong đời tôi, tôi chưa thấy hình ảnh nào đẹp như thế.
4 giờ rưỡi sáng, những mái tóc dài đã biến mất dưới cái lúp trắng. Bà đứng đầu phòng vỗ tay đánh thức chúng tôi. Chỉ 15 phút làm vệ sinh thôi, chúng tôi dù còn tiếc giấc ngủ cũng chẳng thể làm sao hơn, nhỏm dậy làm giường rất nhanh rồi túa nhau vào phòng tắm. Mỗi đứa có riêng đồ vệ sinh cá nhân. Một chậu rửa mặt men trắng, khăn mặt, bàn chải đánh răng, cốc. Tất cả một cỡ và giống nhau như quần áo, vớ giầy. Sau 15 phút, chúng tôi lại túa xuống lầu như một bầy vịt con. 2 chiếc bàn dài đầy mũ nồi đủ màu sắc, mạnh đứa nào chụp được cái nào thì chụp, đội lên đầu rồi tất cả theo nhau vào nhà nguyện của trường dự lễ sớm nhất của ngày. Đó là lễ Misa. Lễ xong, chúng tôi qua phòng ăn sáng, rồi bắt đầu một ngày học. Tôi không có gì xuất sắc nhưng cũng như những đứa trẻ lớp một bình thường bắt đầu bằng a, b, c nhưng chúng tôi được dạy tổ tiên chúng tôi là người Gaulois. Tôi cũng tin như thế. Tôi và chị Yến được mẹ tôi cho học piano. Khốn nạn cho tôi, sao ngày ấy tôi ngu và nhát thế hay tại các thiên thần của tôi đánh dữ quá, mười đầu móng tay bé bỏng của tôi mà mấy bà sơ chẳng thương xót gì, cứ roi mây mà quất. Thế là con bé sợ quá… xin mẹ cho thôi… Thật chưa có cái ngu nào giống cái ngu nào. Cả hai chị em cùng thôi. Chúng tôi được dạy cách ăn, cách ngồi ăn. Được dạy cách đi với cuốn sách dày cợm trên đầu… Nghĩa là đủ cả để sẵn sàng trở thành đầm con.
Tôi nhớ thương sâu đậm những năm tháng ngắn ngủi bởi với tôi đó là một trong vài khoảng đời đẹp, hạnh phúc và đau buồn nhất … Nỗi nhớ mong hình dáng to lớn, xinh đẹp của mẹ mỗi chiều thứ sáu đến mỏi mòn tuyệt vọng. Nước mắt vòng quanh, tôi tủi thân lấp ló, thèm thuồng nhìn các bạn hớn hở tung tăng theo chân bố mẹ rời trường. Cả một ngôi trường to lớn bỗng trở nên vắng lặng. Sự im lặng khiến tôi cảm thấy ngôi trường dường như lớn lên gấp trăm lần và những tiếng đọc kinh rầm rì của các sơ thường ngày rất nhỏ như tiếng mẹ ru con, chiều thứ sáu cũng như cao hơn, vang vọng trầm bổng trong không gian, như muốn sưởi ấm những trái tim non nớt cô đơn, ngăn những dòng nước mắt tủi thân đừng rơi xuống quá sớm.
Mẹ tôi phải làm việc ở xa để kiếm tiền nuôi mấy chị em tôi - Ngọc Anh mới được sinh ra vài tháng sau khi mẹ nghe lời bố mang chúng tôi từ biên giới Trung Hoa trở về Hà-nội tìm người bảo lãnh bởi lúc đó, Pháp đã nắm chính quyền. Cộng sản cũng thành lập Đảng - Bố tôi không muốn theo Cộng sản nhưng đã từng chống Pháp, giờ khó an toàn nếu không có người quen biết bảo đảm - Mẹ được bố tôi – bây giờ - giúp đỡ công việc buôn bán và vì thế khi chúng tôi đến tuổi đi học, mẹ gởi hai chị em tôi vào nội trú, còn anh tôi ở với bà nội, nhà 106 Hàng Bông…., tiền học hai chị em tôi gần 50 ngàn mỗi năm là một số tiền không phải nhỏ, không phải ai cũng có và cũng dám làm. Giờ nghĩ lại, tôi thương sự hy sinh của mẹ, tôi hiểu vì sao có những chuyện khiến tôi đau lòng xảy ra. Tôi hiểu. Tôi hối hận vì có những lúc… không phải với mẹ dẫu lòng tôi vẫn buồn đau vì sự mất mát tình yêu của người cha là điều không thể thay thế được – không ai có thể làm được điều đó nhất là với tôi.
Mê hát do thừa hưởng dòng máu văn nghệ của cha nên khi nghe Saigon tổ chức cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng, tôi không thể gạt bỏ ý nghĩ liều lĩnh của một đứa bé gái mới trên 10 tuổi. Tôi chỉ nói điều này với anh vì anh Sơn cũng thích hát, thích vẽ. Anh hứa sẽ không cho bố mẹ biết nhưng cả hai chúng tôi đều biết rõ, biết rõ hậu quả của sự việc vì không thể nào bố mẹ tôi không biết đến sự vắng mặt của tôi. Mẹ tôi vốn là em út trong một gia đình có 3 chị em gái. Khi di cư, bác Tư tôi ở lại với bà ngoại. Gia đình bác Tuất tôi ở Saigon mà bác gái lại rất thương tôi. Bác Tư ở lại Hà-nội có anh Hùng, anh Tín sau này còn có thêm anh chị nào thì tôi không biết, nghe nói hai anh tôi đều đã đi học và tốt nghiệp ở nước ngoài. Cả hai anh có vào Saigon tìm gia đình tôi một lần rồi thôi, không liên lạc gì cho đến bây giờ. Mẹ tôi đã tiếp đãi các anh theo đúng tinh thần Quốc-Cộng. Điều đó có lẽ khiến hai anh buồn lòng. Không có lần thứ hai. Tôi trách mẹ vì dù Quốc hay Cộng cũng không thể cắt đứt tình máu mủ ruột thịt và chẳng hiểu vì sao, ngay cả chị Yến tôi dù ở lại, dù đã đi Hà-nội chơi mấy lần, cũng không tìm thăm lại các anh em của mình và mộ của ông bà ngoại.
Nhưng năm đó thì gia đình bác Tuất ở Saigon. Các chị Tuyết, Kim, Oanh, Nghiệp, anh Bảo, anh Toàn đều hát hay và vì bác Tuất trai sử dụng kèn Clarinette từ trước di cư. Tôi tin bác sẽ cho tôi ở vài ngày và che chở cho tôi. Thế là tôi quyết định ra đi. Mượn quần soọc, áo sơ-mi của anh, tôi tới bến xe hàng chuyên chở rau xin quá giang. Đêm đó, tôi nằm sau xe tải ôm đám bắp cải ngủ cho tới khi xe tới Saigon. Ông tài xế già tốt bụng còn dặn nếu muốn trở lại, cứ tới bến tìm, ông sẽ cho trở về. Tôi không nhớ rõ nhưng chắc chắn gia đình bác Tuất đã ghi tên cho tôi dự cuộc thi tuyển đó. Em bé Lệ Mai ghi danh bài “Từ Giã Kinh Thành” nhưng bị từ chối. Con nít không được hát bài đó.Tôi nhớ ngay đến “Ngày Trở Về” của ông Phạm Duy và được chấm đậu hạng nhì, thế thôi nhưng đủ làm tôi sung sướng đến có thể chết đi được và không cần biết chuyện gì đang chờ đón tôi ở nhà. Nửa thế kỷ đã trôi qua, không biết còn mấy ai nhớ đến con bé đen ngòm, tóc tém, mặc quần soọc trắng, áo sơ-mi ca-rô xanh… hùng dũng hát “Ngày Trở Về” trong buổi thi tuyển ca sĩ nhi đồng tại rạp Norodom. Đối với tôi, dẫu sau đó bị một trận đòn thê thảm, tôi vẫn cho rằng việc làm liều lĩnh của tôi ngày đó là đúng, không có gì, không còn gì đúng hơn.
Ở Đà Lại được một năm, gia đình tôi lại chuyển xuống Sài Gòn. Chúng tôi dồn vào một căn nhà khá xinh trên đường Sương Nguyệt Ánh mà nhiều năm sau đó nữ nghệ sĩ Kiều Hạnh, rồi cô Thái Thanh dọn về. Cạnh đó, đường Bùi Thị Xuân, là nơi bà nội sau, tức là mẹ dượng tôi, cũng là nơi vợ chồng ông Lân cô Thanh Nga bị sát hại ngay trước cửa. Ông Đồng Lân là em ruột bố dượng tôi nên tôi gọi cô Thanh Nga bằng Thím. Nhưng đó là chuyện về sau.
Trong cái cư xá gồm khoảng 10 căn, tôi cùng đám trẻ con không phân biệt Bắc Nam cùng chơi trò …tạc hình dù mẹ tôi ngăn cấm. Bà thường tặng tôi những trận đòn nhớ đời mà tôi chẳng hiểu lý do vì sao. Tự nhiên mẹ tôi lôi ra đánh, bắt xin lỗi. Tôi có lỗi gì đâu mà xin. Đánh nữa cho bỏ cái tật lì lợm. Không khóc hả, đánh nữa, đánh nữa. Tôi không bao giờ khóc ngay lúc đó, thường là sau mỗi trận đòn, tôi trốn trong nhà tắm hoặc đầu ngõ, kiếm một chỗ khuất để khóc một mình và những lúc ấy, tôi nhớ Bố tôi biết bao nhiêu. Ừ, nếu có Bố ở đây, mẹ sẽ không bao giờ đánh tôi như vậy.
Mấy người chị họ như chị Tuyết, chị Kim đều được bác Tuất cho đi hát. Chị Yến tôi cũng được đi hát theo, và người để ý đến chị Yến chính là nhạc sĩ Lam Phương, bấy giờ ông vừa làm xong bài hát “Khúc Ca Ngày Mùa”. Tôi không còn nhớ các chị hát ở đâu bởi lúc đó, Sài Gòn chưa có một phòng trà nào, mà dẫu có, các chị cũng chưa đủ tuổi để vào những nơi đó. Điều đó chứng tỏ là mẹ và dượng tôi (từ nay tôi sẽ gọi dượng bằng bố) không hề có ác cảm với việc con mình đi hát. Chuyện hát hò có lẽ chỉ nghiêm khắc đến nghiệt ngã đối với tôi, mà cho đến bây giờ lý do tại sao tôi vẫn không hiểu.
Lại dọn nhà nữa, có lẽ vì ở gần bà nội, mẹ tôi cứ bị ông em của bố tôi qua tận nhà chửi bới, thậm chí còn xông vào muốn đánh mẹ. Ông này là em dưới ông Đổng Lân…trong có 2 năm, dọn nhà 3 lần, tôi mất trắng những ngày được đi học. Tuy vậy, tôi cũng lờ mờ hiểu được rằng… bên nội sau không thích mấy anh chị em tôi, nhất là không ưa mẹ tôi chút nào, không tán thành cuộc hôn nhân của bố mẹ. Có lúc tôi hỏi mẹ… Sao mẹ không nhận lời cái ông Tây yêu mẹ và yêu cả các con. Cái ông Toàn Quyền ở Hà Nội ấy…Mẹ tôi cười. Ôi! tình yêu. Thì ra mẹ tôi yêu bố tôi, quên đến nỗi quên hẳn bố ruột tôi đang trông chờ tin tức của vợ con, quên hẳn mình đã có 3 đứa con, quên luôn rằng lúc đó bố tôi đang ở với bà Lan Phương (em bà Ái Liên, dì ruột của ca sĩ Ái Vân).
Nhà chúng tôi nằm cạnh Nha Quân Nhu đường Trần Hưng Đạo. Lúc này, tôi đã vào nếp như ý mẹ tôi mong muốn, nhưng tôi chẳng làm sao quên được hình ảnh của một buổi chiều mẹ đến mẹ đến nhà bà nội tôi ở Hàng Bông. Sau khi nói chuyện với bà nội, mẹ bảo với chúng tôi ….Bố các con chết rồi. Hôm đó mẹ rất đẹp, mẹ mặc áo dài mút-sơ-lin màu tím hoa cà, có những chấm tròn trắng, quần đen, kính đen và to.Tóc mẹ chảy ngược ra sau, bới lại. Mẹ, hôm đó đẹp lắm. Mẹ tôi lúc nào cũng đẹp. Bà không chịu được cái gì xấu, không chấp nhận cảnh nghèo, không chịu thua kém ai và dĩ nhiên, bà muốn các con của bà nếu không theo kịp cũng có phần nào cái đẹp của bà, dẫu bà nợ nhiều lắm. Mẹ tôi vẫn cứ, bà vẫn cứ là cái đinh trong mắt … 2 bà nội của chúng tôi.
Như thế, tôi có hai bà nội. Ngày giỗ bố tôi, mẹ và các em tôi đều có mặt… ăn giỗ Bố Viễn… các em tôi bảo nhau như vậy. Chúng tôi sống chung hoà thuận, không hề có chuyện Bố tao, Bố mày bởi chúng tôi cùng một mẹ sinh ra. Với tôi, cho dù bố mẹ không thương cũng không hề tị nạnh ganh ghét các em. Một gia đình, thoạt trông vào quả là hạnh phúc qua những đứa con, nhưng vẫn có những cơn sóng ngầm dữ dội. Bố Viễn tôi ngày xưa yêu và bằng mọi cách cưới mẹ cho được. Gia đình nội tôi khá giả. Bố tôi học trường Tây đến hết trung học, ông đi Hongkong. Tôi không hiểu rõ ông đến Hongkong làm gì nhưng bà nội cho biết ông nói được 7 thứ tiếng Tàu, tiếng Mỹ. Một thời gian làm việc với Nhật nhưng sau đó, ông theo phong trào chống lại Pháp. Vậy việc ông đi Hongkong có liên quan gì đến đảng cộng sản được chính thức thành lập sau này hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hơn là bố cưới mẹ tôi ở Hongkong. Khi hai ông bà trở về, mẹ đã có thai và bà nội tôi đành phải cưới vợ cho con, người con độc nhất của bà.
Theo lời mẹ kể, bà nội tôi là người nghiệt ngã, ông nội thì nhu nhược hiền lành nhưng vẫn có thêm vợ. Bà tôi khai thác mỏ phốt phát và nuôi cả nhà. Mẹ bảo …Bố tôi là người hiền như cục, bố rất tốt với bạn bè. Ai xin gì cũng cho. Cho hết quần áo của mình, về nhà lấy quần áo của ông nội, cho luôn. Đi làm nhưng chẳng bao giờ ông mang tiền về nhà. Mẹ có hỏi ông bảo …cho hết rồi. Bà nội và mẹ tôi không phàn nàn gì trước cái lối vung tay của cậu Ấm. Bà tôi kể… Năm đó, bà đã 26 rất giỏi giang công việc buôn bán dù không biết chữ nhưng muộn chồng vì bà không được đẹp (Mẹ thường bảo tôi giống bà nội). Ông nội nhà giàu, không có con trai, nhờ người mai mối thế là bà tôi về làm lẽ. Một hôm bà đang ngồi trước cửa, có ông thầy bói đi qua, bà tôi đang phiền muộn về nỗi chậm con bèn nhờ ông ta coi, bà cũng kể lể nỗi niềm hiếm muộn của mình. Ông thầy nói với bà rằng… Bà sẽ có một người con nhưng người con này sẽ không ở với bà lâu vì tiền kiếp của đứa bé này là một người Tàu, ông này làm quan và chết trẻ… Thế rồi bà tôi sinh bố tôi và chỉ một lần đó thôi.
Tôi không quan tâm đến chuyện giàu có của bà nội và khi gặp mặt lần đầu tiên tôi đã 5 tuổi rồi. Bà nội ở một mình, 106 Hàng Bông. Nhà rất rộng, căn ngoài bà mở depot nước đá, căn thứ hai có một cái giường lớn, cái bục thì đúng hơn, lát đá hoa, trưa hè Hà Nội nóng nực, nằm xuống, sướng không chỉ cái lưng. Qua một khoảng sân rộng ngổn ngang những dụng cụ điện làm bằng sứ trắng tới phòng của bà và chúng tôi. Lại một khoảng sân đầy dụng cụ nữa, mới tới nhà vệ sinh. Sau khi hồi cư, mẹ để chúng tôi ở với bà, còn mẹ đi buôn bán, nghe đâu ở Hải Phòng. Tôi rất ngại đến gần bà vì bà tôi rất nghiêm, ít khi hỏi tới các cháu và luôn luôn có ác cảm với mẹ tôi. Phần tin tức bố tôi cứ mù tăm, hoặc là bà có biết, mẹ có biết nhưng nghĩ chúng tôi còn bé dại, có nói cũng vô ích.
Tôi bị nhức trong xương, bà bảo là tê thấp, phong thấp gì đó và từ nhỏ, tôi đã phải uống những chén thuốc Bắc đắng nghét. Dù bà không nói nhiều với chúng tôi nhưng bà săn sóc rất đầy đủ. Bà hay nấu cháo hoa cho tôi ăn với đường, bà cho anh Sơn ăn cao ban long, cao hổ cốt do chính bà nấu và bán. Bà tôi còn biết làm xà bông nữa, những thỏi xà bông màu xanh được cắt vuông vức. Bà còn chơi hụi và thỉnh thoảng bà dắt chúng tôi đến những buổi lên đồng, gọi là “lấy lộc”, tụi tôi rất khoái cái màn này. Uống thuốc Bắc, ăn sáng bằng cháo hoa, đi xem lên đồng và nằm ngủ trưa trên cái giường lát đá hoa cho đến lúc mẹ cho chị Yến và tôi vào nội trú. Tôi không hiểu vì sao mẹ không gởi anh Sơn theo chương trình Pháp nơi trường bố tôi đã học. Chắc mẹ có lý do riêng. Tôi thắc mắc không hỏi để đến bây giờ thì quá trễ rồi.
Gần như chúng tôi chỉ được mẹ đón một lần mỗi tháng. Mẹ đón, nhưng lại đưa chúng tôi về nhà bà nội, rồi lại đi mất. Tôi đã quen sự ơ hờ của mẹ và những ngày cuối tuần của tôi rất thần tiên. Tôi không phải bưng đĩa rau dền xay nhuyễn với bơ lên văn phòng của Bà Nhất để vừa khóc vừa ăn, tôi gọi món đó là …cứt trâu. Về với bà nội dù chỉ 2 ngày, tôi tung tăng chạy khắp phố Hàng Bông, được ăn bánh mì paté gan cháy, xôi lúa hoặc thơ thẩn trước các cửa hàng nghe lóm nhạc. Tôi biết nghe “Bà Mẹ Quê, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê…”. Tôi quen cái vị đắng khó uống của những thang thuốc Bắc và thích đặt lưng lên cái sạp lót đã hoa, mát đến lạnh người. Mỗi tháng chỉ uống thuốc được 4, 5 lần nên tôi ôm cái bệnh gọi là phong thấp cho đến bây giờ và cũng một phần vì nó, tôi làm quen với thuốc ngủ.
Nhạc của Phạm Duy và của các ông nhạc sĩ thời bấy giờ đã len lỏi ấn núp trong trí nhớ thơ dại của tôi từ những ngày lang thang trên con phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Ra khỏi nhà, nếu đi thẳng, tôi sẽ đến bờ hồ. Rẽ tay phải là Hoả Lò. Rẽ trái tới phở Phú Xuân và rạp xi-nê Kinh Đô. Thời đó, chúng tôi hay sưu tầm program in mầu đẹp lắm và tôi nhớ mãi cái phim Ấn Độ “Magala cô gái Ấn”. Ôi! cái phim buồn làm sao, tôi khóc quá sức khi thấy trên màn ảnh hai người vừa khóc, vừa hát vừa chia tay nhau. Tôi cũng được xem phim “Cô Gái Việt” mà tôi nhớ bài hát chính của phim… Lời sông núi bừng vang bốn phương trời… Trong những ngày cuối tuần đó, tôi cũng đến ở với bác Tuất. Nhà bác ở ngay cạnh Quốc Tử Giám. Chỉ băng qua đường, tôi có thể vào leo lên lưng mấy con rùa to tướng bằng đá. Đêm đến cả nhà kéo đi xem cải lương. Tất cả chục mạng chất trên một chiếc xích lô. Tôi thích cô Kim Chung, Bích Hợp, Kim Xuân và danh hài Tứ Vững, Phúc Lai. Tôi cũng mê cải lương từ đó. Nghĩa là cái gì có ca, diễn là nó đi thẳng vào đầu tôi.
Bố mẹ tôi có ngôi biệt thự lớn lắm. Cả một con đường toàn những biệt thự có chó bẹc-giê, có người da đen gạch mặt giữ nhà, tụi tôi thường chọc phá rồi chạy trối chết về nhà. Tôi không nhớ tên đường nhưng nó nằm ở gần Hồ Tây và cũng gần vườn Bách Thảo. Tôi vào vườn lượm những trái chi chi nhỏ xíu đỏ tươi hoặc ra lội xuống đền Ngọc Sơn… Nếu dòng đời cứ êm ả trôi như thế, tôi đã trở thành một bà sơ vì cho dẫu các thiên thần đã dùng roi mây đánh vào các ngón tay tôi, dù có bắt tôi lên văn phòng cho hết cái món …cứt trâu, co la mắng chúng tôi…Các vous có muốn làm cái thứ trèo me, trèo sấu ấy không? Hình ảnh các bà sơ thật là đẹp đẽ. Nếu bố tôi không chết, nếu không có cuộc di cư và nếu mẹ tôi cho tôi tiếp tục học trường đó – sau di cư dọn vào Đà Nẵng – thì có lẽ cuộc đời tôi đã theo một hướng khác. Nhưng một là mẹ không chú ý đến tôi, hai là sau di cư, gần như đa số trắng tay. Nhà không giàu lại đông anh chị em, sẽ có đứa bị thiệt thòi. Điều này thường xảy ra. Ác ở chỗ, nó lại rơi trúng tôi.
Ở Trần Hưng Đạo, kế ngã tư Trần Bình Trọng, tôi học trường tiểu học Cầu Kho. Không ai khảo sát sức học của tôi, cứ theo tuổi xếp lớp thế là tôi cứ ngày ngày lội bộ đến trường, chẳng học được gì chỉ để rệp cắn nát hai bên mông và đùi. Tôi không dám nói với thầy cô rằng tôi chẳng hiểu gì ngoài môn học thuộc lòng, mà thầy cô cũng không thấy cái dốt của tôi. Về nhà, chẳng ai chú ý đến chuyện học của tôi cả. Rồi chị Yến lấy chồng, người này quen với bố tôi, đến nhà thấy chị hiền lành đẹp đẽ, giỏi giang bèn sớt đi. Tôi biết chắc chắn chị tôi không yêu anh ta nhưng ở nhà chị khổ quá. Không được đi học nữa, phải chăn một lũ em, phải phụ với u già làm hết mọi việc. Chị cho rằng đi lấy chồng là thoát ra khỏi cái cảnh khổ. Bố tôi bằng lòng. Mẹ tôi thì không. Đám cưới chị Yến đơn giản đến độ giờ tôi không còn nhớ. Cái điều đáng nhớ nhất là ngày đó, mẹ tôi la mắng chị dữ lắm. Chị chỉ ngồi nghe và khóc. Tôi thường tự hỏi tại sao mẹ lại có hành động như vậy. Mẹ thương, không muốn rời xa chị vì chị mới 16 tuổi hay vì mất chị, mẹ như mất một cánh tay, nói rõ hơn mất một người làm việc giỏi?
Chị tôi khóc trong ngày cưới và khóc cả cuộc đời làm vợ, làm mẹ. Những giọt nước mắt rơi xuống, không phải để khóc cho hạnh phúc. Chị tôi đi lấy chồng và đó là lỗi lầm lớn nhất, duy nhất chị vấp phải. Một lần cho một đời. Chị tôi đi lấy chồng. Lấy người đàn ông đầu tiên chị quen. Chị tôi còn trẻ dại, chưa biết gì về tình yêu. Nói đúng hơn, chị không hề yêu, không biết tình yêu nó như thế nào. Bây giờ trên 60, chị tôi vui với 5 đứa con và một bầy cháu nội, ngoại. Tính chị đơn giản, không biết giận hờn ai bao giờ, nếu có thì có lẽ là người đã tặng chị 5 đứa con.
Thế là chị tôi đi lấy chồng. Lấy chồng ở cái tuổi còn thơ, chưa biết tình yêu là gì. Chưa biết ngoài gia đình, cuộc đời xoay dần ra sao. Hơn 40 năm sau hỏi, chị bảo… Thì ai mà biết gì, bố mẹ bảo lấy, bắt lấy thì phải lấy, thế thôi… Tại sao lại thế? Tại sao lại có một tâm hồn, một con người đơn giản như thế? Chị vẫn cứ cười xem như chẳng có gì là quan trọng. Mà cũng phải thôi, các con chị đã lớn. Chị không còn trẻ. Không, 27 năm trước chị còn trẻ mà dường như không bao giờ chị nghĩ đến cả chuyện… làm lại bởi một lẽ đơn giản, chị không biết yêu, nên chị sống với các con và bây giờ là các cháu.
Tưởng chị là người không may hoá ra chính chúng tôi mới là những đứa không may. Nhìn chị bây giờ, tôi tự hỏi… phải chăng ngoài cái không biết yêu, hình như chị cũng không bíêt đau khổ là gì. Ngày xưa, chị Yến chỉ có độ hai, ba người bạn cùng xóm, giờ chị có nhiều bạn, chị “ăn hụi” cùng nhóm bạn già nay đi Thái Lan, mai đi Hà Nội chơi Chùa Hương, vịnh Hạ Long. Chị có thể đi bất cứ nơi nào chị muốn không cần xin phép ai. Chị luôn vui cười như trẻ thơ không hề biết lo âu. Tôi về, chị đeo theo tôi quên cả con dâu vừa sanh, đến nỗi tôi phải nhắc để chị nhớ là chị vừa có thêm một đứa cháu nội. Chị theo tôi, có những hôm tôi ngồi cả ngày với ông TCS chẳng nói năng gì, mà có nói, chuyện chúng tôi chị đâu có hiểu nhưng chị vẫn đi theo không hề phàn nàn, kêu ca mệt mỏi.
…Sau khi em đi rồi, chị đi bán chợ trời, cái gì bán được là bán. Lão ấy bỏ chị và mấy đứa con bơ vơ. Rồi mất nhà, mấy mẹ con lăn lóc, nay ngủ nhờ chỗ này, mai nhờ chỗ khác. Mẹ thì khó tính, ở không được lại xách con đi. Một hôm chị gặp một ông thầy – tôi quên không hỏi chị là Thầy nào, Công giáo hay Phật giáo – lan man kể lể tâm sự khổ sở của 6 mẹ con, bất ngờ ông Thầy nói… tưởng ai chứ chị là chị của cô Khánh Ly, ngày trước cô ấy thường hát giúp chúng tôi để gây quỹ nuôi các trẻ mồ côi tàn tật, thôi thì bây giờ tôi để lại cho chị mảnh đất và căn nhà này, chị trả góp cho tôi tới bao giờ hết thì thôi… Miếng đất khá rộng và căn nhà thì gần như đổ nát trị giá 10 cây vàng - dẫu có đổ nát cũng là cái nhà, có chỗ cho mấy mẹ con chui ra chui vào – và rồi với những gói quà 2 pounds tôi chắt chiu gởi về, lần hồi chị cũng trả được hết món nợ đó.
So với căn nhà bị tịch thu của chị, dĩ nhiên là không bằng nhưng tôi lại thích bởi cái vẻ nghèo nghèo, nho nhỏ của nó… Em không dư tiền gởi về cho cả gia đình, chỉ có thể mỗi năm gởi một lần cho Yến mà thôi. Các cháu lớn hết, đã có gia đình công ăn việc làm, không giầu nhưng đủ sống và như thế nay, Yến sống sướng hơn tụi em nhiều lắm… Chị biết, chị nghe nói mấy em ở Mỹ làm việc cũng cực khổ lắm. Chị không thiếu gì vì các cháu. Tiền em gửi, chị để dành lúc về già hay bịnh hoạn… Bao nhiêu năm rồi, từ một thiếu nữ nay thành bà nội, bà ngoại, chị tôi vẫn hồn nhiên… không biết tiền là gì, nói gì đến tình yêu.
Chị không tha thiết đến việc đi Mỹ… Chị chỉ muốn đi một lần cho biết rồi về chứ ở bên ấy làm gì… Yến ạ, em giờ chưa đủ điều kiện để cho Yến đi du lịch thăm thú nước Mỹ nhưng mấy chị em ở đây góp lại cũng chẳng khó khăn gì… Số chị lại không may. Hồ sơ nộp theo diện bảo lãnh mà bây giờ xin du lịch thì …hỏng rồi. Chờ một năm nữa mở hồ sơ bảo lãnh thì chắc chắn là chị sẽ được đi nhưng cái chính là chị tôi không muốn qua đây rồi … ở lại đây. Tôi cũng hiểu một người như chị dù có ăn học, dù ngày xưa này mặc áo lụa vàng lái “xế hộp” chạy phăng phăng trên xa lộ khiến có lúc nhà văn Nguyễn Đình Toàn… suýt đổ nhưng hơn 20 năm, dẫu trãi qua lắm hồi bỉ cực, đời sống chị ở quê nhà đã thành nếp, chị khó sống ở nơi khác, nơi không có những bạn bè cùng “ăn hụi” với chị, nơi chị mỗi tháng giúp đỡ cho 2 học sinh nghèo học giỏi.
Tôi rất thương chị, dĩ nhiên vì chị là chị ruột của tôi, nhưng đồng thời, tôi nhận ra rằng đừng thương hại chị bởi chị, con người chị đơn giản quá, chị không biết khổ đau hoặc chị không để khổ đau gậm nhấm giết hại tâm hồn vốn luôn hồn nhiên của chị… Trong nhà thường chép miệng… tội nghiệp chị Yến, lúc có tiền chẳng được hưởng gì… Đúng, đối với chị, hờn giận, hối tiếc là những điều không tìm thấy ở con người chị. Đơn giản, hồn nhiên vô tư hơn cây cỏ. Đó là cái mà chúng tôi không có làm đôi khi tôi hơi ganh tỵ mỗi khi nghe tiếng chị cười giòn tan qua điện thoại hoặc mỗi khi con chị cho biết… Mẹ con đi Thái Lan, đi Hà Nội chơi rồi… Sao chị sướng thế nhỉ. Cái phần thưởng Trời Đất dành cho chị lúc cuối đời thật là đẹp đẽ, tốt lành. Bởi chị sống tốt lành.
Chị cả đi lấy chồng thì cứ theo thứ tự từ trên xuống dưới. Con em kế tiếp những công việc chị thường làm là tôi. Nhà thì đông, chỉ có một u già theo bố mẹ từ Hà Nội vào Nam. Mẹ tôi giao hết công việc cho u già và chị Yến. Bà không hề làm một việc gì dù là xuống bếp lo nấu nướng cho bố tôi. Bà giao cho tôi 70 đồng đi chợ mỗi ngày. Trưa 4 món, chiều 4 món khác nhau. Trời đất ạ! tôi đã có đi chợ mua bán bao giờ. Cái làn đi chợ thiếu điều còn muốn to hơn tôi nữa và không bao giờ tôi quên được cái cảm giác lần đầu tiên bước chân vào chợ một mình. Tôi cứ loay hoay vẽ lại trong trí nhớ những món ăn mà chị Yến và u già đã nấu… Canh dưa chua thì phải mua những gì, cà bung rồi thịt đông cần gì. Canh bầu canh bí, rau muống luộc hay xào. Đậu nhồi thịt rán hay đậu rán om cà chua…. cái đầu nhỏ xíu của tôi phải làm việc dữ dội để tránh khỏi bị đòn nếu không làm đúng những điều mẹ tôi dặn.
Lúc đó tôi học trường Cầu Kho. Trường cứ theo tuổi sắp lớp không hề khảo sát trình độ của học sinh, có lẽ họ nghĩ con nít không cần thiết, nên tôi vào ngay lớp nhì. Buổi sáng dậy sớm xách làn đi chợ, về giặt hai chậu quần áo, phơi phóng xong, ăn cơm rồi đi học buổi chiều. Nói là đi học chứ thực tình, tôi có học được cái gì. Lẽ đơn giản là tôi không có căn bản, tôi chẳng hiểu gì. Thầy giảng cứ giảng, tôi ngồi như vịt nghe sấm, chờ tới giờ về. Người anh thứ hai của tôi kế chị Yến, hơn tôi 2 tuổi, học trường Văn Lang. Anh Sơn cũng là người thông minh, thích nhạc, thích vẽ, mê nhảy đầm và nhiều bạn. Bạn của anh cũng tự nhiên trở thành bạn của tôi. Anh đưa về các anh nguyễn Đức Nam, anh Đinh Bù Loong (thân phụ của ca sĩ Diễm Liên), anh Nguyễn Ngọc Kiểm tức anh Ngọc Hoài Phương bây giờ. Trong tất cả các bạn của anh chỉ có anh Ngọc Hoài Phương là được bố mẹ tôi cho vào nhà, coi như con ruột. Còn những người khác, đang ngồi chơi, nghe tiếng xe của bố tôi là ù té chạy hết. Do đó, ngay từ nhỏ, tôi đã xem anh Ngọc Hoài Phương như anh ruột của mình. Anh gọi tôi bằng “chú” và tôi cũng gọi anh như vậy.
Tôi trượt tiểu học, khỏi nói cũng có thể hiểu được sự thất vọng và giận dữ của bố mẹ tôi. Có học được gì đâu mà đậu. Thầy giáo cứ giảng, tôi cứ ngồi đó lẩm nhẩm thơ Nguyễn Bính, hát thầm trong bụng cho đến hết giờ. Ngày đi thi cũng thế, tôi nào có tha thiết gì đến chuyện học hành, thi cử, vì vậy sau cuộc thi tiểu học, tôi vẫn đi học nhưng không thi cử gì nữa hết. Tôi đi học là bởi muốn đi ra khỏi nhà để khỏi phải nghe những lời mắng nhiếc của mẹ, cái nhìn hầm hầm giận dữ của bố, tránh những ngọn roi, những cái tát, những chiếc giầy đập túi bụi trên đầu trên cổ tôi. Mẹ gởi tôi vào nội trú trường Thánh Mẫu cũng chỉ được chưa gần một năm đã bị trả về vì tội leo trường trốn đi chơi với một trong những người bạn của ông Ngọc Hoài Phương. Hoàng là người tôi thích và cũng là người viết cho tôi những lá thư tình đầu tiên. Bao nhiêu thư mở đầu bằng hàng chữ “Bé Mai”. Tôi giao cho ông anh Ngọc Hoài Phương cất giữ. Mẹ bắt tôi vào nội trú chỉ vì một lần bố tôi bắt gặp Hoàng và tôi đi bộ với nhau trên đường Võ Tánh. Ông nhảy xuống giáng cho tôi một bạt tai giữa cái nhìn kinh sợ của Hoàng và những người đi đường. Kết quả bao giờ cũng thê thảm với sự đốc thúc của mẹ tôi.
Tôi không nghĩ là mẹ thích thú khi thấy con mình bị đánh đập nhưng có lẽ bà khó chịu đựng được cái nết lì lợm của tôi. Mắng chửi, tôi cãi lại. Đánh đập, tôi không khóc. Bắt xin lỗi, tôi không mở miệng mà ý muốn của mẹ tôi gần như là ý Trời, không đứa nào trong nhà dám làm người lại lời bà phán, kể cả bố tôi. Mẹ không thấy được sự trưởng thành quá sớm của tôi từ cái chết của người Cha mà tôi rất mực tôn thờ. Bà không mường tượng ra được sự việc đó lại ảnh hưởng đến tôi nặng nề như vậy. Mẹ không đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi, một đứa bé mồ côi cha luôn luôn mong ước được sự vuốt ve âu yếm của Mẹ, để bù lấp nỗi thiếu thốn lớn lao nó đã mất vĩnh viễn. Mẹ lại càng không đọc được trong tim tôi một nỗi hờn ghen uất nghẹn không thể nói thành lời. Tôi vẫn thương Mẹ, thương các em, một tình thương chân thật. Chị em chúng tôi sống từ đó cho đến bây giờ không hề có sự chia biệt nào. Tất cả đều sống cùng một mái nhà, có cùng một người mẹ. Song mẹ tôi dường như quên hẵn sự có mặt của tôi trong đám con đông đúc của bà. Suốt một đời tôi thèm khát vòng tay ôm ấp và những lời nói trìu mến của một người Mẹ. Tôi thèm tình thương, và phải chăng những bi thảm của đời tôi, bắt đầu từ sự thèm khát bình thường tội nghiệp này.
Sau trường Thánh Mẫu, tôi đổi trường liên miên. Một năm trường Việt Tiến. Một năm trường Hưng Đạo. Một năm Nguyễn Bá Tòng. Tôi không phải đi bộ hay đi xe bus. Bà nội mua cho tôi một chiếc xe đạp mà tôi luôn luôn chạy giữa đường chứ không bao giờ đi vào lối dành cho xe đạp. Đùng một cái, chiếc xe bị mất. Nó bị ăn cắp chứ không phải tôi sơ ý. Mẹ tôi bảo…mày cứ chờ đấy, bố mày về rồi mày sẽ biết. Tôi quỳ giữa nhà, bố tôi cầm chiếc giầy của ông đập túi bụi vào tôi. Mẹ tôi ngồi nhìn tôi bị đánh, thản nhiên, thỉnh thoảng thêm vào … đánh nữa đi, đánh cho nó chết, cho nó chừa đi, mất xe thì mày đi bộ, không có tiền đâu mà mua xe khác cho mày… Bố tôi vừa đi làm về mặt đỏ bừng vì rượu, được lời của mẹ, ông túm lấy tóc tôi, xoắn lại, tay kia tiếp tục giơ cao chiếc giầy. Tôi đau quá nhưng lạ lùng làm sao, tôi không hề khóc. Tôi khóc không được vì nỗi oan ức và nghĩ xe của bà nội cho và nào tôi muốn làm nó mất. Trong trái tim non dại của tôi chợt vang lên…. Bố ơi! Bố ơi! Bố ở đâu… và tôi cảm thấy một nỗi căm phẫn chưa từng có bùng lên. Anh Sơn và các em tôi chẳng đứa nào dám nói một câu, chắc chúng không hiểu vì sao tôi bị đánh như thế. Chúng còn quá nhỏ và chưa hề bao giờ bị đòn.
Tôi thường lẫn vào đâu đó để khóc một mình sau mỗi trận đòn. Càng bị đánh tôi càng lì đòn, không sợ nữa, không cảm thấy đau đớn nữa. Căm phẫn, tủi thân, tôi cứ làm những gì tôi thích trái ngược hẳn với ý muốn của mẹ. Anh Sơn và các bạn anh đi chơi, đi “Bal Famille”, tôi bu theo. Chẳng cần ai dạy, tôi nhảy rất giỏi, nhất là nhảy “be bop” nên thời đó bạn bè gọi tôi là “Mai bộp, Mai đen, Mai chân voi”. Tôi bất cần dù sau mỗi lần trốn nhà đi chơi là lại lãnh một trận đòn nhưng anh Sơn tôi thì không bị gì cả. Thời đó đi nhảy như một cách biểu diễn những bước nhảy mới chứ không hề có sự lợi dụng trai gái. Vả lại, mọi người đều xem tôi như một thằng con trai và tiếng nhạc trong những lần khiêu vũ đã làm thức dậy nổi đam mê ca hát tưởng đã chết trong những ngày tháng buồn bã. Lúc đó tôi chỉ mơ hồ cái cảm giác thích được hát thôi. Mẹ tôi bị đau nhức tay chân, ngày nào tôi cũng đấm chân cho bà và trong những lúc ấy, bà hay cho chạy những đĩa nhạc Tango. Tôi đấm chân cho mẹ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Mẹ tôi không hết nhức mỏi nhưng điệu nhạc Tango đã chui vào đầu tôi, đến nỗi những lúc mỏi tay quá, tôi đấm cho bà theo nhịp điệu Tango.
Anh Sơn biết tôi thích hát. Anh không ngăn cản mà hầu như tạo cơ hội cho tôi. Chính vì thế mới có những lần ở vũ trường Đồng Khánh, tôi dám leo lên sân khấu và từ ở đó, tôi nảy ra ý định tìm cho mình một cái tên. Tôi vốn mê đọc truyện từ nhỏ, nhất là Tam Quốc Chí và Đông Chu Liệt Quốc. Từ những chuyện đó, tôi tìm được 2 nhân vật Khánh Kỵ và Yêu Ly. Cái tên Khánh Ly có từ lúc đó….
Từ thuở hồng hoang, thú vật đã biết tìm cho mình những hang ổ để sống. Là người, ai lại không muốn có một mái ấm gia đình, anh chị em quây quần yêu thương nhau, lẽ dĩ nhiên vẫn hơn những kẻ lạc loài không mái ấm tựa nương. Dẫu cho rằng tôi không thể yêu thương Bố Dượng như Bố ruột, nhưng nếu ông coi tôi như những đứa con của ông, điều đó sẽ an ủi tôi biết bao nhiêu. Với các em tôi, tôi yêu chúng, hay nói đúng ra, chúng tôi thương nhau như chị em cùng cha mẹ. Chúng còn nhỏ, chưa biết gì và ngay cả khi hiểu biết, chúng tôi cũng không hề phân chia… Bố chị… Bố em... Cũng chẳng bao giờ tôi quên ơn Dượng. Ông và Mẹ tôi cho tôi đi học đàng hoàng nhưng… lỗi tại tôi mọi đàng… Phần còn lại, tại ai, tôi không biết và chữ nghĩa đối với tôi như chuyện thần thoại, một điều không có thật.
Một năm nội trú trường Thánh Mẫu, tôi chỉ nhớ tên một người bạn, đó là chị Lài – đã lấy chồng và đi Pháp từ lâu – một chị nữa hiện là nữ tu, tôi vô tình gặp lại trong chuyến đi Vatican 1998. Phụng Hoà học chung với tôi ở Hưng Đạo. Em trai là Phùng Thuận vừa mất tại Cali. Ở nội trú, lễ Misa được lập lại như những năm tôi học ở St. Marie. Cũng 5 giờ sáng, chỉ khác là quần áo tuỳ tiện và không có mũ. Đặc biệt là không có cái món… cứt trâu rau dền nghiền nát trộn bơ. Mỗi tuần được ăn phở một lần. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhớ cái câu… Phở không người lái. Tức là cách đây mấy chục năm, tôi đã được ăn phở không người lái… bằng đĩa. Hơi sâu chứ không phải tô, với nước và chừng… chục sợi bánh. Tôi đi trước Việt Cộng với Xã Hội Chủ Nghĩa nhiều năm…. Tôi không buồn vì trường mới di cư, tiền học phí thấp nên ăn uống có phần giản tiện. Một con tôm kho có thể ăn hết bữa cơm vì nó mặn như một… kho muối.
Tôi được vào nội trú là vì cái người con trai đã gọi tôi là… Bé Mai…. Mẹ bảo… để nó ở ngoài, nó phễnh bụng ra lúc nào không biết…. Tôi chẳng hiểu vì sao và thế nào là phễnh bụng. Phải chi Mẹ chỉ bảo cho tôi tường tận, như tôi và các con tôi bây giờ, thì đã không thành chuyện và cuộc đời tôi nó sẽ khác, phải khác đi nhiều. Đã không học được, không muốn học, nên ở nội trú mà tôi… quậy… tới bến. Bài không học, không làm, còn trùm mền soi đèn pin đọc thơ Nguyễn Bính, đọc tiểu thuyết. Gần hơn nữa là đã dám trèo tường đi chơi với Đạt. Ngay khi đưa tôi vào xin ở nội trú, Mẹ tôi đã tường trình đầy đủ những nét xấu và lì lợm của tôi, thế cho nên các sơ chú ý đến tôi nhiều lắm và hành động leo tường trốn đi chơi là giọt nước đã làm tràn ly nước. Lỗi của tôi. Một lầm lỗi không thể khoan nhượng và lần này không phải là giầy mà là củi tạ. Tôi không có lý do nào để bào chữa cho mình và chấp nhận trận đòn đau đớn hơn cả những lần trước. Mẹ đánh tôi là phải là đúng.
Đạt chỉ là một trong những người bạn của anh tôi. Ở tuổi đó, tôi chưa biết thế nào là yêu, thế nào là tình yêu. Chỉ thấy đi chơi là vui là đi, nào đã có vấn đề trai gái. Tôi có chung với anh tôi rất nhiều bạn, toàn là bạn trai. Đạt đẹp trai, học rất giỏi tôi thích, nhưng đó không phải là tình yêu bởi tôi mới 14 tuổi, ham vui, ham đấu láo và bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những bài hát, bài thơ tôi thuộc nằm lòng thay vì những bài học trong trường, mà dù cố gắng, tôi cũng chẳng thể nào nhét chúng vào đầu. Những bạn bè nào học chung với tôi, nếu còn sống đều biết rõ tôi là đứa học trò tồi nhưng là người có những bài thơ tuyệt vời của Nguyễn Bính và biết hát.
Tôi vẫn được đi học, vẫn đi chợ mỗi ngày, vẫn giặt quần áo và làm việc nhà kể cả công việc… đấm chân cho Mẹ là điều không thể thiếu được. Kể ra, nếu mọi chuyện cứ như thế tiếp nối nhau ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, đời tôi không biết sẽ như thế nào. Chắc lại lấy chồng, đẻ con và đau khổ như chị Yến thôi nhưng số tôi hình như được sinh ra dưới một ngôi sao xấu nhất trong các ngôi sao xấu, để luôn luôn nhận lãnh những oan khiên, tủi buồn lúc nào cũng chờ chực sẵn. Những chuyện chẳng đáng gì, dính vào tôi bỗng thành lớn chuyện – hình như đến bây giờ… cũng thế – không phải tôi hỗn láo, lì lợm không biết nhận lỗi, không biết phải trái nhưng tôi luôn luôn cúi đầu nhận lãnh một hình phạt bởi tôi nói ra không ai tin. Riết rồi tôi trở nên nhẫn nhục, im lặng nhận chịu những trận đòn, những lời đay nghiến, đôi khi độc ác của Mẹ dù tôi cố gắng tin rằng thâm tâm Mẹ không hề muốn nói ra và Mẹ cũng thương tôi vì chính Mẹ đã sinh ra tôi – niềm tin này đôi khi bị lung lay bởi nếu tôi cũng là con do Mẹ sinh ra, sao Mẹ lại không hề thương cho những trận đòn tôi phải chịu và sao Mẹ lại nỡ nói với tôi những lời cay nghiệt ấy – Vậy thì thân phận của tôi ra sao, như thế nào. Sau này, có lúc tôi hỏi… Mẹ nói thật đi, con có phải là con của Mẹ hay Bố Viễn… mang con về cho Mẹ nuôi… Mẹ tôi không trả lời.
Bà Nội tôi ở một mình trong một căn nhà khá rộng trong ngõ 20 đường Phan Thanh Giản. Bà ở trên gác, dưới nhà cho mướn. Ngoài đường, bên trái là tiệm ảnh Mạnh Đan, bên phải là Bệnh Viện Bình Dân và Cư Xá Đô Thành – sau này, ông Đổng Lân và cô Thanh Nga về ở đây – Bà tôi vẫn ở một mình từ hồi Di Cư, bà tiếp tục chơi hụi, bà nấu xà phòng xả, nấu cao ban long. Tôi chả biết bà chơi hụi hay buôn bán với những ai nhưng vẫn áo the đen, răng đen, bà cuốn tóc đi từ sáng đến chiều. Câu Bà thường nói… Giời ơi, nắng đến… há mồm ra… và,… Này, rồi còn đời các anh, các chị nữa. Không khéo ăn khéo ở thì rồi… biết đời nhau ngay… Mẹ tôi rất ít đến thăm Bà vì ngày xưa Bà đã cố ngăn cản, chống đối việc Bố Mẹ tôi lấy nhau. Rồi giờ Mẹ tôi đi thêm bước nữa, cái hố sâu ngăn cách giữa hai người còn bằng ngàn lần con sông Bến Hải. Tuy vậy ngày giỗ Bố, Mẹ tôi đưa tất cả chúng tôi đến Bà, chẳng có phân biệt, ranh giới nào giữa chị em chúng tôi. Chính bà Nội mua cho tôi cái xe đạp, rồi vì bị ăn cắp mà tôi nhớ đời trận đòn… mưa giầy của Bố tôi.
Một buổi chiều đi học xong, cái răng cấm của tôi đã hư và sưng tấy lên, đau quá, tôi đi thẳng đến Bệnh Viện Bình Dân xin nhổ – Bố tôi có quen cô Yến, y tá trưởng ở đây – nhổ xong tôi choáng váng mặt mày, đi bộ qua nhà Bà nằm nghỉ thì Mẹ tôi đến mắng chửi tôi và làm dữ với Bà tôi – chẳng hiểu vì sao – Tôi cố gắng giải thích lý do, Bà cũng nói vào cho tôi, vậy mà cơn giận của Mẹ mỗi lúc một dâng cao. Sau cùng, có lẽ vì nhịn quá lâu nỗi đau mất con, mất cháu, Bà tôi mát mẻ… Thôi chị ạ, tôi chỉ có một đứa con, giờ nó mất rồi, còn lại mấy đứa cháu, nếu chị không nuôi thì tôi nuôi… Thế là xong. Mẹ tôi đồng ý ngay không một giây suy nghĩ. Bà về nhẹ nhõm. Bà Nội tôi, ngó vậy nhưng cũng không phải là người ai bắt nạt cũng được dù Bà chỉ biết ký cái tên của Bà. Bà giỏi lắm và biết lo xa. Cái giường Bà nằm là cỗ hậu sự. Bà đã mua ngay khi mua nhà, tối Bà ngủ trên đó, tôi nằm dưới đất cạnh cầu thang cách chỗ Bà nằm một cái bàn nhỏ. Gian gác bên cạnh Bà cũng cho người thuê. Đêm nào Bà cũng đọc kinh Phật và tôi ngủ ngon trong giọng đọc đều đều của Bà mà không hề thắc mắc là Bà không biết đọc, tại sao Bà thuộc nhiều kinh thế.
Nhà tôi ở giữa ngõ tức là ngõ có đường vào và trổ ra một lối khác. Cách nhà vài căn là nhà anh Liêm với 3 người em trai và ông bố già, trước có trồng một cây đu đủ… đực – tức không bao giờ có trái – Tôi còn nhớ anh Liêm, Tín, Dương và Trực – đã chết trận – còn anh Liêm thì hình như vào Không Quân. Cả ông cụ và 4 anh em rất thương tôi, từ 4 anh em này, tôi quen biết Lê Nguyên Hải và Dũng lai Pháp, quen thêm Hạnh, người đẹp mà không hiểu sao các anh gọi là Hạnh Lỉn – tức là nhỏ – nhà Hạnh ở con đường nhỏ song song với đường Cao Thắng (sau này Hạnh là vợ của nhạc sĩ nổi tiếng Trường Hải). Nhà của Đạt cũng nằm trên con đường Phan Thanh Giản. Đạt đang chờ giấy tờ đi Mỹ, tôi vẫn đi học, để làm gì chẳng biết. Đạt bảo… khi nào học xong, anh sẽ về cưới em… Tôi chỉ cười và lại đưa hết thư tình cho bác Ngọc Hoài Phương cất giữ… Người ta nói vậy thì cứ biết vậy. Sau đó Đạt đi Mỹ và hình như chẳng có lá thư nào của Đạt gửi cho tôi, về địa chỉ nhà Đạt.
Tôi hay bu theo đám bạn con trai. Đi nhảy đầm… ké, vì đôi khi những nhà giàu có, dân trường Tây tổ chức bal famille tại nhà hoặc ở cercle, làm sao chúng tôi được mời. Ấy thế mà cũng mò vào được cả đám. Băng chuyên nhảy biểu diễn của chúng tôi có thêm Khánh, vua BeBop ở Tây về, có biết thêm Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thế Khanh tiệm vàng Nguyễn Thế Tài và mấy người con bên tiệm vàng Nguyễn Thế Năng. Nhảy đầm thời đó là nhảy biểu diễn, lấy hay lấy đẹp chứ không có chuyện lợi dụng nhau nên những cuộc nhảy với dân nhà giàu, chọn lọc thật vui. Tôi biết nhảy tự… mình ên, không ai dạy cả và bị đòn bằng củi tạ cũng nhiều vì cái vụ bỏ nhà đi nhảy. Cái tật ham vui phải trả những giá thật đắt. Thường là thế. Nhảy tại gia chưa đủ, tới vũ trường luôn và chính cái lúc tôi biết thế nào là vũ trường, Lê Nguyên Hải… tỏ tình với tôi dưới cây đu đủ đực nhà anh Liêm. Đạt đi rồi, mọi người coi tôi như một thằng con trai, thế nên khi Hải ôm tôi – nhẹ thôi – tôi quả có thấy trái tim tôi đập nhanh hơn và có cái gì là lạ chạy trên da thịt tôi. Thật ra, tôi có chú ý đến Hải hơn các bạn khác nhưng vẫn không hiểu vì sao, chỉ biết không gặp, thấy nhớ nhớ, mong mong. Gặp rồi thì vui nhưng vẫn không biết “nó là cái gì và vì sao”. Chúng tôi một bầy con nít chơi với nhau, đã có đứa nào biết yêu hay có bồ đâu. Tôi thích Hải. Anh học giỏi, hát hay và nhảy đầm cũng không thua ai. Năm đó là năm thứ nhất Hải vào trường Dược.
Khiêu vũ trường Đồng Khánh là nơi đầu tiên tôi tới để nhảy và ở đó, tôi nghe nữ ca sĩ Mai Ly hát. Tôi không còn nhớ mặt chị, chỉ mang máng là dưới ánh đèn mờ ảo, chị Mai Ly xinh đẹp và hát hay. Thế rồi trong một lúc hứng thú, lại được các bạn khuyến khích, tôi trèo đại lên sân khấu và xin với ban nhạc cho tôi hát bài “Con thuyền không bến” của nhạc sĩ Đặng Thế–Phong. Giám đốc, ban nhạc coi tôi như một người khách nổi hứng bất tử nên chẳng ai thắc mắc. Nhiều lần sau đó, chúng tôi kéo nhau đến nữa và lần nào tôi cũng leo lên hát. Nào là “Lá thư” nào là “Chiều vàng” nào là “Gửi gió cho mây ngàn bay” cũng chẳng ai thắc mắc gì cho đến một đêm cảnh sát ruồng xét và phát giác ra tôi mới… gần gần 16 tuổi. Tôi được vào ngủ trong đời lần đầu tiên trong đời ở Tổng Nha Cảnh Sát. Ngày hôm sau, Bố tôi vào ký giấy tờ lãnh tôi ra. Tới cổng, ông quay sang tặng tôi một cái tát trời giáng, thấy mấy trăm ông trời rồi lên xe bỏ đi. Tôi đi bộ về nhà, mặt tỉnh queo. Sau đó, ông và Mẹ tôi nói thẳng… Muốn đi hát thì đừng bao giờ về nhà vì nhà này không có… mả làm ca sĩ.
Tôi vẫn vô tư, hồn nhiên vì đã có Bà Nội nhưng chính Bà cũng không muốn thấy tôi đàn đúm với một đám con trai. Bà cũng la mắng tôi đều đều như khi bà… tụng kinh vậy và Bà lại càng không hiểu… ca sĩ là cái gì. Mà củng đáng tội, tôi chưa chính thức bồ bịch với ai trong đám bạn trai trời đánh của tôi ngoài Hải là người tôi mới hơi… mong chờ. Đám bạn trai của anh Sơn tôi thì người nào cũng thương tôi và xem tôi như một đứa em trai. Ấy vậy mà rồi Hải và tôi, cả hai đứa chưa kịp nói một tiếng yêu, Hải đã bỏ trường Dược gia nhập binh chủng Không Quân. Cũng như Đạt, Hải hẹn tôi ngày tôi ra trường và chúng tôi hồn nhiên nhìn một Lê Nguyên Hải hào hoa, học giỏi, hát hay, nhảy đẹp đi vào cuộc sống quân ngũ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau, tụ họp nói dóc và đi nhẩy đầm. Cũng là dịp biểu diễn cho Hải nghe. Thời đó tôi cũng đã biết hát nhạc ngoại quốc như Crazy Love – You are my special Angel – Put your hand on my shoulder – Only you và Unchained Melody, tiếng Tây thì Ma vie – Non Je ne regrette rien – Sur le chemin de ta maison – Hải gọi tôi là Connie Francis. Thời gian này, tôi quen biết nhạc sĩ Tùng Giang ở khiêu vũ trường Đồng Khánh….
… Đầu Đông, Đà Lạt thật tuyệt vời. Bà chủ Night Club là một bà già gốc Hoa. Có lúc bà cay nghiệt nhưng cũng có lúc dễ thương, thông cảm với cuộc sống của các chị vũ nữ làm việc với bà vì nhiều người vào nghề vì hoàn cảnh gia đình. Có chị ngày đi học, tối làm vũ nữ, có nhiều chị chồng đi lính xa, phải nuôi cha mẹ già và một bầy con. Tối đến, dưới ánh đèn mờ ảo của vũ trường, chị nào trông cũng lộng lẫy vì thực sự ngoài đời, các chị là người đẹp chẳng may trời bắt nghèo. Nhưng cái nghề này, theo tôi là một nghề lương thiện. Làm vũ nữ không có nghĩa là… đi đêm với mọi người. Không ai bắt các chị làm đều đó dẫu đó là bà chủ, cho dẫu người khách đó là triệu phú. Ngoại trừ trường hợp các chị để lòng yêu thì đó là quyền riêng của các chị. Giới giang hồ thường có mặt theo yêu cầu của bà chủ, để bảo vệ cho chúng tôi và nhà hàng trong những trường hợp khách say sưa, quậy phá đánh lộn. Chúng tôi trở thành một nhóm, coi nhau như anh chị em trong nhà. Tuy họ giang hồ, tuy các chị là vũ nữ nhưng tất cả, theo cái nhìn và sự hiểu biết của tôi, họ là những con người trọng tình, trọng nghĩa gần gần giống tinh thần Lương Sơn Bạc nhưng họ không phải là những tay giết người, không chơi gác kẻ yếu thế, bênh vực người, che chở người yếu đuối. Họ cũng là người có học, trường Tây có, trường Ta có. Tôi giành được sự chăm sóc của các anh chị trong suốt những năm tháng ở Đà Lạt. Một bài học. Một kinh nghiệm rất đáng trân trọng cho cuộc sống. Kinh nghiệm đó sẽ được sử dụng như thế nào, theo chiều hướng nào. Đúng là một bài học tốt cho tôi.
Tất cả những sự việc đã xảy ra, đã qua. Tất cả những khuôn mặt đã xa khuất mịt mù. Tất cả những gì gọi là hạnh phúc hay nỗi đau của một thời nào đó, chúng ta không còn nhìn thấy, tìm lại được. Tôi gọi đó là kỷ niệm. Tôi không có quá khứ, dĩ vãng như mọi người thường đề cập tới. Tôi chỉ có kỷ niệm và đó là tất cả gia tài tôi cưu mang cho đến một ngày nào đó.
Cái gì không còn nhìn thấy, không còn sờ tới được, dẫu chỉ một vài giây đồng hồ trước. Duy chỉ có kỷ niệm là bất biến. Nếu trong cuộc sống có một điều gì đó không thể thay đổi được thì đó là kỷ niệm. Những sự việc, những con người, đẹp có, xấu có đã bỏ chúng ta mà đi. Tuổi trẻ đã bỏ chúng ta. Mầu trong của mắt. Mầu xanh của tóc. Mầu hồng của môi. Ðã bỏ chúng ta. Lạnh lùng, tàn nhẫn và hồn nhiên.
Ở tuổi ba mươi, bốn mươi hay đã bước qua ranh giới nửa đời người như tôi hiện nay. Kỷ niệm không hề phôi pha theo ngày tháng. Mỗi ngày qua, chân bước tới gần cái cõi đi về. Tôi càng thấy gắn bó với kỷ niệm, như chỉ có kỷ niệm bây giờ mới trọn vẹn là của riêng tôi, như chỉ có những người đã xa đời, mới thuộc về tôi mãi mãi. Vì một lẽ nào đó, tôi thường “sống” với người đã khuất nhiều hơn, trân quý hơn, yêu thương và cảm thấy yên tâm hơn, được an ủi chia sẻ nhiều hơn. Ai đã từng trải qua nhiều ngang trái nghịch cảnh, cay đắng oan khiên, sẽ hiểu vì sao tôi có nhiều cái... khác người.
Mỗi người một cách sống là điều tự nhiên từ ngàn xưa. Ôi, khi ta đói, kỷ niệm có cho ta no. Khi ta lạnh, kỷ niệm có làm cho ta ấm. Khi ta nghèo, kỷ niệm có làm cho ta khá hơn. Có nhiều người nghĩ như vậy và họ nghĩ đúng. Kỷ niệm không là miếng cơm manh áo hay tiền bạc trong đời sống. Kỷ niệm đẹp đẽ hơn, cao hơn, thiêng liêng hơn. Kỷ niệm làm đời sống chúng ta thăng hoa trong sáng và thánh thiện. Tôi thật tình tiếc cho những ai coi thường kỷ niệm hoặc có mà không biết giữ. Những người đó, tâm hồn mới nghèo nàn làm sao. Chúng ta có thể dời núi, lấp biển nhưng bản tính con người là điều không bao giờ thay đổi. Thật đáng tiếc.
Có nhiều đêm chợt thức giấc nhìn ra vườn, vầng trăng tròn tỏa ánh sáng soi rõ từng ngọn cây, khóm cỏ giống hệt như một đêm trăng quê nhà cũng trong một khu vườn nhỏ, có những kẻ quên đời sống quanh mình, cùng nhau uống rượu, ngâm thơ đàn hát dưới “nắng khuya”. Những đêm nằm nghe mưa buồn rào rạt, chợt nhớ những chiều mưa xưa cùng theo nhau ra quán ngồi, im lặng bên nhau nghe những giọt cà phê tí tách rơi, im lặng bên nhau nhìn người người, ngựa xe ngược xuôi. Những giây phút im lặng đã nói với nhau biết bao điều không thành tiếng. Buổi sáng cây cỏ còn lấp lánh sương mai, im lặng đi bên nhau dưới hàng thông từ bao năm reo mãi những điệu nhạc vi vu buồn bã bên mặt nước câm nín chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm.
Buổi trưa trời cao xanh thẳm, nắng đuổi nhau theo gió trên thảm cỏ quen, có cây đàn nằm thênh thang lắng nghe bước chân nhẹ nhàng lúc xa, lúc gần của hai kẻ quên đời. Chiều có mưa bụi dăng dăng qua thành phố, quán cà phê vắng, hương ca phê thơm lừng, vẫn chỉ hai người khách quen ngồi đó, im lặng bên nhau. Có gì quan trọng đâu. Không, không có gì cả, có nhau là điều đáng nói và họ đã có nhau trong suốt cuộc đời.
Ðà Lạt đẹp. Ðà Lạt hiền. Ðà Lạt thơ mộng. Ðà Lạt bao dung. Ðà Lạt thủy chung. Ðịnh mệnh khởi đi từ một nơi như thế. Tại sao không là Sàigòn. Tại sao không là Huế. Không, Sàigòn và Huế không phải là Ðà Lạt. Không bao giờ nên mọi sự phải khởi đi từ đó. Một sự tình cờ, mà ngẫm lại thì không đúng, không phải. Rõ ràng là sự sắp đặt của cái mà chúng ta gọi là Ðịnh Mệnh. Một người lưu lạc từ sông Hồng, một người rời xa sông Hương để gặp nhau vào một đêm có mưa và gió đầy trời, ở cái thành phố nhỏ bé, nhìn ai cũng là bạn. Cái thành phố đó nếu bạn đến một lần là sẽ nhớ mãi. Ðến rồi không muốn rời đi. Ði rồi lại muốn trở lại. Nhưng đó là Ðà Lạt của 40 năm về trước, một Ðà Lạt hiền lành như ngô khoai, trong sạch đẹp đẽ thơm như hoa hồng nhung, ngọt ngào như chuối La Ba và thủy chung như những hàng thông thẳng đứng suốt đời chỉ reo mãi một khúc nhạc hiền hòa.
Là một người sống đời ca hát, có dăm ba mối tình lớn, tình con, chân đã đi mòn mỏi trên quê hương, rồi năm châu bốn biển, đã gặp gỡ cả triệu người. Mưa bão cũng đi. Nắng gió cũng đi. Ði đến không còn biết mình đi đâu. Không cần biết vì bốn biển là nhà, nhìn đâu cũng thấy quê hương, nhìn ai cũng là anh, chị em, chắc chắn những người cùng một kiếp sống như tôi, phải có nhiều điều để nhớ mà tôi gọi là kỷ niệm. Qua một cánh rừng, ngang qua một cây cầu. Dừng lại ở một góc phố. Ngồi xuống uống một ly cà phê nơi quán nhỏ ven đường, thậm chí nhìn từng ngọn cây, bụi cỏ bên lề, lòng tôi cũng xao xuyến xót xa. Có lúc bàng hoàng ngẩn ngơ, tưởng chừng như trong một cơn mơ, tưởng chừng một khuông mặt, một dáng người thương yêu, thấp thoáng đầu phố, tưởng chừng như chỉ cần đưa tay ra những ngón tay tháp bút gầy guộc quen thuộc kia chạm vào tay mình. Nhưng rồi tôi hốt hoảng đến bật khóc vì trong tay tôi, chỉ có bàn tay lạnh giá của chính mình và góc phố kia chỉ là một khúc quanh hiu quạnh.
Nhiều khi ngồi một mình, lòng trống rỗng, đầu trống rỗng. Tôi không thể nghĩ đến bất cứ một điều gì . Dường như trái dất đã sạch trơn, chẳng còn gì hoặc là tôi ngồi đó nhưng hồn tôi không còn ở trong tôi. Một cái xác, một người chết và đối với người chết, không có vấn đề gì được đặt ra vì sẽ không có câu trả lời . Người chết không biết nói. Nhưng lại có những lúc tôi vùi mặt vào gối khóc nức lên từng hồi. Lòng nặng trĩu những kỷ niệm đớn đau không hề phai nhòa theo thời gian. Nghĩ đến người này, người kia, nghĩ đến đời mình, tim muốn vỡ ra trăm ngàn mảnh. Cũng nhiều đêm tôi nằm chong mắt nhìn bóng đêm vây phủ, nước mắt lặng lẽ rơi. Cứ thế cho đến lúc thiếp đi. Tôi đã hiểu thế nào là khóc lẻ loi một mình .
Tôi cũng có những niềm vui chứ không phải lúc nào cũng ôm mối sầu thiên thu ấy . Gia đình tôi tương đối là bình yên về mọi mặt. Không có những nặng nhẹ giận hờn. Cả hai vợ chồng đều đứng trên đỉnh dốc của đời, một cuộc đời quá nặng nhọc mệt mỏi mà cả hai đều nhận thức được, đều nhìn thấy những chịu đựng câm nín của nhau, cùng cố tránh cho nhau những muộn phiền nếu cảm thấy mình có thể gánh vác được. Vợ chồng về già nếu có thể sống với nhau đến già, có thể trở thành hai người bạn. Ðây là một điều tốt vì có nhiều điều, vì là vợ chồng, sẽ không thể chịu đựng nổi, nhưng nếu là bạn, sự việc sẽ đơn giản hơn khi có thể nói với nhau tất cả những điều tưởng không thể nói được, có đôi lúc tôi tâm sự với bạn một vài điều riêng. Song đó là chuyện của mười năm về trước, giờ đây chúng tôi sống đúng là đôi bạn già, nương tựa nhau lúc chiều tới. Còn cái gì mà phải giấu giếm nhau ở tuổi này . Duy có một điều, kỷ niệm riêng tư của mỗi người dường như vẫn là những điều riêng tư được cả hai tự động tôn trọng. Không thể chia sẻ, không thể an ủi. Rất tôn trọng .
Dĩ nhiên không phải cuộc sống chung 26 năm không có những cay đắng . Phải nói là nhiều đấy, nhưng tôi, phải, chính tôi là người quyết định, không thay đổi làm gì nữa và làm cho cuộc sống chung trở nên có ý nghĩa, trở nên đáng sống. Làm cho người này trở nên sự cần thiết của người kia . Làm cho nơi chốn này là nơi chốn để lúc nào cũng mong trở về mà không có sự sợ hãi hay vì không còn sự chọn lựa nào khác . Những kỷ niệm giữa cuộc sống chung quả có lúc làm tôi buồn tủi . Tôi không hề quên. Không thể quên, thế nhưng tôi xem đó như những thử thách, những chuyện nhỏ đời thường. Bởi cuộc đời, đâu phải lúc nào cũng cho ta sự ngọt ngào, mà nếu tôi là người đòi hỏi như thế, tôi đã tự làm khổ tôi trong 26 năm dài . Thỉnh thoảng hai vợ chồng ngồi ôn lại những vui buồn xa xưa mà tưởng như chuyện của ai đó . Dưới mái nhà này là sự bình yên bởi tôi muốn như thế .
Nếu có điều gì làm tôi đau lòng, ấy là tại tôi . Tôi muốn sống bình yên nhưng tâm tôi chưa yên. Tôi nhạy cảm quá . Tôi dễ vỡ quá, cho dù dưới mắt nhìn và sự nhận xét của nhiều người thì tôi là một người bản lãnh, can đảm. Ðiều này thật ra cũng không có gì gọi là sai hay xa sự thật bởi vì nếu tôi không can đảm, liệu giờ này tôi còn sống nổi với bao nhiêu tang thương chưa giây phút nào nguôi ngoai trong từng hơi thở . Cái gọi là bản lãnh, can đảm đôi khi chỉ là sự dối lừa, là cái vỏ mầu mè bên ngoài mà nó cũng có thể được xem như thái độ bất cần của một người chẳng mấy tha thiết đến cái gọi là ngày mai, của một người không mấy bình thường nếu không muốn nói là Ðiên. Thấy đời chán quá, chán đời quá, mà vẫn cứ ôm lấy cuộc đời . Là vì sao . Vì còn nhớ đến nhiều người . Vì còn nhiều người, nhiều điều để nhớ . Vì rằng đôi lúc tưởng đã quên nhưng cũng lại chỉ tự lừa dối mình mà thôi . Tôi không hề quên những điều cần phải nhớ và rồi chẳng có gì an ủi cho bằng đến một lúc nào đó như lúc này, tất cả oan khiên sẽ mở ra . Phải được mở ra, nào phải chỉ mười năm, đã 40 năm rồi đó . Nếu không phải là bây giờ, sẽ chẳng còn bao giờ nữa .
Năm 1956, gia đình tôi đã ở Đà Lạt 1 năm....6 năm sau, tôi lại lên Đà Lạt tìm nơi trú thân nhưng lần này, chỉ có mình tôi.... Không có tin hay thư của Đạt. Hải đi Mỹ theo đuổi nghiệp Không Quân. Bạn bè tình không nhạt nhưng cũng chẳng còn gần gũi vui chơi như ngày nào. Anh tôi vào Thủ Đức. Bác Phương, Nam, Dũng lo đâm đầu học để may ra không phải đi lính. Cây đu đủ đực nhà anh Liêm dường như buồn hẳn đi. Nó đứng trơ trọi một mình, ngày cũng như đêm chờ đợi tiếng cười của chúng tôi. Chuyện đó không bao giờ có lại nữa. Tôi cũng trơ trọi như nó. Con ngõ đường như sâu hơn, hun hút trong ánh sáng vàng vọt yếu ớt hắt ra từ những căn nhà nhỏ thường đóng cửa sớm sau bữa cơm chiều.
Tôi mới 17 tuổi đã thành đàn bà, đã mang trong người một mầm sống không mong đợi. Lỗi của tôi...Tôi biết anh ta ở Vũ Trường Đồng Khánh. Anh ta là một người đẹp trai dù ăn nói không có duyên. Anh ta tên là Minh, dân Trường Tây gốc Đà Lạt. Gia đình Minh đàng hoàng, công giáo, điều này nhắc nhở tôi nhiều đến những ngày hạnh phúc khi học nội trú lúc còn ở Hà Nội. Mới xa Hà Nội mấy năm, tôi đã nhớ. Có lẽ tôi nhớ đến Bố tôi nhiều hơn là bởi tôi không hề tin rằng Bố tôi đã chết.... Tôi thích Minh nhưng không hề cảm thấy rung động, hồi hộp chờ mong. Không có cảm giác...đông cứng hoặc cháy bỏng, ngộp thở lảo đảo, bềnh bồng, tan chảy như bọt nước. Lê Nguyên Hải cho tôi những cảm giác đó dù chỉ ngồi cạnh nhau, cầm tay nhau. Hải có phải là tình yêu của tôi không. Tôi có yêu Hải không. Tôi không biết. Cũng như không biết như thế có phải là tình yêu không.
Sự lầm lỡ của tôi là nỗi đau đớn của Bà Nội - con gái không chồng lại...ôm balo ngược. Bà tôi xấu hổ. Mẹ tôi không cần biết. Riêng tôi, chẳng cảm thấy gì. Minh cũng không phải là người tệ, chơi chạy nhưng anh là lính Không Quân chuyên về Radar học tại Mỹ... Lương một anh lính hạ sĩ dù là không quân, nuôi anh còn chẳng đủ no, nói gì đến vợ con. Minh bảo sẽ đưa tôi về Đà Lạt trình diện bố mẹ nhưng rồi anh...ở tù vì tội đào ngũ. Tôi chẳng bao giờ quên những lần đi thăm Minh ở Khám Chí Hòa. Khi cái bầu 6 tháng, tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ và chính ở đó, tôi gặp Trung Úy Không Quân Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn...hát tiếp những bài tôi vừa hát, đặc biệt anh hát cho tôi nghe bài Anh đến thăm em một chiều mưa...Anh bảo...Mai chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa...Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung Úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vỉ anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này. Khi nào có gì cần, cho anh hay...Ngày tôi sinh Ly Cơ, anh nhờ người gửi cho tôi 1500 đồng với lời nhắn...mua đồ cho con...Anh không bao giờ biết tôi đã dùng số tiến đó để tiếp tế cho Minh ở Chí Hòa. Chẳng ai. Anh vào nhà thương Đức Chính thăm tôi trong bộ đồ bay. Bác Phương Kều tức nhà báo Ngọc Hoài Phương tên cha mẹ đặt là Nguyễn Ngọc Kiểm cũng vào. Chị Yến cầm cho tôi 500 nói của mẹ gửi nhưng mẹ và Bà Nội không vào. Có điều không ai biết, tôi tự động chạy xe Velosolex...đi đẻ.
Ôm con về ở với Bà Nội không phải là điều đơn giản như cái lúc Bà giận Mẹ và tỏ lòng thương cháu. Tôi không buồn được vì tôi đã gây lỗi lầm không thể tha thứ dù sau khi mãn tù, Minh đến nhận vợ con và hứa sẽ cưới hỏi đàng hoàng. Song đối với những người hàng xóm, nhất là các bạn bè cũ của Bà, tôi vẫn là đứa con gái hư hỏng. Làm sao tôi có thể cắt nghĩa rằng vì lỡ dại nên phải lấy luôn cái người đó. Làm sao tôi có thể nói rằng sẽ không còn ai dám lấy tôi vì tôi không còn cái .....thổ tả gọi là trinh tiết. Cái thời của chúng tôi nó khó khăn như thế đó... Thậm chí có ca sĩ không dám cho mọi người biết mình có người yêu vì sợ khán giả không còn thích mình nữa. Bà Nội tìm cho tôi vú Chính để nuôi Ly Cơ. Con bé có lần ốm, sưng phổi gần chết, nếu không nhờ Bà, chắc LyCơ đã bỏ tôi mà đi rồi. Bởi lúc đó tôi chưa có một ý niệm, trách nhiêm làm mẹ. Yêu con thì có nhưng còn phải kiếm tiền nuôi con nữa chứ. Tôi không muốn trở lại cuộc sống khi mọi người quên mình, trong một cái phòng tối tăm, không giường chiếu trên một cái nhà sàn ở Cầu Kinh. Cơm bữa đói bữa no, tiền hát khi có khi không và đó là lý do tôi nhận lời hát cho Night Club ở Đà Lạt sau khi gửi Ly Cơ lại cho Bà.
Minh và tôi sống cuộc sống vợ chồng như mọi người. Chúng tôi ở chung với Bố Mẹ Minh. Năm sau, tôi có thêm một đứa con trai. Có người trong nhà bảo...thằng nhỏ trông giống ông...Lưu Kim Cương...Sao lại có ông Lưu Kim Cương trong này khi nhắm con mắt lại, người cũng biết Bảo Linh là con ai chứ. Tôi lại thắc mắc. Tại sao thế nhỉ. Sao không yêu mà lại...có con. Tôi sinh cu Linh ở Sài Gòn khi về nhà Bà Nội và lại một lần nữa, tôi tự động gọi taxi đến nhà thương ông Nguyễn Duy Tài. Cô y tá bảo chờ cô cho người đi mời bác sĩ về vì ông đang coi ciné ở rạp Eden. Tôi nhảy dựng lên...trời đất ơi, người ta đẻ đến nơi rồi mà còn đi tìm bác sĩ...mặc y tá nói, tôi hùng dũng leo lên bàn đẻ và rồi khi Bố Tài về tới, tôi đã hoàn thành thêm một tác phẩm...không chờ đợi. Nhưng dù sao chúng nó cũng là máu thịt của tôi. Không yêu chồng. Ai cấm tôi yêu con. Chẳng bao giờ tôi quên hai lần vược cạn, tôi chỉ có một mình và nằm suốt đêm. Khóc cho sự lỡ lầm ngu dại
không thể tha thứ được của mình. Tôi nghĩ đến Bố tôi. Ôi, tôi có lỗi với ông biết bao nhiêu. Tôi chỉ có lỗi với Bố tôi mà thôi.
Ly Cơ, Bảo Linh, vú Chính và tôi ra bến xe đò Minh Trung trở lại Đà Lạt bởi lúc đó tiền lương của tôi là 75.000. Đủ sức để khỏi phải mẹ con mỗi mgười một nơi. Lương của Minh bao nhiêu, tôi không biêt. Anh làm cho Usaid dưới quyền ông Lâm Quang tại Tuy Hòa và rất ít khi về nhà. Có vú Chính, tôi giao con và sống trở lại như thời con gái. Ở lại phòng trà ngủ với mấy chi vũ nữ hoặc leo lên đồi cù nằm nhìn Trời Đất. Tôi vẫn chưa ý thức được một cách nghiêm chỉnh, bổn phận của một người mẹ. Tôi vẫn chưa đủ tình yêu đúng nghĩa dành cho các con. Tôi còn quá trẻ. Tôi đã biết gì về cuộc sống quanh tôi. Tôi yêu tôi và chưa kịp sống cho tôi. Không có gì cho tôi. Không phải là lỗi của Minh trong cơn say rượu. Chỉ khổ một cái là người tôi yêu không phải là Minh. Chưa rõ ràng là ai, tôi chưa biết yêu...Mãi nhiều năm sau, tôi mới biết thế nào là tình yêu.
Điều không thể thay đổi, chối cãi là tôi yêu hát. Từ ngày đó, tôi đã tự nhủ dầu có phải đánh đổi hết để chỉ được hát, tôi cũng không ngần ngại và Đà Lạt quả là nơi tuyệt vời để hát những nhạc phẩm của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Khánh. Đông hay vắng không hề ảnh hưởng đến tôi. Thế giới của tôi chỉ có riêng tôi. Tôi hạnh phúc, tôi đau đớn sống với tôn giáo của mình. Những ngày nắng nhẹ nhàng. Những đêm mưa dịu dàng. Những bình minh rực rỡ. Những hoàng hôn cô lẻ. Đâu có ai để ý. Chỉ riêng mình tôi lặng lẽ trên con dốc dài, bên dòng suối nhỏ, giữa bao la hoang dại, cố gắng hít cho đầy buồng phổi của mình hương thơm của đất trời hoa cỏ. Tôi yêu tôi - tôi yêu tình yêu của tôi, một tình yêu chưa giành cho riêng ai. Tôi thực sự dồn hết tình yêu vào những ca khúc mỗi đêm tôi hát với nỗi buồn. Nói là buồn bởi tôi chưa bao giờ được vui. Tôi hình như cũng là một đứa con không được mong đợi. Một sự thất bại của mẹ tôi. Thường thì một người đàn bà đẹp khó có thể chịu đựng một đứa con xấu. Tôi giống Bố. Lại thêm một lý do để mẹ luôn luôn bỏ quên tôi, tuy nhiên điều mẹ không hài lòng lại chính là điều làm cho tôi hãnh diện. Nó là nguồn ai ủi giúp tôi chống đỡ với bao điều tủi cực trong đời sống.
Có biết bao người không đẹp và nghèo nhưng cả hai đều không phải là một cái tội. Nghĩ thế nên tôi không hề thất vọng khi Đạt quên tôi, song tôi tiếc Hải vì đã nghĩ đến Hải rất nhiều mà nếu Hải không đi xa, chắc tôi đã biết thế nào là tình yêu. Có thể tôi sẽ có hạnh phúc, cũng có thể không nhưng ít ra, tôi không đến nỗi phải ân hận. Một lần Bảo Linh hỏi tôi...Mẹ có yêu ba không...Tôi trả lời không cần suy nghĩ. Không. Thật tàn nhẫn nhưng rất thật thà vì Minh không bao giờ có trong ý nghĩ của tôi.
Tôi bắt đầu biết hút thuốc là từ năm 16 tuổi khi ở chung với chị của Minh là chị Lệ Quyên, người đóng vai chính trong phim "Nước mắt đêm xuân" của anh Nguyễn Long. Chị hút và thường bảo tôi...châm tao điếu thuốc mi...[gia đình Minh gốc Huế] riết rồi tôi hút thuốc lá hồi nào không hay. 1964 Hải từ Mỹ về và qua Thái Lan học thêm về loại máy bay A-6. Chị Quyên rủ tôi lên Pleiku chơi và tình cờ, tôi gặp lại Hải. Chúng tôi nhìn và chào nhau như 2 người bạn. Hải ngồi với bè bạn. Vũ Trường Phượng Hoàng hình như là nơi giải trí duy nhất cho các chàng Không Quân hào hoa bay bướm nơi thị trấn đìu hiu đó. Chúng tôi nhảy với nhau một bài. Hải bảo anh đi với người yêu. Trước khi bài hát chấm dứt, Hải nói...Sáng mai anh bay dùm cho một người, chờ anh về anh đưa em đi coi Biển Hồ...Tôi cho anh biết nơi tôi ở và chúng tôi chia tay. Tôi về trước. Giọng Hải đầy rượu, tiếng cười của anh vang lên trong cái khuya vắng của Vũ Trường.
Tôi không nhớ là mấy giờ vì đang say ngủ. Tiếng đập cửa rầm rầm làm tôi hốt hoảng. Hải la lớn...Mai, Mai anh đây, Hải đây...Tôi vội vàng chạy ra mở cửa phòng, Hải loạng choạng bước vào, anh ôm hai vai tôi và nói...Mai chờ anh, xong phi vụ anh sẽ đưa em đi Biển Hồ...Tôi chưa kịp hỏi, Hải đã đổ ập người xuống giường, ngủ. Tôi chui vào mền nằm ghé bên anh, tôi cố đẩy anh đắp mền cho anh nhưng đành chịu. Hải nằm úp mặt trên tấm khăn phủ giường. Tôi trở lại giấc ngủ dở dang, 6 giờ sáng thứ dậy, Hải không còn nằm đó nữa. Khoảng 2 tiếng sau, tôi chợt nghe một tiếng nổ lớn không biết xuất phát từ đâu và sau đó, tôi được tin anh đã chết.
Trên chiếc phi cơ đưa xác Hải về Sài Gòn, chỉ có một mình tôi ngồi bên quan tài của anh. Tôi đau đớn nhưng không khóc được. Không một giọt nước mắt nào rơi ra khỏi đôi mắt của tôi. Điều làm tôi xót xa hơn nữa là bạn bè và gia đình Hải quy tất cả trách nhiệm vào tôi. Tôi không nói được gì. Tôi không muốn nói. Tính tôi vốn vậy. Lặng lẽ tôi quay lưng đi trước những cái nhìn căm giận và ai oán của mọi người...Nhiều năm về sau, rất nhiều năm về sau, tôi nhận được một bức hình do chính thân phụ Lê Nguyên Hải gửi cho tôi với hàng chứ cũ viết sau tấm ảnh...Gừi cô Khánh Ly thay mặt cố nhân Lê Nguyên Hải. Lúc đó, tôi khóc. Ôi, sao hạnh phúc bao giờ cũng đến với tôi quá trễ...
Hải chết...đó là cái chết đau thương ghi đậm nét trong đời tôi. Không phải nỗi đau đớn của ngươi vợ mất chồng bởi chúng tôi chưa hề có với nhau những chia xẻ vợ chồng ngoài nụ hôn thơ dại, vụng về đã thuộc về ngày xưa. Sau khi bỏ dược, Hải gia nhập binh chủng không quân, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Nụ hôn phớt nhẹ và lời nói...anh sẽ cưới em...cũng nhạt phai dần. Rồi tôi trót dại lỡ lầm, các bạn tôi, trong đó có Hải vẫn không nhìn tôi khác đi. Hải và anh chàng Nam Ngố - cũng không quân-thường lấy trộm ở nhà mang đến cho tôi lúc thì nửa chai nước mắm, lúc thì túi gạo. Thấy tôi sống vất vưởng cô đơn trong căn phòng gỗ nhỏ hẹp trên dòng kinh nước đen, không chăn màn, bàn ghế, đêm đêm đo hát ở Đại Nam, lúc đuọc hát, lúc bị bỏ quên ngồi chờ cho tới khi hết giờ, lủi thủi đi xích lô về. Bạn bè thương lắm nhưng lúc đó các bạn tôi ai cũng còn đang đi học, ăm bám bố mẹ. Chia cho nhau chút cháo như thế là hiếm quý lắm rồi...cho nên, khi Hải chết tôi thương xót Hải như một người thân yêu trong chính gia đình cũng chẳng ccó ai hạch hỏi gì, mà nếu có hỏi, tôi cũng có biết lý do vì sao sự việc đau thương ấy xảy ra. Tôi không làm gì và không biết gì. Hoàn toàn không. Tôi chịu tiếng oan bao nhiêu năm trời và chính vì thế, tôi đả khóc khi thân phụ Hải gửi cho tôi tấm ảnh của anh. Tôi chưa bao giờ quên anh. : Lê Nguyên Hải
Lúc đó, trước 1962, tôi đã được dịp biết nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Ông có vẻ hài lòng khi đàn cho tôi hát. Ông Nguyễn Đình Toàn dạy tôi ngâm thơ và đưa tôi vào ban Tao Đàn của nhà thơ Đinh Hùng. Tôi thật hèn kém, nhỏ bé bên cạnh Bà Hồ Điệp, ông Nguyễn Thanh - người đã vượt sông Bến Hải vào Nam - nhưng ai cũng yêu thương tận tâm chỉ bảo cho tôi. Thời đó được đứng cạnh những tên tuổi lẫy lừng ấy cũng tựa như chuyện nằm mơ, chuyện thần thoại. Chính quyền thời nào cũng ơ hờ với sinh hoạt văn nghệ, nên nếu có người đã từng nói...nhà văn Việt Nam khổ như chó...tôi thấy không có gì quá đáng. Những người thành danh, tên tuổi đã đi vào văn học sử mà còn khổ thì tôi, chúng tôi, những đứa mới tập tễnh vào nghề làm sao áo ấm, cơm no. Qua ông Nguyễn Đình Toàn, tôi được biết thêm rất nhiều người. Được trở thành nhân vật Bé Mai trong gia đình Bé Ngôn Bé Luận của Nhật Báo Ngôn Luận, rồi cũng tập tành viết lách lăng nhăng vớ vẩn, ấy thế mà cũng được cho đăng. Dĩ nhiên tất cả những công việc này đếu không mang lại cho tôi một đồng bạc nào, vậy mà tôi cảm thấy rất sung sướng đến chẳng cần biết ngày mai mình còn tiền ăn cơm, trả tiền căn phòng nhỏ hẹp trên kinh nước đen trước chợ Đakao nữa không.
Lúc rời nhà hàng Anh Vũ - bị đóng cửa - tôi mày mò xin được hát ở phòng trà Hoà Bình nằm ở góc đường Lê Lợi gần ga xe lửa, ngó xéo qua là chợ Bến Thành. Tiền bạc cũng chẳng có bao nhiêu. Chủ phòng trà cho thế nào, nhận thế ấy, nên nghèo chưa từng thấy, nghèo gì mà nghèo dữ vậy. May một cái áo cũng là chuyện không tưởng. Ông Nguyễn Long quay phim "Nước Mắt Đêm Xuân" có tôi xuất hiện hai cảnh, cũng không tiền. Phải dành dụm, vay mượn may được cái váy đen cài trước ngực một bông hồng trắng, còn ngay cả quần áo đi hát cũng chắp vế. Hai vạt áo dài may lại cũng được một chiếc váy gọi là jupe serre. Toàn bộ là đầu thừa đuôi thẹo từ quần áo chị Yến, của mẹ tôi bỏ đi mà anh Sơn tôi rất khéo tay may lại cho tôi. Từ Hoà Bình, tôi mày mò xin được hát ở khiêu vũ trường Đại Nam. Hằng đêm tôi đến sớm để nếu ca sĩ nổi tiếng chưa đến hoặc không có ai, may ra tôi sẽ được cho hát. Từ ông Nguyễn Đình Toàn, tôi gặp được nhạc sĩ Y Vân và hát cho ông nghe. Nhạc sĩ Y Vân vừa sáng tác xong bài Ngăn Cách, ông dạy và đưa cho tôi nhưng có môt đêm ở Đại Nam, khi được hát, tôi đưa bài Ngăn Cách cho ông Lê Văn Thiện, lúc đó là trưởng ban nhạc, ông Thiện cầm xem rồi liệng cái xạch...bài gì mà cải lương...tôi đâu dám có phản ứng gì. Thật tôi cho tôi chẳng có duyên với bài hát ấy. Về sau khi chị Minh Hiếu hát, bài Ngăn Cách lập tức nổi tiến cho đến bây giờ.
Hàng đêm, tôi ngồi một góc lén nhìn chị Trúc Mai đẹp, sang như một mệnh phụ. Chị Kim Chi đẹp như...đầm. Hai chị ngồi với nhau, chủ, khách và bồi bàn rối rít xúm quanh hầu hạ. Ngàn đời sau, tôi không bao giờ quên cái hành động sang cả của chị Trúc Mai khi ăn xong môt trái nhãn, chị nhẹ nhàng dùng chéo khăn bàn lau mấy ngón tay, mặt vẫn ngẩng cao, mắt nhìn thẳng và rất nghiêm. Tôi cứ ngồi chiêm ngưỡng các bậc đàn chị như thế đêm này qua đêm khác. Không ganh tỵ - không dám - không mơ ước để rồi đêm về lại căn nhà sàn, nằm khóc một mình. Điều đặc biệt là các chị chưa bao giờ tỏ ý xem rẻ tôi, trái lại đôi khi trong những lời hỏi thăm, tôi cảm thấy được sự thương cảm, tôi nghiệp khiến tôi ấm lòng và giữ mãi sự kính trọng cho đến bây giờ. Cái lần đáng nhớ là một đêm chị Minh Hiếu bảo tôi đến nhà hàng Tự Do hát thế cho chị. Tôi mừng lắm vì Tự Do là một nhà hàng lớn nổi tiếng nằm trên đường Tự Do. Sửa soạn tương đối tươm tất dù lúc đó tôi chưa biết dùng phấn son, tôi đến sớm và nhận được lời ông chủ Ngô Văn Cường truyền ra...ca sĩ tôi nghỉ thì để ban nhạc hòa tấu, nhà hàng tôi không để cho nhũng người vô danh làm mất uy tín... Tôi lóc cóc trở về cái nhà sàn một mình quạnh hiu, lòng đầy tuyệt vọng nhưng không hề giận dữ, oán trách. Giận ai, trách ai bây giờ. Đó là cuộc đời. Đó là cuộc sống tôi tự lựa chọn cho mình và lao vào bất chấp mọi gian nan khốn khó, hệt như một con thiêu thân biết là lao vào lửa sẽ chết nhưng nó vẫn cứ bằng lòng với số phận dành cho nó. Gần như một hành động...tử vì đạo. Bây giờ, 44 năm sau, tôi thấy cái sự việc...âm nhạc cũng như là một thứ tôn giáo của tôi...không phải là quá đáng.
Sự sống ngày càng không dễ dàng. Không thể xin được gì ở gia đình. Không thể trông mong vào bạn bè. Không chờ mong những cánh cửa, những sân khầu mở ra dành cho mình một chỗ đứng dầu nhỏ nhoi khiêm tốn. Con gái đầu lòng, tôi gửi cụ Nội trông nom. Người gọi là chồng thì lúc gặp lúc không. Trong cơn tuyệt vọng thì bỗng đâu một người, một sự cố sảy ra mở đầu cho những may mắn chiếu cố đến tôi. Có lẽ vì lòng tôi tha thiết với nghiệp dĩ ấy chăng hay tôi được sinh ra chỉ để làm được một việc duy nhất là hát, đúng nhưbmơ ước của tôi. Một định mệnh đã được báo trước với tiếng đàn, tiếng hát của Bố tôi qua những bài hát đẹp đẽ nhưng đầy những gẫy đổ và chia lìa. Ngẫm cho cùng, có gì trọn vẹn, đầy đặn được mãi trong cuộc sống. Gẫy đổ hay chia lìa, âu chũng là luật bù trừ của Thượng Đế.
Một phòng trà ở Đà Lạt cần ca sĩ. Bà chủ xuống Saigon rồi tôi để con lại và ra đi. Chẳng từ giã ai. Chẳng có ai để từ giã. Chẳng có ai để ý đến mình. Con đã có cụ Nội. Tôi rời Saigon như thế vào một ngày tháng 11 năm 1962. Tiền lương tuy ít nhưng có thể kéo tôi ra khỏi tình trạng tuyệt vọng bởi những âu lo sinh sống giữa một nơi chốn tuy rộn lớn nhưng lại chẳng có chỗ nào cho tôi. Nghiệp dĩ ca hát chưa được xã hội quan tâm hay coi trọng. Số ca sĩ có thể đếm trên đầu ngón tay song không có cơ may nào cho mình chen chân. Có một lần, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết đi cùng mấy ông nhà báo nào đó đến gặp tôi ở ngõ 20. Ông bảo...em muốn nổi tiếng thì phải đi với mấy anh. Phải có mấy anh giới thiệu mới được...Tôi không hiểu ông muốn nói gì nhưng thường nhũng đưa mồ côi, khốn khổ, lại khôn rất sớm. Tôi không hề nghi ngờ cái thiện chí của mấy ông nhưng linh tính mách bảo rằng con đường được hứa hẹn đó sẽ chẳng đưa tới đâu. Tôi yêu hát, chỉ muốn được hát, đủ sống để được hát chứ không hề nghĩ có ngày được gọi là ca sĩ hay sẽ nổi tiếng như các chị Trúc Mai, Kim Chi, Thanh Thúy hay Minh Hiếu.
Gia đình bên nội của con tôi lập nghiệp ở Đà Lạt thế cho nên dù sao đi nữa, tôi cũng phải ra mắt nhưng tôi vẫn ở trong căn lầu trên của nhà hàng. Chỉ thỉnh thoảng mới về cho đến năm 1963, tôi trở lại Saigon và sanh đưa con thứ hai. Từ nhà cụ Nội tôi tự gọi taxi đi đến nhà thương Duy Tân. Ấy, phải coi là mình đã có gia đình thì chuyện có con cũng bình thường như người ta ăn cơm, uống nước vậy. Đó là ngày 4 tháng 10 năm 1963. Thế là mới 18 tuổi đầu, tôi đã có hai đứa con. Một trai, một gái. Sau đó, tôi thực sự là một thành viên trong nhà họ Trần, bắt đầu học Giáo Lý với Linh Mục Thạch mỗi chiều tại nhà thờ Chánh tòa Đà Lạt và làm phép hôn phối tại đây, với một ít người quen. Gia đình tôi chỉ có một đứa em nhỏ. Mẹ và Bố dượng tôi không có mặt, cũng chẳng có một tí quà, một lời nhắn nhủ vui mừng nào.
Không yêu mà cứ thành vợ chồng. Gặp nhau đôi lúc có như không. Chẳng bao giờ nhớ thương mong ngóng. Ai muốn đi đau cứ đi. Khi nào về, cứ về. Gia đình bên Nội mấy đứa nhỏ cũng chẳng mấy khi dòm ngó đến mấy mẹ con tôi ở dưới nhà và tôi, cũng có thương con đấy nhưng chưa đủ thắm thiết, đắm đuối như người khác bởi lẽ, tôi còn nhỏ quá, tôi cũng chỉ là một đứa trẻ, chưa biết nhiều điều trong đời sống, không ham muốn chuyện vợ chồng. Sống lặng lẽ thụ động giữa những người không hề có chút quan tâm nào đến mình. Tôi thì lại rất nhạy cảm, rất dễ tủi thân, rất mong mỏi mơ ước được yêu thương, cái điều này phát sinh từ ngày mất đi người cha tôi tôn thờ cùng với chuỗi ngày sống đầy mặc cảm buồn tủi chờ đợi một tiếng âu yếm của mẹ. Tiếng nói ấy không có. Không bao giờ có được nữa trên đôi môi của Mẹ tôi.
Cái năm 64 là một năm thật lạ lùng. Lắm chuyện lạ lùng có những vui buồn, tủi nhục, có dấu hiệu may mắn mà tôi không để ý - Phải mãi về sau này, nồi nghĩ lại, tôi mới thấy được, mới cảm nhận được sự sắp đặt của Thiên Chúa...Tiền lương của tôi đã được nâng cao lên 75.000 một tháng. Tôi đã xin cụ Nội đón con gái sau khi có thêm đưá con trai. Ba mẹ con được đón nhận, nhình nhận sau rửa tội và làm lễ cưới ở nhà thờ. Có chỗ ăn ở đàng hoàng. Gia đình tọi không còn sợ mang tiếng con không chồng mà chửa. Mọi người đều cảm nhận thế, chỉ riêng tôi là không. Tôi chẳng cảm thấy có gì vui mừng vì dẫu thế nào, tôi cũng luôn luôn là tôi. Tôi một mình. Những điều người ta mừng cho tôi lại chính là những điều tôi không màng tới. Hoàn cảnh đưa đẩy tôi trong lúc tôi bơ vơ không nơi nương tưạ. Khi đã...liều mắt đưa chân, thì là cùng đường, là không có sự lựa chọn. Gập nghềnh trắc trở, đổ vỡ là chuyện không thể tránh. Nó cứ từ từ tan ra trong sự không chung thủy của cả hai người. Công khai không dấu diếm, né tránh dầu cái sự không chung thủy của tôi chưa cao đến mức độ bị lên án nhưng với một ly nước đã quá đầy, giọt nước ân huệ cuối cùng dẫu từ bên nào, cũng đủ sức làm tràn. Tôi không hề hối hận với sự chia tay từ từ, kéo dài tới ba năm. Rất nhiều năm sau, khi con trai đã có gia đình hỏi...mẹ có yêu bố con không...Không...câu trả lời bật ra nhanh như nó đã nằm sẵn đâu đó mà từ lâu lắm rồi tôi không để ý. Đó là một lỗi lầm thời thơ dại và tôi đã phải trả giá không rẻ. Nhưng dẫu sao, tôi cũng có được hai đứa con.
Tình cảm tôi dành cho Hải là thứ tình cảm thơ dại, nhẹ nhàng. Tình cảm tôi dành cho ông Lưu Kim Cương là thứ tình cảm phát xuất từ lòng biết ơn. Cả hai đều rất trân trọng đối với tôi trong suốt cuộc đời. Hình ảnh những người hùng binh chủng không quân, trước hoặc sau một phi vụ, ghé ngang thành phố Đà Lạt, cùng nhìn và nghe tôi hát một bài, rồi lặng lẽ ra đi đã để lại trong lòng tôi một an ủi, ấm áp không thể quên được, nhất là lời ông Lưu Kim Cương dặn dò...Đừng bao giờ làm mất nụ cười. Nó sẽ mở cho em cánh cửa tốt đi vào cuộc đời...
Đó là năm 1964, tôi và các con đang ở thành phố Dalat. Tôi vừa 18 tuổi, hai con, một gái, một trai. Ba mẹ con sống với nhau hồn nhiên như cây cỏ trong ngôi nhà hai từng rộng lớn vắng người, trên một ngôi đồi mà người ở đó gọi là đồi Miên – tên ông nội hai đứa nhỏ. Nhà không cổng ngõ, không hàng rào, đồi rộng thênh thang, từ hông nhà ngó
xuống, là một thung lũng nhỏ xanh rì, nhìn mông ra xa thấp thoáng đâu đó mầu đỏ của ngói bên cạnh những vườn trồng rau quả xanh ngắt, tiệp với màu của lá cỏ. Nổi lên trên màu xanh mượt mà như tấm áo dạ hội bằng nhung, tôi có thể biết được đó là những vườn hoa.
Thuở đó, Dalat đẹp lắm. Người ta bảo Dalat đẹp bởi có 4 mùa giống như Hà Nội nên con gái Dalat tuy ít người xuất sắc nhưng ai nấy đều xinh xắn với nước da trắng hồng, mái tóc đen dày óng mượt. Tất cả đều vô tư, hồn nhiên và hiền lành. Các bà bán hàng trong chợ, dù là bán mắm cá, cũng mặc áo dài, bán đậu hủ rong cũng áo dài, bán ngô nướng lúc nửa khuya, bán mì Quảng, xôi gà cũng áo dài, hai má cứ ửng hồng lên bên cạnh bếp lửa.
Dalat có 4 mùa nhưng mùa nào cũng mát vào ban ngày, lạnh về đêm, chính thế, người ta mới thú vị khi cầm cái ngô nướng thoa mỡ hành còn nóng hổi, người ta mới cảm thấy cái nhẹ nhõm khi bước ra từ những phòng tắm nước nóng, xê xế rạp ciné Ngọc Hiệp. Bước qua bên kia đường, người ta có thể ghé vào tiệm cháo vịt, tiết canh vịt, gỏi vịt và ngay bên hông tiệm thịt vịt, cái quán mì Quảng nhỏ xíu, mái che là một vài tấm ván ép ghép với 4 cái ghế. Hai vợ chồng người bán mì Quảng tay thoăn thoắt đơm bún, chan nước hay dọn dẹp cái mặt bàn cũng chỉ là một tấm gỗ dài. Người bán vui cười nhìn khách xuýt xoa ăn trong cái nóng của bún, cái lạnh của con phố về khuya, vắng người.
Điều chắc chắn phải nói là người Dalat hiền. Hiền như nước mưa, nước suối. Hiền như cây trái tốt tươi. Hiền như hoa như gió. Như tiếng chuông reo bốn mùa. Hiền như bãi xe lam dăm ba chiếc im lìm nơi bến đậu. Hiền như những cơn mưa bất ngờ bay nghiêng qua thành phố, không hề làm rối chân khách bộ hành. Những con đường vắng lặng. Những ngôi biệt thự nằm xa nhau, không tường bao bộc, chỉ có hoa và hoa dưới những cây thông rải rác, tưởng như mọc vô tình không người săn sóc. Ấy thế mà trong cái vô tình gần như hoang dã ấy, luôn có những lúc rộ lên tiếng cười rộn ràng ngây thơ. Đời sống đẹp và đáng sống biết bao nhiêu.
Trước đó 2 năm, nói chính xác là vào tháng 11 năm 1962, khi tôi lên Dalat tìm sống, cùng đi trên chuyến xe đò Minh Trung với tôi, là chị Ngân Hà, một ca sĩ đẹp và được biết đến, không hiểu vì sao chị bỏ Sài Gòn ra đi. Lúc đó, người ta chưa nói đến chiến tranh. Sài Gòn đất rộng, người ít. Đời sống dễ dàng, người dân miền Nam chơn chất như ngọn lúa đồng bằng, cá tôm sông lạch, con đường Tự Do, sáng, trưa, chiều, tối chỉ khoảng trên một chục khách bộ hành, xích lô vài chiếc thông thả đạp như thi sĩ thơ thẩn tìm nàng thơ. Taxi cũng thỉnh thoảng ghé qua đỗ người xuống. Hình như Sài Gòn rất bằng lòng với nhịp sống thong thả, nhàn hạ. Thói quen của miền Nam trù phú đụng đâu cũng có cái ăn.
Tôi nhận lời lên hát cho Night Club ở Dalat với giá 2500 đồng một tháng, có cơm hai bữa và ngủ chung với các chị ở vũ trường, nếu không muốn về nhà. Kể ra thì không nhiều nhưng cũng chẳng hẹp gì lúc đó, lương Trung Úy cũng chỉ được như thế thôi. Ông bà nội của hai đứa nhỏ ở đó, tôi có cả nguyên một từng dưới rộng thênh thang. Hình như đây là kiểu nhà sàn lúc khởi thủy cất lên, nhưng rồi sẵn cột, xây thêm thành nhà hai tầng, chưa kể chung quanh đất trống, không trồng trọt gì ngoài mấy cây ổi, mấy giàn xu. Bên nội dường như chẳng ai để ý gì đến mấy mẹ con tôi ngoài chị Lê Quyên. Vài tháng sau, tiền lương được tăng, tôi tìm một người giữ con và ngày ngày nhảy xe lam, xe đò ra chợ Dalat.
Từ ngày di cư vào Nam, dẫu mới có 10 tuổi, tôi phải trông em, giặt quần áo, đi chợ rồi mới đi học. Mấy anh chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau nhưng lại chẳng bao giờ có thì giờ hay có chuyện gì để chia sẻ với nhau. Nói tóm lại, tuổi thơ của tôi hoàn toàn mờ nhạt, không có gì đáng ghi nhớ trong sinh hoạt gia đình, ngoại trừ ông bố đêm nào cũng say rượu và bà mẹ hết ca cẩm chồng đến mắng chửi con. Dalat chính là khoảng trời tôi mơ ước, tưởng chừng như cuộc sống ngừng lại ở đó… Nhưng không. Cuộc đời tôi bắt đầu. Từ đó, ở đó.
Vũ trường Night Club dọn ra hôtel Du Parc, cạnh Nhà Thờ Chánh Toà, Bưu điện và đài phát thanh Dalat. Bà chủ vũ trường là một người Việt Hoa, có một đứa con lai không biết lai gì, khoảng 6, 7 tuổi. Bà mướn một căn phòng ngay bên kia đường cho các chị vũ nữ ở, có người nấu cơm. Tôi thường ngủ lại đây vì khuya chẳng có ai đưa tôi về tận Chi Lăng. Trong căn nhà nhỏ này, tuyệt không có bóng dáng một người đàn ông, thế nên tôi thích ngủ lại để sáng hôm sau đi chợ rồi mới về nhà, mang đồ ăn, bánh kẹo và chơi với con rồi chiều tối, lại đi xe lam đến Vũ Trường. Căn phố đó nằm cạnh quán café Myosotis, không biết bây giờ có còn không.
Night Club là Vũ Trường duy nhất ở Dalat. Với khí hậu lành lạnh về đêm là nơi giải trí lý tưởng của thành phố du lịch, vậy mà khách khứa cũng không có bao nhiêu. Lính Mỹ, cấp cố vấn, mới được vào thị xã chơi chứ những cậu học trò vừa mới hết Trung Học, rời gia đình đến một đất nước xa lạ, nên có vẻ sợ sệt. Người của thành phố, muốn đi, sợ gặp người quen, khó chối tội với vợ, thế nên ban nhạc đêm đêm cứ chơi những bản nhạc trữ tình, chúng tôi vẫn hát, các chị ngồi uống nước tán gẫu hoặc nhảy với nhau. Mỗi đêm vài ba bàn khách. Mọi người bình thản nhìn nhau, chờ ngày cuối tuần. Có những đêm Vũ Trường gần đóng cửa, một băng Không Quân áo bay đen khăn quàng cổ màu tím hoa cà, bất ngờ xuất hiện đứng thành một hàng dài nơi cửa. Nhà hàng không chạy lại đón khách. Chúng tôi không ai ngạc nhiên. Chuyện này xảy ra thường. Tôi lặng lẽ lên sân khấu, ban nhạc hiểu ý chơi bài “Gửi gió cho mây ngàn bay”. Tôi hát xong, những chiếc khăn quàng màu tím hoa cà lặng lẽ quay ra, đi vào đêm tối, nơi các anh từ đó bước ra. Không bao giờ hỏi nhưng tôi biết một phi vụ vừa hoàn tất.
Những đêm trời lạnh, mưa rất nhẹ, không gì thú vị hơn ngồi hát hay nghe một tình khúc Tiền Chiến. Những người lính Mỹ non trẻ kia đang miệt mài bước nhảy, cố quên đi nỗi buồn xa nhà, nỗi lo sợ súng đạn trên mảnh đất mà họ không bao giờ hiểu được vì sao họ đến đây. Họ lại càng không hiểu ý nghĩa của khúc hát kia. Chỉ biết trong đêm lạnh, khúc hát buồn, tiếng hát còn non trẻ với những ước mơ chưa thành hình và nỗi lòng khắc khoải của kẻ xa nhà quấn quít lấy nhau ấm áp chia sẻ đến không ngờ. Nhiều năm sau, nếu những người lính ấy còn sống mà trở về, chắc chẳng bao giờ họ nghĩ đến cái vũ trường xưa, nơi thành phố có những cơn mưa bất ngờ nghiêng nghiêng bay trên con phố vắng người vào những đêm gió lạnh. Cũng có thể họ đã không bao giờ trở về để mà nhớ.
Tôi không sống với gia đình nhiều. Tôi không có bạn gái. Bạn của anh tôi cũng là bạn của tôi. Chúng tôi gọi nhau bằng …chú và xưng tôi, không có anh em gì cả. Có lẽ thế, tính tôi không hề có chút dịu dàng nào cho đến khi có con và chỉ dành cho con. Có lẽ thế, tôi dễ sống chung với các chị vũ nữ mà tôi thật sự quý mến như một gia đình. Các tay …anh hùng hảo hán ở Sàigòn, Dalat hình như cũng rất quý tôi, đứa em gái lạc loài, lờ khờ trong thế giới muôn mặt về đêm. Chẳng ai hỏi tôi từ đâu đến, con cái nhà ai. Tôi cũng không tò mò về cuộc sống của các chị vũ nữ.
Thời bấy giờ, giới vũ nữ là giới làm rất nhiều tiền và rất nhiều người có học. Họ chỉ trở thành vũ nữ để giúp gia đình trong khoảng thì giờ rỗi rảnh. Công việc của các chị ấy là nhảy với khách hàng, những người đi Vũ Trường một mình, những người mới biết khiêu vũ. Thời 60, khiêu vũ là một nghệ thuật. Mọi người nhẩy lấy đẹp, nhẩy biểu diễn. Khiêu vũ là một nghệ thuật, không hề có ý đen tối, lợi dụng. Khách đến Vũ Trường và vũ nữ đối xử với nhau lịch sự. Có những chị nổi tiếng chỉ vì nhẩy giỏi, nhẩy đẹp. Các chị không đi đêm với khách, tôi biết vì tôi ở cùng các chị một nhà.
Vũ Trường đóng cửa, ai muốn đi ăn đêm thì thường chạy tới tiệm xôi gà trước mặt khách sạn Thủy Tiên, sau lưng tiệm bánh mỳ Xương Ký đầu con dốc Hàm Nghi. Chủ quán là cặp vợ chồng trẻ, con ông bà Bắc Hương cơm tám, giò chả nằm gần café Tùng – ông bà chủ quán xôi này hiện đang ở Porland, Oregon - nhiều đêm, vừa thấy mặt tôi, cô vợ da trắng, má hồng cười như hoa nở, hét toáng lên… Đùi Khánh Ly… Phao câu Khánh Ly… câu rao ngắn gọn làm ai cũng quay lại nhìn tôi cười. Và tôi không hề cảm thấy ngượng ngùng, sà ngay vào hàng cầm chiếc đùi gà, miếng phao câu béo ngậy, đĩa xôi trắng dẽo thơm phức mỡ hành. Ở một thành phố nhỏ như Dalat, ai cũng biết mặt nhau.
Cùng đi ăn với chúng tôi là một số các …anh hùng có tên tuổi. Những cái tên ngộ nghĩnh đôi khi do thành tích mà có. Các bạn ấy còn trẻ, có người trạc tuổi tôi, có người lớn hơn nhưng ai cũng làm mặt nghiêm, lạnh lùng ít nói. Họ làm ra vậy giữa chốn đông người, thật ra, họ dễ thương, sống có tình nghĩa. Họ có bổn phận bảo vệ nhà hàng, các chị vũ nữ, ca nhạc sĩ. Mấy ông say xỉn quậy phá, gây gỗ, họ là người giải quyết, giảng hoà hoặc mời các ông đi về chứ không bao giờ họ gây chuyện rắc rối cho nhà hàng. Giới giang hồ, các chị vũ nữ và ca nhạc sĩ vì thế mà gần nhau, thương nhau và luôn bênh vực cho nhau. Thời đó, dưới mắt tôi, họ là những người hùng. Cách sống của giới này ảnh hưởng đến lối sống và cách suy nghĩ của tôi không ít.
Tôi hát chưa ra gì nhưng lại được nhiều người thương thế nên cuộc sống mấy mẹ con coi bộ cũng đỡ khổ. Tôi mua quần áo đẹp nhất Dalat cho con tôi ở tiệm Au Printemps. Tôi sục vào lầu trên của chợ Hoà Bình, nơi bán quần áo cũ của Mỹ - hàng viện trợ - tìm mua áo da, váy len, giầy bốt. Diện vào, ai dám nói là quần áo cũ. Tôi thường tới quán café nơi Bích Ly, chị cả của ban CBC ngồi giữ két, nói dóc. Bích Ly và tôi hình như bằng tuổi nhau hoặc Ly kém tôi một tuổi gì đó. Hai đứa cùng tên Ly, cùng đen đen như nhau, giọng cũng khào khào giống nhau nên bắt chuyện gớm lắm… Giờ gặp lại trên xứ Mỹ, hai đứa vẫn tưởng như đang ngồi trong quán café ở Dalat.
Thời đó, tôi mới 18 tuổi, còn ham ăn, ham chơi. Chẳng có gì thú vị cho bằng quăng giày dép, chân không, đi, chạy, nhẩy khắp Đồi Cù, xuống Toà Tổng Giám mục, men theo con đường Tình Yêu dẫn lên Toà Tỉnh rồi lại lên Đồi Cù nằm khểnh dưới gốc thông hoặc thẳng tay chân trên bãi cỏ thênh thang nhìn ngắm mây trời. Không nhớ đến ai cũng không cần biết mình là ai, ngày mai sẽ ra sao. Không nhớ ai thật, không cả yêu đương. Không hề nghĩ đến gia đình và Saigon. Tôi thương các con song thường tự hỏi vì sao tôi có chúng trong khi tôi chẳng có một chuẩn bị nào, chưa hề có một khái niệm về gia đình. Những lúc lang thang trên Đồi Cù, cùng các bạn gái đắm chìm dưới suối Liên Khương, tôi ước ao trở lại tuổi 14, 15. Có lẽ, tôi sẽ bắt đầu cuộc đời của tôi một cách khác.
40 năm trước, đó là ý nghĩ của một thiếu phụ tuổi 18, nằm ngủ quên dưới gốc thông già. Buổi trưa nắng vàng chan hoà trên cỏ lá, tiếng thông reo ngân dài, bất tận như một lời ru buồn. Lời ru âm thầm đi vào giấc ngủ và ở lại đó. Lời ru buồn. Rất buồn…
Ngày di cư tôi, tôi mới 9, 10 tuổi.Chưa kịp làm quen với Sài Gòn, còn đang lạ lùng với cách nói cười rộn ràng rất Nam kỳ, còn thích thú xé tờ giấy một đồng làm hai, gọi là 5 cắc đủ mua một ly đá nhận xi-rô, đã theo gia đình lên Dalat. Đó là năm 1956. Bố tôi – tức dượng nếu gọi theo tiếng miền Nam, tôi gọi dượng bằng bố theo lời mẹ tôi dặn – làm việc ở Ty cảnh sát Dalat. Gia đình tôi ở một biệt thự khu Chi Lăng. Căn nhà nằm lưng chừng con dốc ngắn và tất cả đều xây một kiểu giống nhau. Tôi chưa bao giờ đi hết con dốc đó để biết còn gì phía sau vì tôi bắt đầu đi học.
Trường tiểu học Phan Chu Trinh nằm ngay một ngã tư.Trước mặt nó là khu đất trống có con đường nhỏ dẫn vào đồi Bà Miên, nơi mà ít năm sau này, lại chính là nơi mẹ con tôi ở. Con đường đó cũng đưa vào trường Đại Học Quân Sự và khoảng đất trống trước mặt trường Phan Chu Trinh năm nào nay đã xây đầy những biệt thự của các ông Tướng. Căn đầu tiên là nhà của tướng Thái Quang Hoàng, cách 2 căn là tướng Đỗ Cao Trí. Tôi vào học lớp một vì chuyển qua chương trình Việt, nên chẳng hiểu gì cả, thậm chí không biết đọc tiếng Việt, trong khi chị tôi, chị Lệ Yến, lại được bố mẹ tôi cho học tại trường Domaine de Marie, chương trình Pháp-Việt.
Từ nhà đến trường không xa lắm mà cũng không gần. Tôi đi bộ lúc đi và cả lúc về. Bấy giờ, ngoài Ngọc Anh, tôi biết mình có thêm 3 đứa em nữa. Duyên Hải, Tố Loan, Tố Uyên. Sau giờ đi học, tôi làm những gì mẹ tôi bảo làm nhưng thường trốn nhà ra hồ Chi Lăng chơi. Chân không mang giày dép, thơ thẩn đi quanh tụt xuống ven hồ mò ốc hoặc lượm …cứt để chơi – tôi tưởng đó là thuốc tể như của bà nội. Ở đó có một biệt thự to lắm. Người ta bảo nguyên khu Chi Lăng này, ngày xưa dành cho người Pháp, và các căn biệt thự của chúng tôi cũng vậy! Cái Hotel Chi Lăng với cái giếng nước giả xây trước mặt cũng là nơi người Pháp thường đến nghỉ hè. Thời đó chưa có tên Chi Lăng mà là Saint Benoit. Mãi sau này vẫn còn những người gọi thế.
Tan học tôi thường không đi theo đường chính mà chui qua những bụi cây, những hàng thông, những khóm lay-ơn đủ màu mọc khắp mọi nơi nhưng không bao giờ tôi bẻ hoa, chỉ tìm loài dây leo để đem về chơi nhảy dây. Bố mẹ tôi ít khi nhìn thấy tôi, ông bà gần như không để ý, không hỏi đến nếu không có gì để sai bảo, dặn dò. Tôi lại cảm thấy khoái hơn dù đôi lúc cũng tủi thân khi không được mẹ ngó ngàng.
Ngoài con đường từ nhà đến trường và ngược lại, ngoài khung cảnh yên tĩnh của hồ Chi Lăng, tôi chui xuống cái rảnh nước chảy quanh nhà, đắp đất trồng bắp cải từ những cuống cải già bị cắt bỏ, có chút xíu mầm, mà tôi tưởng là sẽ sống được. Tôi có thể lang thang trong những khoảng đất trồng đầy cỏ dại để tìm hái trái mâm xôi, bứt dây rừng, xuống hồ Chi Lăng vọc nước, bắt ốc, hoặc ngồi dưới cái rảnh nước ấy cả ngày, nếu không có ai tìm.
Qua đến năm 1957, gia đình tôi phải chuyển về Saigon. Hơn một năm ở Dalat, có một vài điều đã khắc sâu vào tâm trí non nớt của tôi và không bao giờ tôi quên. Nó là những vết cháy dẫu đến ngàn năm vẫn còn hằn dấu…. Trước ngày di cư, Hà-nội mở một Hội Chợ, ở đâu thì tôi không nhớ nhưng có lẽ do người Pháp tổ chức sau khi hội nghị Genève được ký kết. Tôi đi hội chợ với một thằng nhỏ ở cùng đường, tên nó tôi còn nhớ, nó là thằng Đồng. Hội Chợ thì thường có nhiều trò chơi, vậy mà tôi chỉ nhớ là có một gian hàng nhỏ có dựng sân khấu cho mọi người thi hát, tôi đã leo lên và hát bài “Thơ Ngây”…. Khi ấy em còn thơ ngây, đôi mắt chưa vướng lệ sầu …, rồi leo xuống lủi mất tiêu. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cất tiếng hát. Lúc còn học nội trú St Marie, tôi cũng được lên sân khấu, chỉ đội lốt làm con thỏ mà thôi, nhưng trước đó, trước đó gần chục năm…
….Tôi sinh ra vào một buổi chiều ngày 6 tháng 3 năm 1945 tại nhà thương Bạch Mai. Ba ngày sau đảo chính Nhật, dân Hà-nội sơ tán về các vùng xa thành phố, bố mẹ tôi cũng mang chị em tôi chạy ra khỏi Hà-nội.Mới có 3 ngày, tôi làm sao biết được những gì đã xảy ra nhưng khi hơn 1 tuổi, tôi đã nhận biết và nhớ cho đến ngày hôm nay và một vài sự việc mà lúc nào tôi cũng tưởng như còn rất mới… Hai chị em chúng tôi được gánh đi, mỗi đứa ngồi một cái thúng, chị Yến được chú Tích cõng. Cùng vài người nữa, cả nhà tôi cứ xuyên rừng, lội sông, lội suối, trèo đồi, trèo núi mà đi. Một ngày trên đường đi gặp ngôi chùa hoang, mẹ tôi đặt tôi nằm trên cái bệ cao và kết quả là tôi ngã xuống giập cằm vào cái bệ xi-măng. Vết thương sâu lắm, ăn cơm lòi cả cơm ra ngoài. Bố tôi lấy vải trắng băng lại và buộc trên đầu. Vết sẹo khá dài vẫn còn đây. Bố tôi đã làm dữ vì với ông, tôi là…hòn ngọc đen yêu quý của ông.
Cả nhà tôi cứ đi mãi như thế, càng ngày càng xa Hà-nội. Chỉ thấy rừng và rừng. Đoàn người đi cùng với gia đình tôi thưa dần, chẳng biết họ đi đâu. Một lần qua sông trên một cái mảng ghép bằng các thanh tre, lúc chuyển đám trẻ con xuống, tôi là đứa bị rớt xuống sông, chắc không phải là sông vì tôi còn nhớ nước ở đó có màu như đen, đen một cách kỳ cục lắm chứ không phải là xanh thẫm khiến mình tưởng là đen. Bố tôi nhảy xuống vớt tôi lên và khi qua tới bờ bên kia mới biết được cái người chèo mảnh đó chuyên giết người lấy tiền vì anh ta biết là dân Hà-nội sơ tán, ít nhiều gì cũng có tiền hay vàng. Qua suối cũng khổ, bố tôi phải cột dây thừng ngang bụng, mọi người ở lại giữ đầu mối dây, bố tôi lội qua con suối rộng, nước đổ từ trên cao tung toé dữ dằn, sùng sục giữa những tảng đá đầy rên trơn trợt. Qua tới bờ bên kia, bố tôi tìm cây cột dây rồi lại lội ngược trở qua. Người lớn buộc trẻ con trên lưng và cứ nắm sợi dây ấy lần từng bước. Tôi là người được bố cột trên lưng.
Có những ngày qua khỏi cánh rừng lại thấy làng mạc ruộng vườn. Trời thì rét. Bố tôi ủ tôi trong chiếc áo Trấn Thủ dầy cộm vào những trại gà, tìm những cái trứng mới đẻ còn ấm, bố chọc 2 đầu trứng cho tôi húp sống. Có những chiều bố công kênh tôi trên vai đi giữa những ruộng lúa xanh rì, ghé vào quán lá, mua cho tôi cái kẹo bột nhỏ xíu, tôi cứ ở trên lưng, trên vai ông và bố tôi vừa đi vừa nói …bố đánh ton – ton đánh bố …Hết trại gà, hết nhà cửa ruộng vườn, gia đình tôi lại xuyên rừng mà đi. Tôi nhớ có một đêm, trời tối lắm, chẳng ai nhìn thấy ai, tất cả nằm mọp ở một cửa rừng ngong ngóng nhìn vào đêm tối… lâu lắm, lâu lắm…bỗng có ánh đèn loé lên ở xa chớp tắt 2,3 lần, thế là bố tôi lại ôm tôi lao theo hướng ánh sáng đó. Tất cả mọi người đều chạy, ngậm tăm mà chạy… Sau này, mẹ tôi bảo để tránh Tây và tránh cả Cộng sản nữa, vì gặp phe nào lúc đó, mình cũng chết.
Từ lúc chạy khỏi Hà-nội, tôi mới có 3 ngày tuổi.Tôi lớn lên dần trong rừng sâu, ăn khoai sắn độn cơm vì chỉ bố tôi là được ăn cơm trắng. Tôi lớn lên trên lưng, trên vai, trên chiếc áo Trấn Thủ của ông và quan trọng hơn cả là trong tiếng đàn, tiếng hát của ông. Tôi không còn nhớ ông hát hay ra sao nhưng chắc chắn là không dở và tiếng đàn của ông, tiếng đàn măng-đô-lin cùng với tiếng hát…Trên đồi xanh, chiều đã xuống dần. Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng… đã đi vào trái tim non nớt của tôi và ở lại đó vĩnh viễn. Chắc chắn ông cũng không thể ngờ rằng, những ca khúc ông hát cho đứa con gái xấu xí của ông ngày đó, lại có lúc mở ra cánh cửa định mệnh gần như dành sẵn cho nó, đứa con chịu nhiều thiệt thòi nhất trong gia đình, chắc chắn bố tôi cũng không hề nghĩ rằng, những ca khúc buồn bã ấy sẽ ảnh hưởng như thế nào trên cuộc đời của tôi. Bố tôi lại càng không bao giờ nghĩ đến cái lúc ông nằm xuống và ra đi trong cơn điên loạn, không một người thân bên cạnh, trong trại tù Lý Ba Sơ, giữa rừng thiêng nước độc. Những câu nói cuối cùng trong cơn điên loạn vẫn cứ là lời ông dành cho vợ con mà tôi là đứa con ông thương nhất.
… Từ chương trình Pháp tôi được học 5 năm tại Hà-nội, nay chuyển qua chương trình Việt, tôi chẳng hiểu gì. Kể ra thì vô lý vì tôi học lại từ đầu nghĩa là từ lớp Năm, có gì khó khăn, mà không thể hiểu được, nhưng rõ ràng là, chữ nghĩa không hề chui vào đầu tôi ngoài môn học thuộc lòng. Tôi nhớ ngôi trường cũ đẹp thênh thang, cái sân chân vuông vứa có một cây xoài khá lớn ở một góc. Tôi nhớ cái buồng ngủ như trại lính với 3 dãy giường giống hệt nhau. Mỗi chân giường là một cái ghế trên đó để sẵn chiếc váy xanh nước biển đậm, áo sơ-mi trắng bóng có dây cài ngang và đôi vớ trắng. Màn trắng, chăn gối, niệm trắng. Đêm đến các sơ Pháp bỏ tóc dài quá lưng, tay cầm tràng hạt vừa đi vừa kiểm soát, vừa đọc kinh. Lạy Chúa, trong đời tôi, tôi chưa thấy hình ảnh nào đẹp như thế.
4 giờ rưỡi sáng, những mái tóc dài đã biến mất dưới cái lúp trắng. Bà đứng đầu phòng vỗ tay đánh thức chúng tôi. Chỉ 15 phút làm vệ sinh thôi, chúng tôi dù còn tiếc giấc ngủ cũng chẳng thể làm sao hơn, nhỏm dậy làm giường rất nhanh rồi túa nhau vào phòng tắm. Mỗi đứa có riêng đồ vệ sinh cá nhân. Một chậu rửa mặt men trắng, khăn mặt, bàn chải đánh răng, cốc. Tất cả một cỡ và giống nhau như quần áo, vớ giầy. Sau 15 phút, chúng tôi lại túa xuống lầu như một bầy vịt con. 2 chiếc bàn dài đầy mũ nồi đủ màu sắc, mạnh đứa nào chụp được cái nào thì chụp, đội lên đầu rồi tất cả theo nhau vào nhà nguyện của trường dự lễ sớm nhất của ngày. Đó là lễ Misa. Lễ xong, chúng tôi qua phòng ăn sáng, rồi bắt đầu một ngày học. Tôi không có gì xuất sắc nhưng cũng như những đứa trẻ lớp một bình thường bắt đầu bằng a, b, c nhưng chúng tôi được dạy tổ tiên chúng tôi là người Gaulois. Tôi cũng tin như thế. Tôi và chị Yến được mẹ tôi cho học piano. Khốn nạn cho tôi, sao ngày ấy tôi ngu và nhát thế hay tại các thiên thần của tôi đánh dữ quá, mười đầu móng tay bé bỏng của tôi mà mấy bà sơ chẳng thương xót gì, cứ roi mây mà quất. Thế là con bé sợ quá… xin mẹ cho thôi… Thật chưa có cái ngu nào giống cái ngu nào. Cả hai chị em cùng thôi. Chúng tôi được dạy cách ăn, cách ngồi ăn. Được dạy cách đi với cuốn sách dày cợm trên đầu… Nghĩa là đủ cả để sẵn sàng trở thành đầm con.
Tôi nhớ thương sâu đậm những năm tháng ngắn ngủi bởi với tôi đó là một trong vài khoảng đời đẹp, hạnh phúc và đau buồn nhất … Nỗi nhớ mong hình dáng to lớn, xinh đẹp của mẹ mỗi chiều thứ sáu đến mỏi mòn tuyệt vọng. Nước mắt vòng quanh, tôi tủi thân lấp ló, thèm thuồng nhìn các bạn hớn hở tung tăng theo chân bố mẹ rời trường. Cả một ngôi trường to lớn bỗng trở nên vắng lặng. Sự im lặng khiến tôi cảm thấy ngôi trường dường như lớn lên gấp trăm lần và những tiếng đọc kinh rầm rì của các sơ thường ngày rất nhỏ như tiếng mẹ ru con, chiều thứ sáu cũng như cao hơn, vang vọng trầm bổng trong không gian, như muốn sưởi ấm những trái tim non nớt cô đơn, ngăn những dòng nước mắt tủi thân đừng rơi xuống quá sớm.
Mẹ tôi phải làm việc ở xa để kiếm tiền nuôi mấy chị em tôi - Ngọc Anh mới được sinh ra vài tháng sau khi mẹ nghe lời bố mang chúng tôi từ biên giới Trung Hoa trở về Hà-nội tìm người bảo lãnh bởi lúc đó, Pháp đã nắm chính quyền. Cộng sản cũng thành lập Đảng - Bố tôi không muốn theo Cộng sản nhưng đã từng chống Pháp, giờ khó an toàn nếu không có người quen biết bảo đảm - Mẹ được bố tôi – bây giờ - giúp đỡ công việc buôn bán và vì thế khi chúng tôi đến tuổi đi học, mẹ gởi hai chị em tôi vào nội trú, còn anh tôi ở với bà nội, nhà 106 Hàng Bông…., tiền học hai chị em tôi gần 50 ngàn mỗi năm là một số tiền không phải nhỏ, không phải ai cũng có và cũng dám làm. Giờ nghĩ lại, tôi thương sự hy sinh của mẹ, tôi hiểu vì sao có những chuyện khiến tôi đau lòng xảy ra. Tôi hiểu. Tôi hối hận vì có những lúc… không phải với mẹ dẫu lòng tôi vẫn buồn đau vì sự mất mát tình yêu của người cha là điều không thể thay thế được – không ai có thể làm được điều đó nhất là với tôi.
Mê hát do thừa hưởng dòng máu văn nghệ của cha nên khi nghe Saigon tổ chức cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng, tôi không thể gạt bỏ ý nghĩ liều lĩnh của một đứa bé gái mới trên 10 tuổi. Tôi chỉ nói điều này với anh vì anh Sơn cũng thích hát, thích vẽ. Anh hứa sẽ không cho bố mẹ biết nhưng cả hai chúng tôi đều biết rõ, biết rõ hậu quả của sự việc vì không thể nào bố mẹ tôi không biết đến sự vắng mặt của tôi. Mẹ tôi vốn là em út trong một gia đình có 3 chị em gái. Khi di cư, bác Tư tôi ở lại với bà ngoại. Gia đình bác Tuất tôi ở Saigon mà bác gái lại rất thương tôi. Bác Tư ở lại Hà-nội có anh Hùng, anh Tín sau này còn có thêm anh chị nào thì tôi không biết, nghe nói hai anh tôi đều đã đi học và tốt nghiệp ở nước ngoài. Cả hai anh có vào Saigon tìm gia đình tôi một lần rồi thôi, không liên lạc gì cho đến bây giờ. Mẹ tôi đã tiếp đãi các anh theo đúng tinh thần Quốc-Cộng. Điều đó có lẽ khiến hai anh buồn lòng. Không có lần thứ hai. Tôi trách mẹ vì dù Quốc hay Cộng cũng không thể cắt đứt tình máu mủ ruột thịt và chẳng hiểu vì sao, ngay cả chị Yến tôi dù ở lại, dù đã đi Hà-nội chơi mấy lần, cũng không tìm thăm lại các anh em của mình và mộ của ông bà ngoại.
Nhưng năm đó thì gia đình bác Tuất ở Saigon. Các chị Tuyết, Kim, Oanh, Nghiệp, anh Bảo, anh Toàn đều hát hay và vì bác Tuất trai sử dụng kèn Clarinette từ trước di cư. Tôi tin bác sẽ cho tôi ở vài ngày và che chở cho tôi. Thế là tôi quyết định ra đi. Mượn quần soọc, áo sơ-mi của anh, tôi tới bến xe hàng chuyên chở rau xin quá giang. Đêm đó, tôi nằm sau xe tải ôm đám bắp cải ngủ cho tới khi xe tới Saigon. Ông tài xế già tốt bụng còn dặn nếu muốn trở lại, cứ tới bến tìm, ông sẽ cho trở về. Tôi không nhớ rõ nhưng chắc chắn gia đình bác Tuất đã ghi tên cho tôi dự cuộc thi tuyển đó. Em bé Lệ Mai ghi danh bài “Từ Giã Kinh Thành” nhưng bị từ chối. Con nít không được hát bài đó.Tôi nhớ ngay đến “Ngày Trở Về” của ông Phạm Duy và được chấm đậu hạng nhì, thế thôi nhưng đủ làm tôi sung sướng đến có thể chết đi được và không cần biết chuyện gì đang chờ đón tôi ở nhà. Nửa thế kỷ đã trôi qua, không biết còn mấy ai nhớ đến con bé đen ngòm, tóc tém, mặc quần soọc trắng, áo sơ-mi ca-rô xanh… hùng dũng hát “Ngày Trở Về” trong buổi thi tuyển ca sĩ nhi đồng tại rạp Norodom. Đối với tôi, dẫu sau đó bị một trận đòn thê thảm, tôi vẫn cho rằng việc làm liều lĩnh của tôi ngày đó là đúng, không có gì, không còn gì đúng hơn.
Ở Đà Lại được một năm, gia đình tôi lại chuyển xuống Sài Gòn. Chúng tôi dồn vào một căn nhà khá xinh trên đường Sương Nguyệt Ánh mà nhiều năm sau đó nữ nghệ sĩ Kiều Hạnh, rồi cô Thái Thanh dọn về. Cạnh đó, đường Bùi Thị Xuân, là nơi bà nội sau, tức là mẹ dượng tôi, cũng là nơi vợ chồng ông Lân cô Thanh Nga bị sát hại ngay trước cửa. Ông Đồng Lân là em ruột bố dượng tôi nên tôi gọi cô Thanh Nga bằng Thím. Nhưng đó là chuyện về sau.
Trong cái cư xá gồm khoảng 10 căn, tôi cùng đám trẻ con không phân biệt Bắc Nam cùng chơi trò …tạc hình dù mẹ tôi ngăn cấm. Bà thường tặng tôi những trận đòn nhớ đời mà tôi chẳng hiểu lý do vì sao. Tự nhiên mẹ tôi lôi ra đánh, bắt xin lỗi. Tôi có lỗi gì đâu mà xin. Đánh nữa cho bỏ cái tật lì lợm. Không khóc hả, đánh nữa, đánh nữa. Tôi không bao giờ khóc ngay lúc đó, thường là sau mỗi trận đòn, tôi trốn trong nhà tắm hoặc đầu ngõ, kiếm một chỗ khuất để khóc một mình và những lúc ấy, tôi nhớ Bố tôi biết bao nhiêu. Ừ, nếu có Bố ở đây, mẹ sẽ không bao giờ đánh tôi như vậy.
Mấy người chị họ như chị Tuyết, chị Kim đều được bác Tuất cho đi hát. Chị Yến tôi cũng được đi hát theo, và người để ý đến chị Yến chính là nhạc sĩ Lam Phương, bấy giờ ông vừa làm xong bài hát “Khúc Ca Ngày Mùa”. Tôi không còn nhớ các chị hát ở đâu bởi lúc đó, Sài Gòn chưa có một phòng trà nào, mà dẫu có, các chị cũng chưa đủ tuổi để vào những nơi đó. Điều đó chứng tỏ là mẹ và dượng tôi (từ nay tôi sẽ gọi dượng bằng bố) không hề có ác cảm với việc con mình đi hát. Chuyện hát hò có lẽ chỉ nghiêm khắc đến nghiệt ngã đối với tôi, mà cho đến bây giờ lý do tại sao tôi vẫn không hiểu.
Lại dọn nhà nữa, có lẽ vì ở gần bà nội, mẹ tôi cứ bị ông em của bố tôi qua tận nhà chửi bới, thậm chí còn xông vào muốn đánh mẹ. Ông này là em dưới ông Đổng Lân…trong có 2 năm, dọn nhà 3 lần, tôi mất trắng những ngày được đi học. Tuy vậy, tôi cũng lờ mờ hiểu được rằng… bên nội sau không thích mấy anh chị em tôi, nhất là không ưa mẹ tôi chút nào, không tán thành cuộc hôn nhân của bố mẹ. Có lúc tôi hỏi mẹ… Sao mẹ không nhận lời cái ông Tây yêu mẹ và yêu cả các con. Cái ông Toàn Quyền ở Hà Nội ấy…Mẹ tôi cười. Ôi! tình yêu. Thì ra mẹ tôi yêu bố tôi, quên đến nỗi quên hẳn bố ruột tôi đang trông chờ tin tức của vợ con, quên hẳn mình đã có 3 đứa con, quên luôn rằng lúc đó bố tôi đang ở với bà Lan Phương (em bà Ái Liên, dì ruột của ca sĩ Ái Vân).
Nhà chúng tôi nằm cạnh Nha Quân Nhu đường Trần Hưng Đạo. Lúc này, tôi đã vào nếp như ý mẹ tôi mong muốn, nhưng tôi chẳng làm sao quên được hình ảnh của một buổi chiều mẹ đến mẹ đến nhà bà nội tôi ở Hàng Bông. Sau khi nói chuyện với bà nội, mẹ bảo với chúng tôi ….Bố các con chết rồi. Hôm đó mẹ rất đẹp, mẹ mặc áo dài mút-sơ-lin màu tím hoa cà, có những chấm tròn trắng, quần đen, kính đen và to.Tóc mẹ chảy ngược ra sau, bới lại. Mẹ, hôm đó đẹp lắm. Mẹ tôi lúc nào cũng đẹp. Bà không chịu được cái gì xấu, không chấp nhận cảnh nghèo, không chịu thua kém ai và dĩ nhiên, bà muốn các con của bà nếu không theo kịp cũng có phần nào cái đẹp của bà, dẫu bà nợ nhiều lắm. Mẹ tôi vẫn cứ, bà vẫn cứ là cái đinh trong mắt … 2 bà nội của chúng tôi.
Như thế, tôi có hai bà nội. Ngày giỗ bố tôi, mẹ và các em tôi đều có mặt… ăn giỗ Bố Viễn… các em tôi bảo nhau như vậy. Chúng tôi sống chung hoà thuận, không hề có chuyện Bố tao, Bố mày bởi chúng tôi cùng một mẹ sinh ra. Với tôi, cho dù bố mẹ không thương cũng không hề tị nạnh ganh ghét các em. Một gia đình, thoạt trông vào quả là hạnh phúc qua những đứa con, nhưng vẫn có những cơn sóng ngầm dữ dội. Bố Viễn tôi ngày xưa yêu và bằng mọi cách cưới mẹ cho được. Gia đình nội tôi khá giả. Bố tôi học trường Tây đến hết trung học, ông đi Hongkong. Tôi không hiểu rõ ông đến Hongkong làm gì nhưng bà nội cho biết ông nói được 7 thứ tiếng Tàu, tiếng Mỹ. Một thời gian làm việc với Nhật nhưng sau đó, ông theo phong trào chống lại Pháp. Vậy việc ông đi Hongkong có liên quan gì đến đảng cộng sản được chính thức thành lập sau này hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hơn là bố cưới mẹ tôi ở Hongkong. Khi hai ông bà trở về, mẹ đã có thai và bà nội tôi đành phải cưới vợ cho con, người con độc nhất của bà.
Theo lời mẹ kể, bà nội tôi là người nghiệt ngã, ông nội thì nhu nhược hiền lành nhưng vẫn có thêm vợ. Bà tôi khai thác mỏ phốt phát và nuôi cả nhà. Mẹ bảo …Bố tôi là người hiền như cục, bố rất tốt với bạn bè. Ai xin gì cũng cho. Cho hết quần áo của mình, về nhà lấy quần áo của ông nội, cho luôn. Đi làm nhưng chẳng bao giờ ông mang tiền về nhà. Mẹ có hỏi ông bảo …cho hết rồi. Bà nội và mẹ tôi không phàn nàn gì trước cái lối vung tay của cậu Ấm. Bà tôi kể… Năm đó, bà đã 26 rất giỏi giang công việc buôn bán dù không biết chữ nhưng muộn chồng vì bà không được đẹp (Mẹ thường bảo tôi giống bà nội). Ông nội nhà giàu, không có con trai, nhờ người mai mối thế là bà tôi về làm lẽ. Một hôm bà đang ngồi trước cửa, có ông thầy bói đi qua, bà tôi đang phiền muộn về nỗi chậm con bèn nhờ ông ta coi, bà cũng kể lể nỗi niềm hiếm muộn của mình. Ông thầy nói với bà rằng… Bà sẽ có một người con nhưng người con này sẽ không ở với bà lâu vì tiền kiếp của đứa bé này là một người Tàu, ông này làm quan và chết trẻ… Thế rồi bà tôi sinh bố tôi và chỉ một lần đó thôi.
Tôi không quan tâm đến chuyện giàu có của bà nội và khi gặp mặt lần đầu tiên tôi đã 5 tuổi rồi. Bà nội ở một mình, 106 Hàng Bông. Nhà rất rộng, căn ngoài bà mở depot nước đá, căn thứ hai có một cái giường lớn, cái bục thì đúng hơn, lát đá hoa, trưa hè Hà Nội nóng nực, nằm xuống, sướng không chỉ cái lưng. Qua một khoảng sân rộng ngổn ngang những dụng cụ điện làm bằng sứ trắng tới phòng của bà và chúng tôi. Lại một khoảng sân đầy dụng cụ nữa, mới tới nhà vệ sinh. Sau khi hồi cư, mẹ để chúng tôi ở với bà, còn mẹ đi buôn bán, nghe đâu ở Hải Phòng. Tôi rất ngại đến gần bà vì bà tôi rất nghiêm, ít khi hỏi tới các cháu và luôn luôn có ác cảm với mẹ tôi. Phần tin tức bố tôi cứ mù tăm, hoặc là bà có biết, mẹ có biết nhưng nghĩ chúng tôi còn bé dại, có nói cũng vô ích.
Tôi bị nhức trong xương, bà bảo là tê thấp, phong thấp gì đó và từ nhỏ, tôi đã phải uống những chén thuốc Bắc đắng nghét. Dù bà không nói nhiều với chúng tôi nhưng bà săn sóc rất đầy đủ. Bà hay nấu cháo hoa cho tôi ăn với đường, bà cho anh Sơn ăn cao ban long, cao hổ cốt do chính bà nấu và bán. Bà tôi còn biết làm xà bông nữa, những thỏi xà bông màu xanh được cắt vuông vức. Bà còn chơi hụi và thỉnh thoảng bà dắt chúng tôi đến những buổi lên đồng, gọi là “lấy lộc”, tụi tôi rất khoái cái màn này. Uống thuốc Bắc, ăn sáng bằng cháo hoa, đi xem lên đồng và nằm ngủ trưa trên cái giường lát đá hoa cho đến lúc mẹ cho chị Yến và tôi vào nội trú. Tôi không hiểu vì sao mẹ không gởi anh Sơn theo chương trình Pháp nơi trường bố tôi đã học. Chắc mẹ có lý do riêng. Tôi thắc mắc không hỏi để đến bây giờ thì quá trễ rồi.
Gần như chúng tôi chỉ được mẹ đón một lần mỗi tháng. Mẹ đón, nhưng lại đưa chúng tôi về nhà bà nội, rồi lại đi mất. Tôi đã quen sự ơ hờ của mẹ và những ngày cuối tuần của tôi rất thần tiên. Tôi không phải bưng đĩa rau dền xay nhuyễn với bơ lên văn phòng của Bà Nhất để vừa khóc vừa ăn, tôi gọi món đó là …cứt trâu. Về với bà nội dù chỉ 2 ngày, tôi tung tăng chạy khắp phố Hàng Bông, được ăn bánh mì paté gan cháy, xôi lúa hoặc thơ thẩn trước các cửa hàng nghe lóm nhạc. Tôi biết nghe “Bà Mẹ Quê, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê…”. Tôi quen cái vị đắng khó uống của những thang thuốc Bắc và thích đặt lưng lên cái sạp lót đã hoa, mát đến lạnh người. Mỗi tháng chỉ uống thuốc được 4, 5 lần nên tôi ôm cái bệnh gọi là phong thấp cho đến bây giờ và cũng một phần vì nó, tôi làm quen với thuốc ngủ.
Nhạc của Phạm Duy và của các ông nhạc sĩ thời bấy giờ đã len lỏi ấn núp trong trí nhớ thơ dại của tôi từ những ngày lang thang trên con phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Ra khỏi nhà, nếu đi thẳng, tôi sẽ đến bờ hồ. Rẽ tay phải là Hoả Lò. Rẽ trái tới phở Phú Xuân và rạp xi-nê Kinh Đô. Thời đó, chúng tôi hay sưu tầm program in mầu đẹp lắm và tôi nhớ mãi cái phim Ấn Độ “Magala cô gái Ấn”. Ôi! cái phim buồn làm sao, tôi khóc quá sức khi thấy trên màn ảnh hai người vừa khóc, vừa hát vừa chia tay nhau. Tôi cũng được xem phim “Cô Gái Việt” mà tôi nhớ bài hát chính của phim… Lời sông núi bừng vang bốn phương trời… Trong những ngày cuối tuần đó, tôi cũng đến ở với bác Tuất. Nhà bác ở ngay cạnh Quốc Tử Giám. Chỉ băng qua đường, tôi có thể vào leo lên lưng mấy con rùa to tướng bằng đá. Đêm đến cả nhà kéo đi xem cải lương. Tất cả chục mạng chất trên một chiếc xích lô. Tôi thích cô Kim Chung, Bích Hợp, Kim Xuân và danh hài Tứ Vững, Phúc Lai. Tôi cũng mê cải lương từ đó. Nghĩa là cái gì có ca, diễn là nó đi thẳng vào đầu tôi.
Bố mẹ tôi có ngôi biệt thự lớn lắm. Cả một con đường toàn những biệt thự có chó bẹc-giê, có người da đen gạch mặt giữ nhà, tụi tôi thường chọc phá rồi chạy trối chết về nhà. Tôi không nhớ tên đường nhưng nó nằm ở gần Hồ Tây và cũng gần vườn Bách Thảo. Tôi vào vườn lượm những trái chi chi nhỏ xíu đỏ tươi hoặc ra lội xuống đền Ngọc Sơn… Nếu dòng đời cứ êm ả trôi như thế, tôi đã trở thành một bà sơ vì cho dẫu các thiên thần đã dùng roi mây đánh vào các ngón tay tôi, dù có bắt tôi lên văn phòng cho hết cái món …cứt trâu, co la mắng chúng tôi…Các vous có muốn làm cái thứ trèo me, trèo sấu ấy không? Hình ảnh các bà sơ thật là đẹp đẽ. Nếu bố tôi không chết, nếu không có cuộc di cư và nếu mẹ tôi cho tôi tiếp tục học trường đó – sau di cư dọn vào Đà Nẵng – thì có lẽ cuộc đời tôi đã theo một hướng khác. Nhưng một là mẹ không chú ý đến tôi, hai là sau di cư, gần như đa số trắng tay. Nhà không giàu lại đông anh chị em, sẽ có đứa bị thiệt thòi. Điều này thường xảy ra. Ác ở chỗ, nó lại rơi trúng tôi.
Ở Trần Hưng Đạo, kế ngã tư Trần Bình Trọng, tôi học trường tiểu học Cầu Kho. Không ai khảo sát sức học của tôi, cứ theo tuổi xếp lớp thế là tôi cứ ngày ngày lội bộ đến trường, chẳng học được gì chỉ để rệp cắn nát hai bên mông và đùi. Tôi không dám nói với thầy cô rằng tôi chẳng hiểu gì ngoài môn học thuộc lòng, mà thầy cô cũng không thấy cái dốt của tôi. Về nhà, chẳng ai chú ý đến chuyện học của tôi cả. Rồi chị Yến lấy chồng, người này quen với bố tôi, đến nhà thấy chị hiền lành đẹp đẽ, giỏi giang bèn sớt đi. Tôi biết chắc chắn chị tôi không yêu anh ta nhưng ở nhà chị khổ quá. Không được đi học nữa, phải chăn một lũ em, phải phụ với u già làm hết mọi việc. Chị cho rằng đi lấy chồng là thoát ra khỏi cái cảnh khổ. Bố tôi bằng lòng. Mẹ tôi thì không. Đám cưới chị Yến đơn giản đến độ giờ tôi không còn nhớ. Cái điều đáng nhớ nhất là ngày đó, mẹ tôi la mắng chị dữ lắm. Chị chỉ ngồi nghe và khóc. Tôi thường tự hỏi tại sao mẹ lại có hành động như vậy. Mẹ thương, không muốn rời xa chị vì chị mới 16 tuổi hay vì mất chị, mẹ như mất một cánh tay, nói rõ hơn mất một người làm việc giỏi?
Chị tôi khóc trong ngày cưới và khóc cả cuộc đời làm vợ, làm mẹ. Những giọt nước mắt rơi xuống, không phải để khóc cho hạnh phúc. Chị tôi đi lấy chồng và đó là lỗi lầm lớn nhất, duy nhất chị vấp phải. Một lần cho một đời. Chị tôi đi lấy chồng. Lấy người đàn ông đầu tiên chị quen. Chị tôi còn trẻ dại, chưa biết gì về tình yêu. Nói đúng hơn, chị không hề yêu, không biết tình yêu nó như thế nào. Bây giờ trên 60, chị tôi vui với 5 đứa con và một bầy cháu nội, ngoại. Tính chị đơn giản, không biết giận hờn ai bao giờ, nếu có thì có lẽ là người đã tặng chị 5 đứa con.
Thế là chị tôi đi lấy chồng. Lấy chồng ở cái tuổi còn thơ, chưa biết tình yêu là gì. Chưa biết ngoài gia đình, cuộc đời xoay dần ra sao. Hơn 40 năm sau hỏi, chị bảo… Thì ai mà biết gì, bố mẹ bảo lấy, bắt lấy thì phải lấy, thế thôi… Tại sao lại thế? Tại sao lại có một tâm hồn, một con người đơn giản như thế? Chị vẫn cứ cười xem như chẳng có gì là quan trọng. Mà cũng phải thôi, các con chị đã lớn. Chị không còn trẻ. Không, 27 năm trước chị còn trẻ mà dường như không bao giờ chị nghĩ đến cả chuyện… làm lại bởi một lẽ đơn giản, chị không biết yêu, nên chị sống với các con và bây giờ là các cháu.
Tưởng chị là người không may hoá ra chính chúng tôi mới là những đứa không may. Nhìn chị bây giờ, tôi tự hỏi… phải chăng ngoài cái không biết yêu, hình như chị cũng không bíêt đau khổ là gì. Ngày xưa, chị Yến chỉ có độ hai, ba người bạn cùng xóm, giờ chị có nhiều bạn, chị “ăn hụi” cùng nhóm bạn già nay đi Thái Lan, mai đi Hà Nội chơi Chùa Hương, vịnh Hạ Long. Chị có thể đi bất cứ nơi nào chị muốn không cần xin phép ai. Chị luôn vui cười như trẻ thơ không hề biết lo âu. Tôi về, chị đeo theo tôi quên cả con dâu vừa sanh, đến nỗi tôi phải nhắc để chị nhớ là chị vừa có thêm một đứa cháu nội. Chị theo tôi, có những hôm tôi ngồi cả ngày với ông TCS chẳng nói năng gì, mà có nói, chuyện chúng tôi chị đâu có hiểu nhưng chị vẫn đi theo không hề phàn nàn, kêu ca mệt mỏi.
…Sau khi em đi rồi, chị đi bán chợ trời, cái gì bán được là bán. Lão ấy bỏ chị và mấy đứa con bơ vơ. Rồi mất nhà, mấy mẹ con lăn lóc, nay ngủ nhờ chỗ này, mai nhờ chỗ khác. Mẹ thì khó tính, ở không được lại xách con đi. Một hôm chị gặp một ông thầy – tôi quên không hỏi chị là Thầy nào, Công giáo hay Phật giáo – lan man kể lể tâm sự khổ sở của 6 mẹ con, bất ngờ ông Thầy nói… tưởng ai chứ chị là chị của cô Khánh Ly, ngày trước cô ấy thường hát giúp chúng tôi để gây quỹ nuôi các trẻ mồ côi tàn tật, thôi thì bây giờ tôi để lại cho chị mảnh đất và căn nhà này, chị trả góp cho tôi tới bao giờ hết thì thôi… Miếng đất khá rộng và căn nhà thì gần như đổ nát trị giá 10 cây vàng - dẫu có đổ nát cũng là cái nhà, có chỗ cho mấy mẹ con chui ra chui vào – và rồi với những gói quà 2 pounds tôi chắt chiu gởi về, lần hồi chị cũng trả được hết món nợ đó.
So với căn nhà bị tịch thu của chị, dĩ nhiên là không bằng nhưng tôi lại thích bởi cái vẻ nghèo nghèo, nho nhỏ của nó… Em không dư tiền gởi về cho cả gia đình, chỉ có thể mỗi năm gởi một lần cho Yến mà thôi. Các cháu lớn hết, đã có gia đình công ăn việc làm, không giầu nhưng đủ sống và như thế nay, Yến sống sướng hơn tụi em nhiều lắm… Chị biết, chị nghe nói mấy em ở Mỹ làm việc cũng cực khổ lắm. Chị không thiếu gì vì các cháu. Tiền em gửi, chị để dành lúc về già hay bịnh hoạn… Bao nhiêu năm rồi, từ một thiếu nữ nay thành bà nội, bà ngoại, chị tôi vẫn hồn nhiên… không biết tiền là gì, nói gì đến tình yêu.
Chị không tha thiết đến việc đi Mỹ… Chị chỉ muốn đi một lần cho biết rồi về chứ ở bên ấy làm gì… Yến ạ, em giờ chưa đủ điều kiện để cho Yến đi du lịch thăm thú nước Mỹ nhưng mấy chị em ở đây góp lại cũng chẳng khó khăn gì… Số chị lại không may. Hồ sơ nộp theo diện bảo lãnh mà bây giờ xin du lịch thì …hỏng rồi. Chờ một năm nữa mở hồ sơ bảo lãnh thì chắc chắn là chị sẽ được đi nhưng cái chính là chị tôi không muốn qua đây rồi … ở lại đây. Tôi cũng hiểu một người như chị dù có ăn học, dù ngày xưa này mặc áo lụa vàng lái “xế hộp” chạy phăng phăng trên xa lộ khiến có lúc nhà văn Nguyễn Đình Toàn… suýt đổ nhưng hơn 20 năm, dẫu trãi qua lắm hồi bỉ cực, đời sống chị ở quê nhà đã thành nếp, chị khó sống ở nơi khác, nơi không có những bạn bè cùng “ăn hụi” với chị, nơi chị mỗi tháng giúp đỡ cho 2 học sinh nghèo học giỏi.
Tôi rất thương chị, dĩ nhiên vì chị là chị ruột của tôi, nhưng đồng thời, tôi nhận ra rằng đừng thương hại chị bởi chị, con người chị đơn giản quá, chị không biết khổ đau hoặc chị không để khổ đau gậm nhấm giết hại tâm hồn vốn luôn hồn nhiên của chị… Trong nhà thường chép miệng… tội nghiệp chị Yến, lúc có tiền chẳng được hưởng gì… Đúng, đối với chị, hờn giận, hối tiếc là những điều không tìm thấy ở con người chị. Đơn giản, hồn nhiên vô tư hơn cây cỏ. Đó là cái mà chúng tôi không có làm đôi khi tôi hơi ganh tỵ mỗi khi nghe tiếng chị cười giòn tan qua điện thoại hoặc mỗi khi con chị cho biết… Mẹ con đi Thái Lan, đi Hà Nội chơi rồi… Sao chị sướng thế nhỉ. Cái phần thưởng Trời Đất dành cho chị lúc cuối đời thật là đẹp đẽ, tốt lành. Bởi chị sống tốt lành.
Chị cả đi lấy chồng thì cứ theo thứ tự từ trên xuống dưới. Con em kế tiếp những công việc chị thường làm là tôi. Nhà thì đông, chỉ có một u già theo bố mẹ từ Hà Nội vào Nam. Mẹ tôi giao hết công việc cho u già và chị Yến. Bà không hề làm một việc gì dù là xuống bếp lo nấu nướng cho bố tôi. Bà giao cho tôi 70 đồng đi chợ mỗi ngày. Trưa 4 món, chiều 4 món khác nhau. Trời đất ạ! tôi đã có đi chợ mua bán bao giờ. Cái làn đi chợ thiếu điều còn muốn to hơn tôi nữa và không bao giờ tôi quên được cái cảm giác lần đầu tiên bước chân vào chợ một mình. Tôi cứ loay hoay vẽ lại trong trí nhớ những món ăn mà chị Yến và u già đã nấu… Canh dưa chua thì phải mua những gì, cà bung rồi thịt đông cần gì. Canh bầu canh bí, rau muống luộc hay xào. Đậu nhồi thịt rán hay đậu rán om cà chua…. cái đầu nhỏ xíu của tôi phải làm việc dữ dội để tránh khỏi bị đòn nếu không làm đúng những điều mẹ tôi dặn.
Lúc đó tôi học trường Cầu Kho. Trường cứ theo tuổi sắp lớp không hề khảo sát trình độ của học sinh, có lẽ họ nghĩ con nít không cần thiết, nên tôi vào ngay lớp nhì. Buổi sáng dậy sớm xách làn đi chợ, về giặt hai chậu quần áo, phơi phóng xong, ăn cơm rồi đi học buổi chiều. Nói là đi học chứ thực tình, tôi có học được cái gì. Lẽ đơn giản là tôi không có căn bản, tôi chẳng hiểu gì. Thầy giảng cứ giảng, tôi ngồi như vịt nghe sấm, chờ tới giờ về. Người anh thứ hai của tôi kế chị Yến, hơn tôi 2 tuổi, học trường Văn Lang. Anh Sơn cũng là người thông minh, thích nhạc, thích vẽ, mê nhảy đầm và nhiều bạn. Bạn của anh cũng tự nhiên trở thành bạn của tôi. Anh đưa về các anh nguyễn Đức Nam, anh Đinh Bù Loong (thân phụ của ca sĩ Diễm Liên), anh Nguyễn Ngọc Kiểm tức anh Ngọc Hoài Phương bây giờ. Trong tất cả các bạn của anh chỉ có anh Ngọc Hoài Phương là được bố mẹ tôi cho vào nhà, coi như con ruột. Còn những người khác, đang ngồi chơi, nghe tiếng xe của bố tôi là ù té chạy hết. Do đó, ngay từ nhỏ, tôi đã xem anh Ngọc Hoài Phương như anh ruột của mình. Anh gọi tôi bằng “chú” và tôi cũng gọi anh như vậy.
Tôi trượt tiểu học, khỏi nói cũng có thể hiểu được sự thất vọng và giận dữ của bố mẹ tôi. Có học được gì đâu mà đậu. Thầy giáo cứ giảng, tôi cứ ngồi đó lẩm nhẩm thơ Nguyễn Bính, hát thầm trong bụng cho đến hết giờ. Ngày đi thi cũng thế, tôi nào có tha thiết gì đến chuyện học hành, thi cử, vì vậy sau cuộc thi tiểu học, tôi vẫn đi học nhưng không thi cử gì nữa hết. Tôi đi học là bởi muốn đi ra khỏi nhà để khỏi phải nghe những lời mắng nhiếc của mẹ, cái nhìn hầm hầm giận dữ của bố, tránh những ngọn roi, những cái tát, những chiếc giầy đập túi bụi trên đầu trên cổ tôi. Mẹ gởi tôi vào nội trú trường Thánh Mẫu cũng chỉ được chưa gần một năm đã bị trả về vì tội leo trường trốn đi chơi với một trong những người bạn của ông Ngọc Hoài Phương. Hoàng là người tôi thích và cũng là người viết cho tôi những lá thư tình đầu tiên. Bao nhiêu thư mở đầu bằng hàng chữ “Bé Mai”. Tôi giao cho ông anh Ngọc Hoài Phương cất giữ. Mẹ bắt tôi vào nội trú chỉ vì một lần bố tôi bắt gặp Hoàng và tôi đi bộ với nhau trên đường Võ Tánh. Ông nhảy xuống giáng cho tôi một bạt tai giữa cái nhìn kinh sợ của Hoàng và những người đi đường. Kết quả bao giờ cũng thê thảm với sự đốc thúc của mẹ tôi.
Tôi không nghĩ là mẹ thích thú khi thấy con mình bị đánh đập nhưng có lẽ bà khó chịu đựng được cái nết lì lợm của tôi. Mắng chửi, tôi cãi lại. Đánh đập, tôi không khóc. Bắt xin lỗi, tôi không mở miệng mà ý muốn của mẹ tôi gần như là ý Trời, không đứa nào trong nhà dám làm người lại lời bà phán, kể cả bố tôi. Mẹ không thấy được sự trưởng thành quá sớm của tôi từ cái chết của người Cha mà tôi rất mực tôn thờ. Bà không mường tượng ra được sự việc đó lại ảnh hưởng đến tôi nặng nề như vậy. Mẹ không đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi, một đứa bé mồ côi cha luôn luôn mong ước được sự vuốt ve âu yếm của Mẹ, để bù lấp nỗi thiếu thốn lớn lao nó đã mất vĩnh viễn. Mẹ lại càng không đọc được trong tim tôi một nỗi hờn ghen uất nghẹn không thể nói thành lời. Tôi vẫn thương Mẹ, thương các em, một tình thương chân thật. Chị em chúng tôi sống từ đó cho đến bây giờ không hề có sự chia biệt nào. Tất cả đều sống cùng một mái nhà, có cùng một người mẹ. Song mẹ tôi dường như quên hẵn sự có mặt của tôi trong đám con đông đúc của bà. Suốt một đời tôi thèm khát vòng tay ôm ấp và những lời nói trìu mến của một người Mẹ. Tôi thèm tình thương, và phải chăng những bi thảm của đời tôi, bắt đầu từ sự thèm khát bình thường tội nghiệp này.
Sau trường Thánh Mẫu, tôi đổi trường liên miên. Một năm trường Việt Tiến. Một năm trường Hưng Đạo. Một năm Nguyễn Bá Tòng. Tôi không phải đi bộ hay đi xe bus. Bà nội mua cho tôi một chiếc xe đạp mà tôi luôn luôn chạy giữa đường chứ không bao giờ đi vào lối dành cho xe đạp. Đùng một cái, chiếc xe bị mất. Nó bị ăn cắp chứ không phải tôi sơ ý. Mẹ tôi bảo…mày cứ chờ đấy, bố mày về rồi mày sẽ biết. Tôi quỳ giữa nhà, bố tôi cầm chiếc giầy của ông đập túi bụi vào tôi. Mẹ tôi ngồi nhìn tôi bị đánh, thản nhiên, thỉnh thoảng thêm vào … đánh nữa đi, đánh cho nó chết, cho nó chừa đi, mất xe thì mày đi bộ, không có tiền đâu mà mua xe khác cho mày… Bố tôi vừa đi làm về mặt đỏ bừng vì rượu, được lời của mẹ, ông túm lấy tóc tôi, xoắn lại, tay kia tiếp tục giơ cao chiếc giầy. Tôi đau quá nhưng lạ lùng làm sao, tôi không hề khóc. Tôi khóc không được vì nỗi oan ức và nghĩ xe của bà nội cho và nào tôi muốn làm nó mất. Trong trái tim non dại của tôi chợt vang lên…. Bố ơi! Bố ơi! Bố ở đâu… và tôi cảm thấy một nỗi căm phẫn chưa từng có bùng lên. Anh Sơn và các em tôi chẳng đứa nào dám nói một câu, chắc chúng không hiểu vì sao tôi bị đánh như thế. Chúng còn quá nhỏ và chưa hề bao giờ bị đòn.
Tôi thường lẫn vào đâu đó để khóc một mình sau mỗi trận đòn. Càng bị đánh tôi càng lì đòn, không sợ nữa, không cảm thấy đau đớn nữa. Căm phẫn, tủi thân, tôi cứ làm những gì tôi thích trái ngược hẳn với ý muốn của mẹ. Anh Sơn và các bạn anh đi chơi, đi “Bal Famille”, tôi bu theo. Chẳng cần ai dạy, tôi nhảy rất giỏi, nhất là nhảy “be bop” nên thời đó bạn bè gọi tôi là “Mai bộp, Mai đen, Mai chân voi”. Tôi bất cần dù sau mỗi lần trốn nhà đi chơi là lại lãnh một trận đòn nhưng anh Sơn tôi thì không bị gì cả. Thời đó đi nhảy như một cách biểu diễn những bước nhảy mới chứ không hề có sự lợi dụng trai gái. Vả lại, mọi người đều xem tôi như một thằng con trai và tiếng nhạc trong những lần khiêu vũ đã làm thức dậy nổi đam mê ca hát tưởng đã chết trong những ngày tháng buồn bã. Lúc đó tôi chỉ mơ hồ cái cảm giác thích được hát thôi. Mẹ tôi bị đau nhức tay chân, ngày nào tôi cũng đấm chân cho bà và trong những lúc ấy, bà hay cho chạy những đĩa nhạc Tango. Tôi đấm chân cho mẹ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Mẹ tôi không hết nhức mỏi nhưng điệu nhạc Tango đã chui vào đầu tôi, đến nỗi những lúc mỏi tay quá, tôi đấm cho bà theo nhịp điệu Tango.
Anh Sơn biết tôi thích hát. Anh không ngăn cản mà hầu như tạo cơ hội cho tôi. Chính vì thế mới có những lần ở vũ trường Đồng Khánh, tôi dám leo lên sân khấu và từ ở đó, tôi nảy ra ý định tìm cho mình một cái tên. Tôi vốn mê đọc truyện từ nhỏ, nhất là Tam Quốc Chí và Đông Chu Liệt Quốc. Từ những chuyện đó, tôi tìm được 2 nhân vật Khánh Kỵ và Yêu Ly. Cái tên Khánh Ly có từ lúc đó….
Từ thuở hồng hoang, thú vật đã biết tìm cho mình những hang ổ để sống. Là người, ai lại không muốn có một mái ấm gia đình, anh chị em quây quần yêu thương nhau, lẽ dĩ nhiên vẫn hơn những kẻ lạc loài không mái ấm tựa nương. Dẫu cho rằng tôi không thể yêu thương Bố Dượng như Bố ruột, nhưng nếu ông coi tôi như những đứa con của ông, điều đó sẽ an ủi tôi biết bao nhiêu. Với các em tôi, tôi yêu chúng, hay nói đúng ra, chúng tôi thương nhau như chị em cùng cha mẹ. Chúng còn nhỏ, chưa biết gì và ngay cả khi hiểu biết, chúng tôi cũng không hề phân chia… Bố chị… Bố em... Cũng chẳng bao giờ tôi quên ơn Dượng. Ông và Mẹ tôi cho tôi đi học đàng hoàng nhưng… lỗi tại tôi mọi đàng… Phần còn lại, tại ai, tôi không biết và chữ nghĩa đối với tôi như chuyện thần thoại, một điều không có thật.
Một năm nội trú trường Thánh Mẫu, tôi chỉ nhớ tên một người bạn, đó là chị Lài – đã lấy chồng và đi Pháp từ lâu – một chị nữa hiện là nữ tu, tôi vô tình gặp lại trong chuyến đi Vatican 1998. Phụng Hoà học chung với tôi ở Hưng Đạo. Em trai là Phùng Thuận vừa mất tại Cali. Ở nội trú, lễ Misa được lập lại như những năm tôi học ở St. Marie. Cũng 5 giờ sáng, chỉ khác là quần áo tuỳ tiện và không có mũ. Đặc biệt là không có cái món… cứt trâu rau dền nghiền nát trộn bơ. Mỗi tuần được ăn phở một lần. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhớ cái câu… Phở không người lái. Tức là cách đây mấy chục năm, tôi đã được ăn phở không người lái… bằng đĩa. Hơi sâu chứ không phải tô, với nước và chừng… chục sợi bánh. Tôi đi trước Việt Cộng với Xã Hội Chủ Nghĩa nhiều năm…. Tôi không buồn vì trường mới di cư, tiền học phí thấp nên ăn uống có phần giản tiện. Một con tôm kho có thể ăn hết bữa cơm vì nó mặn như một… kho muối.
Tôi được vào nội trú là vì cái người con trai đã gọi tôi là… Bé Mai…. Mẹ bảo… để nó ở ngoài, nó phễnh bụng ra lúc nào không biết…. Tôi chẳng hiểu vì sao và thế nào là phễnh bụng. Phải chi Mẹ chỉ bảo cho tôi tường tận, như tôi và các con tôi bây giờ, thì đã không thành chuyện và cuộc đời tôi nó sẽ khác, phải khác đi nhiều. Đã không học được, không muốn học, nên ở nội trú mà tôi… quậy… tới bến. Bài không học, không làm, còn trùm mền soi đèn pin đọc thơ Nguyễn Bính, đọc tiểu thuyết. Gần hơn nữa là đã dám trèo tường đi chơi với Đạt. Ngay khi đưa tôi vào xin ở nội trú, Mẹ tôi đã tường trình đầy đủ những nét xấu và lì lợm của tôi, thế cho nên các sơ chú ý đến tôi nhiều lắm và hành động leo tường trốn đi chơi là giọt nước đã làm tràn ly nước. Lỗi của tôi. Một lầm lỗi không thể khoan nhượng và lần này không phải là giầy mà là củi tạ. Tôi không có lý do nào để bào chữa cho mình và chấp nhận trận đòn đau đớn hơn cả những lần trước. Mẹ đánh tôi là phải là đúng.
Đạt chỉ là một trong những người bạn của anh tôi. Ở tuổi đó, tôi chưa biết thế nào là yêu, thế nào là tình yêu. Chỉ thấy đi chơi là vui là đi, nào đã có vấn đề trai gái. Tôi có chung với anh tôi rất nhiều bạn, toàn là bạn trai. Đạt đẹp trai, học rất giỏi tôi thích, nhưng đó không phải là tình yêu bởi tôi mới 14 tuổi, ham vui, ham đấu láo và bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những bài hát, bài thơ tôi thuộc nằm lòng thay vì những bài học trong trường, mà dù cố gắng, tôi cũng chẳng thể nào nhét chúng vào đầu. Những bạn bè nào học chung với tôi, nếu còn sống đều biết rõ tôi là đứa học trò tồi nhưng là người có những bài thơ tuyệt vời của Nguyễn Bính và biết hát.
Tôi vẫn được đi học, vẫn đi chợ mỗi ngày, vẫn giặt quần áo và làm việc nhà kể cả công việc… đấm chân cho Mẹ là điều không thể thiếu được. Kể ra, nếu mọi chuyện cứ như thế tiếp nối nhau ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, đời tôi không biết sẽ như thế nào. Chắc lại lấy chồng, đẻ con và đau khổ như chị Yến thôi nhưng số tôi hình như được sinh ra dưới một ngôi sao xấu nhất trong các ngôi sao xấu, để luôn luôn nhận lãnh những oan khiên, tủi buồn lúc nào cũng chờ chực sẵn. Những chuyện chẳng đáng gì, dính vào tôi bỗng thành lớn chuyện – hình như đến bây giờ… cũng thế – không phải tôi hỗn láo, lì lợm không biết nhận lỗi, không biết phải trái nhưng tôi luôn luôn cúi đầu nhận lãnh một hình phạt bởi tôi nói ra không ai tin. Riết rồi tôi trở nên nhẫn nhục, im lặng nhận chịu những trận đòn, những lời đay nghiến, đôi khi độc ác của Mẹ dù tôi cố gắng tin rằng thâm tâm Mẹ không hề muốn nói ra và Mẹ cũng thương tôi vì chính Mẹ đã sinh ra tôi – niềm tin này đôi khi bị lung lay bởi nếu tôi cũng là con do Mẹ sinh ra, sao Mẹ lại không hề thương cho những trận đòn tôi phải chịu và sao Mẹ lại nỡ nói với tôi những lời cay nghiệt ấy – Vậy thì thân phận của tôi ra sao, như thế nào. Sau này, có lúc tôi hỏi… Mẹ nói thật đi, con có phải là con của Mẹ hay Bố Viễn… mang con về cho Mẹ nuôi… Mẹ tôi không trả lời.
Bà Nội tôi ở một mình trong một căn nhà khá rộng trong ngõ 20 đường Phan Thanh Giản. Bà ở trên gác, dưới nhà cho mướn. Ngoài đường, bên trái là tiệm ảnh Mạnh Đan, bên phải là Bệnh Viện Bình Dân và Cư Xá Đô Thành – sau này, ông Đổng Lân và cô Thanh Nga về ở đây – Bà tôi vẫn ở một mình từ hồi Di Cư, bà tiếp tục chơi hụi, bà nấu xà phòng xả, nấu cao ban long. Tôi chả biết bà chơi hụi hay buôn bán với những ai nhưng vẫn áo the đen, răng đen, bà cuốn tóc đi từ sáng đến chiều. Câu Bà thường nói… Giời ơi, nắng đến… há mồm ra… và,… Này, rồi còn đời các anh, các chị nữa. Không khéo ăn khéo ở thì rồi… biết đời nhau ngay… Mẹ tôi rất ít đến thăm Bà vì ngày xưa Bà đã cố ngăn cản, chống đối việc Bố Mẹ tôi lấy nhau. Rồi giờ Mẹ tôi đi thêm bước nữa, cái hố sâu ngăn cách giữa hai người còn bằng ngàn lần con sông Bến Hải. Tuy vậy ngày giỗ Bố, Mẹ tôi đưa tất cả chúng tôi đến Bà, chẳng có phân biệt, ranh giới nào giữa chị em chúng tôi. Chính bà Nội mua cho tôi cái xe đạp, rồi vì bị ăn cắp mà tôi nhớ đời trận đòn… mưa giầy của Bố tôi.
Một buổi chiều đi học xong, cái răng cấm của tôi đã hư và sưng tấy lên, đau quá, tôi đi thẳng đến Bệnh Viện Bình Dân xin nhổ – Bố tôi có quen cô Yến, y tá trưởng ở đây – nhổ xong tôi choáng váng mặt mày, đi bộ qua nhà Bà nằm nghỉ thì Mẹ tôi đến mắng chửi tôi và làm dữ với Bà tôi – chẳng hiểu vì sao – Tôi cố gắng giải thích lý do, Bà cũng nói vào cho tôi, vậy mà cơn giận của Mẹ mỗi lúc một dâng cao. Sau cùng, có lẽ vì nhịn quá lâu nỗi đau mất con, mất cháu, Bà tôi mát mẻ… Thôi chị ạ, tôi chỉ có một đứa con, giờ nó mất rồi, còn lại mấy đứa cháu, nếu chị không nuôi thì tôi nuôi… Thế là xong. Mẹ tôi đồng ý ngay không một giây suy nghĩ. Bà về nhẹ nhõm. Bà Nội tôi, ngó vậy nhưng cũng không phải là người ai bắt nạt cũng được dù Bà chỉ biết ký cái tên của Bà. Bà giỏi lắm và biết lo xa. Cái giường Bà nằm là cỗ hậu sự. Bà đã mua ngay khi mua nhà, tối Bà ngủ trên đó, tôi nằm dưới đất cạnh cầu thang cách chỗ Bà nằm một cái bàn nhỏ. Gian gác bên cạnh Bà cũng cho người thuê. Đêm nào Bà cũng đọc kinh Phật và tôi ngủ ngon trong giọng đọc đều đều của Bà mà không hề thắc mắc là Bà không biết đọc, tại sao Bà thuộc nhiều kinh thế.
Nhà tôi ở giữa ngõ tức là ngõ có đường vào và trổ ra một lối khác. Cách nhà vài căn là nhà anh Liêm với 3 người em trai và ông bố già, trước có trồng một cây đu đủ… đực – tức không bao giờ có trái – Tôi còn nhớ anh Liêm, Tín, Dương và Trực – đã chết trận – còn anh Liêm thì hình như vào Không Quân. Cả ông cụ và 4 anh em rất thương tôi, từ 4 anh em này, tôi quen biết Lê Nguyên Hải và Dũng lai Pháp, quen thêm Hạnh, người đẹp mà không hiểu sao các anh gọi là Hạnh Lỉn – tức là nhỏ – nhà Hạnh ở con đường nhỏ song song với đường Cao Thắng (sau này Hạnh là vợ của nhạc sĩ nổi tiếng Trường Hải). Nhà của Đạt cũng nằm trên con đường Phan Thanh Giản. Đạt đang chờ giấy tờ đi Mỹ, tôi vẫn đi học, để làm gì chẳng biết. Đạt bảo… khi nào học xong, anh sẽ về cưới em… Tôi chỉ cười và lại đưa hết thư tình cho bác Ngọc Hoài Phương cất giữ… Người ta nói vậy thì cứ biết vậy. Sau đó Đạt đi Mỹ và hình như chẳng có lá thư nào của Đạt gửi cho tôi, về địa chỉ nhà Đạt.
Tôi hay bu theo đám bạn con trai. Đi nhảy đầm… ké, vì đôi khi những nhà giàu có, dân trường Tây tổ chức bal famille tại nhà hoặc ở cercle, làm sao chúng tôi được mời. Ấy thế mà cũng mò vào được cả đám. Băng chuyên nhảy biểu diễn của chúng tôi có thêm Khánh, vua BeBop ở Tây về, có biết thêm Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thế Khanh tiệm vàng Nguyễn Thế Tài và mấy người con bên tiệm vàng Nguyễn Thế Năng. Nhảy đầm thời đó là nhảy biểu diễn, lấy hay lấy đẹp chứ không có chuyện lợi dụng nhau nên những cuộc nhảy với dân nhà giàu, chọn lọc thật vui. Tôi biết nhảy tự… mình ên, không ai dạy cả và bị đòn bằng củi tạ cũng nhiều vì cái vụ bỏ nhà đi nhảy. Cái tật ham vui phải trả những giá thật đắt. Thường là thế. Nhảy tại gia chưa đủ, tới vũ trường luôn và chính cái lúc tôi biết thế nào là vũ trường, Lê Nguyên Hải… tỏ tình với tôi dưới cây đu đủ đực nhà anh Liêm. Đạt đi rồi, mọi người coi tôi như một thằng con trai, thế nên khi Hải ôm tôi – nhẹ thôi – tôi quả có thấy trái tim tôi đập nhanh hơn và có cái gì là lạ chạy trên da thịt tôi. Thật ra, tôi có chú ý đến Hải hơn các bạn khác nhưng vẫn không hiểu vì sao, chỉ biết không gặp, thấy nhớ nhớ, mong mong. Gặp rồi thì vui nhưng vẫn không biết “nó là cái gì và vì sao”. Chúng tôi một bầy con nít chơi với nhau, đã có đứa nào biết yêu hay có bồ đâu. Tôi thích Hải. Anh học giỏi, hát hay và nhảy đầm cũng không thua ai. Năm đó là năm thứ nhất Hải vào trường Dược.
Khiêu vũ trường Đồng Khánh là nơi đầu tiên tôi tới để nhảy và ở đó, tôi nghe nữ ca sĩ Mai Ly hát. Tôi không còn nhớ mặt chị, chỉ mang máng là dưới ánh đèn mờ ảo, chị Mai Ly xinh đẹp và hát hay. Thế rồi trong một lúc hứng thú, lại được các bạn khuyến khích, tôi trèo đại lên sân khấu và xin với ban nhạc cho tôi hát bài “Con thuyền không bến” của nhạc sĩ Đặng Thế–Phong. Giám đốc, ban nhạc coi tôi như một người khách nổi hứng bất tử nên chẳng ai thắc mắc. Nhiều lần sau đó, chúng tôi kéo nhau đến nữa và lần nào tôi cũng leo lên hát. Nào là “Lá thư” nào là “Chiều vàng” nào là “Gửi gió cho mây ngàn bay” cũng chẳng ai thắc mắc gì cho đến một đêm cảnh sát ruồng xét và phát giác ra tôi mới… gần gần 16 tuổi. Tôi được vào ngủ trong đời lần đầu tiên trong đời ở Tổng Nha Cảnh Sát. Ngày hôm sau, Bố tôi vào ký giấy tờ lãnh tôi ra. Tới cổng, ông quay sang tặng tôi một cái tát trời giáng, thấy mấy trăm ông trời rồi lên xe bỏ đi. Tôi đi bộ về nhà, mặt tỉnh queo. Sau đó, ông và Mẹ tôi nói thẳng… Muốn đi hát thì đừng bao giờ về nhà vì nhà này không có… mả làm ca sĩ.
Tôi vẫn vô tư, hồn nhiên vì đã có Bà Nội nhưng chính Bà cũng không muốn thấy tôi đàn đúm với một đám con trai. Bà cũng la mắng tôi đều đều như khi bà… tụng kinh vậy và Bà lại càng không hiểu… ca sĩ là cái gì. Mà củng đáng tội, tôi chưa chính thức bồ bịch với ai trong đám bạn trai trời đánh của tôi ngoài Hải là người tôi mới hơi… mong chờ. Đám bạn trai của anh Sơn tôi thì người nào cũng thương tôi và xem tôi như một đứa em trai. Ấy vậy mà rồi Hải và tôi, cả hai đứa chưa kịp nói một tiếng yêu, Hải đã bỏ trường Dược gia nhập binh chủng Không Quân. Cũng như Đạt, Hải hẹn tôi ngày tôi ra trường và chúng tôi hồn nhiên nhìn một Lê Nguyên Hải hào hoa, học giỏi, hát hay, nhảy đẹp đi vào cuộc sống quân ngũ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau, tụ họp nói dóc và đi nhẩy đầm. Cũng là dịp biểu diễn cho Hải nghe. Thời đó tôi cũng đã biết hát nhạc ngoại quốc như Crazy Love – You are my special Angel – Put your hand on my shoulder – Only you và Unchained Melody, tiếng Tây thì Ma vie – Non Je ne regrette rien – Sur le chemin de ta maison – Hải gọi tôi là Connie Francis. Thời gian này, tôi quen biết nhạc sĩ Tùng Giang ở khiêu vũ trường Đồng Khánh….
… Đầu Đông, Đà Lạt thật tuyệt vời. Bà chủ Night Club là một bà già gốc Hoa. Có lúc bà cay nghiệt nhưng cũng có lúc dễ thương, thông cảm với cuộc sống của các chị vũ nữ làm việc với bà vì nhiều người vào nghề vì hoàn cảnh gia đình. Có chị ngày đi học, tối làm vũ nữ, có nhiều chị chồng đi lính xa, phải nuôi cha mẹ già và một bầy con. Tối đến, dưới ánh đèn mờ ảo của vũ trường, chị nào trông cũng lộng lẫy vì thực sự ngoài đời, các chị là người đẹp chẳng may trời bắt nghèo. Nhưng cái nghề này, theo tôi là một nghề lương thiện. Làm vũ nữ không có nghĩa là… đi đêm với mọi người. Không ai bắt các chị làm đều đó dẫu đó là bà chủ, cho dẫu người khách đó là triệu phú. Ngoại trừ trường hợp các chị để lòng yêu thì đó là quyền riêng của các chị. Giới giang hồ thường có mặt theo yêu cầu của bà chủ, để bảo vệ cho chúng tôi và nhà hàng trong những trường hợp khách say sưa, quậy phá đánh lộn. Chúng tôi trở thành một nhóm, coi nhau như anh chị em trong nhà. Tuy họ giang hồ, tuy các chị là vũ nữ nhưng tất cả, theo cái nhìn và sự hiểu biết của tôi, họ là những con người trọng tình, trọng nghĩa gần gần giống tinh thần Lương Sơn Bạc nhưng họ không phải là những tay giết người, không chơi gác kẻ yếu thế, bênh vực người, che chở người yếu đuối. Họ cũng là người có học, trường Tây có, trường Ta có. Tôi giành được sự chăm sóc của các anh chị trong suốt những năm tháng ở Đà Lạt. Một bài học. Một kinh nghiệm rất đáng trân trọng cho cuộc sống. Kinh nghiệm đó sẽ được sử dụng như thế nào, theo chiều hướng nào. Đúng là một bài học tốt cho tôi.
Tất cả những sự việc đã xảy ra, đã qua. Tất cả những khuôn mặt đã xa khuất mịt mù. Tất cả những gì gọi là hạnh phúc hay nỗi đau của một thời nào đó, chúng ta không còn nhìn thấy, tìm lại được. Tôi gọi đó là kỷ niệm. Tôi không có quá khứ, dĩ vãng như mọi người thường đề cập tới. Tôi chỉ có kỷ niệm và đó là tất cả gia tài tôi cưu mang cho đến một ngày nào đó.
Cái gì không còn nhìn thấy, không còn sờ tới được, dẫu chỉ một vài giây đồng hồ trước. Duy chỉ có kỷ niệm là bất biến. Nếu trong cuộc sống có một điều gì đó không thể thay đổi được thì đó là kỷ niệm. Những sự việc, những con người, đẹp có, xấu có đã bỏ chúng ta mà đi. Tuổi trẻ đã bỏ chúng ta. Mầu trong của mắt. Mầu xanh của tóc. Mầu hồng của môi. Ðã bỏ chúng ta. Lạnh lùng, tàn nhẫn và hồn nhiên.
Ở tuổi ba mươi, bốn mươi hay đã bước qua ranh giới nửa đời người như tôi hiện nay. Kỷ niệm không hề phôi pha theo ngày tháng. Mỗi ngày qua, chân bước tới gần cái cõi đi về. Tôi càng thấy gắn bó với kỷ niệm, như chỉ có kỷ niệm bây giờ mới trọn vẹn là của riêng tôi, như chỉ có những người đã xa đời, mới thuộc về tôi mãi mãi. Vì một lẽ nào đó, tôi thường “sống” với người đã khuất nhiều hơn, trân quý hơn, yêu thương và cảm thấy yên tâm hơn, được an ủi chia sẻ nhiều hơn. Ai đã từng trải qua nhiều ngang trái nghịch cảnh, cay đắng oan khiên, sẽ hiểu vì sao tôi có nhiều cái... khác người.
Mỗi người một cách sống là điều tự nhiên từ ngàn xưa. Ôi, khi ta đói, kỷ niệm có cho ta no. Khi ta lạnh, kỷ niệm có làm cho ta ấm. Khi ta nghèo, kỷ niệm có làm cho ta khá hơn. Có nhiều người nghĩ như vậy và họ nghĩ đúng. Kỷ niệm không là miếng cơm manh áo hay tiền bạc trong đời sống. Kỷ niệm đẹp đẽ hơn, cao hơn, thiêng liêng hơn. Kỷ niệm làm đời sống chúng ta thăng hoa trong sáng và thánh thiện. Tôi thật tình tiếc cho những ai coi thường kỷ niệm hoặc có mà không biết giữ. Những người đó, tâm hồn mới nghèo nàn làm sao. Chúng ta có thể dời núi, lấp biển nhưng bản tính con người là điều không bao giờ thay đổi. Thật đáng tiếc.
Có nhiều đêm chợt thức giấc nhìn ra vườn, vầng trăng tròn tỏa ánh sáng soi rõ từng ngọn cây, khóm cỏ giống hệt như một đêm trăng quê nhà cũng trong một khu vườn nhỏ, có những kẻ quên đời sống quanh mình, cùng nhau uống rượu, ngâm thơ đàn hát dưới “nắng khuya”. Những đêm nằm nghe mưa buồn rào rạt, chợt nhớ những chiều mưa xưa cùng theo nhau ra quán ngồi, im lặng bên nhau nghe những giọt cà phê tí tách rơi, im lặng bên nhau nhìn người người, ngựa xe ngược xuôi. Những giây phút im lặng đã nói với nhau biết bao điều không thành tiếng. Buổi sáng cây cỏ còn lấp lánh sương mai, im lặng đi bên nhau dưới hàng thông từ bao năm reo mãi những điệu nhạc vi vu buồn bã bên mặt nước câm nín chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm.
Buổi trưa trời cao xanh thẳm, nắng đuổi nhau theo gió trên thảm cỏ quen, có cây đàn nằm thênh thang lắng nghe bước chân nhẹ nhàng lúc xa, lúc gần của hai kẻ quên đời. Chiều có mưa bụi dăng dăng qua thành phố, quán cà phê vắng, hương ca phê thơm lừng, vẫn chỉ hai người khách quen ngồi đó, im lặng bên nhau. Có gì quan trọng đâu. Không, không có gì cả, có nhau là điều đáng nói và họ đã có nhau trong suốt cuộc đời.
Ðà Lạt đẹp. Ðà Lạt hiền. Ðà Lạt thơ mộng. Ðà Lạt bao dung. Ðà Lạt thủy chung. Ðịnh mệnh khởi đi từ một nơi như thế. Tại sao không là Sàigòn. Tại sao không là Huế. Không, Sàigòn và Huế không phải là Ðà Lạt. Không bao giờ nên mọi sự phải khởi đi từ đó. Một sự tình cờ, mà ngẫm lại thì không đúng, không phải. Rõ ràng là sự sắp đặt của cái mà chúng ta gọi là Ðịnh Mệnh. Một người lưu lạc từ sông Hồng, một người rời xa sông Hương để gặp nhau vào một đêm có mưa và gió đầy trời, ở cái thành phố nhỏ bé, nhìn ai cũng là bạn. Cái thành phố đó nếu bạn đến một lần là sẽ nhớ mãi. Ðến rồi không muốn rời đi. Ði rồi lại muốn trở lại. Nhưng đó là Ðà Lạt của 40 năm về trước, một Ðà Lạt hiền lành như ngô khoai, trong sạch đẹp đẽ thơm như hoa hồng nhung, ngọt ngào như chuối La Ba và thủy chung như những hàng thông thẳng đứng suốt đời chỉ reo mãi một khúc nhạc hiền hòa.
Là một người sống đời ca hát, có dăm ba mối tình lớn, tình con, chân đã đi mòn mỏi trên quê hương, rồi năm châu bốn biển, đã gặp gỡ cả triệu người. Mưa bão cũng đi. Nắng gió cũng đi. Ði đến không còn biết mình đi đâu. Không cần biết vì bốn biển là nhà, nhìn đâu cũng thấy quê hương, nhìn ai cũng là anh, chị em, chắc chắn những người cùng một kiếp sống như tôi, phải có nhiều điều để nhớ mà tôi gọi là kỷ niệm. Qua một cánh rừng, ngang qua một cây cầu. Dừng lại ở một góc phố. Ngồi xuống uống một ly cà phê nơi quán nhỏ ven đường, thậm chí nhìn từng ngọn cây, bụi cỏ bên lề, lòng tôi cũng xao xuyến xót xa. Có lúc bàng hoàng ngẩn ngơ, tưởng chừng như trong một cơn mơ, tưởng chừng một khuông mặt, một dáng người thương yêu, thấp thoáng đầu phố, tưởng chừng như chỉ cần đưa tay ra những ngón tay tháp bút gầy guộc quen thuộc kia chạm vào tay mình. Nhưng rồi tôi hốt hoảng đến bật khóc vì trong tay tôi, chỉ có bàn tay lạnh giá của chính mình và góc phố kia chỉ là một khúc quanh hiu quạnh.
Nhiều khi ngồi một mình, lòng trống rỗng, đầu trống rỗng. Tôi không thể nghĩ đến bất cứ một điều gì . Dường như trái dất đã sạch trơn, chẳng còn gì hoặc là tôi ngồi đó nhưng hồn tôi không còn ở trong tôi. Một cái xác, một người chết và đối với người chết, không có vấn đề gì được đặt ra vì sẽ không có câu trả lời . Người chết không biết nói. Nhưng lại có những lúc tôi vùi mặt vào gối khóc nức lên từng hồi. Lòng nặng trĩu những kỷ niệm đớn đau không hề phai nhòa theo thời gian. Nghĩ đến người này, người kia, nghĩ đến đời mình, tim muốn vỡ ra trăm ngàn mảnh. Cũng nhiều đêm tôi nằm chong mắt nhìn bóng đêm vây phủ, nước mắt lặng lẽ rơi. Cứ thế cho đến lúc thiếp đi. Tôi đã hiểu thế nào là khóc lẻ loi một mình .
Tôi cũng có những niềm vui chứ không phải lúc nào cũng ôm mối sầu thiên thu ấy . Gia đình tôi tương đối là bình yên về mọi mặt. Không có những nặng nhẹ giận hờn. Cả hai vợ chồng đều đứng trên đỉnh dốc của đời, một cuộc đời quá nặng nhọc mệt mỏi mà cả hai đều nhận thức được, đều nhìn thấy những chịu đựng câm nín của nhau, cùng cố tránh cho nhau những muộn phiền nếu cảm thấy mình có thể gánh vác được. Vợ chồng về già nếu có thể sống với nhau đến già, có thể trở thành hai người bạn. Ðây là một điều tốt vì có nhiều điều, vì là vợ chồng, sẽ không thể chịu đựng nổi, nhưng nếu là bạn, sự việc sẽ đơn giản hơn khi có thể nói với nhau tất cả những điều tưởng không thể nói được, có đôi lúc tôi tâm sự với bạn một vài điều riêng. Song đó là chuyện của mười năm về trước, giờ đây chúng tôi sống đúng là đôi bạn già, nương tựa nhau lúc chiều tới. Còn cái gì mà phải giấu giếm nhau ở tuổi này . Duy có một điều, kỷ niệm riêng tư của mỗi người dường như vẫn là những điều riêng tư được cả hai tự động tôn trọng. Không thể chia sẻ, không thể an ủi. Rất tôn trọng .
Dĩ nhiên không phải cuộc sống chung 26 năm không có những cay đắng . Phải nói là nhiều đấy, nhưng tôi, phải, chính tôi là người quyết định, không thay đổi làm gì nữa và làm cho cuộc sống chung trở nên có ý nghĩa, trở nên đáng sống. Làm cho người này trở nên sự cần thiết của người kia . Làm cho nơi chốn này là nơi chốn để lúc nào cũng mong trở về mà không có sự sợ hãi hay vì không còn sự chọn lựa nào khác . Những kỷ niệm giữa cuộc sống chung quả có lúc làm tôi buồn tủi . Tôi không hề quên. Không thể quên, thế nhưng tôi xem đó như những thử thách, những chuyện nhỏ đời thường. Bởi cuộc đời, đâu phải lúc nào cũng cho ta sự ngọt ngào, mà nếu tôi là người đòi hỏi như thế, tôi đã tự làm khổ tôi trong 26 năm dài . Thỉnh thoảng hai vợ chồng ngồi ôn lại những vui buồn xa xưa mà tưởng như chuyện của ai đó . Dưới mái nhà này là sự bình yên bởi tôi muốn như thế .
Nếu có điều gì làm tôi đau lòng, ấy là tại tôi . Tôi muốn sống bình yên nhưng tâm tôi chưa yên. Tôi nhạy cảm quá . Tôi dễ vỡ quá, cho dù dưới mắt nhìn và sự nhận xét của nhiều người thì tôi là một người bản lãnh, can đảm. Ðiều này thật ra cũng không có gì gọi là sai hay xa sự thật bởi vì nếu tôi không can đảm, liệu giờ này tôi còn sống nổi với bao nhiêu tang thương chưa giây phút nào nguôi ngoai trong từng hơi thở . Cái gọi là bản lãnh, can đảm đôi khi chỉ là sự dối lừa, là cái vỏ mầu mè bên ngoài mà nó cũng có thể được xem như thái độ bất cần của một người chẳng mấy tha thiết đến cái gọi là ngày mai, của một người không mấy bình thường nếu không muốn nói là Ðiên. Thấy đời chán quá, chán đời quá, mà vẫn cứ ôm lấy cuộc đời . Là vì sao . Vì còn nhớ đến nhiều người . Vì còn nhiều người, nhiều điều để nhớ . Vì rằng đôi lúc tưởng đã quên nhưng cũng lại chỉ tự lừa dối mình mà thôi . Tôi không hề quên những điều cần phải nhớ và rồi chẳng có gì an ủi cho bằng đến một lúc nào đó như lúc này, tất cả oan khiên sẽ mở ra . Phải được mở ra, nào phải chỉ mười năm, đã 40 năm rồi đó . Nếu không phải là bây giờ, sẽ chẳng còn bao giờ nữa .
Năm 1956, gia đình tôi đã ở Đà Lạt 1 năm....6 năm sau, tôi lại lên Đà Lạt tìm nơi trú thân nhưng lần này, chỉ có mình tôi.... Không có tin hay thư của Đạt. Hải đi Mỹ theo đuổi nghiệp Không Quân. Bạn bè tình không nhạt nhưng cũng chẳng còn gần gũi vui chơi như ngày nào. Anh tôi vào Thủ Đức. Bác Phương, Nam, Dũng lo đâm đầu học để may ra không phải đi lính. Cây đu đủ đực nhà anh Liêm dường như buồn hẳn đi. Nó đứng trơ trọi một mình, ngày cũng như đêm chờ đợi tiếng cười của chúng tôi. Chuyện đó không bao giờ có lại nữa. Tôi cũng trơ trọi như nó. Con ngõ đường như sâu hơn, hun hút trong ánh sáng vàng vọt yếu ớt hắt ra từ những căn nhà nhỏ thường đóng cửa sớm sau bữa cơm chiều.
Tôi mới 17 tuổi đã thành đàn bà, đã mang trong người một mầm sống không mong đợi. Lỗi của tôi...Tôi biết anh ta ở Vũ Trường Đồng Khánh. Anh ta là một người đẹp trai dù ăn nói không có duyên. Anh ta tên là Minh, dân Trường Tây gốc Đà Lạt. Gia đình Minh đàng hoàng, công giáo, điều này nhắc nhở tôi nhiều đến những ngày hạnh phúc khi học nội trú lúc còn ở Hà Nội. Mới xa Hà Nội mấy năm, tôi đã nhớ. Có lẽ tôi nhớ đến Bố tôi nhiều hơn là bởi tôi không hề tin rằng Bố tôi đã chết.... Tôi thích Minh nhưng không hề cảm thấy rung động, hồi hộp chờ mong. Không có cảm giác...đông cứng hoặc cháy bỏng, ngộp thở lảo đảo, bềnh bồng, tan chảy như bọt nước. Lê Nguyên Hải cho tôi những cảm giác đó dù chỉ ngồi cạnh nhau, cầm tay nhau. Hải có phải là tình yêu của tôi không. Tôi có yêu Hải không. Tôi không biết. Cũng như không biết như thế có phải là tình yêu không.
Sự lầm lỡ của tôi là nỗi đau đớn của Bà Nội - con gái không chồng lại...ôm balo ngược. Bà tôi xấu hổ. Mẹ tôi không cần biết. Riêng tôi, chẳng cảm thấy gì. Minh cũng không phải là người tệ, chơi chạy nhưng anh là lính Không Quân chuyên về Radar học tại Mỹ... Lương một anh lính hạ sĩ dù là không quân, nuôi anh còn chẳng đủ no, nói gì đến vợ con. Minh bảo sẽ đưa tôi về Đà Lạt trình diện bố mẹ nhưng rồi anh...ở tù vì tội đào ngũ. Tôi chẳng bao giờ quên những lần đi thăm Minh ở Khám Chí Hòa. Khi cái bầu 6 tháng, tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ và chính ở đó, tôi gặp Trung Úy Không Quân Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn...hát tiếp những bài tôi vừa hát, đặc biệt anh hát cho tôi nghe bài Anh đến thăm em một chiều mưa...Anh bảo...Mai chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa...Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung Úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vỉ anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này. Khi nào có gì cần, cho anh hay...Ngày tôi sinh Ly Cơ, anh nhờ người gửi cho tôi 1500 đồng với lời nhắn...mua đồ cho con...Anh không bao giờ biết tôi đã dùng số tiến đó để tiếp tế cho Minh ở Chí Hòa. Chẳng ai. Anh vào nhà thương Đức Chính thăm tôi trong bộ đồ bay. Bác Phương Kều tức nhà báo Ngọc Hoài Phương tên cha mẹ đặt là Nguyễn Ngọc Kiểm cũng vào. Chị Yến cầm cho tôi 500 nói của mẹ gửi nhưng mẹ và Bà Nội không vào. Có điều không ai biết, tôi tự động chạy xe Velosolex...đi đẻ.
Ôm con về ở với Bà Nội không phải là điều đơn giản như cái lúc Bà giận Mẹ và tỏ lòng thương cháu. Tôi không buồn được vì tôi đã gây lỗi lầm không thể tha thứ dù sau khi mãn tù, Minh đến nhận vợ con và hứa sẽ cưới hỏi đàng hoàng. Song đối với những người hàng xóm, nhất là các bạn bè cũ của Bà, tôi vẫn là đứa con gái hư hỏng. Làm sao tôi có thể cắt nghĩa rằng vì lỡ dại nên phải lấy luôn cái người đó. Làm sao tôi có thể nói rằng sẽ không còn ai dám lấy tôi vì tôi không còn cái .....thổ tả gọi là trinh tiết. Cái thời của chúng tôi nó khó khăn như thế đó... Thậm chí có ca sĩ không dám cho mọi người biết mình có người yêu vì sợ khán giả không còn thích mình nữa. Bà Nội tìm cho tôi vú Chính để nuôi Ly Cơ. Con bé có lần ốm, sưng phổi gần chết, nếu không nhờ Bà, chắc LyCơ đã bỏ tôi mà đi rồi. Bởi lúc đó tôi chưa có một ý niệm, trách nhiêm làm mẹ. Yêu con thì có nhưng còn phải kiếm tiền nuôi con nữa chứ. Tôi không muốn trở lại cuộc sống khi mọi người quên mình, trong một cái phòng tối tăm, không giường chiếu trên một cái nhà sàn ở Cầu Kinh. Cơm bữa đói bữa no, tiền hát khi có khi không và đó là lý do tôi nhận lời hát cho Night Club ở Đà Lạt sau khi gửi Ly Cơ lại cho Bà.
Minh và tôi sống cuộc sống vợ chồng như mọi người. Chúng tôi ở chung với Bố Mẹ Minh. Năm sau, tôi có thêm một đứa con trai. Có người trong nhà bảo...thằng nhỏ trông giống ông...Lưu Kim Cương...Sao lại có ông Lưu Kim Cương trong này khi nhắm con mắt lại, người cũng biết Bảo Linh là con ai chứ. Tôi lại thắc mắc. Tại sao thế nhỉ. Sao không yêu mà lại...có con. Tôi sinh cu Linh ở Sài Gòn khi về nhà Bà Nội và lại một lần nữa, tôi tự động gọi taxi đến nhà thương ông Nguyễn Duy Tài. Cô y tá bảo chờ cô cho người đi mời bác sĩ về vì ông đang coi ciné ở rạp Eden. Tôi nhảy dựng lên...trời đất ơi, người ta đẻ đến nơi rồi mà còn đi tìm bác sĩ...mặc y tá nói, tôi hùng dũng leo lên bàn đẻ và rồi khi Bố Tài về tới, tôi đã hoàn thành thêm một tác phẩm...không chờ đợi. Nhưng dù sao chúng nó cũng là máu thịt của tôi. Không yêu chồng. Ai cấm tôi yêu con. Chẳng bao giờ tôi quên hai lần vược cạn, tôi chỉ có một mình và nằm suốt đêm. Khóc cho sự lỡ lầm ngu dại
không thể tha thứ được của mình. Tôi nghĩ đến Bố tôi. Ôi, tôi có lỗi với ông biết bao nhiêu. Tôi chỉ có lỗi với Bố tôi mà thôi.
Ly Cơ, Bảo Linh, vú Chính và tôi ra bến xe đò Minh Trung trở lại Đà Lạt bởi lúc đó tiền lương của tôi là 75.000. Đủ sức để khỏi phải mẹ con mỗi mgười một nơi. Lương của Minh bao nhiêu, tôi không biêt. Anh làm cho Usaid dưới quyền ông Lâm Quang tại Tuy Hòa và rất ít khi về nhà. Có vú Chính, tôi giao con và sống trở lại như thời con gái. Ở lại phòng trà ngủ với mấy chi vũ nữ hoặc leo lên đồi cù nằm nhìn Trời Đất. Tôi vẫn chưa ý thức được một cách nghiêm chỉnh, bổn phận của một người mẹ. Tôi vẫn chưa đủ tình yêu đúng nghĩa dành cho các con. Tôi còn quá trẻ. Tôi đã biết gì về cuộc sống quanh tôi. Tôi yêu tôi và chưa kịp sống cho tôi. Không có gì cho tôi. Không phải là lỗi của Minh trong cơn say rượu. Chỉ khổ một cái là người tôi yêu không phải là Minh. Chưa rõ ràng là ai, tôi chưa biết yêu...Mãi nhiều năm sau, tôi mới biết thế nào là tình yêu.
Điều không thể thay đổi, chối cãi là tôi yêu hát. Từ ngày đó, tôi đã tự nhủ dầu có phải đánh đổi hết để chỉ được hát, tôi cũng không ngần ngại và Đà Lạt quả là nơi tuyệt vời để hát những nhạc phẩm của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Khánh. Đông hay vắng không hề ảnh hưởng đến tôi. Thế giới của tôi chỉ có riêng tôi. Tôi hạnh phúc, tôi đau đớn sống với tôn giáo của mình. Những ngày nắng nhẹ nhàng. Những đêm mưa dịu dàng. Những bình minh rực rỡ. Những hoàng hôn cô lẻ. Đâu có ai để ý. Chỉ riêng mình tôi lặng lẽ trên con dốc dài, bên dòng suối nhỏ, giữa bao la hoang dại, cố gắng hít cho đầy buồng phổi của mình hương thơm của đất trời hoa cỏ. Tôi yêu tôi - tôi yêu tình yêu của tôi, một tình yêu chưa giành cho riêng ai. Tôi thực sự dồn hết tình yêu vào những ca khúc mỗi đêm tôi hát với nỗi buồn. Nói là buồn bởi tôi chưa bao giờ được vui. Tôi hình như cũng là một đứa con không được mong đợi. Một sự thất bại của mẹ tôi. Thường thì một người đàn bà đẹp khó có thể chịu đựng một đứa con xấu. Tôi giống Bố. Lại thêm một lý do để mẹ luôn luôn bỏ quên tôi, tuy nhiên điều mẹ không hài lòng lại chính là điều làm cho tôi hãnh diện. Nó là nguồn ai ủi giúp tôi chống đỡ với bao điều tủi cực trong đời sống.
Có biết bao người không đẹp và nghèo nhưng cả hai đều không phải là một cái tội. Nghĩ thế nên tôi không hề thất vọng khi Đạt quên tôi, song tôi tiếc Hải vì đã nghĩ đến Hải rất nhiều mà nếu Hải không đi xa, chắc tôi đã biết thế nào là tình yêu. Có thể tôi sẽ có hạnh phúc, cũng có thể không nhưng ít ra, tôi không đến nỗi phải ân hận. Một lần Bảo Linh hỏi tôi...Mẹ có yêu ba không...Tôi trả lời không cần suy nghĩ. Không. Thật tàn nhẫn nhưng rất thật thà vì Minh không bao giờ có trong ý nghĩ của tôi.
Tôi bắt đầu biết hút thuốc là từ năm 16 tuổi khi ở chung với chị của Minh là chị Lệ Quyên, người đóng vai chính trong phim "Nước mắt đêm xuân" của anh Nguyễn Long. Chị hút và thường bảo tôi...châm tao điếu thuốc mi...[gia đình Minh gốc Huế] riết rồi tôi hút thuốc lá hồi nào không hay. 1964 Hải từ Mỹ về và qua Thái Lan học thêm về loại máy bay A-6. Chị Quyên rủ tôi lên Pleiku chơi và tình cờ, tôi gặp lại Hải. Chúng tôi nhìn và chào nhau như 2 người bạn. Hải ngồi với bè bạn. Vũ Trường Phượng Hoàng hình như là nơi giải trí duy nhất cho các chàng Không Quân hào hoa bay bướm nơi thị trấn đìu hiu đó. Chúng tôi nhảy với nhau một bài. Hải bảo anh đi với người yêu. Trước khi bài hát chấm dứt, Hải nói...Sáng mai anh bay dùm cho một người, chờ anh về anh đưa em đi coi Biển Hồ...Tôi cho anh biết nơi tôi ở và chúng tôi chia tay. Tôi về trước. Giọng Hải đầy rượu, tiếng cười của anh vang lên trong cái khuya vắng của Vũ Trường.
Tôi không nhớ là mấy giờ vì đang say ngủ. Tiếng đập cửa rầm rầm làm tôi hốt hoảng. Hải la lớn...Mai, Mai anh đây, Hải đây...Tôi vội vàng chạy ra mở cửa phòng, Hải loạng choạng bước vào, anh ôm hai vai tôi và nói...Mai chờ anh, xong phi vụ anh sẽ đưa em đi Biển Hồ...Tôi chưa kịp hỏi, Hải đã đổ ập người xuống giường, ngủ. Tôi chui vào mền nằm ghé bên anh, tôi cố đẩy anh đắp mền cho anh nhưng đành chịu. Hải nằm úp mặt trên tấm khăn phủ giường. Tôi trở lại giấc ngủ dở dang, 6 giờ sáng thứ dậy, Hải không còn nằm đó nữa. Khoảng 2 tiếng sau, tôi chợt nghe một tiếng nổ lớn không biết xuất phát từ đâu và sau đó, tôi được tin anh đã chết.
Trên chiếc phi cơ đưa xác Hải về Sài Gòn, chỉ có một mình tôi ngồi bên quan tài của anh. Tôi đau đớn nhưng không khóc được. Không một giọt nước mắt nào rơi ra khỏi đôi mắt của tôi. Điều làm tôi xót xa hơn nữa là bạn bè và gia đình Hải quy tất cả trách nhiệm vào tôi. Tôi không nói được gì. Tôi không muốn nói. Tính tôi vốn vậy. Lặng lẽ tôi quay lưng đi trước những cái nhìn căm giận và ai oán của mọi người...Nhiều năm về sau, rất nhiều năm về sau, tôi nhận được một bức hình do chính thân phụ Lê Nguyên Hải gửi cho tôi với hàng chứ cũ viết sau tấm ảnh...Gừi cô Khánh Ly thay mặt cố nhân Lê Nguyên Hải. Lúc đó, tôi khóc. Ôi, sao hạnh phúc bao giờ cũng đến với tôi quá trễ...
Hải chết...đó là cái chết đau thương ghi đậm nét trong đời tôi. Không phải nỗi đau đớn của ngươi vợ mất chồng bởi chúng tôi chưa hề có với nhau những chia xẻ vợ chồng ngoài nụ hôn thơ dại, vụng về đã thuộc về ngày xưa. Sau khi bỏ dược, Hải gia nhập binh chủng không quân, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Nụ hôn phớt nhẹ và lời nói...anh sẽ cưới em...cũng nhạt phai dần. Rồi tôi trót dại lỡ lầm, các bạn tôi, trong đó có Hải vẫn không nhìn tôi khác đi. Hải và anh chàng Nam Ngố - cũng không quân-thường lấy trộm ở nhà mang đến cho tôi lúc thì nửa chai nước mắm, lúc thì túi gạo. Thấy tôi sống vất vưởng cô đơn trong căn phòng gỗ nhỏ hẹp trên dòng kinh nước đen, không chăn màn, bàn ghế, đêm đêm đo hát ở Đại Nam, lúc đuọc hát, lúc bị bỏ quên ngồi chờ cho tới khi hết giờ, lủi thủi đi xích lô về. Bạn bè thương lắm nhưng lúc đó các bạn tôi ai cũng còn đang đi học, ăm bám bố mẹ. Chia cho nhau chút cháo như thế là hiếm quý lắm rồi...cho nên, khi Hải chết tôi thương xót Hải như một người thân yêu trong chính gia đình cũng chẳng ccó ai hạch hỏi gì, mà nếu có hỏi, tôi cũng có biết lý do vì sao sự việc đau thương ấy xảy ra. Tôi không làm gì và không biết gì. Hoàn toàn không. Tôi chịu tiếng oan bao nhiêu năm trời và chính vì thế, tôi đả khóc khi thân phụ Hải gửi cho tôi tấm ảnh của anh. Tôi chưa bao giờ quên anh. : Lê Nguyên Hải
Lúc đó, trước 1962, tôi đã được dịp biết nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Ông có vẻ hài lòng khi đàn cho tôi hát. Ông Nguyễn Đình Toàn dạy tôi ngâm thơ và đưa tôi vào ban Tao Đàn của nhà thơ Đinh Hùng. Tôi thật hèn kém, nhỏ bé bên cạnh Bà Hồ Điệp, ông Nguyễn Thanh - người đã vượt sông Bến Hải vào Nam - nhưng ai cũng yêu thương tận tâm chỉ bảo cho tôi. Thời đó được đứng cạnh những tên tuổi lẫy lừng ấy cũng tựa như chuyện nằm mơ, chuyện thần thoại. Chính quyền thời nào cũng ơ hờ với sinh hoạt văn nghệ, nên nếu có người đã từng nói...nhà văn Việt Nam khổ như chó...tôi thấy không có gì quá đáng. Những người thành danh, tên tuổi đã đi vào văn học sử mà còn khổ thì tôi, chúng tôi, những đứa mới tập tễnh vào nghề làm sao áo ấm, cơm no. Qua ông Nguyễn Đình Toàn, tôi được biết thêm rất nhiều người. Được trở thành nhân vật Bé Mai trong gia đình Bé Ngôn Bé Luận của Nhật Báo Ngôn Luận, rồi cũng tập tành viết lách lăng nhăng vớ vẩn, ấy thế mà cũng được cho đăng. Dĩ nhiên tất cả những công việc này đếu không mang lại cho tôi một đồng bạc nào, vậy mà tôi cảm thấy rất sung sướng đến chẳng cần biết ngày mai mình còn tiền ăn cơm, trả tiền căn phòng nhỏ hẹp trên kinh nước đen trước chợ Đakao nữa không.
Lúc rời nhà hàng Anh Vũ - bị đóng cửa - tôi mày mò xin được hát ở phòng trà Hoà Bình nằm ở góc đường Lê Lợi gần ga xe lửa, ngó xéo qua là chợ Bến Thành. Tiền bạc cũng chẳng có bao nhiêu. Chủ phòng trà cho thế nào, nhận thế ấy, nên nghèo chưa từng thấy, nghèo gì mà nghèo dữ vậy. May một cái áo cũng là chuyện không tưởng. Ông Nguyễn Long quay phim "Nước Mắt Đêm Xuân" có tôi xuất hiện hai cảnh, cũng không tiền. Phải dành dụm, vay mượn may được cái váy đen cài trước ngực một bông hồng trắng, còn ngay cả quần áo đi hát cũng chắp vế. Hai vạt áo dài may lại cũng được một chiếc váy gọi là jupe serre. Toàn bộ là đầu thừa đuôi thẹo từ quần áo chị Yến, của mẹ tôi bỏ đi mà anh Sơn tôi rất khéo tay may lại cho tôi. Từ Hoà Bình, tôi mày mò xin được hát ở khiêu vũ trường Đại Nam. Hằng đêm tôi đến sớm để nếu ca sĩ nổi tiếng chưa đến hoặc không có ai, may ra tôi sẽ được cho hát. Từ ông Nguyễn Đình Toàn, tôi gặp được nhạc sĩ Y Vân và hát cho ông nghe. Nhạc sĩ Y Vân vừa sáng tác xong bài Ngăn Cách, ông dạy và đưa cho tôi nhưng có môt đêm ở Đại Nam, khi được hát, tôi đưa bài Ngăn Cách cho ông Lê Văn Thiện, lúc đó là trưởng ban nhạc, ông Thiện cầm xem rồi liệng cái xạch...bài gì mà cải lương...tôi đâu dám có phản ứng gì. Thật tôi cho tôi chẳng có duyên với bài hát ấy. Về sau khi chị Minh Hiếu hát, bài Ngăn Cách lập tức nổi tiến cho đến bây giờ.
Hàng đêm, tôi ngồi một góc lén nhìn chị Trúc Mai đẹp, sang như một mệnh phụ. Chị Kim Chi đẹp như...đầm. Hai chị ngồi với nhau, chủ, khách và bồi bàn rối rít xúm quanh hầu hạ. Ngàn đời sau, tôi không bao giờ quên cái hành động sang cả của chị Trúc Mai khi ăn xong môt trái nhãn, chị nhẹ nhàng dùng chéo khăn bàn lau mấy ngón tay, mặt vẫn ngẩng cao, mắt nhìn thẳng và rất nghiêm. Tôi cứ ngồi chiêm ngưỡng các bậc đàn chị như thế đêm này qua đêm khác. Không ganh tỵ - không dám - không mơ ước để rồi đêm về lại căn nhà sàn, nằm khóc một mình. Điều đặc biệt là các chị chưa bao giờ tỏ ý xem rẻ tôi, trái lại đôi khi trong những lời hỏi thăm, tôi cảm thấy được sự thương cảm, tôi nghiệp khiến tôi ấm lòng và giữ mãi sự kính trọng cho đến bây giờ. Cái lần đáng nhớ là một đêm chị Minh Hiếu bảo tôi đến nhà hàng Tự Do hát thế cho chị. Tôi mừng lắm vì Tự Do là một nhà hàng lớn nổi tiếng nằm trên đường Tự Do. Sửa soạn tương đối tươm tất dù lúc đó tôi chưa biết dùng phấn son, tôi đến sớm và nhận được lời ông chủ Ngô Văn Cường truyền ra...ca sĩ tôi nghỉ thì để ban nhạc hòa tấu, nhà hàng tôi không để cho nhũng người vô danh làm mất uy tín... Tôi lóc cóc trở về cái nhà sàn một mình quạnh hiu, lòng đầy tuyệt vọng nhưng không hề giận dữ, oán trách. Giận ai, trách ai bây giờ. Đó là cuộc đời. Đó là cuộc sống tôi tự lựa chọn cho mình và lao vào bất chấp mọi gian nan khốn khó, hệt như một con thiêu thân biết là lao vào lửa sẽ chết nhưng nó vẫn cứ bằng lòng với số phận dành cho nó. Gần như một hành động...tử vì đạo. Bây giờ, 44 năm sau, tôi thấy cái sự việc...âm nhạc cũng như là một thứ tôn giáo của tôi...không phải là quá đáng.
Sự sống ngày càng không dễ dàng. Không thể xin được gì ở gia đình. Không thể trông mong vào bạn bè. Không chờ mong những cánh cửa, những sân khầu mở ra dành cho mình một chỗ đứng dầu nhỏ nhoi khiêm tốn. Con gái đầu lòng, tôi gửi cụ Nội trông nom. Người gọi là chồng thì lúc gặp lúc không. Trong cơn tuyệt vọng thì bỗng đâu một người, một sự cố sảy ra mở đầu cho những may mắn chiếu cố đến tôi. Có lẽ vì lòng tôi tha thiết với nghiệp dĩ ấy chăng hay tôi được sinh ra chỉ để làm được một việc duy nhất là hát, đúng nhưbmơ ước của tôi. Một định mệnh đã được báo trước với tiếng đàn, tiếng hát của Bố tôi qua những bài hát đẹp đẽ nhưng đầy những gẫy đổ và chia lìa. Ngẫm cho cùng, có gì trọn vẹn, đầy đặn được mãi trong cuộc sống. Gẫy đổ hay chia lìa, âu chũng là luật bù trừ của Thượng Đế.
Một phòng trà ở Đà Lạt cần ca sĩ. Bà chủ xuống Saigon rồi tôi để con lại và ra đi. Chẳng từ giã ai. Chẳng có ai để từ giã. Chẳng có ai để ý đến mình. Con đã có cụ Nội. Tôi rời Saigon như thế vào một ngày tháng 11 năm 1962. Tiền lương tuy ít nhưng có thể kéo tôi ra khỏi tình trạng tuyệt vọng bởi những âu lo sinh sống giữa một nơi chốn tuy rộn lớn nhưng lại chẳng có chỗ nào cho tôi. Nghiệp dĩ ca hát chưa được xã hội quan tâm hay coi trọng. Số ca sĩ có thể đếm trên đầu ngón tay song không có cơ may nào cho mình chen chân. Có một lần, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết đi cùng mấy ông nhà báo nào đó đến gặp tôi ở ngõ 20. Ông bảo...em muốn nổi tiếng thì phải đi với mấy anh. Phải có mấy anh giới thiệu mới được...Tôi không hiểu ông muốn nói gì nhưng thường nhũng đưa mồ côi, khốn khổ, lại khôn rất sớm. Tôi không hề nghi ngờ cái thiện chí của mấy ông nhưng linh tính mách bảo rằng con đường được hứa hẹn đó sẽ chẳng đưa tới đâu. Tôi yêu hát, chỉ muốn được hát, đủ sống để được hát chứ không hề nghĩ có ngày được gọi là ca sĩ hay sẽ nổi tiếng như các chị Trúc Mai, Kim Chi, Thanh Thúy hay Minh Hiếu.
Gia đình bên nội của con tôi lập nghiệp ở Đà Lạt thế cho nên dù sao đi nữa, tôi cũng phải ra mắt nhưng tôi vẫn ở trong căn lầu trên của nhà hàng. Chỉ thỉnh thoảng mới về cho đến năm 1963, tôi trở lại Saigon và sanh đưa con thứ hai. Từ nhà cụ Nội tôi tự gọi taxi đi đến nhà thương Duy Tân. Ấy, phải coi là mình đã có gia đình thì chuyện có con cũng bình thường như người ta ăn cơm, uống nước vậy. Đó là ngày 4 tháng 10 năm 1963. Thế là mới 18 tuổi đầu, tôi đã có hai đứa con. Một trai, một gái. Sau đó, tôi thực sự là một thành viên trong nhà họ Trần, bắt đầu học Giáo Lý với Linh Mục Thạch mỗi chiều tại nhà thờ Chánh tòa Đà Lạt và làm phép hôn phối tại đây, với một ít người quen. Gia đình tôi chỉ có một đứa em nhỏ. Mẹ và Bố dượng tôi không có mặt, cũng chẳng có một tí quà, một lời nhắn nhủ vui mừng nào.
Không yêu mà cứ thành vợ chồng. Gặp nhau đôi lúc có như không. Chẳng bao giờ nhớ thương mong ngóng. Ai muốn đi đau cứ đi. Khi nào về, cứ về. Gia đình bên Nội mấy đứa nhỏ cũng chẳng mấy khi dòm ngó đến mấy mẹ con tôi ở dưới nhà và tôi, cũng có thương con đấy nhưng chưa đủ thắm thiết, đắm đuối như người khác bởi lẽ, tôi còn nhỏ quá, tôi cũng chỉ là một đứa trẻ, chưa biết nhiều điều trong đời sống, không ham muốn chuyện vợ chồng. Sống lặng lẽ thụ động giữa những người không hề có chút quan tâm nào đến mình. Tôi thì lại rất nhạy cảm, rất dễ tủi thân, rất mong mỏi mơ ước được yêu thương, cái điều này phát sinh từ ngày mất đi người cha tôi tôn thờ cùng với chuỗi ngày sống đầy mặc cảm buồn tủi chờ đợi một tiếng âu yếm của mẹ. Tiếng nói ấy không có. Không bao giờ có được nữa trên đôi môi của Mẹ tôi.
Cái năm 64 là một năm thật lạ lùng. Lắm chuyện lạ lùng có những vui buồn, tủi nhục, có dấu hiệu may mắn mà tôi không để ý - Phải mãi về sau này, nồi nghĩ lại, tôi mới thấy được, mới cảm nhận được sự sắp đặt của Thiên Chúa...Tiền lương của tôi đã được nâng cao lên 75.000 một tháng. Tôi đã xin cụ Nội đón con gái sau khi có thêm đưá con trai. Ba mẹ con được đón nhận, nhình nhận sau rửa tội và làm lễ cưới ở nhà thờ. Có chỗ ăn ở đàng hoàng. Gia đình tọi không còn sợ mang tiếng con không chồng mà chửa. Mọi người đều cảm nhận thế, chỉ riêng tôi là không. Tôi chẳng cảm thấy có gì vui mừng vì dẫu thế nào, tôi cũng luôn luôn là tôi. Tôi một mình. Những điều người ta mừng cho tôi lại chính là những điều tôi không màng tới. Hoàn cảnh đưa đẩy tôi trong lúc tôi bơ vơ không nơi nương tưạ. Khi đã...liều mắt đưa chân, thì là cùng đường, là không có sự lựa chọn. Gập nghềnh trắc trở, đổ vỡ là chuyện không thể tránh. Nó cứ từ từ tan ra trong sự không chung thủy của cả hai người. Công khai không dấu diếm, né tránh dầu cái sự không chung thủy của tôi chưa cao đến mức độ bị lên án nhưng với một ly nước đã quá đầy, giọt nước ân huệ cuối cùng dẫu từ bên nào, cũng đủ sức làm tràn. Tôi không hề hối hận với sự chia tay từ từ, kéo dài tới ba năm. Rất nhiều năm sau, khi con trai đã có gia đình hỏi...mẹ có yêu bố con không...Không...câu trả lời bật ra nhanh như nó đã nằm sẵn đâu đó mà từ lâu lắm rồi tôi không để ý. Đó là một lỗi lầm thời thơ dại và tôi đã phải trả giá không rẻ. Nhưng dẫu sao, tôi cũng có được hai đứa con.
Tình cảm tôi dành cho Hải là thứ tình cảm thơ dại, nhẹ nhàng. Tình cảm tôi dành cho ông Lưu Kim Cương là thứ tình cảm phát xuất từ lòng biết ơn. Cả hai đều rất trân trọng đối với tôi trong suốt cuộc đời. Hình ảnh những người hùng binh chủng không quân, trước hoặc sau một phi vụ, ghé ngang thành phố Đà Lạt, cùng nhìn và nghe tôi hát một bài, rồi lặng lẽ ra đi đã để lại trong lòng tôi một an ủi, ấm áp không thể quên được, nhất là lời ông Lưu Kim Cương dặn dò...Đừng bao giờ làm mất nụ cười. Nó sẽ mở cho em cánh cửa tốt đi vào cuộc đời...
KHI NHẠC SĨ ĐÓNG VAI BÁC SĨ GIẢI PHẨU
Nhạc
sĩ Nguyễn Ánh 9
KHI NHẠC SĨ ĐÓNG VAI BÁC SĨ GIẢI PHẨU CA SĨ
Với sự am hiểu
sâu sắc, nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 không ngần ngại ‘mổ xẻ’ các gương mặt đình đám
nhất làng nhạc Việt như Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm, Hà Hồ.
- Có thâm niên 60 năm trong nghề, ông đánh giá thế nào về thị trường âm nhạc Việt Nam hiện nay?
Việt Nam hiện tại
chỉ có giải trí, không có nghệ thuật. Bây giờ, nhạc để xem nhiều hơn là để
nghe. Người ta làm giải trí kiếm tiền, coi qua rồi bỏ chứ hiếm người tâm huyết
làm nghệ thuật. Điều này khiến tôi buồn lắm vì con đường nghệ thuật của mình
không có những người chung chí hướng để làm tốt vai trò nghệ sĩ.
Đàm
Vĩnh Hưng mà đi hát thì chỉ xứng là ca sĩ loại C hát lót chứ không được vào
hạng ca sĩ chính của phòng trà đâu!
- So với
thế hệ trước như ông, giới ca - nhạc sĩ Việt hiện nay có gì khác biệt đáng nói?
Hồi xưa, người
nhạc sĩ viết ca khúc từ những cảm xúc thật của họ, họ viết ra để chia sẻ
niềm
vui, nỗi buồn cho mọi người chứ họ không viết nhạc để bán. Còn bây giờ,
nhạc sĩ viết nhạc theo yêu cầu đơn đặt hàng nên âm nhạc không có hồn,
không có cảm xúc
thật của người sáng tác.
Ca sĩ bây giờ
đa số chỉ chú trọng ăn mặc, make-up cho đẹp và lên sân khấu hát thì sau lưng có
một đám múa. Nhưng ít chú trọng đến xúc cảm âm nhạc, không để tâm hồn vào bài
hát.
Hồi xưa, có
những giọng ca còn để tiếng đến bây giờ như Lệ Thu, Thanh Thúy, Thái Thanh…
nhưng bây giờ những ca sĩ hát giọng tốt đếm trên đầu ngón tay, đã vậy lại bị
vướng vào kỹ thuật thanh nhạc.
Tôi nói có lẽ
sẽ đụng chạm đến những người học thanh nhạc. Người ca sĩ học thanh nhạc hát
phải phát âm cho tròn chữ, và cố gắng đưa giọng mình cho tròn trịa, giọng ngân
cao vút… nhưng quá mải lo kỹ thuật nên hát không có cảm xúc!
- Những ca sỹ được phong hàng diva như Hồng Nhung, Thanh Lam, Mỹ Linh, Trần Thu Hà có bị vướng vào kỹ thuật thanh nhạc?
Thanh Lam, Mỹ
Linh giọng hát rất đẹp, cái gì cũng tốt nhưng đều bị vướng kỹ thuật thanh nhạc
nên nhiều lúc nhạc cảm không có, tâm hồn bài hát không có. Hồng Nhung hát tốt
hơn Mỹ Linh, Mỹ Linh tốt hơn Thanh Lam.
Đơn cử, nghe Thanh Lam hát bài Cô đơn của tôi, tôi buồn lắm! Nó không ra cái cô đơn, không có hồn dù giọng đẹp thiệt! Thanh Lam hát những bài sâu lắng nhiều khi đóng kịch nhiều hơn là hát.
Mà đóng kịch
phải như người diễn viên, người ta nhập hồn vào vai diễn đó, ví dụ Kim Cương
trong Lá sầu riêng, cô là nhân vật cô gái đau khổ tên Tâm chứ không phải là
nghệ sĩ Kim Cương, phải quên Kim Cương đi! Ca sĩ cũng phải hát 'nhập vai' như
vậy mới ra ca sĩ.
Trần Thu Hà
thì khôn hơn, biết cách lợi dụng kỹ thuật để áp dụng. Nhưng mấy người được như
Trần Thu Hà? Người nào cũng phô trương, tôi phải hát giọng cao tới nốt đó tôi
mới là ca sĩ, còn hát chưa tới thì chưa phải là ca sĩ. Cái đó là sai lầm tai
hại vô cùng và không ai chấp nhận.
- Hai nữ ca sĩ đang nổi tiếng nhất trên thị trường hiện nay là Mỹ Tâm và Hồ Ngọc Hà, ông đánh giá tài năng của họ ra sao?
Mỹ Tâm chỉ hát
nhạc Pop bình thường thôi, nhưng được cái là sáng sân khấu, xử lý bài hát chính
xác. Mỹ Tâm cũng có những ca khúc hát không tới, gặp bài nào hát tới mới hay,
như Cây đàn sinh viên, Ước gì...
Mỹ Tâm hát chỉ
hợp với tuổi trẻ. Về tính nghệ thuật thì Hồng Nhung, Trần Thu Hà hát xong có để
lại ấn tượng, còn Mỹ Tâm chỉ nghe vui mắt, vui tai, nghe qua xong rồi thì thôi,
không để lại ấn tượng gì hết.
Mỹ Tâm được
cái là may mắn rơi vào đúng thời điểm không có ai cạnh tranh, từ đó nổi tiếng
và khi nổi tiếng rồi thì rất khôn khéo đầu tư vào hát, múa, sắc đẹp để giữ vị
trí.
Hồ
Ngọc Hà và Mỹ Tâm
Hồ Ngọc Hà hát chỉ nghe chơi thôi! Giọng Hồ Ngọc Hà yếu lắm, khều khào không à! Hồ Ngọc Hà đẹp, có vóc dáng sân khấu, chịu khó múa… cái gì cũng đẹp nhưng giọng hát thì lại không được.
Khi diễn tả
nội tâm, Hồ Ngọc Hà diễn kịch tính nhưng đóng kịch chứ không thật. Ca sĩ hát
phải biến mình thành nhân vật trong ca khúc mới hiểu nỗi đau làm sao. Không lẽ,
ngoài đời mình buồn là phải hét, gào thét? Đâu phải vậy!
- Với các giọng ca nam đang nổi tiếng như Bằng Kiều, Đàm Vĩnh Hưng, Quang Dũng… ông đánh giá thế nào?
Bằng Kiều cũng
giọng tốt như Trần Thu Hà nhưng sau này khoe giọng quá, cố hát lên cao vút để
không ai bắt chước được. Thành ra, Bằng Kiều hát bài Buồn ơi chào mi của tôi
khiến khán giả ở dưới sững sờ luôn! Tính lại thì hiệu quả sân khấu có nhưng tôi
mở băng ra nghe thì phải nghe Tuấn Ngọc hay Xuân Phú, Trọng Bắc hát.
Quang Dũng hát
được vài bài của Trịnh Công Sơn chứ không phải là tất cả. Còn Đàm Vĩnh Hưng chỉ
được bề nổi vậy thôi, tôi không cho là ca sĩ đúng nghĩa. Tôi chỉ cho Đàm Vĩnh
Hưng là một người hát. Đàm Vĩnh Hưng cố hát nhạc xưa, nhạc vàng mà hát có ra
đâu!
Nhạc
sĩ Nguyễn Ánh 9 không thích Đàm Vĩnh Hưng hát nhạc của ông
Đàm Vĩnh Hưng hát bài Ai đưa em về của tôi, tôi bảo ‘con đừng hát bài của bố nữa, tội nghiệp bố lắm’. Tôi không thích, tôi nói thẳng luôn. Đàm Vĩnh Hưng nói ‘nhưng con thích hát nhạc bố…’, tôi nói ‘nhưng con không nên hát nhạc của bố thì hay hơn’.
Thật ra, giọng
Đàm Vĩnh Hưng nửa Nam
nửa Bắc, cách thức hát cũng không có và lối hát cũng vậy. Hồi xưa, Đàm Vĩnh
Hưng mà đi hát thì chỉ xứng là ca sĩ loại C hát lót chứ không được vào hạng ca
sĩ chính của phòng trà đâu!
- Ngoài
danh ca Tuấn Ngọc thì những giọng ca nào khiến ông hài lòng nhất?
Giọng nữ thì
tôi thích Ngọc Anh, Hồng Nhung, Ánh Tuyết, Trần Thu Hà… Nguyên Thảo nếu tiếp
tục hát như ngày xưa thì rất hay. Ngày xưa, Nguyên Thảo hát cho thỏa đam mê còn
sau này, bị gò bó vào kỹ thuật như Mỹ Linh để khoe giọng và vô tình giết chết
tình cảm.
Vừa rồi làm
đĩa than của tôi có 2 bài Nguyên Thảo hát. Cách đây 6 năm, Nguyên Thảo hát Buồn
ơi chào mi xuất thần luôn, nhưng giờ Nguyên Thảo để tâm đến kỹ thuật nhiều nên
tình cảm không còn, so ra khác hẳn.
Giọng nam thì
ngoài Tuấn Ngọc còn có Trọng Bắc, Lê Hiếu… Tuấn Hiệp lúc trước hát tốt, tôi
thích nhưng giờ chạy theo hát nhạc vàng bị mất chất.
- Nhưng
rõ ràng trên thị trường, những giọng ca này không phải nổi tiếng nhất, được
khán giả ưu ái nhất. Theo ông vì sao có nghịch lý này?
Nhiều ca sĩ hát hay nhưng chưa nổi được, tại vì bây giờ còn phụ thuộc vào công nghệ lăng
xê. Khán giả cũng bị ảnh hưởng bởi phim ảnh Hàn Quốc nhiều quá, 10 cái clip của
Hàn Quốc thì 11 cái có nhảy rồi! Cái đó gọi là âm nhạc giải trí, nghe qua rồi bỏ,
khác xa với nghệ thuật.
Tôi thấy giới trẻ bây giờ nghe nhạc vô tội vạ, nghe theo phong trào, chạy theo lai căng ngoại quốc nhiều quá nên không còn bản chất.
Mong có nhiều
nghệ sĩ ‘tử tế’ và người nghe ‘tử tế’
- Với
những đánh giá này, phải chăng gu thưởng thức âm nhạc bây giờ của khán giả quá
khác với ông, bởi đơn cử, Đàm Vĩnh Hưng đang được phong là ‘ông hoàng nhạc
Việt’?
Không phải!
Nếu đem so sánh Tuấn Ngọc với Đàm Vĩnh Hưng, người ta vẫn thích nghe Tuấn Ngọc
hát nhiều hơn, đúng không?
Nghe Tuấn Ngọc
hát thấy nó khác liền, hát ra là cảm xúc đến với người nghe chứ không phải gắng
gượng. Tại vì Tuấn Ngọc đã sống trong bài hát đó, khi hát Tuấn Ngọc để tâm
trạng vào bài hát, nói lên tâm trạng của nhiều người. Ví dụ khi mình bị người
yêu bỏ, nghe Tuấn Ngọc hát Buồn ơi chào mi, nghe nó đã lắm!
Tuấn Ngọc vẫn
là giọng ca số một dù tuổi tác, thời gian làm cho giọng của Tuấn Ngọc không còn
được đẹp như ngày xưa nữa, nhưng cái xúc cảm vẫn là Tuấn Ngọc và xúc cảm càng
ngày càng sâu hơn.
- Vậy
theo ông, thị trường nhạc Việt sẽ đi về đâu?
Đây là vấn đề
lớn, cả một thế hệ chứ không phải đơn giản, ăn thua là cách giáo dục của gia
đình với con em làm sao. Nếu trong một gia đình chỉ có tối ngày đi kiếm tiền
thì tinh thần nghệ thuật của họ chết rồi, bị tiền bạc chi phối hết.
Thành ra, họ
cũng không chăm sóc con cái, cứ cho tiền là xong. Họ cũng ỷ lại tiền, đưa con
vào trường này trường kia, mặc con muốn làm gì thì làm.
Theo tôi, thị
trường nhạc Việt vẫn đang nằm yên. Rồi từ từ, nhạc thị trường sẽ rớt dần và tới
một giai đoạn nào đó, nghệ thuật sẽ lên ngôi. Nhạc thị trường tự động phát sinh
rồi sẽ tự động chết bởi những gì không hay sẽ không tồn tại. Tôi tin tưởng như
vậy. Đời tôi không thấy nhưng đời con, đời cháu của tôi sẽ thấy điều này.
- Sau 60
năm cống hiến cho nghệ thuật, điều ông mong muốn nhất là gì?
Tôi chỉ mong
muốn duy nhất là có nhiều nghệ sỹ tử tế và người nghe nhạc tử tế. Tất cả những
gì cứ để thử lửa đi, đốt cách mấy thì vàng cũng vẫn là vàng. Mình hãnh diện là
người Việt Nam
không thua ai hết!
- Xin cảm ơn ông!
Nguyễn Ánh 9 công khai đánh giá thấp Mr Đàm từ lâu?
Thuộc chuyên đề: Nguyễn Ánh 9 ‘mổ xẻ’ Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng, Hà Hồ gây chấn động
Xung quanh vụ Nguyễn Ánh 9 chê các ca sỹ đương thời, nhạc sỹ Tuấn Khanh bảo anh biết là ông luôn đánh giá thấp Đàm Vĩnh Hưng và phát biểu công khai từ lâu.
» Xem 'bằng chứng' Mr Đàm lấy ra độp lại Nguyễn Ánh 9
» 'Nguyễn Ánh 9 chê ca sỹ đương thời' gây chấn động ra sao?
- Thưa anh, câu chuyện ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng
phản ứng với phê bình của nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 đang trở thành một ví dụ
điển hình trong văn hóa ứng xử của những người được gọi là ngôi sao
trong làng giải trí hiện nay? Quan điểm của anh về sự kiện này thì sao?
Đây không phải là lần đầu tiên Đàm Vĩnh Hưng phản ứng với ai đó về chuyện phê bình, cũng như không phải nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 là người đầu tiên nói thật về những bất cập trong làng giải trí , nhưng câu chuyện hôm nay là sự bùng nổ ngẫu nhiên, và cũng đúng thời điểm mà giới chuyên môn cũng như khán giả đã quá mệt mỏi với một nền giải trí son phấn, kèm nhiều sự giả tạo bao trùm đời sống.
Trên thực tế, nếu phân tích bài trả lời
phỏng vấn của nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9, cũng có vài điều chưa phải là hoàn
toàn đúng trong nhận định của ông, chỉ tiếc là cách phản ứng của Đàm
Vĩnh Hưng thì lại hoàn toàn sai về lý luận cũng như phá vỡ môi trường
đạo đức nghệ thuật vốn có truyền thống tôn trọng người lớn tuổi cũng như
người đi trước trong nghề nghiệp.
Nhạc sỹ Tuấn Khanh
- Những biểu hiện nào của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng trong lý lẽ là sai, thưa anh?
Chỉ
tập trung phân tích cách phản biện của ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng thôi, thì
thấy Hưng đang sử dụng lối tam đoạn luận ngụy biện rất thấp: mượn
khán giả làm rào chắn cho mình trong các cuộc tranh luận. Chẳng hạn như
lối nói 'nếu chê Đàm Vĩnh Hưng tức coi thường hàng triệu khán giả đang
nghe nhạc của Đàm Vĩnh Hưng'.
Trên thực tế, nếu ca sỹ gọi là có người nghe đến hàng triệu khán giả trên đất nước này, tính từ giọng ca dễ thương của bé Xuân Mai đến nhiều người khác, Hưng chỉ là một trong những số đó chứ không có gì đặc biệt hơn, nhưng không ai trong số đó lại đi kéo lê khán giả khắp nơi như một công cụ để bảo vệ, che chắn cho mình như vậy.
Và chẳng hạn như Hưng gọi nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 là 'ngụy quân tử' thì có lẽ Hưng không hiểu được danh từ này. Ông Nguyễn Ánh 9 thực tế là chưa bao giờ sống hai mặt chỉ trích Hưng. Tôi được biết là ông luôn đánh giá thấp Hưng và phát biểu công khai từ lâu. Ngay cả trong câu chuyện ông kể về mẩu đối thoại giữa Hưng và ông về việc không muốn Hưng hát nhạc của ông, Hưng cũng không thể phủ nhận.
- Sự ủng hộ mạnh mẽ bất ngờ từ phía công chúng về lời phê bình nói chung của nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 này đang phản ánh điều gì, thưa anh?
Như tôi đã nói trên, rất nhiều người đã mệt mỏi với nền giải trí Việt Nam, đặc biệt là âm nhạc. Hãy nhìn xem các gameshow và những lời tung hô giả trá. Những danh hiệu ông hoàng, bà chúa được giành nhau, ganh ghét và vơ vào một cách vô nghĩa. Diva hay hoàng tử được phong tặng hay đeo bám đều ngớ ngẩn, thấp kém hơn cả ổ bánh mì 10 ngàn đồng buổi sáng mà người lao động vất vả mới có được.
Những nhân xét của nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 và tâm thư đốp chát lại của Đàm Vĩnh Hưng đã gây sóng gió làng nhạc.
Truyền thông lá cải và âm nhạc như một vở kịch dài đáng chán và ấu trĩ không bao giờ hạ màn. Và rồi phải có một ai đó giật mình hô hoán lên rằng những thứ này đang chắn lối của một cuộc sống bình thường lành mạnh. Vào thời điểm này, nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 ngẫu nhiên trở thành người bắt đầu cho một cuộc hô hoán như vậy, mà bất kỳ ai tỉnh táo cũng đều thấy đó là một điều cần thiết.
- Bức thư khiến dư luận nổi giận vì lời lẽ được cho là bất kính và ngạo mạn, dường như cho thấy Đàm Vĩnh Hưng đang tin vào quyền lực của mình trong làng giải trí. Đây là điển hình của một dạng ảo tưởng trong giới ca sỹ hay sự chi phối của nó, ở mức độ nào đó, là có thật?
Tôi được biết là Nguyễn Ánh 9 luôn đánh giá thấp Hưng và phát biểu công khai từ lâu.
Nhạc sỹ Tuấn Khanh
Một chút thành đạt sẽ dễ gây ảo tưởng, và một chút ảo tưởng sẽ dễ gây ảo giác về quyền lực. Không chỉ Đàm Vĩnh Hưng, mà rất nhiều người tham gia vào làng giải trí Việt Nam đang mắc phải như một thứ bệnh trầm kha, chỉ có thể được chữa theo thời gian và sự hoàn thiện nhân cách của người đó.
Chỉ đáng buồn là chính bởi rất nhiều phóng viên mới vào nghề thiếu bản lĩnh, những tờ báo đuối hơi về nghề nghiệp… là thủ phạm nhân giống và nuôi trồng những loại nấm độc đó trong làng giải trí Việt nhiều năm nay, đôi khi biến những ảo tưởng thành những giá trị có thật tạm thời.
Mỗi ngày chúng ta đều nhìn thấy các tít lớn giật lên về các phát ngôn ba trợn của nhiều ngôi sao, diễn viên… như thể họ vừa xài chất kích thích vừa nói chuyện, nhưng ngôn ngữ được loan báo trân trọng. Ở một khía cạnh nào đó, có thể coi Đàm Vĩnh Hưng là nạn nhân điển hình trong trường hợp này.
- Cũng có ý kiến cho rằng có sự ganh tỵ nào đó với danh tiếng hay thành đạt của người khác, nên mới có sự chỉ trích như vậy. Chẳng hạn, anh có thấy mình như vậy không?
Tôi tin là có rất nhiều kiểu thành đạt và danh tiếng trên đất nước này. Tôi ngưỡng mộ các giá trị đó. Nhưng phải nói rõ là cũng có rất nhiều người không cần danh tiếng hay thành đạt mới có thể cất lời phê bình. Và bên cạnh đó, cũng có rất nhiều kiểu thành đạt và danh tiếng mà tôi cũng như nhiều người khác luôn thấy vô cùng kinh hãi khi phải dây vào.
- Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện!
» Xem 'bằng chứng' Mr Đàm lấy ra độp lại Nguyễn Ánh 9
» 'Nguyễn Ánh 9 chê ca sỹ đương thời' gây chấn động ra sao?
» Nguyễn Ánh 9 chê ca sỹ đương thời: Hội Nhạc sỹ VN lên tiếng
» Mr Đàm đốp chát Nguyễn Ánh 9: Văn hóa chợ búa
» Lan Ngọc: Ngày xưa như Đàm Vĩnh Hưng chỉ hát đám cưới
Theo Vietnamnet
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 277
THICH QUẢNG ĐỘ - QUANG DŨNG - BẾN XE MIỀN ĐÔNG
TIN PHẬT GIÁO
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ chức
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam quyết định từ chức, nêu lý do có bất đồng giữa Ngài với
các nhân vật thân cận nhất ở trong nước và Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, là
đại diện của Giáo Hội ở hải ngoại.
Trong cáo bạch đề ngày 30 tháng Tám 2013 gửi mọi người, Đức Tăng
Thống cho biết chuyện dẫn đến việc Ngài phải quyết định từ chức là vai
trò của Hòa Thượng Thích Chánh Lạc, người được Viện Tăng Thống Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất công cử tại Đại hội IX tháng 11 năm 2011
là Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo, thay thế cho Đức cố Phó Tăng
Thống Thích Hộ Giác lâm trọng bệnh năm ấy.
Cáo bạch cho hay Viện Tăng Thống nhận được rất nhiều lời than trách
từ mọi nơi, cho hay Hòa Thượng Chánh Lạc vi phạm một số giới răn của
Phật Giáo, ghi rõ là “với những bằng chứng cụ thể, minh bạch không thể
chối cãi”.
Trước những bằng chứng này, cuối tháng Tám Đức Tăng Thống dự tính ra
quyết định đình chỉ mọi sinh hoạt và những chức vụ trong Giáo Hội của
Hòa Thượng Chánh Lạc.
Nhưng Cáo bạch mang chữ ký của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ cho biết
thêm vào ngày 28 tháng Tám vừa qua, hai Hòa Thượng Thích Viên Định,
Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Văn Phòng
Viện Tăng Thống trong nước đã đến gặp Ngài để giải quyết chuyện liên
quan đến Hòa Thượng Chánh Lạc.
Trong cuộc thảo luận đó, 2 vị Hòa Thượng này đều nhất quyết lưu giữ Hòa Thượng Chánh Lạc, mời Hòa Thượng vào vai trò Cố Vấn Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo.
Cùng lúc đó, Cáo Bạch viết tiếp, Tổng Thư Ký Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội tại Hoa Kỳ cũng báo cáo cho Ngài biết là đã thỉnh ý chư tăng mọi nơi và tất cả đều đồng ý lưu giữ Hòa Thượng Chánh Lạc.
Trước những khác biệt giữa Ngài với các Hòa Thượng đang giữ các vị trí rất quan trọng của Giáo Hội ở trong và ngoài nước, Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ quyết định từ chức. Cáo bạch viết rằng kể từ ngày 30 tháng Tám 2013, Ngài không còn liên hệ đến sinh hoạt cũng như không chịu trách nhiệm về bất cứ việc gì của Giáo Hội.
Ngay sau khi nhận được bản sao Cáo Bạch này, Ban Việt Ngữ Đài Á Châu
Tự Do chúng tôi đã cố gắng bằng mọi cách nhưng vẫn chưa liên lạc được
với Hòa Thượng Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo kiêm
Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội tại Hoa Kỳ. Chúng tôi cũng đã yêu
cầu Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất đặt tại Paris để xin được trực tiếp phỏng vấn Đại Lão Hòa
Thượng Thích Quảng Độ, và được trả lời là sẽ chuyển lời yêu cầu đến Đại
Lão Hòa Thượng.
Ban Việt Ngữ chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi tin quan trọng này, và
gửi đến quý thính giả những tin tức mới nhất liên quan đến quyết định
của Đức Tăng Thống và hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
sau khi Ngài từ chức.
Hòa thượng Thích Quảng Độ đảm nhận lại chức vụ
Đệ ngũ Tăng thống Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, đại lão hòa thượng Thích Quảng Độ, vào ngày 3 tháng 9 chấp thuận trở lại đảm nhận trách nhiệm đứng đầu giáo hội sau khi quyết định từ nhiệm hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua.
Gia Minh hỏi chuyện hòa thượng Thích Không Tánh, trụ trì chùa Liên Trì ở Sài Gòn về tin đó, và trước hết vị hòa thượng này cho biết.
Hòa thượng Thích Không Tánh: Sáng ngày hôm qua, hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo cùng chư tôn đức trong Hội đồng Giáo Phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cùng đến Thanh Minh Thiền Viện cùng đến để vấn an cũng như đảnh lễ, dâng lời tác bạch để thỉnh cầu Ngài Thích Quảng Độ, đệ ngũ Tăng Thống tiếp tục trọng nhiệm Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, cũng xin cung thỉnh Ngài vì tiền đồ của Đạo Pháp, Dân tộc Ngài lèo lài con thuyền của Giáo hội và công cuộc giải trừ pháp nạn và quốc nạn cho đến thành công viên mãn.
Khi các chư tôn đức Hội Đồng Viện đều đến đảnh lễ, thỉnh an Ngài; sau ba lần thỉnh cầu, Ngài đệ ngũ Tăng Thống đã hoan hỷ và hứa sẽ lãnh đạo để lo Phật sự của giáo hội.
Có một số quí Phật tử, thân hữu nóng lòng trước tin từ nhiệm của Ngài, nên chúng tôi gửi tin đó đi để Phật tử trong cũng như ngoài nước được an tâm, đồng thời cùng nhau cầu nguyện để tiếp tục hộ trì cho giáo hội trong công cuộc để làm sao đất nước Việt Nam có được sự đa đảng, đa nguyên cũng như dân chủ, tự do nhân quyền thực sự, đích thực và sớm giải trừ quốc nạn cũng như pháp nạn.
Khi các chư tôn đức Hội Đồng Viện đều đến đảnh lễ, thỉnh an Ngài; sau ba lần thỉnh cầu, Ngài đệ ngũ Tăng Thống đã hoan hỷ và hứa sẽ lãnh đạo để lo Phật sự của giáo hộiGia Minh: Lâu nay sự quản chế đối với Ngài có gây ra trở ngại gì trong vấn đề thực hiện trọng trách của Ngài đối với giáo hội?
Hòa thượng Thích Không Tánh
Hòa thượng Thích Không Tánh: Xuyên suốt từ bao nhiêu chục năm
qua, kể từ thời của Ngài Đệ tứ Tăng Thống- Đại lão Hòa Thượng Thích
Huyền Quang cho đến bây giờ là Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị chế độ Cộng sản tước đoạt pháp lý
sau khi họ chiếm miền nam Việt Nam. Họ tiến hành triệt tiêu cho được
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Lập trường của giáo hội lúc nào cũng gắn liền với quê hương, đất nước
và đạo pháp; thành ra họ lập nên một giáo hội Phật giáo Việt Nam là
giáo hội thừa sai để điều khiển, đồng thời chịu dưới hệ thống Mặt Trận
Tổ Quốc cũng như Ban Tôn giáo của Nhà Cầm quyền. Quí Ngài vì đất nước,
vì đạo pháp nên đã dấn thân cố gắng nhiều lần đòi hỏi, yêu cầu nhà cầm
quyền Việt nam phải trả lại pháp lý, tài sản của giáo hội.
Có nhiều ban đại diện tại nhiều tỉnh cũng đã phục hoạt với giáo hội
nhưng rồi chế độ vẫn đàn áp. Chính vì vậy quí Ngài vì lãnh đạo giáo hội
nên phải hy sinh lúc nào cũng bị quản thúc, quản chế, tù đày. Trước đây
cũng đã đày ải đưa đi giam cầm ở những nơi phương xa, sau này vẫn tiếp
tục bị quản chế, cô lập, canh gác, bao vây. Nhưng các Ngài vẫn nhất
quyết dốc một lòng cho đạo pháp và dân tộc.
Tuy bị cô lập, canh gác, bao vây như vậy nhưng các Ngài vẫn một lòng
làm việc. Làm việc trong âm thầm và trong sự cố gắng trước gọng kìm của
chế độ. Các ban đại diện cũng bị đàn áp, khủng bố nhưng các chư tôn đức
cũng vẫn cố gắng bằng cách này hay bằng cách khác nói lên tiếng nói của
mình để góp phần xây dựng, đóng góp cho dân tộc, đất nước.
Đương nhiên phải gặp nhiều khó khăn. Nhiều người nói các Ngài bị quản
chế, canh gác vậy mà sao vẫn làm việc, điều hành. Tuy bị canh gác, bao
vây, nhưng một số chư tôn đức vẫn cứ liên lạc, thăm viếng, vấn an, thăm
hỏi dưới sự theo dõi, kèm sát của công an. Như ngày hôm qua ngài Viện
trưởng Viện Hóa Đạo Thích Viên Định cũng như chúng tôi và quí chư tôn
đức trong Hội đồng Viện đến vấn an Ngài, khi đi cũng bị công an đi theo,
giám sát tạo sự sách nhiễu. Tuy nhiên quí Ngài vẫn cứ con đường chánh
đạo Phật sự mình cứ làm thôi.
Nhiều người tuyên truyền nếu nói bị bao vây mà sao vẫn làm việc được,
như thế chứng tỏ cộng sản đâu có đàn áp. Sự thực vẫn có đàn áp, bao
vây, cô lập nhưng quí Ngài vẫn cố gắng để thừa hành Phật sự của giáo hội
bằng cách này hay bằng cách khác như qua văn thư, điện thoại, cũng có
thể là thăm viếng. Việc bao vậy, cô lập sau này lịch sử sẽ biết rõ.
Gia Minh: Trong muôn vàn khó khăn như thế, và đây có phải là dịp để làm thanh sạch giáo hội thêm nữa không thưa Hòa Thượng?
Hòa thượng Thích Không Tánh: Ngài Tăng thống có uy tín và đạo
đức. Trước những dư luận, những thỉnh nguyện thư, cáo giác; trong thời
gian qua Ngài Tăng Thống muốn giáo hội khỏi phải tai tiếng để giáo hội
có sự trong sạch và uy tín đối với thế giới cũng như quần chúng Phật tử.
Ngài luôn kêu gọi lấy đạo đức, giới luật lên làm đầu để tạo sự trang
nghiêm cho giáo hội; chính vì vậy trong tương lai Ngài sẽ có những quyết
định, hay giáo chỉ cho toàn thể quí Phật tử và các cấp của giáo hội để
thực hiện.
Gia Minh: Cám ơn hòa thượng Thích Không Tánh.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/th-a-do-revok-resigna-09042013081525.htmlVŨ TỪ TRANG * NHÀ THƠ QUANG DŨNG
NHÀ THƠ QUANG DŨNG, NHƯ TÔI BIẾT
Hồi ấy, gia đình
ông ở căn phòng gác ba ngôi nhà cuối đường Bà Triệu. Lối lên gác là cầu
thang nhỏ. Đã thế, nhà đông hộ, nhiều chai lọ, rổ rá xếp dọc lối lên,
thành ra cầu thang càng nhỏ hẹp. Tôi không hình dung nổi, cứ nửa đêm,
ông xuống nhà xách hai thùng nước ở góc sân tầng một, dáng ông to lớn
thế, đi lên làm sao được?.
Không chỉ những
người ở chung số nhà, mà cả mấy ông bà hàng xóm cũng phải khen ông chịu
khó. Ngày ngày, tờ mờ sáng, đã thấy ông chạy bộ vào công viên tập thể
dục. Đi tập thể dục, ông cầm theo cái bao tải cũ. Chả là, tập xong, ông
quét lá khô lèn chặt bao tải to kềnh, vác về nhà làm đồ đun. Ngày đó,
Hà Nội còn đun bếp dầu, than tổ ong, chứ chưa có bếp điện, bếp ga như
thời nay. Nhà ông đông con, lại nghèo, lấy đâu tiền để mua đủ dầu đun.
Ông quây góc nhỏ sân thượng thành cái bếp. Đến bữa, ông bà lúi húi đun
nấu ở đó. Lá quét về, có lá khô lẫn lá tươi, bếp khói mù mịt, nước mắt
giàn giụa. Nhưng vẫn thấy ông hồn nhiên cười. Theo ông, có lá đủ đun
cơm, đã là hạnh phúc lắm rồi.
Ông mời tôi bát nước
chè xanh ủ khéo. Cái bát uống nước là bát ăn cơm phân phối bao cấp. Men
rất xấu, nhưng độ ấy là quý rồi. Ông có tài ủ chè xanh. Nom to lớn như
ông Tây, vậy mà ông lại thích uống nước chè xanh, uống nước vối và thích
ăn khoai lang, khoai sọ, hạt mít luộc. Nếu uống nước chè xanh, có thêm
thanh kẹo lạc, hoặc cái kẹo bột thì sướng vô cùng. Đời người khác, nhiều
thứ cao lương mỹ vị, chứ với ông, thú vui ẩm thực giản dị và đạm bạc có
vậy thôi.
Ngày ấy, Hội văn
nghệ Hà Nội làm tập thơ tuyển, nhà thơ Hoài Anh đi tập hợp bài vở. Bài
thơ "Những làng đi qua" của ông chép nhoè nhoẹt, được Hoài Anh mang về
in vào tập thơ tuyển. Thế là bài thơ được công bố sau thời gian dài ngủ
yên trong sổ tay của ông. Với ông, in hay không in, không quan trọng.
Thú, thì viết. Viết cho mình đọc, là thú rồi.
Nhờ sự ngẫu nhiên
này, bạn đọc được biết thêm một tác phẩm hay của ông. Bài thơ có rất
nhiều câu thần thái. Nó phác hoạ được Hà Nội những năm kháng chiến với
những nét đáng yêu.
Ông vốn nghèo. Không
có tiền mua sơn dầu hoặc chất liệu đắt tiền. Ông chỉ vẽ bằng bột màu,
màu nước, loại chất liệu rẻ tiền cho các hoạ sỹ nghèo. Ấy thế, tranh của
ông vẫn có vẻ đẹp lung linh đến lạ.
Vẽ tranh, với ông cũng chỉ là thú chơi. Có chút gì đó tài tử. Nhưng qua tranh, đã giải toả tinh thần ông rất nhiều.
Tôi còn nhớ, ông
Thuật - một người bán sách cũ tinh đời ở Hà Nội ( giới văn chương chữ
nghĩa, một thời, nhiều người biết ), có lần nói về văn thơ của ông Quang
Dũng: "Cái ông ấy, viết chữ nào ra chữ ấy. Nó như kẹo bột, như nước chè
xanh, đố mà lẫn được!".
Tôi thuộc bài thơ
"Mắt người Sơn Tây" từ rất lâu, trước khi được gặp ông. Bài thơ do một
anh bạn làm thơ cùng quê Kinh Bắc chép tặng. Thời đó, bài thơ đâu có
được in công bố. Nhưng chính với bài thơ ấy, tôi phải quyết đi tìm gặp
ông. Thơ ông, đôi lúc, làm chấn động đời sống tinh thần của tôi.
*
* *
Xét về sự xuất hiện
trên văn đàn, có thể xếp Quang Dũng vào lớp nhà thơ trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống Pháp (mặc dù, Quang Dũng là người sáng tác thơ
rất sớm, từ những năm 1937 - 1938).
Đặc điểm chung của
thơ ca trong thời kỳ chống Pháp, là hào hứng phản ánh không khí sục sôi
của cách mạng. Dòng chảy cách mạng đã cuốn hút mạnh mẽ cảm xúc các nhà
thơ. Lý tưởng cao cả của nhà thơ là phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh của
dân tộc. Với nội dung phản ánh mới mẻ, thơ ca đã có những hình thức biểu
hiện mới.
Tuy nhiên, trong
những năm đầu cách mạng, thơ còn mang tính ước lệ. Thơ ca lúc này, vừa
mang cảm hứng dào dạt của cách mạng thắng lợi , lại vừa mang không khí
bỡ ngỡ của những con người vừa từ tăm tối choàng ra ánh sáng. Thơ giai
đoạn này còn thiếu những hình ảnh cụ thể về cuộc sống và con người mới.
Dần dần, hình ảnh người chiến sĩ ngoài mặt trận, người du kích, người
dân công, bà mẹ kháng chiến, , em bé giao liên đã được ghi đậm nét
trong thơ qua các thời kỳ kháng chiến. Tình quân dân, tình đồng đội ,
tình đồng chí, đồng bào... đã dần trở thành những đề tài thường gặp .
Thơ thời kỳ kháng
Pháp thường hướng về cái chung, cái chúng tôi, ít đề cập đến cái tôi,
cái cá nhân. Trong thơ thường thấy ùng oàng súng đạn, thấy bước hành
quân rầm rập, thấy tiếng hát hò... mà ít thấy nỗi niềm, tâm trạng. Cái
mạnh của thơ ca thời kỳ này, là sự có mặt kịp thời, động viên cổ vũ kịp
thời. Cái sôi nổi, hào hùng thì có, nhưng cái suy tư, lắng đọng thì ít.
Ngay thời kỳ đầu
xuất hiện, Quang Dũng đã tìm cho mình cách thể hiện riêng. Bên cạnh cái
chúng tôi, chúng ta, nhà thơ đã mạnh dạn khai thác cái tôi cái ta. Con
người cá nhân thường hiện rõ trong thơ của ông. "Tây Tiến" là bài thơ
viết về cái chung, nhưng nó lại có tâm trạng rất riêng. Đó là cuộc hành
quân oai hùng và gian khổ. Nhà thơ đã phác hoạ vẻ đẹp hào hùng và bi
tráng, niềm vui và nỗi buồn của người chiến sĩ. Khi các nhà thơ mới
chỉ khai thác vẻ đẹp hào hùng của công việc, thì Quang Dũng đã khai thác
tâm lý, tình cảm của con người trước công việc.
Ông không viết thơ
chính luận, không đưa triết lý cao siêu vào thơ. Cái mạnh của thơ Quang
Dũng, là cảm xúc mạnh và nồng ấm. Ngôn ngữ thơ ông giản dị, mộc mạc;
nhưng lấp lánh, hào hoa. Thơ Quang Dũng là dòng thơ hướng nội. Ông ít
quan tâm đến cách tân hình thức, không chủ trương tạo sự cầu kỳ rắc rối
ngôn từ. Nhưng thơ ông vẫn trẻ, vẫn mới.
Thơ Quang Dũng
thường nghiêng về tả. Qua tả, để giãi bày cái tình của mình. Ông có biệt
tài về tả. Bài thơ "Những làng đi qua" của ông là bức tranh thật đẹp về
quê hương những ngày kháng chiến: Bằng con mắt quan sát tinh tế, chân
mộc và chứa chan cảm xúc.
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Tháng chạp màn sương trùm đất nước
Gió mùa, chết héo mạ non xanh
Sương muối thấm vào bao đạn ướt
Cảnh trong thơ Quang Dũng không phải là cảnh khô cứng, nó có sức sống cuồn cuộn ở bên trong:
Những làng trung đoàn ta đi qua
Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
Vàng vọt trăng non đêm tháng chạp
Nùm rơm - khói thuốc - bạch đầu quân
Tự vệ xách đèn chai lối xóm
Khuya về chân khoả vội cầu ao
Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào
Bờ tre cây rơm thôi tịch mịch
Vỡ lá bàng khô bước du kích
Đây là khổ thơ tài
hoa của ông. Ông là người yêu làng quê, hiểu nếp sống và tập tục của
người dân các xóm làng. Nùm rơm, đèn chai, cầu ao… Đó là những vẻ đẹp
của làng quê thuần Việt. Ở cái làng quê đẹp và yên bình kia, cuộc sống
vẫn cuộc chảy dồn dập. Dân quân ngoài trạm gác, các cụ bạch đầu quân
ngồi bên nùm rơm hút thuốc lào. Cô tự vệ đi tuần về, tay xách đèn chai
(thứ đèn làm bằng thân cái chai, che gió rất tốt ) ra cầu ao khoả chân.
Sau cái sôi động, dồn dập kia, vẻ đẹp thanh bình của thôn xóm lại hiện
ra. Tiếng quả sung chín rơi rụng bên chiến hào. Tiếng bước chân du kích
đi về trên ngõ đầy lá rụng "Vỡ lá bàng khô bước du kích". Phải thấm sâu
hồn quê, thấm sâu hồn kháng chiến như thế nào, ông mới vẽ nổi bức tranh
đẹp và quý như vậy.
Những làng trung đoàn ta đi qua
Lều chợ bay tro đêm lửa trại
Rạ thui bò khét cổng làng sau
Gạo thổi cơm sôi thơm ngõ ruối
và:
Buồng chuối tiễn quân em mới cắt
Nhựa cây còn tuôn như sữa vắt.
Đây là những câu thơ kỳ tài. Nó hay, không chỉ ở cái vẻ đẹp bên ngoài, mà còn bởi hồn vía bên trong các con chữ.
Những là trung đoàn ta dừng lại
Tiếng nêu đưa khánh dưới mưa phùn
Hương đen ngũ quả, màu tranh Tết
Câu đối mực tàu bay xạ ngát
Cột nhà tre trúc giãi gan vàng
Sinh thời, nhắc đến "Những làng đi qua" nhà thơ Quang Dũng rất tâm đắc với hai câu:
Chiều đến loa vang tin chiều sự
Khêu bấc đèn con họp tiểu đoàn
Ông thường nói: Cuộc
chiến đấu ngày đó gian nan, vất vả, nhưng rất đẹp. Con người nhiệt
tình, trong sáng, không biết thơ ca có thể hiện được điều ấy không?.
*
* *
Bài thơ " Mắt người Sơn Tây " của ông, thấy hiện diện rất rõ cái tôi của người viết:
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi...
…Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm.
…Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
…Bao giờ tôi gặp em lần nữa
…Còn có bao giờ em nhớ ta
Bài thơ "Tây Tiến" không có một từ tôi hoặc ta nào, nhưng người đọc vẫn nhận rất rõ con người tác giả. Cái tôi và cái ta
ở đây đã hoá thân trong cảm xúc, trong từng câu chữ. Một con người giàu
cảm xúc, ý chí ngang tàng trước cái sống và cái chết, sự cứng rắn trước
công việc và sự yếu mềm trước tình cảm... Cái tôi của tác giả, có pha
màu “tiểu tư sản”, nó có đặc trưng rất riêng của Quang Dũng. Chính vì
thế, ở thời điểm đó, nhiều người không chấp nhận được dòng thơ này. "Tây
Tiến" của Quang Dũng, "Ngày về" của Chính Hữu, một thời đã bị phê bình
mạnh mẽ, là do vậy.
Nếu lịch sử có nhiệm
vụ ghi chép sự kiện của xã hội, thì thơ ca có sứ mệnh phản ánh tâm
trạng của xã hội. Nhà thơ lớn, là người phản ánh được tâm trạng xã hội
trong tác phẩm của mình.
Thơ Quang Dũng rất giàu nhạc điệu, giầu nét tạo hình. Mở đầu bài "Tây Tiến", ông viết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Ba câu thơ đầu là
lối nói thật, giọng điệu giản dị. Nhưng câu thơ thứ tư "Mường Lát hoa về
trong đêm hơi" thì thấy cái thần thái của nhà thơ. Khổ thơ tiếp theo,
có âm điệu trập trùng, như nhịp đi của đoàn quân.
(a) Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
(b) Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(c) Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Câu thơ thứ tư của khổ thơ, như nhịp đi của đoàn quân xoải bước dài trên con đường bằng phẳng.
(d) Nhà ai Phă Luông mưa xa khơi
Đem giải mã khổ thơ này theo dấu bằng (-) trắc (/), thấy:
(a) /
(b)__
(c)__ /
(d)__ __ __ __ __ __ __
Mô hình biểu thị
bằng trắc của khổ thơ, như biểu đồ mặt cắt của con đường hành quân. Khi
trập trùng lên xuống, lúc xoãi ra bằng phẳng, nhịp nhàng.
Thơ Quang Dũng, mang nhiều tính lượng tượng hình.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Thơ ở đây, như hoà quyện: nhạc, hoạ và vũ điệu.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Sau cái khốc liệt,
dữ dội, dồn nén của chiến tranh, để rồi lại bung ra chất lãng mạn rất
người của lớp bộ đội kháng Pháp. "Tây Tiến" là bài thơ ngợi ca khí phách
của một lớp người dấn thân quên mình cho Tổ quốc. Đó là tráng ca về
những chàng dũng sĩ có lý tưởng. Bài thơ mang phong cách riêng biệt của
nhà thơ.
* *
Sở trường của Quang
Dũng, là viết thơ theo thể tự do. Trong tập thơ "Mây đầu ô" không có một
bài thơ lục bát nào. Thơ của ông thường có dáng dấp thể hành, bài thơ
thường dài, giọng điệu ngang tàng. "Tây Tiến" là bài thơ rõ nét nhất
phong cách này.
Ông có cách nói ngược rất duyên và tạo ra phong cách rất Quang Dũng. Ví dụ:
Gió mùa chết héo mạ non xanh
(Nhẽ ra, nếu nói thuận, thì :Mạ non chết héo vì gió mùa )
Sương suối thấm vào bao đạn ướt
(Nếu nói thuận, thì: Bao đạn thấm ướt vì sương muối).
Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
(Nếu nói thuận, thì: Đầu vọng gác vang tiếng quát của dân quân).
Câu thơ Quang Dũng
thường ngắn gọn, xúc tích. Ông là người ít chú ý đến vần điệu. Nhưng thơ
ông lại rất giàu hình ảnh. Hình ảnh trong thơ ông luôn gợi mở tâm
trạng. Thử đọc khổ thơ “Chiều mưa núi” của ông:
Kỳ Sơn mây kéo nặng
Hoa trẩu rụng đầy đường
....
Mưa dăng màn triền miên
……
Mưa bao giờ cho yên.
Hoặc là cảnh thu quê:
Ngồi đây vời tưởng đường quê hương
Lúa đã xanh xanh mấy nẻo đường
Cốm đã thơm mùi, hồng đã chín
Ao sau vườn cũ nước xanh trong
Và
Long lanh bóng núi in sông biếc
Buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu
Tâm hồn Quang Dũng
khoáng đạt. Tuy là người chỉnh chu hết mực với công việc, với gia đình,
nhưng ông lại rất sợ sự gò bó, khuôn phép, máy móc. Ông là thi sĩ thích
sự mênh mang, xê dịch.
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ
Một tâm hồn nồng hậu, luôn yêu cái đẹp bình dị:
Xe ngựa bình yên leo dốc đỏ
…Đình đổi quán sậy dựng phên lau
…Tơi nón trung du em về đâu?
"Bố Hạ"
Có người nói thơ
Quang Dũng ít tính thời sự. Nhưng thử hỏi tính thời sự trong thơ là gì?
Nó là những con số, những sự kiện? Hay là những cảm xúc, trạng thái của
con người mang dấu ấn xã hội trong mỗi giai đoạn? "Tây Tiến", "Mắt người
Sơn Tây", "Những làng đi qua"... chẳng đầy tính thời sự đó sao?!.
Có người nói thơ
Quang Dũng nặng về sự u buồn, hơn là cái tươi vui. Nhận định này không
chính xác. Thơ Quang Dũng có bài lắng, trầm và gợi buồn. Nhưng không
tiêu cực, uỷ mị. "Người ta có quyền buồn, có quyền xài cái xa xỉ ấy,
nhưng không có quyền bi quan". Câu nói của Nadim Hitmét rất đúng với thơ
Quang Dũng. Viết chiến tranh khốc liệt, nhưng "Tây Tiến" không bi quan,
mà luôn hướng về niềm tin cao đẹp.
Quang Dũng làm thơ
rất sớm. 16 tuổi, đã sáng tác "Chiêu quân", 19 tuổi, viết "Cố quận".
Nếu ông có ý thức lưu danh, gửi đăng những bài thơ này kịp thời, thì
chắc ông đã được xếp vào đội ngũ các nhà thơ trước cách mạng, như Xuân
Diệu, Huy Cận, Tế Hanh... Ông không được may mắn trong việc in ấn, công
bố, công nhận. Viết thơ năm 16 tuổi. Nổi tiếng với bài thơ "Tây Tiến"
năm 28 tuổi. Nhưng xuất bản tập thơ riêng đầu tiên "Mây đầu ô" (Nhà xuất
bản Tác phẩm mới, 1986) khi ông đã 65 tuổi. Trớ trêu thay, tập thơ này
in xong, ông đã mắc bệnh nằm liệt giường, không thể đọc lại được những
dòng thơ mình trên trang in, không còn ký tặng sách cho bạn bè được nữa.
In ấn, công bố ít. Không đăng đàn diễn thuyết trước công chúng. Vậy mà thơ Quang Dũng vẫn được nhiều người biết đến.
Nhờ không khí văn
nghệ đổi mới và dân chủ, những sáng tác văn học của Quang Dũng được đánh
giá lại đúng đắn và khoa học hơn. Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, đã
xuất bản tuyển tập văn thơ của Quang Dũng. Sau ngày Quang Dũng mất, Nhà
xuất bản Hội Nhà văn đã xuất bản tập sách chuyên đề về Quang Dũng. Báo
chí in nhiều bài viết về sự nghiệp sáng tác của ông theo tinh thần
khách quan.
Những tác phẩm của
ông, như "Tây Tiến", " Mắt người Sơn Tây" , cũng như những bài thơ "Bên
kia sông Đuống" của Hoàng Cầm, như "Mầu tím hoa sim" của Hữu Loan…một
thời bị coi là thứ thơ uỷ mị, tiểu tư sản. Nhưng đến nay, người đọc càng
quý trọng và đánh giá đúng giá trị của nó. Các tác phẩm này, đã được
xếp hạng cùng các bài thơ hay của thời kỳ kháng Pháp, như "Tình sông
núi" của Trần Mai Ninh, "Lên Cấm Sơn" của Tân Sắc, "Nhớ" của Hồng
Nguyên…
Thơ ca, vốn ngợi ca
cái đẹp bất tử của con người. Đó là tình yêu, sự sống, cái chết... Tuy
vậy, thơ Quang Dũng lại luôn quan tâm đến đè tài cụ thể. Một con đường
mới mở, mùa trồng rừng, ngày giao quân... Những việc tưởng cụ thể và thô
thiển, vậy mà vào thơ ông vẫn lung linh màu sắc. Ông ít viết thơ ngợi
ca lãnh tụ. Nhưng ông lại có những khổ thơ với tình cảm thật đẹp.
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Trung ương còn đóng quanh Hà Nội
Giầy vải Bác Hồ phơi bờ ao.
Hiếm có nhà thơ nào
viết về người lãnh tụ của dân tộc lại có cái nhìn giản dị và cao đẹp như
thế. Giầy vải Bác giặt, phơi bên bờ ao, chi tiết giản đơn, nhưng vào
thơ, nó đã khái quát tính cách người lãnh tụ. Quang Dũng có tài quan
sát, tài phát hiện và tài biểu hiện. Nên thơ ông có nhiều câu thơ phát
sáng như vậy.
Nếu nói thơ ca hay ở
giá trị chân thiện mỹ, thì thấy thơ Quang Dũng đã hướng về những giá
trị đó. Ông sáng tác không chút vụ lợi. Quang Dũng không viết giả dối,
không làm xiếc trên các con chữ. Ông viết bằng tấm lòng, bằng xúc cảm
của ông. Chính vậy, những tác phẩm của ông đã sống với thời gian, lắng
sâu trong tâm trí người đọc.
Cuộc đời nghệ sĩ vốn
chấp nhận sự thăng trầm. Trong đời sống, Quang Dũng nhiều phen chấp
nhận sóng gió, chấp nhận sự không may mắn. Nhưng thơ lại ông luôn lấp
lánh niềm tin trong sáng, yêu đời và lạc quan. Ham sống, ham đi, ham
viết vẽ. Đó là tính cách của ông.
Mũ hãy ngả cho nắng vàng mái tóc
Túi bên vai trời hửng núi lên rồi
Cột giây thép gió lùa qua rào rạo
Hát lên đường, muôn dặm đường xa xôi.
Quang Dũng không viết nhiều. Nhưng ông lại có nhiều tác phẩm sống vượt thời gian.
Tôi có được ở Mai
Châu một đêm cuối thu. Mảnh trăng cuối tháng vằng vặc nổi chìm trong khí
lạnh của núi rừng. Bản Mai Châu vẫn còn đầy vẻ thơ mộng và kỳ vĩ như
bóng dáng câu thơ của ông thưở nào.
Tôi lan man nghĩ, giá ngã ba đường vào bản Mai Châu, gắn biển chỉ đường với câu thơ Mai Châu mùa em thêm nếp xôi, hẳn làm xôn xao bao lòng du khách.
Nhớ về ông, lại
nhớ kỷ niệm ngày ông về quê tôi chơi. Làng tôi, cái làng cổ vùng Kinh
Bắc với nhiều tập tục lề lối cổ và nặng nề. Mấy bác cháu đạp xe đạp về
đầu làng. Những mảng tường gạch rêu, những mái ngói thâm u, những con
đường lát gạch nghiêng thập thững bước chân trâu, làm xôn xao cảm xúc
trong ông. Nhưng niềm hứng khởi đó chưa được mấy phút, là bất ngờ đến
với cả mấy bác cháu. Vào ngõ nhỏ dẫn về nếp nhà, thấy lốn nhốn người mặc
áo xô trắng, chít khăn tang trắng. Nhà tôi có tang đột ngột ư? Không
phải. Đó là đám tang cụ già hàng xóm. Tập tục quê tôi, nhà có việc hiếu,
là ngồi nhờ cả mấy nhà sát kẽ ngạch. Ông trưởng nam nhà đám, vốn là dân
trí thức theo cách mạng từ thời kháng Pháp, thuộc nhiều thơ Quang Dũng.
Được gặp nhà thơ, dù đang đứng đáp lễ bên linh cữu người mẹ, ông đã vội
chạy tới vái nhà thơ Quang Dũng ba vái. Bất ngờ thấy người vái mình,
nhà thơ Quang Dũng cũng khiêm nhường cúi đầu vái lại. Ông trưởng nam
liền đọc mấy câu thơ của nhà thơ, mà ông thuộc từ thưở mặc áo lính:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…
Giây phút ấy, mọi người và tôi đứng cạnh, cảm động vô chừng .
Bản tác giả gửi Phongdiep.net
VIỆT NAM NGÀY NAY * BẾN XE MIỀN ĐÔNG
Nạn "chặt chém" ở bến xe Miền Đông
Người ở quê lên phố, chân ướt chân ráo, thường mang tâm lý sợ những chỗ sang trọng, sợ những quán ăn sạch sẽ, thoáng mát vì nghĩ rằng vào những quán đó sẽ không đủ tiền để trả và họ tìm đến những quán tạm bợ, quán lụp xụp bên vỉa hè với niềm tin là ít tốn tiền hơn. Nhưng trên thực tế, các quán dã chiến, lụp xụp gần bến xe Miền Đông, Sài Gòn có thể là cái lò chém khách bất kỳ giờ nào, đó là chưa muốn nói đến nguy cơ đang rình rập họ, bị ma cô, móc túi, cướp giật và cuối cùng trắng tay về quê.
Chặt chém không thương tiếc
Ông Trân Văn Hà, người Mộ Đức,
Quảng Ngãi, đưa con vào Sài Gòn để chuẩn bị nhập học ở trường đại học
kinh tế Sài Gòn, ngậm ngùi kể với chúng tôi rằng ngày hôm đó, sau khi bị
chặt chém ở quán, chưa kịp hồi tỉnh thì phát hiện mình không còn thứ gì
trong túi, mười một triệu đồng mang theo để trang trải và nộp học phí
cho con đã không cánh mà bay, ông thiếu điều muốn tự tử, cũng may nhờ vợ
con an ủi nên đã nguôi ngoai đôi chút.
Đó là cái ngày kinh hoàng nhất của ông Hà, cha con ông ra khỏi bến xe
Miền Đông, đi lang thang tìm một quán ăn nhỏ để gọi hai dĩa cơm, trong
dĩa cơm có một đùi gà và mấy cọng dưa cải. Đùi gà bị hôi thiu nặng, ông
không thể ăn được, ông lấy một ít nước mắm trong lọ trên bàn chan vào
cơm để ăn qua bữa. Ăn xong, gọi tính tiền, chủ quán là một phụ nữ trạc
bốn mươi lăm tuổi, gương mặt dữ tợn, mi mắt xăm đen đậm, đến đưa cho ông
tờ giấy ghi số tiền, ông tá hỏa vì trên đó ghi 240 ngàn đồng. Hai dĩa
cơm nuốt không vào nhưng lại phải trả giá đắt bằng hai luống cải ông
chăm bón cả tháng trời.
Ông thắc mắc, hỏi có tính nhầm hay không thì bị một đám ma cô kéo đến
gây sự, chúng giằng co với ông chừng vài phút, sau đó bỏ đi. Ông móc ví
ra trả tiền thì phát hiện chiếc ví đã không còn đồng nào. Lúc này, ông
muốn ngất xỉu. Chủ quán nhìn ông một lúc rồi lên giọng đạo đức rằng thấy
ông tội nghiệp nên cho luôn dĩa cơm, khỏi cần trả tiền cũng được.
Ông bước ra đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, đi lang thang như người mất hồn,
một anh xe ôm đồng hương Quảng Ngãi thấy ông tội nghiệp, chở cha con
ông về nhà nghỉ ngơi. Sau đó người đồng hương này cho ông mượn tiền trở
về quê và hứa sẽ giúp con ông duy trì việc học trong giai đoạn đầu.
Người đồng hương này nói thêm là anh ta đã nhìn thấy đám ma cô móc ví
ông, lấy tiền rồi lại bỏ ví vào túi ông trong lúc gây sự, nhưng anh ta
không dám nói, vì nếu nói ra, anh sẽ mất đường làm ăn và vợ con anh sẽ
gặp nguy hiểm.
Tương tự trường hợp ông Hà, bà Nguyệt, người Tuy Phước, Bình Định,
cũng đưa con vào Sài Gòn nhập học, đến bến xe Miền Đông, vì nghĩ rằng
các quán nhỏ ven đường trong khu vực bến xe sẽ là nơi bán cho người lao
động nghèo nên bà và con gái vào ăn cơm. Bà gọi bốn món ăn và hai phần
cơm trắng, thức ăn không tài nào nuốt nổi vì ôi thiu. Đến khi tính tiền,
chủ quán đưa cho bà tờ giấy ghi tổng số tiền là 390 ngàn đồng. Bà tá
hỏa rút tiền ra trả gấp và bỏ đi. Cũng may cho bà Nguyệt không thắc mắc
gì, nếu không, có khi đã rơi vào tình trạng giống như ông Hà.
Xe ôm, ma cô và công an khu vực đồng lõa với nhau
Một tài xế xe taxi hãng Mai Linh, tên Hoạt, thường đậu xe ở bến xe
Miền Đông để đón khách, cảnh báo với chúng tôi rằng nạn chặt chém, cướp
giật và chạy xe ôm đểu ở bến xe Miền Đông đã đến mức báo động đỏ, cần
phải cẩn thận trước những ông tài xe ôm không có chân trong hợp tác xã
vận tải Miền Đông, hay nói khác đi là không thuộc đội xe ôm bến xe Miền
Đông, không mặc áo và đội mũ có gắn logo của bến xe Miền Đông.
Đã có nhiều người vào các quán cơm gần bến xe, bị chặt chém giá trên
trời, sau đó bị móc túi hoặc bị xe ôm lừa chở đến các hẻm vắng rồi trấn
lột. Thường thì những trường hợp này mất cả chì lẫn chài. Vì khi bị mất,
nạn nhân tìm đến báo công an khu vực, đến đây, công an hứa sẽ điều tra,
tìm cho ra đối tượng cướp giật, trấn lột và sẽ chấn chỉnh địa bàn. Công
an khu vực cũng làm các thủ tục biên bản như thường lệ. Chỉ có một điều
là mọi thủ tục này sẽ xếp vào tủ và bỏ cho mối xông, họ chẳng bao giờ
ra tay điều tra hay chấn chỉnh gì cả.
Người tài xế taxi này cho biết thêm là công an khu vực đã toa rập với
bọn ma cô, đầu gấu, bỏ lơ cho chúng mặc sức hoành hành, đến khi nào cần
thi đua, khen thưởng gì đó thì bắt vài đứa chiếu lệ để lấy thành tích,
đương nhiên việc bắt này chỉ dừng ở những đứa ma cô không có số má,
thuộc hạng tép riu trong làng ma cô, có bị nhốt vài ngày rồi cũng được
thả ra. Thường thì tất cả các quán ăn chặt chém khách và các ma cô đều
có chung chi cho công an khu vực mỗi tháng, thế nên chúng lộng hành,
không sợ ai cả vì đã được công an che chở, bảo kê.
Một tài xế taxi khác tên Hưng, thuộc hãng taxi Vinasun khuyên chúng
tôi chớ bao giờ bước vào những quán cơm trong khu vực bến xe Miền Đông,
vì phần lớn các quán cơm này bán thức ăn không đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm, chặt chém khách không thương tiếc và có thể gây sự, tranh thủ
lúc cãi nhau để móc ví, lấy sạch tiền của khách. Sở dĩ có hiện tượng
này vì công an khu vực ở đây đã cố tình làm ngơ cho nhóm bất lương này
hoạt động để chia phần, hưởng tỉ lệ.
Những hàng quán này đã hoạt động khá lâu, những nhóm bất lương đầu
trộm đuôi cướp cũng thế, nhưng chúng ít khi nào bị công an sờ gáy.
Thường thì có một công an nào mới chuyển công tác đến khu vực này, các
nhóm bất hảo tổ chức họp mặt, mời nhân viên công an này đến tham dự và
nhét phong bì vào tay, gọi là lần chào gặp mặt đầu tiên. Những nhân viên
từ chối quà của nhóm sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác, sẽ bị cấp
trên, đồng nghiệp cô lập vì họ không xem là người cùng hội cùng thuyền.
Chính vì thông lệ quái gở này mà hầu như 100% công an khu vực không sớm
thì muộn cũng biến thành nhà bảo kê cho các nhóm bất hảo.
Đóng vai khách đi đường, chúng tôi ghé vào một quán cơm nằm hơi chéo
phía đối diện cửa ra vào bến xe miền Đông, gọi ba dĩa cơm, đúng như lời
đồn, thức ăn ôi thiu ngửi không chịu được. Vờ có điện thoại gọi đi gấp,
yêu cầu tính tiền, chủ quán mang tờ giấy có ghi số tiền 360 ngàn đồng
lên đưa chúng tôi. Mất 360 ngàn đồng để xác minh nguồn tin, xem như giá
cũng không đắt lắm.
Bến xe Miền Đông là bến xe lớn nhất khu vực phía Nam, mỗi năm có hàng
triệu lượt khách đến và đi qua bến xe này. Phần đông những khách đi qua
bến xe là dân lao động nghèo, sự lớ ngớ, thiếu tự tin và luôn sợ những
hàng quán khang trang vì giá đắt của họ vô hình trung trở thành điểm yếu
để các nhóm bất hảo bày trò lừa gạt. Một khi đã dính vào các nhóm ma cô
này, chỉ có một nước chạy duy nhất: Về quê cày ruộng, chắt chiu từng
đồng để bù vào khoản đã mất và nỗi đau mất của.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 277
Thursday, October 27, 2016
HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI TÀU?- SẤM KÝ - ÂM NHẠC
PHẠM QUẾ DƯƠNG * HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI TÀU?
Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan
Phạm Quế Dương (Danlambao) - Gần đây, dư luận sôi động về việc Đài Loan xuất bản cuốn sách “Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh” (Hồ
Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành
ngày 01-11-2008. Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư đã từng dạy học hơn 30
năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, khoa lịch sử. Người
dịch ra tiếng Việt Nam là Thái Văn (không biết là người Việt Nam hay
Trung Quốc).
Sách chủ yếu nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng, 1931 cụ
sang Liên xô nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó,
Quốc tế Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động
với cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam.
Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh. Tác giả Hồ Tuấn Hùng là người Đài Loan và là cháu ruột của Hồ Tập Chương. Sách gồm 6 chương, dày 342 trang khổ 15x21 cm.
Nguyên văn lời tựa như sau:
“Thay lời tựa
Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che huyền bí
Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ Chí Minh”.
Các nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại, ít nhiều đều có những
bí mật riêng giống như tấm mạng che mặt. Những bí mật này rất ít khi
được công khai minh bạch, trong đó, Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Việt
Nam là một trường hợp điển hình. Cho dù hiện giờ đã là thiên niên kỷ
thứ hai, kỹ thuật truyền thông hiện đại có mặt khắp nơi, Hồ Chí Minh yên
nghỉ trong quan tài thủy tinh tại lăng Ba Đình Hà Nội đã bốn mươi năm,
nhưng hoàn cảnh gia đình, lịch trình học tập, khả năng ngôn ngữ, lý
tưởng động cơ cách mạng, thực trạng hôn nhân, quá trình hoạt động tại
Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và ngày mất cũng vẫn còn tồn tại
rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện ký tìm mọi cách lắp
ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng lại được và trình bày
một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí Minh. quá trình hoạt động tại
Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và ngày mất cũng vẫn còn tồn tại
rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện ký tìm mọi cách lắp
ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng lại được và trình bày
một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí Minh.
Hai người này là một?
Nhà sử học Việt Nam, giáo sư Nguyễn Thế Anh, tiến sĩ văn học và nhân văn
Đại học Sorbonne, Paris, Pháp, từng là giám đốc Đại học Thuận Hóa, chủ
nhiệm khoa Văn Sử Đại học Sài Gòn, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard
Hoa Kỳ, chủ nhiệm khoa Lịch sử văn hóa Đông Dương, Đại học Sorbonne, đã
dày công nghiên cứu về Hồ Chí Minh và có những kiến giải độc đáo. Trong
tác phẩm "Con đường chính trị của Hồ Chí Minh", Nguyễn giáo sư từng nói:
"Cho dù không thiếu những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, cho dù ông đã
mất từ lâu, nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều nghi vấn và mâu thuẫn trong
cuộc đời nhân vật chính trị này. Do ông có thói quen che giấu quá khứ
và những hoạt động của mình, cố ý xóa sạch các dấu vết, vì thế, mọi cố
gắng tìm hiểu những chi tiết chân thực trong cuộc đời hoạt động của ông
chẳng khác gì đứng trong đám mây mù vần vụ mà thưởng hoa vậy. Vì thế, ta
chỉ có thể suy đoán mà thôi. Hồ Chí Minh có đến 3 cái tên giả, tự mình
kể chuyện về mình đầy tràn sắc thái thần bí với nhiều sự hàm hồ, vô vàn
tình tiết nghi hoặc, chẳng những không thể phân tích rõ ràng, mà còn
bỗng nhiên tự tâng bốc mình với mục đích tuyên truyền cho sự nghiệp
chính trị hoặc là một thánh nhân. Tuy vậy, các nhà sử học đã trường kỳ
nghiên cứu, nỗ lực bóc gỡ dần lớp màn che phủ vốn làm chân dung Hồ Chí
Minh bị biến dạng hoặc bị tô vẽ thái quá qua các tác phẩm truyện ký, chỉ
có điều là vẫn chưa tìm ra điểm mấu chốt."
Nhà sử học Hoa Kỳ, giáo sư William J. Duiker, là một học giả trác việt
chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, William
J. Duiker làm việc ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, trước sau có gần ba mươi năm
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đã được một số Quỹ và Hội học thuật Hoa Kỳ
tài trợ. William J. Duiker cũng thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nga và
Việt, đã vào đọc hầu hết các thư viện lớn nhỏ châu Á, châu Âu và châu
Mỹ, trong đó có nhiều lần cùng đi với các quan chức chính quyền Việt Nam
sưu tầm tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, và đã tìm được những tài
liệu quý hiếm.
Vào năm 2000, William J. Duiker hoàn thành tác phẩm "Truyện Hồ Chí Minh",
xuất bản bằng tiếng Anh, dày 700 trang, tuy nhiên chính ông cũng phải
thừa nhận, không thể nào tìm được những tài liệu ở cơ quan đầu não, bởi
luôn có sự ngăn cản việc tìm ra sự thật. William J. Duiker nói:
"Những tài liệu nằm ở Trung tâm Lưu trữ Hà Nội đều không cho người
Việt Nam và người nước ngoài thâm nhập tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng như
vậy, ta không thể tìm những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh ở Bắc
Kinh và Mạc Tư Khoa. Nhà cầm quyền Trung Quốc và Liên Xô hầu như ít khi
để lộ những thông tin thuộc loại này."
Học giả Anh Quốc Sophie Quinn- Judge cũng là một chuyên gia nghiên cứu
về Hồ Chí Minh, từng được Quỹ Mike và Viện nghiên cứu Trung ương Đại học
London tài trợ. Bà đã đến Việt Nam, các nước Đông Nam Á và Nga Xô, tìm
được những chứng cứ mới nhất trong hồ sơ của Quốc tế cộng sản và tình
báo Pháp làm cơ sở cho công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Năm 2002,
Sophie Quinn - Judge đã xuất bản tại London cuốn sách "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941".
Trong lời đầu, tác giả nói rõ, lấy "truyền kỳ về con người hai mặt" làm
tiêu đề, bởi vì, đối với Hồ Chí Minh còn rất nhiều điều nghi vấn, đặc
biệt tiêu đề chương sáu, dùng sự kiện "Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc
Tư Khoa", coi đó là câu đố về chuyện sinh tử của Hồ Chí Minh, đồng thời
đặt dấu hỏi nghi ngờ.
Vì ông Hồ Chí Minh cố tình che giấy tung tích của mình đã đưa
đến nghi vấn ông có phải Hồ Tập Chương người Đài Loan hay không.
Trong phần giới thiệu tóm tắt ở trang 6, Sophie Quinn-Judge viết:
"Hồ Chí Minh tìm mọi cách để giấu đi quá khứ của mình. Nhiều năm qua,
những thứ mà ông đã cung cấp toàn là loại "dật sự", thường là mâu thuẫn
nhau, không mấy liên quan đến cuộc đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện
xuất bản vào năm 1949 tại Trung Quốc, năm 1950, được xuất bản bằng tiếng
Pháp tại Paris, mấy năm sau lại xuất bản tại Việt Nam với nhan đề
"Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch".
Qua cuốn sách, người đọc biết rất rõ là, tất cả cái gọi là sự thật ấy đều do Hồ Chí Minh bịa đặt. (Tác giả nhận xét, "Truyện Hồ Chí Minh", bút danh Trần Dân Tiên, bản Trung văn, "Ba Nguyên thư ốc" Thượng Hải xuất bản năm 1949. Năm 1958, cuốn sách đổi tên là "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội).
Năm 1962, nhà Việt Nam học Bernard Fall phỏng vấn Hồ Chí Minh, có hỏi
đến những chi tiết mập mờ trong cuộc đời của ông, Hồ Chí Minh trả lời: "Các
ông già khi vui vẻ thường tự tạo ra cho mình một chút thần bí. Tôi cũng
bắt chước người xưa làm ra vẻ thần bí một chút, chắc ngài có thể hiểu
được". Việc này chẳng biết Bernard Fall có hiểu được hay không, nhưng William J. Duiker trong cuốn sách nổi tiếng "Truyện Hồ Chí Minh" đã viết: "Không
khí thần bí bao bọc xung quanh Hồ Chí Minh luôn luôn được duy trì, chí
ít ra là trong các tác phẩm tự truyện như thế này".
Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài Loan?
Vì sao cho đến lúc qua đời Hồ Chí Minh vẫn không tự nói ra những bí mật
của mình? Chấp nhận nằm trong quan tài thủy tinh để lại cho người đời
biết bao câu hỏi nghi ngờ? Vì sao các tư liệu có liên quan đến Hồ Chí
Minh trong hồ sơ lưu trữ tại các nước Pháp, Anh Quốc (bao gồm cả Hương
Cảng), Mỹ... đến nay từng bước đã được giải mật, vậy mà nhà nước Việt
Nam, Trung Quốc và Nga vẫn xếp vào loại tuyệt mật, cất giữ trong hòm
kín? Các chuyên gia, học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh nhận thấy rất rõ,
trong hồ sơ giản lược về cuộc đời ông, trước sau đều phát sinh mâu
thuẫn, nhưng không biết làm cách nào tìm được cách giải thích hợp lý.
Hàng loạt những sự kiện nghi vấn trên dường như tạo hứng thú cho người
ta bỏ nhiều thời gian, công sức tìm tòi tư liệu để viết về thân thế Hồ
Chí Minh. Việc này cũng giải thích vì sao, giới lãnh đạo cao cấp Việt
cộng, Trung cộng và Quốc tế cộng sản, phàm là các sử liệu có liên quan
đến Hồ Chí Minh, đều nhất loạt được che giấu, tô vẽ hoặc ngụy tạo.
Nhiều năm trước, một người bạn thương gia Đài Loan đã nói với tôi: "Hồ Chí Minh là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La, ông có biết không?".
Tin đồn về Hồ Chí Minh thuộc Hồ tộc ở Miêu Lật, Đồng La đã hai lần tôi
trực tiếp nghe được. Thông tin này làm tôi vừa nghi ngờ vừa phấn khởi.
Đây phải chăng là dự báo về thân phận Hồ Chí Minh sắp được giải mật? Có
một người họ Hồ, nhân viên Đảng vụ Quốc dân đảng, thuộc dân tộc Khách
Gia Quảng Đông, sinh vào năm Dân Quốc thứ năm mươi, trong dịp về tế tổ
họ Hồ ở Miêu Lật có hỏi thân phụ tôi: "Hồ Chí Minh với ông là như thế nào mà có tin đồn ông ta cũng là người Miêu Lật?"
Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đã theo quân đội Quốc dân đảng đến Hà Nội có nghe một người Hoa làm nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: "Năm Dân Quốc thứ sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm tung tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến thân phận ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể". Thời gian gần đây tôi đã hai lần được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở Việt Nam nói rõ, Hồ Chí Minh là người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi không một lãnh đạo chóp bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật.
Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đã theo quân đội Quốc dân đảng đến Hà Nội có nghe một người Hoa làm nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: "Năm Dân Quốc thứ sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm tung tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến thân phận ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể". Thời gian gần đây tôi đã hai lần được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở Việt Nam nói rõ, Hồ Chí Minh là người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi không một lãnh đạo chóp bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật.
Từ Việt Nam, tin đồn Hồ Chí Minh là người thuộc họ Hồ sinh quán ở Miêu
Lật, Đồng La truyền về Đài Loan, khiến tâm trạng tôi vốn dĩ trầm lặng
bỗng nhiên như cháy bùng lên. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam là
người Đài Loan! Như vậy, lời khẩu truyền được lưu trong ký ức gia tộc họ
Hồ ở Miêu lật, Đồng La thực ra chẳng phải là bí mật của Ông Trời, vấn
đề là, chưa tìm được chứng cứ đủ sức thuyết phục mà thôi. Trước đây ít
năm, gia tộc có phát hành nội bộ cuốn sách "Giải nghĩa 'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh".
Qua sơ bộ nghiên cứu tư liệu thì Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại thể là, không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không tìm được chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách báo, tranh ảnh lưu hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh chưa từng thấy. Các sử liệu liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài Loan từng bước được lịch sử xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. Vì thế, để tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan hay không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau:
Qua sơ bộ nghiên cứu tư liệu thì Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại thể là, không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không tìm được chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách báo, tranh ảnh lưu hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh chưa từng thấy. Các sử liệu liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài Loan từng bước được lịch sử xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. Vì thế, để tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan hay không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau:
1 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1890 - 1932) là Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam.
2 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương của Đài Loan.
Nói cách khác, truyền kỳ về Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh, nửa đời
trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, nửa đời sau là nhân
sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Hai người cùng có quá
trình sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng đạt được những thành tựu
trong cuộc đời hoạt động.
Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là đại
biểu Quốc tế cộng sản. Do đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroix, bí thư
Công hội Thái Bình Dương, Quốc tế cộng sản bị bắt tại Singapore, sau
khi truy vấn, cảnh sát đã bắt được hai phái viên của Cục Viễn Đông Quốc
tế cộng sản là Hilaire Noulens ở Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc ở Hương
Cảng. Không may, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc trên đường trốn
chạy từ Hương Cảng đến Thượng Hải bị mắc bệnh lao phổi qua đời.
Mùa hè năm 1929, Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến Thượng Hải, được Cục Viễn
Đông phái đến làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương". Cũng
bởi có liên quan đến vụ án Hilaire Noulens, ông phải trốn đến Quảng Châu
rồi lại chạy sang Quảng Tây, Xiêm La, cuối cùng về Hạ Môn. Đầu năm
1933, Hồ Tập Chương từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Lúc này,
chủ quản bộ phận Việt Nam Quốc tế cộng sản là Vera Vasilieva đặt kế
hoạch cho Hồ Tập Chương 5 năm học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái
Quốc, nhằm phủ định sự thật Nguyễn Ái Quốc đã chết, thay thế ông này,
bước lên vũ đài lịch sử, diễn vở kịch truyền kỳ Hồ Chí Minh "thật giả
kiếp người".
Ông này là ai? Hồ Chí Minh hay Hồ Tập Chương người Đài Loan?
Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ Chí Minh vừa sửng sờ vừa nghi vấn. Các chứng cứ của luận điểm này? Độ tin cậy của thông tin như thế nào? Nguồn gốc của tư liệu ở đâu? Mối quan hệ nhân quả về thời gian, không gian và tính logic của vấn đề?
Về trình tự làm cuốn sách, trước hết là trình bày việc lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chết bởi bệnh lao phổi vào mùa
thu năm 1932. Phần tiếp theo sẽ chỉ ra, Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc
không phải là một người, cuối cùng nói đến nửa phần đời sau của Hồ Chí
Minh chính là Hồ Tập Chương đến Từ Đài Loan. Nội dung cuốn sách này hoàn
toàn đảm bảo tính khách quan và tính hợp lý với mục đích chỉ để làm rõ
một tiên đề giả thiết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một
người.
Trong quá trình khảo cứu, tôi đã tìm hiểu, so sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự thực vốn có cho lịch sử, đồng thời để tìm ra lời giải câu đố "Sự bí ẩn trong chuyện sinh tử của Nguyễn Ái Quốc". Từ sự bí ẩn về thân phận Hồ Chí Minh, tôi đề xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề của 5 thiên trong "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh" như sau:
Trong quá trình khảo cứu, tôi đã tìm hiểu, so sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự thực vốn có cho lịch sử, đồng thời để tìm ra lời giải câu đố "Sự bí ẩn trong chuyện sinh tử của Nguyễn Ái Quốc". Từ sự bí ẩn về thân phận Hồ Chí Minh, tôi đề xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề của 5 thiên trong "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh" như sau:
1 - "Hài kịch tráo rồng đổi phượng" (Nguyễn Ái Quốc chết mà sống lại).
2 - "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người" (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng lên vũ đài lịch sử).
3 - "Cuộc sống lưu vong phiêu bạt" (Hồ Chí Minh ở Liên Xô và Trung Quốc).
4 - "Khúc bi ca về tình yêu và hôn nhân" (Sự thật về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
5 - "Nhật ký trong tù và Di chúc" (Làm rõ khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
Từ cách nhìn lịch sử ở những góc độ khác nhau, lật lại sự kiện Nguyễn Ái
Quốc chết bệnh vào năm 1932, và Hồ Chí Minh của năm 1933 là Hồ Tập
Chương đến từ Đài Loan tiếp tục tiếp tục đăng đài thực hiện nhiệm vụ
Quốc tế cộng sản giao phó, rất mong được các chuyên gia học giả cùng bạn
đọc chỉ giáo.
Thời đại internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất rộng
rãi. Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng trực
tiếp tham gia kháng chiến, là bộ đội, là cán bộ tuyên huấn... Một số
người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, “đổi trắng, thay đen”. Một số
người thì bảo chuyện này cũng đã được nghe từ lâu. Và tin lời tác giả.
Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị
Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị
Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám gặp, chỉ cử 2 cán bộ cao
cấp tiếp.
Bản thân tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đã 45 năm là
“Lính Bác Hồ”, “Bộ đội Bác Hồ.” Khi làm Tổng biên tập báo Phòng
Không-Không Quân, ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm
Quân chủng và trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm
quê Chủ Tịch và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài Gòn đến Cảng
Nhà Rồng thăm nơi “Bác Hồ đi tìm đường cứu nước.” Nhiều lần vào lăng
viếng Bác.
Kính mong nhà cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học lịch
sử làm rõ sự thật vụ việc này. Nếu tác giả bịa đặt thì đưa ra tòa án
quốc tế xét xử, làm rõ sự thật.
Ngày 25/8/2013
Đ/C: 37 – Lý Nam Đế - Hà Nội
ĐT: 627 00002
Nguồn: Tập san TỔ QUỐC số 164
VÔ CHIÊU * NÚI LANGBIANG SẠT LỞ
Núi Lang Biang sạt lở, điềm suy tàn của chế độ
Lời
thầy dạy - Vạn
vật vô thường, đổi thay là quy luật của tạo hóa. Luật này không miễn trừ cho bất
cứ ai hoặc định chế nào. Quy luật huyền biến của vũ trụ, sự vật thịnh rồi lại
suy, suy rồi lại thịnh, nên mới tiến bộ theo thời, cái mới ra đời thay thế cái
cũ lạc hậu phải ra đi. Nhưng trước khi sự việc thay đổi xảy ra đều có hiện tượng
báo trước mà nhiều khi con người không để ý. Hiện tượng đó được gọi là “Điềm”.
"Điềm"
là hiện tượng bất thường dẫn đến một suy nghiệm tiên tri, hoặc chứng nghiệm về
một sự kiện sẽ xảy đối với cuộc sống con người được xác định đúng trong tương
lai.
Có hai yếu tố xác quyết liên quan đến khái niệm "Điềm" như sau:
Có hai yếu tố xác quyết liên quan đến khái niệm "Điềm" như sau:
1- Phải có yếu tố dự đoán về một sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai và được
chứng nghiệm đúng.
Thí dụ như, vài tuần trước khi xảy ra trận động đất và sóng thần năm 2011, các ngư dân tại các vùng phía Đông Bắc nước Nhật phát hiện nhiều con cá Oarfish dính trong lưới. Họ cho là “Điềm gở” và dự đoán nước Nhật sẽ gặp chuyện chẳng lành.
Đúng
như dự đoán, ngày 11/03/2011, một trận động đất có tâm chấn cách thủ đô Tokyo
382 km về phía Đông Bắc đã xảy ra. Với cường độ 9 độ Richter, trận động đất dữ
dội nhất trong lịch sử nước Nhật, gây ra nhiều cơn sóng thần khủng khiếp tàn
phá miền Đông Bắc nước Nhật, làm cho 19.000 người thiệt
mạng, các ngôi làng gần biền bị tàn phá hoàn toàn.
Sau
khi nghiên cứu dự đoán của các ngư dân, cơ quan truyền thông Iore của Nhật loan
báo, Oarfish là loại cá hiếm, mình dẹp và có chiều dài như rắn, chỉ sống ở độ sâu
vài trăm thước dưới mặt nước, tập trung trong các đường nứt của vòng đai lửa,
loại cá này đã bị đẩy lên mặt nước bởi các chấn động thông thường trước khi trận
động đất lớn xảy ra.
2- Có
thể hiện tượng bất thường xảy ra không có dự đoán, nhưng sau khi sự kiện đã xảy
ra thì có sự liên hệ đến hiện tượng bất thường trước đó.
Thí
dụ như, sau trận động đất 7 độ Richter ở Tứ Xuyên vào ngày 12/5/2008, dân cư trong vùng mới nhớ đến một hiện tượng bất thường xảy ra
trước đó, là ếch nhái rời bỏ chỗ ở di cư hàng loạt ra khỏi Tứ Xuyên. Hiện tượng
bất thường này được coi là “Điềm”.
Như vậy, “Điềm” là dấu hiệu báo trước sự kiện bất thường sắp xảy ra. Nó được phân ra hai loại:
Như vậy, “Điềm” là dấu hiệu báo trước sự kiện bất thường sắp xảy ra. Nó được phân ra hai loại:
- Điềm lành báo trước sẽ gặp sự việc tốt đẹp. Chẳng hạn như cây thiên tuế trước nhà trổ hoa hay trong sân vườn có cây hoa đẹp nở nghịch mùa thì chủ nhà sắp được tài lộc.
- Điềm gở báo trước sự việc chẳng lành
sắp đến. Như mưa sao băng, núi bị sạt lở, bầu trời không có mây đen (chuyển
mưa) mà có sấm động (sấm sét), cột cờ gẫy trước khi ra chiến trận, mực nước tại
bãi biển tự nhiên bị rút ra xa…
Trong
cuốn “Những ngày cuối cùng của Mao Trạch Đông”, viết theo lời kể của Tiểu
Mạch (người chăm sóc sức khỏe cho Mao suốt 20 năm), thuật lại câu chuyện xảy ra
vào những ngày cuối đời Mao như sau:
“Chiều thứ Tư ngày 10/3/1976, cô thư ký đọc báo cho Mao nghe, vào ngày thứ Hai 8-3-1976 có một thiên thạch rơi với tốc độ lớn vào khí quyển địa cầu, cháy sáng như một quả cầu lửa khổng lồ rồi phát nổ trên vùng trời ngoại ô Cát Lâm. Thiên thạch nổ bắn ra khắp nơi, tạo thành trận mưa thiên thạch. Trong đó có 3 tảng lớn rơi xuống tạo thành hố sâu. Tảng lớn nhất nặng gần 1.8 tấn.
Mao nghe xong, nhờ người đỡ ngồi dậy ra đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, rồi trầm ngâm nói: "Trung Hoa có một thuyết gọi là Thiên Nhân Cảm Ứng, ngụ ý nói nếu nhân gian sắp xảy ra một biến cố lớn thì thiên nhiên sẽ có những điềm báo trước. Trời long, đất lở, đá lớn từ trên không rơi xuống là điềm gở. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trước khi Gia Cát Lượng, Triệu Vân, Quan Công qua đời đều xảy ra các hiện tượng bất thường như sao rụng, đá rơi".
“Chiều thứ Tư ngày 10/3/1976, cô thư ký đọc báo cho Mao nghe, vào ngày thứ Hai 8-3-1976 có một thiên thạch rơi với tốc độ lớn vào khí quyển địa cầu, cháy sáng như một quả cầu lửa khổng lồ rồi phát nổ trên vùng trời ngoại ô Cát Lâm. Thiên thạch nổ bắn ra khắp nơi, tạo thành trận mưa thiên thạch. Trong đó có 3 tảng lớn rơi xuống tạo thành hố sâu. Tảng lớn nhất nặng gần 1.8 tấn.
Mao nghe xong, nhờ người đỡ ngồi dậy ra đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, rồi trầm ngâm nói: "Trung Hoa có một thuyết gọi là Thiên Nhân Cảm Ứng, ngụ ý nói nếu nhân gian sắp xảy ra một biến cố lớn thì thiên nhiên sẽ có những điềm báo trước. Trời long, đất lở, đá lớn từ trên không rơi xuống là điềm gở. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trước khi Gia Cát Lượng, Triệu Vân, Quan Công qua đời đều xảy ra các hiện tượng bất thường như sao rụng, đá rơi".
Sau hơn 4 tháng, vào ngày 28/7/1976, trận động đất kinh hoàng xảy ra tại Đường Sơn (Hà Bắc) làm thiệt mạng hơn 240 ngàn người và 160 ngàn người bị thương. Không biết chuyện thiên thạch rơi và cơn động đất có tác động gì đến sức khỏe của Mao không, nhưng đến ngày 9/9/1976 thì Mao qua đời. Dư luận cho rằng, 3 tảng thiên thạch lớn rơi xuống đất là điềm báo hiệu đảng CS Trung Quốc mất 3 nhân vật cao cấp trong năm 1976, đó là Tổng tư lệnh quân đội Chu Đức, Thủ tướng Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông”.
Năm 1976 là năm có 3 tháng dương lịch 1, 2, 3, ngày dương lịch đều trùng với ngày âm lịch. Từ ngày 1-1-1976 (mùng 1 tháng Chạp năm Ất Mão) đến ngày 30-3-1976 (30 tháng Hai năm Bính Thìn).
Và đầu
năm 1997, sau cơn sao bang, một tảng thiên thạch lớn rơi xuống tỉnh Sơn Đông, 4
ngày sau, Đặng Tiểu Bình chết lúc 9 giờ tối thứ Tư ngày 19-2-1997. Đặng Tiểu
Bình là người gây ra cuộc chiến tranh Trung-Việt vào năm 1979, đã đẩy 300 ngàn
quân tấn công Việt Nam để cũng cố quyền lực cá nhân. Đặng cũng chính là người
đã nói câu “Việt Nam là bọn côn đồ, phải dạy cho bọn chúng một bài học” trong
chuyến viếng thăm mấy nước Á châu vào tháng 12 năm 1978.
Còn Sấm
ký là những dự báo hợp lý, được đưa ra trước để tiên tri những điều sẽ xảy
ra trong tương lai, nhưng rất khó bàn. Như Sấm Trạng Trình là cuốn sách ghi lại
những lời tiên tri của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của nước Việt
Nam trong khoảng hơn 500 năm (từ năm 1509 đến năm 2019).
Chẳng
hạn như câu Sấm “Bao giờ trúc mọc qua sông, Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây”
nói về thời Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị đem quân xâm chiếm nước Nam. Khi đến thành
Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho quân bắc một cây cầu nổi bằng tre ngang
sông Hồng. Sau khi dẹp được giặc Thanh ở trận Ðống Ða vào năm Kỷ Dậu (1789), đức Nguyễn Huệ lên ngôi xưng là Quang Trung Hoàng Ðế (từ trúc
để chỉ tre và non Tây là nhà Tây Sơn).
Sấm
giảng là quyển
sách ghi lại những lời dạy dỗ về đạo pháp của một bậc thầy, khuyên người đời
làm lành lánh dữ và trong đó có nhiều lời tiên tri về một số các biến cố chính
trị của đất nước sắp xảy ra. Như quyển “Khuyên người đời Tu niệm” của đức
Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ đạo Hòa Hảo viết vào năm 1939 (Kỷ Mão).
Và Cơ
bút là nghi lễ cầu cơ và chấp bút, là nền tảng của đạo Cao Đài. Cơ bút được cho là đã khai
sinh ra và là phương tiện truyền giảng đạo pháp của tôn giáo này. Cầu cơ và chấp
bút là những phương pháp thông linh, đạo Cao Đài gọi là những phương pháp Thông Công.
Con
hãy phân biệt và ghi nhớ.
*
Lang
Biang
Lang
Biang là hai ngọn núi nằm cách thành phố Đà Lạt khoảng 12 km, thuộc địa
phận huyện Lạc Dương tỉnh Lâm Đồng. Đỉnh Lang Biang nằm ở độ cao 2167 m so với mặt biển.
Ngày
xưa người Thượng (dân tộc thiểu số) sống trong vùng này gọi một ngọn núi là
Klăng (núi Ông) và ngọn núi kia là Biêng (núi Bà), ghép chung thành Klăng
Biêng. Về sau người Pháp phiên âm là Lang Biang, sau đó người Kinh đổi thành
Lâm Viên, gọi vùng cao nguyên này là cao nguyên Lâm Viên.
Lang
Biang được ví như “nóc nhà” của Đà Lạt và được xem như một biểu tượng của thành
phố này. Trên núi có thể nhìn thấy Suối Vàng và Suối Bạc và toàn cảnh Đà Lạt với mây trắng và sương mù.
Do nằm
ở độ cao, Lang Biang được xem là một trong những ngọn núi cao nhất vùng, hiện
nay được xem là khu du lịch, nơi tìm hiểu nét văn hóa dân tộc thiểu số và còn
là điểm thu hút du khách thích mạo hiểm chinh phục đỉnh cao.
Đà
Lạt
Thành
phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lang Biang, phía bắc tỉnh Lâm Đồng. Bắc giáp với
huyện Lạc Dương. Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương. Tây và Tây Nam giáp
với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Hàng trăm năm trước, Đà Lạt là địa phận cư
trú của người Lạch và người Cil. Thành phố Đà Lạt có diện tích hơn 400 km², bao
bọc bởi các ngọn núi cao và nhiều dãy núi liên tiếp:
- Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yô Đa Myut (1816 m).
- Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1408 m).
- Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2278 m), dốc xuống cao nguyên Dran.
- Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1629 m).
- Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
Đà Lạt có nhiều nhiều dinh thự và biệt thự đẹp xây cất theo kiểu kiến trúc của người Pháp. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Bảo Tàng Viện và nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương.
- Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yô Đa Myut (1816 m).
- Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1408 m).
- Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2278 m), dốc xuống cao nguyên Dran.
- Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1629 m).
- Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
Đà Lạt có nhiều nhiều dinh thự và biệt thự đẹp xây cất theo kiểu kiến trúc của người Pháp. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Bảo Tàng Viện và nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương.
Bác sĩ Alexandre Yersin
Trước
năm 1893, cao nguyên Lang Biang là nơi cư trú của các sắc tộc người Thượng. Người
Kinh đầu tiên muốn khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng
do nhiều khó khăn, nên mãi đến cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định.
- Năm 1880 và 1881, bác sĩ Hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những
chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng cao nguyên này. Họ được xem là người đầu
tiên đặt chân đến Lang Biang, mở đường cho nhiều chuyến đi về sau của A.
Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), Humann (1884).
- Ngày 3/8/1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này thất bại.
- Ngày 3/8/1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này thất bại.
Năm
sau, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên
Đắc Lắc đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mekong (địa phận Miên).
- Tháng
1/1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, 3 lần
đi khảo sát bằng đường bộ từ Sài Gòn xuyên vào vùng người Thượng. Nhiệm vụ của
Yersin là tìm hiểu tài nguyên về lâm sản, khoáng sản... Và chiều ngày
21/6/1893, Yersin đã phát hiện ra Lang Biang, nên Yersin được xem là người đầu
tiên tìm ra vùng đất này.
- Ngày
1/1/1899, Doumer ký nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng ở Trung Kỳ, với 2
cơ quan hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và cao nguyên Lang Biang.
- Ngày
20/4/1916, vua Duy Tân ra đạo dụ thành lập khu thị tứ cho tỉnh Lâm Viên.
Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt nhanh chóng phát triển.
- Ngày
30/10/1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11/10 của
vua Khải Định về việc thành lập thành phố Đà Lạt cùng với tỉnh Đồng Nai Thượng
nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương.
- Năm
1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Viên tân lập. Thị trưởng Đà Lạt
kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
- Ngày
10/11/1950, vua Bảo Đại ký dụ số 4 QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà Lạt.
Theo
Địa phương chí Đà Lạt (Monographie de Dalat) năm 1953, thị xã Đà Lạt là thủ phủ
của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km² với dân số 25.041 người.
Sau
Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ miền
Bắc, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.
- Năm
1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Tuyên Đức. Nhiều trường học, huấn luyện
và viện nghiên cứu được thành lập như: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị
Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), Trường Đại học Chiến tranh
Chính trị (1966), Trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)...
- Sau
năm 1975, dân số gia tăng bởi số lượng cán bộ và dân miền Bắc nhập cư lên khoảng
86 ngàn người. Và vào những năm đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà
hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào dịch vụ du lịch... Đà Lạt trở
thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam.
- Tháng
2/1976, tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt xác nhập lại thành tỉnh
Lâm Đồng.
Những vụ sạt lở núi
Sạt lở núi Cấm
Ngày 5/5/12, đoạn gần Vồ Đầu
trên tuyến giao thông nối từ chân núi với đỉnh núi Cấm, xã An Hảo (huyện Tịnh
Biên) đã xảy ra vụ sạt lở vách núi kinh hoàng. Tảng đá lớn nặng khoảng 10 tấn đã lăn từ độ cao khoảng
300m xuống, đè bẹp chiếc xe 7 chỗ ngồi, làm thiệt mạng 6 người. Đây
là tai nạn thảm khốc lần đầu tiên xảy ra tại vùng Núi Cấm.
Sạt lở núi tại Nghệ An
- Ngày 11/7/2013, huyện
Tương Dương, tỉnh Nghệ An xảy ra vụ sạt lở núi khiến 5 người thương vong.
- Ngày 29/8/2013, đoạn
đường qua xã Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An có hàng chục nơi sạt lở
nghiêm trọng, khiến đất đá từ trên núi đổ xuống quốc lộ 7A, làm cho giao thông
bị tắc nghẻn.
Sạt lở núi tại Điện Biên
Ngày
23/8/2013, quốc lộ 279, đoạn đường từ huyện Tuần Giáo đi thành phố Điện
Biên Phủ bị tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng do sạt lở núi. Khu vực sạt lở được
xác định tại đoạn qua xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên. Cả một vạt núi 50 m, dài 150
m đã sạt xuống lấp ngang quốc lộ 279. Khối lượng đất đá ước khoảng 60 ngàn m3. Đây là vụ sạt lở được ghi
nhận là nghiêm trọng nhất trên địa phận tỉnh Điện Biên từ xưa đến nay.
Sạt lở núi tại Yên Bái
Ngày 25/8/13 hàng trăm tấn đất đá sạt lở trên quốc lộ 32, thuộc địa phận giáp ranh giữa huyện Than Uyên và huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, gây tắc nghẽn giao thông.
Sạt lở núi Lang Biang
Ngày 25/8/2013, núi Lang Biang có độ cao 2167m bị sạt lở tạo thành
một vệt dài rộng từ đỉnh xuống chân núi.
Anh Bon Đing Đim, sống dưới chân núi cho biết trong đêm
25/8/13, âm thanh ầm ầm như sấm trời kéo dài 20 phút. Sáng ra, anh thấy ngọn
núi Lang Biang như bị xẻ đôi.
Vị trí sạt lở xuất phát từ gần đỉnh núi, một lượng đá khổng lồ tuột
xuống núi khoảng 500 thước, làm cho nhiều cây cổ thụ bị cuốn ngã theo tạo thành
một vết đỏ dài giống như núi bị nứt đôi.
Theo cư dân địa phương, vào năm 1970, núi Lang Biang bị sạt lở
một lần. Sau 43 năm, núi Lang Biang lại bị sạt lở thêm một lần nữa và lần này
nghiêm trọng hơn lần trước.
Theo nhạc sĩ Krajan Plin, một vị cao niên trong làng sống lâu năm
dưới chân núi cho biết, tất cả dân chúng sống ở vùng Nam Tây Nguyên đều coi ngọn
Lang Biang là núi thần. Ông nhận định: "Sạt lở núi Lang Biang lần này sụp
lở là hoàn toàn do thiên nhiên, bởi độ cao rất hiểm trở, chỗ sạt lở thì không
ai có thể phá hoại bằng dụng cụ lao động hay máy móc".
Theo truyền thuyết, ngọn núi này là công trình tạo dựng cuối cùng
của thần linh và được ví như một cái rốn trời. Núi Lang Biang được xem là nơi
linh thiêng như núi Cấm (Thất sơn) vì có nhiều truyền thuyết. Các tộc người Lạch,
Cil cư trú dưới chân núi đều cho rằng núi Lang Biang có một sức mạnh mà không
có biến cố nào có thể làm thay đổi được. Trong cuộc sống hằng ngày, để nói đến
những điều không tưởng, dân làng có câu nói: "Nếu làm được như thế, thì
núi LangBiang cũng phải sụp lở". Vì vậy, khi thấy ngọn núi bị lở, nhiều
người Lạch và Cil bàn tán cho rằng, núi Lang Biang sụp lở là do thần linh đang
tỏ thái độ không vừa lòng với chế độ và hiện tượng này báo hiệu một điều gì bất
thường sắp xảy ra.
Sấm
và điềm tiên đoán
a. Những câu Sấm và “Điềm” đã được công nhận là đúng.
* Sấm
dự đoán chủ nghĩa CS tan rã
“Bao
giờ đá nổi, lông chìm.
“Hồ khô, đồng cạn, búa liềm ra tro”.
Người dân cho là sấm này của cụ Trạng Trình, đoán về sự lien hệ tồn vong giữa chủ nghĩa CS và bốn nhân vật cao cấp Việt-Tàu: Tưởng, Mao, Hồ, Đồng. Tưởng Giới Thạch mất ngày 5 tháng 4 năm 1975, được chôn trên núi ở Đài Bắc (đá nổi). Mao chết ngày 9 /9/1976 (lông chìm). Hồ Chí Minh chết ngày 2/9/1969, xác bị ướp lộng kiếng (hồ khô). Phạm Văn Đồng chết ngày 29/4/2000 (đồng cạn). Lời sấm ký hiệu nghiệm, chủ nghĩa CS tan rã khắp nơi, còn lại 4 nước cố bám con đường “xã hội chủ nghĩa” là Tàu, Việt, Bắc Hàn và Cuba. Riêng Cuba chỉ là thứ CS nửa vời!
Người dân cho là sấm này của cụ Trạng Trình, đoán về sự lien hệ tồn vong giữa chủ nghĩa CS và bốn nhân vật cao cấp Việt-Tàu: Tưởng, Mao, Hồ, Đồng. Tưởng Giới Thạch mất ngày 5 tháng 4 năm 1975, được chôn trên núi ở Đài Bắc (đá nổi). Mao chết ngày 9 /9/1976 (lông chìm). Hồ Chí Minh chết ngày 2/9/1969, xác bị ướp lộng kiếng (hồ khô). Phạm Văn Đồng chết ngày 29/4/2000 (đồng cạn). Lời sấm ký hiệu nghiệm, chủ nghĩa CS tan rã khắp nơi, còn lại 4 nước cố bám con đường “xã hội chủ nghĩa” là Tàu, Việt, Bắc Hàn và Cuba. Riêng Cuba chỉ là thứ CS nửa vời!
* Điềm suy tàn của nền “Đệ nhị Cộng Hòa”
Ở vùng quê Ninh Hải, tỉnh Phan Rang, có ngọn núi
Đá Chồng. Trên núi có ba tảng đá lớn chồng lên nhau có hình thù rất dữ tợn, dân
địa phương gọi là núi Mặt Quỷ. Cách núi Mặt Quỷ khoảng 1 cây số, ở chóp Bắc, có
một tảng đá lớn hình tam giác nhọn, chiều ngang cỡ 6 m, cao 3m nhìn giống như
con dao, nên được gọi là hòn Đá Dao. Dân chúng xứ này có câu nói “Mặt Quỷ kỵ
Đá Dao” với ngụ ý, Đá Dao còn thì quỷ không thể xuất hiện.
Vào buổi chiều năm 1974, từ lưng chừng núi, ngọn
Đá Dao bị sạt lở, lăn xuống chân núi... Và đến mùa xuân năm 1975, toàn vùng Văn
Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra một hiện tượng lạ chưa từng
thấy. Hàng đàn sâu bọ, nhất là sâu róm màu vàng xuất hiện dầy đặc, tràn qua đường
lộ và cầu Lăng Ông, tàn phá các loại hoa màu, ruộng lúa. Sâu bò đầy đường, đầy
đất, nên nhiều gia đình phải di tản...
Dân miền Trung cho rằng, hiện tượng ngọn Đá Dao
bị sạt lở và sâu vàng tràn ngập là “Điềm gở”, sau đó không lâu, chế độ Việt Nam
Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30/4/1975.
* Sấm
ký Vô Vi
Vào hai
năm 1977-1978 tại vùng Thất Sơn, từ Tịnh Biên dài đến Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, dân
cư ngụ đều nghe hai câu Sấm của đạo Vô Vi ở núi Trà Sư, được phổ biến bởi các đồng
nhi:
Chừng
nào núi cấm đá rơi,
Là
ngày ma quỷ hết thời quang vinh.
Đến
khi núi Cấm bị sạt lở vào ngày 5 tháng 5 năm 2012, người viết mới nghiệm được
nghĩa của hai câu này. Thì ra, chữ Cấm viết hoa và từ ngữ “quang vinh” là từ ngữ
mà chế độ CS thường dùng, như khẩu hiệu “đảng CSVN quang vinh”.
Sau
tháng 4 năm 1975, các ủy ban của CS mọc ra như nấm như ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố. Người đứng đầu được gọi là tỉnh ủy, thành ủy... người dân đọc chữ “ủy”
thành ra “quỷ”. Quá đúng, sau tháng 5 năm 2012, phong trào đấu tranh chống Tàu
cộng đã bộc phát mạnh với những diễn biến làm cho đảng CSVN phải hoảng sợ. Từ
chỗ đàn áp điên cuồng những người yêu nước đến những những trò hề... và thói
quen bịp bợm, lọc lừa xảo trá, cho thấy đảng CSVN đã hết thời quang vinh, đúng
như câu Sấm ký.
b. Những câu tiên tri, Sấm và Điềm đang chờ được công nhận là đúng
* Lời
tiên tri của cụ Diễn
Trước
tháng Tư 1975, ở Sài Gòn có cụ Diễn, một nhà Dịch học tài giỏi, đã tiên tri
chính xác nhiều chuyện quốc gia đại sự, đã đoán trước sự nghiệp và số phận của
nhiều nhân vật quan trọng. Cụ Diễn tiết lộ, CS sẽ chiếm Miền Nam sau khi HCM chết
và rồi chúng sẽ tan rã sau cái chết của Võ Nguyên Giáp. Hiện Võ Nguyên Giáp đã
sống được 102 tuổi, mọi người đang chờ ngày ông ta “đi theo” Hồ Chí Minh để kiểm
nghiệm lời tiên tri của cụ Diễn.
* Năm
Tỵ trong Sấm Trạng Trình
Trước khi nói đến năm Tỵ, xin nhắc lại những câu Sấm Trạng Trình mà
nhiều người suy ra thấy ăn khớp với tình hình Việt Nam từ năm 1975 trở
đi, khi CS xâm chiếm miền Nam, xưng là "đỉnh cao trí tuệ", áp dụng chính
sách độc tài toàn trị, chà đạp nhân quyền, áp bức tôn giáo.
"...Ai còn khoe trí khoe năng,
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
Chưa từng thấy nay đời sự lạ,
Chốc lai mòng gá vạ cho dân!
Muốn bình sao chẳng lấy nhân?
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?"
Lời bàn của Nhất Nguyên:
* Câu 1: Ai còn khoe trí khoe năng
Lời bàn của Nhất Nguyên:
* Câu 1: Ai còn khoe trí khoe năng
CS luôn vỗ ngực cho mình là "đỉnh cao trí tuệ".
* Câu 2: Cấm kia bắt nọ hung hăng với người
CS cấm và bắt dân biểu tình chống Tàu cộng.
* Câu 3: Chưa từng thấy nay đời sự lạ
- Chiếm đoạt miền Nam mà gọi là giải phóng miền Nam.
- Nhà
thương Từ Dũ đổi tên thành xưởng đẻ.
- Thay
đổi tên nhiều con đường mang tên của những anh hùng dân tộc bằng những tên bị
CS lợi dụng.
- Đặt tên quái thai "Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa".
* Câu 4: Chốc lai mòng gá vạ cho dân!
* Câu 4: Chốc lai mòng gá vạ cho dân!
CS vu oan giá họa cho dân, bắt người yêu nước vì phạm vào hai điều trong bộ luật
hình sự: điều 79 (âm mưu lật đổ chế độ) và điều 88 (tuyên truyền chống nhà nước).
Điển hình là thủ đoạn dùng “bao cao su” giá họa cho LS Cù Huy Hà Vũ.
* Câu 5: Muốn bình sao chẳng lấy nhân?
* Câu 5: Muốn bình sao chẳng lấy nhân?
CS giao đất đai, biển đảo cho Tàu cộng để đổi lấy an bình, không biết thu phục
nhân tâm.
* Câu 6: Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?
CS đàn áp tôn giáo, chiếm đoạt đất đai nhà cửa. Già trẻ yêu nước đều bị tống vô
tù, làm cho người dân hiền lành ghê sợ chế độ.
Nói đến năm Tỵ, Sấm viết:
"Hùm gầm khắp nẻo gần xa,
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời Sa Tăng.
Ngựa lồng, quỷ mới nhăn răng,
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời".
Lời bàn của Nhất Nguyên:
- Câu 7: Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Năm Canh Dần (2010), những con hổ Á Châu gầm thét do suy thoái kinh tế và khủng
hoảng tài chánh khắp nơi trong khu vực, ảnh hưởng đến thế giới. Nhân đó, những
tên CS có tiếng tăm ở Hà Nội đã lên tiếng đòi cải tổ chính trị làm cho đảng CS
phải lo đối phó.
- Câu 8: Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời
Rồi qua năm Tân Mão (2011), các cuộc đấu tranh của tôn giáo tại miền Nam và miền
Trung, dân oan khiếu kiện, chống cưỡng chế đất đai, những cuộc biểu tình chống
Trung Cộng xâm lăng... làm nhà cầm quyền Cộng sản đứng ngồi không yên.
- Câu 9: Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Năm Nhâm Thìn (2012), các phong trào đấu tranh trong nước của năm giới (sĩ,
nông, công, thương, binh) bắt đầu nổi dậy.
- Câu 10: Rắn qua sửa soạn hết đời Sa tăng
Qua năm Quý Tỵ (2013), nền kinh tế tiếp tục bị suy thoái, những cuộc đấu đá để
tranh giành quyền lực ở Bắc Bộ Phủ là một điều mà mọi người tiên đoán là chế độ
sắp tàn.
- Câu 11: Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng
Đến năm Giáp Ngọ (2014), chế độ Cộng sản mới suy sụp.
- Câu 1: Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
- Câu 1: Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Đến đây thì những tôn giáo quốc doanh do CS dàn dựng và chỉ đạo như Cao Đài quốc doanh, Hòa Hảo quốc doanh, Phật giáo quốc doanh, Công giáo quốc doanh... sẽ biến mất vì người dựng ra mình không còn tồn tại!
Nhận định
1. Chế độ CS sụp đổ vì mất
văn hóa
Văn hóa là linh hồn của một
dân tộc. Đối với nhân loại yếu tố tinh thần này cũng quan trọng ngang với yếu tố
vật chất là giống nòi và đất đai. Lịch sử nền văn minh của một dân tộc là lịch
sử của sự phát triển về văn hóa. Tự phá hủy nền văn hóa sẽ dẫn tới sự diệt vong
của dân tộc đó. CSVN đã và đang phá hủy nền văn hóa của dân tộc Việt bằng cách:
- Bỏ môn học Công dân Giáo dục
và Việt sử (anh hùng dân tộc).
- Đưa tiếng Tàu vào chương
trình giáo dục.
- Phổ biến rộng rãi văn hóa
Tàu trên khắp các tỉnh thành.
- Tiếp tay cho hàng hóa Trung
Quốc lũng đoạn thị trường kinh tế VN.
- Làm ngơ trước sự hiện hiện của
vài trăm ngàn người Tàu đang sống bất hợp pháp tại VN.
Vì vậy,
nền văn hóa Việt ngày càng suy đồi, đưa đến tệ nạn mất đạo đức.
Trước
đây, cụ Lê Quí Đôn cho rằng có 5 nguy cơ làm hỏng đất nước, làm hỏng cả xã hội, đó
là: “Trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham
nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt".
Xã hội
Việt Nam hiện nay có đủ cả 5 nguy cơ này. Và hơn nữa, tình trạng đàn áp dân chúng
ngày càng gia tăng, tuổi trẻ yêu nước chống Tàu cộng bị tống vào tù, tuổi già
trung với nước tham gia biểu tình cũng bị bắt giam và đày ải. Đây là triệu chứng
suy tàn và là “Điềm” báo trước sự sụp đổ của chế độ mất văn hóa.
2.
Chế độ CS sụp đổ vì tàn ác
Sấm
Trạng Trình Toàn tập (Nguyễn Thiên Thụ), phần XXV, trang 65 có ghi:
“Đồng
giao đã có câu rằng,
57.
Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ.
Bấy
giờ quét sạch thử ly,
Xin
ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm.
Đương
khi sấm chớp ầm ầm,
Chẳng
qua khó số để găm trị bình,
Thất
phu dám chống thư sinh,
Sông
ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng.
Nực
cười những lũ bàng quan,
59.
Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe.
Thôi
thôi mặc lũ thằng hề,
Gió
mây ta lại đi về gió mây”.
Lời
bàn:
- Non
xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ
Ngụ
ý nói, khi nhiều ngọn núi xanh bị sạt lở.
- Bấy
giờ quét sạch thử ly
Thử
ly là hồ ly, loài chồn cáo. Y nói đảng của Hồ Chí Minh. Ngụ ý cho biết, đã đến
lúc người dân nổi dậy giải thể chế độ CS.
- Thất
phu giám chống thư sinh
Thất
phu là côn đồ. Thư sinh là học sinh, sinh viên. Công an cho côn đồ hành hung tuổi
trẻ yêu nước.
- Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng
Dù
là nhóm nhỏ, đấu tranh ô hợp thiếu tổ chức, nhưng vẫn hiên ngang trước bạo lực.
Thủy hoàng là Tần Thủy Hoàng.
- Nực cười những lũ bàng quan
Cán
bộ cao cấp biết rõ sự việc đàn áp dã man của cấp dưới nhưng không hề lên tiếng,
chỉ cần tham nhũng kiếm thêm tiền là tốt.
- Cờ
tàn lại muốn toan đường đấm xe
Biết
chế độ sắp sụp đổ, nhưng muốn đàn áp phong trào đấu tranh.
- Thôi
thôi mặc lũ thằng hề
- Gió
mây ta lại đi về gió mây
Hai câu này có hàm ý nói, việc mưu hại những người yêu nước như trò hề, đường ta ta cứ đi, tiếp tục đấu tranh thì chế độ CS sẽ sụp đổ.
3.
Chế độ CS sụp đổ do thiên định.
*Một
đoạn cơ bút của bà chúa Liễu Hạnh tiên tri về vận nước Việt Nam (1938)
“Khỉ về Gà gáy oa oa,
Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời. Quỷ Ma đến lúc đi đời,
Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng.
Chó mừng tân chủ rõ ràng,
Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hương”.
Lời bàn:
Hai
câu đầu nói, sẽ có chiến tranh trong 2 năm Bính Thân (2016) và Đinh Dậu (2017).
Hai
câu kế tiếp cho biết, CS (Quỷ ma là CS) sụp đổ do trời đã định sẵn.
Hai
câu chót báo, năm Mậu Tuất (2018) nước Việt sẽ có vị nguyên thủ tài đức xuất hiện
và nhiều người Việt hải ngoại sẽ trở về quê hương xứ sở.
* Câu
Sấm miền Trung
Cùng thời với núi Đá Dao sụp lở, hai câu thơ đã xuất hiện từ miền
Trung:
Bao giờ ngọn núi Lâm Viên,
Tách đôi hai miếng là điềm cộng tan.
Lời
bàn:
Thời
gian qua, có ai nghĩ đến núi Lâm Viên tách đôi? Và chữ cộng, mọi người đều tưởng
là dấu cộng, tách ra hai miếng thì đâu còn là cộng. Có ai biết chữ cộng viết
hoa là Cộng sản?
Vì vậy,
hiện tượng núi Lang Biang sạt lở (đường lở như tách ngọn núi làm đôi) cùng với
vụ sạt lở núi ở tỉnh Điện Biên (nơi CS thắng Pháp) và các vụ sạt lở núi tại Nghệ
An (quê của Hồ Chí Minh) đều là “Điềm gở” báo hiệu sự suy tàn của chế độ.
* Sạt
đình Lại Đà
Mưa
to trút xuống trong tháng 4 vừa qua, làm sạt hẳn tường đình làng Lại Đà (cách
Hà Nội 28 km về hướng Tây Bắc), nơi nổi tiếng xuất thân nhiều khoa bảng và là
quê của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN. Theo sử sách thì việc sạt đình
hay sạt tường đình chưa bao giờ được xem là điềm lành, mà đó chỉ là điềm gở,
báo hiệu quyền lực bị suy sụp.
4.
Đảng CS sụp đổ do vận nước.
Theo
Tam Nguyên Cửu Vận thì Đảng Cộng Sản VN cướp chính quyền vào năm 1945, nằm
trong vận 5 (1944-1963) thuộc hành Thổ. Đến nay là vận 8 (2004-2023) cũng thuộc
hành Thổ (đang thịnh) thì hành Thổ của vận 5 đã hết “vận khí” nên suy sụp.
Do hết “vận khí” nên đảng Cộng Sản sắp sửa bị sụp đổ, vì vậy nhà cầm quyền
CSVN bị dân chúng chống đối vì bán đất, dâng biển đảo cho Tàu cộng, cướp đất
đai và đàn áp dân lành. Nền kinh tế ngày càng suy thoái, lụn bại. Tệ nạn tham
nhũng và cướp bóc xảy ra khắp nơi. Nên người viết nhận định, ngày tàn của đảng
Cộng Sản Việt Nam không còn bao lâu nữa, chỉ sớm hay muộn trong khoảng từ năm
Giáp Ngọ (2014) đến năm Đinh Dậu (2017) mà thôi.
THANH PHƯƠNG * ÂM NHẠC
Thanh Phương
Nhạc càng hay nhờ tài người phối
Nhạc sĩ Thanh Phương sẽ tham gia đêm diễn tại Pháp ngày 07/09 (DR)
Lâu nay, khi nghe qua một ca khúc, phản ứng đầu tiên mà công
chúng yêu nhạc thường quan tâm đến, đó là giọng hát ca sĩ, đôi khi tìm
hiểu thêm về người sáng tác, nhưng ít ai để ý rằng đoạn nhạc dạo đầu
cũng như âm nền toàn bộ ca khúc, là do nhạc sĩ hòa âm phối khí sáng tác
dựa trên văn bản của nhạc sĩ viết ca khúc.
Để phối một ca khúc hay, ngoài năng khiếu và lòng say mê, điều
kiện cần thiết trước tiên đối với một người nhạc sĩ hòa âm phối khí, đó
là họ còn phải biết chơi thành thạo ít nhất một nhạc cụ, trình độ nhạc
lý vững vàng, được đào tạo bài bản về môn hòa âm, biết rõ tính năng, âm
vực, kỹ năng sử dụng từng nhạc cụ. Và quan trọng hơn cả vẫn là cảm xúc.
Trước khi hòa âm, người nhạc sĩ phải nghiên cứu rất kỹ ca khúc, bởi
có rất nhiều thủ pháp khác nhau để hòa âm. Những khúc dạo đầu, nhiều khi
có thể dựa trên nét nhạc của tác giả gốc, rồi biến tấu thêm, dựa vào
lời của ca khúc để viết thành đoạn nhạc, có ngôn ngữ âm nhạc tương ứng,
trên tinh thần của ca khúc.
Nhưng đôi khi, đó cũng có thể là một phiên bản nhạc sáng tác hoàn
toàn mới, xuất phát từ chính những cảm xúc, và mức độ thẩm thấu ca khúc
của người nhạc sĩ hòa âm, để rồi viết thành đoạn nhạc có chất liệu mới,
khiến cho ca khúc được cảm nhận đa dạng nhiều chiều hơn.
Một bài phối hay sẽ làm ca khúc thêm thăng hoa, bay bổng, ca sĩ sẽ
thể hiện bài hát sâu sắc, tình cảm hơn và dễ tìm sự đồng cảm ở người
nghe. Vì thế, công việc sáng tác của các nhạc sĩ hòa âm phối khí, đôi
khi không phải nhạc sĩ viết ca khúc nào cũng làm được.
Ở Việt Nam, kể từ khi nhạc nhẹ lên ngôi, không hiểu do vô tình hay cố
ý, nhiều khi chúng ta đã bỏ quên vai trò của người nhạc công. Chỉ có ca
sĩ, nhạc sĩ sáng tác ca khúc, ca từ, giai điệu, hay giọng hát... là
được nói tới, trong khi đó thì người đóng góp một phần thành công không
nhỏ của một bài hát, chính là những nhạc công thể hiện, thì dường như bị
lãng quên.
Có một số nhạc sĩ hòa âm phối khí, mà nếu chỉ cần nghe một vài khúc
nhạc dạo đầu thôi, là cũng có thể nhận ra ngay được dấu ấn của họ. Thanh
Phương là một trong số đó. Được trang bị 15 năm kiến thức âm nhạc
guitar cổ điển tại Nhạc viện Hà Nội, tuy nhiên, sau này Thanh Phương lại
chuyển sang gắn bó với nhạc nhẹ và thiên về phần hòa âm, phối khí.
Tên tuổi của Thanh Phương ngay từ ban đầu cũng đã gắn liền với những
thành công của những giọng ca Việt như : Thanh Lam, Ngọc Anh, và đặc
biệt là Trần Thu Hà, hay thế hệ ca sĩ trẻ hơn như: Đoan Trang, Hiền
Thục, Tùng Dương, Hà Anh Tuấn.
Quả thật khi nhắc đến Guitarist Thanh Phương, nay còn có thêm vai trò
là nhà sản xuất âm nhạc, sẽ không hề quá, khi người yêu nhạc xem anh
như một chiếc cầu nối quan trọng, giữa nhạc sĩ sáng tác - ca khúc và ca
sĩ.
Nhân dịp ngày 07/09/2013 tới đây, nhạc sĩ Thanh Phương sẽ tham gia
đảm trách phần hòa âm phối khí, trong một đêm nhạc diễn ra tại thành phố
Bourg La Reine, thuộc vùng phụ cận Paris, với sự góp mặt của nam ca sĩ
Đức Tuấn (đến từ Việt nam) và ca sĩ Trần Thu Hà (đến từ Mỹ), Thanh
Phương đã dành cho thính giả của tạp chí âm nhạc - đài RFI một buổi
phỏng vấn.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 277
Thursday, October 27, 2016
BẮC HÀN - VÕ NGUYÊN GIÁP - TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN
Friday, September 6, 2013
CÔNG LÝ BẮC HÀN
Ngày 29/8, tờ
Chosunilbo của Hàn Quốc đưa tin bạn gái cũ của ông Kim Jong-un cùng hơn
10 diễn viên nổi tiếng khác của Triều Tiên đã bị xử bắn công khai vào
ngày 20/8 vừa qua.
Các
nguồn tin ở Trung Quốc cho biết nữ ca sĩ Hyon Song-wol cùng ông Mun
Kyong-jin, trưởng đoàn nhạc Unhasu đã bị bắt hôm 17/8 vì vi phạm luật
nhà nước về văn hóa phẩm khiêu dâm và đã bị xử bắn công khai 3 ngày sau
đó.
Hyon Song-wol và 11 người khác bị kết án tử hình |
Đoạn video dường như vô hại này cho thấy ba cô gái đội mũ cao bồi và mặc váy tua-rua đang nhảy trên nền nhạc của bài Aloha Oe do nam ca sĩ người Mỹ Elvis Presley trình bày.
Tuy nhiên, các báo cáo từ Trung Quốc, đồng minh duy nhất của Triều Tiên, cho rằng đoạn video này là bằng chứng khiến nữ ca sĩ Hyon Song-wol và 11 nghệ sĩ khác từ dàn nhạc Unhasu và ban nhạc Wangjaesan Light Music bị kết án tử hình.
Họ bị buộc tội sản xuất và tiêu thụ phim khiêu dâm, tờ Chosun Ilbo của Hàn
Quốc hôm 28/8 dẫn nguồn tin từ Trung Quốc đưa tin.
Một người sử dụng YouKu- trang chia sẻ video nổi tiếng tại Trung Quốc - đã đăng
tải đoạn video về ba phụ nữ đang nhún nhảy và nói rằng đoạn video này được cho
là "băng sex", tờ Daily Dot cho biết.
Đoạn video đã nhanh chóng thu hút được 700.000 lượt xem.
Trang web tổng hợp tin tức của Trung Quốc này nói rằng một trong những vũ
công trong đoạn video là Hyon.
THƯ BẠN ĐỌC GỬI QUÊ CHOA
Niềm thất vọng đắng cay
Thư một bạn đọc
NQL: Đọc để biết vì sao người dân mất hết niềm tin, đặc biệt là lớp trẻ. Câu chuyện dưới đây chỉ là chuyện nhỏ mà niềm tin của bạn trẻ này đã sụp đổ, còn biết bao nhiêu chuyện ghê gớm hơn, khủng khiếp hơn... đang chờ bạn khắp các nẻo đường đời.
Gửi Bác!
Được trở thành một công chức (viên chức) nhà nước, có lẽ đây là một niềm ao ước của nhiều người. Và cháu cũng là một trong số đó, và cháu còn có nhiều lý do để mong mỏi điều đó hơn nhiều người khác.
Bởi vậy mà khi BHXH Việt Nam thông báo tuyển viên chức, cháu đã nộp hồ sơ và miệt mài ôn luyện ngày đêm với sự quyết tâm cao độ nhất và hi vọng sẽ có một kết quả thật tốt trong kỳ thi này.
Và còn rất nhiều bạn khác cũng như cháu, rất tích cực học hành. Nhiều người trong đó có cháu, dành hầu hết thời gian và sức lực để ôn thi, có người còn phải đánh đổi rất nhiều thứ khác nữa, gia đình không tạo điều kiện, chồng không ủng hộ, đã vậy lại còn mỉa mai nữa, con nhỏ quấy khóc vì ốm đau. Bản thân cháu có lẽ may mắn hơn vì bố mẹ rất hiểu và tạo điều kiện hết sức để cháu có thể ôn thi.
Nhà cháu làm ruộng, vất vả lắm! Thời gian này đang mùa vụ, hết gặt lúa rồi cấy hái. Hết mùa lúa rồi đến mùa ngô, bố mẹ cháu lên nương từ khi gà gáy không kể ngày nắng như lửa đốt, áo ướt đẫm mồ hôi hay những ngày mưa bão ròng rã . Cháu cũng dậy sớm để học bài, nhìn bố mẹ vất vả, cháu càng cố gắng ôn thi hơn, tự nhủ với bản thân rằng phải cố gắng đỗ trong kỳ thi này.
Cháu vượt cả một đoạn đường dài hàng mấy trăm cây số xuống thủ đô để tham dự kỳ thi, trong lòng vừa nao nao hồi hộp, lo lắng nhưng cũng đầy niềm vui vì bản thân đã chuẩn bị khá là kỹ lưỡng cho kỳ thi này.
Thế nhưng Bác ơi, hi vọng bao nhiêu thì thất vọng bấy nhiêu, niềm tin của cháu bị sụp đổ hoàn toàn. Nó như cơn bão đổ bộ vào lòng Hà Nội trong mấy ngày thi vậy.
Trước những ngày thi, trên các diễn đàn có người thông báo có đề và tài liệu chuẩn, họ gửi mail đến từng cá nhân trên diễn đàn, nói về mức độ tin tưởng của đề thi và mức độ chính xác của tài liệu chuẩn, họ rao bán bộ đề với giá 1 triệu/môn. Có người tin, người không Bác ạ. Rồi người ta đăng tin địa điểm cụ thể bán phao, tài liệu thi thường xuyên, liên tục trên diễn đàn, bảo đảm độ chính xác của tài liệu, có cả sơ đồ chỉ dẫn đến hẳn địa điểm mua phao nữa.
Ngày thi đã đến, trước lúc vào phòng thi, thí sinh họ nháo nhào kêu gọi quyên góp tiền đi giám thị, 100 nghìn, 200 nghìn, chẳng biết họ đã in sẵn cả danh sách thí sinh phòng thi từ lúc nào để thu tiền rồi đánh dấu những ai nộp, họ để ý xem ai mới đến rồi ra để kêu gọi đóng tiền. Cháu cũng được huy động như vậy đấy. Khi cháu tuyên bố không đóng tiền và không quay bài và nói với mọi người rằng sẽ không quay được đâu thì ai cũng mở mắt tròn xoe nhìn cháu với con mắt như cháu là người ngoài hành tinh, là vật thể lạ vậy. Nói thật là lúc đó cháu rất là ngại và cảm thấy mình lạc lõng kinh khủng. Cháu cũng hiểu một vấn đề rằng nếu mình không hòa đồng và không theo cái chung của tập thể thì tự bản thân mình sẽ tự đẩy mình ra xa, tự “xây mồ chôn mình”, tự mình cô lập mình.
Trong khi làm bài thi, thanh tra bên ngoài và giám thị có bắt và lập biên bản Bác ạ, nhưng trong khi cháu và những người khác đang cố gắng làm sao viết thật nhanh, viết đau nhừ cả tay không dám ngừng vì đề khá dài thì xung quanh họ vẫn giở tài liệu bằng đủ mọi cách. Phao trong túi quần, trong hộp bút, thậm chí cả ở trong áo ngực nữa. Có bạn giở tài liệu ở tất cả các môn từ chuyên ngành, trắc nghiệm, Kiến thức chung mà không hề bị “phát hiện”. Thi trắc nghiệm thì thật là vui. Bác biết không, phòng thi xôn xao như học nhóm vậy.
Rồi Bác biết không, ngày thi thứ hai, ngoài hành lang phòng thi, người ta nói chuyện với cháu: phòng anh(chị) coi dễ lắm, may là mang phao vào, chép từ đầu đến cuối, hôm nay cũng cố gắng như vậỵ hay “ Phòng chị giám thị có nhận phong bì mà, chỉ để ý giám thị hành lang và thanh tra bên ngoài một tí, chứ trong phòng thì thoải mái thôi mà”. Rồi có người cũng không hề học gì mà vẫn đi thi, hỏi bạn ấy học hết đề cương không, bạn ấy trả lời với cháu rằng chưa hề học gì cả, bạn ấy không biết Luật BHXH như thế nào, Luật BHYT ra sao, nhưng bạn ấy vẫn làm được bài, vẫn viết đủ ý cả.
Đấy là những gì cháu được mắt thấy, tai nghe, tận mắt chứng kiến được.
Và trên các diễn đàn, sau khi đi thi về, họ bàn luận, bình phẩm nhiều lắm Bác ạ. Họ nói phòng này giám thị nhận tiền, phòng kia giám thị canh chừng thanh tra cho thí sinh quay bài, phòng này có COCC, con cháu của người này, người kia, có người dùng tai nghe Blutooth để chép bài, phòng có VIP, được chuyển chỗ, được giám thị “quan tâm”, được thu bài sau cùng, thí sinh được gửi gắm.
Cổng trường nơi cháu thi họ bán đầy phao của các môn; và môn tiếng Anh, cháu cũng thử mua một bộ xem qua, vào phòng thi khi giám thị phát đề thì quả là ngạc nhiên lắm, lúc đó cũng ước gì mình xem thật kỹ cái tập phao vừa mua thì chắc làm ngon lành, nhanh vèo vèo mà không cần phải đọc đi đọc lại như thế. Mấy quán photo ngoài cổng trường chắc làm ăn phát đạt vào 2 ngày thi này lắm. Và còn cả điều này nữa, cháu thấy lạ quá. Người thân của thí sinh chờ đợi ở cổng trường hỏi những người thi xong sớm và ra trước về đề thi của các môn có đúng như những câu hỏi được bôi đen trong tập câu hỏi mà họ đang cầm trong tay hay không. Mà điều ngạc nhiên ở chỗ tất cả đều đúng. Rồi họ cảm thấy tâm đắc với cái tập câu hỏi đó lắm đấy ạ. Chẳng lẽ lại có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế này sao hả Bác? Hay chẳng lẽ thầy bói lại bói đúng đến vậy?
Người ta lại kháo nhau rằng có thí sinh làm bài trước khi giám thị đọc đề thi, có người đã có đáp án sẵn cho các câu hỏi trắc nghiệm. Và họ truyền tay nhau bộ đề thi được giải sẵn của môn tiếng Anh, những bài test được khoanh, đánh dấu là đã được thi ở các cụm thi trước. Và thật đúng là siêu nhân vì bài thi tiếng Anh rơi đúng vào 2 bài test còn lại trong tập tài liệu đó. Cháu thấy thí sinh thi BHXH thật là giỏi Bác ạ, vì họ tìm được tài liệu chính xác quá! Họ kháo nhau về chuyện chạy chọt bao nhiêu tiền, các chỉ tiêu đã được sắp xếp ra sao, chạy từ khâu đề thi hay chấm thi, …
Những người như cháu đi thi được gọi là “dân đen”, có người nói “dân đen” mà đỗ thì đúng là một kỳ tích, bài làm phải có sự đột phá, phải đặc biệt, như vậy mới có cơ hội. Và còn nhiều, còn nhiều nữa nhưng có lẽ cháu chỉ kể với Bác bấy nhiêu thôi là cũng đủ để Bác có thể hình dung ra được kỳ thi này nó như thế nào rồi đúng không ạ?
Và lại nói đến bản thân cháu, khi bước vào phòng thi với niềm hi vọng, phấn chấn bao nhiêu thì sau khi bước chân ra khỏi cổng trường, niềm tin và hi vọng của cháu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Không phải vì cháu không làm được bài, thậm chí cháu còn làm bài tốt Bác ạ (theo cháu thì là như vậy), điều này còn phụ thuộc vào việc chấm thi nữa. Cháu nghi ngờ, lo lắng và cháu không còn đủ tự tin để khẳng định được rằng mình liệu có đỗ được trong kỳ thi tuyển viên chức này hay không???
Sau kỳ thi này, tự nhiên cháu thấy hoài nghi về mọi thứ, về những điều bố cháu đã từng dăn dạy, có lẽ nó không đúng hoàn toàn như bố cháu đã từng nói. Cháu cần phải làm gì để có thể lấy lại được niềm tin đây ạ?
Tác giả gửi Quê Choa
THƯỢNG TỌA THICH THIỆN MINH * TỐ CÁO TÒA ÁN CỘNG SẢN
Tòa án Phú Yên lập kế hoạch bắt giam Thượng tọa Thích Thiện Minh và Hòa thượng Thích Nhật Ban
Việt Nam, ngày 5 tháng 09 năm 2013
Kính gửi các Tổ Chức Nhân Quyền Quốc Tế
Kính gửi Các Đoàn Thể Chính Trị, Các Nhà Đấu Tranh Dân Chủ, Đồng Bào VN Trong, Ngoài Nước
Kính thưa quý vị:
Cách đây gần 5 tháng, vào ngày 12/4/2013, tôi nhận được giấy triệu tập của Ông Nguyễn Văn Hồng, Điều Tra Viên cơ quan An Ninh Điều Tra tỉnh Phú Yên mời thẩm cung sự việc có liên quan đến ông Ngô Hào,
ngụ tại Tuy Hòa, Phú Yên. Ông Ngô Hào đã bị bắt đến nay gần 7 tháng và
hôm nay, ngày 5/9/2013 tôi vừa nhận được giấy báo của Thẩm phán Võ
Nguyên Tùng, Tòa Án Nhân Dân tỉnh Phú Yên mời tôi đúng 7g30 ngày
11/09/2013 phải có mặt tại Trụ sở TAND tỉnh Phú Yên số 58 Lê Duẫn, Tp.
Tuy Hòa để tham gia phiên tòa.
Tôi được biết Tòa Án có mời cả 3 nhà Sư gồm:
Tôi (Thích Thiện Minh, Hóc Môn, tp) , HT.Thích Nhật Ban chùa Ba La Mật -
Đồng Nai và TT.Thích Thiện Khánh chùa Phước Quang, Tuy Hòa, Phú Yên
tham dự.
Buổi làm việc của tôi với trên 6 Công an cách đây 5 tháng. Ông Nguyễn
Văn Hồng muốn biết rõ mối quan hệ giữa tôi và ông Ngô Hào vì lý do:
Khi ông Ngô Hào bị Công An tỉnh Phú Yên bắt, khám xét trong computer của
ông Hào có 1 tấm ảnh chụp chung của ông Ngô Hào cùng tôi và Hoà
thượng Nhật Ban tại chùa Ba La Mật, vào buổi cơm trưa, tôi có trình bày
với ông Hồng như sau:
Vào trước năm 98 lúc tôi còn đương nhiệm Tổng Vụ Trưởng, Tổng Vụ Thanh
Niên GHPGVNTN tạm trú tại chùa Giác Hoa, đường Nơ Trang Long, F:7, Q.
Bình Thạnh, nhân ngày lễ húy kỵ Tổ Nguyên Thiều, Thượng tọa Thiện Khánh
chùa Phước Quang, Phú Yên hướng dẫn ông Ngô Hào vào chùa Giác Hoa gặp
tôi và ngỏ ý nhờ tôi vận động các nhà hảo tâm giúp đỡ cho: “Vợ ông Ngô
Hào là Bà Kim Lan bị bệnh Ung Thư Vòm Họng đang điều trị tại Trung Tâm
Ung Bướu. Mấy ngày sau tôi mời Hoà thượng Nhật Ban, Thượng toạ Nguyên
Thịnh cùng tôi mang tịnh tài khoảng 5 triệu đồng giúp bà Lan. Thời gian
hơn 4 năm sau ông Ngô Hào làm ăn khấm khá, một hôm ông ghé chùa Ba La
Mật Đồng Nai thăm, cúng dường Hoà thượng Nhật Ban và tôi, mục đích để tạ
ơn, lúc ấy con trai ông Ngô Hào tên Minh Tâm cũng có mặt, cháu xin
phép dùng điện thoại chụp 1 tấm ảnh 3 người làm kỷ niệm. Sau đó, cháu
Minh Tâm đã đưa ảnh vào computer nên khi ông Ngô Hào bị bắt, khám xét
máy có tấm ảnh nên công an điều tra muốn làm sáng tỏ mối liên quan. Còn
việc khác riêng tư của ông Ngô Hào thì tôi và Hoà thượng Nhật Ban không
hề hay biết...
Nay bất ngờ Tòa án tỉnh Phú Yên triệu tập 3 người chúng tôi tham dự
phiên tòa xét xử, tôi thiết nghĩ việc làm nầy không cần thiết vì tôi và
Hoà thượng Nhật Ban cùng Thượng toạ Thiện Khánh chẳng có liên quan gì
đến vụ án của ông Ngô Hào. Nhận xét việc thông báo triệu tập của tòa án
chỉ gây thêm phiền toái hay có dụng ý không hay. Nên vội thông tin nầy
đến các tổ chức Nhân quyền QT và các đoàn thể Chính Trị , tôn giáo, quý
nhà dân chủ và đồng bào VN trong, ngoài nước được liễu tri.
Trân Trọng,
Thích Thiện Minh
ĐẶNG CHÍ HÙNG * VÕ NGUYÊN GIÁP
Những sự thật cần phải biết (phần 19) - Sự thật về Võ Nguyên Giáp
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
- Do sinh ra và lớn lên trong môi trường xã hội chủ nghĩa nên từ nhỏ
tôi cũng bị nhồi sọ và tuyên truyền những điều dối trá. Khi tôi tìm tài
liệu và biết về sự thật thì tôi hiểu ra rằng mình đã bị nhồi sọ bởi một
chương trình nói láo có hệ thống. Tuy nhiên lúc đó tôi vẫn còn thần
tượng một phần nào đó ông Võ Nguyên Giáp. Tôi coi trọng ông Giáp hơn rất
nhiều Hồ Chí Minh. Nhưng... cách đây 6 năm thì sau khi đã tìm hiểu đầy
đủ tài liệu tôi chợt nhận ra ông Giáp cũng không khác gì các lãnh tụ
cộng sản khác. Vì vậy, hôm nay tôi sẽ phải viết về ông Giáp như một nhận
thức đúng đắn nhất về ông ta đó là một vị tướng: Không có tài và coi
thường sinh mạng của nhân dân.
I. Đôi điều về con người Võ Nguyên Giáp:
Đầu tiên xin mời bạn đọc xem qua tài liệu về tiểu sử của ông Giáp trên website của Quảng Bình (1):
“Tóm tắt tiểu sử-Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
1. Họ và tên (bí danh): Võ Nguyên Giáp (Văn)
2. Năm sinh: Ngày 25/8/1911.
3. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Đại tướng, Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
4. Quê quán: Làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
5. Trú quán: Phố Hoàng Diệu, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
6. Thành phần: Nhà nho yêu nước.
7. Năm tham gia cách mạng: Năm 1925.
8. Năm nhập ngũ: Năm 1944.
9. Ngày vào Đảng - Chính thức: Năm 1940.
10. Năm phong quân hàm cấp tướng: Đại tướng năm 1948.
11. Quá trình tham gia cách mạng
Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng
từ năm 1925 khi mới 14 tuổi. Năm 1929, đồng chí tham gia cải tổ Tân Việt
Cách mạng Đảng thành Đảng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, đồng
chí bị thực dân Pháp bắt giam vì tham gia các cuộc biểu tình chống
Pháp. Không có chứng cớ, cuối cùng, chúng buộc tha đồng chí. Đồng chí
tiếp tục hoạt động cách mạng trên mặt trận văn hóa, viết bài cho những
tờ báo công khai như: Tin tức, Nhân dân, Tiếng nói của chúng ta, Lao
động, làm biên tập viên cho các tờ báo của Đảng, dạy sử, địa cho Trường
tư thục Thăng Long.
Năm 1934, đồng chí kết duyên với Bà
Nguyễn Thị Minh Thái, một Đảng viên Cộng sản, cộng sự đắc lực của đồng
chí. Trong những năm tháng hoạt động bí mật, hai vợ chồng đồng chí sống ở
số nhà 46 phố Nam Ngư, Hà Nội. Sau này, Bà Nguyễn Thị Minh Thái bị thực
dân Pháp bắt, giết chết bà trong ngục nhà tù Hỏa Lò. Từ năm 1936 đến
1939, đồng chí tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, biên tập
viên các tờ báo của Đảng, Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ trong phong
trào Đông Dương đại hội.
Năm 1939, đồng chí cùng đồng chí Phạm
Văn Đồng sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Được sự dìu dắt của
Người, năm 1940, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 5 năm 1941, đồng chí trở về Cao Bằng, tham gia gây cơ sở cách
mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, tham gia chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở
căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng. Năm 1942, đồng chí phụ trách Ban Xung
phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc
giữa miền núi với đồng bằng Bắc Bộ.
Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc giao thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.
Ngày 22/12/1944, tại một khu rừng ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng,
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ủy nhiệm cho đồng chí đứng ra tuyên bố thành
lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay. Đồng chí được giao nhiệm vụ trực tiếp lãnh
đạo và chỉ huy.
Tháng 3/1945, đồng chí đưa Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu
quốc quân của đồng chí Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống
nhất tổ chức thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 4/8/1945, đồng chí là Ủy viên Ủy
ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, làm Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang
thống nhất mang tên Việt Nam Giải phóng quân, tham gia Ủy ban Chỉ huy
Lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc.
Đồng chí được Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II, cử vào Ban Chấp hành
Trung ương và là Ủy viên Thường vụ ban Chấp hành Trung ương, tham gia Ủy
Ban Khởi nghĩa toàn quốc, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, Bộ trưởng
Bộ Nội vụ trong Chính phủ Lâm thời.
Tháng 1/1946, đồng chí được cử là Chủ
tịch quân sự, Ủy viên hội đồng trong Chính phủ Liên hiệp, Phó trưởng
đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị ở
Đà Lạt. Năm 1946, đồng chí kết hôn với Bà Đặng Thị Bích Hà (Con gái cố
Giáo sư Đặng Thai Mai).
Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
sắc lệnh số 110/SL, phong đồng chí làm Đại tướng đầu tiên của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Ngày 27/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng
sản Đông Dương ra Nghị quyết: “Lập chế độ chính trị ủy viên, đại diện
chỉ huy kiêm Chính ủy. Tháng 6/1950, có Nghị quyết của Thường vụ Trung
ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng, đồng chí là Tổng tư
lệnh, Tổng chính ủy, Bí thư Quân ủy Trung ương. Đồng chí đảm nhiệm các
cương vị trên từ năm 1945 đến năm 1975.
Về Đảng, đồng chí liên tục được bầu là
Ủy viên Trung ương Đảng các khóa II (năm 1951), đến khóa VI (Ngày 20/12/
1986), làm Ủy viên Bộ Chính trị các khóa từ khóa II đến khóa VI. Đồng
chí là đại biểu Quốc hội từ khóa I (năm 1946) đến khóa VI (Năm 1986).
Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí trực tiếp chỉ huy các chiến dịch
lớn: Biên Giới năm 1950, Điện Biên Phủ năm 1954.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí
cùng Bộ Chính Trị chỉ đạo các chiến dịch lớn ở miền Nam Việt Nam, trong
đó có Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc Việt
Nam.
Năm 1980, đồng chí thôi giữ chức Phó
thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rút khỏi Bộ Chính trị năm 1982. Cuối
năm 1983, đồng chí được cử làm Chủ tịch Ủy ban sinh đẻ có kế hoạch.
Cuối năm 1993, đồng chí được suy tôn làm Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến
binh Việt Nam….
12. Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Sao vàng.
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh.
- Hai Huân chương Quân công hạng nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
- Huân chương Chiến công hạng nhất.
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
Đồng chí được Nhà nước Lào tặng Huân
chương vàng Quốc gia Lào, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăng Co.
Đồng chí được Đảng, Chính phủ các nước tặng nhiều Huân chương cao quý.”
Đọc qua tiểu sử của ông Giáp chúng ta thấy ông ta có một quá trình tham
gia cộng sản khá lâu dài cho đến ngày hôm nay. Và chính ông Giáp có vai
trò rất quan trọng trong việc gây ra hàng triệu cái chết trong chiến
tranh “sinh bắc tử nam” mà chúng ta đã biết. Như vậy cũng giống
như các lãnh tụ cộng sản khác, ông Giáp có tội gây ra chiến tranh tàn
khốc theo lệnh của Trung Cộng. Tuy nhiên ông ta cũng đã được thêu dệt
bằng những huyền thoại như tướng tài, tướng thương quân. Nhưng sự thật
lại không phải như vậy. Mời bạn đọc theo dõi những tài liệu dưới đây để
thấy điều đó.
Trước khi đi vào chi tiết cụ thể về những “thực tài” của ông Giáp, chúng
ta hãy xem lý lịch bất minh của ông Giáp mà ngày nay đã có tài liệu
sáng tỏ ông ta từng là con nuôi của mật thám Pháp. Có ít nhất 3
tài liệu trong số vô vàn tài liệu mà tôi xin gửi đến bạn đọc ở đây để
chứng minh cho sự bất minh cho lý lịch của ông Tướng.
Thứ nhất, theo ông Trần Quỳnh - một chức sắc lãnh đạo có
thẩm quyền cộng sản, có uy tín cá nhân - viết lại về việc Trường Chinh
đến thăm ông Đặng Thái Mai như sau: “Thời
kỳ trước Cách mạng tháng tám, một lần Trường Chinh đến nhà Đặng Thái
Mai có việc. Thấy Mai đang cầm đọc một lá thư, Đăng Thái Mai bị bất ngờ,
Trường Chinh lướt qua bức thư mới kịp thấy tiêu đề của thư là chánh mật
thám, chữ ký là Mạc-Ti và câu đầu: “Các con thân ái Mai và Giáp” (Mes
chers enfants Mai et Giap). Mai ngước lên nhìn thấy Trường Chinh vội
vàng nhét thư vào túi áo... Giáp là con người xảo trá- khi tôi từ miền
Nam, khi nói chuyện riêng, Giáp hay nói xấu Bác, nhưng trước mặt Bác,
Giáp hay nịnh Bác”. (Hồi ký Trần Quỳnh: Những kỷ niệm về Lê Duẩn, 30-07-1986).
Thứ hai, ông Hoàng Văn Chí trong cuốn “Từ thực dân đến cộng sản” viết đầy đủ và rõ ràng hơn như sau: “Mai
(Đặng Thái Mai) và Giáp đều là “con nuôi” của Louis Marty, giám đốc
phòng chính trị của Phủ Toàn Quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở
trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy
còn là sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt
khác bị tù đầy hoặc cầm cố thì hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến
ngày Giáp được Pháp đưa sang Tàu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có
theo học lớp “chiến tranh du kích” do Mỹ mở ở Tỉnh Tây, nhưng không bao
giờ lên Diên An. Giáp và Mai coi nhau như “anh em kết nghĩa”, nhưng sau
khi vợ Giáp chết trong tù, Giáp lấy cô Hà, con gái Mai kém Giáp gần 20
tuổi mà trước kia Giáp vẫn bế trong tay hồi còn là chú cháu”.
Thứ ba, cuốn sách của Cecil B. Currey, nhan đề: “Victory at any cost: The Genius Of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyên Giáp” ghi lại đầy đủ chi tiết và trung thực hơn cả. Xin được tóm tắt như sau: “Vào
năm 1930, mật thám Pháp đã bắt một số người tình nghi hoạt động chống
Pháp cùng với một số người khác trong đó có anh của Võ Nguyên Giáp là Võ
Thuần Nho, Đặng Thái Mai, một giáo sư văn chương tại Quốc Học và một nữ
sinh 15 tuổi tên Nguyễn Thị Quang Thái, nữ sinh Đồng Khánh. Người mà
sau này là vợ của Võ Nguyên Giáp... Đặng Thái Mai bị kết án 4 năm tù,
Nguyễn Thị Quang Thái, hai năm tù. Riêng Võ Nguyên Giáp vì chứng cớ hoạt
động không rõ ràng, nhưng quan tòa cũng xin xử phạt 2 năm tù khổ sai...
Năm 1933, Đặng Thái Mai ra Hà Nội nhận dạy học ở trường Thăng Long, VNG
ra Bắc theo... Với một án tù chính trị như thế, con đường học của Võ
Nguyên Giáp là không thể có được nếu không có sự giúp đỡ của Louis
Marty. Trong việc tiếp xúc giữa Marty và VNG, Marty đã khuyên Giáp quay
trở lại việc học và chuẩn bị cho việc thi tú tài 1 và 2. Chắc hẳn Marty
đã ngầm giúp đỡ để Giáp có thể vào học ở trường Albert Sarraut”.
II. Một vị tướng không có thực tài:
1. Ông tướng chưa học quân sự:
Ông Giáp được ca tụng là một chỉ huy quân sự tài ba, lỗi lạc, thậm chí
được cộng sản so sánh với đức thánh Trần Hưng Đạo. Nhưng có một điều là
ông ta chưa học qua một khóa huấn luyện quân sự chuyên nghiệp nào. Để
chứng minh điều này có 2 tài liệu sau đây:
Võ Nguyên Giáp & Hồ Chí Minh |
Thứ nhất, cũng trên trang web của tỉnh Quảng Bình có đoạn viết về Võ Nguyên Giáp như sau: “Từ
1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông
Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc
Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm
báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao
động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng. Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên
Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng
Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên
Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi
vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản
Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho
độc lập của Việt Nam. Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn
luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo
hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2
súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng
máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.” (2)
Đọc qua đoạn trích tiểu sử ông Giáp chúng ta không hề thấy ngày tháng
nào ông Giáp học quân sự nhưng lại thành lập quân đội và “huấn luyện
quân sự”. Ông Giáp sẽ dạy gì cho lính nếu ông ta mù tịt về quân sự khi
chưa có giờ phút nào học nó? Có lẽ cái này ông Giáp là hiểu nhất.
Thứ hai, trên trang Infonet của Bộ Thông tin Truyền thông của cộng sản có viết bài về cuốn sách “Chiến thắng bằng mọi giá” của 1 tác giả Mỹ như sau: “Dưới
ngòi bút của sử gia người Mỹ, Võ Nguyên Giáp được xem là gương mặt quân
sự đặc biệt nhất của thế kỷ XX. Theo ông, tướng Giáp dù không qua
trường lớp đào tạo về quân sự, song những chiến công của Võ Nguyên Giáp
và quân đội Việt Nam quả là huy hoàng, không chỉ đơn thuần về mặt quân
sự mà còn là những trận toàn thắng về chính trị.” (3)
Bỏ qua sự ca tụng mà truyền thông lề đảng vẫn làm khi viết về ông Giáp
và các nhà lãnh đạo cộng sản mà sự thật chúng ta sẽ thấy ở phần sau của
bài viết thì có một thực tế là ông Giáp chưa bao giờ qua trường lớp quân
sự nào. Thật là một chuyện không thể có nếu không học qua quân sự lại
biết về quân sự và tài tình như cộng sản thêu dệt. Cộng sản có thể lý
luận ông Giáp cũng có thể như Khổng Minh trong Tam Quốc. Nhưng chúng ta
phải nên nhớ Khổng Minh là một thiên tài đã đọc hết các sách binh thư,
ngoài ra còn được bố vợ và vợ hết lòng chỉ giáo. Bởi vậy một kẻ không
học qua sách vở, trường lớp quân sự không thể là kẻ thiên tài như cộng
sản ca tụng. Và bằng chứng bằng sự thật đã khẳng định điều đó là đúng.
2. Tài năng vay mượn:
Tướng Giáp luôn được ca ngợi ông ta chỉ huy nhiều trận thắng vang dội
nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Hãy tìm hiểu những tài liệu sự
thật để thấy ông Giáp nằm ở đâu trong những “thắng lợi” của quân đội
cộng sản.
Trong số 8 tội mà liên minh Đỗ Mười - Lê Đức Anh đã tố ông Giáp thì có đến 4 tội trong quân sự đó là: “Trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong
hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy
chiến dịch. Ông Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000
quân, để khi Pháp - Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ. Tết Mậu
Thân 1968 ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội,
nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn. Ông Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ
rải thảm, nên không đi B (chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến trường
miền Nam trước 1975).” Và cơ bản những điều Đỗ Mười, Lê Đức Anh nói đều đúng không sai.
a. Trận chiến Điện Biên Phủ:
Thứ nhất, để minh chứng cho việc Vi Quốc Thanh - một tướng
Trung Cộng tham gia chiến tranh với Pháp và đặc biệt tại Điện Biên Phủ
đã chỉ huy quân đội cộng sản, tôi xin gửi tới bạn đọc bằng chứng được
chính quyền cộng sản công bố. Ví dụ như trong bài viết về Vi Quốc Thanh
trên website của sở Khoa học và công nghệ tỉnh Nghệ An: “Mối
quan hệ tốt đẹp giữa Bác Hồ với Vi Quốc Thanh được thiết lập từ hồi
kháng chiến chống Pháp đầu những năm 50 của thế kỷ XX - khi mà Vi Quốc
Thanh sang làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam theo
sự phân công của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.” (4)
Tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn VN chụp ảnh lưu niệm với đại diện
thân nhân gia đình các tướng Tàu - Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Hồng Thủy
Thứ hai, báo quân đội nhân dân của nhà cầm quyền cộng sản
dịch một bài viết của báo Trung cộng ca ngợi công lao của Vi Quốc Thanh
và đàn em La Quý Ba, Trần Canh tại chiến dịch Điện Biên Phủ như sau: “Về vấn đề làm cố vấn như thế nào, Mao Chủ tịch nói: “Cố
vấn thì là cố vấn, nhưng trên thực tế chính là tham mưu, làm tham mưu
tốt cho các đồng chí lãnh đạo của người ta. Tham mưu chính là đề xuất
chủ trương, nghĩ biện pháp, hiệp tác giúp đỡ lãnh đạo... Trung tuần
tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đồng chí Trần
Canh làm đại biểu sang Việt Nam, giúp đỡ tổ chức thực thi chiến dịch
Biên Giới. Sau khi đến Việt Nam, đồng chí Trần Canh lập tức hội kiến Chủ
tịch Hồ Chí Minh, báo cáo với Hồ Chủ tịch ý tưởng tác chiến tại biên
giới đã suy nghĩ suốt dọc đường, đồng thời lập tức bôn tập ra tiền tuyến
cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
nam trù hoạch tỷ mỉ kế hoạc tác chiến... Về chiến dịch Điện Biên Phủ khi
đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Vi Quốc Thanh là Tổng cố vấn quân sự. Cố vấn quân sự các cấp của phía Trung Quốc ra tiền tuyến dốc toàn lực hiệp tác giúp đỡ...” (5)
Qua đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là suốt từ chiến dịch biên giới 1950
cho đến Điện Biên Phủ ông Giáp không phải là người đưa ra quyết sách mà
hoàn toàn là người thi hành những cố vấn hay nói cách khác là chỉ đạo
của Trung cộng thông qua La Quý Ba, Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Trong
quân sự người tham mưu là tài tình nhất nhưng ông Giáp lại đơn thuần chỉ
là kẻ ấn nút sau khi đã có kẻ khác lập trình sẵn. Phải chăng đây là cái
“tài” của ông Giáp?
Võ Nguyên Giáp và Trần Canh
Thứ ba, tác phẩm “Mao chủ tịch của tôi” của tác giả người Trung cộng - Hà Cẩn (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ” - phần 11, 12) có viết về sự kiện Điện Biên Phủ tại trang 134 như sau: “Bằng
sự sáng tạo của Mao chủ tịch trong việc đưa tới Việt Nam các đồng chí
cố vấn mà chiến dịch đã kết thúc thắng lợi với vai trò chính yếu thuộc
về thượng tướng Vi Quốc Thanh”.
Từ người thứ nhì (bên trái sang): Hoàng
Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lý Hàm Trân (火腿陳) vợ Lã Quý
Ba. Hồ Chí Minh, x, Đại tướng bí danh Lã Quý Ba (罗贵波), Trường Chinh,
x... Ảnh chụp tại An Toàn Khu. Nguồn: Hoa Nam MSS.
Tướng Tầu cộng Trần Canh đang chỉ bảo bộ đội Việt Minh trước khi ra trận.
Thứ tư, trong cuốn “Đường tới Điện Biên Phủ” của
Võ Nguyên Giáp, trong chương I, chính ông Giáp đã khẳng định vài trò
của tướng Trung cộng trong chiến dịch biên giới 1950 và Điện Biên Phủ
sau này: “Khi trở về Bắc Kinh, Bác đề
nghị Trung Quốc cử cố vấn sang giúp Việt Nam nay mai sẽ đi vào đánh lớn.
Bác gợi ý bạn cử đồng chí Trần Canh. Phía Trung Quốc trả lời đồng chí
Trần đã được bố trí công tác rồi, và đưa ra danh sách gồm 4 người: La
Quý Ba, Trung ương ủy viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trưởng đoàn cố vấn,
Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn cố vấn về quân sự, Mai Gia Sinh, cố vấn về
công tác tham mưa, Mã Tây Phu, cố vấn về công tác hậu cần.” (6)
Hồ Chí Minh và các cố vấn Trung cộng
Một người chưa học qua trường lớp quân sự liệu có thể chỉ huy chiến dịch
được không? Câu trả lời là không và chính vì vậy Hồ Chí Minh đã phải
mời chuyên gia Trung cộng sang để vạch kế hoạc cho ông Giáp.
Thứ năm, cuốn sách: “A reporter's love for a wounded people”của tác giả Uwe Siemon-Netto người Đức đã mô tả về ông Giáp như sau:
“Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn
quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa
Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi
Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé.
Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến
thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xảy ra trong một lớp học
trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính
trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xảy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!"
Charton: “Không, ông không đánh bại
tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ
các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố."
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này
và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay
chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật.”
Đoạn này tác giả Netto cho thấy đánh giá của ông không chỉ đơn thuần là của ông mà bao gồm cả viên tướng Charton rằng: “Võ Nguyên Giáp chỉ thắng nhờ các yếu tố khác không phải tài năng quân sự”.
Và Netto tiếp trong cuốn sách của mình: “Tuy
nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này
được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được
khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một
Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa
vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội”. Điều đó thay cho kết luận về một sự “tài hoa” giả tạo của ông Giáp.
Tác giả Netto người Đức viết về cộng sản và Võ Nguyên Giáp (đứng thứ 3 từ trái qua)
Thứ sáu, mạng sống của thanh niên Việt Nam bị ông Giáp coi
như cỏ rác. Ông Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận
chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm
Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, ông Giáp đã dùng tới 10.000 quân
(đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử
trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh
Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của
Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt.
Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của ông Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất
bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quân đội
cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là
gấp đôi, gấp ba con số 6000.
Tại tài liệu của quân ủy quân đội cộng sản số 03 (BC - 03/QU) ngày 12/12/1953 ghi rõ: “Phía
Trung Quốc nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào
Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật
này, Việt Minh có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng
bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương. Tháng 9,
Bộ Chính trị không thông qua kế hoạch của đồng chí Võ Nguyên Giáp mà
phải thực hiện theo kế hoạch của các đồng chí cố vấn Trung Quốc.
Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Đồng chí Vy Quốc Thanh trao cho chúng ta một
bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được.
Sau khi xem xét, quân ủy nhận thấy đề nghị của Trung Quốc là đúng. Toàn
quân, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của
Navarre.”
Qua đây chúng ta thấy gì? Đó là ông Giáp chỉ là hư danh mà thôi. Còn
thực chất cái “tài” của ông là do có được từ các cố vấn Tầu.
Theo như tác giả Bùi Tín: “Ông Giáp
thường không có thói quen ra thị sát Mặt trận. Ở trận chiến Điện Biên
Phủ, người ta chỉ thấy vài bức hình chụp ông với Hồ Chí Minh, tại Bộ Chỉ
huy chiến dịch - bao giờ cũng trải vài tấm bản đồ, tay thì chỉ chõ -
đóng kịch - như thể đánh nhau chỉ cần chỉ chõ bằng bản đồ - và ông trú
ẩn an toàn tại Bộ chỉ huy ĐBP tại hang Thẩm Púa, thuộc Mường Phăng. Hang
Thẩm Púa cách Điện Biên Phủ bao nhiêu cây số, thưa đại tướng? Sau khi
chiến thắng Điện Biên Phủ, ông đi thị sát mặt trận, quần áo chỉnh tề,
chân đi giầy ủng cao đến đầu gối!”. Như vậy là quá đủ để nói về một vị tướng “tài” như ông Giáp thời chống Pháp.
b. Cuộc chiến với VNCH:
Chiến thuật của Võ Nguyên Giáp trong chiến tranh là: Chiến tranh du kích
và Chiến thuật bao vậy, biển người xung phong. Về chiến tranh du kích,
thì mục đích là làm cho kẻ địch suy yếu, nản lòng, để cuối cùng tiến
hành một cuộc chiến quy mô lớn để chiến thắng. Võ Nguyên Giáp áp dụng
bài bản, không có sáng tạo gì đặc biệt. Đây làm một chiến thuật cổ xưa
mà ai cũng biết thậm chí chỉ cần qua vài quyển sách. Về chiến thuật bao
vây, Võ Nguyên Giáp cũng áp dụng một cách rất sơ đẳng, không có sáng
kiến gì đặc biệt. Các bước chính của chiến thuật bao vây là chặn và cắt
đứt đường tiếp viện của đối phương, siết chặt vòng vây và đánh úp. Võ
Nguyên Giáp thành công ở Điện Biên Phủ vì quân Pháp không đảm bảo được
tiếp viện. Còn tại Khe Sanh, Võ Nguyên Giáp thảm bại vì không nắm được
một yếu tố cơ bản là quân Mỹ thiết lập cầu không vận, nên việc tiếp viện
không bị gián đoạn. Võ Nguyên Giáp nướng hơn 10 000 quân việt cộng và
thảm bại vì lý do này... Cuối cùng là chiến thuật biển người học tập mô
hình của Trung cộng chứ không phải của ông Giáp cũng khiến cho hàng
triệu người chết oan uổng để tô đẹp cho thành tích của ông ta.
Thứ nhất, theo Sắc Lệnh số 110/SL ngày 28 5/1948, Giáp
được phong quân hàm Đại tướng, vị Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Nhân
Dân Việt Nam lúc vừa tròn 37 tuổi. Về sau, nhân vụ phong tướng nầy, mà
một ký giả ngoại quốc đã hỏi ông Hồ, dựa vào đâu, và căn cứ vào tiêu
chuẩn nào để phong quân hàm cho một lúc nhiều người như vậy. Hồ Chí Minh
đã trả lời, “Ai đánh thắng đại tá thì
phong đại tá, thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, ai đánh thắng
trung tướng thì phong trung tướng, và ai đánh thắng đại tướng thì phong
đại tướng”. Cũng chính vì đại tướng được phong kiểu của cộng sản mà đã gặp phải thảm bại khi gặp người Mỹ: “Năm
1968, Khi Võ Nguyên Giáp dùng 3 Sư đoàn bộ binh và trọng pháo bao vây
toan lấy chiến thuật “biển người” để tiêu diệt 6,000 Thủy Quân Lục Chiến
Mỹ cùng khoảng 200 tay súng Biệt Động Quân QL/VNCH trên đồi Khe Sanh,
Quảng Trị. Nhưng không chiếm nỗi, đổi lại Phía CS Bắc Việt bị pháo đài
bay B52 trải thảm tiêu diệt từ 10 đến 15, 000 bộ đội - Đó là chưa kể
thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng
ngàn thương binh”. (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr. 130).
Thứ hai, năm 1972, đích thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến
dịch Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ (Mùa hè đỏ lửa) Trên địa hình
nhỏ hẹp dài, bên núi, bên biển, Vùng Chiến thuật 1, Cùng lúc 6 sư đoàn
CS Bắc Việt hành quân tiến công trong tình cảnh liên tục bị bom rải thảm
B-52, pháo kích từ chiến hạm Mỹ, pháo kích từ Vùng Chiến thuật 1. Quân
cộng sản bị chặn lại, chỉ chiếm được nửa phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Theo
thông tin nội bộ thì cộng sản này cho biết, trong suốt 9 tháng chiến
dịch, sư đoàn 308 thương vong 70% quân số; Sư đoàn 312 đã bổ sung quân
13 đợt, mỗi đợt 500 người; sư đoàn 320 thương vong 80% quân số. Các sư
đoàn còn lại tham chiến đều mất ít nhất nửa số quân. Tổng thương vong
lên tới hơn 30 ngàn người (trong đó gần 14.000 hy sinh). Chiến dịch cũng
khiến cộng sản tiêu tốn hơn 300.000 viên đạn pháo gần 4/5 lượng đạn
pháo trong kho, dẫn đến tình trạng thiếu đạn, chỉ còn 100.000 viên cuối
năm 1974. mà không có được một thành quả cụ thể chiến thắng nào. Để
khẳng định điều này thì chính tài liệu của cộng sản đã khẳng định.
Trong cuốn sách có tên gọi tạm dịch ra tiếng Việt “Liên Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa được biết”
của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu
lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, ông cũng là đảng
viên đảng cộng sản Liên Xô. Cuốn sách này đã được nhà xuất bản Lịch sử
của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995, có đoạn trong trang 240 như sau: “Về
cơ bản chiến dịch tổng tấn công mùa hè năm 1972 của quân đội ông Giáp
thất bại hoàn toàn mà không đem lại lợi ích nào cụ thể. Cái được lớn
nhất chỉ là kinh nghiệm cho cuộc chiến sau này. Nhưng có lẽ ông Giáp là
người phải chịu trách nhiệm cao nhất cho cái chết của hơn 15 nghìn người
lính...”
Cũng là một tài liệu cộng sản khác khẳng định điều này đó là tài liệu
tổng kết chiến dịch mùa hè 1972 của bộ tổng tham mưu có bí số KHTM/1972-
BQP cho biết: “Chúng ta đã thiệt hại
nặng nề nhất kể từ sau tổng tiến công Mậu thân năm 1968 mà cần phải một
thời gian chừng 4 năm nữa mới có thể khôi phục lại...”
Thứ ba, chính ông Giáp đã kể lại trong lần sinh nhật thứ 84 của mình như sau: “Năm
1972, còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, tôi
vẫn lấy phương châm tiến công như mọi khi: 'Lấy ít địch nhiều, lấy yếu
thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động, khiến địch trở tay
không kịp'. Cứ dùng chiến tranh du kích tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ,
hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng rồi đánh cấp tập một
trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn ra từ
trước đến nay. Không ngờ quan điểm của tôi bị Ba Duẩn (Lê Duẩn) bác bỏ
không thương tiếc. Giữa hội nghị, anh Ba đập tay xuống bàn, quát: "Thế
là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ
lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu, cứ đánh
vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách
nhiệm."
Kết quả trong suốt 60 ngày đêm của
chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu chập
choạng tối, một đại đội ta ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang
để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười
lăm người. Lần nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương).
Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả
một khúc sông, không một bóng người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như
những âm hồn vọng vang khắp đáy sông. Như vậy, trung bình mỗi ngày ta
tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 người) và 60 ngày đêm tấn công
thành cổ ta mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ
chôn thanh niên, sinh viên, trí thức Việt Nam.”
Vậy đâu là cái tài của ông Giáp? Có lẽ chỉ là nướng quân mà thôi.
Trong khuôn khổ một bài viết chỉ có thể điểm lại và tóm lược các sự việc
một cách ngắn gọn nhất không cho phép đi quá dài về một vấn đề. Trong
phần tướng Giáp với VNCH và Mỹ này tôi xin mời bạn đọc đọc thêm “Những sự thật cần phải biết - Phần 1”
để thấy đâu là nguyên do “chiến thắng” trên mặt quân sự của cộng sản
năm 1975. Và từ đó bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về cái “tài” của ông Giáp.
c. Cuộc chiến năm 1979 với Trung cộng:
Võ Nguyên Giáp và Trần Canh năm 1950
Trong cuộc chiến Việt - Trung tháng 2-1979 thì quân đội cộng sản hoàn
toàn bị bất ngờ. Để trừng phạt Việt nam, Trung cộng đã sử dụng 10 quân
đoàn chủ lực và một số sư đoàn độc lập, bao gồm 300.000 binh sĩ, 550 xe
tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối, hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến
của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay phía sau.
Các nguồn tin phương Tây nhận định rằng Trung cộng đã mất từ 60 đến 90
ngày để đưa quân vào các vị trí tập kết sẵn sàng cho các mũi tấn công.
Chỉ cần là nhân viên quân báo cấp trung đoàn, hay các tổ trinh sát đặc
biệt cũng nhận ra được ý đồ, và ngày giờ khai hỏa của đối phương, nói gì
đến tình báo chiến lược.
Mờ sáng ngày 17-2-1979, Trung cộng tấn công trên toàn tuyến biên giới
dài 1.400 Km, trải rộng trong một khoảng không gian gồm 7 tỉnh Điện
Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Việt Nam hoàn toàn không hay biết gì, khi Trung cộng tràn qua biên giới,
thì thủ tướng Phạm Văn Đồng và đại tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu
trưởng, đang thăm Campuchia. Dân chúng không được thông báo trước, trẻ
em, người già, và phụ nữ có thai, không kịp di tản ra khỏi vùng chiến
địa. Trung cộng đã tạo ra được một yếu tố bất ngờ đến ngoạn mục. Câu hỏi
được đặt ra là tướng Giáp đã ở đâu? Ông đã làm gì khi vận mệnh nước
Việt bị quân đội do ông lãnh đạo không hề hay biết giặc tập trung và tấn
công? Có lẽ là do ông bất tài.
Chúng ta phải quay lại thời kỳ trước đó, tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình
công du Thái Lan, Malaysia và Singapore. Đặng Tiểu Bình nói với các vị
chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia
và đã gọi Việt Nam là những tên du côn của phương Đông, phải dạy cho
chúng một bài học.
Ngày 28-1-1979, Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, và tuyên bố “Chúng tôi không
thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi”, “ Trung Quốc kiên định
đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược Việt Nam”. Giọng điệu chiến tranh của Đặng rất rõ. Báo chí Mỹ loan tải sớm muộn gì thì một cuộc chiến giữa hai nước cộng sản sẽ nổ ra.
Sau 3 ngày thăm Mỹ, Đặng Tiểu Bình đến Nhật và tại đây vẫn giọng điệu hung hăng “Để
trừng phạt Việt nam, dù có gặp những nguy hiểm cũng phải hành động”;
“Không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây
chuyền”, “Đối phó với loại người vô ơn như thế, không có những bài học
cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả”.
Cũng khoảng thời gian này, TASS - hãng thông tấn của Liên Xô cũng đưa
tin một lực lượng rất lớn quân đội Trung Quốc đang áp sát biên giới
Việt-Trung. Từ Nhật về, Đặng Tiểu Bình chỉ thị tấn công Việt Nam vào
ngày 17-2. Thời gian của chiến dịch không dài hơn cuộc chiến một tháng
với Ấn Độ (1962), không gian của cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn
chế, trong phạm vi trên dưới 50 cây số từ biên giới.
Bằng chứng Đặng Tiểu Bình sẽ trừng phạt Việt Nam đã rõ như ban ngày,
nhưng không hiểu vì sao phía Việt Nam và nhất là quân đội tướng Giáp lại
không hề hay biết? Có lẽ cái “tài” nhận định, đánh giá tình hình của
tướng Giáp chính là đây.
Thiếu tin tình báo, nhận định và phân tích tình hình sai, không nắm được
thời điểm nổ súng, thời gian, không gian, và quy mô chiến dịch của đối
phương, đã dẫn đến việc tướng Giáp không hề bố trí những quân đoàn chủ
lực dọc biên giới. Tất cả phó thác cho dân quân tự vệ, bộ đội địa
phương, và một vài trung đoàn độc lập.
Sau những ngày chiến đấu ngoan cường nhưng đơn độc của sư đoàn Sao Vàng
trước một đối phương áp đảo về số lượng và hỏa lực, ngày 4-3-1979, Lạng
Sơn thất thủ. Sáng 5-3, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu của
cuộc trừng phạt, chiến thắng vẻ vang, và quyết định rút quân. Cùng ngày
5-3, Việt Nam phát lệnh “Tổng Động Viên”. Những quân đoàn chủ lực của
quân đội cộng sản có xe tăng, pháo binh, và không quân từ chiến trường
Campuchia trở về, cùng với một địa hình muôn vàn hiểm trở của núi rừng
miền Bắc, Việt Nam đã vào vị trí vây hãm Trung cộng. Tất cả đã sẵn sàng
cho cuộc phản kích, mà phần thắng sẽ thuộc về tay quân của ông Giáp.
Nhưng thật bất ngờ, Việt Nam lại tuyên bố “Thiện Chí Hòa Bình”,
rằng truyền thống ông cha ta... rằng lòng cao thượng... rằng lòng nhân
đạo của dân tộc ta... Việt Nam sẽ để cho Trung cộng rút quân an toàn.
Sự thật trên đường rút quân, Trung cộng vẫn chém giết, vơ vét, và phá
hoại. Vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại Đổng Chú, huyện Hòa An, Cao Bằng là
một thí dụ. Trung cộng đã dùng búa, dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ
trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, 20 trẻ em, và 2 người đàn ông, rồi
ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc vứt hai bên bờ suối. Trung
cộng có đủ thời gian và không gian để phá hoại hạ tầng cơ sở, chiếm giữ
những điểm cao quan trọng, và gài lại hàng triệu trái mìn cá nhân trên
đường rút lui.
Quyết định “Thiện Chí Hòa Bình” của cộng sản Việt Nam hình như là
một thái độ thủ hòa, nhưng hòa vào một thế vô cùng bất lợi. Từ đó,
trong bất kỳ những cuộc thương thảo nào về biên giới, Trung Quốc luôn ở
thế kẻ cả, áp đảo, và lấn lướt mà chúng ta thấy rất rõ. Đây là hệ lụy từ
sai lầm mang tính chiến lược do tướng Giáp và Bộ tổng tham mưu gây ra.
Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung cộng tàn phá tháng 2.1979
Sự thật thì không chỉ có cuộc chiến năm 1979 mới thể hiện rõ sự kém cỏi
của tướng Giáp. Mà ngay cả sau này sự việc mất Lão Sơn cũng là do lỗi
của ông và đội quân dưới trướng ông.
III. Một vị tướng ác:
Trong một lần phóng viên báo chí quốc tế tại Hà Nội, phóng viên phỏng vấn ông Giáp: “...Ngài có hối tiếc gì về hơn 4 triệu người Việt Nam đã chết vì cuộc nội chiến ý thức hệ Cộng Sản?...” - Ông Võ Nguyên Giáp không đắn đo điềm nhiên trả lời bằng tiếng Pháp: “(Non, pas du tout) “không hề hối tiếc”. Và trong quá khứ, Võ Nguyên Giáp đã từng tuyên bố: “Nếu phải hy sinh 2/3 dân số để giành lại Tổ Quốc trong tay ngoại bang thì ta cũng làm!”
và Võ Nguyên Giáp đã làm những điều ông ta tuyên bố... Có lẽ vì vậy mà
ông đúng là một vị tướng không tiếc thương quân của mình chỉ với mục
đích lập nên những hư danh, hay nói cách khác ông chính là một vị tướng
Ác. Để chứng minh điều này chúng ta cần phải tìm hiểu một số luận điểm
như sau.
Thứ nhất, theo ông Philippe de Vedevilliers, một sử gia nổi tiếng Pháp, tác giả quyển “Histore Contemporaine de l'Indochine” và ông Hoàng Văn Đào, tác giả quyển “Việt Nam Quốc Dân Đảng” cho biết: “Khi
Hồ Chí Minh qua Pháp, đã giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc đó đang giữ
chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ được tạm quyền thay thế chủ tịch Nước. Võ
Nguyên Giáp lợi dụng lúc cụ Kháng đi kinh lý tỉnh Quảng Nam - lúc đó ông
Giáp tuy đang giữ Bộ Quốc Phòng - trong mưu đồ có phương tiện và cơ hội
ra tay triệt hạ các chiến sĩ quốc gia chống VM cộng sản, Giáp lại đề
nghị kiêm luôn chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội Vụ để tiện hành xử… Chỉ cần đợi
lệnh Bộ Nội Vụ, “cương quyết trị tội” những kẻ làm việc phi pháp thì đến
ngày 13-7 Võ Nguyên Giáp lệnh cho bộ đội và công an các địa phương được
phép tấn công triệt hạ các chiến khu VNQDĐ, trừ trụ sở Trung Ương Hà
Nội. Và chỉ trong vòng một tháng thì bàn tay đẫm máu của Giáp đã triệt
hạ và tận diệt hết lực lượng quốc gia và chiến sĩ yêu nước liên hệ...”
Qua điều này chúng ta thấy điều gì? Đó là Võ Nguyên Giáp quá ác độc với
chính đồng bào mình và thủ tiêu đảng phái khác mà cụ thể đây chính là
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đây chính là mình chứng cho thấy ông Giáp rất
tàn ác.
Thứ hai, đánh giá về hành động ám sát khủng bố những người quốc gia không cộng sản có nhiều bằng chứng về ông Giáp là một tên đồ tể “H.
Berrier còn cho rằng vào năm 1944, những ngày đầu tiên khi còn hoạt
động bên cạnh Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Tướng Bình đã cùng với Võ
Nguyên Giáp ám sát, khủng bố những thành phần quốc gia chống Pháp mà
trước đây Bình từng là đồng chí với họ thời năm 1930. Bình và tướng Giáp
đả mở những cuộc thanh trừng và sát hại rất nhiều thành phần được coi
là Việt Gian. Khi giết những đồng chí Quốc Dân Đảng, phải chăng
Nguyễn Bình muốn trả cái thù bị đâm chột mắt khi còn bị giam ở Côn Đảo?
Rõ ràng cái gợi hứng ám sát và thủ tiêu những thành phần thù địch,
Nguyễn Bình bước đầu cùng đi một con đường với tướng Giáp” (Tóm lược Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 của Nguyên Hùng).
Và sau đó thì hãy nghe lời tướng Giáp nói với Nguyễn Bình để thấy ông
Giáp quyết tâm thanh trừng người yêu nước không cộng sản thế nào: “Anh
hãy nghe đây, tướng Giáp nói với Bình: Anh là một người quốc gia thông
minh. Anh phải đứng chung trong hàng ngũ của chúng tôi nếu không chúng
tôi sẽ thủ tiêu những người bạn trẻ của anh. Chúng tôi phải làm như vậy
bởi vì họ sau này có thể là những kẻ phản bội. Anh đã biết nếu những
người này trở thành những người anh hùng? Bây giờ thì có thể họ chưa là
gì, nhưng sau này thì họ sẽ đi vào lịch sử. Bởi vì họ đã làm được một số
công trạng trong những năm vừa qua, họ ham muốn quyền lực. Nhưng họ lại
không xứng đáng được. Và để đạt được quyền lực đó, họ chỉ có một con
đường mà họ có thể làm được. Là họ sẽ cộng tác bắt tay với bọn Quốc Dân
Đảng hoặc với Pháp. Họ phải bỏ đi thôi.” (Tóm lược Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 của Nguyên Hùng).
Chính vì vậy, nhìn toàn diện các hoạt động khủng bố, ám sát ở những ngày
đầu cuộc kháng chiến, ta phải coi ông Giáp là người chủ trương như nhận
xét của Robert J O’ Neill: “Tướng Võ
Nguyên Giáp chịu tất cả mọi trách nhiệm trong khi Hồ Chí Minh vắng mặt
về việc sát hại hằng trăm các nhà chính trị dám chống lại Việt Minh, phá
hại tất cả các tổ chức nào xem ra có thể cạnh tranh với Việt Minh cũng
như cấm đoán mọi tờ báo nào xuất bản mà không có sự kiểm soát của Việt
Minh. Ông cũng đã thiết lập được một quân đội từ 30.000 lên 60.000 cũng
như một đơn vị tự vệ từ các thường dân…”(Trích “Robert J O’ Neill, General Giap: Politician & Strategist, trang 44”).
Thứ ba, trong cuộc phỏng vấn tạp chí George
năm 1998, chính tướng William Childs Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy
cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam - nói về tướng Võ Nguyên Giáp
của quân đội cộng sản như sau: “Of course, he was a formidable adversary... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius. An American commander losing men like that would hardly have lasted more than a few weeks”. Xin được tạm dịch là: “Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm... Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự. Với một người lính Mỹ mất tình thì chỉ huy sẽ rất khó khăn trong vài tuần lễ”.
Chúng ta cũng phải nhận thấy một điều là với Westmoreland, một chiến
thắng quân sự dựa trên chiến thuật đẫm máu, coi thường sinh mạng binh sĩ
chỉ có thể tạo nên một kẻ thù nguy hiểm chứ không tạo nên một thiên tài
quân sự. Điều này cho thấy cộng sản Việt Nam thật sự tàn độc và coi
thường sinh mạng binh sĩ. Đây không chỉ là điều ám chỉ mình tướng Giáp
công thành khiến “vạn cốt khô” mà nó còn ám chỉ bản chất không từ
bỏ bất cứ một thủ đoạn nào của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Mục
đích của cộng sản là lợi dụng xương máu của nhân dân để đem lại lợi ích
cho đảng mà không có chút tình người, tình dân tộc nào ở đây. Tướng
Westmoreland cũng khá sâu sắc khi dùng từ “formidable” vì nó có nghĩa như là sự khủng bố mà chính cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân 2 miền.
Thứ tư, để khẳng định thêm về việc coi thường sinh mạng chính đồng chí mình trong cuộc chiến, mời các bạn đọc bức thư sau đây.
Bức thư nói lên điều gì? Đó là một sự thật đau lòng: Người Mỹ coi trọng
sinh mạng con người và coi cuộc chiến tranh là một điều quy ước, còn
cộng sản thì bất chấp cả việc dọn xác đồng đội mình và lao vào cuộc
chiến như một con thiêu thân bất chấp mọi thủ đoạn. Đây chính là sự thật
đằng sau tấm mặt nạ “vì nước vì dân” của đảng cộng sản. Đối với đảng,
sinh mạng người chiến sỹ, người bộ đội chỉ là một thứ đồ chơi! Ông Giáp
là tướng đã ở đâu khi coi thường sinh mệnh của chiến sỹ mình? Có lẽ ông
Giáp không cần biết vì ông còn mải thực hiện theo lời Trung cộng “Đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” và lời của Hồ Chí Minh “Dù phải đốt cả dãy trường sơn cũng phải đánh Mỹ...”
Thứ năm, người chiến sỹ là bộ đội cộng sản ra trận không
chỉ bởi những thúc ép từ quê nhà bằng chính sách hộ khẩu và đấu tố đào
ngũ mà còn ngay tại mặt trận họ bị bắt ép phải chết vì đảng cộng sản.
Xin lấy một vài ví dụ:
Cuốn sách “Stalking the Vietcong” (7) tại trang 207 đã có hình ảnh và minh chứng cho việc quân đội cộng sản đẩy những thanh niên vào những sợi xích chân bắt buộc họ phải hi sinh oan uổng vì chủ nghĩa cộng sản.
Cũng nói về việc cưỡng bức và lên dây cót tinh thần chiến đấu của các
chiến sỹ bộ đội cộng sản, đảng đã không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào. Trong
cuốn “Mặt trái của chiến tranh” do Hội Văn nghệ quân đội Nga xuất bản năm 1995 có viết tại trang 15: “Các
cuộc chiến đều đem lại đau thương và người ta thậm chí còn kích thích
tinh thần người chiến sỹ bằng những liều thuốc. Người Đức dùng Ma túy
tổng hợp, người Trung Quốc dùng thuốc tự chế tên gọi “hùng tâm” mà sau
này có dùng trong chiến tranh Việt Nam cho quân đội Miền Bắc...”
Vậy ông Giáp đã ở đâu khi để quân của ông phải chết vì những cái chết
oan uổng đó? Nếu làm tướng mà xây danh vọng trên xác binh lính một cách
phi nghĩa và độc ác như thế thì có đáng được tôn vinh hay không?. Tôi
mong những giây phút cuối đời ông Giáp hãy dũng cảm nói lên sư thật này.
Ngoài ra, ông Giáp nghĩ gì khi chính bộ chính trị và quân ủy quyết định
dùng trẻ em như những quân bài tẩy trong chiến tranh (Xin xem thêm “Những sự thật cần phải biết - phần 11”).
Một vi tướng dùng trẻ em để hi sinh có phải là anh hùng không? Anh hùng
thì chắc chắn là không mà cái Ác thì chắc chắn là có.
Thứ sáu, để kết luận về tính “ác” của ông Giáp thì hãy đọc đoạn sau đây trong cuốn Losers are Pirates by James Banerian1984, Tr.69): “Năm
1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam.
Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người
quốc gia Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt - Pháp sắp xảy ra, Giáp là
Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi
quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là
quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về
đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp. Ngày 19 tháng 12,
chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông
từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ
Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự
với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố
lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và
đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội.”
Chúng ta thấy ở đây điều gì? Đó là ông Giáp đã có đầy đủ bản chất của
những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở
xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo.
IV. Kết luận:
Năm 1983, Võ Nguyên Giáp bị Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sinh đẻ có kế hoạch.
Ông Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Ngày trước,
trong vụ Nhân văn Giai phẩm xảy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã
ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng,
Phùng Quán... bị đem ra đấu tố, tù đầy, Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ
án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn
em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá
thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn... bị hãm
hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn
Thái (cũng là thông gia của ông Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị
cộng sản hóa thì ông Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng.
Ông Giáp đã để lộ rõ cái hèn của mình. Ông Giáp kệ mặc đàn em bị thảm
sát, tù đày. Theo nhà báo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng
Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ ông Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn
thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa: “Anh Văn quá hèn”. Chức
vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là một hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có
truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:
“Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em”.
Với tôi, trong bài viết này không quan trọng chuyện đó vì đây là thuộc
phạm trù con người. Ông Giáp có quyền né tránh và thủ thân cho mình.
Tuy nhiên cái không được của ông Giáp ở đây chính là ông quá bất tài
nhưng không chịu chấp nhận sự thật đó mà vẫn mặc kệ im lặng để cộng sản
tô vẽ nhưng cái ông không có. Ngoài ra, bằng sự coi thường sinh mệnh
nhân dân, sinh mệnh chiến sỹ thì ông Giáp xứng đáng được liệt vào hàng
tướng Ác. Nhưng không phải chỉ là ác với đối phương mà ác với chính quân
của mình, coi quân của mình như cỏ rác.
Với một lý lịch bất minh là con của mật thám Pháp thì ông Giáp đáng lẽ
ra không thể theo cộng sản. Nhưng vì ông ta có cái ác, cái lỏi mà Hồ Chí
Minh thích sử dụng ông ta. Bởi vậy người ta sẽ dễ dàng giải thích vì
sao ông im lặng cho Hồ Chí Minh giết hại hàng triệu đồng bào trong CCRĐ.
Tại sao ông Giáp im lặng cho Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh ký công hàm
bán Hoàng Sa - Trường Sa năm 1958. Những người ca ngợi ông sẽ lấy lý do
gì bào chữa cho việc ông “có tâm” mà lại để những việc bán nước, giết
người xảy ra ngay trước mũi khi ông nắm quân đội trong tay. Có lẽ ông
Giáp cũng chỉ là một người cộng sản như bao cộng sản khác đó là: bán
nước, độc tài, tàn ác và bất tài mà thôi!
05/09/2013
danlambaovn.blogspot.com
____________________________________
Chú thích:
____________________________________
Chú thích:
Thursday, September 5, 2013
HÒA THƯỢNG TRÍ QUANG * TỰ TRUYỆN
TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN -
Tác gỉa: Thích Trí Quang
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2011
(Sách dày 216 trang, nhà xuất bản Tổng Hợp TP. HCM tại Sài Gòn. In 3000 cuốn, xong ngày 22-7-2011. Tác giả viết xong ngày 24-4-2011. Sách không chia thành chương, mục mà được phân thành 47 đoạn viết theo lối hồi ức, tự truyện. Không có một hình ảnh nào minh họa từ bìa đến nội dung.)
Bài viết liên quan đến chủ đề:
● TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN: Không vẫn hoàn không - Trần Kiêm Đoàn
● TIỂU TRUYỆN TỰ GHI Hòa thượng Thích Trí Quang ● TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN: phác thảo về cuộc đời và sự nghiệp của một danh Tăng -Tâm Đăng ● THÍCH TRÍ QUANG VÀ VIỆT NAM - James Mc Allister - Trần Ngọc Cư dich ● Thich Tri Quang and the Vietnam War - JAMES McALLISTER (Nguyên tác tiếng Anh - PDF) ● CON NGƯỜI THẬT CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH TRÍ QUANG - Đào Văn Bình ● PHẬT GIÁO VIỆT NAM NĂM 1963 - Phóng viên Neil Sheehan - Ảnh của © Bettmann/CORBIS ● PHẬT GIÁO VIỆT NAM NĂM 1967 Bài: Trọng Hoàng - Ảnh của nhiếp ảnh gia: Co Rentmeester (Life) ● HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG và Một Chặng Đường Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - Huỳnh Kim Quang Thích Trí Quang là một thượng tọa Phật giáo, ông đóng một vai trò khá quan trọng diễn biến của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Thích Trí Quang tên khai sinh Phạm Quang, tên tục là Do [1], sinh năm Giáp Tý (1924), tại làng Diêm Điền, tỉnh Quảng Bình.
Ông là con thứ tư trong gia đình có 6 anh em trai, hai anh đầu khác mẹ.
Thân mẫu ông là hội viên Hội Tiên Thiên Thánh Giáo (hội những người lên
đồng). Cha ông bán thế xuất gia với ngài Thích Đắc Quang, pháp danh
Hồng Nhật. Khi ông được 6 tuổi, bố mẹ cho ông học chữ Hán và chữ quốc
ngữ. Sau đó ông được gửi đi tu học tại Chùa Bảo Quốc, Huế với các Thượng tọa Thích Trí Độ, Thích Mật Thể v.v... là những vị sáng lập Phong trào Chấn hưng Phật giáo tại miền Trung Việt Nam[2].
Năm 1938, ông xuất gia vào Huế theo học chương trình đào tạo tăng sĩ
và hoàn tất chương trình vào năm 1944. Mùa hè năm 1946, ông được mời ra
Hà Nội thành lập Phật học viện tại chùa Quán sứ. Cuối năm 1946, ông trở
về Quảng Bình thọ tang cha, sau đó ra Huế tu tại chùa Tù Đàm. Ở Huế vì
hoạt động trong Hội Phật giáo Cứu quốc, ông bị chính quyền Pháp thời ấy
bắt giam và bị quản thúc sau khi được trả tự do. [3]Đầu năm 1947, Pháp chiếm Quảng Bình, ông vào chiến khu chống Pháp, phụ trách quận hội của Liên Việt.
Năm 1963, sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm
dùng bạo lực đàn áp các cuộc biểu tình phản kháng của Phật giáo, Trí
Quang đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sách động và duy trì
cuộc khủng hoảng chính trị lâu dài, một cuộc khủng hoảng cuối cùng đã
dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Trong Sự kiện Phật Đản, 1963,
thượng tọa Thích Trí Quang là nhà lãnh đạo Phật Giáo được báo chí quốc
tế nhắc nhở tới nhiều nhất. Khi Chùa Xá Lợi bị tấn công, tăng ni bị bắt,
việc ông vượt khỏi hàng rào nhà tù vào lánh nạn trong Toà Đại Sứ Mỹ tại
Saigon từng được coi là một bí ẩn, mọi chi tiết chưa từng được kể lại.
Tuần báo Time đã từng đăng hình Thượng Toạ với lời ghi chú "Người làm
rung rinh nước Mỹ".
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, hai anh em Diệm Nhu bị giết,
Thích Trí Quang vẫn không trở về với vị trí bên lề của trường chính trị,
ông tiếp tục vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình lên sinh mệnh chính trị
của Việt Nam Cộng hòa bằng cách ban bố hay từ chối hậu thuẫn của mình
cho những chế độ quân nhân đã điều hành quốc gia từ 1964 đến 1966. Trong
vụ Biến động Miền Trung
vào năm 1966, thượng tọa Thích Trí Quan là người đề nghị đồng bào đưa
bàn thờ Phật xuống đường để ngăn chặn lối đi của quân chính phủ.
Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, ông là Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, trong khi Thượng toạ Thích Tâm Châu là Viện trưởng Viện Hoá Đạo.
Theo tướng Nguyễn Hữu Có thì trong Sự kiện 30 tháng 4, 1975 thì Thích Trí Quang là một kênh liên lạc của đại tướng Dương Văn Minh với phía bên kia[4] Từ sau 1975 cho tới nay, ông vẫn sống yên lặng tại Saigon, hiện tĩnh tu tại chùa Già Lam. Bên cạnh việc san dịch kinh sách, ông đang hoàn tất một hồi ký đặc biệt về cuộc vận động của Phật Giáo Việt Nam.
Theo James McAllister trong "Only Religions Count in Vietnam : Thich
Tri Quang and the Vietnam War," thì: "Học giả bên cánh hữu thì cho rằng
Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà
Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn
giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc
nhanh chóng." Tuy nhiên: "Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ
qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là,
Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận
việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Quốc. Yếu tố
chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson
là việc Trí Quang quả quyết rằng các chế độ quân sự tiếp theo Ngô Đình
Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc
chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi. "[5]
Chú thích
- ^ Có tài liệu nói ông tên thật là Nguyễn Văn Bòng
- ^ TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX - TẬP I Thích Đồng Bổn Chủ biên Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành
- ^ Lại chuyện Thích Trí Quang
- ^ Thượng Tọa Thích Trí Quang và Đại Tướng Minh
- ^ Tạp chí Modern Asian Studies 42, 4 (2008), pp. 751–782
Hòa Thượng Thích Trí Quang:
Tiểu truyện tự ghi
Tôi người Quảng bình, 1 trong 3 nơi
mà Huyền trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải
dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng bình, rồi
định cư ở 3 làng. Thuận lý là con trưởng, kế đó, Phương xuân là con thứ
2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư. Làng
tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim
bay.
Trước đó, cả làng định cư bao giờ không rõ, chỉ biết vì chậm chân nên ngoài số ruộng đất không đáng kể, làng tôi phải làm muối, vì con sông của làng là nhánh sông lớn Nhật lệ, nước mặn. Do đó mà có tên Diêm điền, cấp phường chứ không phải xã,thuộc tổng Long đại, phủ Quảng ninh, 1 trong 5 phủ huyện của Quảng bình. Vị trí gần tỉnh lỵ, nhưng làng không có truyền thống học chữ Tây. Vẫn học Nho, nhưng không có tiếng là làng Nho học hay khoa bảng gì.
Một bí mật mà nay nên nói ra. Làng tôi có liên hệ khá chặt chẽ với phong tràoVăn thân của chí sĩ Phan đình Phùng. vùng núi phía tây của làng có 2 quân thứ của phong trào. Bác họ tôi là một chỉ huy cấp trung, ông ngoại tôi là một đội viên, của một trong 2 quân thứ. Cha tôi là “người của vua Minh”, tiếng gọi kín vua Hàm nghi.
Năm tôi 14 tuổi, cha tôi bảo đi theo ra thăm đám ruộng cạnh giếng Nĩ, vùng Ải dài, nghiêm trọng kể cho tôi, và bảo, “phải biết và nhớ lấy”. Tôi hỏi, làng mình có ai là “người của vua Minh” nữa không, cha tôi đắn đo rồi bảo, có, làng mình và các làng chung quanh, nhất là dưới tỉnh, có cả. Nhưng, này, “quốc tặc” là gì, con biết không, tôi thưa, dạ biết. Cha tôi bảo, biết, biết nó là gì thì không được sợ, cũng không được khinh suất.
Trước đó, cả làng định cư bao giờ không rõ, chỉ biết vì chậm chân nên ngoài số ruộng đất không đáng kể, làng tôi phải làm muối, vì con sông của làng là nhánh sông lớn Nhật lệ, nước mặn. Do đó mà có tên Diêm điền, cấp phường chứ không phải xã,thuộc tổng Long đại, phủ Quảng ninh, 1 trong 5 phủ huyện của Quảng bình. Vị trí gần tỉnh lỵ, nhưng làng không có truyền thống học chữ Tây. Vẫn học Nho, nhưng không có tiếng là làng Nho học hay khoa bảng gì.
Một bí mật mà nay nên nói ra. Làng tôi có liên hệ khá chặt chẽ với phong tràoVăn thân của chí sĩ Phan đình Phùng. vùng núi phía tây của làng có 2 quân thứ của phong trào. Bác họ tôi là một chỉ huy cấp trung, ông ngoại tôi là một đội viên, của một trong 2 quân thứ. Cha tôi là “người của vua Minh”, tiếng gọi kín vua Hàm nghi.
Năm tôi 14 tuổi, cha tôi bảo đi theo ra thăm đám ruộng cạnh giếng Nĩ, vùng Ải dài, nghiêm trọng kể cho tôi, và bảo, “phải biết và nhớ lấy”. Tôi hỏi, làng mình có ai là “người của vua Minh” nữa không, cha tôi đắn đo rồi bảo, có, làng mình và các làng chung quanh, nhất là dưới tỉnh, có cả. Nhưng, này, “quốc tặc” là gì, con biết không, tôi thưa, dạ biết. Cha tôi bảo, biết, biết nó là gì thì không được sợ, cũng không được khinh suất.
Nhà
tôi có 6 anh em trai. Anh đầu là Phạm Huệ, mất ở Lào. Anh hai là Phạm
Cần, 102 tuổi, mất năm kia. Bốn anh em còn lại, sinh cùng một mẹ, là
Phạm Minh,90 tuổi; tôi Phạm Quang, 89 tuổi; em, Phạm Chánh, tử trận năm
1947, trong tuần lễ thứ 2 chống Pháp tại tỉnh nhà; em út là Phạm Đại,
mất chưa kịp gặp tôi, sau 1975. Tôi có bác ruột, Phạm Phương, tử trận
tại bến Bồ đề, cuối cầu gỗ Đông ba, Huế, trong trận chiến quân ta tấn
công tòa Khâm sứ Pháp, ở đây. Mẹ tôi rất thích nghe bài sám Lương hoàng,
người Đức phổ, cùng làng với bổn sư, và tổ sư của tôi (là người Đắc ân,
trú trì quốc tự Linh mụ. Cả cha mẹ cùng qui y ngài nầy, làm Phật tử tại
gia (đồng sư với bổn sư của tôi). Cha tôi tâm đắc nhất nên tự phiên âm
chữ Nôm bản “Truyện Phật Thích ca” của Từ bi âm, thích thú đọc lớn, ngâm
nga hoài, nhất là những lúc một mình, và khi mất đã tự đặt sách ấy trên
ngực, 2 tay giữ lấy.
Nhánh ba họ Phạm làng Diêm điền là gia tộc của tôi, theo Phật từ lâu, nhưng thật sự là ông nội và cha tôi. Cha tôi khi bán thế xuất gia thì làm đệ tử ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) em ruột ngài Đắc ân. Danh hiệu long vị là “Người dòng phái đại tổ sư Nguyên thiều, pháp danh Hồng nhật, pháp tự Tâm nguyên, đắc pháp với pháp húy Huyền đàm đại sư.”
1/3
Năm lên 7, mẹ tôi chuẩn bị đâu vào đó, rồi nghiêm mặt đến nỗi anh Minh và tôi không dám hó hé, nhưng tôi có cảm giác là lạ, và mẹ ra lịnh “sáng mai đi học”! Khai tâm cho anh em tôi là tiên chỉ của làng. Mậu thực phu từ. Mẹ tôi soát vở học luôn, bằng cách đếm trang vở, nhìn chữ son đồ nét mực đen, rồi bảo tôi trước, “họcgì đọc cho mẹ nghe”! Nghe xong, mẹ im lặng, 2 năm sau, đem anh em tôi lên làng Thuận lý, cách nhà 6 cây số, học với bác họ, bác ấm Lộc, cha làm Kinh lược ở đâu ngoài Bắc. Bác hơi dữ. Nhưng lo cháu bị mẹ đánh, bác bảo viết lại bài làm, khuyên vào nhiều vòng đỏ. Mẹ cũng đoán ra, xin bác đừng thương lắm kẻo cháu hư thân.
Mẹ về. Bác bảo, họ Phạm ta ở làng nào cũng kém lắm. Bác gọi tên tục của tôi mà bảo. Do, cháu gắng lên nữa, cho mẹ vui, bác vui. Tất cả vốn liếng chữ Nho, chữ quốc ngữ và trọn chương trình Cơ thủy hồi đó, do sở Học chính Đông dương biên soạn, chúng tôi được học cả. Trừ chữ Tây. Bác Lộc nói với mẹ, cháu tạm ngưng được rồi. Những gì đủ để sống ra trò ở thôn quê, tôi đã dạy cháu. Cô có thể tìm cách cho cháu học theo chương trình Tây soạn ra, một mớ chữ của nó nữa là đi thi lấybằng Cơ thủy, học lên Thành chung... Nhưng cái đó tùy cô, bàn xét cho kỹ. Mẹ tôi bàn với cậu ruột của tôi. Nhất là xét kỹ coi tôi có đủ sức sống với thôn quê, hay không. Cậu xét gắt gao, và nói với mẹ, bác ấm Lộc dạy rất tốt. Còn việc học lên nữa thì phải xét có tiền không, có cần không. Mẹ bàn với cha. Cha tôi bảo để kiểm tra đã. Và kiểm tra nghiêm ngặt, bằng khá nhiều cách. Nhất là kiểm tra học lực chữ Nho
của tôi.
Cha tôi khá vui, nhưng bảo mẹ tôi, con nó mới học một nửa,. Một nửa cần phải học thêm. Ta phải dạy cho con. Đó là học làm đất: đất vườn, đất nương, đất ruộng. Đất nào nhà mình cũng có, rất ít, nhưng dạy con biết cuốc, biết cày, biết trồng, biết trỉa, đổ mồ hôi xuống đất thì đất cho cái ăn, khỏi bị khinh vì đói rách, xin xỏ, nợ nần. Mất 3 năm tròn, cha mẹ tôi mới hể hả.
2/1
Tổng hội Phật học miền Trung thành lập tại Huế năm 2476, (1932), sau đó các tỉnh hội thành lập khá nhanh. Quảng bình là một. Tổng hội cử giảng sư ra giảng Phật pháp cũng khá liên tiếp. Mẹ tôi một hôm đi chợ về, ngay trên cầu Đá, gặp 2 vị giảng sư từ Phổ minh về tỉnh hội. Phong cách 2 vị gây chú ý đậm cho mẹ tôi. Về, mẹ nói liền với cha, và anh em chúng tôi được nghe cả. Rằng nhà mình theo Phật lâu đời mà chưa có ai như 2 thầy ấy. Phải làm sao cho có. Tôi thành mục tiêu, dầu trước đó đãchọn làm thừa tự ông bà.
Thế rồi công nguyên Phật giáo 2482 (1938), quãng 10 giờđêm giao thừa, tôi được thay đổi hoàn toàn: đầu cạo sạch tóc, mặc áo nhật bình màukhói hương. Há hốc ra, nhưng tôi lại khoái chí. Một lát, Tâm, 1 bạn học Nho với tôi,cũng lù lù đến với bộ cánh như tôi. Lần nầy thì cha tôi ra lịnh, ôn tồn thôi, “2 đứa đi tu”! Một năm trước đây, anh Minh đã đi tu như vậy. Trời tối và lạnh, ngay sau giờ giao thừa, tôi với Tâm, đi theo cha tôi, vào chùa Phổ minh, xóm Ải. Rồi việc gì anhMinh đã được làm cho thì nay đến tôi và Tâm. Xong việc, bổn sư tôi, ngài Hồng tuyên, xoa đầu 2 đứa, bảo về ăn Tết đi, rằm vào lại.
Ngài Hồng tuyên gốc Đức phổ, làng ngoại tôi. Cháu các ngài Đắc ân (Trú trì chùa Linh mụ) và ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) nổi tiếng với cái danh “Ký quốc ân” (Thư ký tổ đình Quốc ân). Người cao, thanh, tay quá gối, rất thông minh.Từng là học đồ cao trọng của ngài Trà am. Tính tự trọng rất cao, cũng rất cao sự biết người, biết ta. Tiếp nhân đãi vật rất có phong thái cổ kính, lồng trong phong thái ấy là sự tiêu sái, dễ cảm mến. Sau nầy, khi đã thử thách, bảo tôi “dạy” lại kinh luận đã học. Ngài học rất nghiêm, ngồi thấp, bảo tôi ngồi cao. Cho đến nay, tôi chưa gặp ai lý giải và lĩnh hội được như ngài. Thích nhất là Kim cang và Nhiếp luận. Trọng nhất là Di giáo. Ngài đòi làm bài, và làm nghiêm túc, dĩ nhiên bằng Hoa văn. Bài thật tuyệt. Học như vậy, suốt mùa an cư 2486 (1942) Và nói, học như vậy ăn rau lang trừ cơm cũng được. Lại bảo tôi, ông làm thầy giỏi, nhưng tính nóng. Nhược điểm ấy rán mà bỏ.
3/1
Nay xin kể lại việc học Phật của tôi. Việc nầy vừa là nền móng vừa là trụ cột,của đời tôi. Sau khi xuất gia, 2482 (1938) 6 năm tiếp theo 2483-2488 (1939-1944)tôi được vào Phật học viện của Tổng hội Phật học, vốn là sơ đẳng. Viện thành lập năm 2477 (1933), chủ yếu do hòa thượng Giác tiên (khai sơn chùa Trúc lâm) và bác sĩ Tâm minh (Lê đình Thám, đệ tử ngài). Ban đầu đặt tại Trúc lâm, kế tại Quan công, sau mới tại Báo quốc. tôi học tại đây, băng 4 năm của cấp sơ đẳng. Viện trưởng, Thân giáo sư chính yếu, là hòa thượng Trí độ, nguyên là học đồ của ngài Thập tháp, sau, gần hết học kỳ, thầy thọ Bồ tát giới với ngài Đắc quang. Về thế học, cấp sơ đẳng được bổ túc theo chương trìng Cơ thủy, cấp trung đẳng học thêm triết học.
Về Phật học, là chính yếu, thì nay đủ cả 4 cấp: sơ đẳng 6 năm, trung đẳng, cao đẳng và siêu đẳng, mỗi cấp 2 năm, cọng 12 năm tất cả. Tôi học 2 năm sau của sơ đẳng. Khi lên cao đẳng thì thu gọn siêu đẳng vào đó. Học xong cuối năm quí mùi 2487 (1943) làm lễ tốt nghiệp ngay đầu năm sau, 2488 (1944). Nói tổng quát, từ sự thuộc lòng 2 thời công phu đến Đại trí luận và Du già sư địa luận, Viện dạy rất liên tục và nghiêm cẩn, đào tạo tăng tài hoàn chỉnh. Nhược điểm là học hơi nhiều về Duy thức học của hệ Giới hiền – Huyền tráng; nhất là thiếu Sử truyện Phật giáo, mà trong đó, có bậc hoằng Pháp và hộ Pháp, rất cần cho sự nung nấu hạnh nguyện của học tăng. Trong thời gian gần xong học kỳ, tôi “bị” viết bản thảo vài ba dịch phẩm và tác phẩm của Thân giáo sư, lại phải “tập dạy” nhiều môn cho các lớp sơ đẳng và trung đẳng mà viện mới mở. Mấy việc nầy giúp tôi không ít, có số điểm cao nhất khi thi tốt nghiệp, lại giúp tôi, sau đó, dịch và viết kinh sách cho đến nay.
4/1
Bấy giờ là năm ất dậu, 2489 (1945). Nói theo dương lịch thì tháng 8 năm đó CMT8, nói theo âm lịch thì tháng 10 năm đó cha tôi mất. Cha tôi không lú lẫn gì nhưng trước đó vài ba năm không nói không hỏi gì việc đời nữa, chỉ một mình kể Truyện Phật gần như thuộc lòng.Nói trở lại, 1944, 2 lớp sơ đẳng và trung đẳng của Phật học viện (mà bây giờ gọi là Kim sơn) được tạm dời vào Nam, với thân giáo sư là thầy Trí tịnh, quản lý là thầy Thiện hoa, hộ chủ là Trương hoằng Lâu. Vào đó liền gặp 1945, trường rã luôn. Thân giáo sư của Phật học viện gốc thì về quê nhà Bình định, với chí nguyện đem kinh nghiệm giáo thọ chúng tôi mà lập một Phật học viện cho vừa ý hơn. Rồi chưa đến đâu, ngài ra Huế nghỉ thư giãn ở Kim sơn.
Quãng hè 1946, thầy Tâm chính, cũng là bạn học ở Kim sơn, thay lời các vị lãnh đạo Phật giáo ở miền Bắc, vào Huế mời được Thân giáo sư Trí độ, lại mời tôi theo ngài,ra lập Phật học viện tại Quán sứ, tổ chức đầy qui mô và thiện chí. Nhưng đầu tháng10 âm lịch năm đó, lịnh toàn quốc kháng chiến ban hành. Phật học viện cũng phải tạm xếp lại.
4/2
Tôi về Quảng bình thì cha tôi mất. Trước đó một ngày, đêm 21 tháng 10 âm lịch, tôi thức khuya trong gian chái hướng tây bắc, đọc lại Du già sư địa luận, thì các anh Cẩn và Minh lù lù cùng về. Hỏi ngay, Thầy thế nào, tôi bảo, thì cũng như cũ, yếu và dễ mệt. Tôi thêm, vẫn ăn được bắp rang ngào mật ong. Răng cha tôi tốt nổi tiếng. Chúng tôi hạ giọng, nói chỉ đủ nghe. Thế mà trong gian nhà thứ 5 cha tôi vẫn nghe được, hỏi, mấy đứa về đó, phải không? Tôi dạ. Cha tôi nói, để thầy nghỉ, nói gì thì sáng mai rồi nói. Mỗi anh môt gói đồ khá lớn. Dỡ ra thì gói nào cũng là đồ điếu tang. Tôi hỏi, biết người nào cũng thấy tự nhiên phải về vì nghĩ cha đang lâm nguy.
Rồi anh Cẩn ở Lào thì đệ tử, anh Minh ở Huế thì người cùng cơ quan, ai cũng sắp đồ phúng điếu như vậy. Trên chuyến tàu suốt, anh Minh ở Huế ra dừng ở Đông hà, thì tại đây anh Cần lên tàu ấy. Nhưng xuống Thuận lý mới gặp nhau. Sáng sớm hôm
sau, 22 tháng 10 âm lịch, cha tôi bảo chú Đại nấu nước lá chanh lá bưởi cho nhiều một chút, tắm kỹ cho cha tôi. Mẹ tôi, và chị Thuyết, chị con dì của tôi, làm bánh lá gạo hom cho cha tôi ăn. Khi chú Đại đỡ vào thì cha tôi thả chân xuống nền nhà. Sau nầy mới biết đó là hạ thổ. Cha tôi bảo đóng cửa cả 5 gian nhà để ngủ bù mất ngủ hồi khuya. Rồi trừ Đại ở nhà canh cho cha ngủ, 4 anh em, kể cả chú Chánh, ai cũng xuống tỉnh.
Từ cổng Bình quan, tôi rẽ qua phải đến chùa Phật học, anh Minh rẽ qua trái đến cơ quan của anh. Anh Cần xuống thẳng bến sông Nhật lệ thăm đò nhà vợ.Còn Chánh, anh chàng đi tìm chỉ huy của mình. Quãng 4 giờ chiều, không ai hẹn ai mà cũng gặp nhau, thì Đại ôm ngực chạy xuống, hét lớn, các anh về gấp mà coi, Thầy lạ lắm, nằm thẳng cẳng ra rồi! Cả nhà bấy giờ nhìn kỹ. Cha tôi mang tất trắng, mang y hậu chỉnh tề, đầu đội mão quan âm, nằm ngửa ngay thẳng và gọn gàng, 3 tay để trên ngực, ấn cuốn Truyện Phạt Thích ca. Cha tôi đưa tay là lấy đúng cả, từng cái một. Tôi để ý thấy thiếu cái kính, tức khắc hiểu ra, cha tôi không cầm kính vì sợ kính không phân hủy hay xương. Đến chết mà kỹ tính vẫn y nguyên! Anh Cần lên giường, bắt cánh tay rồi bàn tay, từ từ kéo rồi buông ra, thì từ từ tự thu lại như cũ.
Anh lấy sợi chỉ rất nhỏ, cầm để nơi mũi cha tôi, chỉ không một chút lay động. Mắt cha tôi khép kín, nhưng thoải mái, miệng không mở ra hay xiết lại vì ngột thở haynén đau. Toàn bộ sắc mặt bình thường, rất bình thường. Tìm cách khám kỹ hậu môn và hạ bộ thì đại tiện tiểu tiện không tiết gì ra cả, cũng không hôi hám. Anh Cần, nhất là Đại, làm rất kỹ việc nầy. Xong, anh Cần hỏi mẹ tôi, Mệ tính gì không, mẹ bảo, tùy ý các con. Khi kéo anh Cần ra, tôi hỏi, Thầy mất ngày giờ xấu hay tốt? Anh tính đi tính lại rồi nói xấu, phải đổi lấy ngày mai, 23 tháng 10. Tôi ngac nhiên, 23 xấu mà.
Anh nói, xấu cho việc khác, không xấu cho cái chết. Tôi hỏi, Thầy dạy kỹ và anh nhớ kỹ không, anh bảo yên tâm đi, tôi dặn kỹ, ngoài anh với tôi, không được nói gì với ai về việc nầy. Anh nói, tôi cũng định dặn chú như vậy. Rồi anh coi luôn ngày giờ nhập liệm, động quan, an táng. Ngớt mưa, bác sĩ Du lên coi kỹ, xác nhận Ôông đi lâu rồi.
Cả nhà ngồi xuống nền nhà, chung quanh giường, tôi lên tiếng đầu tiên, “tuyệt đối không khóc”. Không được khóc lớn, không khóc thầm, không khóc ấm ức. Ai không nhịn được thì ra ngoài mới khóc. Mẹ tôi giao chìa khóa cho tôi. Tôi thành quản gia lúc ấy. Tôi nói với anh Minh, vào chùa trình cho bổn sư hay. Ngài nói, thầy biết rồi, đang chờ ngớt mưa thì ra liền. Anh Minh đi, có Chánh làm vệ sĩ mà vẫn còn sợ ma!
Thầy mang tơi mà ra. Cả nhà quì lạy, và trình bạch ngày giờ các lễ quan trọng. Thầy niệm Phật, rồi cùng các sư huynh đi theo, trì tụng liên tiếp 3 biến kinh Di đà, lại xướng long vị cha tôi mà lạy. Thầy để nguyên y hậu, vào thăm cha tôi. Thầy niệm Phật lớn tiếng. Vừa niệm vừa đưa tay để trên trán cha tôi, rồi dời tay để trên cuốn Truyện Phật, nói như nói Pháp ngữ, rằng chỉ một cuốn sách mà làm cho cha tôi chết rất tự tại, đúng là “hỏa diệm hóa hồng liên”! Thầy xá sâu 3 cái, ra về, dáng vẻ hoan hỉ.
Với sự giúp đỡ của chú Đông, em con cô, tôi lo đủ hết các thủ tục và tục lệ. Lúc nhập liệm, trước khi đậy nắp quan, trưởng họ của tôi hô lớn 3 lần, “Cả nhà ra nhìn Ôông lần chót.”! Lại hô, “ai muốn Ôông mang theo cái gì thì đem ra bỏ vào.”! Nghe thế, tôi chạy vào mở rương kinh của tôi, thì thấy ngay cuốn Kim cang, nhỏ và gọn, vốn tôi rất quí, chạy ra đặt trên cuốn Truyện Phật. Nắp hòm đậy lại. Một mình bổn sư tôi đứng trên đầu cha tôi. Trưởng họ xua ra hết. Thợ làm việc. Tiếng nện nắp hòm e dè, nhưng vẫn khá mạnh và lớn. Đột nhiên tôi chấn động cả người, vụt chạy vào buồng, khóc không gào thét, nhưng dữ dội. Tôi đứng úp mặt vào ván gỗ, khóc không lấy hơi được. Bổn sư tôi vào, đỡ nhẹ tôi đứng thẳng. Cứ như thế, Thầy đứng với tôi niệm Phật rất nhẹ.
5/1
Những năm 1943 – 46 thế sự quốc gia và quốc tế đại động. Tôi về xứ, sống với bổn sư, được mẹ cho ăn, ban ngày ở trong cái nhà như chòi tranh, nhưng rất sạch của anh con bác, tiếp giáp khuôn viên nhà tôi. Tôi biên tập bộ Phật học cấp sơ đẳng, bản thảo chép tay, lên đến 9 cuốn vở 100tr khổ lớn. Châm chước rất nhiều theo kinh nghiệm đã học và giảng dạy, cốt sao cho Hoa Việt cân đối; giáo lý nghi lễ đồng đẳng; Sử liệu Phật giáo đủ cần; truyện tích cổ đức cũng vậy. Chỉ thiếu lấy nốt nhạc các điệu tán chính: ngũ ngôn như bài Kiến văn, thất ngôn như bài đại từ, trường ngôn như bài Dương chi. Sách soạn theo thể thức giáo khoa. Thì giờ mất 1 năm, 2488 (1944). Bấy giờ chưa có photocopy, nên gói kỹ, bảo chú Kỳ, đệ tử đầu tiên, người Hà tĩnh, đem về cất ở đó. Sau đó biệt tích luôn, cả người và sách. Cho đến nay, tôi vẫn tiếc khôn nguôi.
5/2
Dầu chưa phải lúc, ở đây vẫn nên nói rõ về sự biên dịch kinh sách Phật giáo của tôi.Vì điều nầy mới đích thực là thị hiếu và chí hướng bình sinh của đời tôi, là mong ước của mẹ tôi. Nên, dầu cơ hội có chùa lớn và đệ tử nhiều, tôi có không ít, nhưngtôi khước từ không đắn đo. Chỉ tạm trú hết Từ đàm thì Ấn quang, thì Già lam, ở đâu, đầu óc tôi chỉ nghĩ đến, ngay trong lúc ăn, phải dịch chữ nầy, câu kia, đoạn nọ, sao cho đúng ý và nghe được. Tôi không dạy học, vì không thích bằng sự biên dịch.
Khởi sự hơn một năm trước ngày tốt nghiệp, tôi đã chuẩn bị đầy đủ để biên tập “Từ điển Phật học” và biên dịch “Đại tạng kinh”. Nhưng công việc lúc đó, công việc góp sức “Vận động thống nhất Phật giáo VN” khiến tôi xếp cất lại chí nguyện của mình. Chỉ còn làm lai rai, như đã làm và sẽ còn làm. Tôi rũ bỏ hết, rũ bỏ thật hết, cầu sao sống được một năm hay năm bảy tháng nữa để sửa chữa và biên dịch mấy đầu sách rất cần. Bản tự truyện nầy viết mất vài ba tuần, làm tôi không khoái chút nào.
Dưới đây là danh mục đã sửa chữa từ Pháp ảnh lục (mà tôi đã quyết định đình chỉ):
1. Ba ngàn hiệu Phật,
2. Lương hoàng sám,
3. Pháp hoa chính văn,
4. Pháp hoa lược giải,
5. Vạn Phật,
6. Tổng tập giới pháp xuất gia
7. Dược sư,
8. Địa tạng,
9. Thủy sám,
10. Kim cang,
và các tiểu phẩm:
1. Hành pháp kinh di đà,
2. Vu lan báo ân,
3. Tôn kính đức quan âm,
và dự tính đang làm:
1. In lại Pháp cú Nam tông
2. Đang dịch Pháp cú Bắc tông,
3. In lại Nhiếp luận,
4. Chữa và in Khởi tín luận,
5. In lại kinh Ánh sáng hoàng kim
chữa và in các tiểu phẩm:
1. Tập Định lăng nghiêm
2. Dị tông luận
5/3
Nay xin nói kinh nghiệm của tôi vốn tính đem ra áp dụng vào 2 việc: biên dịch Đại tạng kinh trước, rồi làm cùng lúc hay sau đó về việc biên tập Đại từ điển (để giảithích từ ngữ trong Đại tạng kinh ấy)
Trước, nói biên dịch Đại tạng kinh. Thì Đại tạng ở đây là nói Hoa văn trước. Đại tạng ấy không nhiều nếu (1) bỏ những bản trùng dịch, (2) bỏ những bản không cần dịch (3) biên dịch yếu lược. Nên tham khảo “Quốc dịch đại tạng kinh” của Nhật trong việc nầy.
Rồi, nói việc làm Từ điển, thì kinh nghiệm cho thấy, đừng làm theo Phật học đại từ điển, Phật quang từ điển. Phật học từ điển của Vọng nguyệt cũng phải thu xếp lại chỗ nào cần làm như vậy. nói thí dụ, chữ Kiếp có đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp, 4 từ tất cả. Nếu giải thích tất cả vào trong từ Kiếp thì tra mau và dễ hiểu hơn.
Vấn đề ở chỗ làm mục lục cho kỹ một chút. Lại nữa, lối giải thích như Nhất thế kinh âm nghĩa thì xác hơn, vì có chữ chỗ nầy chỗ khác, đâu phải tất cả đều giống nhau. Nên kinh xưa thường có âm thích ở cuối kinh, làm như vậy xác hơn. Biên dịch Đại tạng kinh và biên tập Đại từ điển là hoài bảo của bất cứ ai đã học Phật. Tôi chỉ trình bày sơ sài về kinh nghiệm, không hy vọng gì làm được hơn. Đó là nỗi ân hận đã thành thống hận cho đời tôi.
6/1
Đầu tháng 2 - 2491 (1947), Pháp sắp chiếm Quảng bình. Tôi được cho biết như vậy. Nghĩ chết, nhất là chết giặc, mà không có giới thì không được. Tôi xin bổn sư truyền giới cho, theo cách gặp lúc đại nạn ở biên địa. Truyền và thọ Sa di giới và Tỷ kheo giới rồi, tối hôm ấy, vía Xuất gia của Phật, 8-2-2491 (1947), thầy tôi cố ý một mình truyền Bồ tát giới cho tôi. Lễ xong, thầy đứng càng nghiêm kính, nói, tôi với thầy là nhân duyên thầy trò trọng đại cho đời tôi. Tôi muốn góp sức làm cho ánh sáng Phật pháp trải ra khắp nơi. hiện chùa Phổ minh là tôi chọn cho ý nguyện ấy. Nhưng tôi đã không làm được gì cho thỏa dạ. Tôi nhờ thầy, kỳ vọng ở thầy, rán giúp cho tôi...
Tôi cố cầm nước mắt, phục xuống lạy Thầy. Thầy vẫn còn khóc. Nhìn lên Phật, Phật độc lộ toàn thân, với cái bát nhang duy nhất. Sau đó, 2499 (1955), khi bờ cõi mất thống nhất, mẹ tôi, cũng một mình, bảo tôi, “con đi mà trả nghĩa cho Phật”. Đi cho thẳng, đừng đè bụi đè bờ mà châm vô! Mẹ cắn răng, ngậm nước mắt, giục tôi đi đi. Tôi đi trong nước mắt, và, cho đến nay, 89 tuổi rồi, vẫn không đủ can đảm về nhìn mộ của Mẹ.
6/2
Khi còn học ở Phật học viện, tôi tụng kinh rất nhiều. Thường quì luôn trên 2 giờ, theo lối quì của Nhật. Mắt rất rõ. Tiếng cao, trong, dài. Lạy siêng lắm, không biết mệt là gì. Mỗi lần tụng kinh, lạy ít nhất 108 lạy. Sự lạy nầy chỉ thua bổn sư mà thôi. Tụng tại chánh điện Báo quốc, không tán, không dùng chuông mõ. Pháp hoa thường 2 buổi, bất thường là 1 buổi. Hoa nghiêm 80 cuốn, thường là 5 cuốn mỗi lần, vì kinh đóng hay đựng hộp đều có số ấy. Cỡ như thế, Hoa nghiêm 60 cuốn và 40 cuốn, tôi tụng hết. Đại phương tiện báo phụ mẫu trọng ân kinh tụng 2 lần. Đặc biệt là Đại bát niết bàn, chỉ tụng 2 lần bản dịch của ngài Đàm mô sấm, sau nầy mới đọc được bản dịch của cao tăng Pháp hiển. Còn thường tụng là Pháp hoa và Hoa nghiêm bản 80 cuốn. Dời lên Kim sơn, tôi vẫn được thường tụng. Về Phổ minh thì hay lạy Vạn Phật với bổn sư. Pháp lực đã độ trì cho tội, rất rõ, trong bao phen suýt mất mạng.
7/1
½
Nhánh ba họ Phạm làng Diêm điền là gia tộc của tôi, theo Phật từ lâu, nhưng thật sự là ông nội và cha tôi. Cha tôi khi bán thế xuất gia thì làm đệ tử ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) em ruột ngài Đắc ân. Danh hiệu long vị là “Người dòng phái đại tổ sư Nguyên thiều, pháp danh Hồng nhật, pháp tự Tâm nguyên, đắc pháp với pháp húy Huyền đàm đại sư.”
1/3
Năm lên 7, mẹ tôi chuẩn bị đâu vào đó, rồi nghiêm mặt đến nỗi anh Minh và tôi không dám hó hé, nhưng tôi có cảm giác là lạ, và mẹ ra lịnh “sáng mai đi học”! Khai tâm cho anh em tôi là tiên chỉ của làng. Mậu thực phu từ. Mẹ tôi soát vở học luôn, bằng cách đếm trang vở, nhìn chữ son đồ nét mực đen, rồi bảo tôi trước, “họcgì đọc cho mẹ nghe”! Nghe xong, mẹ im lặng, 2 năm sau, đem anh em tôi lên làng Thuận lý, cách nhà 6 cây số, học với bác họ, bác ấm Lộc, cha làm Kinh lược ở đâu ngoài Bắc. Bác hơi dữ. Nhưng lo cháu bị mẹ đánh, bác bảo viết lại bài làm, khuyên vào nhiều vòng đỏ. Mẹ cũng đoán ra, xin bác đừng thương lắm kẻo cháu hư thân.
Mẹ về. Bác bảo, họ Phạm ta ở làng nào cũng kém lắm. Bác gọi tên tục của tôi mà bảo. Do, cháu gắng lên nữa, cho mẹ vui, bác vui. Tất cả vốn liếng chữ Nho, chữ quốc ngữ và trọn chương trình Cơ thủy hồi đó, do sở Học chính Đông dương biên soạn, chúng tôi được học cả. Trừ chữ Tây. Bác Lộc nói với mẹ, cháu tạm ngưng được rồi. Những gì đủ để sống ra trò ở thôn quê, tôi đã dạy cháu. Cô có thể tìm cách cho cháu học theo chương trình Tây soạn ra, một mớ chữ của nó nữa là đi thi lấybằng Cơ thủy, học lên Thành chung... Nhưng cái đó tùy cô, bàn xét cho kỹ. Mẹ tôi bàn với cậu ruột của tôi. Nhất là xét kỹ coi tôi có đủ sức sống với thôn quê, hay không. Cậu xét gắt gao, và nói với mẹ, bác ấm Lộc dạy rất tốt. Còn việc học lên nữa thì phải xét có tiền không, có cần không. Mẹ bàn với cha. Cha tôi bảo để kiểm tra đã. Và kiểm tra nghiêm ngặt, bằng khá nhiều cách. Nhất là kiểm tra học lực chữ Nho
của tôi.
Cha tôi khá vui, nhưng bảo mẹ tôi, con nó mới học một nửa,. Một nửa cần phải học thêm. Ta phải dạy cho con. Đó là học làm đất: đất vườn, đất nương, đất ruộng. Đất nào nhà mình cũng có, rất ít, nhưng dạy con biết cuốc, biết cày, biết trồng, biết trỉa, đổ mồ hôi xuống đất thì đất cho cái ăn, khỏi bị khinh vì đói rách, xin xỏ, nợ nần. Mất 3 năm tròn, cha mẹ tôi mới hể hả.
2/1
Tổng hội Phật học miền Trung thành lập tại Huế năm 2476, (1932), sau đó các tỉnh hội thành lập khá nhanh. Quảng bình là một. Tổng hội cử giảng sư ra giảng Phật pháp cũng khá liên tiếp. Mẹ tôi một hôm đi chợ về, ngay trên cầu Đá, gặp 2 vị giảng sư từ Phổ minh về tỉnh hội. Phong cách 2 vị gây chú ý đậm cho mẹ tôi. Về, mẹ nói liền với cha, và anh em chúng tôi được nghe cả. Rằng nhà mình theo Phật lâu đời mà chưa có ai như 2 thầy ấy. Phải làm sao cho có. Tôi thành mục tiêu, dầu trước đó đãchọn làm thừa tự ông bà.
Thế rồi công nguyên Phật giáo 2482 (1938), quãng 10 giờđêm giao thừa, tôi được thay đổi hoàn toàn: đầu cạo sạch tóc, mặc áo nhật bình màukhói hương. Há hốc ra, nhưng tôi lại khoái chí. Một lát, Tâm, 1 bạn học Nho với tôi,cũng lù lù đến với bộ cánh như tôi. Lần nầy thì cha tôi ra lịnh, ôn tồn thôi, “2 đứa đi tu”! Một năm trước đây, anh Minh đã đi tu như vậy. Trời tối và lạnh, ngay sau giờ giao thừa, tôi với Tâm, đi theo cha tôi, vào chùa Phổ minh, xóm Ải. Rồi việc gì anhMinh đã được làm cho thì nay đến tôi và Tâm. Xong việc, bổn sư tôi, ngài Hồng tuyên, xoa đầu 2 đứa, bảo về ăn Tết đi, rằm vào lại.
Ngài Hồng tuyên gốc Đức phổ, làng ngoại tôi. Cháu các ngài Đắc ân (Trú trì chùa Linh mụ) và ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) nổi tiếng với cái danh “Ký quốc ân” (Thư ký tổ đình Quốc ân). Người cao, thanh, tay quá gối, rất thông minh.Từng là học đồ cao trọng của ngài Trà am. Tính tự trọng rất cao, cũng rất cao sự biết người, biết ta. Tiếp nhân đãi vật rất có phong thái cổ kính, lồng trong phong thái ấy là sự tiêu sái, dễ cảm mến. Sau nầy, khi đã thử thách, bảo tôi “dạy” lại kinh luận đã học. Ngài học rất nghiêm, ngồi thấp, bảo tôi ngồi cao. Cho đến nay, tôi chưa gặp ai lý giải và lĩnh hội được như ngài. Thích nhất là Kim cang và Nhiếp luận. Trọng nhất là Di giáo. Ngài đòi làm bài, và làm nghiêm túc, dĩ nhiên bằng Hoa văn. Bài thật tuyệt. Học như vậy, suốt mùa an cư 2486 (1942) Và nói, học như vậy ăn rau lang trừ cơm cũng được. Lại bảo tôi, ông làm thầy giỏi, nhưng tính nóng. Nhược điểm ấy rán mà bỏ.
3/1
Nay xin kể lại việc học Phật của tôi. Việc nầy vừa là nền móng vừa là trụ cột,của đời tôi. Sau khi xuất gia, 2482 (1938) 6 năm tiếp theo 2483-2488 (1939-1944)tôi được vào Phật học viện của Tổng hội Phật học, vốn là sơ đẳng. Viện thành lập năm 2477 (1933), chủ yếu do hòa thượng Giác tiên (khai sơn chùa Trúc lâm) và bác sĩ Tâm minh (Lê đình Thám, đệ tử ngài). Ban đầu đặt tại Trúc lâm, kế tại Quan công, sau mới tại Báo quốc. tôi học tại đây, băng 4 năm của cấp sơ đẳng. Viện trưởng, Thân giáo sư chính yếu, là hòa thượng Trí độ, nguyên là học đồ của ngài Thập tháp, sau, gần hết học kỳ, thầy thọ Bồ tát giới với ngài Đắc quang. Về thế học, cấp sơ đẳng được bổ túc theo chương trìng Cơ thủy, cấp trung đẳng học thêm triết học.
Về Phật học, là chính yếu, thì nay đủ cả 4 cấp: sơ đẳng 6 năm, trung đẳng, cao đẳng và siêu đẳng, mỗi cấp 2 năm, cọng 12 năm tất cả. Tôi học 2 năm sau của sơ đẳng. Khi lên cao đẳng thì thu gọn siêu đẳng vào đó. Học xong cuối năm quí mùi 2487 (1943) làm lễ tốt nghiệp ngay đầu năm sau, 2488 (1944). Nói tổng quát, từ sự thuộc lòng 2 thời công phu đến Đại trí luận và Du già sư địa luận, Viện dạy rất liên tục và nghiêm cẩn, đào tạo tăng tài hoàn chỉnh. Nhược điểm là học hơi nhiều về Duy thức học của hệ Giới hiền – Huyền tráng; nhất là thiếu Sử truyện Phật giáo, mà trong đó, có bậc hoằng Pháp và hộ Pháp, rất cần cho sự nung nấu hạnh nguyện của học tăng. Trong thời gian gần xong học kỳ, tôi “bị” viết bản thảo vài ba dịch phẩm và tác phẩm của Thân giáo sư, lại phải “tập dạy” nhiều môn cho các lớp sơ đẳng và trung đẳng mà viện mới mở. Mấy việc nầy giúp tôi không ít, có số điểm cao nhất khi thi tốt nghiệp, lại giúp tôi, sau đó, dịch và viết kinh sách cho đến nay.
4/1
Bấy giờ là năm ất dậu, 2489 (1945). Nói theo dương lịch thì tháng 8 năm đó CMT8, nói theo âm lịch thì tháng 10 năm đó cha tôi mất. Cha tôi không lú lẫn gì nhưng trước đó vài ba năm không nói không hỏi gì việc đời nữa, chỉ một mình kể Truyện Phật gần như thuộc lòng.Nói trở lại, 1944, 2 lớp sơ đẳng và trung đẳng của Phật học viện (mà bây giờ gọi là Kim sơn) được tạm dời vào Nam, với thân giáo sư là thầy Trí tịnh, quản lý là thầy Thiện hoa, hộ chủ là Trương hoằng Lâu. Vào đó liền gặp 1945, trường rã luôn. Thân giáo sư của Phật học viện gốc thì về quê nhà Bình định, với chí nguyện đem kinh nghiệm giáo thọ chúng tôi mà lập một Phật học viện cho vừa ý hơn. Rồi chưa đến đâu, ngài ra Huế nghỉ thư giãn ở Kim sơn.
Quãng hè 1946, thầy Tâm chính, cũng là bạn học ở Kim sơn, thay lời các vị lãnh đạo Phật giáo ở miền Bắc, vào Huế mời được Thân giáo sư Trí độ, lại mời tôi theo ngài,ra lập Phật học viện tại Quán sứ, tổ chức đầy qui mô và thiện chí. Nhưng đầu tháng10 âm lịch năm đó, lịnh toàn quốc kháng chiến ban hành. Phật học viện cũng phải tạm xếp lại.
4/2
Tôi về Quảng bình thì cha tôi mất. Trước đó một ngày, đêm 21 tháng 10 âm lịch, tôi thức khuya trong gian chái hướng tây bắc, đọc lại Du già sư địa luận, thì các anh Cẩn và Minh lù lù cùng về. Hỏi ngay, Thầy thế nào, tôi bảo, thì cũng như cũ, yếu và dễ mệt. Tôi thêm, vẫn ăn được bắp rang ngào mật ong. Răng cha tôi tốt nổi tiếng. Chúng tôi hạ giọng, nói chỉ đủ nghe. Thế mà trong gian nhà thứ 5 cha tôi vẫn nghe được, hỏi, mấy đứa về đó, phải không? Tôi dạ. Cha tôi nói, để thầy nghỉ, nói gì thì sáng mai rồi nói. Mỗi anh môt gói đồ khá lớn. Dỡ ra thì gói nào cũng là đồ điếu tang. Tôi hỏi, biết người nào cũng thấy tự nhiên phải về vì nghĩ cha đang lâm nguy.
Rồi anh Cẩn ở Lào thì đệ tử, anh Minh ở Huế thì người cùng cơ quan, ai cũng sắp đồ phúng điếu như vậy. Trên chuyến tàu suốt, anh Minh ở Huế ra dừng ở Đông hà, thì tại đây anh Cần lên tàu ấy. Nhưng xuống Thuận lý mới gặp nhau. Sáng sớm hôm
sau, 22 tháng 10 âm lịch, cha tôi bảo chú Đại nấu nước lá chanh lá bưởi cho nhiều một chút, tắm kỹ cho cha tôi. Mẹ tôi, và chị Thuyết, chị con dì của tôi, làm bánh lá gạo hom cho cha tôi ăn. Khi chú Đại đỡ vào thì cha tôi thả chân xuống nền nhà. Sau nầy mới biết đó là hạ thổ. Cha tôi bảo đóng cửa cả 5 gian nhà để ngủ bù mất ngủ hồi khuya. Rồi trừ Đại ở nhà canh cho cha ngủ, 4 anh em, kể cả chú Chánh, ai cũng xuống tỉnh.
Từ cổng Bình quan, tôi rẽ qua phải đến chùa Phật học, anh Minh rẽ qua trái đến cơ quan của anh. Anh Cần xuống thẳng bến sông Nhật lệ thăm đò nhà vợ.Còn Chánh, anh chàng đi tìm chỉ huy của mình. Quãng 4 giờ chiều, không ai hẹn ai mà cũng gặp nhau, thì Đại ôm ngực chạy xuống, hét lớn, các anh về gấp mà coi, Thầy lạ lắm, nằm thẳng cẳng ra rồi! Cả nhà bấy giờ nhìn kỹ. Cha tôi mang tất trắng, mang y hậu chỉnh tề, đầu đội mão quan âm, nằm ngửa ngay thẳng và gọn gàng, 3 tay để trên ngực, ấn cuốn Truyện Phạt Thích ca. Cha tôi đưa tay là lấy đúng cả, từng cái một. Tôi để ý thấy thiếu cái kính, tức khắc hiểu ra, cha tôi không cầm kính vì sợ kính không phân hủy hay xương. Đến chết mà kỹ tính vẫn y nguyên! Anh Cần lên giường, bắt cánh tay rồi bàn tay, từ từ kéo rồi buông ra, thì từ từ tự thu lại như cũ.
Anh lấy sợi chỉ rất nhỏ, cầm để nơi mũi cha tôi, chỉ không một chút lay động. Mắt cha tôi khép kín, nhưng thoải mái, miệng không mở ra hay xiết lại vì ngột thở haynén đau. Toàn bộ sắc mặt bình thường, rất bình thường. Tìm cách khám kỹ hậu môn và hạ bộ thì đại tiện tiểu tiện không tiết gì ra cả, cũng không hôi hám. Anh Cần, nhất là Đại, làm rất kỹ việc nầy. Xong, anh Cần hỏi mẹ tôi, Mệ tính gì không, mẹ bảo, tùy ý các con. Khi kéo anh Cần ra, tôi hỏi, Thầy mất ngày giờ xấu hay tốt? Anh tính đi tính lại rồi nói xấu, phải đổi lấy ngày mai, 23 tháng 10. Tôi ngac nhiên, 23 xấu mà.
Anh nói, xấu cho việc khác, không xấu cho cái chết. Tôi hỏi, Thầy dạy kỹ và anh nhớ kỹ không, anh bảo yên tâm đi, tôi dặn kỹ, ngoài anh với tôi, không được nói gì với ai về việc nầy. Anh nói, tôi cũng định dặn chú như vậy. Rồi anh coi luôn ngày giờ nhập liệm, động quan, an táng. Ngớt mưa, bác sĩ Du lên coi kỹ, xác nhận Ôông đi lâu rồi.
Cả nhà ngồi xuống nền nhà, chung quanh giường, tôi lên tiếng đầu tiên, “tuyệt đối không khóc”. Không được khóc lớn, không khóc thầm, không khóc ấm ức. Ai không nhịn được thì ra ngoài mới khóc. Mẹ tôi giao chìa khóa cho tôi. Tôi thành quản gia lúc ấy. Tôi nói với anh Minh, vào chùa trình cho bổn sư hay. Ngài nói, thầy biết rồi, đang chờ ngớt mưa thì ra liền. Anh Minh đi, có Chánh làm vệ sĩ mà vẫn còn sợ ma!
Thầy mang tơi mà ra. Cả nhà quì lạy, và trình bạch ngày giờ các lễ quan trọng. Thầy niệm Phật, rồi cùng các sư huynh đi theo, trì tụng liên tiếp 3 biến kinh Di đà, lại xướng long vị cha tôi mà lạy. Thầy để nguyên y hậu, vào thăm cha tôi. Thầy niệm Phật lớn tiếng. Vừa niệm vừa đưa tay để trên trán cha tôi, rồi dời tay để trên cuốn Truyện Phật, nói như nói Pháp ngữ, rằng chỉ một cuốn sách mà làm cho cha tôi chết rất tự tại, đúng là “hỏa diệm hóa hồng liên”! Thầy xá sâu 3 cái, ra về, dáng vẻ hoan hỉ.
Với sự giúp đỡ của chú Đông, em con cô, tôi lo đủ hết các thủ tục và tục lệ. Lúc nhập liệm, trước khi đậy nắp quan, trưởng họ của tôi hô lớn 3 lần, “Cả nhà ra nhìn Ôông lần chót.”! Lại hô, “ai muốn Ôông mang theo cái gì thì đem ra bỏ vào.”! Nghe thế, tôi chạy vào mở rương kinh của tôi, thì thấy ngay cuốn Kim cang, nhỏ và gọn, vốn tôi rất quí, chạy ra đặt trên cuốn Truyện Phật. Nắp hòm đậy lại. Một mình bổn sư tôi đứng trên đầu cha tôi. Trưởng họ xua ra hết. Thợ làm việc. Tiếng nện nắp hòm e dè, nhưng vẫn khá mạnh và lớn. Đột nhiên tôi chấn động cả người, vụt chạy vào buồng, khóc không gào thét, nhưng dữ dội. Tôi đứng úp mặt vào ván gỗ, khóc không lấy hơi được. Bổn sư tôi vào, đỡ nhẹ tôi đứng thẳng. Cứ như thế, Thầy đứng với tôi niệm Phật rất nhẹ.
5/1
Những năm 1943 – 46 thế sự quốc gia và quốc tế đại động. Tôi về xứ, sống với bổn sư, được mẹ cho ăn, ban ngày ở trong cái nhà như chòi tranh, nhưng rất sạch của anh con bác, tiếp giáp khuôn viên nhà tôi. Tôi biên tập bộ Phật học cấp sơ đẳng, bản thảo chép tay, lên đến 9 cuốn vở 100tr khổ lớn. Châm chước rất nhiều theo kinh nghiệm đã học và giảng dạy, cốt sao cho Hoa Việt cân đối; giáo lý nghi lễ đồng đẳng; Sử liệu Phật giáo đủ cần; truyện tích cổ đức cũng vậy. Chỉ thiếu lấy nốt nhạc các điệu tán chính: ngũ ngôn như bài Kiến văn, thất ngôn như bài đại từ, trường ngôn như bài Dương chi. Sách soạn theo thể thức giáo khoa. Thì giờ mất 1 năm, 2488 (1944). Bấy giờ chưa có photocopy, nên gói kỹ, bảo chú Kỳ, đệ tử đầu tiên, người Hà tĩnh, đem về cất ở đó. Sau đó biệt tích luôn, cả người và sách. Cho đến nay, tôi vẫn tiếc khôn nguôi.
5/2
Dầu chưa phải lúc, ở đây vẫn nên nói rõ về sự biên dịch kinh sách Phật giáo của tôi.Vì điều nầy mới đích thực là thị hiếu và chí hướng bình sinh của đời tôi, là mong ước của mẹ tôi. Nên, dầu cơ hội có chùa lớn và đệ tử nhiều, tôi có không ít, nhưngtôi khước từ không đắn đo. Chỉ tạm trú hết Từ đàm thì Ấn quang, thì Già lam, ở đâu, đầu óc tôi chỉ nghĩ đến, ngay trong lúc ăn, phải dịch chữ nầy, câu kia, đoạn nọ, sao cho đúng ý và nghe được. Tôi không dạy học, vì không thích bằng sự biên dịch.
Khởi sự hơn một năm trước ngày tốt nghiệp, tôi đã chuẩn bị đầy đủ để biên tập “Từ điển Phật học” và biên dịch “Đại tạng kinh”. Nhưng công việc lúc đó, công việc góp sức “Vận động thống nhất Phật giáo VN” khiến tôi xếp cất lại chí nguyện của mình. Chỉ còn làm lai rai, như đã làm và sẽ còn làm. Tôi rũ bỏ hết, rũ bỏ thật hết, cầu sao sống được một năm hay năm bảy tháng nữa để sửa chữa và biên dịch mấy đầu sách rất cần. Bản tự truyện nầy viết mất vài ba tuần, làm tôi không khoái chút nào.
Dưới đây là danh mục đã sửa chữa từ Pháp ảnh lục (mà tôi đã quyết định đình chỉ):
1. Ba ngàn hiệu Phật,
2. Lương hoàng sám,
3. Pháp hoa chính văn,
4. Pháp hoa lược giải,
5. Vạn Phật,
6. Tổng tập giới pháp xuất gia
7. Dược sư,
8. Địa tạng,
9. Thủy sám,
10. Kim cang,
và các tiểu phẩm:
1. Hành pháp kinh di đà,
2. Vu lan báo ân,
3. Tôn kính đức quan âm,
và dự tính đang làm:
1. In lại Pháp cú Nam tông
2. Đang dịch Pháp cú Bắc tông,
3. In lại Nhiếp luận,
4. Chữa và in Khởi tín luận,
5. In lại kinh Ánh sáng hoàng kim
chữa và in các tiểu phẩm:
1. Tập Định lăng nghiêm
2. Dị tông luận
5/3
Nay xin nói kinh nghiệm của tôi vốn tính đem ra áp dụng vào 2 việc: biên dịch Đại tạng kinh trước, rồi làm cùng lúc hay sau đó về việc biên tập Đại từ điển (để giảithích từ ngữ trong Đại tạng kinh ấy)
Trước, nói biên dịch Đại tạng kinh. Thì Đại tạng ở đây là nói Hoa văn trước. Đại tạng ấy không nhiều nếu (1) bỏ những bản trùng dịch, (2) bỏ những bản không cần dịch (3) biên dịch yếu lược. Nên tham khảo “Quốc dịch đại tạng kinh” của Nhật trong việc nầy.
Rồi, nói việc làm Từ điển, thì kinh nghiệm cho thấy, đừng làm theo Phật học đại từ điển, Phật quang từ điển. Phật học từ điển của Vọng nguyệt cũng phải thu xếp lại chỗ nào cần làm như vậy. nói thí dụ, chữ Kiếp có đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp, 4 từ tất cả. Nếu giải thích tất cả vào trong từ Kiếp thì tra mau và dễ hiểu hơn.
Vấn đề ở chỗ làm mục lục cho kỹ một chút. Lại nữa, lối giải thích như Nhất thế kinh âm nghĩa thì xác hơn, vì có chữ chỗ nầy chỗ khác, đâu phải tất cả đều giống nhau. Nên kinh xưa thường có âm thích ở cuối kinh, làm như vậy xác hơn. Biên dịch Đại tạng kinh và biên tập Đại từ điển là hoài bảo của bất cứ ai đã học Phật. Tôi chỉ trình bày sơ sài về kinh nghiệm, không hy vọng gì làm được hơn. Đó là nỗi ân hận đã thành thống hận cho đời tôi.
6/1
Đầu tháng 2 - 2491 (1947), Pháp sắp chiếm Quảng bình. Tôi được cho biết như vậy. Nghĩ chết, nhất là chết giặc, mà không có giới thì không được. Tôi xin bổn sư truyền giới cho, theo cách gặp lúc đại nạn ở biên địa. Truyền và thọ Sa di giới và Tỷ kheo giới rồi, tối hôm ấy, vía Xuất gia của Phật, 8-2-2491 (1947), thầy tôi cố ý một mình truyền Bồ tát giới cho tôi. Lễ xong, thầy đứng càng nghiêm kính, nói, tôi với thầy là nhân duyên thầy trò trọng đại cho đời tôi. Tôi muốn góp sức làm cho ánh sáng Phật pháp trải ra khắp nơi. hiện chùa Phổ minh là tôi chọn cho ý nguyện ấy. Nhưng tôi đã không làm được gì cho thỏa dạ. Tôi nhờ thầy, kỳ vọng ở thầy, rán giúp cho tôi...
Tôi cố cầm nước mắt, phục xuống lạy Thầy. Thầy vẫn còn khóc. Nhìn lên Phật, Phật độc lộ toàn thân, với cái bát nhang duy nhất. Sau đó, 2499 (1955), khi bờ cõi mất thống nhất, mẹ tôi, cũng một mình, bảo tôi, “con đi mà trả nghĩa cho Phật”. Đi cho thẳng, đừng đè bụi đè bờ mà châm vô! Mẹ cắn răng, ngậm nước mắt, giục tôi đi đi. Tôi đi trong nước mắt, và, cho đến nay, 89 tuổi rồi, vẫn không đủ can đảm về nhìn mộ của Mẹ.
6/2
Khi còn học ở Phật học viện, tôi tụng kinh rất nhiều. Thường quì luôn trên 2 giờ, theo lối quì của Nhật. Mắt rất rõ. Tiếng cao, trong, dài. Lạy siêng lắm, không biết mệt là gì. Mỗi lần tụng kinh, lạy ít nhất 108 lạy. Sự lạy nầy chỉ thua bổn sư mà thôi. Tụng tại chánh điện Báo quốc, không tán, không dùng chuông mõ. Pháp hoa thường 2 buổi, bất thường là 1 buổi. Hoa nghiêm 80 cuốn, thường là 5 cuốn mỗi lần, vì kinh đóng hay đựng hộp đều có số ấy. Cỡ như thế, Hoa nghiêm 60 cuốn và 40 cuốn, tôi tụng hết. Đại phương tiện báo phụ mẫu trọng ân kinh tụng 2 lần. Đặc biệt là Đại bát niết bàn, chỉ tụng 2 lần bản dịch của ngài Đàm mô sấm, sau nầy mới đọc được bản dịch của cao tăng Pháp hiển. Còn thường tụng là Pháp hoa và Hoa nghiêm bản 80 cuốn. Dời lên Kim sơn, tôi vẫn được thường tụng. Về Phổ minh thì hay lạy Vạn Phật với bổn sư. Pháp lực đã độ trì cho tội, rất rõ, trong bao phen suýt mất mạng.
7/1
½
Ngoài
viêc tụng kinh, tôi phải đọc rất nhiều sách báo Phật giáo, đặc biệt là
Hải triều âm. Sách quốc ngữ cũng đọc, đáng kể là Phật giáo triết học của
Phan văn Hùm, là Tuệ giác đức Phật mà nay quên dịch giả. Tồi tệ nhất là
Phật giáo đại quan của Phạm Quỳnh. Ngoài ra, tôi đọc được không chỉ 1
lần, tiểu phẩm thánh Cam địa, sách quốc ngữ. Tiểu phẩm chiếm trọn sự
ngưỡng mộ của tôi, ảnh hưởng đến tôi không ít.
Tôi lại đọc được, do “nghệ sĩ” Vân đàm cho mượn, một số sách của Thương vụ ấn quán Tàu dịch và in, đa số là sách đọc chuyền tay của Đông kinh nghĩa thục. Trongsố có 2 bộ đáng kể, là Thế giới sử cương và Cách mạng tháng mười. Bộ sau giúp tôi hiểu Biện chứng duy vật chính thống. Bộ nầy tôi càng đọc vì tác giả Goóc-ki tỏ ra không ưa Phật giáo.
Trong những năm 1940 – 1944, tôi nghĩ khá nhiều về thế cuộc hồi đó. Tôi khẳng định ví trí “tăng sĩ Phật giáo” của tôi. Nhưng tôi suy nghĩ sự đô hộ của người Pháp. Tôi nhờ anh Minh mượn tài liệu chính thức. Bản tường trình sự cần thiết thành lập Mặt trận Việt minh của Trường Chinh, nội dung nói rõ quan điểm “giải phóng dân tộc” làm tôi chú ý. Tôi thừa hiểu giải phóng dân tộc rồi không phải
ngưng ở đó. Lại biết, từ lâu, Pháp làm cỏ các phái chống họ, mà cao điểm là pháp trường Yên bái, thì còn ai nữa để lựa chọn ngoài VM.
Thế rồi, 4 ngày sau tôi thọ Giới, buổi sáng hôm ấy tôi biết thế nào là giặc đổ bộ. Cùng mẹ, cùng mọi người, cả trâu bò và chó nữa, chạy bất kể đạn lớn đạn nhỏ bắn tứ tung bát giác. Nhưng không ai chết cả. Súc vật cũng vậy. Thật kỳ lạ. Con người chạy theo chúng, không phải chúng làm bận con người. Tất cả, nhắm núi mà chạy. Mẹ con tôi, làng tôi, mấy nhóm nữa, chạy lên cái nơi không biết, vì sao có cái tên “Mãi đắng”. Tại đây ai cũng có cái chòi dựng hối hả, tranh chưa cột lạt, cũng có thực phẩm với vài nhúm khoai lang quá non, với trái bầu quả bí chưa rụng hết núm khô. Đêm ấy, cùng với chú Đốm, lúc nào cũng là hỷ thần trong nhà mà bây giờ là cái chòi, mẹ con tôi, và Đốm nữa, nhai sống mươi củ khoai lang non, rồi ngủ vùi.
Hôm sau mẹ dậy rất sớm, Đốm quấn quít. Mẹ ấn đầu chú xuống vế, ngồi như không nghĩ gì cả. Còn tôi, tôi dịch tiểu luận Phát bồ đề tâm. Đây là lần thứ hai, lần đầu dịch tại chùa Phúc chỉnh, Ninh bình. Thấy mẹ có vẻ bớt nặng nề, tôi dịch bài Minh của Cảnh sách mà tôi thuộc lòng. Bài nầy, 1963, tôi dịch lại và chú thích, lúc bị giam tại Rạch cát, Saigon. Đốm giỡn với mẹ. Mẹ vui vì Đốm, vì tôi.
7/2
Quãng 5 hôm sau, anh H ghé thăm. Thủ tục ngoại giao xong, Mẹ bảo Đốm đi theo, về làng, cách Mãi đắng 13 cây số. Lần về nầy Đốm không chịu lên nữa. Vài hôm sau có lệnh giết chó mới biết linh tính chính xác của Đốm. Mẹ lên rất sớm, tôi thưa...mẹ khoát tay: “đoán biết rồi”. “Do ơi! mạ biết con mạ. Không phản Phật, không phụ mạ, rứa là đủ. Trên đầu con có Phật, mạ không lo chi cả. Có điều, mạ
thấy đàng còn xa, nước còn mặn lắm. Rán giữ, đừng để bị sốt rét.” Mẹ nhìn xuống, nói, con đi sớm đi. Tôi đi, không có gan nhìn mẹ.
Chiến khu gần Mãi đắng. Tôi vào, xếp đặt công việc chưa đâu vào đâu thì có sự thay đổi. Tỉnh dời ra Tuyên hóa, thị xã sát nhập Quảng ninh. Tôi tự đề nghị ở lại tại đây, cho gần mẹ hơn. Lên huyện, lại tự đề nghị phụ trách quận hội Liên Việt. Hơn tuần sau, một thanh niên cỡ tuổi tôi, gặp, nói, tôi tên Thế, chỉ huy đại đội tự vệ chiến đấu, đóng ở chỗ thị xã cũ. Tôi công tác, ghé vào nhà gặp mệ. Mệ gọi bằng con liền, có vẻ các anh đi cả, mệ thấy bạn con như thấy con, nên thương tôi lắm. Mệ khỏe. Con Đốm đẹp quá, chó lai, thiếu màu đen nữa là tam thể. Mệ xoa đầu, nói với nó, anh mới của con đó. Nó lắc mình, ngoắt đuôi, rên ư ử, nhìn tôi, dễ thương quá.
Mệ bảo, nấu khoai ăn đã, con. Tía tím, tía trắng, tía gà, khoai ngủ ngược, khoai lang.Ăn rồi, mệ cho cả rổ nữa, đem về cơ quan. Thế dễ mến thật. Không to con, hoạt bát, bảo, sáng mai tôi về sớm, anh nhắn gì với mệ không? Tôi cảm ơn nồng hậu, nhờ thưa Mẹ khỏe, vui, là đủ.
7/3
Hôm nay là 22 - 10 âm lịch. Tôi nhớ khi Cha mất. Trời âm u. Mưa có lúc đã lớn. Ngày mai đã là 23 -10; ông tha bà không tha. Tôi tìm khuây khỏa trong công việc. Chỉ não lòng không tụng được cho Cha một thời kinh. Chiều hôm ấy, Thế lên, tìm tôi gấp gáp, báo tin Mẹ đau nặng. Thế đã cải trang võng Mẹ xuống bịnh viện tỉnh. “Anh phải về nuôi Mẹ. Quân kỷ không cho phép Thế liều lĩnh hơn được”. “Tôi về, còn nguy hiểm hơn nữa.” Thế trầm ngâm, ừ, nhưng cứ về đã. Biết đâu chỉ thấymột trong các anh thì Mẹ lành liền. Tôi nói, bây giờ gần tối rồi, mai sáng mới sắp đặt được. Thế tạm biệt tôi, không nói gì. Quãng 8 giờ tối, Thế đến, phấn khởi: “Xong xuôi rồi, tôi nghỉ với anh luôn, sáng đi càng sớm càng tốt”. Tôi nói, còn kiếm đò.
Thế bảo, có rồi. Tôi nhìn Thế, Thế nhìn tôi. Trong một thoáng, chúng tôi cảm thấy cùng một Mẹ. Tỉnh trí rồi tôi hỏi, Thế có biết ngày mai là kỵ cha tôi không, Thế nói, bây giờ thì biết. “Thế thì anh càng về gấp”. Tám giờ sáng, đò cặp bến núi U bò, sông Long đại. Hai anh em trèo núi, cao và rắc rối. Đây là lần thứ hai tôi trèo. Ba giờ chiều về đến chỗ Thế đóng quân. Thế vừa sắp đặt, vừa giải thích. Mình phải ra khỏi dốc Cây dẽ trước khi trời tối hẳn. Chỗ nầy có 2 vọng gác của nó nhắm kỹ. Hễ nghi,
hay thấy lay động là bắn liền. Bắn kiểu làm cỏ. Sớm một chút thì nó thấy, chậm một chút thì mình hết đi được. Bây giờ Thế đưa anh ra dốc Cây dẽ rồi phải lui.
Anh bình tĩnh, đi một mình. Được không. Được. Không đắn đo nữa. Đường khá thẳng, trên vài cây số. Cây nhỏ, lúp xúp, không đến vai người, làm cho con người dễ nổi bật hơn. Tôi tự tin đến kỳ lạ. Quên nói bây giờ tôi mặc áo tràng đà cẩn thận, nghĩ có chết cũng là tăng sĩ đàng hoàng. Tôi đi bình thản. Quãng hơn ½ giờ thì vào vùng đất Mỹ cang. Mừng nhưng không nhiều lắm. Băng vùng nầy, tôi vào Cẩm lệ hay Phú vinh. Ra đường ray xe lửa: chỗ hay bị phục kích. Qua khỏi đây, tôi băng cánh đồng lớn, vào xóm Ải.
Lại băng cánh đồng Ải dài, bước vào giếng Nĩ. Chỗ nầy khá nguy hiểm. Chúng hay phục kích, lại là bãi tha ma hoàn toàn. Cỡ 900 mét là vào nhà, nhưng rợn người gần như đoạn đường ra khỏi Cây dẽ. Khi vào, cả nhà rú lên. Mẹ sững sờ. Tôi chỉ biết nhìn. Khi tỉnh trí, tôi hỏi bịnh Mẹ thế nào? Hết rồi, Mẹ nói, và mắt cười, dưới đèn sáng. Thế đoán đúng thật. Tôi xin ăn đã. Mẹ nói, “Chừ mà có Thế với Đốm thì vui biết mấy”. Hỏi Đốm, Mẹ nói, nó thoát kiếp rồi, gối đầu trên vế
mẹ mà đi, không rên rỉ chi cả.
Hơn 1 tuần sau, người trực tiếp, người gởi thư, nói tôi nên ở nhà chăm sóc Mệ. Tôi xin ghi ở đây ơn Thế, ơn Ty, và tất cả những ai thương cho tình cảnh mẹ con tôi.
7/4
Sau húy nhật Cha, thấy Mẹ khỏe vui, tôi thưa làm lễ “bạt độ” cho Chánh. Chú tử trận ngày 22 tháng 2 nhuận, năm đinh hợi 2491 (1947) tuần thứ 2 sau giặc đổ bộ. Năm đó, Mẹ 53 tuổi, đại hạn: mất con là đúng lý số. Nghe nói làm lễ, Mẹ mới buồn trở nên vui. Tôi lo việc. Nói chuyện với người anh họ, vốn là người Việt gốc thầy chùa, có học, nhưng nay có gia đình. Anh khá về nghi lễ chính thức và không chính thức của Phật giáo. Tôi cất học thức, làm lễ nghiêm trang, xúc động. Thậm chí – nói buồn cười – tôi xếp và đặt vàng bạc nhiều vào bàn thờ Chánh, cảm thấy em đang có ở đó.
Liên tiếp 10 ngày, tôi trì tụng cho Chánh 3 biến Địa tạng, 3 biến Kim cang, và 1 biến Pháp hoa. Mỗi ngày anh họ tôi đến cúng Ngọ và tiến Linh. Tôi đội sớ điệp cúng em, thầm trì Vãng sinh cho Chánh. Lễ thức đơn bạc. Cái đói năm ất dậu, nay vẫn còn múa lưỡi hái tử thần khắp nơi. Ngày chót, người anh họ bày đồ cầu đồng ra. Tôi hơi cười. “có cần không”, anh bảo, xưa mần răng thì chừ phải mần rứa. Mẹ rất chịu. Thế là đồng lên, người lên đồng là chú Đông, em con cô của tôi.
Trong gần một tiếng đồng hồ, đồng nói giọng em Chánh. Hỏi gì cũng nói rất đúng, những điều mà đồng, cũng như Chánh lúc sống, không ai biết gì về những điều ấy. Tôi hỏi về tương lai, gần và xa, đồng cố ý tảng lờ, không nói. Đồng nói với mẹ vài ba chuyện nữa, đột nhiên khóc nấc lên. Ai cũng mủi lòng. Đồng nói với Mẹ, con xin đi, và đứng lên lạy Phật, lạy Mẹ. Không khí thương cảm rất nặng nề.
8/1
Sau khi cúng Cha và cúng em, tôi muốn sinh hoạt bình thường. Nhưng chỉ bái sám Lương hoàng cho Mẹ nghe. Rồi chuyên trì Kim cang cho Chánh mà em thích. Và đọc Hoa nghiêm đại sớ. Nhưng ngày đêm bị đủ cách quấy nhiễu. Còn Mẹ, đã 2 đêm nay không ngủ. Tôi hỏi, Mẹ bảo, “ngồi đó, bàn coi”. Mẹ lo nghĩ lấy ai thừa tự ông bà đây. Nhưng Mẹ không bàn gì cả. Trưa đó, ăn xong,Mẹ không nghỉ, đi đâu không nói. Khi về, thiệt nhiều hơn chơi, Mẹ nói xóm mình có cô M ngó được. Cô nầy, sau đó, cảm cái tình tri kỷ của Mẹ, đã thương Mẹ như mẹ ruột.
Nhưng... Mẹ lai đi, đến một nhà gần Chùa, có 2 người con gái. Về, Mẹ vẫn chưa nói gì. Thưa, Mẹ mới nói chậm rãi, “giữa một thầy tu mà Mẹ đã mơ ước, với một thầy cúng quê mùa như ai, mẹ phân vân hết sức”. Thế là đã rõ. Nhưng Thầy đã rõ trước. Thầy ra nhà, lúc mới xế bóng. Mẹ chào hỏi, Thầy nói, nhẹ nhàng, “Chị ơi, xưa, người ta có con thừa tướng, dễ hơn có con cao tăng”. Mẹ thưa liền, “Tôi không biết bàn tính với ai. Định chiều vào Thầy thì Thầy đã ra, và đã có ý kiến. Có thể không có gì phải phân vân nữa”. Đêm đó, tôi trang trọng thưa Mẹ: “Lấy vợ, làm thầy cúng quá dễ. Nhưng không dễ, hoàn toàn không dễ, cho mẹ con mình. Con đi tu là lời nguyền của Mẹ, bây giờ nói khác đi sao được”?
Thầy lại ra sớm, Mẹ nói rất bất ngờ, “Phải chi con tôi vào Huế, ở trong Tổ đình Quốc ân, thì tốt quá”. Xui khiến sao 3 giờ chiều ấy, anh công an vào nhà tôi. Tôi hỏi, bắt tôi, và bắt đi ngay, phải không? Anh nhỏ nhẹ, “không phải”. Có mấy hòa thượng và quan cụ nào ở Huế muốn mời thầy vào trong đó. Nếu thầy đồng ý, sáng mai con vào đón thầy xuống sếp con để bàn việc ấy. Tôi đồng ý, và thưa cho mẹ hay. Mẹ sắp vào chùa thì Thầy đã ra. Khi chuyện đi Huế được biết rồi, Thầy nói, những lúc như vậy mới thầy ngài Hộ pháp làm việc như thế nào.
Phần tôi, trong lòng không thư ra mấy. Đi, để Mẹ thui thủi một mình... Nhưng chuyện mới xẩy ra mươi lăm hôm trước. Lũ trấn vọng gác sau nhà tôi, đêm khuya đã nhắm bắn vào chỗ tôi nằm, xuyên qua mái sau. Chúng bắn giỏi. Đạn trúng cây đèn đồng lớn. Cây đèn đỡ đạn cho tôi. Và đây là một hành động ám sát, trăm phần trăm chỉ để ám sát một tăng sĩ Phật giáo. Tôi biết nhắc lại chuyện nầy thật không phải lúc. Nhưng phải nhắc. Để Thầy và Mẹ tôi phải thấy gì nữa kia. Sự đời không đơn sơ chút nào. Cũng cần ghi thời điểm bấy giờ: 2492 (1948)
9/1
Quãng 2494 (1950), Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới thành lập ở Tích lan. Việt nam có hòa thượng Tố liên tham dự. Khi về, hòa thượng cố gắng lập chi bộ ở nước nhà. Hòa thượng vào Huế vận động. Một cuộc họp đủ cả các vị lãnh đạo tại đây được triệu tập khá rộng. Trước khi họp, dành vài mươi phút để hòa thượng Tố liên ra mắt và thuyết trình về Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới. Cuộc thuyết trình không được vui lắm, từ mọi phía. Tôi xin phép trình bày ý kiến. Nên bàn việc thành
lập Tổng hội Phật giáo Việt nam, rồi từ đó mà bàn việc liên hệ Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới.
Liên hệ chứ không trực thuộc. Thí dụ, Liên minh có thế nào thì Tổng hội không tự nguyện chung số phận. Ai, nhất là hòa thuợng Tố liên, cũng tán thành. Và đồng thanh bảo tôi chủ tọa cuộc họp. Họp nửa giờ thì xong, với nghị quyết sau đây:
1. Nay thành lập Tổng hội Phật giáo Việt nam, tạm hạn cuộc 6 tập đoàn Phật giáo có đại biểu tham dự và ký tên trong cuộc họp nầy.
2. Cuộc họp nầy bái thỉnh đại lão hòa thượng Tịnh khiết (đương kim pháp chủ tăng già miền Trung) làm Tổng hội chủ lâm thời. Lại công cử hòa thượng Trí thủ (đương kim Hội trưởng Phật học miền Trung) làm trưởng ban Đại hội chính thức.
3. Trân trọng tái xác nhận tôn chỉ và mục đích của Phật giáo là phụng sự Phật phap (bằng giáo hạnh cực tinh thuần) và phục vụ nhân loại (bằng từ bi không vụ lợi).
4. Đại hội chính thức phải tổ chức một năm sau cuộc họp nầy, vào ngày Phật đản truyền thống 8/4 tại Từ Đàm, Huế. Chi phí: yêu cầu 2 tập đoàn miền Trung đài thọ.
5. Đại biểu chính thức: 15 vị cho mỗi miền. Người tham quan: không hạn chế.
Gần giờ giới nghiêm. Tôi xin đình họp để kịp về. Và lo nhiều hơn mừng - dầu cái tiếng “Thống nhất Phât giáo” đã reo lên.
9/2
Sáng sớm 8/4 2495 (1951), Đại hội Phật giáo Việt nam khai mạc tại Từ đàm, Huế. Pháp thiều “Phật giáo Việt nam”, lần đầu tiên, được hát lên. Sau 3 ngày làm việc, 1 Hiến chương cho THPGVN được chấp nhận, 1 nghị quyết tán thành LMHNPTTG được công bố.
Hiến chương qui định THPGVN đặt trách nhiệm lãnh đạo vào Hội đồng Quản trị Trung ương (QTTW) gồm 1 Tổng hội chủ (là đại lão hòa thượng Tinh khiết), 1 Phó Tổng hội chủ tăng già (là hòa thượng Trí hải), 1 Phó Tổng hội chủ cư sĩ (là cụ Lê văn Định), 1 Tổng thư ký (là ông Tráng Đinh).
Tiếp theo có nhiều thành viên cho đủ loại công việc. Một chương trình làm việc 3 năm được chấp nhận, trong đó có phái người du học để đạt trình độ cao cấp.
Nghị quyết tán thành LMHNPTTG gồm có công nhận cờ “5 màu hào quang của Phật”; THPGVN là Chi bộ “chỉ là liên lạc đạo tình” mà thôi; công nhận hòa thượng Tố liên là đại diện bên cạnh Liên minh; yêu cầu giúp đỡ người du học mở đầu là Tích lan.
Thế rồi, HĐQT thực sự làm việc. Đầu tiên là trình báo Quốc trưởng và Chính phủ về Hiến chương. Phía Quốc trưởng, 1 văn thư tán thành hoàn toàn theo kiểu cách ngoại giao. Phía Chính phủ thì Tổng trưởng Nội vụ gửi một văn thư nói phải đặt THPGVN vào khuôn khổ đạo dụ số 10. Bấy giờ những ai nói “chỉ trình chiếu, không xin phép” mới thấy hòa thượng Tố liên ảo tưởng. Tiếp theo, Chính phủ lịnh cho Đại biểu miền Trung, đòi nạp khuôn dấu, hạ bảng hiệu. Ông Tráng Đinh bị bắt. Cụ Định từ chức. Trong cuộc họp khẩn cấp, với tư cách một thành viên của HĐQT, tôi tình nguyện giữ khuôn dấu, và tức thì yêu cầu tiếp xúc với Đại biểu.
Tôi thưa, khuôn dấu của THPGVN thì chính ngài Tường vân cũng không có quyền tuân lịnh mà nạp cho chính phủ - nhất là lịnh ấy phi lý quá đáng. Ngài Tổng hội chủ muốn nạp thì phải có đại hội quyết định. Tôi yêu cầu được phép triệu tập Đại hội ấy, gồm 6 tập đoàn. Diễn biến đến chỗ phải xin duyệt y Hiến chương, nhưng tôi tận lực phản kháng buộc THPGVN vào khuôn khổ dụ số 10, yêu cầu phải có ít nhất là “1 sắc luật riêng”.
Tôi không thấy nói gì 4 chữ sau, nhưng Hiến chương được nha Pháp chính miền Trung mời tôi đến, gọt dũa khá kỹ, “không cho tăng già cư sĩ đứng chung”, công nhiên bác bỏ ý thức thống nhất. Ông Đổng lý văn phòng Quốc trưởng nhập cuộc. Điềm đạm, ông nói, thượng tọa cứ nhận đi, miễn người ta trồng cam vào chậu đã. Rồi, sau đó, thượng tọa trồng cam sành chậu sứ như ý mình thì họ cũng không hơi đâu mà làm khó. Tôi nghe ra, thiện chí của ông không phải không có, nhưng có cái gì đó cho thấy mọi sự đã trở thành lạc hậu. Tôi vẫn không dễ dàng, đề nghị chữa cách hành văn mà thôi, rằng THPGVN gồm có Tăng già, và dưới Tăng già là Cư sĩ. Ông Giám đốc nha Pháp chính chấp nhận.
Và mấy hôm sau, họ mời tôi xuống tòa Đại biểu nhận Hiến chương đã duyệt y. Tôi phân vân. Hòa thượng Mật nguyên hay đi với tôi “cho tôi bớt lạnh”, khuyên tôi nên nhận, ít nhất cũng có cái để mở Đại hội 1956, dời THPGVN vào Saigon, chùa Xá lợi.
9/3
Năm ngoái, 2595 (1951), khi vào họp Đại hội, hòa thượng Tâm châu có đưa cho tôi 2 tài liệu bằng hình ảnh. Tài liệu 1 là thư tuyệt mệnh của 1 gia đình nếu tôi nhớ không lầm là 7 người, đau lòng vì tín ngưỡng của mình bị kỳ thị, và gia đình mình bị bức tử. Tài liệu 2 là một ngôi chùa mái cổ có mặt nhật bị đập, thay vào là hình chữ thập. Các vị ni sư bị mặc áo bà xơ. Tình trạng như 2 tài liệu nầy mô tả đã lắng xuống, sau khi tự viện thượng cờ Phật giáo lên.
Năm nay, 2496 (1952), 2 tập đoàn Phật giáo Bắc được ủy nhiệm tổ chức giáo hội Tăng già toàn quốc (TGTQ). Tôi ra Hànội trước 1 tuần. Hànội rộn ràng cứ rộn ràng. Giáo hội tổ chức cứ tổ chức. TGTQ được thành lập, với một vị thượng thủ là ngài Tuệ tạng, và 1 vị Tổng thư ký là ngài Tố liên. Đại hội có mục đến dự buổi tiếp tân của Hiệp hội Văn hóa Thăng long. Sau lời chào mừng của ông Hội trưởng, tôi được bảo thay lời đáp lễ. Tôi thưa, 3 miền tăng sĩ Phật giáo hội họp nơi ngàn năm văn hiến nầy là muốn nói lên mục đích phục vụ văn hóa dân tộc. Đó cũng là mục đích chúng tôi đến đây, hôm nay. Dân tộc ta, từ bao giờ cho tới bây giờ, chống ngoại xâm là chống xâm lược văn hóa và lãnh thổ.
Con dân tổ quốc, khắp trên đất nước, bảo tồn lãnh thổ, chúng ta phải góp sức bảo tồn văn hóa. Nơi vũ khí chống xâm lược lãnh thổ có sự chống xâm lược văn hóa. Nơi chúng tôi và quí vị có sự bảo tồn tín ngưỡng dân tộc, tức cũng có sự bảo tồn văn hóa dân tộc. Cả dân tộc ta đang chung lòng chung sức như thế. Thay lời liệt vị tôn túc, tôi kính mến cảm ơn thịnh tình của quí vị. Cỡ 1 tuần sau Đại hội TGTQ, phái đoàn đại biểu Phật giáo Việt nam, trong đó có tôi, qua Nhật dự Đại hội LHHNPTTG. Chương trình Đại hội nầy có mục đến thăm nơi quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ và để lại những gì của nó. Tôi bịnh, không đi, nhưng nghe nói thật kinh hoàng. Đưa Đại hội đến thăm ở đây, rõ ràng,
người Nhật tố cáo, nguyền rủa.
10/1
Bấy giờ là thời điểm 2497 – 2499 (1953 – 1955)
XX
Đây là thời điểm mà tổ quốc phân chia Bắc Nam. Tôi nghĩ, tôi nên đứng ở cương vị thuần túy Phật giáo, không nên có ý kiến về việc đời quan trọng, chỉ đánh dấu tâm tư bằng dấu ẩn mà thôi.
11/1
Bấy giờ là thời điểm 2500 (1956), gồm trước và sau đó nữa.!!
Thời điểm nầy đau đớn nhất cho đời tôi, cho suốt đời tôi. Thời điểm mà ngưòi Mẹ khốn khổ của tôi bị đấu tố. Tôi không đủ can đảm, nhớ lại cho hết, ghi lại cho đủ, chỉ đánh vài dấu than mà thôi.
12/1
Suốt 7 năm, 2500 – 2506 (1956 – 1962), tôi hoàn toàn nghỉ việc, mất mất ngủ đến nỗi mí mắt không nhắm lại được. Nói chuyện cũ, trước cả năm 2495 (1951), tôi đề nghị đổi và đã đổi được, trước là Phật học thành Phật giáo, sau Sơn môn thành Giáo hội. Chữ sau khó mà dễ, chỉ phải tra cứu rất kỹ, và tham khảo các vị chuyên môn nổi tiếng về Luật, Sử và Triết. Chữ đầu dễ mà lại khó, không khó vì gì mà vì một gã trí thức mới biết nghĩa 2 chữ Phật học, Phật giáo. Thật ra gã không biết chữ Phật học của Hội là lấy từ đại nguyện vương của ngài Phổ hiền, “bát giả thường tùy Phật học”, có nghĩa thường tu học theo Phật. Ấy thế nhưng, một tài liệu công an mà tôi được mật cho, công an buộc một huynh trưởng khai rằng tôi đổi Phât học ra Phật giáo là chuẩn bị tranh cử tổng thống.
Tôi lại đọc được, do “nghệ sĩ” Vân đàm cho mượn, một số sách của Thương vụ ấn quán Tàu dịch và in, đa số là sách đọc chuyền tay của Đông kinh nghĩa thục. Trongsố có 2 bộ đáng kể, là Thế giới sử cương và Cách mạng tháng mười. Bộ sau giúp tôi hiểu Biện chứng duy vật chính thống. Bộ nầy tôi càng đọc vì tác giả Goóc-ki tỏ ra không ưa Phật giáo.
Trong những năm 1940 – 1944, tôi nghĩ khá nhiều về thế cuộc hồi đó. Tôi khẳng định ví trí “tăng sĩ Phật giáo” của tôi. Nhưng tôi suy nghĩ sự đô hộ của người Pháp. Tôi nhờ anh Minh mượn tài liệu chính thức. Bản tường trình sự cần thiết thành lập Mặt trận Việt minh của Trường Chinh, nội dung nói rõ quan điểm “giải phóng dân tộc” làm tôi chú ý. Tôi thừa hiểu giải phóng dân tộc rồi không phải
ngưng ở đó. Lại biết, từ lâu, Pháp làm cỏ các phái chống họ, mà cao điểm là pháp trường Yên bái, thì còn ai nữa để lựa chọn ngoài VM.
Thế rồi, 4 ngày sau tôi thọ Giới, buổi sáng hôm ấy tôi biết thế nào là giặc đổ bộ. Cùng mẹ, cùng mọi người, cả trâu bò và chó nữa, chạy bất kể đạn lớn đạn nhỏ bắn tứ tung bát giác. Nhưng không ai chết cả. Súc vật cũng vậy. Thật kỳ lạ. Con người chạy theo chúng, không phải chúng làm bận con người. Tất cả, nhắm núi mà chạy. Mẹ con tôi, làng tôi, mấy nhóm nữa, chạy lên cái nơi không biết, vì sao có cái tên “Mãi đắng”. Tại đây ai cũng có cái chòi dựng hối hả, tranh chưa cột lạt, cũng có thực phẩm với vài nhúm khoai lang quá non, với trái bầu quả bí chưa rụng hết núm khô. Đêm ấy, cùng với chú Đốm, lúc nào cũng là hỷ thần trong nhà mà bây giờ là cái chòi, mẹ con tôi, và Đốm nữa, nhai sống mươi củ khoai lang non, rồi ngủ vùi.
Hôm sau mẹ dậy rất sớm, Đốm quấn quít. Mẹ ấn đầu chú xuống vế, ngồi như không nghĩ gì cả. Còn tôi, tôi dịch tiểu luận Phát bồ đề tâm. Đây là lần thứ hai, lần đầu dịch tại chùa Phúc chỉnh, Ninh bình. Thấy mẹ có vẻ bớt nặng nề, tôi dịch bài Minh của Cảnh sách mà tôi thuộc lòng. Bài nầy, 1963, tôi dịch lại và chú thích, lúc bị giam tại Rạch cát, Saigon. Đốm giỡn với mẹ. Mẹ vui vì Đốm, vì tôi.
7/2
Quãng 5 hôm sau, anh H ghé thăm. Thủ tục ngoại giao xong, Mẹ bảo Đốm đi theo, về làng, cách Mãi đắng 13 cây số. Lần về nầy Đốm không chịu lên nữa. Vài hôm sau có lệnh giết chó mới biết linh tính chính xác của Đốm. Mẹ lên rất sớm, tôi thưa...mẹ khoát tay: “đoán biết rồi”. “Do ơi! mạ biết con mạ. Không phản Phật, không phụ mạ, rứa là đủ. Trên đầu con có Phật, mạ không lo chi cả. Có điều, mạ
thấy đàng còn xa, nước còn mặn lắm. Rán giữ, đừng để bị sốt rét.” Mẹ nhìn xuống, nói, con đi sớm đi. Tôi đi, không có gan nhìn mẹ.
Chiến khu gần Mãi đắng. Tôi vào, xếp đặt công việc chưa đâu vào đâu thì có sự thay đổi. Tỉnh dời ra Tuyên hóa, thị xã sát nhập Quảng ninh. Tôi tự đề nghị ở lại tại đây, cho gần mẹ hơn. Lên huyện, lại tự đề nghị phụ trách quận hội Liên Việt. Hơn tuần sau, một thanh niên cỡ tuổi tôi, gặp, nói, tôi tên Thế, chỉ huy đại đội tự vệ chiến đấu, đóng ở chỗ thị xã cũ. Tôi công tác, ghé vào nhà gặp mệ. Mệ gọi bằng con liền, có vẻ các anh đi cả, mệ thấy bạn con như thấy con, nên thương tôi lắm. Mệ khỏe. Con Đốm đẹp quá, chó lai, thiếu màu đen nữa là tam thể. Mệ xoa đầu, nói với nó, anh mới của con đó. Nó lắc mình, ngoắt đuôi, rên ư ử, nhìn tôi, dễ thương quá.
Mệ bảo, nấu khoai ăn đã, con. Tía tím, tía trắng, tía gà, khoai ngủ ngược, khoai lang.Ăn rồi, mệ cho cả rổ nữa, đem về cơ quan. Thế dễ mến thật. Không to con, hoạt bát, bảo, sáng mai tôi về sớm, anh nhắn gì với mệ không? Tôi cảm ơn nồng hậu, nhờ thưa Mẹ khỏe, vui, là đủ.
7/3
Hôm nay là 22 - 10 âm lịch. Tôi nhớ khi Cha mất. Trời âm u. Mưa có lúc đã lớn. Ngày mai đã là 23 -10; ông tha bà không tha. Tôi tìm khuây khỏa trong công việc. Chỉ não lòng không tụng được cho Cha một thời kinh. Chiều hôm ấy, Thế lên, tìm tôi gấp gáp, báo tin Mẹ đau nặng. Thế đã cải trang võng Mẹ xuống bịnh viện tỉnh. “Anh phải về nuôi Mẹ. Quân kỷ không cho phép Thế liều lĩnh hơn được”. “Tôi về, còn nguy hiểm hơn nữa.” Thế trầm ngâm, ừ, nhưng cứ về đã. Biết đâu chỉ thấymột trong các anh thì Mẹ lành liền. Tôi nói, bây giờ gần tối rồi, mai sáng mới sắp đặt được. Thế tạm biệt tôi, không nói gì. Quãng 8 giờ tối, Thế đến, phấn khởi: “Xong xuôi rồi, tôi nghỉ với anh luôn, sáng đi càng sớm càng tốt”. Tôi nói, còn kiếm đò.
Thế bảo, có rồi. Tôi nhìn Thế, Thế nhìn tôi. Trong một thoáng, chúng tôi cảm thấy cùng một Mẹ. Tỉnh trí rồi tôi hỏi, Thế có biết ngày mai là kỵ cha tôi không, Thế nói, bây giờ thì biết. “Thế thì anh càng về gấp”. Tám giờ sáng, đò cặp bến núi U bò, sông Long đại. Hai anh em trèo núi, cao và rắc rối. Đây là lần thứ hai tôi trèo. Ba giờ chiều về đến chỗ Thế đóng quân. Thế vừa sắp đặt, vừa giải thích. Mình phải ra khỏi dốc Cây dẽ trước khi trời tối hẳn. Chỗ nầy có 2 vọng gác của nó nhắm kỹ. Hễ nghi,
hay thấy lay động là bắn liền. Bắn kiểu làm cỏ. Sớm một chút thì nó thấy, chậm một chút thì mình hết đi được. Bây giờ Thế đưa anh ra dốc Cây dẽ rồi phải lui.
Anh bình tĩnh, đi một mình. Được không. Được. Không đắn đo nữa. Đường khá thẳng, trên vài cây số. Cây nhỏ, lúp xúp, không đến vai người, làm cho con người dễ nổi bật hơn. Tôi tự tin đến kỳ lạ. Quên nói bây giờ tôi mặc áo tràng đà cẩn thận, nghĩ có chết cũng là tăng sĩ đàng hoàng. Tôi đi bình thản. Quãng hơn ½ giờ thì vào vùng đất Mỹ cang. Mừng nhưng không nhiều lắm. Băng vùng nầy, tôi vào Cẩm lệ hay Phú vinh. Ra đường ray xe lửa: chỗ hay bị phục kích. Qua khỏi đây, tôi băng cánh đồng lớn, vào xóm Ải.
Lại băng cánh đồng Ải dài, bước vào giếng Nĩ. Chỗ nầy khá nguy hiểm. Chúng hay phục kích, lại là bãi tha ma hoàn toàn. Cỡ 900 mét là vào nhà, nhưng rợn người gần như đoạn đường ra khỏi Cây dẽ. Khi vào, cả nhà rú lên. Mẹ sững sờ. Tôi chỉ biết nhìn. Khi tỉnh trí, tôi hỏi bịnh Mẹ thế nào? Hết rồi, Mẹ nói, và mắt cười, dưới đèn sáng. Thế đoán đúng thật. Tôi xin ăn đã. Mẹ nói, “Chừ mà có Thế với Đốm thì vui biết mấy”. Hỏi Đốm, Mẹ nói, nó thoát kiếp rồi, gối đầu trên vế
mẹ mà đi, không rên rỉ chi cả.
Hơn 1 tuần sau, người trực tiếp, người gởi thư, nói tôi nên ở nhà chăm sóc Mệ. Tôi xin ghi ở đây ơn Thế, ơn Ty, và tất cả những ai thương cho tình cảnh mẹ con tôi.
7/4
Sau húy nhật Cha, thấy Mẹ khỏe vui, tôi thưa làm lễ “bạt độ” cho Chánh. Chú tử trận ngày 22 tháng 2 nhuận, năm đinh hợi 2491 (1947) tuần thứ 2 sau giặc đổ bộ. Năm đó, Mẹ 53 tuổi, đại hạn: mất con là đúng lý số. Nghe nói làm lễ, Mẹ mới buồn trở nên vui. Tôi lo việc. Nói chuyện với người anh họ, vốn là người Việt gốc thầy chùa, có học, nhưng nay có gia đình. Anh khá về nghi lễ chính thức và không chính thức của Phật giáo. Tôi cất học thức, làm lễ nghiêm trang, xúc động. Thậm chí – nói buồn cười – tôi xếp và đặt vàng bạc nhiều vào bàn thờ Chánh, cảm thấy em đang có ở đó.
Liên tiếp 10 ngày, tôi trì tụng cho Chánh 3 biến Địa tạng, 3 biến Kim cang, và 1 biến Pháp hoa. Mỗi ngày anh họ tôi đến cúng Ngọ và tiến Linh. Tôi đội sớ điệp cúng em, thầm trì Vãng sinh cho Chánh. Lễ thức đơn bạc. Cái đói năm ất dậu, nay vẫn còn múa lưỡi hái tử thần khắp nơi. Ngày chót, người anh họ bày đồ cầu đồng ra. Tôi hơi cười. “có cần không”, anh bảo, xưa mần răng thì chừ phải mần rứa. Mẹ rất chịu. Thế là đồng lên, người lên đồng là chú Đông, em con cô của tôi.
Trong gần một tiếng đồng hồ, đồng nói giọng em Chánh. Hỏi gì cũng nói rất đúng, những điều mà đồng, cũng như Chánh lúc sống, không ai biết gì về những điều ấy. Tôi hỏi về tương lai, gần và xa, đồng cố ý tảng lờ, không nói. Đồng nói với mẹ vài ba chuyện nữa, đột nhiên khóc nấc lên. Ai cũng mủi lòng. Đồng nói với Mẹ, con xin đi, và đứng lên lạy Phật, lạy Mẹ. Không khí thương cảm rất nặng nề.
8/1
Sau khi cúng Cha và cúng em, tôi muốn sinh hoạt bình thường. Nhưng chỉ bái sám Lương hoàng cho Mẹ nghe. Rồi chuyên trì Kim cang cho Chánh mà em thích. Và đọc Hoa nghiêm đại sớ. Nhưng ngày đêm bị đủ cách quấy nhiễu. Còn Mẹ, đã 2 đêm nay không ngủ. Tôi hỏi, Mẹ bảo, “ngồi đó, bàn coi”. Mẹ lo nghĩ lấy ai thừa tự ông bà đây. Nhưng Mẹ không bàn gì cả. Trưa đó, ăn xong,Mẹ không nghỉ, đi đâu không nói. Khi về, thiệt nhiều hơn chơi, Mẹ nói xóm mình có cô M ngó được. Cô nầy, sau đó, cảm cái tình tri kỷ của Mẹ, đã thương Mẹ như mẹ ruột.
Nhưng... Mẹ lai đi, đến một nhà gần Chùa, có 2 người con gái. Về, Mẹ vẫn chưa nói gì. Thưa, Mẹ mới nói chậm rãi, “giữa một thầy tu mà Mẹ đã mơ ước, với một thầy cúng quê mùa như ai, mẹ phân vân hết sức”. Thế là đã rõ. Nhưng Thầy đã rõ trước. Thầy ra nhà, lúc mới xế bóng. Mẹ chào hỏi, Thầy nói, nhẹ nhàng, “Chị ơi, xưa, người ta có con thừa tướng, dễ hơn có con cao tăng”. Mẹ thưa liền, “Tôi không biết bàn tính với ai. Định chiều vào Thầy thì Thầy đã ra, và đã có ý kiến. Có thể không có gì phải phân vân nữa”. Đêm đó, tôi trang trọng thưa Mẹ: “Lấy vợ, làm thầy cúng quá dễ. Nhưng không dễ, hoàn toàn không dễ, cho mẹ con mình. Con đi tu là lời nguyền của Mẹ, bây giờ nói khác đi sao được”?
Thầy lại ra sớm, Mẹ nói rất bất ngờ, “Phải chi con tôi vào Huế, ở trong Tổ đình Quốc ân, thì tốt quá”. Xui khiến sao 3 giờ chiều ấy, anh công an vào nhà tôi. Tôi hỏi, bắt tôi, và bắt đi ngay, phải không? Anh nhỏ nhẹ, “không phải”. Có mấy hòa thượng và quan cụ nào ở Huế muốn mời thầy vào trong đó. Nếu thầy đồng ý, sáng mai con vào đón thầy xuống sếp con để bàn việc ấy. Tôi đồng ý, và thưa cho mẹ hay. Mẹ sắp vào chùa thì Thầy đã ra. Khi chuyện đi Huế được biết rồi, Thầy nói, những lúc như vậy mới thầy ngài Hộ pháp làm việc như thế nào.
Phần tôi, trong lòng không thư ra mấy. Đi, để Mẹ thui thủi một mình... Nhưng chuyện mới xẩy ra mươi lăm hôm trước. Lũ trấn vọng gác sau nhà tôi, đêm khuya đã nhắm bắn vào chỗ tôi nằm, xuyên qua mái sau. Chúng bắn giỏi. Đạn trúng cây đèn đồng lớn. Cây đèn đỡ đạn cho tôi. Và đây là một hành động ám sát, trăm phần trăm chỉ để ám sát một tăng sĩ Phật giáo. Tôi biết nhắc lại chuyện nầy thật không phải lúc. Nhưng phải nhắc. Để Thầy và Mẹ tôi phải thấy gì nữa kia. Sự đời không đơn sơ chút nào. Cũng cần ghi thời điểm bấy giờ: 2492 (1948)
9/1
Quãng 2494 (1950), Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới thành lập ở Tích lan. Việt nam có hòa thượng Tố liên tham dự. Khi về, hòa thượng cố gắng lập chi bộ ở nước nhà. Hòa thượng vào Huế vận động. Một cuộc họp đủ cả các vị lãnh đạo tại đây được triệu tập khá rộng. Trước khi họp, dành vài mươi phút để hòa thượng Tố liên ra mắt và thuyết trình về Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới. Cuộc thuyết trình không được vui lắm, từ mọi phía. Tôi xin phép trình bày ý kiến. Nên bàn việc thành
lập Tổng hội Phật giáo Việt nam, rồi từ đó mà bàn việc liên hệ Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới.
Liên hệ chứ không trực thuộc. Thí dụ, Liên minh có thế nào thì Tổng hội không tự nguyện chung số phận. Ai, nhất là hòa thuợng Tố liên, cũng tán thành. Và đồng thanh bảo tôi chủ tọa cuộc họp. Họp nửa giờ thì xong, với nghị quyết sau đây:
1. Nay thành lập Tổng hội Phật giáo Việt nam, tạm hạn cuộc 6 tập đoàn Phật giáo có đại biểu tham dự và ký tên trong cuộc họp nầy.
2. Cuộc họp nầy bái thỉnh đại lão hòa thượng Tịnh khiết (đương kim pháp chủ tăng già miền Trung) làm Tổng hội chủ lâm thời. Lại công cử hòa thượng Trí thủ (đương kim Hội trưởng Phật học miền Trung) làm trưởng ban Đại hội chính thức.
3. Trân trọng tái xác nhận tôn chỉ và mục đích của Phật giáo là phụng sự Phật phap (bằng giáo hạnh cực tinh thuần) và phục vụ nhân loại (bằng từ bi không vụ lợi).
4. Đại hội chính thức phải tổ chức một năm sau cuộc họp nầy, vào ngày Phật đản truyền thống 8/4 tại Từ Đàm, Huế. Chi phí: yêu cầu 2 tập đoàn miền Trung đài thọ.
5. Đại biểu chính thức: 15 vị cho mỗi miền. Người tham quan: không hạn chế.
Gần giờ giới nghiêm. Tôi xin đình họp để kịp về. Và lo nhiều hơn mừng - dầu cái tiếng “Thống nhất Phât giáo” đã reo lên.
9/2
Sáng sớm 8/4 2495 (1951), Đại hội Phật giáo Việt nam khai mạc tại Từ đàm, Huế. Pháp thiều “Phật giáo Việt nam”, lần đầu tiên, được hát lên. Sau 3 ngày làm việc, 1 Hiến chương cho THPGVN được chấp nhận, 1 nghị quyết tán thành LMHNPTTG được công bố.
Hiến chương qui định THPGVN đặt trách nhiệm lãnh đạo vào Hội đồng Quản trị Trung ương (QTTW) gồm 1 Tổng hội chủ (là đại lão hòa thượng Tinh khiết), 1 Phó Tổng hội chủ tăng già (là hòa thượng Trí hải), 1 Phó Tổng hội chủ cư sĩ (là cụ Lê văn Định), 1 Tổng thư ký (là ông Tráng Đinh).
Tiếp theo có nhiều thành viên cho đủ loại công việc. Một chương trình làm việc 3 năm được chấp nhận, trong đó có phái người du học để đạt trình độ cao cấp.
Nghị quyết tán thành LMHNPTTG gồm có công nhận cờ “5 màu hào quang của Phật”; THPGVN là Chi bộ “chỉ là liên lạc đạo tình” mà thôi; công nhận hòa thượng Tố liên là đại diện bên cạnh Liên minh; yêu cầu giúp đỡ người du học mở đầu là Tích lan.
Thế rồi, HĐQT thực sự làm việc. Đầu tiên là trình báo Quốc trưởng và Chính phủ về Hiến chương. Phía Quốc trưởng, 1 văn thư tán thành hoàn toàn theo kiểu cách ngoại giao. Phía Chính phủ thì Tổng trưởng Nội vụ gửi một văn thư nói phải đặt THPGVN vào khuôn khổ đạo dụ số 10. Bấy giờ những ai nói “chỉ trình chiếu, không xin phép” mới thấy hòa thượng Tố liên ảo tưởng. Tiếp theo, Chính phủ lịnh cho Đại biểu miền Trung, đòi nạp khuôn dấu, hạ bảng hiệu. Ông Tráng Đinh bị bắt. Cụ Định từ chức. Trong cuộc họp khẩn cấp, với tư cách một thành viên của HĐQT, tôi tình nguyện giữ khuôn dấu, và tức thì yêu cầu tiếp xúc với Đại biểu.
Tôi thưa, khuôn dấu của THPGVN thì chính ngài Tường vân cũng không có quyền tuân lịnh mà nạp cho chính phủ - nhất là lịnh ấy phi lý quá đáng. Ngài Tổng hội chủ muốn nạp thì phải có đại hội quyết định. Tôi yêu cầu được phép triệu tập Đại hội ấy, gồm 6 tập đoàn. Diễn biến đến chỗ phải xin duyệt y Hiến chương, nhưng tôi tận lực phản kháng buộc THPGVN vào khuôn khổ dụ số 10, yêu cầu phải có ít nhất là “1 sắc luật riêng”.
Tôi không thấy nói gì 4 chữ sau, nhưng Hiến chương được nha Pháp chính miền Trung mời tôi đến, gọt dũa khá kỹ, “không cho tăng già cư sĩ đứng chung”, công nhiên bác bỏ ý thức thống nhất. Ông Đổng lý văn phòng Quốc trưởng nhập cuộc. Điềm đạm, ông nói, thượng tọa cứ nhận đi, miễn người ta trồng cam vào chậu đã. Rồi, sau đó, thượng tọa trồng cam sành chậu sứ như ý mình thì họ cũng không hơi đâu mà làm khó. Tôi nghe ra, thiện chí của ông không phải không có, nhưng có cái gì đó cho thấy mọi sự đã trở thành lạc hậu. Tôi vẫn không dễ dàng, đề nghị chữa cách hành văn mà thôi, rằng THPGVN gồm có Tăng già, và dưới Tăng già là Cư sĩ. Ông Giám đốc nha Pháp chính chấp nhận.
Và mấy hôm sau, họ mời tôi xuống tòa Đại biểu nhận Hiến chương đã duyệt y. Tôi phân vân. Hòa thượng Mật nguyên hay đi với tôi “cho tôi bớt lạnh”, khuyên tôi nên nhận, ít nhất cũng có cái để mở Đại hội 1956, dời THPGVN vào Saigon, chùa Xá lợi.
9/3
Năm ngoái, 2595 (1951), khi vào họp Đại hội, hòa thượng Tâm châu có đưa cho tôi 2 tài liệu bằng hình ảnh. Tài liệu 1 là thư tuyệt mệnh của 1 gia đình nếu tôi nhớ không lầm là 7 người, đau lòng vì tín ngưỡng của mình bị kỳ thị, và gia đình mình bị bức tử. Tài liệu 2 là một ngôi chùa mái cổ có mặt nhật bị đập, thay vào là hình chữ thập. Các vị ni sư bị mặc áo bà xơ. Tình trạng như 2 tài liệu nầy mô tả đã lắng xuống, sau khi tự viện thượng cờ Phật giáo lên.
Năm nay, 2496 (1952), 2 tập đoàn Phật giáo Bắc được ủy nhiệm tổ chức giáo hội Tăng già toàn quốc (TGTQ). Tôi ra Hànội trước 1 tuần. Hànội rộn ràng cứ rộn ràng. Giáo hội tổ chức cứ tổ chức. TGTQ được thành lập, với một vị thượng thủ là ngài Tuệ tạng, và 1 vị Tổng thư ký là ngài Tố liên. Đại hội có mục đến dự buổi tiếp tân của Hiệp hội Văn hóa Thăng long. Sau lời chào mừng của ông Hội trưởng, tôi được bảo thay lời đáp lễ. Tôi thưa, 3 miền tăng sĩ Phật giáo hội họp nơi ngàn năm văn hiến nầy là muốn nói lên mục đích phục vụ văn hóa dân tộc. Đó cũng là mục đích chúng tôi đến đây, hôm nay. Dân tộc ta, từ bao giờ cho tới bây giờ, chống ngoại xâm là chống xâm lược văn hóa và lãnh thổ.
Con dân tổ quốc, khắp trên đất nước, bảo tồn lãnh thổ, chúng ta phải góp sức bảo tồn văn hóa. Nơi vũ khí chống xâm lược lãnh thổ có sự chống xâm lược văn hóa. Nơi chúng tôi và quí vị có sự bảo tồn tín ngưỡng dân tộc, tức cũng có sự bảo tồn văn hóa dân tộc. Cả dân tộc ta đang chung lòng chung sức như thế. Thay lời liệt vị tôn túc, tôi kính mến cảm ơn thịnh tình của quí vị. Cỡ 1 tuần sau Đại hội TGTQ, phái đoàn đại biểu Phật giáo Việt nam, trong đó có tôi, qua Nhật dự Đại hội LHHNPTTG. Chương trình Đại hội nầy có mục đến thăm nơi quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ và để lại những gì của nó. Tôi bịnh, không đi, nhưng nghe nói thật kinh hoàng. Đưa Đại hội đến thăm ở đây, rõ ràng,
người Nhật tố cáo, nguyền rủa.
10/1
Bấy giờ là thời điểm 2497 – 2499 (1953 – 1955)
XX
Đây là thời điểm mà tổ quốc phân chia Bắc Nam. Tôi nghĩ, tôi nên đứng ở cương vị thuần túy Phật giáo, không nên có ý kiến về việc đời quan trọng, chỉ đánh dấu tâm tư bằng dấu ẩn mà thôi.
11/1
Bấy giờ là thời điểm 2500 (1956), gồm trước và sau đó nữa.!!
Thời điểm nầy đau đớn nhất cho đời tôi, cho suốt đời tôi. Thời điểm mà ngưòi Mẹ khốn khổ của tôi bị đấu tố. Tôi không đủ can đảm, nhớ lại cho hết, ghi lại cho đủ, chỉ đánh vài dấu than mà thôi.
12/1
Suốt 7 năm, 2500 – 2506 (1956 – 1962), tôi hoàn toàn nghỉ việc, mất mất ngủ đến nỗi mí mắt không nhắm lại được. Nói chuyện cũ, trước cả năm 2495 (1951), tôi đề nghị đổi và đã đổi được, trước là Phật học thành Phật giáo, sau Sơn môn thành Giáo hội. Chữ sau khó mà dễ, chỉ phải tra cứu rất kỹ, và tham khảo các vị chuyên môn nổi tiếng về Luật, Sử và Triết. Chữ đầu dễ mà lại khó, không khó vì gì mà vì một gã trí thức mới biết nghĩa 2 chữ Phật học, Phật giáo. Thật ra gã không biết chữ Phật học của Hội là lấy từ đại nguyện vương của ngài Phổ hiền, “bát giả thường tùy Phật học”, có nghĩa thường tu học theo Phật. Ấy thế nhưng, một tài liệu công an mà tôi được mật cho, công an buộc một huynh trưởng khai rằng tôi đổi Phât học ra Phật giáo là chuẩn bị tranh cử tổng thống.
Tôi vào Nha trang. Với cảm khái lắng đọng, viết 2 cuốn Tuệ năng và La thập. Qua 2504 (1960) về Huế, không mấy lúc không nghe, từ văn phòng Tổng trị sự, Phật tử bị hại. Tàn bạo nhất là 27 chứ không phải 16, Phật tử bị thảm sát trong 1 đêm tại Đồng xuân, Tuy hòa. Ngang nhiên nhất là đêm đông, bắt huynh trưởng Trinh đem ra đồng đánh chết, rồi công nhiên phát thanh tại Kim long, “những kẻ giết tên Trinh nên lánh mặt đi”. Liên tục và đồng loạt nhất là rào Ấp chiến lược. Chùa nào trong rào thì hết ra vào hành đạo. Chùa nào bên ngoài thì tự do bị tác xạ. Nhưng cái nầy mới độc đáo. Phong trào họp luôn, đều đều bình nghị, “ai nghèo thì đi khu Trù mật, khu Dinh điền”. Nghèo đây là các cấp điều hành Phật giáo địa phương, “càng giàu là càng nghèo: phải đi”! Đi đến đó bị kỳ thị: chết bỏ!
12/2
Thế nhưng, cờ Pg thì dính gì ở đây mà thành vấn đề? Đúng! cờ Pg không dính gì ai cả. Tại ai tự tạo ra vấn đề “cờ Pg” mà thành chuyện. Vùng Huế và Quảng trị ai cũng biết Tổng giám mục Thục ưng làm Hồng y giáo chủ. Tòa Thánh điều tra, thấy Phật đản thì Quốc lộ Huế - Quảng trị đầy cờ Pg, lớp tư gia 2 bên đường treo trước cửa, lớp cắm trên xe mà chạy. Kiệu Lavang thì trái lại. Toà Thánh bảo thế là không thích đáng. Đức Thánh cha nói thế chứ ngài đâu có bảo mà đức Tổng giám mục bắt tất cả các hộ, đặc biệt là các hộ công chức, phải kê danh sách theo tờ khai gia đình mà làm con chiên. Và đợi đến Phật đản thì bắt triệt bỏ cờ Pg là xong. Tỉnh trưởng mà cũng là thị trưởng Huế, vận động chính ông Hội trưởng Tổng hội Pg miền Trung (mà đương nhiên là tôi) hưởng ứng lịnh ấy, ông từ chối. Ông cố vấn đứng ra điều giải. Sáng 14/4 âm lịch, ông mời đại diện Giáo hội và Hội đến tư dinh, thưa, xin quí ngài yên tâm. Tôi đã yêu cầu 2 ông bộ trưởng đây về Saigon gấp, điều chỉnh tức khắc, đừng để “lịnh bị lạc” quá lắm rồi.
Nhưng cố nói mặc cố. Quãng 2 giờ chiều, chỉ 4 tiếng đồng hồ sau cuộc điều giải, tất cả tự viện và lễ đài Phật đản, nhất là thành phố Huế, đều cho người chạy đến Từ đàm báo động, rằng quyền môn bị giật sập, đèn bị đạp, cờ Pg bị triệt. Tôi đóng cửa, tĩnh tâm, xét kỹ, thấy hết mọi điều giải và hứa hẹn. Hòa thượng Thiện minh đi đón 2 Đại lão hòa thượng Thuyền tôn và Tường vân. Tôi và các thầy đi bộ xuống tòa Tỉnh trưởng, vào lúc hơn 4 giờ chiều. Ông Phó tỉnh trưởng ra đón chào chúng tôi, và mời tôi lên họp trên lầu. Tôi từ chối, thưa rằng, chúng tôi đến đây là để được biết, tại sao khi sáng hứa gì với chúng tôi mà, ngay từ đó cho đến bây giờ, đi phá lễ đài Phật đản?
Ông vẫn không trả lời, vẫn một lần nữa mời tôi lên họp. Tôi nhìn thấy trời sắp tối, quần chúng Phật tàn ngập ngút mắt. Tôi đành đến bạch 2 Ôông và các ngài, các thầy, rồi bước theo ông Phó tỉnh trưởng hướng dẫn. Được mời ngồi, tôi xin đứng, nói, quí vị thấy quần chúng Phật tử đó: tôi không có thì giờ để ngồi nữa. Xin quí vị, nếu được, cho chúng tôi biết quyết định của quí vị. Ông tỉnh trưởng nói, và đưa tay chỉ, đây là ông Phó Tỉnh trưởng nội an, đây là ông Cảnh sát trưởng, đây là ôngTrưởng ty Thông tin. Chúng tôi hy động mọi trách nhiệm sở quan, dùng xe thông tin và chiêu hồi, đi yêu cầu chỉnh lễ đài Phật đản. Riêng thành phố, còn thông báo cho các đường có dân cư nữa. Toan hỏi đài phát thanh, nhưng không tin tưởng gì, lại hơn 7 giờ tối rồi, nên tôi nói, vậy xin quí vị xuống trực tiếp thông báo về quyết định của quí vị.
13/3
Tôi về đến Từ đàm thì đã 7g30 tối 14/4. Lòng khá bình thản, không vì tin tưởng quyết định của chính quyền, mà vì ưóc mong có một thiện chí xuất từ lương tri của con người, mà vì lòng đầy ắp phong cách của thánh Cam địa. Thêm nữa, tôi chán ngán Tổng giám Thục bao nhiêu, thì có bấy nhiêu sự cảm mến giáo hoàng lúc đó. Tôi càng tự kiểm rất kỹ, coi có tham vọng gì phi tôn giáo hay không, có tham vọng gì phi cương vị của tôi hay không, có cẩn trọng hết mức trong phản ứng và công việc hay không. Trước hết, và trên hết, Phật của tôi thường trú đóng trên đỉnh đầu của tôi. Và Mẹ tôi ôm tôi, nhìn tôi, “con đi mà trả nghĩa cho Phật”, dầu cái đi đó, hay, có thể là đi khỏi cuộc đời nầy. Tôi ứa nước mắt mà nghĩ như vậy. Đi theo tôi vẫn là hòa thượng Mật nguyện, chắc chắn biết sự lặng lẽ của tôi. Về đến Từ đàm thì các thầy Thiện siêu và thầy Thiện minh vẫn ngồi bên mâm cơm. Và thật hấp dẫn:
1 cốc nước chanh muối Nam kỳ, có đường và đá, đang mời gọi. Tôi uống và ăn. Vừa ăn vừa làm việc. Thầy Chánh trực và anh Nguyễn khắc Từ đứng sát bàn ăn. Tôi hỏi, giờ nầy, kiếm vải trắng và sơn đỏ, có không? Có cả rồi. Có, mà đúng vải trắng sơn đỏ cả không. Rất đúng ý thầy. Tôi vui lắm, nói với thầy Thiện siêu, xin hạ bụi lồ ô. Thầy bảo cưa mà hạ, róc mắt cho kỹ, cắt như nhau, để còn dùng nữa. Thầy Thiện minh đưa ra một trang giấy có chữ. Tôi nói chỉ cần 5 biểu ngữ thôi: cần cho 5 hàng dàn ngang, và mỗi hàng có 6 cái tính chiều dọc, tất cả cho chính diện sân chùa.
Những chỗ còn lại, và 3 mặt đường thì tự do. Năm biểu ngữ qui định như dưới đây:
1. Phật giáo Việt nam bất diệt!
2. Phản đối triệt cờ Phật giáo.
3. Tại sao xúc phạm Phật đản.
4. Phản đối chính sách chính phủ
5. Cầu nguyện hòa bình, hòa bình.
Viết cho đẹp. Phơi cho ráo. Biểu ngữ với cờ vừa phải với nhau. Mọi việc, cần và rất cần. Ôông Thiện siêu nói, “ở đó mà chừ mới lo”! Tôi xin nằm nghỉ, nghĩ về diễn từ “Phật đản 2507” sáng mai. Lại nghĩ, không cần tố giác những chuẩn bị của chính quyền: 1 đội 5 chiến xa, 1 đội quân phục màu đen nằm sát bờ sông, từ sân đài Phát thanh ngược lên đến sở Công chính. Tất cả sẽ xử dụng vào tối mai: Rằm tháng 4, Phật đản 2507 (1963). Địa điểm sử dụng: sân đài Phát thanh. Đó là những thông tin có chứng cứ mà tôi được biết liên tiếp trong mấy ngày nay.
Trở lại câu chuyện. Tất cả 5 biểu ngữ nói trên được bí mật quyết định đi trước trong đoàn rước Phật từ Diệu đế lên Từ đàm. Bộ phận đi trước nầy là Gia đình Phật tử mà chỉ có huynh trưởng, thanh niên và một số thiếu niên. Đoàn biểu ngữ được lựa chọn và bí mật giao cho huynh trưởng Gái điều khiển.
Huynh trưởng Gái lên đến đầu cầu Trường tiền thì một thầy coi trật tự (mà tôi không báo trước) chận lại, thu hết biểu ngữ. Anh Gái điềm đạm để thầy ấy thu. Nhưng khi đến cuối cầu, anh ra lịnh ngồi xuống. Thầy trật tự, sau khi thu biểu ngữ đã bỏ vào xe riêng, qua cầu Trường tiền, ngồi nghỉ, chắc chắn đây không phải là tự tung tự tác. Thầy đem lên cầu, trả lại cẩn thận. Đoàn rước tiếp tục, lên đến Từ đàm.
Thế rồi Phật đản 2507 cử hành, tại sân Từ đàm.. Diễn từ và Đại lễ vừa xong thì rừng người, với cờ và biểu ngữ trương cao lên. Rồi cả thế giới biết Phật đản đau thương ở Nam VN. Rồi nửa tuần sau, tôi viết và ký một điệp văn gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc, thông báo Nam Vn “vi phạm nhân quyền” qua sự đàn áp Phật đản 2507.
12/4
Xin mở đóng vòng đơn lớn ở đây để nói vài vấn đề đáng quan tâm.
Đó là 1, Pg VN có liên quan đến việc “bình Tây sát Tả” của vua tôi nhà Nguyễn, hay không?
2,Pg VN có ganh tị với tư thế Tcg, hay không?
Hãy nói ván đề thứ 1. Năm 1963, đại diện Pg VN tiếp xúc với thủ tướng Ấn bấy giờ. Thủ tướng ấy bảo. Nghe nói Pg VN ngày xưa đã bách hại Tcg, nay ông Diệm trả đũa, sơ sài thôi, thì phản đối làm gì. Thủ tướng Ấn nói như vậy thật là bất minh. Bình Tây sát Tả có thật. Nhưng, chủ đạo là Nho sĩ – là vua tôi nhà Nguyễn bấy giờ. Nho sĩ có cái triết thuyết “vua là thiên tử”. Nay Tcg bảo phải thờ Chúa, không được thờ vua cha, ông bà, thì tất nhiên họ triệt hạ. Nhà văn Hồ biểu Chánh,trong một tác phẩm của ông mà tôi quên tên, đã mô tả khá rõ thái độ ấy cua vua tôi. Nho sĩ nhà Nguyễn. Pg VN không liên quan gì cả, về vấn đề nầy.
Nay đến vấn đề thứ 2, xin kể một chuyện. Một buổi sáng sớm, tôi và 2 huynh đệ nữa xuống chuyến đò ngang để qua sông. Chưa đủ khách nên đò chưa tách bến. Đồng bào đi chợ mặc sức kể chuyện hồi hôm. Họ không e dè gì chúng tôi. Nhưng đột nhiên im bặt. Theo ánh mắt họ, tôi nhìn lên thì thấy một linh mục đang vác xe đạp xuống đò. Tôi nghĩ, ông cha Pg tôi sống chất phác với dân chúng như thế nàomới có tình trạng nầy. “Vậy chúng tôi ngu dại gì mà đánh mất niềm tin ấy”. Tôi kết thúc câu chuyện như vậy khi có dịp hội thoại với 1 vị Tổng giám mục đầy hiểu biết thông cảm.
12/5
Phật đản hàng năm, Pg Huế vốn có một buổi phát thanh, phát lại âm thanh đại lễ khi sáng, như tiểu đoạn 12/3 đã ghi. Phật đản năm nay có diễn từ mở đầu, không soạn trước, của tôi. Tôi nói, trái với quyết định của chính quyền, suốt đêm nay lễ đài Phật đản tại các tự viện và các khuôn hội, vẫn bị xúc phạm càng trầm trọng, cho đến gần sáng. Do đó, Tổng trị sự Pg miền Trung quyết định mở cuộc “Vận động của Pg”, công khai bày tỏ nguyện vọng “không được triệt cờ Pg”.
Chính quyền không cho, mà không thông báo, buổi phát thanh truyền đạt đại lễ nầy. Hòa thượng Mật nguyện, Trưởng ban phát thanh, đến đài phát thanh lúc gần tối, và bảo tôi cùng đi. Ông Giám đốc cho biết có lịnh không cho Pg có buổi phát thanh nầy. Ông vừa nói, vừa nhún vai. Bên ngoài, chung quanh đài, nhất là trước sân, quần chúng tụ tập rất đông. Tôi đề nghị với ông Giám đốc, điện thoại mời ông Tỉnh trưởng hay đại diện thẩm quyền của ông, đến giải quyết tại chỗ. Ông giám đốc đồng ý. Và ông tỉnh trưởng đến. Ông Giám đốc, hòa thượng Mật nguyện và tôi, từ trong phòng làm việc cùng ra đón ông. Chúng tôi mới bước vào cửa thì ở ngoài có nhiều tiếng la lớn “đừng xịt nước”. Nhưng nước càng xịt, và xe tăng tiến vào. Súng đạn vang dội. Tôi hiểu ra, đây là màn “khủng bố trắng” của chế độ.
Mùi khói thuốc súng chưa hết, thì từ mọi phía của đài phát thanh, quần chúng ào ạt xông đến. Nhóm người hống hách chỉ huy cuộc “khủng bố trắng” đã mau chóng tản mất. Chiến xa tản ra, trấn ngự hơi xa các phía của đài Phát thanh. Nhưng quần chúng đi tới, không lui. “Nhờ các thầy bảo họ lui cho”. Không màng nghe rõ ai nói, tôi ra đứng giữa đầu cầu Trường tiền. xin họ tạm về, đợi tôi. Họ ngừng lại, nhìn tôi, khóc lớn, và đi lui mau chóng. Tôi trở vào, bước lên sân trên của đài Phát thanh, đã có mặt các ông Tỉnh trưởng, Giám đốc và hòa thượng Mật nguyện.
Nhìn qua góc bên trái, ở đó, thương ôi một đống thi thể của các vị “Thánh tử đao”! Tôi cố nuốt mà
vẫn nấc lên. Không ai không khóc. Sân dưới, có 2 người có lẽ là Mỹ, đang soi đèn pin, lượm được vài viên đạn nhỏ, gói tất cả có vẻ rất cẩn thận. Trở lại câu chuyện. Quần chúng không còn ai nữa. Đêm đã khuya. Tôi, bấy giờ, cảm thấy mệt mỏi kỳ lạ. Hòa thượng Mật nguyện và ông Tỉnh trưởng bảo tôi nên về trước. Tôi nhìn thi thể các Thánh tử dạo. Hai vị nói để họ lo. Về chùa, tôi hối hả uống một ly nước chanh muối, đã khát và đỡ mệt. Nghỉ một lát thì gần sáng, ngoài đường đầy tiếng xôn xao nhưng không hỗn loạn. Thì ra quần chúng tràn ngập, đa số là học sinh với xe đạp cắm cờ Pg. Tôi mừng vì “phong,cách con Phật” của họ: tự giác đã cao, kỷ luật càng cao.
Mới hơn 6g, ông tỉnh trưởng đã điện thoại cho tôi. Tôi nói nên sắp một chiếc xe Jeep không trần, có cây chống ngang để nắm mà đứng thì tốt nhất. Ông nên mặc đồ rất thường. Tôi đi bộ xuống cùng đi với ông. Chúng tôi cùng đi bộ xe đi không, theo sau. Tôi nhắm vườn hoa Thương bạc. Quần chúng rẽ đường cho mà đi. Họ cũng đổ xô về đó. Tại đó, sau chuyện cần thiết, tôi nói, “Làm việc thì phải có sự điều hành; xin về nhà, đợi tôi”.
“Nên về liền đi, dang nắng, bị bịnh, làm sao làm việc”. Họ dạ, nhưng nhìn ông Tỉnh trưởng. Tôi nói, chào bác đi mà về. Khoái chí, họ chào um lên, hể hả. Tôi quay lại, về Từ đàm, nghĩ thế nào cũng có một đám ở đó. Đến tư dinh Tỉnh trưởng, tôi hỏi ông đi được nữa không, ông nói phải đến nhà quàng của bịnh viện. Tôi nói, thế thì cần hơn việc đi tiếp - mặc dầu tôi đã nhờ 2 vị đi qua Ôông Mật nguyện, nhờ Ôông, và 2 vị đi theo, lo việc thi hài các Thánh tử đạo.
Còn tôi đi một mình, đến gần cầu ga, thấy một chiếc trực thăng quần trên sân ga, chĩa xuống một vật mà lúc đó tôi nghĩ là súng, sau nầy mới biết là máy quay phim. Do đó, tôi biết quần chúng tụ tập đông đảo ở đây, không phải Từ đàm. Tôi vào với họ, y như đến Thương bạc. Những gì đã nói ở đó, tôi cũng nói ở đây. Và phản ứng cũng y như vậy.
Sáng hôm sau, một tốp thanh niên tuổi tác và ăn mặc khá đều nhau, đi ra cửa Thượng tứ, đánh đá Phật tử cùng đi ra trước đó một chút. Lập tức trong và ngoài cửa thành nầy, quần chúng ào ra, người trong các vạn đò sông Hương cũng tuôn lên. Tốp thanh niên chạy thục mạng. Chúng bị đuổi, chưa bị đánh. Từ đây, những màn vụn vặt nầy không thấy tái diễn.
12/6
Chiều nay, 17/ 4, tôi bàn việc với thầy Chánh trực, và anh Từ. Rằng nên có lịch trình mỗi tuần cho các Gia đình Phật tử của thành phố Huế, đến Từ đàm tụng kinh thất thất trai tuần của các Thánh tử đạo. Đừng để tự phát thiếu điều hành nữa. Ngày thường thì cũng tụng kinh như vậy, tại các khuôn hội, gồm hết thành phần ở địa phương.
Một cuộc họp mở rộng, định việc cho ngày sơ thất sắp đến, 21/4. Các hòa thượng Thiện minh và Thiện siêu thảo một tuyên ngôn cho cuộc vận động của Pg VN, ngắn và gọn trong một trang giấy. Tôi mở một buổi thuyết trình về cuộc vận động ấy. Hội 5 văn phòng Pg tại Huế làm 1 văn phòng điều hành cuộc vận động, do hòa thượng Trí thủ làm trưởng ban. Tôi viết và ký 1 điệp văn gửi Tổng thư ký LHQ, thông báo Nam Việt nam “vi phạm nhân quyền”.
Bắt đầu việc gởi điệp văn đến LHQ, mật và gấp. Nội dung tôi nói Nam Việt nam “vi phạm nhân quyền”. Sự vi phạm ấy gồm có xúc phạm Phật đản 2507, triệt cờ Pg Thế giới, khủng bố trắng Phật tử bất bạo động bằng chiến xa. Thỉnh cầu ngài Tổng thư ký LHQ tra xét và bảo vệ “hiến chương nhân quyền”. Điệp văn đượcchuyển mau chóng, chu đáo, do ông bạn của tôi, bác sĩ W.
Đến việc thuyết trình. Tôi thảo và ký thư mời nhân sĩ trí thức Huế, nhất là ngành đại học và tư pháp. Nội dung nói, giữa chính quyền và Pg đang có vấn đề. Pgchúng tôi không có phương tiện truyền thông tối thiểu. Chúng tôi khẩn thiết mời quí vị đến, và nghe cho, sự trình bày của chúng tôi. Chủ ý duy nhất là xin quí vị nghe cho. Còn phán quyết là quyền tuyệt đối của quí vị.
Thư gửi đi 18/4, mà 2 g chiều, tôi cảm động thấy số người hưởng ứng ngồi chật giảng đường Từ đàm. Tôi trình bày cuộc vận động của Pg theo bản tuyên ngôn. Trước, tôi nói đạo dụ số 10. Cử tọa thấy đạo dụ ấy cho Thiên chúa giáo có qui chế đặc biệt, còn Pg hay tôn giáo nào cũng bị đặt vào khuôn khổ đạo dụ ấy, y như các hội tiểu thương, Ái hữu, Văn hóa, Giải trí...gọi chung là “hiệp hội”. Rõ ràng, Dụ số 10 cho Tcg là độc tôn, là “tôn giáo” , cho các tôn giáo khác, kể cả Pg, chỉ là tín ngưỡng lặt vặt. Vậy mà Dụ nầy, thủ tướng Diệm mới cầm quyền, đã ban hành tục Dụ duy trì, “ký thay Quốc trưởng”.
Kế đó, tôi dùng ít phút kể lại đại để của việc đã qua, giải thích chính yếu của Tuyên ngôn, rồi trịnh rọng xác định mấy điều sau đây.
Một, Pg tự giới hạn, chỉ phản đối chính sách ngược đãi Pg của chính phủ. Pg không bước qua những địa hạt khác, nhất là địa hạt quyền chức chính quyền.
Hai, tuyệt đối sử dụng phương cách “bất bạo động”.
Ba, Pg không mưu độc tôn, không cầu độc tôn, nên không thấy ai, kể cả Tcg,là đối nghịch.
Bốn, Pg không mưu hại ai, không thiên ai để hại ai. Nếu thất bại, Pg coi là sự thất bại của chân lý trước bạo lực, không phải thất bại như bạo lực kém bạo lực.
Năm, sau hết, nhưng quan trọng nhất, là Pg thỉnh cầu các bậc lãnh đạo thực thể đối trận, đừng khai thác gì về cuộc vận động của Pg. Vì làm như vậy thì đối phương quí vị lấy cớ để hại Pg mà thôi.
Sau buổi thuyết trình, tối đó, tôi viết lại thành bản Phụ đính tuyên ngôn của Pg.
12/ 7
Bấy giờ chính quyền đàn áp Phật tử bằng vũ khí gọi là lựu đạn axít, ngửi phải hơi nó thì cả người nóng đến phát cuồng. Cơn nóng như vậy đứt đoạn rồi lại phát ra, nạn nhân vật vả, vùng vẫy. Được đè xuống thì hơi yên, rồi lại nổi lên. Việc dùng lựu đạn nầy xảy ra ngay tại khu vực chợ Bến ngự. Ngoài đường Lê Thái Tổ thì dùng quân khuyển, lính chó bẹcgiê. Mỗi lính chó được một lính người điều khiển. Lính chó dữ tợn, cọng với lính người mang mặt nạ càng khủng khiếp. Chỉ huy ném lựu đạn axít là thiếu tá Ph. Chỉ huy lính chó là thiếu tướng được quần chúng gọi là thiếu tướng Ch.
Ngày nay là sơ thất các Thánh tử đạo, ngày công bố Tuyên ngôn vận động của Pg VN. Tôi đi bộ, xuống tòa đại biểu để xin phép, bị từ chối gay gắt, tôi nói, “giết người rồi không cho làm tang lễ, thì là chế độ chi rứa”? Họ nói, thôi thì linh động 1lần. Tôi thưa, sơ thất rồi nhị thất, chung thất, bách nhật. Chỉ một lần rồi thôi. Tôi nói, rất nghiêm chỉnh, “thế thì tôi sẽ không dám xin phép mà chỉ báo tin. Xin báo tin trước, như vậy”.
Tôi về. Lễ cử hành theo chương trình. Tuyên ngôn được công bố, trước các giới Phật tử tràn đầy sân chùa và các mặt đường xung quanh chùa. Cũng theo chương trình, 3g chiều nầy đi chuyển đưa Tuyên ngôn ấy. Nguyên chương trình định hòa thượng Mật nguyện cầm đầu tăng ni và Phật tử hiện diện đi đưa Tuyên ngôn. Nhưng gần đến giờ, nghe nói, các Ôông cùng đi. Các Ôông đây chủ yếu là 3 ngài Thuyền tôn, Tây thiên và Vạn phước, cùng trên 100 tuổi. Đây là việc quá bất ngờ. Không ai dám nghĩ đến việc xin các ngài dự vào những việc như việc chiều nay, sợ rủi có bề gì...Nhưng các ngài đã đứng với Phật tử ở ngoài sân chùa, mặc pháp hậu màu vàng, chống gậy định đi.
Hoảng quá, chúng tôi chạy ra, định lạy, thì ngài Thuyền tôn nói, nhẹ như gió nhẹ. “để các Ôông đi với con cháu 1 chuyến, không răng mô mà lo”. Chúng tôi co vòi, thụ động. Hòa hượng Mật nguyện đi theo, dẫn đầu. Các ngài, ngoài 3 vị trên 100 tuổi, còn có các ngài Từ hiếu, Châu lâm, Mật hiển... Tất cả đều đi bộ, không chịu đi xích lô. Theo sau các ngài là Phât tử, vòng tay trang trọng mà đi. Khi đến tòa Tỉnh trưởng, các ngài đứng hàng ngang, giữa đường.
Phật tử hầu ở sau và 2 bên. Họ đỏ mắt, cắn răng, rung miệng, nhưng không ai khóc. Hòa thượng Mật nguyện bước ra, 2 tay đưa bản Tuyên ngôn cho ông Phó tỉnh trưởng. Ông xin lỗi, nói ông tỉnh trưởng đang bịnh. Rồi các ngài lặng lẽ chống gậy đi về. Cháu chắt tự sắp 5 hàng đi hầu theo sau. Về chùa thì um lên, vừa khóc vừa cười. Nhưng các ngài đi thẳng về chùa các ngài, và bấy giờ chịu đi xích lô. Chúng tôi chạy ra, không kịp lạy. Ai cũng thở mạnh, hết lo. Quang cảnh các ngài đi như chiều nay, đi vì việc như việc chiều nay, là hiện tượng lạ nhất, xưa nay chưa có, ngay trên đất Huế nầy.
12/ 8
Ba bốn hôm nay có mấy tin tức. Hòa thượng Tâm châu cho người mang ra một mảnh giấy, viết “Tâm châu chỉ một chữ nhất”. Cụ Mai Thọ Truyền cũng cho người mang lời ra, thăm, cầu nguyện, và hứa tận lực. Quan trọng nhất là 1 mảnh giấy, viết nguyện tự thiêu, của bồ tát Quảng đức. Đem việc nầy ra bàn, không ai dám có ý kiến, và giao tôi liệu.
Tôi đoán, sau khi công bố Tuyên ngôn, thế nào cũng có phản ứng đáng kể từ phía chính quyền. Quả nhiên, tối 22/4, trước hết, nghe tiếng đoán biết ít nhất cũng có 2 chiến xa mở đèn rất sáng, rú lên ghê rợn, chạy vòng quanh Từ đàm: đường Nam giao qua đường trước chùa, vòng đường Bến ngự qua đường bờ sông, rồi quẹo lại đường Nam giao... Chạy qua chạy lại 6, 7 vòng gì đó thì ngừng lại, 1 chiếc trấn ngự đường Nam giao, chiếc kia trấn ngự đường Bến ngự, cả hai đèn vẫn chiếu sáng.
Thế rồi ngày sau, mới sáng tinh mơ, trên trời 2 phi cơ chiến đấu quần thảo, dưới đất, thanh niên Công hòa súng đạn đầy mình, trấn đóng trước chùa. Chùa bị phong tỏa, hết ai ra vào. Gạo bị xịt thuốc. Ai mạnh thì ăn cháo, cơm dành cho người bịnh. Củi hết, phải ngã dương liễu mà đun. Nước và điện khi cúp khi mở, rất bất thường, nhưng thường cúp nhiều hơn mở. Ký giả quốc tế thông tin, “Từ đàm bị bao vây như tấn công chiến khu VC. Điện nước bị cúp gần 100%”. Chiều gần đổ xuống, có cái màn bắc loa lớn, cha mẹ kêu con ra về. Con ra, đứng trước sân, thưa lớn, “Sống chết với nhau”. Màn diễn vài giờ đồng hồ thì ngưng. Quãng 10g đêm, cha mẹ liệng giấy vào, bảo con đừng về. Thế đấy, khá vui.
Hòa thượng Thiện minh, bấy giờ đã thay hòa thượng Trí thủ, làm trưởng văn phòng điều hành, đi Saigon về, len lỏi hàng rào, từ chùa Thiên minh về chùa Từ đàm, cho biết Saigon đã có 2 cuộc biểu tình đông đảo, hào hứng. Ủy ban Liên phái Bảo vệ Pg thành lập, ngoài Tổng hội Pg VN và 6 tập đoàn của Tổng hội, Ủy ban mở rộng, mời 10 tập đoàn Phật giáo nữa tham dự. Chủ tịch Ủy ban: hòa thượng Tâm châu, Phó chủ tịch: hòa thượng Thiện hoa, Tổng thư ký: Mai thọ Truyền, phát ngôn viên hòa thượng Đức nghiệp. Ủy ban hoạt động có uy tín và rất hiệu quả. Huế có tổ chức bãi thị: 50% ngày đầu, 3 ngày sau 100%. Phố vắng, cửa đóng, nhìn được suốt đường phố.
Tôi họp ký giả. Sau khi trả lời câu hỏi của họ, họ hỏi, qua họ, tôi muốn nhắn nhủ gì không? Tôi nói, có. Đó là tôi muốn biết súng đạn của ai canh gác trước chùa? Chiến xa của ai trấn ngự 2 bên chùa? Họ cười, nhưng nói đó là điều quan trọng. Họ lại hỏi, Pg có thay đổi phương cách bất bạo động không? Không, tôi nói, trái lại, Pg càng bất bạo động. Có người bắt tay tôi. Họ nói, Pg kiên nhẫn như thế, sẽ được hiểu biết nhiều hơn.
12 / 9\
Hòa thượng Đôn hậu được cung thỉnh mở cuộc diễn giảng thường xuyên tại Diệu đế. Hòa thượng vốn là 1 vị tôn túc, diễn giảng nổi tiếng. Khả năng nầy, nay hòa thượng được vận dụng với ý thức đầy nhiệt thành và truyền cảm, sau ki ngài Quảng đức vị pháp thiêu thân. Tôi cùng thầy Chánh trực và anh Từ nghiền ngẫm kế hoạch tổ chức 1 cuộc biểu tình lớn, tại Huế và chung quanh gần Huế. Cuộc biểu tình sẽ tuyệt đối đồng bộ, diễn ra 5 địa điểm, vào ngày nhị thất trai tuần của các Thánh tử đạo. Kế hoạch rán giữ cho thật bất ngờ.
Tôi cũng phải kiện toàn Tổng trị sự Pg miền Trung, mời hòa thượng Đức tâmđảm nhiệm Tổng thư ký hiện đang trống, cùng tỉnh hội Thừa thiên tăng cường liên lạc với các khuôn hội của Huế và xung quanh Huế. Còn tất cả tỉnh hội, trung nguyên cũng như cao nguyên, tạm thời tự trị và liên lạc với Ủy ban liên phái tại Saigon. Thế nhưng một buổi sáng, quãng 9g, ông Đ. cho tôi biết, ngài Quảng đức đã tự thiêu. Ông Diệm nghe tin thì giấy rơi khỏi tay, vội vàng tuyên bố “sau Hiến pháp có tôi”. Chều đó, Từ đàm được giải vây. Tòa Đại biểu phái người lên, “xin quí vị chuẩn bị để vào Saigon hiệp thương”.
Kế hoạch của tôi tạm ngưng chuẩn bị. Phật tử ra về tắm rửa. Tôi đích thân, và huy động những ai còn lại, làm tổng vệ sinh. Vừa làm vừa nghĩ, thật nhiều, về cuộchiệp thương. Một cuộc họp khẩn để ngày mốt đi. Đi, sẽ có ngài Hội chủ Tổng hội Pg VN, và hòa thượng Thiện minh. Ai cũng hỏi tôi thì sao, tôi nói thật, “để nghĩ đã”.Ngài Hội chủ lo nhất, bảo tôi phải đi. Tôi rất phân vân. Ông Đ. thúc tôi. Mọi việc đã lo liệu. Sau nầy mới biết, mỗi chuyến bay hằng ngày, Tỉnh đường Thừa thiên được dành 2 vé đến phút chót. Tôi đi bằng 1 trong 2 vé ấy.
Khi đi, ai cũng nghĩ tôi tiễn phái đoàn. Khi tôi cũng ra cửa mới biết tôi cũng đi. Bay hơn 1 tiếng đồng hồ thì tôi có cảm giác là lạ. Máy bay hạ cánh: Không phải Saigon mà là Kontum. Thầy Thiện minh bàn với tôi cách ứng phó. Tôi nói, Ôông với thầy chắc chắn về Saigon, còn tôi, tôi cũng sẽ cùng về đó. Và việc đã xảy ra như thế thật. Đến Xá lợi, tôi vào giảngđường, lạy kim quan bồ tát Quảng đức. Thầy Tâm châu hỏi sao trễ thế, còn ông Chánh trí không nói gì.
13/1
Lạy bồ tát rồi, tôi phải nói sự tự thiêu theo giáo lý. Sự ấy được nói đến trong 2 chỗ là kinh Pháp hoa và kinh Phạn võng. Chỗ nào cũng nói tự thiêu có 2 ý nghĩa. Thứ nhất, tự thiêu là tự thử thách về chí nguyện, nung nấu chí nguyện ấy cho dũng mãnh, kiên cường. Thứ hai, tự thiêu là sử dụng sắc thân mà phụng sự Phật pháp và phục vụ quần sinh. Tự thiêu là do nguyên lực, tin chắc chí nguyện của mình có thể cảm hóa rất lớn.
Pháp nạn 1963, và sau nầy, có nhiều vụ tự thiêu. Nhưng phải nói nhất là bồ tát Quảng đức và tôn giả Quảng hương. Mở đầu, nhưng bồ tát Quảng đức tự thiêu rất tự tại, đường đường đủ mọi nghi lễ. Tôn giả Quảng hưong, trái lại, tự thiêu ngay sau khi thiết quân luật, cực kỳ khó khăn. Vậy mà tôn giả làm được, rất ư gian nan. Và cho đến nay, cũng vẫn không tìm được hài cốt của ngài: đáng tôn thờ và thương cảm biết bao nhiêu.
13/2
Nhân nói giáo lý về sự tự thiêu, xin nói luôn ở đây về vụ đưa đám bồ tát Quảng đức. Ba bốn hôm nay, có đủ các nguồn tin, mỗi lúc một rõ hơn. Theo đó, đám ngài Quảng đức dĩ nhiên sẽ đông, nhưng có đổ máu đầu đường Tổng đốc Phương giáp mối với đường Hùng vương. Đám phải đi đường Hùng vương, và qua đó mà thẳng xuống An dưỡng địa. Không ai không biết hay khinh thường tin tức như vậy.
Hòa thượng Thiện minh hiệp thương lần chót rồi, chưa ký, về Xá lợi bàn, Hòa thượng thấy rõ chính quyền không giấu giếm được sự lo sợ. Ý hoà thượng phân vận, nhưng ngã về phía cứ để quần chúng làm việc. Tôi không đồng ý để mặc quần chúng. Có đổ máu: Không được! Hòa thượng Thiện minh đi ký. Và cả phái đoàn chưa ai về, Ở chùa chỉ còn cụ Chánh trí và tôi. Cụ đang bàn với cảnh sát trật tự. Tôi xin lỗi, mời riêng ra, bàn. Tôi hỏi tin tức về phía cụ, đám có thể đổ máu không? Rất có thể, cụ nói. Tôi nói đổ máu của quần chúng là không nên. Cụ nói, rất đồng ý, và cho cảnh sát hay đám tạm ngưng. Khi phái đoàn về, họp khẩn, thấy tạm ngưng là phải. Và hòa thượng Tâm châu cho xe đi phát thanh lời thông báo tạm ngưng của hòa thượng, qua các đường phố xung quanh Xá lợi vào đến Ấn quang. Quần chúng lại nghĩ tiếng phát thanh đó là giả. Vì vậy, sáng ra quần chúng đông hơn, tập trung nơi Giác minh mà hướng về Xá lợi. Hòa thượng Tâm giác đang đứng trên 1 chiếc xe, nói gì không ai nghe được, chỉ hè nhau đẩy chiếc xe đi mở đường. Nhưng đến cổng xe lửa thì cuộc chiến xảy ra, vũ khí của quần chúng là đá lót đường xe lửa. Một tuần sau đó thì đưa đám ngài Quảng đức. Ủy ban Liên phái quyết định chỉ có chư tăng đi đưa. Có người viết, tuần trước quần chúng đưa đám với quần chúng rồi. Tuần nầy thì các thầy đi đưa với nhau. Lời lẽ đầy mỉa mai, và tiếc rẻ, không có hỗn loại và đổ máu.
13/ 8
Hòa thượng Thiện hòa trông coi việc hỏa táng kim quan của ngài Quảng đức. Tro tàn rồi, quả tim còn lại. Bấy giờ chỉ có ký giả quốc tế đi lại, và có xăng tốt. Thiêu lần thứ 2, quả tim ấy vẫn không cháy. Ký giả quốc tế thông báo cho thế giới như vậy. Khi rước về Xá lợi, Ủy ban Liên phái thông báo Tăng ni, Phật tử đến hành đại lễ. Tôi thảo lời ngài Hội chủ gửi Điệp văn cho các miền và các tỉnh. Điệp văn viết, “Tôi chí thành đảnh lễ vị nhục thân bồ tát, xin ngài hộ trì cho nguyện vọng cuộc Vận động của Pg VN”. Điệp văn chấm dứt bằng cách niệm “Nam mô đại hùng đại lực Quảng đức bồ tát”.Từ đó danh hiệu bồ tát Quảng đức đi vào lich sử Pg VN.
14/ 1
Hòa thượng Quảng độ, thường ngày sáng sớm, từ Giác minh mang đến Xá lợi bản tin mà hòa thượng dịch từ báo chí ngoại văn. Bản nầy được đánh máy, quay, phát, cho những người tụng kinh vào buổi tối, tại Xá lợi. Nhưng ngày nay, hòa thượng nhận lời cầm đầu 1 cuộc biểu tình biết chắc chẳng những khó khăn mà còn đổ máu. Phụ tá hòa thượng là hòa thượng Chánh lạc, Kế hoạch có 4 bộ phận chạy bốn ngã đánh lạc hướng, nhưng vẫn tìm cách cùng đến công trường Quách thị Trang. Hòa thượng với bộ phận chính xông pha mọi cản trở bởi hành hung và kẽm gai. Can đảm phi thường, hòa thượng đến được địa điểm đã định. Tại đây, dùi cui và đấm đá đón hòa thượng. Mặc, hòa thượng cứ nói. Máy bị đập, hòa thượng nói lớn. Họ xông đến bóp cổ, đánh đá tơi bời. Đầu hòa thượng bị téc, máu chảy xuống mặt. Hòa thượng vẫn nói. Chúng bèn hốt, ném lên xe cây. Một số quỉ thối bóp hạ bộ của các nạn nhân. Ký giả ngoại quốc lần nầy cũng bị hành hung không nương tay.
Chúng chở về An dưỡng địa. rào kẽm gai mà nhốt, mưa mặc mưa. Giam một vài ngày gì đó, rồi thả ra, đuổi đi đâu thì đi. “Chúng ông bắt được lần nữa thì tụi mày hết sống”. Chân, tay và miệng của chúng hoa ca như vậy. Ký giả ngoại quốc nghe nói cái vụ bóp hạ bộ thì cười “cái văn minh của chế độ tổng thống Diệm”.Cuộc biểu tình này bị đàn áp dã man, nhưng thành công và tác động thì thật siêu đẳng.
14/2
14/2
Có nhiều cuộc biểu tình trước ngày chế độ Diệm thiết quân luật. Nhưng tôi chọn 3 cuộc có tính cách tiêu biểu. Cuộc thứ nhất nói rồi. Bây giờ nói cuộc thứ 2. Cuộc biểu tình nầy vốn có dự định mà không tổ chức được. Do đã thông báo, các nơi tập họp về Xá lợi, trong đó có nhóm Pg Nguyên thỉ chùa Pháp quang của hòa thượng Hộ giác. Tôi nhớ bữa đó hòa thượng không có, chỉ có đại đức Bửu phương. Đại đức hỏi sao không đi biểu tình? Người ta trả lời người ít quá. Đại đức đảo mắt một vòng, “từng này được rồi”. Thế là phóng đến nơi đã chọn trước, gần Xá lợi nhất, mà cũngrất bất ngờ. Đó là tiểu bạch ốc (tư dinh đại sứ Mỹ).
Các hòa thượng Tâm châu và Đức nghiệp phóng trước. Tôn giả Quảng hương quấn cổ biểu ngữ duy nhất, đã được kẻ trước, mà chạy theo. Cảnh sát kéo giành, tôn giả càng giữ. Bị ngã, tôn giã vẫn cố giữ. Cảnh sát khác thấy vậy, la lớn, buông nó ra, không, nó chết bây giờ, mệt lắm. Tiểu bạch ốc không cao lớn lắm, nhỏ vừa phải. Cuộc biểu tình rất vừa phải với
khung cảnh đó. Khẩu hiệu biểu tình là yêu cầu người Mỹ xét lại vũ khí và phuơng tiện họ dã viện trợ cho chính quyền Việt nam. Chính quyền đã lợi dụng vũ khí và phương tiện ấy mà đàn áp Phật tử. Người Mỹ nên đạt vấn đề mà cấp tốc cứu xét.
Xong, cả đoàn biểu tình trở về Xá lợi, trước con mắt tức bực của cảnh sát. Trời gần trưa. Buổi phát thanh trưa của VOA tường thuật rất trung thực cuộc biểu tình. Người Mỹ, bây giờ, bị đặt trách nhiệm, đơn sơ và rõ ràng.
14/3
Nay nói cuộc biểu tình thứ 3, ngay sáng sớm mới thiết quân luật, hốt chùa chiền. Cháu Quách thị Trang đến nhà vài người bạn. Mới sáng sớm, cháu và bạn của cháu, từ trong chợ Quách thị Trang cầm biểu ngữ chạy ra công trường. Các má và các chị ào ra theo. Cháu quấn biểu ngữ vừa chạy vừa la lớn, “trả thầy của chúng tôi”. Cảnh sát lập tức bắn chết cháu, chở thi thể cháu đi mất luôn. Sau nầy mới biết chúng đem lên vùi ở nghĩa trang quân đội.
“Trang hỡi Trang, em là vì sao sáng”... 1 bản nhạc được nhạc sĩ nào đó đặt ra. Rồitượng đài của cháu được sinh viên kiến trúc tự xây dựng, đặt ở công viên trước chợ Bến thành, với bảng hiệu công trường Quách thị Trang.
15/1
Không ai trong Ủy ban Liên phái mà không nghe biết dồn dập về việc chính quyền chuẩn bị thiết quân luật để tổng càn quét Phật giáo. Tăng cường cảnh sát quận 3 (Xá lợi) và quận 10 (Ấn quang); tập trung và mài dũa còng tay; bắt công chức tăng cường gác đêm... Trước đó, và có lẽ đây là ý định thứ nhất của chính quyền: lấy lịnh tòa án ruồng bố các chùa. Dự định nầy, theo tin tức, nhằm cướp kim quan của ngài Quảng đức, truy tố các vị tổ chức cho ngài tự thiêu. Họ đã điều tra lai rai các vị ấy.
Và rằng sẽ truy tố những kẻ sát nhân.
UBLP họp vài ba lần. Bàn ai tình nguyện bị bắt, ai tình nguyện ở ngoài. Nhưng không ai chịu ở ngoài cả. Riêng tôi, trong UBLP có cụ Hiểu, cầm đầu Phật tử Nguyên thỉ, cho tôi biết riêng, tòa đại sứ Thái lan có ý mời tôi đến tá túc. Cụ nói 2lần. Tôi thì đã quyết định “để bị bắt”. Rồi hòa thượng Tâm giác cũng làm tương tự.Hướng dẫn và thông dịch cho 1 viên chức nói là của tòa đại sứ Nhật, cũng tỏ ý nhưThái lan. Tôi cũng trả lời tương tự.
Họ ngồi cho đến gần giờ thiết quân luật mới về.Nửa giờ sau, ban Trật tự trong chùa báo động. Cùng lúc, thô bạo cực kỳ, cảnh sát dã chiến xông vào, sử dụng dùi cui trước, đối với cả các ni sư. Rồi tấn công bằng hành hung và lựu đạn cay, họ dồn chúng tôi ra trước điện Phât. Ở đó, thấy ngài Hội chủ mặt và mắt sưng, bị dẫn ra trước.
Một thị giả níu ngài bị đánh ngất xỉu. Ngài bị đưa lên xe bít bùng, đưa đi trước. Các nhóm, tôi cũng bị ở trong một nhóm, rồi tất cả, bị xua ra, cảnh sát áo trắng đón lấy, đưa lên 4, 5 chiếc xe lớn, trực chỉ đến nơi mà sau đó mới biết là Rạch cát. Đêm khuya, trời lạnh, nhưng không mưa. Đoàn xe đến một quãng đồng cạn thì dừng lại. “Vì xe chỉ huy hỏng máy”. Có tiếng nói nhỏ, nhưng rõ, “ai xuống được thì xuống mà thoát đi”. Nhưng xe tôi, và sau đó biết các xe khác cũng vậy, không ai xuống cả. Đoàn xe lại tiếp tục. Vài mươi phút sau đến Rạch cát.
Chúng tôi bị xua xuống, nhốt vào 3, 4 cái nhà tương đối nhỏ. Tôi, do một thầy nào đó không rõ, đang đêm nên cũng không nhìn được, nói nhỏ và dìu tôi vào gần nhóm Già lam. Bấy giờ thì biết Già lam, Pháp quang, Nguyên thỉ gốc Miên, Ấn quang, Giác minh, An dưỡng địa, Phước hòa,... đủ mặt bá quan. Cỡ 1 giờ sau, họ dẫn cụChánh trí vào, đi ruồng các phòng, đến phòng tôi, chúng tôi 4 mắt nhìn nhau rất nhanh, và cụ Chánh trí liên tiếp lắc đầu, miệng nói không có, không có. Ấy là họ “nhờ” cụ giúp họ tìm tôi. Lát sau nữa, đại đức Giác đức bị bắt, đưa ra, dẫn đi.
Thầy nói khi nãy bảo tôi gối đầu trên vế thầy, nằm xuống mà nghỉ. Trời chưa sáng, lạnh, nền xi măng, vậy mà nằm vẫn thấy ấm áp. Gần sáng, thầy thức tôi dậy, nói, việc con đến đây là hết. Bây giờ xin thầy vào nhóm Già lam, sát nhóm Miên mà ở. Thầy đưa tôi đến, rồi xá tôi, lặng lẽ lui ra. Từ đó cho đến nay, tôi cố kiếm thầy là ai mà không tài nào kiếm ra.
Lại nói để phục chư tăng gốc Miên, và Phật tử của các ngài, tự ý cùng cảnh sát gốc Miên, liên lạc kín đáo và chặt chẽ với nhau. Tin tức từ lúc đó, cho đến khá lâu sau đó, toàn nhờ nhóm nầy thông báo, chính xác và đầy đủ, với máy truyền tin họ được cấp. Nhờ đó mà biết các hòa thượng Tâm châu, Đức nghiệp bị bắt cả rồi, chỉ thiếu tôi và đang cố lùng kiếm. Hòa thượng Thiện minh về Huế, và đêm đó bị bắt ở đây, chùa Từ đàm. Tất cả các tỉnh, đặc biệt ở Huế, họ bị ruồng bắt “rất cẩn thận” mà dĩ nhiên, tôi không rõ lắm.
Nói công bình, mấy ông chỉ huy ở Rạch cát không gay gắt. hống hách gì, bảo chúng tôi thu xếp lấy sự sinh hoạt bình thường. Đi lại và trò chuyện thoải mái, miễn đừng ra ngoài khu vực. Hòa thượng Nhật thiện, sư đệ của tôi, liên lạc với bên Ni, với cảnh sát công chức gác đêm, nhất là cảnh sát gốc Miên, định thực hiện cho tôi một cuộc thoát ra êm xuôi, với bộ cánh cảnh sát và 10 ngàn tiền biếu. Nhưng sáng hôm sau, lịnh trả chúng tôi về ăn Vu lan. Trước khi tiếp tục, tôi kể chuyện nầy cho vui.
Một buổi chiều có đông nhân viên vào lấy lý lịch và chỉ tay. Hòa thượng Nhật thiện nói,nhân việc này làm cho tôi từ nay “vẫn tìm không ra”. Một nhóm hè nhau, do hòa thượng Nhật thiện điều khiển: tôi khai lý lịch, 1 thầy chụp hình, 1 thầy lăn tay. Tất cả bàn giấy, hơi lạ, là thấy chúng tôi thì cúi xuống, đến phận sự thì làm việc, không ngước lên, nhìn hay hỏi gì. Hòa thượng Nhật thiện nói, một người mà lý lịch, hình ảnh, nhất là dấu tay, hoàn toàn khác nhau thì hết cách tìm cho ra là ai.
15/ 2
Tiếp tục câu chuyện. Tôi chưa kịp thoát ra theo sự thu xếp của sư đệ Nhật thiện, thì có lịnh thả chúng tôi về ăn Vu lan. Khi gọi đến nhóm Pháp quang thì sư cụ Thiệnluật ra ngồi trước. Kế đến gọi Ngô Bửu Đạt (hòa thượng Hô giác) mới ra đã có một nhóm đến mời lên xe bịt bùng đi luôn. Khi gọi Đinh văn Tánh (tên giả của tôi) sư Chung thúc đẩy tôi ra. Thế là tôi về chùa Pháp quang. Trước đó, hòa thượng Thiện hòa vào, tìm gặp tôi, nói, thầy về Xá lợi, tôi sẽ đón thầy ở đó. Thế là quá rõ: Ấn quang bế tắc đối với tôi. Và thế là tôi phải về Pháp quang. Về đây, tôi tắm rửa thoải mái sau 9 ngày sống mọi rợ. Nhưng, từ trong phòng tắm, đã thấy 4 họng súng chỉ vào đều nhau. Tôi nghĩ Pháp quang đang bị bao vây chặt chẽ. Quả như vậy, Sư đệ Nhật thiện từ Xá lợi chạy về, tìm gặp tôi đang thay đồ mới, dậm chân, hét, mau lên.
Nó biết thầy ở đây rồi. Thế là Pháp quang không cách gì lọt ra ngoài được nữa. Trừ ra... tôi nghĩ thật nhanh... và bảo sư đệ Nhật thiện, kiếm một thầy nữa, chúng mình đi. Sư đệ có ý hỏi. Tôi khoát tay và thúc nhanh lên. Tôi đi trước, Nhật thiện và sư Nhâm theo sau. Xuống sư cụ thì thấy cảnh sát đang kỳ kèo gì đó, mà sau này, biết họ đang đòi sư cụ cho soát chư tăng mới được tha về. Tôi thong thả, trình sư cụ, chúng con xin phép đi đưa cái thư mà ngài dạy mang đến Ấn quang, cám ơn hòa thượng Thiện hòa. Sư cụ nhanh trí, bảo đi nhanh lên, sắp tối rồi.
Trời lại mưa khá lớn. Có 2 chiếc taxi đậu ngoài sân, vành xe chạy sơn màu vàng: xe của công an. Loại nầy có quyền bắt khách, chở thẳng về công an. Mặc, chúng tôi ngồi ngay lên 1 xe.Xe ra đường lớn, tôi bắt đầu làm việc. Tôi nói, 2 thầy sao không biết, còn tôi mai sẽ xin về, không tu nữa. Ngán tu rồi,... Anh tài xế hỏi, tôi vừa trả lời vừa nghĩ đến việc về Ấn quang. Nhưng về Ấn quang là nạp mạng. Còn thoát trên đường về đó, thì lúc bấy giờ tôi không biết gì về đường sá Saigon, không thể thoát được sự chú ý của anh tài xế. Như vậy chỉ còn cách ra đường Hàm nghi. Tôi nói với anh tài xế, anh có thể ra bến tàu cho chúng tôi hít thở thật mạnh một chút được không? Được. Ra bến tàu, gần đến đầu đường Hàm nghi, tôi nói phiền anh ghé vào tiệm thuốc cho tôi mua vài viên thuốc cảm. Anh ghé vào, vui vẻ. Không biết ngẫu nhiên hay sao mà lại chỉ có 1 hiệu thuốc mở cửa. Chúng tôi xuống, nói với anh tài xế, anh quay xe để rồi chung ta đi.
Nói vậy, nhưng tôi đi thẳng, qua trước cửa tòa đại sứ Mỹ. Thấy cửa khép, tôi đi thẳng càng mau. Nhưng đi mươi lăm mét gì đó, tôi quặt lại, thấy cửa ấy mở ra. Vậy là sư đệ tôi 1 tay kẹp tôi, 1 tay kẹp sư Nhâm, a vào. Anh lính Mỹ hơi tránh ra cho chúng tôi vào. Vào rồi, anh khép cửa khá kín, mở tủ lấy một khẩu súng khác, nhỏ hơn, và hỏi các ông có phải là phe ông Trí quang không, sư đệ Nhật thiện chỉ tôi, nói tiếng Mỹ, ông nầy là Trí quang đây. Anh lính Mỹ đóng cửa, gọi điện thoại. Chỉ vài phút sau, có người đến nhận diện tôi, mời lên tầng trên, sâu hơn. Ngoài đường tiếng chiến xa đang ồn ào chạy quanh. Một chiếc máy thu thanh được đem để trước mặt chúng tôi. Đài BBC loan báo: Thượng tọa Trí quang đã vào tị nạn trong tòa đại sứ Mỹ.
15/ 3
Tổng hội Phật giáo Việt nam gồm có 3 miền Nam Trung Bắc, mỗi miền có 2 giới tăng già và cư sĩ, thành ra 6 tập đoàn. Hai tập đoàn miền Trung là Giáo hội Tăng già Trung phần và hội Phật giáo Trung phần. Trung phần ở đây là gồm cả trung nguyên và cao nguyên. Bộ phận cầm đầu 2 tập đoàn miền Trung cùng được gọi theo tên cũ là Tổng trị sự (Tts). Tám năm trước 1963, tôi lạy ngài Thuyền tôn làm hội trưởngTts, cho con cháu của Hội mà ngài là 1 trong 3 vị chứng minh đại đạo sư sáng lập,
được núp trong bóng đại thụ của ngài, phục vụ Hội trong giai đoạn khó khăn. Năm 1963, tôi lạy mà vâng lời ngài làm Hội trưởng Tts để ngài tịnh trú.
Như vậy, Hội trưởng Tts Hội Phật giáo miền Trung năm 1963 là tôi, Trí quang. Theo cổ lệ, Phật đản miền Trung do Giáo hội lo nghi lễ; còn tổ chức thì hội lo toàn bộ, vì hội có các tỉnh hội, và các tỉnh hội có các khuôn hội. Như vậy, tôi là người tổ chức Đại lễ Phật đản 1963. Lịnh cấm treo cờ Phật giáo nhằm vào Lễ đi Phật đản của các tỉnh và khuôn , nhất là nhắm vào Huế. Hội trưởng Tts chống lịnh ấy, và như vậy tôi thành người “mở đầu cuộc vận động 1963 của Phật giáo”.
Cũng nên nhắc lại cái lịnh cấm treo cờ Phật giáo. Trước Phật đản 3 ngày, ông tỉnh trưởng Thừa thiên lên Từ đàm vận động tôi đừng treo cờ. Tôi từ chối. Hôm sau, ông lên, nói bây giờ có lịnh đây, tôi chỉ tống đạt. Tôi nói rất ngạc nhiên về cái lịnh như vậy của chính quyền, mà là chính quyền trung ương, và không thể tuân hành được. Với sự kháng cự lịnh nầy, tôi tự hoàn thành tội danh “mở đầu cuộc vận động 1963 của Phật giáo” không cần ai tự bảo mình sắp đặt như vậy.
15/ 4
Khi UBLP họp, không ai muốn không bị bắt, là ai cũng muốn đem khổ hạnh củamình, thành tựu nguyện vọng của Phật giáo, chứ không phải cầu may hay áp dụng khổ nhục kế. Riêng tôi, với “cái tội khởi xướng”, tôi biết và chính quyền cũng không ngần ngại gì mà không cho biết, chờ đợi tôi là cỗ máy đoạn đầu đài, nói nôm na là máy chém, đừng có ảo vọng gì khác.
Ở đây, nên nói chuyện cũ một chút. Trước 1963 khá lâu, có lần và lần đầu, ông Diệm mời tôi đến tư thất, và Cố vấn Cẩn cho biết riêng, là để nói việc giúp đỡ đồng hương di cư của Phật giáo Quảng bình. Khi gặp, tổng thống Diệm nói có 2 vùng đất, một là vùng cát màu mỡ và rất đẹp ở Cam ranh, hai là vườn ươm của canh nông ở núi Thiên thai. Hai vùng đất nầy, vùng nào cũng có thể làm nơi cư trú và làm ăn cho cả trăm người. Tôi muốn thầy đứng ra nhận để lo cho đồng hương. Tôi nói, đồng
hương ấy không nhiều, chỉ có 5 học tăng và một ít cư sĩ, họ dã sinh sống ổn định lâu rồi. Tôi chắc Tổng thống nói chuyện giúp đỡ nầy là có ý giúp đỡ Phật giáo.
Tôi nghĩ Tổng thống đặt vấn đề như vậy thích đáng hơn. Tổng thống hỏi giúp cách nào, tôi nói, môt nửa vườn hoa Tao đàn và 5 triệu tiền lúc ấy, là đủ cho Phật giáo có đủ một cơ sở bề thế và triệu tập một Đại hội Phật giáo quốc tế. Vừa thay nước mời tôi, vừa suy nghĩ trên năm ba phút, Tổng thống nói sức tôi không lo nổi. Bấy giờ, năm bảy hôm sau khi khởi xướng cuộc vận động 1963, cụ Nh. đến Từ đàm, vào lúc 5 giờ sáng, nói với tôi, Tổng thống có thể thỏa mãn đề nghị cũ nếu tôi ngưng cuộc vận động. Tôi từ tốn nói, đề nghị ấy quá lỗi thời rồi. Với lại làm sao Tổng giám mục chịu cho Tổng thống làm. Cụ Nh. hiểu biết, ra về, khi trời chưa sáng hẳn.
Hết màn trên tiếp liền màn khác. Một người công chức tự nói là hội viên khuôn hội Phú Thạnh, yêu cầu nói chuyện hơn thiệt với tôi. Rằng thầy chống đối thì đương nhiên chính quyền sắp sửa máy chém. Sao thầy không nghĩ cuộc sống dài hơn cho công việc dài hơn? Xét thấy người nầy chỉ học bài và trả bài, tôi điềm đạm nói với anh như vậy, anh cũng điềm đạm ra về sau khi nói, “con không biết gì cả thật”!
15/5
Nếu bị bắt lúc Xá lợi bị tấn công, tôi bị thọ án tử hình theo thủ tục bình thường, hay hơn nữa theo thủ tục khẩn cấp, thì đó là điều tôi đinh ninh như vậy. Nhưng sẽ khác hẳn nếu bị bắt lại sau 9 ngày “bị bắt mà như không bị bắt”, nhất là sau khi về Pháp quang. Vì vậy, tôi quyết định không để bị bắt lại. Không để bị bắt lại, nhưng cũng đã không có cách nào khác hơn đến tòa đại sứ Mỹ.
Tôi ý thức được sự phức tạp cho riêng tôi, kể cả khi đã ngồi trong tòa Đại sứ ấy. Trong người tôi tự thấy ngạc nhiên và bất ổn. Nhân viên cao cấp của tòa Đại sứ cũng thấy ra như thế. Họ nói với tôi, nếu thượng tọa có ý định tỵ nạn ở đây thì là khách của chúng tôi. Nếu thượng tọa không có ý định ấy thì có thể đi ra bất cứ lúc nào thượng tọa muốn. Tôi nói, dĩ nhiên tôi đang yêu cầu tị nạn ở đây. Nhưng, xin lỗi, tôi vào đây còn muốn nhìn thấy người Mỹ giải quyết như thế nào về vấn đề mà người Mỹ có trách nhiệm. Tôi ở đây tùy thuộc vào sự nhìn thấy ấy. Họ nói, vậy xin mời thượng tọa ở đây với chúng tôi cho đến khi thấy không cần ở nữa.
16/ 1
Đến đây, tôi ngưng một giai đoạn Phật giáo, bằng cách ghi thêm mấy việc linh tinh cần nói, mà không theo thứ tự nào cả.
1. Do hòa thượng Chơn trí mà Gia đình Phật tử tập họp đúng giờ, đúng chỗ, trước tòa tỉnh trưởng Thừa thiên, vào buổi chiều 14/ 4 - buổi chiều mà Pg khiếu nại cờ đèn bị phá bị giật, lễ đài Phật đản bị xúc phạm rất mất dạy. Tỉnh trưởng mời Pg họp để giải quyết.
2, Huynh trưởng Gái được bí mật giao cho cầm đầu đoàn GĐPT rước Phật từ Diệu đế lên Từ đàm. Không có sự khôn khéo của anh, thì 5 biểu ngữ không lên thấu chùa, kế hoạch bị thương tổn không nhỏ. Cũng chính huynh trưởng Gái đầu tiên đem tài liệu vào Ấn quang mà, lúc đó, nếu thiếu can đảm và khôn ngoan, đã không thể chu toàn nghĩa vụ.
3. Ba thanh niên hoạt động nổi tiếng sau khi thiết quân luật là Bôi, Nho, Doãn. Bôi dã thành người thiên cổ, còn 2 người kia, tôi chưa có dịp liên lạc được,
4. Tôi đặc biệt nói đến 1 Phật tử mà là ân nhân của Pg, kể từ lúc Pg mới rục rịch có vấn đề suốt đến khi chế độ ông Diệm sụp đổ. Người nầy là đệ tử hòa thượng Mật nguyện, là người đồng hương với tôi - là ông Đẳng. Ngay từ đầu ông dã bỏ công bỏ của ra không nhỏ, dầu ông khá nghèo. Ông đóng vai trò Tỉnh trưởng và Phật tử rất vất vả, lao tâm khổ trí. Không có ông, tôi dã rất khó khăn trong việc tiếp xúc với các cấp chính quyền. Người sắp đặt cho tôi lên máy bay đi Saigon là ông. Khi tôi viết
mấy dòng nầy, ông đã không còn nữa, từ lâu.
5. Bs Lê khắc Quyến, pháp danh Nhật thắng, đệ tử đại tổ đình Quốc ân, người Huế. Tôi là bịnh nhân đến khám bịnh tại phòng mạch tư của ông ở cửa Thượng tứ. Bấy giờ ông là Giám đốc Bịnh viện Trung ương Huế. Sau đó được biết bà cụ thân sinh ông là em ruột cụ bà Lê văn Định. Mối liên hệ Phât giáo của ông là như vậy, chưa kể thân sinh của ông cũng là đệ tử đại tổ đình Quốc ân, bổn sư là ngài Đắc quang, Tăng cang quốc tự Linh mụ. Ông là Khoa trưởng Đại học đường Y khoa Huế, được gia đình Tổng thống Diệm biết ơn vì chữa bịnh giỏi cho bà cụ thân sinh của họ. Ông có nhà mới, lớn và đẹp, ở phía nam thành phố, nhưng chưa kịp ở. Ông tham gia cuộc Vận động 1963 của Pg, mất hết chức và nhà, bị bắt ở tù. Khi tham gia, ông tự biết sẽ phải như vậy.
Sau Phật đản năm ba ngày, một buổi sáng gặp tôi, ông cho biết ông Diệm mời ông vào Saigon để nói về vấn đề Pg. Ông hỏi tôi muốn ông nói gì, tôi nói, xin nói rất thật thâm tâm của tôi. Tôi không mưu đồ gì cả, chỉ phản ứng vì hết mức chịu đựng sự xúc phạm quá đáng đến đức Phật và Pg của tôi, mà thôi. Vấn đề như vậy quá dễ giảiquyết cho Tổng thống chứ không thương tổn gì. Hôm sau Bs Quyến về Huế, nói, ông mời vào để nghe ông nói, không phải để nói cho ông nghe! Bs Quyến chẳng những tham gia hết lòng vào 1963, sau đó, đến nỗi mất sách, bị bắt bị tù nữa, vẫn không chán bỏ đạo pháp – mà không mưu đồ gì cả,cho đến hết đời.
6. Việc Phật tử Mai Tuyết An chặt tay phản đối bà Nhu, người Mỹ hỏi ý kiến tôi, tôi nói phong trào chống đối ông Diệm đã và sẽ lan ra mạnh mẽ trong giới học sinh. Sự việc quả như vậy, ngay sau đó.
7. Sau khi thiết quân luật, hoạt động hải ngoại là hòa thượng Nhất hạnh và bác sĩ W.
8. Bác học Bửu Hội gạp tôi khi về thăm mẹ. Tôi phàn nàn động thái gây ác cảm nặng nề của ông. Ông ân hận và muốn đóng góp. Tôi nhờ chuyển đến Tổng thư ký Liên họp quốc 5 va-ly đầy đủ tài liệu. Chuyển ra để ở khách sạn ông Lê văn Hiệp. Ông Hội đến nhận ở đó, chuyển giao rất chu đáo, nhanh chóng. Bằng tình cảm cá nhân, ông Hội lại tác động các Đại sứ Á Phi đến điều tra nhân quyền ở Nam Việt nam. Hòa thượng Nhất hạnh và bác sĩ W. càng liên lạc và hướng dẫn cụ thể cho phái đoàn nầy. Chỉ vì tôi chưa kịp nói nên đôi bên chưa hiểu nhau.
9. Khi ở Xá lợi, tất cả chi phí không nhỏ cho việc của Pg miền Trung mà tôi phải liệu, thì người giúp tôi là ông Lê văn Hiệp. Nhân đây, tôi nói đến chi phí khi còn ở Huế. Mọi chi phí ở dây và lúc ấy là do các khuôn hội Thừa thiên lạc cúng, do tỉnh hội ấy thu và chi.
10. Tình báo một cách xuất sắc nhất là 1 Phật tử tự động. Chính ông Nhu cũng lao đao về sự tình báo của người nầy. Người này thường viết báo cáo giao cho hòa thượng Tâm châu mà không ra mặt. Nhưng sau nầy tôi cũng biết người đó là ai.
11. Hòa thượng Trí quảng, lúc ấy, khá có khả năng vận động phong trào học sinh.
12. Hòa thượng Thiện minh có sáng kiến tấn công bà Nhu. Sự tấn công này tác động nhanh và mạnh đến bất ngờ đối với phong trào học sinh. Mưu đồ lừa đảo của chính quyền trong việc thực thi Thông cáo chung cũng rã vì “đức bà lồng lộn, vung vít”. Nhưng hòa thượng Hộ giác và thầy Giác đức thì tai họa không nhỏ, vì “mồm miệng không ưa nổi” trong chiến dịch ấy. Nghe nói lúc bị bắt, 2 ngài được đức Bà hỏi thămkhá ân cần.
13. Sau hết, mà thật ra là trước hết, tôi nói đến 1 người, một người bạn của tôi, Bs
W. Ông thương tôi hết lòng. Việc tôi làm, mở đầu mà thế giới biết, là do ông. Giao thiệp với Tổng thư ký LHQ đầu tiên là do ông. Sau thiết quân luật, Pg bị hốt rồi, cũng chính ông hoạt động với hòa thượng Nhất hạnh, rất hiệu quả. Ông, trước không nói gì, nhưng tôi biết và biết rõ. Ông muốn qua tôi, Pg phải thành một lực lượng. Nhưng thực tế làm cho ước muốn ấy không phù hợp với chính Pg.
Dẫu vậy, ông không biến đổi tình cảm, vẫn một lòng một dạ thương tôi, thương Pg của tôi.
Ở đây, tôi nói vắn tắt về ông - về cái tình ấy, cái tình tôi không thể quên, không bao giờ quên.
17/ 1
Ở trong tòa Đại sứ Mỹ, khi đoán chắc sẽ có đảo chánh, tôi lại lo như tình trạng Hàn quốc: Lý thừa Vãn đổ rồi, đảo chánh hoài. Như thế thì làm được cái gì. Ông Diêm bị đảo chánh rồi, tôi cáo từ ra về, người Mỹ nói, nếu có thể, tôi nên góp ý kiến với chế độ mới. tôi nói, nhưng không nên đảo chánh nữa. Người Mỹ không nói lại gì hết.
Tôi đoán trước những gì sẽ xảy ra. Nếu không vì thành lập Giáo hội Phật giáo Việt nam (GHPGVN), tôi đã “công thành thân thoái” rồi. GHPGVN sẽ thành lập, là vì phải thành lập nhưng đối nội đối ngoại sẽ đầy những sự khó vui. Dầu vậy, vẫn phải thành lập, thay thế Tổng hội Phật giáo Việt nam hết nhiệm vụ rồi.
Dự thảo Hiến chương cho GHPGVN, tôi viết lời mở đầu, “Công bố lý tưởng hòa bình, Phật giáo không đặt sự tồn tại của mình ngoài sự tồn tại của dân tộc”. GHPGVN được cầm đầu bởi chức vụ Tăng thống, tước hiệu có từ thời đại Đinh Lê. Tăng thống tương đồng với Tăng cang, tước hiệu vua Minh mạng đã đổi ra. GHPGVN gồm 2 viện: Tăng thống và Hóa đạo, lãnh đạo tất cả tăng ni và tín đồ của Pg VN. Khi chính thức thành lập, tôi tìm cách giữ chức vụ Chánh thư ký viện Tăng thống, là thật sự muốn ẩn mình, hy vọng tiếp tục dịch giải kinh sách vốn là chí hướng đích thực của tôi.
18/ 1
Nhưng rồi tôi chữa lửa mà bị cho là đốt nhà. Bao nhiêu chuyện xảy ra, ở Huế cũng như ở Saigon, do các ông Tướng ai cũng thấy mình có thể làm nên chuyện. Quần chúng Pg bị cuốn hút vì cái tính “giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha”, nên bị lợi dụng có khi thật phiền. Sau hết, có ông tướng nghĩ mình dẹp “loạn” được thì được vượt trội trong quyền chức. Không ngờ công thành tội, bị buộc phải khuất thân đối với kẻ thật ra là ăn nhờ.
Bằng cái Quốc hội Lập hiến, tôi mong quần chúng có cơ cấu sinh hoạt chính trị, Pg có thể rút mình ra. Nhưng việc nầy là “ họa hổ bất thành phản loại cẩu”!
18/2
Trong khuôn khổ của sự “dẹp loạn” để làm cho Quốc hội lập hiến “hổ biến thành cẩu”, có 1 màn có thể nói là khó nói. Một đoàn chiến xa va thiết giáp khá hùng hậu, được điều động từ Quảng trị vào Huế. Khi sắp qua cầu An hòa, viên sĩ quan chỉ huy ra lịnh ngừng lại để anh đi thám sát đã. Anh đến chùa của khuôn hội Pg Phú thạnh, miệng hét tay làm, hối thúc Phật tử khuôn hội, có anh phụ lực, khiêng bàn Phật ra giữa đường, lại hối thúc tư gia Phật tử làm theo. Viên sĩ quan quay lại, báo cáo đường bị cản trở. Rồi đợi lịnh. Nhưng bàn Phật được đưa ra càng nhiều. Khuôn hội Phú thạnh đã chạy vào Diệu đế thông báo cho tôi và hỏi ý kiến. Tôi hỏi Ông Thiện siêu đang có mặt. Ông nói, “thụ động chứ biết làm sao”. Thực tế tôi cũng không thể bảo ngưng được nữa. Bàn Phật đã có sâutrong thành phố rồi. Chưa bao giờ, mà bây giờ, tôi phải xúc phạm sự tôn nghiêm đến mức nầy!
Thế nhưng chưa hết. Đêm đó, trung tâm thành phố sáng lên, lung linh, huy hoàng,với quá nhiều bàn thờ Phật. Đêm sau càng là như vậy. Trung tâm thành phố bãi công bãi thị 100%. Trong khung cảnh nầy, tôi được cấp báo có 1 Phật tử tự thiêu. Phật tử nầy là Nguyễn thị Vân, pháp danh Không gian, đệ tử ngài Tăng cang Quithiện, thuộc thiền phái gốc: Thiền phái Long trì. Vân 18 tuổi, học sinh năm thứ haicủa bán phần Tú tài, trường Bồ đề Thành nội. Nhà ở cửa Thượng tứ, đối diện nhà Bs Quyến. Vân là thành viên GĐPT Thành nội, từ Anh vũ mà học và thi lên đến đoàn phó, rồi đoàn trưởng năm 14 tuổi. Đã mặc áo dài, nhưng màu trắng cũng như màu lam đều không chịu may eo. Thông minh, xuất sắc, ít nói, nhưng rất dễ mến. Việc tự thiêu hoàn toàn do Vân lặng lẽ tự sắp đặt, với nhiều lắm là 3 lít xăng, thực hiện tại chùa khuôn hội Pg Thành nội, lúc 4 giờ sáng. Khi ánh lửa bùng lên, người trong chùa có cả em trai của Vân là Lam sơn, mới biết có người tự thiêu, nhưng chưa rõ là ai, chỉ thấy một người ngồi trang nghiêm, chấp tay trong lửa. Lửa hạ mới biết là Vân, do thư để lại. Nhưng non 3 lít xăng không giúp Vân giải thoát hình hài. Vân bỏng mắt nhưng vẫn tỉnh, vẫn niệm Phật, không rên kêu gì, và được đưa ngay qua bịnh viện Trung ương. Chính Bs Quyến chăm sóc cho Vân, với sự góp sức của cácgiáo sư Y khoa người ngoại quốc.
Vân vẫn tỉnh, vẫn nói được dầu khó khăn. BsQuyến khóc, các giáo sư ngoại quốc cũng khóc. Y khoa hết khả năng trong trườnghợp này. Vân muốn gặp tôi. Tôi quá nhiều việc, Ông Mật nguyện tình nguyện đóng vai tôi. Nhưng Vân nói gì thì không thể nghe được. Chung quanh Vân, ngoài Bs Quyến, Ông Mật nguyện, bấy giờ đã có em trai Lam sơn, có chị cả, có cha. Ai cũng ngậm nước mắt, nhỏ tiếng niệm Phật cho Vân, theo tiếng của Ông Mật Nguyện và Bs Quyến. Đến 7 giờ 30, Vân về với Phật. Linh cửu được quàn tại Diệu đế. Thiếu tá Sãnh xông vào, cướp linh cữu của Vân, đem vùi tại chùa Viên thông. Sau nầy, Pg và gia đình Vân cải táng, đem về chùa Qui thiện, nằm chung với tiên nhân. Nỗi ân hận về bàn thờ Phật, cùng nỗi thán phục Vân, cho đến nay, không nguôi trong tôi.
19/ 1
Tôi bị bắt từ Huế đem vào Saigon, giam tại 1 bịnh viện tư, sau khi họ bàn với nhau gần nửa ngày. Tại đây, tôi tự ý tuyệt thực 100 ngày, tiếp theo thì gian đã làm 2 ngàyở Huế. Tôi tuyệt thực rất nghiêm túc. Trước hết tâm tư thanh thản và thanh lương, xả bỏ tất cả. Kế đến chỉ uống nước trong, sau vì nhức đầu và nướu răng quá, phải dùng 2 muỗng canh mỗi ngày nước thuốc dextrose. Hòa thượng Trí thủ sắc nước lúa lâu năm cho tôi 1 chén vài hớp, uống vào đi đại ra máu liền. Họ lịnh cho bác sĩ quản đốc bịnh viện, và 1 bác sĩ nữa nay vẫn còn sống, phải bị trừng trị nếu để tôi chết. Tôi nghe 2 bác sĩ ấy nói mà không nghĩ ngợi gì, dầu thừa biết tại sao. Tôi nghe đọc Tây du. Đọc bản dịch người Nam nghe vui, về văn. Viết được 2 tiểu phẩm , 1, bình luận
Tây du theo Duy thức học của chính người gọi là “ông Tam tạng”; 2, khái luận về khởi tính luận, viết nghiêm chỉnh, dầu lúc đó đâu có tài liệu, nhưng ký ức tôi lại khởisắc lên. Tôi vẫn trì niệm hồng danh đức bổn tôn A di đà, đúng thời khóa mà thêm lên nhiều hơn. Có lúc ngẫm nghĩ về việc thánh Cam địa áp dụng phương pháp tuyệt thực và bất bạo động. Đến ngày 70 thì thị lực kém sút khá nặng, 10 ngày sau đó nữa thì phải ngưng hẳn nghĩ và viết, bỏ dở tiểu phẩm “Bài học từ văn Cảnh sách” mà tôi rất vui về dự thảo trong trí. Gần đủ 100 trăm ngày thì nhức mỏi, nhất là 2 cổ tay, đánh khá mạnh bằng dùi chuông gia trì lớn vẫn không đã.
Cả 2 bác sĩ hội chẩn, thấy tim mạch tôi đáng ngại, nói có lẽ họ phải làm nghĩa vụ thầy thuốc. Có vẻ họ nghĩ tôi cũng mong như vậy. Rất mệt, nhưng tôi điềm đạm và nói rõ, “Xin các ông đừng chộn rộn. Các ông không làm được gì tôi đâu. Xin các ông nghe rõ: tôi không muốn chộn rộn”. Cả ngày 98 ấy tôi mệt kỳ lạ, rã rời nhưng cảm thấy vui tuyệt diệu nếu đi khỏi cuộc đời trong cái vui nầy. Thế nhưng ngày 99, rồi ngày 100, đột nhiên khỏe khoắn.
Và tôi chấm dứt vào 0 giờ ngày 101, mừng vì thiện nguyện thành tựu. Từ đầu hôm đến giờ nầy, ngồi với tôi là Trung hậu, và 2 phật tử bị bắt đi theo từ ngoài Huế; lại có các thầy Nhật lệ và Đức trạm (vài tối tụng tán cho tôi nghe 1 thời kinh); có các chú ở Ấn quang mà tích cực nhất đối với việc tôi làm. Tôi khởi sự ăn lại bằng nửa miếng format, vì thấy muốn ăn muối. Buổi sáng ngày đó, các hòa thượng Trí thủ, Thiện hoa, và Huyền quang cùng ngồi với tôi. Hòa thượng Trí thủ nói, bây giờ thì cho thầy biết, người ta không muốn thầy sống lâu, vậy thầy chết là dại. Thôi, thiên long hộ pháp thật thần kỳ, vậy tốt rồi.
Hòa thượng Trí thủ nói đúng, Thầy Thiện minh bị ám sát (mà thoát chết). Còn tôi, người ta ra lệnh không để tôi chết lúc tuyệt thực, chỉ vì nhu cầu của họ lúc đó.Nhưng thực sự có 3 bên không muốn tôi sống. Họ muốn Pg không còn là mối bận tâm cho họ nữa. Việc đi Ý hay đi Nhật, là mưu đồ đi đày, không hơn không kém. Đặc biệt nên nói vài việc trong khi tôi tuyệt thực. Thứ nhất, 1 nữ giáo sư Luật, trẻ, người Âu, dạy viện trợ cho đại học đường Luật Ấn độ, nói với các vị thần linh Hymã lạp sơn bảo cô đến làm phép và săn sóc tôi. Nói việc nầy để thấy âm mưu rất tồi cũng được dùng đến.
Thứ hai, một ngày khác, 9 giờ sáng, 1 chiếc xe ngoại giao đoàn của Ý, đến “mời thầy lên xe, chúng tôi đưa thẳng lên phi trường đến nước chúng tôi”. Tôi nói tôi có ý đi tị nạn hay lưu vong gì đâu. Họ nghĩ ngợi khá lâu, rồi nhúnvai, chào tôi rất lịch thiệp, và ra về. Thứ ba, một đại biểu quốc hội Nhật gốc là 1 nhà sư, gặp tôi, nói thủ tướng nước ông nhờ ông hỏi tôi có ý định viếng thăm nước Nhật, hơn nữa, có ý định lưu trú ở đó bằng 1 ngôi chùa đủ tiện nghi, khuôn viên 3000 mét vuông, và 1 số tiền mặt, 1 triệu Mỹ kim, hay không? Nếu thầy có ý định đến Nhật như vậy thì thủ tướng tôi sẽ mời, và là khách của ông. Ông sẽ chiếu liệu tất cả. Người thông dịch cho tôi, cuộc tiếp xúc nầy là hòa thượng Mãn giác. Tôi nói tôi không biết gì, không có ý định gì cả.
Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi “không vẫn hoàn không”, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có nên phải viết và phải in, mà thôi. “Không vẫn hoàn không” là Phật cho, tôi mới được như vậy.
24-4-2555 (2011)
Trí Quang
Ba, Pg không mưu độc tôn, không cầu độc tôn, nên không thấy ai, kể cả Tcg,là đối nghịch.
Bốn, Pg không mưu hại ai, không thiên ai để hại ai. Nếu thất bại, Pg coi là sự thất bại của chân lý trước bạo lực, không phải thất bại như bạo lực kém bạo lực.
Năm, sau hết, nhưng quan trọng nhất, là Pg thỉnh cầu các bậc lãnh đạo thực thể đối trận, đừng khai thác gì về cuộc vận động của Pg. Vì làm như vậy thì đối phương quí vị lấy cớ để hại Pg mà thôi.
Sau buổi thuyết trình, tối đó, tôi viết lại thành bản Phụ đính tuyên ngôn của Pg.
12/ 7
Bấy giờ chính quyền đàn áp Phật tử bằng vũ khí gọi là lựu đạn axít, ngửi phải hơi nó thì cả người nóng đến phát cuồng. Cơn nóng như vậy đứt đoạn rồi lại phát ra, nạn nhân vật vả, vùng vẫy. Được đè xuống thì hơi yên, rồi lại nổi lên. Việc dùng lựu đạn nầy xảy ra ngay tại khu vực chợ Bến ngự. Ngoài đường Lê Thái Tổ thì dùng quân khuyển, lính chó bẹcgiê. Mỗi lính chó được một lính người điều khiển. Lính chó dữ tợn, cọng với lính người mang mặt nạ càng khủng khiếp. Chỉ huy ném lựu đạn axít là thiếu tá Ph. Chỉ huy lính chó là thiếu tướng được quần chúng gọi là thiếu tướng Ch.
Ngày nay là sơ thất các Thánh tử đạo, ngày công bố Tuyên ngôn vận động của Pg VN. Tôi đi bộ, xuống tòa đại biểu để xin phép, bị từ chối gay gắt, tôi nói, “giết người rồi không cho làm tang lễ, thì là chế độ chi rứa”? Họ nói, thôi thì linh động 1lần. Tôi thưa, sơ thất rồi nhị thất, chung thất, bách nhật. Chỉ một lần rồi thôi. Tôi nói, rất nghiêm chỉnh, “thế thì tôi sẽ không dám xin phép mà chỉ báo tin. Xin báo tin trước, như vậy”.
Tôi về. Lễ cử hành theo chương trình. Tuyên ngôn được công bố, trước các giới Phật tử tràn đầy sân chùa và các mặt đường xung quanh chùa. Cũng theo chương trình, 3g chiều nầy đi chuyển đưa Tuyên ngôn ấy. Nguyên chương trình định hòa thượng Mật nguyện cầm đầu tăng ni và Phật tử hiện diện đi đưa Tuyên ngôn. Nhưng gần đến giờ, nghe nói, các Ôông cùng đi. Các Ôông đây chủ yếu là 3 ngài Thuyền tôn, Tây thiên và Vạn phước, cùng trên 100 tuổi. Đây là việc quá bất ngờ. Không ai dám nghĩ đến việc xin các ngài dự vào những việc như việc chiều nay, sợ rủi có bề gì...Nhưng các ngài đã đứng với Phật tử ở ngoài sân chùa, mặc pháp hậu màu vàng, chống gậy định đi.
Hoảng quá, chúng tôi chạy ra, định lạy, thì ngài Thuyền tôn nói, nhẹ như gió nhẹ. “để các Ôông đi với con cháu 1 chuyến, không răng mô mà lo”. Chúng tôi co vòi, thụ động. Hòa hượng Mật nguyện đi theo, dẫn đầu. Các ngài, ngoài 3 vị trên 100 tuổi, còn có các ngài Từ hiếu, Châu lâm, Mật hiển... Tất cả đều đi bộ, không chịu đi xích lô. Theo sau các ngài là Phât tử, vòng tay trang trọng mà đi. Khi đến tòa Tỉnh trưởng, các ngài đứng hàng ngang, giữa đường.
Phật tử hầu ở sau và 2 bên. Họ đỏ mắt, cắn răng, rung miệng, nhưng không ai khóc. Hòa thượng Mật nguyện bước ra, 2 tay đưa bản Tuyên ngôn cho ông Phó tỉnh trưởng. Ông xin lỗi, nói ông tỉnh trưởng đang bịnh. Rồi các ngài lặng lẽ chống gậy đi về. Cháu chắt tự sắp 5 hàng đi hầu theo sau. Về chùa thì um lên, vừa khóc vừa cười. Nhưng các ngài đi thẳng về chùa các ngài, và bấy giờ chịu đi xích lô. Chúng tôi chạy ra, không kịp lạy. Ai cũng thở mạnh, hết lo. Quang cảnh các ngài đi như chiều nay, đi vì việc như việc chiều nay, là hiện tượng lạ nhất, xưa nay chưa có, ngay trên đất Huế nầy.
12/ 8
Ba bốn hôm nay có mấy tin tức. Hòa thượng Tâm châu cho người mang ra một mảnh giấy, viết “Tâm châu chỉ một chữ nhất”. Cụ Mai Thọ Truyền cũng cho người mang lời ra, thăm, cầu nguyện, và hứa tận lực. Quan trọng nhất là 1 mảnh giấy, viết nguyện tự thiêu, của bồ tát Quảng đức. Đem việc nầy ra bàn, không ai dám có ý kiến, và giao tôi liệu.
Tôi đoán, sau khi công bố Tuyên ngôn, thế nào cũng có phản ứng đáng kể từ phía chính quyền. Quả nhiên, tối 22/4, trước hết, nghe tiếng đoán biết ít nhất cũng có 2 chiến xa mở đèn rất sáng, rú lên ghê rợn, chạy vòng quanh Từ đàm: đường Nam giao qua đường trước chùa, vòng đường Bến ngự qua đường bờ sông, rồi quẹo lại đường Nam giao... Chạy qua chạy lại 6, 7 vòng gì đó thì ngừng lại, 1 chiếc trấn ngự đường Nam giao, chiếc kia trấn ngự đường Bến ngự, cả hai đèn vẫn chiếu sáng.
Thế rồi ngày sau, mới sáng tinh mơ, trên trời 2 phi cơ chiến đấu quần thảo, dưới đất, thanh niên Công hòa súng đạn đầy mình, trấn đóng trước chùa. Chùa bị phong tỏa, hết ai ra vào. Gạo bị xịt thuốc. Ai mạnh thì ăn cháo, cơm dành cho người bịnh. Củi hết, phải ngã dương liễu mà đun. Nước và điện khi cúp khi mở, rất bất thường, nhưng thường cúp nhiều hơn mở. Ký giả quốc tế thông tin, “Từ đàm bị bao vây như tấn công chiến khu VC. Điện nước bị cúp gần 100%”. Chiều gần đổ xuống, có cái màn bắc loa lớn, cha mẹ kêu con ra về. Con ra, đứng trước sân, thưa lớn, “Sống chết với nhau”. Màn diễn vài giờ đồng hồ thì ngưng. Quãng 10g đêm, cha mẹ liệng giấy vào, bảo con đừng về. Thế đấy, khá vui.
Hòa thượng Thiện minh, bấy giờ đã thay hòa thượng Trí thủ, làm trưởng văn phòng điều hành, đi Saigon về, len lỏi hàng rào, từ chùa Thiên minh về chùa Từ đàm, cho biết Saigon đã có 2 cuộc biểu tình đông đảo, hào hứng. Ủy ban Liên phái Bảo vệ Pg thành lập, ngoài Tổng hội Pg VN và 6 tập đoàn của Tổng hội, Ủy ban mở rộng, mời 10 tập đoàn Phật giáo nữa tham dự. Chủ tịch Ủy ban: hòa thượng Tâm châu, Phó chủ tịch: hòa thượng Thiện hoa, Tổng thư ký: Mai thọ Truyền, phát ngôn viên hòa thượng Đức nghiệp. Ủy ban hoạt động có uy tín và rất hiệu quả. Huế có tổ chức bãi thị: 50% ngày đầu, 3 ngày sau 100%. Phố vắng, cửa đóng, nhìn được suốt đường phố.
Tôi họp ký giả. Sau khi trả lời câu hỏi của họ, họ hỏi, qua họ, tôi muốn nhắn nhủ gì không? Tôi nói, có. Đó là tôi muốn biết súng đạn của ai canh gác trước chùa? Chiến xa của ai trấn ngự 2 bên chùa? Họ cười, nhưng nói đó là điều quan trọng. Họ lại hỏi, Pg có thay đổi phương cách bất bạo động không? Không, tôi nói, trái lại, Pg càng bất bạo động. Có người bắt tay tôi. Họ nói, Pg kiên nhẫn như thế, sẽ được hiểu biết nhiều hơn.
12 / 9\
Hòa thượng Đôn hậu được cung thỉnh mở cuộc diễn giảng thường xuyên tại Diệu đế. Hòa thượng vốn là 1 vị tôn túc, diễn giảng nổi tiếng. Khả năng nầy, nay hòa thượng được vận dụng với ý thức đầy nhiệt thành và truyền cảm, sau ki ngài Quảng đức vị pháp thiêu thân. Tôi cùng thầy Chánh trực và anh Từ nghiền ngẫm kế hoạch tổ chức 1 cuộc biểu tình lớn, tại Huế và chung quanh gần Huế. Cuộc biểu tình sẽ tuyệt đối đồng bộ, diễn ra 5 địa điểm, vào ngày nhị thất trai tuần của các Thánh tử đạo. Kế hoạch rán giữ cho thật bất ngờ.
Tôi cũng phải kiện toàn Tổng trị sự Pg miền Trung, mời hòa thượng Đức tâmđảm nhiệm Tổng thư ký hiện đang trống, cùng tỉnh hội Thừa thiên tăng cường liên lạc với các khuôn hội của Huế và xung quanh Huế. Còn tất cả tỉnh hội, trung nguyên cũng như cao nguyên, tạm thời tự trị và liên lạc với Ủy ban liên phái tại Saigon. Thế nhưng một buổi sáng, quãng 9g, ông Đ. cho tôi biết, ngài Quảng đức đã tự thiêu. Ông Diệm nghe tin thì giấy rơi khỏi tay, vội vàng tuyên bố “sau Hiến pháp có tôi”. Chều đó, Từ đàm được giải vây. Tòa Đại biểu phái người lên, “xin quí vị chuẩn bị để vào Saigon hiệp thương”.
Kế hoạch của tôi tạm ngưng chuẩn bị. Phật tử ra về tắm rửa. Tôi đích thân, và huy động những ai còn lại, làm tổng vệ sinh. Vừa làm vừa nghĩ, thật nhiều, về cuộchiệp thương. Một cuộc họp khẩn để ngày mốt đi. Đi, sẽ có ngài Hội chủ Tổng hội Pg VN, và hòa thượng Thiện minh. Ai cũng hỏi tôi thì sao, tôi nói thật, “để nghĩ đã”.Ngài Hội chủ lo nhất, bảo tôi phải đi. Tôi rất phân vân. Ông Đ. thúc tôi. Mọi việc đã lo liệu. Sau nầy mới biết, mỗi chuyến bay hằng ngày, Tỉnh đường Thừa thiên được dành 2 vé đến phút chót. Tôi đi bằng 1 trong 2 vé ấy.
Khi đi, ai cũng nghĩ tôi tiễn phái đoàn. Khi tôi cũng ra cửa mới biết tôi cũng đi. Bay hơn 1 tiếng đồng hồ thì tôi có cảm giác là lạ. Máy bay hạ cánh: Không phải Saigon mà là Kontum. Thầy Thiện minh bàn với tôi cách ứng phó. Tôi nói, Ôông với thầy chắc chắn về Saigon, còn tôi, tôi cũng sẽ cùng về đó. Và việc đã xảy ra như thế thật. Đến Xá lợi, tôi vào giảngđường, lạy kim quan bồ tát Quảng đức. Thầy Tâm châu hỏi sao trễ thế, còn ông Chánh trí không nói gì.
13/1
Lạy bồ tát rồi, tôi phải nói sự tự thiêu theo giáo lý. Sự ấy được nói đến trong 2 chỗ là kinh Pháp hoa và kinh Phạn võng. Chỗ nào cũng nói tự thiêu có 2 ý nghĩa. Thứ nhất, tự thiêu là tự thử thách về chí nguyện, nung nấu chí nguyện ấy cho dũng mãnh, kiên cường. Thứ hai, tự thiêu là sử dụng sắc thân mà phụng sự Phật pháp và phục vụ quần sinh. Tự thiêu là do nguyên lực, tin chắc chí nguyện của mình có thể cảm hóa rất lớn.
Pháp nạn 1963, và sau nầy, có nhiều vụ tự thiêu. Nhưng phải nói nhất là bồ tát Quảng đức và tôn giả Quảng hương. Mở đầu, nhưng bồ tát Quảng đức tự thiêu rất tự tại, đường đường đủ mọi nghi lễ. Tôn giả Quảng hưong, trái lại, tự thiêu ngay sau khi thiết quân luật, cực kỳ khó khăn. Vậy mà tôn giả làm được, rất ư gian nan. Và cho đến nay, cũng vẫn không tìm được hài cốt của ngài: đáng tôn thờ và thương cảm biết bao nhiêu.
13/2
Nhân nói giáo lý về sự tự thiêu, xin nói luôn ở đây về vụ đưa đám bồ tát Quảng đức. Ba bốn hôm nay, có đủ các nguồn tin, mỗi lúc một rõ hơn. Theo đó, đám ngài Quảng đức dĩ nhiên sẽ đông, nhưng có đổ máu đầu đường Tổng đốc Phương giáp mối với đường Hùng vương. Đám phải đi đường Hùng vương, và qua đó mà thẳng xuống An dưỡng địa. Không ai không biết hay khinh thường tin tức như vậy.
Hòa thượng Thiện minh hiệp thương lần chót rồi, chưa ký, về Xá lợi bàn, Hòa thượng thấy rõ chính quyền không giấu giếm được sự lo sợ. Ý hoà thượng phân vận, nhưng ngã về phía cứ để quần chúng làm việc. Tôi không đồng ý để mặc quần chúng. Có đổ máu: Không được! Hòa thượng Thiện minh đi ký. Và cả phái đoàn chưa ai về, Ở chùa chỉ còn cụ Chánh trí và tôi. Cụ đang bàn với cảnh sát trật tự. Tôi xin lỗi, mời riêng ra, bàn. Tôi hỏi tin tức về phía cụ, đám có thể đổ máu không? Rất có thể, cụ nói. Tôi nói đổ máu của quần chúng là không nên. Cụ nói, rất đồng ý, và cho cảnh sát hay đám tạm ngưng. Khi phái đoàn về, họp khẩn, thấy tạm ngưng là phải. Và hòa thượng Tâm châu cho xe đi phát thanh lời thông báo tạm ngưng của hòa thượng, qua các đường phố xung quanh Xá lợi vào đến Ấn quang. Quần chúng lại nghĩ tiếng phát thanh đó là giả. Vì vậy, sáng ra quần chúng đông hơn, tập trung nơi Giác minh mà hướng về Xá lợi. Hòa thượng Tâm giác đang đứng trên 1 chiếc xe, nói gì không ai nghe được, chỉ hè nhau đẩy chiếc xe đi mở đường. Nhưng đến cổng xe lửa thì cuộc chiến xảy ra, vũ khí của quần chúng là đá lót đường xe lửa. Một tuần sau đó thì đưa đám ngài Quảng đức. Ủy ban Liên phái quyết định chỉ có chư tăng đi đưa. Có người viết, tuần trước quần chúng đưa đám với quần chúng rồi. Tuần nầy thì các thầy đi đưa với nhau. Lời lẽ đầy mỉa mai, và tiếc rẻ, không có hỗn loại và đổ máu.
13/ 8
Hòa thượng Thiện hòa trông coi việc hỏa táng kim quan của ngài Quảng đức. Tro tàn rồi, quả tim còn lại. Bấy giờ chỉ có ký giả quốc tế đi lại, và có xăng tốt. Thiêu lần thứ 2, quả tim ấy vẫn không cháy. Ký giả quốc tế thông báo cho thế giới như vậy. Khi rước về Xá lợi, Ủy ban Liên phái thông báo Tăng ni, Phật tử đến hành đại lễ. Tôi thảo lời ngài Hội chủ gửi Điệp văn cho các miền và các tỉnh. Điệp văn viết, “Tôi chí thành đảnh lễ vị nhục thân bồ tát, xin ngài hộ trì cho nguyện vọng cuộc Vận động của Pg VN”. Điệp văn chấm dứt bằng cách niệm “Nam mô đại hùng đại lực Quảng đức bồ tát”.Từ đó danh hiệu bồ tát Quảng đức đi vào lich sử Pg VN.
14/ 1
Hòa thượng Quảng độ, thường ngày sáng sớm, từ Giác minh mang đến Xá lợi bản tin mà hòa thượng dịch từ báo chí ngoại văn. Bản nầy được đánh máy, quay, phát, cho những người tụng kinh vào buổi tối, tại Xá lợi. Nhưng ngày nay, hòa thượng nhận lời cầm đầu 1 cuộc biểu tình biết chắc chẳng những khó khăn mà còn đổ máu. Phụ tá hòa thượng là hòa thượng Chánh lạc, Kế hoạch có 4 bộ phận chạy bốn ngã đánh lạc hướng, nhưng vẫn tìm cách cùng đến công trường Quách thị Trang. Hòa thượng với bộ phận chính xông pha mọi cản trở bởi hành hung và kẽm gai. Can đảm phi thường, hòa thượng đến được địa điểm đã định. Tại đây, dùi cui và đấm đá đón hòa thượng. Mặc, hòa thượng cứ nói. Máy bị đập, hòa thượng nói lớn. Họ xông đến bóp cổ, đánh đá tơi bời. Đầu hòa thượng bị téc, máu chảy xuống mặt. Hòa thượng vẫn nói. Chúng bèn hốt, ném lên xe cây. Một số quỉ thối bóp hạ bộ của các nạn nhân. Ký giả ngoại quốc lần nầy cũng bị hành hung không nương tay.
Chúng chở về An dưỡng địa. rào kẽm gai mà nhốt, mưa mặc mưa. Giam một vài ngày gì đó, rồi thả ra, đuổi đi đâu thì đi. “Chúng ông bắt được lần nữa thì tụi mày hết sống”. Chân, tay và miệng của chúng hoa ca như vậy. Ký giả ngoại quốc nghe nói cái vụ bóp hạ bộ thì cười “cái văn minh của chế độ tổng thống Diệm”.Cuộc biểu tình này bị đàn áp dã man, nhưng thành công và tác động thì thật siêu đẳng.
14/2
14/2
Có nhiều cuộc biểu tình trước ngày chế độ Diệm thiết quân luật. Nhưng tôi chọn 3 cuộc có tính cách tiêu biểu. Cuộc thứ nhất nói rồi. Bây giờ nói cuộc thứ 2. Cuộc biểu tình nầy vốn có dự định mà không tổ chức được. Do đã thông báo, các nơi tập họp về Xá lợi, trong đó có nhóm Pg Nguyên thỉ chùa Pháp quang của hòa thượng Hộ giác. Tôi nhớ bữa đó hòa thượng không có, chỉ có đại đức Bửu phương. Đại đức hỏi sao không đi biểu tình? Người ta trả lời người ít quá. Đại đức đảo mắt một vòng, “từng này được rồi”. Thế là phóng đến nơi đã chọn trước, gần Xá lợi nhất, mà cũngrất bất ngờ. Đó là tiểu bạch ốc (tư dinh đại sứ Mỹ).
Các hòa thượng Tâm châu và Đức nghiệp phóng trước. Tôn giả Quảng hương quấn cổ biểu ngữ duy nhất, đã được kẻ trước, mà chạy theo. Cảnh sát kéo giành, tôn giả càng giữ. Bị ngã, tôn giã vẫn cố giữ. Cảnh sát khác thấy vậy, la lớn, buông nó ra, không, nó chết bây giờ, mệt lắm. Tiểu bạch ốc không cao lớn lắm, nhỏ vừa phải. Cuộc biểu tình rất vừa phải với
khung cảnh đó. Khẩu hiệu biểu tình là yêu cầu người Mỹ xét lại vũ khí và phuơng tiện họ dã viện trợ cho chính quyền Việt nam. Chính quyền đã lợi dụng vũ khí và phương tiện ấy mà đàn áp Phật tử. Người Mỹ nên đạt vấn đề mà cấp tốc cứu xét.
Xong, cả đoàn biểu tình trở về Xá lợi, trước con mắt tức bực của cảnh sát. Trời gần trưa. Buổi phát thanh trưa của VOA tường thuật rất trung thực cuộc biểu tình. Người Mỹ, bây giờ, bị đặt trách nhiệm, đơn sơ và rõ ràng.
14/3
Nay nói cuộc biểu tình thứ 3, ngay sáng sớm mới thiết quân luật, hốt chùa chiền. Cháu Quách thị Trang đến nhà vài người bạn. Mới sáng sớm, cháu và bạn của cháu, từ trong chợ Quách thị Trang cầm biểu ngữ chạy ra công trường. Các má và các chị ào ra theo. Cháu quấn biểu ngữ vừa chạy vừa la lớn, “trả thầy của chúng tôi”. Cảnh sát lập tức bắn chết cháu, chở thi thể cháu đi mất luôn. Sau nầy mới biết chúng đem lên vùi ở nghĩa trang quân đội.
“Trang hỡi Trang, em là vì sao sáng”... 1 bản nhạc được nhạc sĩ nào đó đặt ra. Rồitượng đài của cháu được sinh viên kiến trúc tự xây dựng, đặt ở công viên trước chợ Bến thành, với bảng hiệu công trường Quách thị Trang.
15/1
Không ai trong Ủy ban Liên phái mà không nghe biết dồn dập về việc chính quyền chuẩn bị thiết quân luật để tổng càn quét Phật giáo. Tăng cường cảnh sát quận 3 (Xá lợi) và quận 10 (Ấn quang); tập trung và mài dũa còng tay; bắt công chức tăng cường gác đêm... Trước đó, và có lẽ đây là ý định thứ nhất của chính quyền: lấy lịnh tòa án ruồng bố các chùa. Dự định nầy, theo tin tức, nhằm cướp kim quan của ngài Quảng đức, truy tố các vị tổ chức cho ngài tự thiêu. Họ đã điều tra lai rai các vị ấy.
Và rằng sẽ truy tố những kẻ sát nhân.
UBLP họp vài ba lần. Bàn ai tình nguyện bị bắt, ai tình nguyện ở ngoài. Nhưng không ai chịu ở ngoài cả. Riêng tôi, trong UBLP có cụ Hiểu, cầm đầu Phật tử Nguyên thỉ, cho tôi biết riêng, tòa đại sứ Thái lan có ý mời tôi đến tá túc. Cụ nói 2lần. Tôi thì đã quyết định “để bị bắt”. Rồi hòa thượng Tâm giác cũng làm tương tự.Hướng dẫn và thông dịch cho 1 viên chức nói là của tòa đại sứ Nhật, cũng tỏ ý nhưThái lan. Tôi cũng trả lời tương tự.
Họ ngồi cho đến gần giờ thiết quân luật mới về.Nửa giờ sau, ban Trật tự trong chùa báo động. Cùng lúc, thô bạo cực kỳ, cảnh sát dã chiến xông vào, sử dụng dùi cui trước, đối với cả các ni sư. Rồi tấn công bằng hành hung và lựu đạn cay, họ dồn chúng tôi ra trước điện Phât. Ở đó, thấy ngài Hội chủ mặt và mắt sưng, bị dẫn ra trước.
Một thị giả níu ngài bị đánh ngất xỉu. Ngài bị đưa lên xe bít bùng, đưa đi trước. Các nhóm, tôi cũng bị ở trong một nhóm, rồi tất cả, bị xua ra, cảnh sát áo trắng đón lấy, đưa lên 4, 5 chiếc xe lớn, trực chỉ đến nơi mà sau đó mới biết là Rạch cát. Đêm khuya, trời lạnh, nhưng không mưa. Đoàn xe đến một quãng đồng cạn thì dừng lại. “Vì xe chỉ huy hỏng máy”. Có tiếng nói nhỏ, nhưng rõ, “ai xuống được thì xuống mà thoát đi”. Nhưng xe tôi, và sau đó biết các xe khác cũng vậy, không ai xuống cả. Đoàn xe lại tiếp tục. Vài mươi phút sau đến Rạch cát.
Chúng tôi bị xua xuống, nhốt vào 3, 4 cái nhà tương đối nhỏ. Tôi, do một thầy nào đó không rõ, đang đêm nên cũng không nhìn được, nói nhỏ và dìu tôi vào gần nhóm Già lam. Bấy giờ thì biết Già lam, Pháp quang, Nguyên thỉ gốc Miên, Ấn quang, Giác minh, An dưỡng địa, Phước hòa,... đủ mặt bá quan. Cỡ 1 giờ sau, họ dẫn cụChánh trí vào, đi ruồng các phòng, đến phòng tôi, chúng tôi 4 mắt nhìn nhau rất nhanh, và cụ Chánh trí liên tiếp lắc đầu, miệng nói không có, không có. Ấy là họ “nhờ” cụ giúp họ tìm tôi. Lát sau nữa, đại đức Giác đức bị bắt, đưa ra, dẫn đi.
Thầy nói khi nãy bảo tôi gối đầu trên vế thầy, nằm xuống mà nghỉ. Trời chưa sáng, lạnh, nền xi măng, vậy mà nằm vẫn thấy ấm áp. Gần sáng, thầy thức tôi dậy, nói, việc con đến đây là hết. Bây giờ xin thầy vào nhóm Già lam, sát nhóm Miên mà ở. Thầy đưa tôi đến, rồi xá tôi, lặng lẽ lui ra. Từ đó cho đến nay, tôi cố kiếm thầy là ai mà không tài nào kiếm ra.
Lại nói để phục chư tăng gốc Miên, và Phật tử của các ngài, tự ý cùng cảnh sát gốc Miên, liên lạc kín đáo và chặt chẽ với nhau. Tin tức từ lúc đó, cho đến khá lâu sau đó, toàn nhờ nhóm nầy thông báo, chính xác và đầy đủ, với máy truyền tin họ được cấp. Nhờ đó mà biết các hòa thượng Tâm châu, Đức nghiệp bị bắt cả rồi, chỉ thiếu tôi và đang cố lùng kiếm. Hòa thượng Thiện minh về Huế, và đêm đó bị bắt ở đây, chùa Từ đàm. Tất cả các tỉnh, đặc biệt ở Huế, họ bị ruồng bắt “rất cẩn thận” mà dĩ nhiên, tôi không rõ lắm.
Nói công bình, mấy ông chỉ huy ở Rạch cát không gay gắt. hống hách gì, bảo chúng tôi thu xếp lấy sự sinh hoạt bình thường. Đi lại và trò chuyện thoải mái, miễn đừng ra ngoài khu vực. Hòa thượng Nhật thiện, sư đệ của tôi, liên lạc với bên Ni, với cảnh sát công chức gác đêm, nhất là cảnh sát gốc Miên, định thực hiện cho tôi một cuộc thoát ra êm xuôi, với bộ cánh cảnh sát và 10 ngàn tiền biếu. Nhưng sáng hôm sau, lịnh trả chúng tôi về ăn Vu lan. Trước khi tiếp tục, tôi kể chuyện nầy cho vui.
Một buổi chiều có đông nhân viên vào lấy lý lịch và chỉ tay. Hòa thượng Nhật thiện nói,nhân việc này làm cho tôi từ nay “vẫn tìm không ra”. Một nhóm hè nhau, do hòa thượng Nhật thiện điều khiển: tôi khai lý lịch, 1 thầy chụp hình, 1 thầy lăn tay. Tất cả bàn giấy, hơi lạ, là thấy chúng tôi thì cúi xuống, đến phận sự thì làm việc, không ngước lên, nhìn hay hỏi gì. Hòa thượng Nhật thiện nói, một người mà lý lịch, hình ảnh, nhất là dấu tay, hoàn toàn khác nhau thì hết cách tìm cho ra là ai.
15/ 2
Tiếp tục câu chuyện. Tôi chưa kịp thoát ra theo sự thu xếp của sư đệ Nhật thiện, thì có lịnh thả chúng tôi về ăn Vu lan. Khi gọi đến nhóm Pháp quang thì sư cụ Thiệnluật ra ngồi trước. Kế đến gọi Ngô Bửu Đạt (hòa thượng Hô giác) mới ra đã có một nhóm đến mời lên xe bịt bùng đi luôn. Khi gọi Đinh văn Tánh (tên giả của tôi) sư Chung thúc đẩy tôi ra. Thế là tôi về chùa Pháp quang. Trước đó, hòa thượng Thiện hòa vào, tìm gặp tôi, nói, thầy về Xá lợi, tôi sẽ đón thầy ở đó. Thế là quá rõ: Ấn quang bế tắc đối với tôi. Và thế là tôi phải về Pháp quang. Về đây, tôi tắm rửa thoải mái sau 9 ngày sống mọi rợ. Nhưng, từ trong phòng tắm, đã thấy 4 họng súng chỉ vào đều nhau. Tôi nghĩ Pháp quang đang bị bao vây chặt chẽ. Quả như vậy, Sư đệ Nhật thiện từ Xá lợi chạy về, tìm gặp tôi đang thay đồ mới, dậm chân, hét, mau lên.
Nó biết thầy ở đây rồi. Thế là Pháp quang không cách gì lọt ra ngoài được nữa. Trừ ra... tôi nghĩ thật nhanh... và bảo sư đệ Nhật thiện, kiếm một thầy nữa, chúng mình đi. Sư đệ có ý hỏi. Tôi khoát tay và thúc nhanh lên. Tôi đi trước, Nhật thiện và sư Nhâm theo sau. Xuống sư cụ thì thấy cảnh sát đang kỳ kèo gì đó, mà sau này, biết họ đang đòi sư cụ cho soát chư tăng mới được tha về. Tôi thong thả, trình sư cụ, chúng con xin phép đi đưa cái thư mà ngài dạy mang đến Ấn quang, cám ơn hòa thượng Thiện hòa. Sư cụ nhanh trí, bảo đi nhanh lên, sắp tối rồi.
Trời lại mưa khá lớn. Có 2 chiếc taxi đậu ngoài sân, vành xe chạy sơn màu vàng: xe của công an. Loại nầy có quyền bắt khách, chở thẳng về công an. Mặc, chúng tôi ngồi ngay lên 1 xe.Xe ra đường lớn, tôi bắt đầu làm việc. Tôi nói, 2 thầy sao không biết, còn tôi mai sẽ xin về, không tu nữa. Ngán tu rồi,... Anh tài xế hỏi, tôi vừa trả lời vừa nghĩ đến việc về Ấn quang. Nhưng về Ấn quang là nạp mạng. Còn thoát trên đường về đó, thì lúc bấy giờ tôi không biết gì về đường sá Saigon, không thể thoát được sự chú ý của anh tài xế. Như vậy chỉ còn cách ra đường Hàm nghi. Tôi nói với anh tài xế, anh có thể ra bến tàu cho chúng tôi hít thở thật mạnh một chút được không? Được. Ra bến tàu, gần đến đầu đường Hàm nghi, tôi nói phiền anh ghé vào tiệm thuốc cho tôi mua vài viên thuốc cảm. Anh ghé vào, vui vẻ. Không biết ngẫu nhiên hay sao mà lại chỉ có 1 hiệu thuốc mở cửa. Chúng tôi xuống, nói với anh tài xế, anh quay xe để rồi chung ta đi.
Nói vậy, nhưng tôi đi thẳng, qua trước cửa tòa đại sứ Mỹ. Thấy cửa khép, tôi đi thẳng càng mau. Nhưng đi mươi lăm mét gì đó, tôi quặt lại, thấy cửa ấy mở ra. Vậy là sư đệ tôi 1 tay kẹp tôi, 1 tay kẹp sư Nhâm, a vào. Anh lính Mỹ hơi tránh ra cho chúng tôi vào. Vào rồi, anh khép cửa khá kín, mở tủ lấy một khẩu súng khác, nhỏ hơn, và hỏi các ông có phải là phe ông Trí quang không, sư đệ Nhật thiện chỉ tôi, nói tiếng Mỹ, ông nầy là Trí quang đây. Anh lính Mỹ đóng cửa, gọi điện thoại. Chỉ vài phút sau, có người đến nhận diện tôi, mời lên tầng trên, sâu hơn. Ngoài đường tiếng chiến xa đang ồn ào chạy quanh. Một chiếc máy thu thanh được đem để trước mặt chúng tôi. Đài BBC loan báo: Thượng tọa Trí quang đã vào tị nạn trong tòa đại sứ Mỹ.
15/ 3
Tổng hội Phật giáo Việt nam gồm có 3 miền Nam Trung Bắc, mỗi miền có 2 giới tăng già và cư sĩ, thành ra 6 tập đoàn. Hai tập đoàn miền Trung là Giáo hội Tăng già Trung phần và hội Phật giáo Trung phần. Trung phần ở đây là gồm cả trung nguyên và cao nguyên. Bộ phận cầm đầu 2 tập đoàn miền Trung cùng được gọi theo tên cũ là Tổng trị sự (Tts). Tám năm trước 1963, tôi lạy ngài Thuyền tôn làm hội trưởngTts, cho con cháu của Hội mà ngài là 1 trong 3 vị chứng minh đại đạo sư sáng lập,
được núp trong bóng đại thụ của ngài, phục vụ Hội trong giai đoạn khó khăn. Năm 1963, tôi lạy mà vâng lời ngài làm Hội trưởng Tts để ngài tịnh trú.
Như vậy, Hội trưởng Tts Hội Phật giáo miền Trung năm 1963 là tôi, Trí quang. Theo cổ lệ, Phật đản miền Trung do Giáo hội lo nghi lễ; còn tổ chức thì hội lo toàn bộ, vì hội có các tỉnh hội, và các tỉnh hội có các khuôn hội. Như vậy, tôi là người tổ chức Đại lễ Phật đản 1963. Lịnh cấm treo cờ Phật giáo nhằm vào Lễ đi Phật đản của các tỉnh và khuôn , nhất là nhắm vào Huế. Hội trưởng Tts chống lịnh ấy, và như vậy tôi thành người “mở đầu cuộc vận động 1963 của Phật giáo”.
Cũng nên nhắc lại cái lịnh cấm treo cờ Phật giáo. Trước Phật đản 3 ngày, ông tỉnh trưởng Thừa thiên lên Từ đàm vận động tôi đừng treo cờ. Tôi từ chối. Hôm sau, ông lên, nói bây giờ có lịnh đây, tôi chỉ tống đạt. Tôi nói rất ngạc nhiên về cái lịnh như vậy của chính quyền, mà là chính quyền trung ương, và không thể tuân hành được. Với sự kháng cự lịnh nầy, tôi tự hoàn thành tội danh “mở đầu cuộc vận động 1963 của Phật giáo” không cần ai tự bảo mình sắp đặt như vậy.
15/ 4
Khi UBLP họp, không ai muốn không bị bắt, là ai cũng muốn đem khổ hạnh củamình, thành tựu nguyện vọng của Phật giáo, chứ không phải cầu may hay áp dụng khổ nhục kế. Riêng tôi, với “cái tội khởi xướng”, tôi biết và chính quyền cũng không ngần ngại gì mà không cho biết, chờ đợi tôi là cỗ máy đoạn đầu đài, nói nôm na là máy chém, đừng có ảo vọng gì khác.
Ở đây, nên nói chuyện cũ một chút. Trước 1963 khá lâu, có lần và lần đầu, ông Diệm mời tôi đến tư thất, và Cố vấn Cẩn cho biết riêng, là để nói việc giúp đỡ đồng hương di cư của Phật giáo Quảng bình. Khi gặp, tổng thống Diệm nói có 2 vùng đất, một là vùng cát màu mỡ và rất đẹp ở Cam ranh, hai là vườn ươm của canh nông ở núi Thiên thai. Hai vùng đất nầy, vùng nào cũng có thể làm nơi cư trú và làm ăn cho cả trăm người. Tôi muốn thầy đứng ra nhận để lo cho đồng hương. Tôi nói, đồng
hương ấy không nhiều, chỉ có 5 học tăng và một ít cư sĩ, họ dã sinh sống ổn định lâu rồi. Tôi chắc Tổng thống nói chuyện giúp đỡ nầy là có ý giúp đỡ Phật giáo.
Tôi nghĩ Tổng thống đặt vấn đề như vậy thích đáng hơn. Tổng thống hỏi giúp cách nào, tôi nói, môt nửa vườn hoa Tao đàn và 5 triệu tiền lúc ấy, là đủ cho Phật giáo có đủ một cơ sở bề thế và triệu tập một Đại hội Phật giáo quốc tế. Vừa thay nước mời tôi, vừa suy nghĩ trên năm ba phút, Tổng thống nói sức tôi không lo nổi. Bấy giờ, năm bảy hôm sau khi khởi xướng cuộc vận động 1963, cụ Nh. đến Từ đàm, vào lúc 5 giờ sáng, nói với tôi, Tổng thống có thể thỏa mãn đề nghị cũ nếu tôi ngưng cuộc vận động. Tôi từ tốn nói, đề nghị ấy quá lỗi thời rồi. Với lại làm sao Tổng giám mục chịu cho Tổng thống làm. Cụ Nh. hiểu biết, ra về, khi trời chưa sáng hẳn.
Hết màn trên tiếp liền màn khác. Một người công chức tự nói là hội viên khuôn hội Phú Thạnh, yêu cầu nói chuyện hơn thiệt với tôi. Rằng thầy chống đối thì đương nhiên chính quyền sắp sửa máy chém. Sao thầy không nghĩ cuộc sống dài hơn cho công việc dài hơn? Xét thấy người nầy chỉ học bài và trả bài, tôi điềm đạm nói với anh như vậy, anh cũng điềm đạm ra về sau khi nói, “con không biết gì cả thật”!
15/5
Nếu bị bắt lúc Xá lợi bị tấn công, tôi bị thọ án tử hình theo thủ tục bình thường, hay hơn nữa theo thủ tục khẩn cấp, thì đó là điều tôi đinh ninh như vậy. Nhưng sẽ khác hẳn nếu bị bắt lại sau 9 ngày “bị bắt mà như không bị bắt”, nhất là sau khi về Pháp quang. Vì vậy, tôi quyết định không để bị bắt lại. Không để bị bắt lại, nhưng cũng đã không có cách nào khác hơn đến tòa đại sứ Mỹ.
Tôi ý thức được sự phức tạp cho riêng tôi, kể cả khi đã ngồi trong tòa Đại sứ ấy. Trong người tôi tự thấy ngạc nhiên và bất ổn. Nhân viên cao cấp của tòa Đại sứ cũng thấy ra như thế. Họ nói với tôi, nếu thượng tọa có ý định tỵ nạn ở đây thì là khách của chúng tôi. Nếu thượng tọa không có ý định ấy thì có thể đi ra bất cứ lúc nào thượng tọa muốn. Tôi nói, dĩ nhiên tôi đang yêu cầu tị nạn ở đây. Nhưng, xin lỗi, tôi vào đây còn muốn nhìn thấy người Mỹ giải quyết như thế nào về vấn đề mà người Mỹ có trách nhiệm. Tôi ở đây tùy thuộc vào sự nhìn thấy ấy. Họ nói, vậy xin mời thượng tọa ở đây với chúng tôi cho đến khi thấy không cần ở nữa.
16/ 1
Đến đây, tôi ngưng một giai đoạn Phật giáo, bằng cách ghi thêm mấy việc linh tinh cần nói, mà không theo thứ tự nào cả.
1. Do hòa thượng Chơn trí mà Gia đình Phật tử tập họp đúng giờ, đúng chỗ, trước tòa tỉnh trưởng Thừa thiên, vào buổi chiều 14/ 4 - buổi chiều mà Pg khiếu nại cờ đèn bị phá bị giật, lễ đài Phật đản bị xúc phạm rất mất dạy. Tỉnh trưởng mời Pg họp để giải quyết.
2, Huynh trưởng Gái được bí mật giao cho cầm đầu đoàn GĐPT rước Phật từ Diệu đế lên Từ đàm. Không có sự khôn khéo của anh, thì 5 biểu ngữ không lên thấu chùa, kế hoạch bị thương tổn không nhỏ. Cũng chính huynh trưởng Gái đầu tiên đem tài liệu vào Ấn quang mà, lúc đó, nếu thiếu can đảm và khôn ngoan, đã không thể chu toàn nghĩa vụ.
3. Ba thanh niên hoạt động nổi tiếng sau khi thiết quân luật là Bôi, Nho, Doãn. Bôi dã thành người thiên cổ, còn 2 người kia, tôi chưa có dịp liên lạc được,
4. Tôi đặc biệt nói đến 1 Phật tử mà là ân nhân của Pg, kể từ lúc Pg mới rục rịch có vấn đề suốt đến khi chế độ ông Diệm sụp đổ. Người nầy là đệ tử hòa thượng Mật nguyện, là người đồng hương với tôi - là ông Đẳng. Ngay từ đầu ông dã bỏ công bỏ của ra không nhỏ, dầu ông khá nghèo. Ông đóng vai trò Tỉnh trưởng và Phật tử rất vất vả, lao tâm khổ trí. Không có ông, tôi dã rất khó khăn trong việc tiếp xúc với các cấp chính quyền. Người sắp đặt cho tôi lên máy bay đi Saigon là ông. Khi tôi viết
mấy dòng nầy, ông đã không còn nữa, từ lâu.
5. Bs Lê khắc Quyến, pháp danh Nhật thắng, đệ tử đại tổ đình Quốc ân, người Huế. Tôi là bịnh nhân đến khám bịnh tại phòng mạch tư của ông ở cửa Thượng tứ. Bấy giờ ông là Giám đốc Bịnh viện Trung ương Huế. Sau đó được biết bà cụ thân sinh ông là em ruột cụ bà Lê văn Định. Mối liên hệ Phât giáo của ông là như vậy, chưa kể thân sinh của ông cũng là đệ tử đại tổ đình Quốc ân, bổn sư là ngài Đắc quang, Tăng cang quốc tự Linh mụ. Ông là Khoa trưởng Đại học đường Y khoa Huế, được gia đình Tổng thống Diệm biết ơn vì chữa bịnh giỏi cho bà cụ thân sinh của họ. Ông có nhà mới, lớn và đẹp, ở phía nam thành phố, nhưng chưa kịp ở. Ông tham gia cuộc Vận động 1963 của Pg, mất hết chức và nhà, bị bắt ở tù. Khi tham gia, ông tự biết sẽ phải như vậy.
Sau Phật đản năm ba ngày, một buổi sáng gặp tôi, ông cho biết ông Diệm mời ông vào Saigon để nói về vấn đề Pg. Ông hỏi tôi muốn ông nói gì, tôi nói, xin nói rất thật thâm tâm của tôi. Tôi không mưu đồ gì cả, chỉ phản ứng vì hết mức chịu đựng sự xúc phạm quá đáng đến đức Phật và Pg của tôi, mà thôi. Vấn đề như vậy quá dễ giảiquyết cho Tổng thống chứ không thương tổn gì. Hôm sau Bs Quyến về Huế, nói, ông mời vào để nghe ông nói, không phải để nói cho ông nghe! Bs Quyến chẳng những tham gia hết lòng vào 1963, sau đó, đến nỗi mất sách, bị bắt bị tù nữa, vẫn không chán bỏ đạo pháp – mà không mưu đồ gì cả,cho đến hết đời.
6. Việc Phật tử Mai Tuyết An chặt tay phản đối bà Nhu, người Mỹ hỏi ý kiến tôi, tôi nói phong trào chống đối ông Diệm đã và sẽ lan ra mạnh mẽ trong giới học sinh. Sự việc quả như vậy, ngay sau đó.
7. Sau khi thiết quân luật, hoạt động hải ngoại là hòa thượng Nhất hạnh và bác sĩ W.
8. Bác học Bửu Hội gạp tôi khi về thăm mẹ. Tôi phàn nàn động thái gây ác cảm nặng nề của ông. Ông ân hận và muốn đóng góp. Tôi nhờ chuyển đến Tổng thư ký Liên họp quốc 5 va-ly đầy đủ tài liệu. Chuyển ra để ở khách sạn ông Lê văn Hiệp. Ông Hội đến nhận ở đó, chuyển giao rất chu đáo, nhanh chóng. Bằng tình cảm cá nhân, ông Hội lại tác động các Đại sứ Á Phi đến điều tra nhân quyền ở Nam Việt nam. Hòa thượng Nhất hạnh và bác sĩ W. càng liên lạc và hướng dẫn cụ thể cho phái đoàn nầy. Chỉ vì tôi chưa kịp nói nên đôi bên chưa hiểu nhau.
9. Khi ở Xá lợi, tất cả chi phí không nhỏ cho việc của Pg miền Trung mà tôi phải liệu, thì người giúp tôi là ông Lê văn Hiệp. Nhân đây, tôi nói đến chi phí khi còn ở Huế. Mọi chi phí ở dây và lúc ấy là do các khuôn hội Thừa thiên lạc cúng, do tỉnh hội ấy thu và chi.
10. Tình báo một cách xuất sắc nhất là 1 Phật tử tự động. Chính ông Nhu cũng lao đao về sự tình báo của người nầy. Người này thường viết báo cáo giao cho hòa thượng Tâm châu mà không ra mặt. Nhưng sau nầy tôi cũng biết người đó là ai.
11. Hòa thượng Trí quảng, lúc ấy, khá có khả năng vận động phong trào học sinh.
12. Hòa thượng Thiện minh có sáng kiến tấn công bà Nhu. Sự tấn công này tác động nhanh và mạnh đến bất ngờ đối với phong trào học sinh. Mưu đồ lừa đảo của chính quyền trong việc thực thi Thông cáo chung cũng rã vì “đức bà lồng lộn, vung vít”. Nhưng hòa thượng Hộ giác và thầy Giác đức thì tai họa không nhỏ, vì “mồm miệng không ưa nổi” trong chiến dịch ấy. Nghe nói lúc bị bắt, 2 ngài được đức Bà hỏi thămkhá ân cần.
13. Sau hết, mà thật ra là trước hết, tôi nói đến 1 người, một người bạn của tôi, Bs
W. Ông thương tôi hết lòng. Việc tôi làm, mở đầu mà thế giới biết, là do ông. Giao thiệp với Tổng thư ký LHQ đầu tiên là do ông. Sau thiết quân luật, Pg bị hốt rồi, cũng chính ông hoạt động với hòa thượng Nhất hạnh, rất hiệu quả. Ông, trước không nói gì, nhưng tôi biết và biết rõ. Ông muốn qua tôi, Pg phải thành một lực lượng. Nhưng thực tế làm cho ước muốn ấy không phù hợp với chính Pg.
Dẫu vậy, ông không biến đổi tình cảm, vẫn một lòng một dạ thương tôi, thương Pg của tôi.
Ở đây, tôi nói vắn tắt về ông - về cái tình ấy, cái tình tôi không thể quên, không bao giờ quên.
17/ 1
Ở trong tòa Đại sứ Mỹ, khi đoán chắc sẽ có đảo chánh, tôi lại lo như tình trạng Hàn quốc: Lý thừa Vãn đổ rồi, đảo chánh hoài. Như thế thì làm được cái gì. Ông Diêm bị đảo chánh rồi, tôi cáo từ ra về, người Mỹ nói, nếu có thể, tôi nên góp ý kiến với chế độ mới. tôi nói, nhưng không nên đảo chánh nữa. Người Mỹ không nói lại gì hết.
Tôi đoán trước những gì sẽ xảy ra. Nếu không vì thành lập Giáo hội Phật giáo Việt nam (GHPGVN), tôi đã “công thành thân thoái” rồi. GHPGVN sẽ thành lập, là vì phải thành lập nhưng đối nội đối ngoại sẽ đầy những sự khó vui. Dầu vậy, vẫn phải thành lập, thay thế Tổng hội Phật giáo Việt nam hết nhiệm vụ rồi.
Dự thảo Hiến chương cho GHPGVN, tôi viết lời mở đầu, “Công bố lý tưởng hòa bình, Phật giáo không đặt sự tồn tại của mình ngoài sự tồn tại của dân tộc”. GHPGVN được cầm đầu bởi chức vụ Tăng thống, tước hiệu có từ thời đại Đinh Lê. Tăng thống tương đồng với Tăng cang, tước hiệu vua Minh mạng đã đổi ra. GHPGVN gồm 2 viện: Tăng thống và Hóa đạo, lãnh đạo tất cả tăng ni và tín đồ của Pg VN. Khi chính thức thành lập, tôi tìm cách giữ chức vụ Chánh thư ký viện Tăng thống, là thật sự muốn ẩn mình, hy vọng tiếp tục dịch giải kinh sách vốn là chí hướng đích thực của tôi.
18/ 1
Nhưng rồi tôi chữa lửa mà bị cho là đốt nhà. Bao nhiêu chuyện xảy ra, ở Huế cũng như ở Saigon, do các ông Tướng ai cũng thấy mình có thể làm nên chuyện. Quần chúng Pg bị cuốn hút vì cái tính “giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha”, nên bị lợi dụng có khi thật phiền. Sau hết, có ông tướng nghĩ mình dẹp “loạn” được thì được vượt trội trong quyền chức. Không ngờ công thành tội, bị buộc phải khuất thân đối với kẻ thật ra là ăn nhờ.
Bằng cái Quốc hội Lập hiến, tôi mong quần chúng có cơ cấu sinh hoạt chính trị, Pg có thể rút mình ra. Nhưng việc nầy là “ họa hổ bất thành phản loại cẩu”!
18/2
Trong khuôn khổ của sự “dẹp loạn” để làm cho Quốc hội lập hiến “hổ biến thành cẩu”, có 1 màn có thể nói là khó nói. Một đoàn chiến xa va thiết giáp khá hùng hậu, được điều động từ Quảng trị vào Huế. Khi sắp qua cầu An hòa, viên sĩ quan chỉ huy ra lịnh ngừng lại để anh đi thám sát đã. Anh đến chùa của khuôn hội Pg Phú thạnh, miệng hét tay làm, hối thúc Phật tử khuôn hội, có anh phụ lực, khiêng bàn Phật ra giữa đường, lại hối thúc tư gia Phật tử làm theo. Viên sĩ quan quay lại, báo cáo đường bị cản trở. Rồi đợi lịnh. Nhưng bàn Phật được đưa ra càng nhiều. Khuôn hội Phú thạnh đã chạy vào Diệu đế thông báo cho tôi và hỏi ý kiến. Tôi hỏi Ông Thiện siêu đang có mặt. Ông nói, “thụ động chứ biết làm sao”. Thực tế tôi cũng không thể bảo ngưng được nữa. Bàn Phật đã có sâutrong thành phố rồi. Chưa bao giờ, mà bây giờ, tôi phải xúc phạm sự tôn nghiêm đến mức nầy!
Thế nhưng chưa hết. Đêm đó, trung tâm thành phố sáng lên, lung linh, huy hoàng,với quá nhiều bàn thờ Phật. Đêm sau càng là như vậy. Trung tâm thành phố bãi công bãi thị 100%. Trong khung cảnh nầy, tôi được cấp báo có 1 Phật tử tự thiêu. Phật tử nầy là Nguyễn thị Vân, pháp danh Không gian, đệ tử ngài Tăng cang Quithiện, thuộc thiền phái gốc: Thiền phái Long trì. Vân 18 tuổi, học sinh năm thứ haicủa bán phần Tú tài, trường Bồ đề Thành nội. Nhà ở cửa Thượng tứ, đối diện nhà Bs Quyến. Vân là thành viên GĐPT Thành nội, từ Anh vũ mà học và thi lên đến đoàn phó, rồi đoàn trưởng năm 14 tuổi. Đã mặc áo dài, nhưng màu trắng cũng như màu lam đều không chịu may eo. Thông minh, xuất sắc, ít nói, nhưng rất dễ mến. Việc tự thiêu hoàn toàn do Vân lặng lẽ tự sắp đặt, với nhiều lắm là 3 lít xăng, thực hiện tại chùa khuôn hội Pg Thành nội, lúc 4 giờ sáng. Khi ánh lửa bùng lên, người trong chùa có cả em trai của Vân là Lam sơn, mới biết có người tự thiêu, nhưng chưa rõ là ai, chỉ thấy một người ngồi trang nghiêm, chấp tay trong lửa. Lửa hạ mới biết là Vân, do thư để lại. Nhưng non 3 lít xăng không giúp Vân giải thoát hình hài. Vân bỏng mắt nhưng vẫn tỉnh, vẫn niệm Phật, không rên kêu gì, và được đưa ngay qua bịnh viện Trung ương. Chính Bs Quyến chăm sóc cho Vân, với sự góp sức của cácgiáo sư Y khoa người ngoại quốc.
Vân vẫn tỉnh, vẫn nói được dầu khó khăn. BsQuyến khóc, các giáo sư ngoại quốc cũng khóc. Y khoa hết khả năng trong trườnghợp này. Vân muốn gặp tôi. Tôi quá nhiều việc, Ông Mật nguyện tình nguyện đóng vai tôi. Nhưng Vân nói gì thì không thể nghe được. Chung quanh Vân, ngoài Bs Quyến, Ông Mật nguyện, bấy giờ đã có em trai Lam sơn, có chị cả, có cha. Ai cũng ngậm nước mắt, nhỏ tiếng niệm Phật cho Vân, theo tiếng của Ông Mật Nguyện và Bs Quyến. Đến 7 giờ 30, Vân về với Phật. Linh cửu được quàn tại Diệu đế. Thiếu tá Sãnh xông vào, cướp linh cữu của Vân, đem vùi tại chùa Viên thông. Sau nầy, Pg và gia đình Vân cải táng, đem về chùa Qui thiện, nằm chung với tiên nhân. Nỗi ân hận về bàn thờ Phật, cùng nỗi thán phục Vân, cho đến nay, không nguôi trong tôi.
19/ 1
Tôi bị bắt từ Huế đem vào Saigon, giam tại 1 bịnh viện tư, sau khi họ bàn với nhau gần nửa ngày. Tại đây, tôi tự ý tuyệt thực 100 ngày, tiếp theo thì gian đã làm 2 ngàyở Huế. Tôi tuyệt thực rất nghiêm túc. Trước hết tâm tư thanh thản và thanh lương, xả bỏ tất cả. Kế đến chỉ uống nước trong, sau vì nhức đầu và nướu răng quá, phải dùng 2 muỗng canh mỗi ngày nước thuốc dextrose. Hòa thượng Trí thủ sắc nước lúa lâu năm cho tôi 1 chén vài hớp, uống vào đi đại ra máu liền. Họ lịnh cho bác sĩ quản đốc bịnh viện, và 1 bác sĩ nữa nay vẫn còn sống, phải bị trừng trị nếu để tôi chết. Tôi nghe 2 bác sĩ ấy nói mà không nghĩ ngợi gì, dầu thừa biết tại sao. Tôi nghe đọc Tây du. Đọc bản dịch người Nam nghe vui, về văn. Viết được 2 tiểu phẩm , 1, bình luận
Tây du theo Duy thức học của chính người gọi là “ông Tam tạng”; 2, khái luận về khởi tính luận, viết nghiêm chỉnh, dầu lúc đó đâu có tài liệu, nhưng ký ức tôi lại khởisắc lên. Tôi vẫn trì niệm hồng danh đức bổn tôn A di đà, đúng thời khóa mà thêm lên nhiều hơn. Có lúc ngẫm nghĩ về việc thánh Cam địa áp dụng phương pháp tuyệt thực và bất bạo động. Đến ngày 70 thì thị lực kém sút khá nặng, 10 ngày sau đó nữa thì phải ngưng hẳn nghĩ và viết, bỏ dở tiểu phẩm “Bài học từ văn Cảnh sách” mà tôi rất vui về dự thảo trong trí. Gần đủ 100 trăm ngày thì nhức mỏi, nhất là 2 cổ tay, đánh khá mạnh bằng dùi chuông gia trì lớn vẫn không đã.
Cả 2 bác sĩ hội chẩn, thấy tim mạch tôi đáng ngại, nói có lẽ họ phải làm nghĩa vụ thầy thuốc. Có vẻ họ nghĩ tôi cũng mong như vậy. Rất mệt, nhưng tôi điềm đạm và nói rõ, “Xin các ông đừng chộn rộn. Các ông không làm được gì tôi đâu. Xin các ông nghe rõ: tôi không muốn chộn rộn”. Cả ngày 98 ấy tôi mệt kỳ lạ, rã rời nhưng cảm thấy vui tuyệt diệu nếu đi khỏi cuộc đời trong cái vui nầy. Thế nhưng ngày 99, rồi ngày 100, đột nhiên khỏe khoắn.
Và tôi chấm dứt vào 0 giờ ngày 101, mừng vì thiện nguyện thành tựu. Từ đầu hôm đến giờ nầy, ngồi với tôi là Trung hậu, và 2 phật tử bị bắt đi theo từ ngoài Huế; lại có các thầy Nhật lệ và Đức trạm (vài tối tụng tán cho tôi nghe 1 thời kinh); có các chú ở Ấn quang mà tích cực nhất đối với việc tôi làm. Tôi khởi sự ăn lại bằng nửa miếng format, vì thấy muốn ăn muối. Buổi sáng ngày đó, các hòa thượng Trí thủ, Thiện hoa, và Huyền quang cùng ngồi với tôi. Hòa thượng Trí thủ nói, bây giờ thì cho thầy biết, người ta không muốn thầy sống lâu, vậy thầy chết là dại. Thôi, thiên long hộ pháp thật thần kỳ, vậy tốt rồi.
Hòa thượng Trí thủ nói đúng, Thầy Thiện minh bị ám sát (mà thoát chết). Còn tôi, người ta ra lệnh không để tôi chết lúc tuyệt thực, chỉ vì nhu cầu của họ lúc đó.Nhưng thực sự có 3 bên không muốn tôi sống. Họ muốn Pg không còn là mối bận tâm cho họ nữa. Việc đi Ý hay đi Nhật, là mưu đồ đi đày, không hơn không kém. Đặc biệt nên nói vài việc trong khi tôi tuyệt thực. Thứ nhất, 1 nữ giáo sư Luật, trẻ, người Âu, dạy viện trợ cho đại học đường Luật Ấn độ, nói với các vị thần linh Hymã lạp sơn bảo cô đến làm phép và săn sóc tôi. Nói việc nầy để thấy âm mưu rất tồi cũng được dùng đến.
Thứ hai, một ngày khác, 9 giờ sáng, 1 chiếc xe ngoại giao đoàn của Ý, đến “mời thầy lên xe, chúng tôi đưa thẳng lên phi trường đến nước chúng tôi”. Tôi nói tôi có ý đi tị nạn hay lưu vong gì đâu. Họ nghĩ ngợi khá lâu, rồi nhúnvai, chào tôi rất lịch thiệp, và ra về. Thứ ba, một đại biểu quốc hội Nhật gốc là 1 nhà sư, gặp tôi, nói thủ tướng nước ông nhờ ông hỏi tôi có ý định viếng thăm nước Nhật, hơn nữa, có ý định lưu trú ở đó bằng 1 ngôi chùa đủ tiện nghi, khuôn viên 3000 mét vuông, và 1 số tiền mặt, 1 triệu Mỹ kim, hay không? Nếu thầy có ý định đến Nhật như vậy thì thủ tướng tôi sẽ mời, và là khách của ông. Ông sẽ chiếu liệu tất cả. Người thông dịch cho tôi, cuộc tiếp xúc nầy là hòa thượng Mãn giác. Tôi nói tôi không biết gì, không có ý định gì cả.
Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi “không vẫn hoàn không”, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có nên phải viết và phải in, mà thôi. “Không vẫn hoàn không” là Phật cho, tôi mới được như vậy.
24-4-2555 (2011)
Trí Quang
No comments:
Post a Comment