IỚI THIỆU SÁCH MỚI
HƯƠNG CAU-PARIS XUẤT BẢN
Biên tập của Võ Đừc Trung
Biên tập của Võ Đừc Trung
Đây là tác phẩm thứ 22 của nhà xuất bản Hương Cau-Paris (Pháp quốc)
Địa chỉ: Allée des Peupliers - 59320 Hallenes Lez Hambourdin (France)
Giá 14 Euro kể cước phí
TƯỞNG NĂNG TIẾN * MỘT ÔNG HỒ NHỎ
Một Ông Hồ Nhỏ
Wed, 05/15/2013 - 10:17 — tuongnangtien
Người Con Ưu Tú Của Đất Phò Ninh – Ủy Viên Trung Ương Hồ Xuân Mãn
(rõ ràng) chỉ “học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ
Chí Minh” và đã trở thành một bác Hồ nho nhỏ – thế thôi. Chế độ
hiện hành được hình thành, bảo vệ và tô điểm bởi vô số những ông Hồ
tương tự. Kích thước, tuổi tác của họ tuy có khác nhưng bản chất thì
không.
T.N.T
Hai câu chuyện nhỏ kể sau, dù tôi được đọc đã khá lâu nhưng lần nào xem lại cũng thấy lòng (thoáng) có chút gì ái ngại:
Khoảng cuối 1970, nhà văn Nguyễn Khải có dịp cùng với Tô Hoài
qua New Delhi, dự hội nghị nhà văn Á Phi, trước và sau đó đều có ghé qua
Moskva. Trong câu chuyện kể lại với chúng tôi ở Văn nghệ Quân đội,
Nguyễn Khải dành cho Tô Hoài một vai khá đẹp:
- Đến New Delhi, ông ấy cũng chỉ có bộ vét-tông tài chính cũ kỹ.
Ấy thế nhưng tây nó lại thích, có mấy tay nhà văn Ấn Độ nổi tiếng, sách
toàn được nhà Gallimard ở Pháp cho in mà trông cũng xuềnh xoàng như lão
bán vải.
- Đi họp thời nay thể nào cũng phải có chuyện đấu đá một chút.
Được cái Tô Hoài nói khôn lắm. Trước lúc thông qua cái văn kiện, ông ấy
chỉ vừa cười vừa bảo với mấy tay Nga: “Làm thế nào để tôi có thể đi nữa
thì làm”. Thế là tự họ thu xếp với nhau, khiến cho sứ quán mình cũng
nghe được.
(Vương Trí Nhàn. Cây Bút, Ðời Người: Tô Hoài và Những Nghiêm Chỉnh Của Kiếp Phù Du. Sài Gòn: Phương Nam, 2002).
Khoảng năm 1982, Xuân Diệu vừa đi Pháp về, đang nói chuyện trên phòng họp, thì ở nhà ngang, Nguyễn Tuân rỉ tai tôi :
- Đang nói rằng chuyến đi thành công lắm, có nói thế bận sau người ta mới cho đi nữa! (sđd, tr. 321 -322).
“Người ta” quả là có khó khăn trong việc đi/lại của toàn dân, kể
cả những cán bộ văn nghệ cao cấp như Tô Hoài, hay “danh nhân văn hoá”
– cỡ như Xuân Diệu. Thảo nào, trong dân gian thường (nghe) có tiếng
than van và giễu cợt:
Trăm năm trong cõi người ta
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Ðào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Ðen đủi như An - Go -La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào…
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Ðào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Ðen đủi như An - Go -La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào…
Mãi cho đến “thời kỳ hội nhập” thì chuyện vào/ ra (ở nước ta)
mới trở nên thông thoáng hơn thấy rõ, nếu so với Bắc Hàn! Bởi vậy,
hễ ai có dịp “đi ra” là y như rằng khi “đi vào” thế nào cũng có
chuyện làm quà – dù thường chỉ là chuyện nhạt.
Riêng câu chuyện sau đây, của ông Nghiêm Tiến Quang – giám đốc công ty in báo Hà Nội – lại hơi bị mặn (chắc) tại thêm thắt và mắm muối quá tay:
Tại chợ người Việt ở thủ đô Berlin (Đức), tôi gặp một ông mua
một lúc 5 tờ ANTG. Tôi bắt tay ông hỏi: “Sao bác mua nhiều thế?”. Ông
cười: “Tôi mua hộ mấy ông bạn cùng làm ở chỗ tôi”. Tôi hỏi tiếp: “Ở Đức
có nhiều người đọc ANTG không?”. Ông gật đầu: “Nhiều đấy. Đọc xong lại
cho mượn, rồi chẳng thấy ai trả lại. Bởi báo có nhiều bài cần đọc”.
Nếu đang rảnh tưởng cũng nên đọc chơi một bài (“Người Con Ưu Tú Của Đất Phò Ninh”) của báo An Ninh Thế Giới – số ra ngày 02 tháng 2 năm 2013 – cho nó mở mang đầu óc:
Đêm 9/9/1966, có một chàng trai chưa tròn 16 tuổi, từ biệt cha
mẹ, ông nội và làng Phò Ninh, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên để cùng những người bạn đồng liêu là các anh Hoàng Xê, Hồ A… tìm
đường lên chiến khu tham gia kháng chiến, gia nhập vào Đại đội An ninh
vũ trang đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên. Trong những năm tháng chiến tranh
tàn khốc trên mặt trận Thừa Thiên, anh đã cùng với những đồng đội của
mình tổ chức nhiều trận đánh ‘xuất quỷ nhập thần’ làm cho quân lực Hoa Kỳ và binh sĩ quân đội Sài Gòn nhiều phen kinh hồn, bạt vía…
Kẻ thù từng xem anh là “tên an ninh Việt Cộng đặc biệt nguy hiểm”
và đã nhiều lần đưa ảnh chân dung của anh lên mục cáo thị để treo giá
trọng thưởng bằng tiền cho bất cứ ai bắt sống hoặc tiêu diệt được anh
(Theo hồ sơ của Cảnh sát đặc biệt chế độ Sài Gòn để lại - NV).
Chàng trai lớn lên từ đất làng Phò Ninh ấy tên là Hồ Xuân Mãn -
một người đã đi qua chiến tranh với 33 lần được phong dũng sĩ, 3 Huân
chương Chiến công hạng Ba, 3 Huân chương Giải phóng các hạng và 1 Huân
chương Quyết thắng, 3 huy hiệu Chiến sĩ thi đua, nhiều bằng khen và cả
giấy chứng nhận danh hiệu "Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường".
Sau này, trong công cuộc dựng xây quê hương, đất nước, ông là Ủy
viên Trung ương Đảng, 2 nhiệm kỳ liên tiếp giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy
tỉnh Thừa Thiên Huế và vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trao tặng danh hiệu AHLLVTND cho ông Hồ Xuân Mãn. Ảnh:antg.cand.com
“Người Con Ưu Tú Của Đất Phò Ninh” còn đang loay hoay chưa tìm ra
được một chỗ (đắc ý) để chưng danh hiệu anh hùng thì đã có chuyện
đáng tiếc xẩy ra – theo như tin loan của báo Dân Trí, đọc được và ngày 4 tháng 3 năm 2013:
17 cựu chiến binh, cán bộ hưu trí đã làm đơn tố cáo hành vi khai
báo gian dối, bịa đặt, cướp công đồng đội trong bản thành tích cá nhân
của của ông Hồ Xuân Mãn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh TT-Huế, nguyên Ủy
viên Trung ương Đảng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân...
Mọi người cho biết, hồ sơ của
ông Mãn đi trái nguyên tắc là từ trên xuống chứ không phải dưới lên (cơ
sở đề nghị, cấp trên xét duyệt). “Cấp trên đưa hồ sơ xuống, chúng tôi là
những cán bộ, đồng đội của ông Mãn mà chỉ việc ký chứ không được đọc,
không được lưu. Lúc đó ông Mãn là Bí thư Tỉnh ủy thì muốn làm gì chả
được. Khi làm lễ đón nhận danh hiệu thì lén lút chứ không như những buổi
lễ long trọng của những người khác được phong tặng anh hùng. Anh hùng
như ông Mãn làm gì cho đau, cho nhục khi bị lên án, không dám về quê,
không dám gặp đồng chí đồng đội và người dân địa phương”, những người
khiếu nại bức xúc.
Nói nào ngay: đây không phải là lần đầu tiên ông Hồ Xuân Mãn đã khiến “đồng chí đồng đội và người dân địa phương bức xúc.” Trước đó, “Người Con Ưu Tú Của Đất Phò Ninh” cũng đã từng làm cho nhiều người “chết lặng” – theo tin loan của báo Lao Động, số ra ngày 26 tháng 11 năm 2005:
Chuyện là một bữa trưa đẹp trời, "quan" lớn cùng một số "quan"
nhỏ vào ăn trưa ở một nhà hàng ở ven đô. Một nữ tiếp viên trẻ, mới đến
làm việc của nhà hàng, như lệ thường, đến đon đả mở bia, tiếp đá cho các
"quan". Và (có lẽ cũng như thường lệ), "quan" lớn nhất đã không cầm
lòng trước nhan sắc của cô tiếp viên chỉ đáng tuổi con mình nên đã...
ghì đầu cô ta lại rồi hôn đánh chụt một cái vào má, trước sự chứng kiến
của quan khách có mặt trong nhà hàng hôm đó! Quá bất ngờ và cảm thấy
nhục nhã bởi hành vi của vị "quan" đáng kính mà lâu nay cô chỉ thỉnh
thoảng được thấy mặt và nghe nói toàn lời hay, ý đẹp trên ti-vi, cô tiếp
viên đã đáp trả ngay lập tức bằng một cái tát như trời giáng vào mặt
"quan"! Cát tát làm cả nhà hàng "chết lặng…
Về sự kiện này, blogger Haihien đã có lời bàn rằng “... mình đoán nếu Cụ Hồ còn sống, chắc Cụ sẽ cho ông bí thư này vài cái tát nữa.”
Suy đoán như vậy (sợ) hơi chủ quan và (e) cũng rất xa với sự thực. Sự
thực, nếu còn sống (không chừng) Cụ Hồ sẽ cho ông bí thư này vài tràng
pháo tay – chứ không phải là vài cái tát.
Đồng bệnh tương lân mà, cha nội!
Cách hành xử của ông Hồ Xuân Mãn có rất nhiều nét giống (hao
hao) như ông Hồ Chí Minh. Nói cách khác, hơi cường điệu chút xíu, ông
Mãn có thể xem như là hình ảnh của ông Hồ thu nhỏ.
Coi:
Ông Mãn bị đồng chí và đồng đội tố cáo là có “hành vi khai báo gian dối, bịa đặt, cướp công đồng đội trong bản thành tích cá nhân.” Đồng bào của Hồ Chí Minh cũng đã có người đã bầy tỏ sự quan ngại tương tự:
“Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc
sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, đều có chủ đích rõ
ràng. Và ông không hề ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của ông. Trong phạm vi khảo luận này ... chỉ
chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian
này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên
Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh” (Thụy Khuê. Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2012).
Ông Lê Sáu,
nguyên bí thư Huyện ủy Phong Điền, cho biết chi tiết về một trong
những những thành tích “xuất qủi nhập thần của ông Hồ Xuân Mãn” như
sau:
Một trận đánh của Mãn, trận khử Hoàng Sớm, Mãn nắm chắc Hoàng
Sớm đi ăn kỵ, kế hoạch trận đánh thật hoàn hảo...không lẽ người con "ưu
tú" ấy không nhận biết bà con mình đang ăn kỵ? Trước khi bóp cò súng,
Mãn có phân biệt ai là địch, ai là ta? Mãn bắn bừa vào mâm kỵ trong đó
có ông nội của Mãn? Mãn là người cháu "ưu tú" ư? Mãn đã "giết nhầm hơn bỏ sót"
để khử 01 tên ác ôn mà 9 người dân phải chết, 8 dân lành bị thương...
Vì cái danh hảo "anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" Mãn đang xới xáo
nổi đau đã chôn khuất sau 40 năm của những người bà con của Mãn, họ vô
tội, họ là chiến sĩ, đồng bào, hằng năm đến ngày kỵ năm xưa ấy trong
thôn Phò Ninh có thêm 10 cái kỵ...
Với đường lối xuyên suốt là “thà giết lầm còn hơn bỏ sót” thì
để trừ khử một viên trưởng ấp mà có thêm 17 thường dân vừa chết vừa
bị thương, kể ra, cũng vẫn đáng được tuyên dương. Trong Cải Cách
Ruộng Đất, con số những kẻ thương vong nhiều hơn cả chục ngàn lần.
Tuy thế, Hồ Chủ Tịch cũng vẫn coi đây như là thành tích:
“Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí
nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung
nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông,
đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ.”
Và điều mà các đồng đội của ông Hồ Xuân Mãn than phiền nhiều nhất là ông Mãn viết báo tự xưng tụng mình, hay “hồ sơ của ông Mãn đi trái nguyên tắc là từ trên xuống chứ không phải dưới lên.”
Hồ sơ của ông Hồ Chí Minh cũng vậy, cũng chính ổng tự làm ra và
“đưa từ trên xuống” chớ đâu. Bác tự viết tiểu sử rồi bắt cả nước học
tập và xưng tụng còn được thì nhằm nhò gì cái chuyện lẻ tẻ – như bài
tạp bút của ông Hồ Xuân Mãn (“Nhớ Đêm Về Xóm Bồ”) trên tạp chí Sông Hương.
Tương tự, cái tát của cô tiếp viên nhà hàng – hồi năm 2005 – mới
chỉ làm thực khách của một quán ăn “chết lặng” chứ còn cái xác của bà Nông Thị Xuân (nằm trước Phủ Chủ Tịch, vào sáng hôm 12 tháng 2 năm 1957) bộ không làm cho cả nước sững sờ sao?
Dù vậy, theo ghi nhận của Wikipedia:
“Tại Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một ‘tấm gương sáng ngời về đạo đức’, một ‘nhân cách cao thượng’, được coi là một ‘thần tượng.’ Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ông. Các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tuyên truyền,
vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học
tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh.”
Người Con Ưu Tú Của Đất Phò Ninh – Ủy Viên Trung Ương Hồ Xuân Mãn
(rõ ràng) chỉ “học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ
Chí Minh” và đã trở thành ông Hồ nho nhỏ – thế thôi. Chế độ hiện
hành được hình thành, bảo vệ và tô điểm bởi vô số những ông Hồ tương
tự. Kích thước, tuổi tác của họ tuy có khác nhưng bản chất thì không.
BÙI TÍN * TRẦN HUY QUANG
Vài nét chấm phá, một chân dung
CỠ CHỮ
15.05.2013
Nhớ lại ngày xưa ở trong nước, cứ đến tháng 5 sau ngày lễ Lao động 1/5, sau ngày lễ Chiến thắng phát xít 8/5/1945 là đến ngày 19/5 lễ sinh nhật ông Hồ Chí Minh, một ngày kỷ niệm rất ồn ào, náo động.
Báo đài ra rả kể lể chuyện xưa, chuyện nay về «Cụ Hồ», về «Bác Hồ», về «Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại», họp chi bộ, họp chi đoàn, họp khu phố, kể đi kể lại cho nhau nghe những mẩu chuyện được coi là hay ho nhất, xúc động nhất về tài năng xuất chúng, về đạo đức tận cùng nhân bản của «Bác».
Đến nay với đà suy thoái thê thảm của đảng Cộng sản, hình ảnh «Cụ Hồ» trong trí não của ngay các nhà lãnh đạo cao nhất của đảng Cộng sản cũng đã mờ nhạt dần, thay thế bằng hình ảnh đồng đô la xanh và những lá vàng óng ánh do Ngân hàng Nhà nước vừa bán ra ồ ạt, kiếm lời hơn 2 ngàn tỷ đồng để chia nhau.
Với nhân dân, qua «đổi mới», «mở cửa», qua thời đại « công dân mạng», đồng bào ta đã điều chỉnh rất nhiều hình ảnh của «Ông Hồ», «Bác Hồ», «Cụ Hồ» trong nhận thức của mình, để gần với sự thật hơn, vượt qua những tung hô, thêu dệt, cường điệu của bộ máy loa phường mà bà con gọi vui là «loa mẹ Đốp» ra rả từ mờ sáng thời xưa.
Bởi vì việc đánh giá cho thật chuẩn xác nhân vật then chốt này của lịch sử cận đại Việt Nam có ý nghĩa quyết định đối với hiện tại và tương lai nước ta đang cựa mình, nhằm rũ bỏ những gì là sai đường lạc lối, u mê mụ mị của quá khứ để vươn lên phía trước.
Một loạt ấn phẩm quốc tế đã có vai trò điều chỉnh và tác dụng thức tỉnh. Đó là cuốn sách đồ sộ của nhà sử học Mỹ William J. Duiker có nhan đề Hồ Chí Minh, a Life (Hồ Chí Minh - một cuộc đời)dày hơn 700 trang; đó là những cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp của Gabriel Kolko, Sophie Quinn-Judge, Pierre Brocheux, hay của tác giả Trung Quốc như Hoàng Tranh…
Ở trong nước, có một người với một bài viết bằng tiếng Việt rất ngắn gọn và công phu, chưa đến 2 ngàn từ, gói gọn trong 2 trang nhỏ mà khắc họa được cả cuộc đời và sự nghiệp của ông Hồ, kín đáo mà rõ ràng, không nêu tên mà ai nấy đều vỡ lẽ, ám chỉ mà không lẫn vào đâu, ẩn dụ mà sống động, như một họa sỹ thiên tài, vung tay đưa vài nét cọ chấm phá mà phác họa được nhân vật với tất cả thần sắc hiển hiện.
Đó là nhà văn Trần Huy Quang, biên tập viên chuyên nghiệp của tuần báo Văn Nghệ, tác giả truyện ngắn «Linh Nghiệm» trên số báo ngày 4 tháng 7 năm 1992.
Chữ mở đầu bài báo là tên một con người, cũng là chủ đề bao trùm của toàn bài. Rất kín, khó đoán lúc đầu, mà lại rất hở, khi đã vén màn bí mật lên. Đó là chữ «H», rồi 3 chấm, rồi «inh». Như thế này: «H… inh là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân không nghèo mà cũng chẳng giàu có gì lắm». Vì kín, nên bài báo lọt qua được 5 lớp duyệt của phó phòng văn nghệ, trưởng phòng văn nghệ, phó tổng biên tập thường trực, trưởng phòng thư ký tòa soạn, rồi họa sỹ trình bày minh họa báo và một loạt cán bộ cùng 2 công nhân nhà in. Xin nhớ vào thời vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, công nhân xếp chữ của nhà in cũng được huy động để cảnh giác, canh gác nghiêm mật cho đảng, để không cho lọt lưới những «bài báo xấu chống đảng».
Vì «H… inh» chính là tên Hồ Chí Minh cô lại một cách kín đáo, bất ngờ, thú vị. Và Hồ Chí Minh chẳng sinh ra ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An, là con thứ 3, có anh là Nguyễn Tất Khiêm và chị là Nguyễn Thị Thanh là gì?
«Cha anh ta có đỗ đạt, từng làm quan nhưng tính khí thất thường, đã bỏ quan, khi đi dạy học, khi ngồi bốc thuốc», rõ ràng là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, từng là tri huyện Bình Khê, rồi bị giáng chức, về nhà gõ đầu trẻ và bốc thuốc Bắc, chứ chẳng còn ai khác.
«Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất vùng chôn rau cắt rốn tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt», khắc họa đúng phóc về «Cụ Hồ», một người chủ trương «lạt mềm buộc chặt», được tình báo đệ tam Quốc tế Cộng sản đào luyện, biết khóc, cười đúng lúc…
«Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngọại», thì đó chính là tâm lý anh thanh niên Nguyễn Tất Thành chỉ mới học hết tiểu học đã muốn rời nước đi xa.
Rồi anh thanh niên ấy nuôi một cuồng vọng mơ hồ thần bí muốn «tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiên, hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh», và rồi «lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải được quỳ gối dưới chân bậc Chí Thành», được «Linh nghiệm». Anh được lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí Linh. Để được nhận tấm Đạo thư. Đó là ám chỉ sự kiện một đêm anh thanh niên Nguyễn Tất Thành vớ được luận cượn ng Cộng sản của đấng Chí Linh – Lenin - rồi la toáng lên rằng ánh sáng đây rồi, chân lý đây rồi, và Đạo thư chính là nói về cái chủ nghĩa Mác - Lê đầy mê hoặc một thời.
Thế rồi anh thanh niên đi về phương Nam, mang theo cẩm nang đi tìm của quý trong vườn hoa mang tên Mùa Xuân, thu hút quanh mình đông đảo đồng bào. Anh bí hiểm lập lờ, thầm thì với mọi người tò mò hý hửng theo anh: «đi tìm cái này», cứ thế thu hút quần chúng nghèo khổ đủ loại vô sản rồng rắn đi theo, với hy vọng mơ hồ «cái này» sẽ đổi đời cho họ, sẽ có một chút no ấm», cứ thế, sáng, trưa rồi chiều, tối, và đến nay hơn nửa thế kỷ, vẫn còn đám đông xúm xít trong vườn hoa mang tên Mùa Xuân.
Bài viết chấm hết. Gọn gàng, sâu sắc, lại hóm hỉnh, chua chát, cũng lại tinh tế nữa. Một chân dung chấm phá mà hoàn hảo.
Thì các nhà lý luận Cộng sản chẳng luôn mồm nói chủ nghĩa Cộng sản là Mùa Xuân Nhân Loại là gì, rằng chủ nghĩa Cộng sản là Thiên đường dưới trần thế là gì!
Tháng 5 năm nay khi trong nước vẫn còn phát động học theo đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh, việc các bạn trẻ tìm đọc lại bài «Linh Nghiệm» trên đây là một việc làm rất lý thú, lại bổ ích. Các bạn cứ bấm google Trần Huy Quang hay «Linh Nghiệm» sẽ đọc được toàn bài.
Tôi nhớ khi bài «Linh Nghiệm» xuất hiện, sau 3 ngày cả Ban Tuyên giáo Trung ương đảng giật mình, Bộ Chính trị nổi giận, ông Đào Duy Tùng nguyên là trùm tư tưởng, lúc ấy là uỷ viên thường trực Ban Bí thư, nổi cơn tam bành. Tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ là Hữu Thỉnh vừa thay Nguyên Ngọc tuy đi vắng cũng bị khiển trách. Lệnh thu hồi triệt để số báo không thực hiện nổi vì ai cũng lưu giữ thành của quý.
Riêng Trần Huy Quang bị kỷ luật treo bút 3 năm. Năm anh bị nạn là năm «hạn», 49 tuổi, sau đó không báo lề phải nào dám đăng bài của anh, cho đến khi anh phải về hưu sớm năm 1996. Năm nay anh vừa tròn 70 tuổi. Anh là nhà văn có tâm, lại có tài, nhưng trên hết là tấm lòng với dân tộc, với kẻ nghèo khổ. Anh nổi tiếng về bút ký «Lời khai của bị can» nói về thân phận của nhà kinh doanh làm ra lốp xe Nguyễn Văn Chẩn, còn có biệt danh là «Vua Lốp». Một nhà văn có tâm và có tầm không cần có tác phẩm hàng ngàn trang, cũng không cần phải có đến hàng chục tác phẩm để lại cho đời, vẫn để lại tiếng vang lớn trong xã hội, trong lòng bạn đọc.
Trần Huy Quang là thế. Một truyện ngắn 2 trang, chưa đến 2 ngàn từ, chấm phá nên chân dung một nhân vật lịch sử, với thái độ phê phán sâu sắc, không có từ nào thô kệch, lại ngay thật theo công tâm lương thiện.
«Linh Nghiệm» có thể là một mẫu mực về tả chân dung trong nền văn học và nền báo chí nước ta. Giữa không khí sùng bái cá nhân lãnh tụ mà viết phê phán kiểu ẩn dụ như thế, thật tuyệt !
Xin chúc nhà văn Trần Huy Quang tiếp tục phát huy sức sáng tạo khi vừa bước qua tuổi 70. Tình hình xã hội ta đang cần những cây bút tinh anh, sắc sảo, lại cô đọng, hóm hỉnh, khi cần thì kín đáo, dùng chiến thuật du kích tinh khôn, vượt qua các tầng lớp kiểm duyệt hiểm nghèo của một chế độ độc đoán toàn trị, mà vẫn phơi bày được cốt cách của nhân vật định mô tả.
Nhớ lại ngày xưa ở trong nước, cứ đến tháng 5 sau ngày lễ Lao động 1/5, sau ngày lễ Chiến thắng phát xít 8/5/1945 là đến ngày 19/5 lễ sinh nhật ông Hồ Chí Minh, một ngày kỷ niệm rất ồn ào, náo động.
Báo đài ra rả kể lể chuyện xưa, chuyện nay về «Cụ Hồ», về «Bác Hồ», về «Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại», họp chi bộ, họp chi đoàn, họp khu phố, kể đi kể lại cho nhau nghe những mẩu chuyện được coi là hay ho nhất, xúc động nhất về tài năng xuất chúng, về đạo đức tận cùng nhân bản của «Bác».
Đến nay với đà suy thoái thê thảm của đảng Cộng sản, hình ảnh «Cụ Hồ» trong trí não của ngay các nhà lãnh đạo cao nhất của đảng Cộng sản cũng đã mờ nhạt dần, thay thế bằng hình ảnh đồng đô la xanh và những lá vàng óng ánh do Ngân hàng Nhà nước vừa bán ra ồ ạt, kiếm lời hơn 2 ngàn tỷ đồng để chia nhau.
Với nhân dân, qua «đổi mới», «mở cửa», qua thời đại « công dân mạng», đồng bào ta đã điều chỉnh rất nhiều hình ảnh của «Ông Hồ», «Bác Hồ», «Cụ Hồ» trong nhận thức của mình, để gần với sự thật hơn, vượt qua những tung hô, thêu dệt, cường điệu của bộ máy loa phường mà bà con gọi vui là «loa mẹ Đốp» ra rả từ mờ sáng thời xưa.
Bởi vì việc đánh giá cho thật chuẩn xác nhân vật then chốt này của lịch sử cận đại Việt Nam có ý nghĩa quyết định đối với hiện tại và tương lai nước ta đang cựa mình, nhằm rũ bỏ những gì là sai đường lạc lối, u mê mụ mị của quá khứ để vươn lên phía trước.
Một loạt ấn phẩm quốc tế đã có vai trò điều chỉnh và tác dụng thức tỉnh. Đó là cuốn sách đồ sộ của nhà sử học Mỹ William J. Duiker có nhan đề Hồ Chí Minh, a Life (Hồ Chí Minh - một cuộc đời)dày hơn 700 trang; đó là những cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp của Gabriel Kolko, Sophie Quinn-Judge, Pierre Brocheux, hay của tác giả Trung Quốc như Hoàng Tranh…
Ở trong nước, có một người với một bài viết bằng tiếng Việt rất ngắn gọn và công phu, chưa đến 2 ngàn từ, gói gọn trong 2 trang nhỏ mà khắc họa được cả cuộc đời và sự nghiệp của ông Hồ, kín đáo mà rõ ràng, không nêu tên mà ai nấy đều vỡ lẽ, ám chỉ mà không lẫn vào đâu, ẩn dụ mà sống động, như một họa sỹ thiên tài, vung tay đưa vài nét cọ chấm phá mà phác họa được nhân vật với tất cả thần sắc hiển hiện.
Đó là nhà văn Trần Huy Quang, biên tập viên chuyên nghiệp của tuần báo Văn Nghệ, tác giả truyện ngắn «Linh Nghiệm» trên số báo ngày 4 tháng 7 năm 1992.
Chữ mở đầu bài báo là tên một con người, cũng là chủ đề bao trùm của toàn bài. Rất kín, khó đoán lúc đầu, mà lại rất hở, khi đã vén màn bí mật lên. Đó là chữ «H», rồi 3 chấm, rồi «inh». Như thế này: «H… inh là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân không nghèo mà cũng chẳng giàu có gì lắm». Vì kín, nên bài báo lọt qua được 5 lớp duyệt của phó phòng văn nghệ, trưởng phòng văn nghệ, phó tổng biên tập thường trực, trưởng phòng thư ký tòa soạn, rồi họa sỹ trình bày minh họa báo và một loạt cán bộ cùng 2 công nhân nhà in. Xin nhớ vào thời vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, công nhân xếp chữ của nhà in cũng được huy động để cảnh giác, canh gác nghiêm mật cho đảng, để không cho lọt lưới những «bài báo xấu chống đảng».
Vì «H… inh» chính là tên Hồ Chí Minh cô lại một cách kín đáo, bất ngờ, thú vị. Và Hồ Chí Minh chẳng sinh ra ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An, là con thứ 3, có anh là Nguyễn Tất Khiêm và chị là Nguyễn Thị Thanh là gì?
«Cha anh ta có đỗ đạt, từng làm quan nhưng tính khí thất thường, đã bỏ quan, khi đi dạy học, khi ngồi bốc thuốc», rõ ràng là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, từng là tri huyện Bình Khê, rồi bị giáng chức, về nhà gõ đầu trẻ và bốc thuốc Bắc, chứ chẳng còn ai khác.
«Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất vùng chôn rau cắt rốn tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt», khắc họa đúng phóc về «Cụ Hồ», một người chủ trương «lạt mềm buộc chặt», được tình báo đệ tam Quốc tế Cộng sản đào luyện, biết khóc, cười đúng lúc…
«Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngọại», thì đó chính là tâm lý anh thanh niên Nguyễn Tất Thành chỉ mới học hết tiểu học đã muốn rời nước đi xa.
Rồi anh thanh niên ấy nuôi một cuồng vọng mơ hồ thần bí muốn «tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiên, hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh», và rồi «lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải được quỳ gối dưới chân bậc Chí Thành», được «Linh nghiệm». Anh được lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí Linh. Để được nhận tấm Đạo thư. Đó là ám chỉ sự kiện một đêm anh thanh niên Nguyễn Tất Thành vớ được luận cượn ng Cộng sản của đấng Chí Linh – Lenin - rồi la toáng lên rằng ánh sáng đây rồi, chân lý đây rồi, và Đạo thư chính là nói về cái chủ nghĩa Mác - Lê đầy mê hoặc một thời.
Thế rồi anh thanh niên đi về phương Nam, mang theo cẩm nang đi tìm của quý trong vườn hoa mang tên Mùa Xuân, thu hút quanh mình đông đảo đồng bào. Anh bí hiểm lập lờ, thầm thì với mọi người tò mò hý hửng theo anh: «đi tìm cái này», cứ thế thu hút quần chúng nghèo khổ đủ loại vô sản rồng rắn đi theo, với hy vọng mơ hồ «cái này» sẽ đổi đời cho họ, sẽ có một chút no ấm», cứ thế, sáng, trưa rồi chiều, tối, và đến nay hơn nửa thế kỷ, vẫn còn đám đông xúm xít trong vườn hoa mang tên Mùa Xuân.
Bài viết chấm hết. Gọn gàng, sâu sắc, lại hóm hỉnh, chua chát, cũng lại tinh tế nữa. Một chân dung chấm phá mà hoàn hảo.
Thì các nhà lý luận Cộng sản chẳng luôn mồm nói chủ nghĩa Cộng sản là Mùa Xuân Nhân Loại là gì, rằng chủ nghĩa Cộng sản là Thiên đường dưới trần thế là gì!
Tháng 5 năm nay khi trong nước vẫn còn phát động học theo đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh, việc các bạn trẻ tìm đọc lại bài «Linh Nghiệm» trên đây là một việc làm rất lý thú, lại bổ ích. Các bạn cứ bấm google Trần Huy Quang hay «Linh Nghiệm» sẽ đọc được toàn bài.
Tôi nhớ khi bài «Linh Nghiệm» xuất hiện, sau 3 ngày cả Ban Tuyên giáo Trung ương đảng giật mình, Bộ Chính trị nổi giận, ông Đào Duy Tùng nguyên là trùm tư tưởng, lúc ấy là uỷ viên thường trực Ban Bí thư, nổi cơn tam bành. Tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ là Hữu Thỉnh vừa thay Nguyên Ngọc tuy đi vắng cũng bị khiển trách. Lệnh thu hồi triệt để số báo không thực hiện nổi vì ai cũng lưu giữ thành của quý.
Riêng Trần Huy Quang bị kỷ luật treo bút 3 năm. Năm anh bị nạn là năm «hạn», 49 tuổi, sau đó không báo lề phải nào dám đăng bài của anh, cho đến khi anh phải về hưu sớm năm 1996. Năm nay anh vừa tròn 70 tuổi. Anh là nhà văn có tâm, lại có tài, nhưng trên hết là tấm lòng với dân tộc, với kẻ nghèo khổ. Anh nổi tiếng về bút ký «Lời khai của bị can» nói về thân phận của nhà kinh doanh làm ra lốp xe Nguyễn Văn Chẩn, còn có biệt danh là «Vua Lốp». Một nhà văn có tâm và có tầm không cần có tác phẩm hàng ngàn trang, cũng không cần phải có đến hàng chục tác phẩm để lại cho đời, vẫn để lại tiếng vang lớn trong xã hội, trong lòng bạn đọc.
Trần Huy Quang là thế. Một truyện ngắn 2 trang, chưa đến 2 ngàn từ, chấm phá nên chân dung một nhân vật lịch sử, với thái độ phê phán sâu sắc, không có từ nào thô kệch, lại ngay thật theo công tâm lương thiện.
«Linh Nghiệm» có thể là một mẫu mực về tả chân dung trong nền văn học và nền báo chí nước ta. Giữa không khí sùng bái cá nhân lãnh tụ mà viết phê phán kiểu ẩn dụ như thế, thật tuyệt !
Xin chúc nhà văn Trần Huy Quang tiếp tục phát huy sức sáng tạo khi vừa bước qua tuổi 70. Tình hình xã hội ta đang cần những cây bút tinh anh, sắc sảo, lại cô đọng, hóm hỉnh, khi cần thì kín đáo, dùng chiến thuật du kích tinh khôn, vượt qua các tầng lớp kiểm duyệt hiểm nghèo của một chế độ độc đoán toàn trị, mà vẫn phơi bày được cốt cách của nhân vật định mô tả.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá
nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA
nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Bùi Tín
Nhà
báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một
nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài
VOA. Ðối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài
nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.
GOC CỦA PHAN * CHƠI VƠI
- Details
- Created on Saturday, 18 May 2013 22:35
- Category: Tạp Ghi
Hai giờ sáng, ông Lý thức giấc với cái điện thoại trong túi áo vì quên cắm xạc ngoài garage, (để khỏi nghe điện thoại khi đã đi nằm). Kinh nghiệm ấy ông Lý học được từ một người khả kính, bởi cắm xạc điện thoại ngoài garage nên không nghe ai gọi khi không muốn nghe... Những người khả kính thường tế nhị, và người tế nhị thì âm thầm học hỏi sự khả kính trong đời hôm nay.
Ông Lý lại thừa hưởng sự di truyền của gia đình là ít ngủ, ông nằm thao thức, cố ngủ lại vì đồng hồ trên tường mới hai giờ sáng. Sáng mai lại là ngày đầu tuần, công việc trong công ty chắc chắn là ngập mặt. Nhưng ngủ nghê gì nữa với cái đồng hồ sinh học trong người còn đúng hơn cả đồng hồ thời gian-đúng quá hóa phiền với thói hư tật xấu, hễ mở mắt ra là phải đốt điếu thuốc. Mà đốt xong điếu thuốc thì ngủ nghê gì nữa với đàn kiến bò trong xương bò ra... kiếm cà phê. Ông Lý đi pha cà phê.
Trời đã vào hè nhưng đêm còn khá lạnh, ông khoác thêm cái áo văn hóa vì vợ chẳng cho mặc ra đường bởi nó rách bươm, nhưng rất thoải mái khi viết lách vì mặc áo rách thường viết được chữ lành; văn chương áo thụng không hợp với ông, và sự hiểu nhau của vợ chồng đã bỏ đi chơi sau nhiều năm cãi nhau đến phát chán mà thầy bói gọi là khắc khẩu. Cái áo khoác đã nhiều lần bà Lý bỏ thùng rác vì coi kỳ quá khi khách đến nhà, bởi ông cứ máng trên lưng ghế ông thường ngồi, tênh hên trong trung tâm văn hóa của gia đình là cái thư phòng mà ông thường ngồi vần chuột còm, cũng là nơi mà bà Lý thường để mắt dọn dẹp cho khang trang, sạch sẽ
. Nhưng mỗi lần không thấy cái áo trên lưng ghế thì ông Lý lầm lũi ra thùng rác nhặt lại chiếc áo phong sương vì lý do riêng! Bà có nhằn ông gàn, dở hơi... ông làm lơ, rồi lải nhải áo cũ như vợ già, quen hơi thôi chứ ấm áp gì đâu! Gần đây, ông đọc được tài liệu khoa học nói về sự biến đổi tâm sinh lý của phụ nữ sau khi giã biệt kinh kỳ, nhưng không chó cắn như đàn ông ở tuổi nắng không ưa mưa không chịu mà trời mát thì lại thấy buồn... phiền. Dường như ông Lý dạo này thường suy tư về chủ nghĩa xét lại trong quan hệ vợ chồng sau nhiều năm cà khịa chống xâm lăng với vợ...
Giờ thì ông đã có thể ngồi đồng ngoài garage với chiếc áo tình thù rực nắng. Bốn mùa như gió, bốn mùa như mây của ông Trịnh ngoài cửa; trong nhà xe này chỉ có ông Lý với bóng mình, và cái bóng đèn vàng hiu hắt như người trăm năm. Cả ba đều đã sắp phế thải nên buồn như nhau. Ông Lý để cái điện thoại trước mặt nhưng không cầm lên vì còn mải mê với ly cà phê nóng và điếu thuốc đầu ngày. Từ ngày cái điện thoại chùa của ông Lý bị bệnh không xạc, mà không phải là chết cục pin, ông đành đi mua cái điện thoại sau bao nhiêu năm ông chỉ xài điện thoại free; mở đường line điện thoại là họ cho không cái điện thoại. Ông quan niệm: điện thoại là dùng để gọi hay nghe nên ông không dùng những loại điện thoại phải để trên bàn ăn trong nhà hàng; trên bàn họp, cho người ta lé mắt. Rồi khi có ai chửi cha mình, hay đòi nợ thì lại phải đi ra một góc không ai nghe để xin lỗi, khất nợ; người nô lệ da vàng đã đắng cay tới biệt xứ, ông nhất định không làm nô lệ tự giác cho những thứ hightech để làm gì?
Nhưng dù cái điện thoại mới mua của ông Lý đã rẻ nhất nơi bán thì nó cũng bắt được internet mới ghê. Bao nhiêu năm qua, những công ty mà ông làm việc cho họ đều có trả tiền internet trên điện thoại cho ông nhưng bởi cái điện thoại free nên có mua internet cũng không bắt được, chỉ có text được đã đủ xài nên ông Lý cũng chẳng quan tâm, bởi điện thoại tốt quá thì không còn lý do mất sóng! Và còn một cái hiện đại của cái điện thoại mới này là nó thuộc loại phone quẹt mới vui tay, muốn đâu quẹt đó là có hết. Ông Lý quẹt tới tổng đài chóng mặt thì thôi, xóa mất progam mấy lần vẫn không hư... Có hôm giận bạn, ông Lý đập cái phone tan tành xuống nền xi măng. Người bạn ông biết lỗi càm ràm không đúng lúc nên nhặt lên, ráp lại cho ông Lý, cái phone quẹt của ông Lý chỉ trầy xước chút đỉnh chứ không sao. Đặc biệt là từ đó nó ngoan hơn, không trục trặc kỹ thuật gì nữa.
Với ông, đồ điện tử bây giờ không dễ tử như xưa, chỉ tại ông dị ứng với những người thích khoe khoang nên ghét lây sản phẩm hightech... Nhưng từ hôm điện thoại của ông Lý có internet thì có email tới nay, nó có mặt lợi là có thể check được email bất cứ lúc nào, nơi đâu... nhưng lợi bất cập hại là phiền phức vô kể, những chuyện không liên can đến ông nhưng người gởi ra email quá hào phóng đã đưa địa chỉ email của ông vào nhóm địa chỉ điện thư mà họ tự cho phép họ; những người bận rộn trong cộng đồng thì ngày càng nhiều theo đà thất nghiệp ở Mỹ.
Nên cái phone của ông Lý đôi khi run lên như động kinh, ông Lý cứ coi như trong quần có vật không ổn nên thỉnh thoảng nó ồn, ông chả thèm xem. Ông chỉ đọc những cái text message khi có tín hiệu vì thường là bạn nhậu hay bà xã thường dùng text hơn email. Vô hình trung, bảo thủ hay cố chấp thì cũng phải quẹt khi nhân loại đã chuyển từ bấm sang quẹt.
Ông Lý ngồi nhâm nhi cà phê vô tư... cà phê cứ từ từ mà thấm vô phế phủ. Ông ngồi nhìn cái điện thoại trước mặt để lại nghĩ lung tung... đã nhiều nơi, người bán hàng không còn là một cô hàng xinh đẹp để xao xuyến tâm cang khách hàng nam giới; Những cô hàng mặt vuông ở siêu thị bây giờ chỉ chờ người ta touch là charge - quẹt là tính tiền! Touch lộn chỗ là double charge, ráng chịu! Chẳng còn nụ cười chết người của những cô hàng trong thế kỷ trước. Sao ông lại sống trong cái thời đại lạnh lùng như touch screen này nhỉ?
Ông Lý thơ thẩn nghĩ ngợi bên ly cà phê nửa đêm thì đúng hơn là đầu ngày. Chợt nhớ đến lý do ông thức dậy trái giờ là bởi cái phone báo có text. Không biết ai text cho ông giờ này? Một người bạn quắc cần câu ở đâu rồi, kêu cứu không chừng! Còn nếu đã bị cảnh sát bắt thì sáng mai cảnh sát mới cho gọi về nhà hay gọi luật sư; Và một người bạn đi nhậu thì không hú, lúc lú rồi mới kêu... thì kệ cha nó đi! Cùng lắm sáng mai hùn tiền mua vòng hoa thăm viếng đã là... Hay một người bạn khác lác đác thơ say cũng không chừng; cánh làm thơ thường bấn xúc xích nửa đêm nên dễ mắc thằng bố; nửa đêm ra thơ rồi text đi muôn phương... Sáng ra, có ai chê dở thì đổ thừa đêm qua tôi say quá! Mấy cha viết nhạc cũng ăn lộn đũa nhà thơ nên cũng ưa ra nhạc nửa đêm bất tử. Nhìn lại, ông Lý không biết sao mình quen toàn người ít tỉnh. Suy ra...
Thế là canh tàn, ly cà phê cạn sớm quá so với giờ đi làm. Chả biết làm gì cho hết hết thời gian mà giết thời gian là điều ngu ngốc nhất đời vì thời gian không trở lại với ai bao giờ. Ông Lý đành ngồi delete bớt những rác rưởi trong phone. Ai dè cái text message trong phone lúc hai giờ đêm hoàn toàn không bạn bè với ông, nội dung text ngắn gọn: “Bố khỏe không? Con quá cảnh phi trường DFW chỉ 1 tiếng. Muốn gặp bố để uống cà phê quá nhưng giờ này chắc bố đã ngủ...”
Ông Lý đọc xong - thở dài. Giá đọc ngay lúc hai giờ đêm thì ông đã phóng ra phi trường, có mất cả tiếng lái thì ông cũng thoả mãn là được gặp mặt. Giờ chỉ còn ngồi ôm dĩ vãng... Hơn mười năm rồi, điện thoại của ông Lý thỉnh thoảng có số phone lạ gọi vào, nhưng chẳng bao giờ nói được câu nào. Cứ loạn xạ những tín hiệu viễn thông rồi thôi.
Ông có hỏi bạn bè thì họ cho biết là số phone đó bên Việt nam. Trong khi ông là người tử tế nhất với V247 vì bạn bè có mua cho ông 5 đồng, rồi 10 đồng, có người ái mộ mua cho ông đến 20 đồng V247 để gọi Việt Nam, nhưng ông chưa hề gọi về bên nớ bao giờ. Thi thoảng bạn bè trong nước gọi qua chúc tết thì hầu như chỉ có vợ ông bắt điện thoại để cảm ơn những bạn bè còn nhớ đến những người đi. Ông Lý ngồi nhớ đã lâu lắm rồi, ông có gọi cho số phone ấy; nhớ rõ V247 lúc nào cũng nói là ông có cả ngàn phút, nhưng số điện thoại bên Việt nam đã ngừng sử dụng nên không liên lạc cho ông được!
Rồi cái phone của công ty cũ không xài nữa, mất hết tiền V247 không thành vấn đề. Họ có cho chuyển sang số phone mới, nhưng hơi đâu, đáng gì. Chỉ tiếc là mất số phone của người con bí hiểm – cứ thỉnh thoảng lại hỏi, “Bố khỏe không?” mà ông chẳng biết là ai!
Song, chừng hơn năm năm trước, ông bất chợt nhận được text message: “Bố khỏe không? Bố đổi số điện thoại rồi hả? Con không gọi được bố...” Ông vội vã trả lời, nhưng bặt vô âm tín thời gian dài. Hôm bỗng nhớ, ông ân hận vì cái phone mới lúc đó, nhưng khi nhớ ra thì đã mất việc, công ty lấy lại mất rồi! Trong khi ông đang xài cái phone khác của công ty mới, thời buổi bây giờ chủ cả siêng đuổi người còn hơn ông Lý siêng đi xin việc...
Ông Lý thấy vui-buồn lẫn lộn với cuộc rượt đuổi này. Sao lại có người mang tên con gái cứ thỉnh thoảng lại có liên lạc bất chợt với ông. Nói là hời hợt cũng không đúng vì đâu ai dư thời gian để làm chuyện không đâu! Mười mấy năm trước, cô ấy còn trong nước. Bây giờ chắc đã ra hải ngoại hay là người đi công tác ở hải ngoại. Cô gái này đã gọi điện thoại cho ông từ mười mấy năm trước thì nay cô phải chừng ba mươi tuổi, hay hơn chút đỉnh... Cô là ai?
Và đêm qua, lần đầu tiên số điện thoại mới nhất của ông nhận được text
message, nghĩa là cô ấy biết ông định cư ở đâu, hành tung của ông... kể
ra số điện thoại và địa chỉ email của ông thì nhiều người biết nên
chuyện cô biết không khó. Nhưng sao đời sống cứ còn những người tử tế
đến bâng khuâng người khác; một lời thăm hỏi, một câu ân tình, không làm
cho người ta bớt lo về việc làm, thu nhập nhưng an tâm mà đi giữa bầy
thú dữ trong đời bây giờ. Lời han hỏi như sự xoa bóp trái tim cô lý. Cô
là ai? Giá giúp được gì cho cô, ông Lý cũng sẵn lòng trả ơn ban phước
theo nghĩa miếng khi đói bằng gói khi no; dường như mỗi khi ông bế tắc
là lời thăm hỏi ân tình lại chợt đến – để chợt đi... Ông Lý ngồi làm
công việc mà không ai giúp ông được là moi trí nhớ về chính mình cách
nay chừng ba mươi tới hơn ba mươi năm chút ít thì sao chứ! Nhưng ông
quyết định khi tia nắng mặt trời đã lọt khe cửa garage là cớ chi phải rõ
ngọn nguồn/ nâng ly ta cạn nỗi buồn chơi vơi...
Phan
Phan
NGUYỄN NGỌC NGẠN * NHỚ VỀ TRẦN THIỆN THANH
Nhớ về Trần Thiện Thanh
Nói đến những sáng tác của Trần Thiện Thanh, người ta thường nghĩ ngay tới hai dòng nhạc: nhạc tình và nhạc lính. Thật ra hai dòng nhạc ấy vẫn là một, bởi cũng giống như Lam Phương hay Anh Bằng, nhạc lính của Trần Thiện Thanh chỉ là nhạc tình trong thời chiến. Anh chia sẻ tâm sự người quân nhân xa nhà, anh cảm thông nỗi niềm người tình hay người vợ đợi chờ ở hậu phương. Thế hệ mai sau sẽ thấy nhạc Trần Thiện Thanh là những trang sử viết gọn, ghi dấu một thời khói lửa trên quê hương Việt Nam.
Tôi gặp Nhật Trường Trần Thiện Thanh lần đầu tiên ở Las Vegas khi anh mới ra hải ngoại. Vì chưa quen, chưa biết tính tình anh thế nào, nên tôi chỉ bắt tay xã giao, chúc mừng anh vừa sang Mỹ định cư. Ngày ấy tôi mới lên sân khấu Thúy Nga được hơn 2 năm, nên vẫn còn là khuôn mặt mới trong làng văn nghệ. Nhưng dĩ nhiên anh vẫn coi tôi ở Sài Gòn vì băng lậu tràn ngập trong nước. Nghe tôi gợi chuyện, Trần Thiện Thanh lắc đầu cười buồn rồi bùi ngùi nói:
- Anh Ngạn ở cải tạo về mà đi được ngay, hên quá!
Tôi hiểu trong lòng anh đang mang nỗi sầu “trâu chậm uống nước đục”! Mất miền Nam, anh đang ở lứa tuổi ngoài 30. Tiếng hát Nhật Trường và dòng nhạc Trần Thiện Thanh đang độ sung mãn như dòng suối tuôn chảy chan hòa thì bất ngờ bị đứt đoạn. Rồi anh kẹt lại đến 20 năm mới có người bảo lãnh ra hải ngoại. Khoảng thời gian hai thập niên ấy là một phí phạm lớn, rất thiệt thòi cho sinh hoạt văn nghệ của anh và của những người yêu nhạc Trần Thiện Thanh. Cho nên giờ này anh ngồi trầm ngâm ưu tư cũng là phải! Trên chuyến xe đón nghệ sĩ từ phi trường vào khách sạn, anh không nói chuyện với ai, khác hẳn những nghệ sĩ chung quanh lúc nào cũng ồn ào vui đùa thoải mái. Đó cũng là live show duy nhất tôi đứng cùng anh trên một sân khấu, rồi suốt 20 năm làm văn nghệ, chẳng bao giờ tôi diễn chung với anh một lần nào nữa!
Cuối tháng 4 năm 2009, tôi nhận được lá thư của một khán giả, bà Vũ Vân Nga ở Sugar Land, Texas, có đoạn viết như sau:
“Cả gia đình và bạn bè Nga có một thắc mắc từ lâu lắm mà đợi hoài không thấy nên đành viết thư hỏi sau 25 năm đợi chờ: Lý do gì Thúy Nga không làm chủ đề Trần Thiện Thanh (Nhật Trường)? Thiết nghĩ đây cũng là thắc mắc chung của rất nhiều người Việt Nam, vậy xin trả lời trên show Paris By Night cho vui lòng mọi người.
Cám ơn chú Ngạn…”
Ttrích thư viết ngày 21 tháng 4 năm 2009)
Tôi không trả lời thắc mắc này trên Paris By Night là vì có một chút tế nhị giữa Trần Thiện Thanh với trung tâm Thúy Nga. Từ khi tôi cộng tác với Paris By Night, Thúy Nga đã thực hiện băng chủ đề giới thiệu sự nghiệp của hầu hết tất cả mọi nhạc sĩ miền Nam, như Phạm Duy, Lam Phương, Ngô Thụy Miên, Văn Phụng, Đức Huy, Nguyễn Hiền, Song Ngọc, Hoàng Thi Thơ, Huỳnh Anh, Cung Tiến, Tuấn Khanh, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Dinh, Trường Sa, Phạm Mạnh Cương, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Xuân Tiên, Thanh Sơn, Châu Kỳ, Nguyễn Ánh 9, Quốc Dũng và Tùng Giang. Chỉ có Phạm Đình Chương không may mất sớm khi Thúy Nga chưa bắt đầu loạt video chủ đề này. Và người thứ hai là Hoàng Trọng, Thúy Nga đang chuẩn bị mời thì ông qua đời.
Ông Tô Văn Lai, chủ nhân trung tâm Thúy Nga, thường nói với mọi người:
“Giáo sư Dương Quảng Hàm viết cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu, để ghi lại đôi nét về sự nghiệp các nhà văn, nhà thơ. Thúy Nga cũng muốn làm điều này với các nhạc sĩ sáng tác, để lưu lại chút tài liệu nhạc sử cho thế hệ mai sau.”
Với chủ trương ấy, Thúy Nga đã lần lượt mời tất cả các nhạc sĩ lên sân khấu Paris By Night, mặc dầu băng chủ đề một nhạc sĩ đôi khi khó bán hơn các chương trình đại nhạc hội tổng hợp.
Mời mọi nhạc sĩ lên sân khấu Paris By Night mà thiếu Trần Thiện Thanh thì phải có lý do!
Cái lý do ấy là hai bên đã gặp nhau khoảng 4 lần, ngay từ những ngày đầu khi Trần Thiện Thanh vừa đặt chân đến Mỹ, nhưng đôi bên không đạt được thỏa thuận vì Trần Thiện Thanh đòi nhiều điều kiện khó khăn quá. Ngoài tiền tác quyền anh tính quá cao so với các nhạc sĩ khác, anh còn muốn can dự cả vào việc chọn bài bản và mời ca sĩ trình diễn.
Sau những lần gặp gỡ bất thành ấy, giao tình giữa Thúy Nga và Trần Thiện Thanh ngày càng xa cách. Nói đúng ra thì không phải riêng với Thúy Nga, mà với bất cứ trung tâm băng nhạc nào, Trần Thiện Thanh cũng chẳng thân thiện bởi bản tính anh vốn lạnh lùng, khiến nghệ sĩ gặp anh đều ngần ngại, ít dám kết thân. Cũng nên nhớ ngày ấy, chỉ có Thúy Nga là trung tâm duy nhất thực hiện băng chủ đề về các nhạc sĩ. Anh không đạt được thỏa thuận với Thúy Nga thì đâu còn trung tâm nào thực hiện cho anh!
Những năm sau này, anh ít đi show, trừ các show Hội Đoàn hay Hội Chợ Tết, mặc dầu tiếng hát Nhật Trường vẫn còn nguyên vẹn như trước năm 1975. Có ba trung tâm băng nhạc hoạt động đều đặn là Asia, Thúy Nga và Hollywood Night thì không may, anh lại cộng tác với Hollywood Night là trung tâm yểu tử đầu tiên! Anh lập trung tâm Nhật Trường, tự thực hiện vài chương trình thu hình chính những ca khúc hay nhất của mình, nhưng kết quả tài chánh thu nhập rất èo uột bởi anh đầu tư kỹ thuật sơ sài quá.
Một lần, tôi sang Cali, đi với ông Tô Văn Lai đến thăm nhạc sĩ Lam Phương sau khi ông bị tai biến mạch máu não phải ngồi xe lăn. Tình cờ tôi gặp Nhật Trường Trần Thiện Thanh và Mỹ Lan cũng vừa từ trong nhà Lam Phương bước ra. Gặp Nhật Trường thì tôi không thấy thoải mái lắm mặc dù tôi rất phục tài anh: viết nhạc hay mà hát cũng hay. Chỉ có điều vì chưa thân nên tôi vẫn giữ một khoảng cách.
Mỹ Lan vốn trước đây ở Montreal, lại gia nhập Thúy Nga cùng thời với tôi, hay gặp nhau bên Paris trong những cuốn băng đầu tiên, nên cũng khá thân. Đã lâu mới gặp lại, tôi niềm nở tiếp chuyện Mỹ Lan và hỏi:
- Lâu rồi Mỹ Lan có về lại Canada không?
Trần Thiện Thanh từ bên kia đường đi nhanh qua, tươi cười bảo tôi:
- Ý đồ gì mà anh cứ rủ vợ tôi về Canada?
Thái độ thân thiện và cởi mở của anh làm tôi rất ngạc nhiên. Anh bắt tay và nhìn tôi, trang nghiêm tiếp:
- Nguyễn Ngọc Ngạn, người gây sóng gió!
Tôi hiểu anh muốn nhắc đến một số bài báo đả kích tôi nên tôi trả lời:
- Sóng gió tìm tôi chứ tôi đâu có bao giờ gây sóng gió!
Rồi tôi từ giã anh và Mỹ Lan để vào gặp nhạc sĩ Lam Phương trong căn nhà mobile home.
Năm sau, tôi lại gặp Nhật Trường ở San Jose nhân dịp đầu Xuân. Anh hát cho đoàn xe hoa diễu hành ban ngày, tôi diễn trong show văn nghệ buổi tối. Tình cờ ở chung khách sạn, tôi xuống lobby lấy ly cà phê lên phòng thì thấy anh ngồi một mình ngoài hành lang và giơ tay ngoắc tôi. Tôi bưng tách cà phê Starbucks lại ngồi với anh. Gặp anh, tôi luôn giữ thái độ dè dặt thì chính anh lại liên tục đùa giỡn, chọc ghẹo tôi, có lẽ vì anh biết tính tôi qua những cuốn Paris By Night bên cạnh Kỳ Duyên.
Anh hỏi thăm tôi thời còn đi dạy học ở Sài Gòn bởi anh cũng là nhà giáo
trước khi tình nguyện vào quân đội trước tôi. Lan man qua nhiều mẩu
chuyện, tôi vẫn thấy nét buồn trong ánh mắt anh. Anh là người mang bản
tính tự tôn, vừa là nhạc sĩ giỏi vừa là ca sĩ hay, anh nghĩ mình phải
thành công lớn tại hải ngoại mới đúng, thế mà tiếc rằng con đường văn
nghệ không trải thảm đỏ đón anh! Biết vậy, nhưng tôi không đả động gì
đến việc mời anh trở lại nói chuyện với Thúy Nga, mà anh vốn là người tự
ái nên dù muốn, anh cũng không bao giờ ngỏ lời trước! Người làm nghệ
thuật, bất cứ ngành nào, cũng đều muốn tác phẩm của mình được phổ biến
càng rộng càng tốt. Nhu cầu ấy lớn hơn cả tiền bạc. Tôi nhớ một lần gặp
nhạc sĩ Phạm Duy gần 20 năm về trước, lúc tôi vừa vào Paris By Night.
Ngồi ở tiệm ăn, bên cạnh một người bạn trẻ vừa từ Việt Nam qua, nhạc sĩ
Phạm Duy hỏi:
- Cậu về bên ấy, có thấy chúng nó hát nhạc của tôi không?
Người bạn trẻ lắc đầu. Tôi thấy Phạm Duy buồn lắm. Sau đó ông rủ tôi về nhà, chỉ cho tôi thấy, ông đang đưa hết tất cả các tác phẩm của ông vào computer để lưu trữ và phổ biến. Tôi vốn mù tịt về lãnh vực này. Ông bảo tôi:
- Trong nước không cho phổ biến nhạc Phạm Duy thì chính Phạm Duy phải tự lo phổ biến lấy!
Chỉ một lời tâm sự ấy, tôi hiểu nỗi khắc khoải của những nhạc sĩ không đưa được tác phẩm của mình đi xa. Paris By Night dù sao cũng là diễn đàn rộng lớn nhất của người Việt từ hải ngoại đến trong nước, anh Trần Thiện Thanh không thể không có lúc nghĩ đến việc góp mặt trên diễn đàn này, giống như bao nhiêu nhạc sĩ khác. Nhưng một chút tự ái đã giữ chân anh lại!
Mãi đến khi anh lâm trọng bệnh, nữ ca sĩ Hoàng Oanh mới gợi ý khuyên anh nên hợp tác với Thúy Nga thực hiện một cuốn Paris By Night về sự nghiệp sáng tác của anh để lưu lại cho đời như các nhạc sĩ khác. Nếu anh đồng ý thì Hoàng Oanh sẽ là nhịp cầu liên lạc với Thúy Nga và Nguyễn Ngọc Ngạn.
Trong cuộc đời mấy chục năm văn nghệ, Hoàng Oanh là người mà Trần Thiện Thanh nể nang nhất, hay nói đúng hơn, đã có một thời anh “thầm yêu trộm nhớ” người nữ ca sĩ trang nghiêm này. Anh đã sáng tác ít nhất hai bản nhạc cho Hoàng Oanh, là: Người Yêu Của Lính và Một Đời Yêu Em.
Trước đề nghị tha thiết của Hoàng Oanh, Nhật Trường xiêu lòng bảo:
- Cám ơn madam. Tôi về bàn lại rồi sẽ phone cho madam.
Cuối tuần đó, Trần Thiện Thanh gọi cho Hoàng Oanh để xúc tiến, vì bệnh anh đột ngột trở nặng. Nhưng Hoàng Oanh bận đi show, không gặp.
Như thế thì rõ ràng Nhật Trường Trần Thiện Thanh và Thúy Nga không có duyên làm việc với nhau. Bao nhiêu năm khỏe mạnh, ở bên cạnh nhau, anh không hợp tác vì tự ái. Đến khi đổi ý thì đã quá muộn!
Anh mất rồi, trung tâm Asia thực hiện cho anh cuốn băng rất thành công. Nhưng tiếc rằng, anh không còn nữa, không có mặt trên băng để khán giả được nghe những lời tâm sự, những xuất xứ, những động cơ sáng tác của từng ca khúc nổi tiếng mà anh đã để lại cho đời.
Ngày trước, chúng ta có nhạc sĩ Lê Thương sở trường về “chuyện ca”, nghĩa là dùng một bài hát để kể một câu chuyện, chẳng hạn “Bà Tư Bán Hàng” hoặc trường ca “Hòn Vọng Phu”. Gần chúng ta hơn, Trần Thiện Thanh cũng có biệt tài về thể loại này: dùng một ca khúc ngắn ngủi mà kể được một câu chuyện minh bạch, không gò bó, không gượng ép, làm sống lại hình ảnh của những người lính trong cuộc chiến, như Tình Thư Của Lính, Người Ở Lại Charlie, Anh Không Chết Đâu Anh, Góa Phụ Ngây Thơ, Chân Trời Tím, Chiều Trên Phá Tam Giang, Lâu Đài Tình Ái, Bảy Ngày Đợi Mong, Tình Đầu Tình Cuối, v.v…
Mãi mãi, người ta sẽ nhớ Trần Thiện Thanh là dòng nhạc tình ghi dấu tích của mùa chinh chiến.
Năm nay, Quỹ Cộng Đồng Thời Báo tổ chức show văn nghệ ngày Thứ Bảy, 20 tháng 7, tôi đề nghị chọn chủ đề Trần Thiện Thanh bởi đây là dòng nhạc đa dạng, phong phú mà lại mang nhiều ý nghĩa, dẫn đưa chúng ta quay về với kỷ niệm xưa. Bạn đọc nào chưa mua vé, xin gọi ngay cho Thời Báo (416-925-8607). Không nên bỏ lỡ một đêm văn nghệ đặc sắc. Hẹn gặp!
Nguyễn Ngọc Ngạn
- Cậu về bên ấy, có thấy chúng nó hát nhạc của tôi không?
Người bạn trẻ lắc đầu. Tôi thấy Phạm Duy buồn lắm. Sau đó ông rủ tôi về nhà, chỉ cho tôi thấy, ông đang đưa hết tất cả các tác phẩm của ông vào computer để lưu trữ và phổ biến. Tôi vốn mù tịt về lãnh vực này. Ông bảo tôi:
- Trong nước không cho phổ biến nhạc Phạm Duy thì chính Phạm Duy phải tự lo phổ biến lấy!
Chỉ một lời tâm sự ấy, tôi hiểu nỗi khắc khoải của những nhạc sĩ không đưa được tác phẩm của mình đi xa. Paris By Night dù sao cũng là diễn đàn rộng lớn nhất của người Việt từ hải ngoại đến trong nước, anh Trần Thiện Thanh không thể không có lúc nghĩ đến việc góp mặt trên diễn đàn này, giống như bao nhiêu nhạc sĩ khác. Nhưng một chút tự ái đã giữ chân anh lại!
Mãi đến khi anh lâm trọng bệnh, nữ ca sĩ Hoàng Oanh mới gợi ý khuyên anh nên hợp tác với Thúy Nga thực hiện một cuốn Paris By Night về sự nghiệp sáng tác của anh để lưu lại cho đời như các nhạc sĩ khác. Nếu anh đồng ý thì Hoàng Oanh sẽ là nhịp cầu liên lạc với Thúy Nga và Nguyễn Ngọc Ngạn.
Trong cuộc đời mấy chục năm văn nghệ, Hoàng Oanh là người mà Trần Thiện Thanh nể nang nhất, hay nói đúng hơn, đã có một thời anh “thầm yêu trộm nhớ” người nữ ca sĩ trang nghiêm này. Anh đã sáng tác ít nhất hai bản nhạc cho Hoàng Oanh, là: Người Yêu Của Lính và Một Đời Yêu Em.
Trước đề nghị tha thiết của Hoàng Oanh, Nhật Trường xiêu lòng bảo:
- Cám ơn madam. Tôi về bàn lại rồi sẽ phone cho madam.
Cuối tuần đó, Trần Thiện Thanh gọi cho Hoàng Oanh để xúc tiến, vì bệnh anh đột ngột trở nặng. Nhưng Hoàng Oanh bận đi show, không gặp.
Như thế thì rõ ràng Nhật Trường Trần Thiện Thanh và Thúy Nga không có duyên làm việc với nhau. Bao nhiêu năm khỏe mạnh, ở bên cạnh nhau, anh không hợp tác vì tự ái. Đến khi đổi ý thì đã quá muộn!
Anh mất rồi, trung tâm Asia thực hiện cho anh cuốn băng rất thành công. Nhưng tiếc rằng, anh không còn nữa, không có mặt trên băng để khán giả được nghe những lời tâm sự, những xuất xứ, những động cơ sáng tác của từng ca khúc nổi tiếng mà anh đã để lại cho đời.
Ngày trước, chúng ta có nhạc sĩ Lê Thương sở trường về “chuyện ca”, nghĩa là dùng một bài hát để kể một câu chuyện, chẳng hạn “Bà Tư Bán Hàng” hoặc trường ca “Hòn Vọng Phu”. Gần chúng ta hơn, Trần Thiện Thanh cũng có biệt tài về thể loại này: dùng một ca khúc ngắn ngủi mà kể được một câu chuyện minh bạch, không gò bó, không gượng ép, làm sống lại hình ảnh của những người lính trong cuộc chiến, như Tình Thư Của Lính, Người Ở Lại Charlie, Anh Không Chết Đâu Anh, Góa Phụ Ngây Thơ, Chân Trời Tím, Chiều Trên Phá Tam Giang, Lâu Đài Tình Ái, Bảy Ngày Đợi Mong, Tình Đầu Tình Cuối, v.v…
Mãi mãi, người ta sẽ nhớ Trần Thiện Thanh là dòng nhạc tình ghi dấu tích của mùa chinh chiến.
Năm nay, Quỹ Cộng Đồng Thời Báo tổ chức show văn nghệ ngày Thứ Bảy, 20 tháng 7, tôi đề nghị chọn chủ đề Trần Thiện Thanh bởi đây là dòng nhạc đa dạng, phong phú mà lại mang nhiều ý nghĩa, dẫn đưa chúng ta quay về với kỷ niệm xưa. Bạn đọc nào chưa mua vé, xin gọi ngay cho Thời Báo (416-925-8607). Không nên bỏ lỡ một đêm văn nghệ đặc sắc. Hẹn gặp!
Nguyễn Ngọc Ngạn
TIỂU TỬ * NGƯỜI VIẾT MƯỚN
- Created on Thursday, 16 May 2013 16:54
Nhà văn Tiểu Tử, tên thật là Võ Hoài Nam. Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Ông sanh ngày 19 tháng 7 năm 1930 tại quận Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. Ông tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, Pháp quốc năm 1955. Ông về Việt Nam, dạy tại trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký niên khóa 1955-1956. Tháng 10 năm 1956, ông vào làm việc tại hãng xăng Shell Việt Nam cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Năm 1979, ông vượt biên và định cư tại Pháp. Sau đó, ông nhận làm việc cho công ty Đường Mía của nhà nước tại Côte d’Ivoire, Phi Châu, từ 1979 đến 1982. Ông qua làm hãng xăng Shell Côte d’Ivoire cho đến khi về hưu (1982-1991). Hiện ông đang nghỉ hưu tại Paris, Pháp quốc.
Ở chợ Plateau thành phố Abidjan ( thủ đô cũ của xứ Côte d'Ivoire, Phi Châu ) ai cũng biết ông già viết mướn đó. Người ta gọi ông là " l'écrivain chinois " (ông Tàu viết mướn )
Xứ Côte d'Ivoire – thuộc vùng Phi Châu Da Đen – ngày xưa là thuộc địa của Pháp. Dân bản xứ đi học bằng tiếng Pháp. Và vì họ gồm nhiều bộ tộc, mỗi bộ tộc nói một thổ ngữ, nên họ phải dùng tiếng Pháp để hiểu nhau. Về sau, khi đã độc lập rồi, trường vẫn dạy bằng tiếng Pháp và ngôn ngữ chánh trong dân gian vẫn là tiếng Pháp. Những người ít học hay thất học thì nói " tiếng bồi ", nghĩa là tiếng Pháp không đúng văn phạm. Mấy bà buôn bán ở chợ Plateau nói trên thuộc vào thành phần này. Nhiều bà có con cái " đi làm ăn " ở Pháp hay ở Bỉ, lâu lâu cần xin gì hay cần nhắn gì, họ phải nhờ người khác viết cho cái thư. Ngoài ra, có nhiều người cần viết đơn từ thưa gởi nhưng không đủ trình độ để viết đúng từ ngữ hành chánh nên nhờ viết dùm. Do đó mới có cái nghề viết mướn.
Ở khu chợ Plateau, trước đây, chỉ có một người đàn ông trung niên người bản xứ làm nghề này. Anh ta hành nghề dưới hàng hiên khu phố nhìn qua chợ, nằm cách chợ một con đường. Chỗ hắn ngồi là một bức tường nhỏ nằm giữa hai cửa hàng bán radio của người libanais. " Dụng cụ " của anh ta là cái máy đánh chữ loại xách tay đặt trên bàn gỗ nhỏ. Anh ta ngồi trên ghế thấp vừa tầm với cái bàn, nhưng vì anh ta lớn con chân dài nên khi đánh máy anh ta phải cho hết hai chân xuống dưới bàn đưa thẳng về phía trước lòi ra một khúc, trông giống như anh ta ôm cái bàn vào lòng ! Còn " khách hàng " thì hoặc đứng hoặc ngồi xổm cạnh hai bàn chân to xù mang dép Nhựt của hắn, tỉ tê kể những gì mà họ muốn để trong thư. Anh ta gõ máy bằng hai ngón tay nhưng gõ khá nhanh, khách kể đến đâu hắn gõ theo đến đấy. Đánh xong thư, khách hàng đưa cho hắn mảnh giấy nhỏ trong đó có ghi rõ địa chỉ của người nhận thư, hắn lấy trong ba lô để dưới chỗ hắn ngồi một phong bì có dán tem sẵn, đánh máy địa chỉ, cho thư vào rồi le lưỡi liếm keo dán lại.
Người khách hàng chỉ còn có cho thư vào thùng thư đứng ở góc đường gần
đó. Dĩ nhiên, khi hắn tính tiền, hắn tính cả tiền giấy, phong bì,
tem…Thư gởi đi Pháp hay đi Bỉ đều cùng một giá. Cho nên đã thành lệ, sau
vài câu chào hỏi, khách hàng cứ đặt tiền trước lên bàn rồi đợi hắn sửa
bộ kéo bàn vào lòng với cái máy đánh chữ lúc nào cũng " ngậm " sẵn một
tờ giấy, là bắt đầu tỉ tê kể lể…Còn đơn từ thì hắn dùng phong bì không
có tem, bởi vì khách hàng mang tay đến nộp thẳng cho cơ quan liên hệ.
Loại " đơn từ " này, hắn vẫn lấy bằng giá với " thư nhà ", bởi vì, theo
hắn giải thích, viết cho hành chánh khó gấp mấy lần viết cho thân nhân.
Bớt con tem nhưng thêm nhiều công suy nghĩ !
Một hôm, có ông già á đông – ốm nhom, già khú – đi lang thang với điếu thuốc trên môi, ngang qua đó nghe tiếng đánh máy lọc cọc nên tò mò đứng lại nhìn. Đợi anh đen làm xong công việc, ông già mới chào hỏi làm quen. Anh đen rất ngạc nhiên vì ông ta nói tiếng Pháp rất trôi chảy rành rọt, không giống những người á đông mà anh đã từng gặp hay quen biết. Ông già ghé đít ngồi lên bệ thềm gần đó, hỏi :
- Ông làm nghề gì vậy ?
Anh đen nhăn răng cười :
- Viết thư dùm người ta, người ta trả tiền. Ông không thấy bà hồi nãy cầm phong bì đi sao ?
- Thấy. Nhưng mà hồi nãy hai người nói với nhau bằng thổ ngữ nên tôi không hiểu.
Ngừng một chút, ông già lại hỏi :
- Làm ăn có khá không ?
- Ố ! Cũng tạm được.
Hắn chỉ qua bên chợ :
- Khách hàng của tôi là mấy bà buôn bán ở bên kia. Họ không biết chữ, mà con cái họ thì đi làm công bên Pháp bên Bĩ hết. Thành ra, ngày nào cũng viết dùm vài cái thư, lai rai…Với lại ở xứ này, người ta hay thưa gởi kiện cáo lắm nên có công việc làm hoài !
Rồi hắn nhìn ông già từ đầu đến chân :
- Còn ông ? Ông làm nghề gì ở đây ?
- Già quá đâu có ai mướn. Ở không, đi lang thang.
Anh đen lại nhìn ông già ra vẻ tội nghiệp :
- Rồi lấy gì sống ?
- Sống nhờ con. Con gái ở nhà làm nem. Thằng em nó đạp xe đi bán. Khá chật vật !
- Ông người Tàu hả ?
- Không. Tôi người Việt Nam.
Nói xong, ông già thở dài. Tội nghiệp cho cái xứ Việt Nam của ông ! Nhược tiểu đến mức độ mà người dân khi ra ngoại quốc cứ bị thiên hạ gọi là người Tàu !
Ông già đưa bao thuốc lá mời anh đen :
- Hút một điếu chơi.
- Cám ơn. Tôi không biết hút thuốc.
Ngừng một chút, anh ta hỏi :
- Nhà ông ở đâu ?
- Ở tuốt trên Cocody, gần nhà thờ.
- Xa quá há. Rồi ông đi bằng gì xuống đây ? Xe buýt hả ?
- Đi bằng xe đạp. Đạp xuống thì dễ, đạp về leo dốc mới mệt !
Anh đen lại nhìn ông già một lúc, mới nói :
- Ông nói tiếng Pháp rành quá mà không đi làm việc cũng uổng.
- Già như tôi thì còn làm được gì ?
- Tuổi tác ăn nhập gì, trình độ văn hoá mới cần chớ !
Ông già hít mấy hơi thuốc, suy nghĩ. Một lúc sau ông hắng giọng rồi hỏi :
- Ông thấy tôi làm cái nghề viết mướn được không ?
Anh đen nhăn răng cười hớn hở :
- Được chớ ! Được chớ !
Rồi đề nghị :
- Ông cứ ngồi kế bên đây ! Đừng ngại gì hết ! Cả khu Plateau chỉ có một mình tôi làm nghề này. Có thêm ông càng vui.
Thấy dễ dàng quá, ông già đứng ngẩn ra, chưa kịp nói lời nào thì anh ta nói tiếp :
- Vậy, sáng mai ông đem máy đánh chữ ra, nghen.
- Tôi không có máy đánh chữ. Tôi viết tay được không ?
Giọng anh đen hơi xìu xuống :
- Ồ…cũng không sao. Cứ ra đây đi, rồi tính.
Ông già mừng rở, bắt tay anh đen, nói " Cám ơn ! Cám ơn ! Ông tốt bụng quá !", rồi đi xăng xớm về chỗ để xe đạp trước ngân hàng gần đó, mở khoá lấy xe phóng lên đạp đi mà nghe như vừa được bơm vào người thêm nhiều sinh lực !
Mấy hôm sau, ông già xin được của hội nhà thờ một cái bàn và ba cái ghế bằng nhôm loại xếp được để đi pique-nique. Ông mua một mớ giấy viết thư, phong bì, tem, bút bi rồi đạp xe đạp chở bàn ghế đến ngồi cạnh anh đen, hành nghề viết mướn. Buổi sáng đó, trước khi rời nhà, ông lẩm bẩm :" Bữa nay đúng là một ngày đẹp trời !"…
Ông già ngồi đã ba hôm, chẳng có một ai đến nhờ viết ! " Khách hàng " cứ nhờ anh đen. Thấy vậy, anh ta an ủi :
- Đừng buồn. Từ từ rồi sẽ có khách. Tại ông không có máy đánh chữ nên người ta không biết đó thôi.
Một hôm, có hai bà cùng đến một lúc. Anh đen tiếp một bà rồi nói với bà kia :
- Nếu bà gấp thì bước qua ông đồng nghiệp của tôi đây, ổng giúp cho. Ổng viết tay, nhưng cần gì ! Viết tay hay đánh máy cũng vậy thôi ! Điều cần thiết là viết làm sao cho người đọc hiểu.
Bà khách ngần ngừ một lúc rồi bước qua ngồi lên cái ghế xếp trước mặt ông già. Như thông lệ, bà ta đặt tiền lên bàn rồi bắt đầu kể lể bằng thứ tiếng Pháp không có văn phạm. Ông già ngồi chống càm, lắng tai nghe.
Thấy ông viết mướn không viết gì hết, bà khách ngừng kể, lấy làm lạ nhìn ông :
- Sao ông không viết ?
- Thưa bà, tôi đang nghe bà kể, đây.
Bà ta chỉ anh đen :
- Sao kỳ vậy ? Ông làm không giống anh này ! Với anh ta, khi tôi bắt đầu nói là anh ta bắt đầu gõ. Còn ông thì không nhúc nhích gì hết !
Ông già phì cười, giải nghĩa chầm chậm :
- Xin lỗi. Tôi phải nghe bà kể hết những gì bà muốn nói cho người con của bà, rồi tôi mới sắp xếp câu văn để viết. Bà biết không, viết thư phải viết cho mạch lạc thì người con của bà mới hiểu được hết cái ý của bà, bà hiểu không ?
Bà khách ngần ngừ rồi gật đầu. Ông già đốt điếu thuốc, nói tiếp :" Bây giờ, xin bà kể lại. Từ từ kể lại, tôi nghe ". Bà khách liếc nhìn ông rồi nhìn vội xuống hai bàn chân của bà, thấp giọng kể…Bà khổ lắm, buôn bán ế ẩm, con dâu mang bầu đứa thứ năm gần sanh mà cứ đau rề rề, mấy đứa cháu nội đi mót khoai mót củ nhưng không đủ ăn, bà đã gởi ba cái thư xin tiền thằng con, xin nó thương vợ thương con của nó nheo nhóc, chắc thư đã đi lạc nên không thấy hồi âm, bà khổ lắm, không biết thằng con ở bên Pháp còn sống hay đã bị cái gì rồi…Bà khách ngừng kể, kéo ống tay áo lên lau nước mắt.
Nghe xong, ông già viết mướn, chừng như xúc động, làm thinh hít mấy hơi thuốc dài. Bà khách len lén nhìn ông rồi lại nhìn xuống chân của bà, hai bàn chân cùi đày nằm trong đôi dép cao su rách bươm lấm lem bùn đất. Bà đợi. Suy nghĩ một lúc, ông già mới lấy giấy viết. Lâu lâu, ông ngừng lại nhìn xa xăm qua chợ nằm phía đối diện như để tìm chữ tìm câu. Rồi lại cuối đầu viết tiếp.
Viết xong, ông hỏi :
- Bà cần tôi đọc lại không ?
Bà khách chớp chớp mắt, lắc đầu. Bà đưa cho ông địa chỉ của người con, ông chép lên phong bì đã dán tem, cho thư vào dán lại rồi trao cho bà khách. Bà cầm thư lật qua lật lại nhìn như thiếu tin tưởng, rồi đứng lên làm thinh đi về hướng thùng thư đứng ở góc đường. Ông già nhìn theo, lòng nghe chơi vơi như chính ông đang đi gởi thư cho thằng con…
Ngày nào ông già viết mướn cũng mang đồ ra ngồi cạnh anh đồng nghiệp đen, nhưng không phải ngày nào ông cũng có khách. Lâu lâu, có dư người thì anh đen " đẩy " qua cho ông. Anh ta nói đùa :" Đồng nghiệp mà ! Phải giúp nhau chớ ! " Ông cười chua chát :" Cám ơn ! Cám ơn ! Nhờ lòng tốt của anh mà tôi cũng vớt vát được một hai người ".
Một hôm, anh đen bỗng hỏi :
- Hồi trước ông làm gì ở Việt Nam ?
- Buôn bán.
Ông không muốn nói hồi đó ông là chủ hai nhà thuốc tây, khá giàu.
- Rồi tại sao ông đi qua đây vậy ?
- Tại làm ăn không được. Tại…tại nghèo.
Ông không muốn nói " cách mạng " đã tịch thâu tài sản của ông, gia đình ông sống cầu bơ cấu bất ở vùng kinh tế mới, vợ ông chết ở trên đó, ông và hai đứa con trốn về thành phố sống chui như bầy chó hoang, ăn nhờ ở đậu…
- Bộ ông có quen ai bên nây hả ?
Đến đây thì ông già không giấu giếm gì hết :
- Đâu có. Tôi đâu có quen ai. Tôi nghe nói Nhà Nước Côte D' Ivoire dễ dãi và tốt bụng nên tôi viết đại một lá thư dài gởi thẳng cho ông Tổng Thống, trong đó tôi kể hết hoàn cảnh bi đát của tôi. Tôi viết mà không có hy vọng gì hết.
- Ồ…Tại ông không biết chớ Tổng Thống Houphouet của tụi này rất bình dân và thương người lắm !
- Bây giờ thì tôi biết. Bởi vì sau bức thư của tôi, tôi nhận được visa và luôn vé máy bay cho ba cha con tôi nữa. Chuyện thật khó tin.
- Gì mà khó tin ? Tổng Thống tụi này hay làm những " cú " ngoạn mục như vậy lắm ! Chắc ông viết thư cũng phải hay lắm nên mới làm xúc động " Le Vieux " ( Ông Già ).
Ở Côte d' Ivoire, dân chúng thương Tổng Thống Houphouet nên khi nói chuyện với nhau họ gọi ông là " Ông Già " một cách triều mến.
- Hồi đó tôi viết giống như tôi muốn than thở với một người nào đó để cho vơi nỗi thống khổ của mình, chớ đâu dè. Nhận được giấy tờ, tôi như trên trời rớt xuống !
Đến đây, ông già không nói rằng ông đã bán mấy chiếc nhẫn cất giấu từ sau trận nhà nước đánh tư sản, để chạy lo vô hộ khẩu của người bà con xa, rồi chạy lo chiếu khán xuất cảnh v.v…
Ông chỉ nói :
- Hồi qua đến phi trường Abidjan, cha con tôi không biết đi đâu ở đâu. Tôi phân trần với chánh quyền sở tại, họ điện thoại gọi hội " Anciens d'Indochine ". Nhờ hội này giúp nên tụi tôi mới có căn nhà nhỏ ở Cocody và chút vốn làm nem đi bán dạo, sống lây lất tới bây giờ…
- Tôi nghe nói người ViêtNam tỵ nạn ở Pháp ở Mỹ nhiều lắm. Bộ ông không có bạn bè bà con định cư ở các xứ đó sao ?
- Có chớ.
- Sao ông không viết thư cho họ ? Kẻ đi trước giúp người đi sau là sự thường mà.
Ông thở dài, hít mấy hơi thuốc rồi mới nói :
- Tôi có viết thư chớ. Chỉ viết thăm thôi và báo tin rằng tôi đã đến Côte d'Ivoire. Nhưng không thấy ai trả lời hết.
- Có lẽ không đúng địa chỉ chăng.
- Đúng chớ ! Nếu không đúng nó phải được trả về, bởi vì tôi có ghi rõ địa chỉ người gởi mà. Hồi ở Việt Nam người thân của họ cho tôi địa chỉ và tin tức, nói họ bây giờ ổn định và khá lắm.
- Ờ…sao vậy há ?
- Chắc họ sợ tôi xin tiền…
Ông cười khẩy một tiếng nghe như ông muốn khạc ra một cái gì chận ngang cổ họng, một cái gì vừa cay đắng vừa nhờm tởm. Ông nhớ lại hồi thời " vàng son ", bạn bè bà con của ông tới lui nhà ông ăn nhậu hà rầm, trong số đó có nhiều người đã được ông giúp đỡ cưu mang. Vậy mà bây giờ…Ông hít một hơi thuốc thật sâu rồi nhả khói ra từ từ làm khoảng trống trước mặt bị mờ đi, giống như ông muốn xoá bỏ trong đầu hình ảnh của mấy thằng bạn bè mấy người bà con mà ông vừa nhớ lại…
Một hôm, có ông già á đông – ốm nhom, già khú – đi lang thang với điếu thuốc trên môi, ngang qua đó nghe tiếng đánh máy lọc cọc nên tò mò đứng lại nhìn. Đợi anh đen làm xong công việc, ông già mới chào hỏi làm quen. Anh đen rất ngạc nhiên vì ông ta nói tiếng Pháp rất trôi chảy rành rọt, không giống những người á đông mà anh đã từng gặp hay quen biết. Ông già ghé đít ngồi lên bệ thềm gần đó, hỏi :
- Ông làm nghề gì vậy ?
Anh đen nhăn răng cười :
- Viết thư dùm người ta, người ta trả tiền. Ông không thấy bà hồi nãy cầm phong bì đi sao ?
- Thấy. Nhưng mà hồi nãy hai người nói với nhau bằng thổ ngữ nên tôi không hiểu.
Ngừng một chút, ông già lại hỏi :
- Làm ăn có khá không ?
- Ố ! Cũng tạm được.
Hắn chỉ qua bên chợ :
- Khách hàng của tôi là mấy bà buôn bán ở bên kia. Họ không biết chữ, mà con cái họ thì đi làm công bên Pháp bên Bĩ hết. Thành ra, ngày nào cũng viết dùm vài cái thư, lai rai…Với lại ở xứ này, người ta hay thưa gởi kiện cáo lắm nên có công việc làm hoài !
Rồi hắn nhìn ông già từ đầu đến chân :
- Còn ông ? Ông làm nghề gì ở đây ?
- Già quá đâu có ai mướn. Ở không, đi lang thang.
Anh đen lại nhìn ông già ra vẻ tội nghiệp :
- Rồi lấy gì sống ?
- Sống nhờ con. Con gái ở nhà làm nem. Thằng em nó đạp xe đi bán. Khá chật vật !
- Ông người Tàu hả ?
- Không. Tôi người Việt Nam.
Nói xong, ông già thở dài. Tội nghiệp cho cái xứ Việt Nam của ông ! Nhược tiểu đến mức độ mà người dân khi ra ngoại quốc cứ bị thiên hạ gọi là người Tàu !
Ông già đưa bao thuốc lá mời anh đen :
- Hút một điếu chơi.
- Cám ơn. Tôi không biết hút thuốc.
Ngừng một chút, anh ta hỏi :
- Nhà ông ở đâu ?
- Ở tuốt trên Cocody, gần nhà thờ.
- Xa quá há. Rồi ông đi bằng gì xuống đây ? Xe buýt hả ?
- Đi bằng xe đạp. Đạp xuống thì dễ, đạp về leo dốc mới mệt !
Anh đen lại nhìn ông già một lúc, mới nói :
- Ông nói tiếng Pháp rành quá mà không đi làm việc cũng uổng.
- Già như tôi thì còn làm được gì ?
- Tuổi tác ăn nhập gì, trình độ văn hoá mới cần chớ !
Ông già hít mấy hơi thuốc, suy nghĩ. Một lúc sau ông hắng giọng rồi hỏi :
- Ông thấy tôi làm cái nghề viết mướn được không ?
Anh đen nhăn răng cười hớn hở :
- Được chớ ! Được chớ !
Rồi đề nghị :
- Ông cứ ngồi kế bên đây ! Đừng ngại gì hết ! Cả khu Plateau chỉ có một mình tôi làm nghề này. Có thêm ông càng vui.
Thấy dễ dàng quá, ông già đứng ngẩn ra, chưa kịp nói lời nào thì anh ta nói tiếp :
- Vậy, sáng mai ông đem máy đánh chữ ra, nghen.
- Tôi không có máy đánh chữ. Tôi viết tay được không ?
Giọng anh đen hơi xìu xuống :
- Ồ…cũng không sao. Cứ ra đây đi, rồi tính.
Ông già mừng rở, bắt tay anh đen, nói " Cám ơn ! Cám ơn ! Ông tốt bụng quá !", rồi đi xăng xớm về chỗ để xe đạp trước ngân hàng gần đó, mở khoá lấy xe phóng lên đạp đi mà nghe như vừa được bơm vào người thêm nhiều sinh lực !
Mấy hôm sau, ông già xin được của hội nhà thờ một cái bàn và ba cái ghế bằng nhôm loại xếp được để đi pique-nique. Ông mua một mớ giấy viết thư, phong bì, tem, bút bi rồi đạp xe đạp chở bàn ghế đến ngồi cạnh anh đen, hành nghề viết mướn. Buổi sáng đó, trước khi rời nhà, ông lẩm bẩm :" Bữa nay đúng là một ngày đẹp trời !"…
Ông già ngồi đã ba hôm, chẳng có một ai đến nhờ viết ! " Khách hàng " cứ nhờ anh đen. Thấy vậy, anh ta an ủi :
- Đừng buồn. Từ từ rồi sẽ có khách. Tại ông không có máy đánh chữ nên người ta không biết đó thôi.
Một hôm, có hai bà cùng đến một lúc. Anh đen tiếp một bà rồi nói với bà kia :
- Nếu bà gấp thì bước qua ông đồng nghiệp của tôi đây, ổng giúp cho. Ổng viết tay, nhưng cần gì ! Viết tay hay đánh máy cũng vậy thôi ! Điều cần thiết là viết làm sao cho người đọc hiểu.
Bà khách ngần ngừ một lúc rồi bước qua ngồi lên cái ghế xếp trước mặt ông già. Như thông lệ, bà ta đặt tiền lên bàn rồi bắt đầu kể lể bằng thứ tiếng Pháp không có văn phạm. Ông già ngồi chống càm, lắng tai nghe.
Thấy ông viết mướn không viết gì hết, bà khách ngừng kể, lấy làm lạ nhìn ông :
- Sao ông không viết ?
- Thưa bà, tôi đang nghe bà kể, đây.
Bà ta chỉ anh đen :
- Sao kỳ vậy ? Ông làm không giống anh này ! Với anh ta, khi tôi bắt đầu nói là anh ta bắt đầu gõ. Còn ông thì không nhúc nhích gì hết !
Ông già phì cười, giải nghĩa chầm chậm :
- Xin lỗi. Tôi phải nghe bà kể hết những gì bà muốn nói cho người con của bà, rồi tôi mới sắp xếp câu văn để viết. Bà biết không, viết thư phải viết cho mạch lạc thì người con của bà mới hiểu được hết cái ý của bà, bà hiểu không ?
Bà khách ngần ngừ rồi gật đầu. Ông già đốt điếu thuốc, nói tiếp :" Bây giờ, xin bà kể lại. Từ từ kể lại, tôi nghe ". Bà khách liếc nhìn ông rồi nhìn vội xuống hai bàn chân của bà, thấp giọng kể…Bà khổ lắm, buôn bán ế ẩm, con dâu mang bầu đứa thứ năm gần sanh mà cứ đau rề rề, mấy đứa cháu nội đi mót khoai mót củ nhưng không đủ ăn, bà đã gởi ba cái thư xin tiền thằng con, xin nó thương vợ thương con của nó nheo nhóc, chắc thư đã đi lạc nên không thấy hồi âm, bà khổ lắm, không biết thằng con ở bên Pháp còn sống hay đã bị cái gì rồi…Bà khách ngừng kể, kéo ống tay áo lên lau nước mắt.
Nghe xong, ông già viết mướn, chừng như xúc động, làm thinh hít mấy hơi thuốc dài. Bà khách len lén nhìn ông rồi lại nhìn xuống chân của bà, hai bàn chân cùi đày nằm trong đôi dép cao su rách bươm lấm lem bùn đất. Bà đợi. Suy nghĩ một lúc, ông già mới lấy giấy viết. Lâu lâu, ông ngừng lại nhìn xa xăm qua chợ nằm phía đối diện như để tìm chữ tìm câu. Rồi lại cuối đầu viết tiếp.
Viết xong, ông hỏi :
- Bà cần tôi đọc lại không ?
Bà khách chớp chớp mắt, lắc đầu. Bà đưa cho ông địa chỉ của người con, ông chép lên phong bì đã dán tem, cho thư vào dán lại rồi trao cho bà khách. Bà cầm thư lật qua lật lại nhìn như thiếu tin tưởng, rồi đứng lên làm thinh đi về hướng thùng thư đứng ở góc đường. Ông già nhìn theo, lòng nghe chơi vơi như chính ông đang đi gởi thư cho thằng con…
Ngày nào ông già viết mướn cũng mang đồ ra ngồi cạnh anh đồng nghiệp đen, nhưng không phải ngày nào ông cũng có khách. Lâu lâu, có dư người thì anh đen " đẩy " qua cho ông. Anh ta nói đùa :" Đồng nghiệp mà ! Phải giúp nhau chớ ! " Ông cười chua chát :" Cám ơn ! Cám ơn ! Nhờ lòng tốt của anh mà tôi cũng vớt vát được một hai người ".
Một hôm, anh đen bỗng hỏi :
- Hồi trước ông làm gì ở Việt Nam ?
- Buôn bán.
Ông không muốn nói hồi đó ông là chủ hai nhà thuốc tây, khá giàu.
- Rồi tại sao ông đi qua đây vậy ?
- Tại làm ăn không được. Tại…tại nghèo.
Ông không muốn nói " cách mạng " đã tịch thâu tài sản của ông, gia đình ông sống cầu bơ cấu bất ở vùng kinh tế mới, vợ ông chết ở trên đó, ông và hai đứa con trốn về thành phố sống chui như bầy chó hoang, ăn nhờ ở đậu…
- Bộ ông có quen ai bên nây hả ?
Đến đây thì ông già không giấu giếm gì hết :
- Đâu có. Tôi đâu có quen ai. Tôi nghe nói Nhà Nước Côte D' Ivoire dễ dãi và tốt bụng nên tôi viết đại một lá thư dài gởi thẳng cho ông Tổng Thống, trong đó tôi kể hết hoàn cảnh bi đát của tôi. Tôi viết mà không có hy vọng gì hết.
- Ồ…Tại ông không biết chớ Tổng Thống Houphouet của tụi này rất bình dân và thương người lắm !
- Bây giờ thì tôi biết. Bởi vì sau bức thư của tôi, tôi nhận được visa và luôn vé máy bay cho ba cha con tôi nữa. Chuyện thật khó tin.
- Gì mà khó tin ? Tổng Thống tụi này hay làm những " cú " ngoạn mục như vậy lắm ! Chắc ông viết thư cũng phải hay lắm nên mới làm xúc động " Le Vieux " ( Ông Già ).
Ở Côte d' Ivoire, dân chúng thương Tổng Thống Houphouet nên khi nói chuyện với nhau họ gọi ông là " Ông Già " một cách triều mến.
- Hồi đó tôi viết giống như tôi muốn than thở với một người nào đó để cho vơi nỗi thống khổ của mình, chớ đâu dè. Nhận được giấy tờ, tôi như trên trời rớt xuống !
Đến đây, ông già không nói rằng ông đã bán mấy chiếc nhẫn cất giấu từ sau trận nhà nước đánh tư sản, để chạy lo vô hộ khẩu của người bà con xa, rồi chạy lo chiếu khán xuất cảnh v.v…
Ông chỉ nói :
- Hồi qua đến phi trường Abidjan, cha con tôi không biết đi đâu ở đâu. Tôi phân trần với chánh quyền sở tại, họ điện thoại gọi hội " Anciens d'Indochine ". Nhờ hội này giúp nên tụi tôi mới có căn nhà nhỏ ở Cocody và chút vốn làm nem đi bán dạo, sống lây lất tới bây giờ…
- Tôi nghe nói người ViêtNam tỵ nạn ở Pháp ở Mỹ nhiều lắm. Bộ ông không có bạn bè bà con định cư ở các xứ đó sao ?
- Có chớ.
- Sao ông không viết thư cho họ ? Kẻ đi trước giúp người đi sau là sự thường mà.
Ông thở dài, hít mấy hơi thuốc rồi mới nói :
- Tôi có viết thư chớ. Chỉ viết thăm thôi và báo tin rằng tôi đã đến Côte d'Ivoire. Nhưng không thấy ai trả lời hết.
- Có lẽ không đúng địa chỉ chăng.
- Đúng chớ ! Nếu không đúng nó phải được trả về, bởi vì tôi có ghi rõ địa chỉ người gởi mà. Hồi ở Việt Nam người thân của họ cho tôi địa chỉ và tin tức, nói họ bây giờ ổn định và khá lắm.
- Ờ…sao vậy há ?
- Chắc họ sợ tôi xin tiền…
Ông cười khẩy một tiếng nghe như ông muốn khạc ra một cái gì chận ngang cổ họng, một cái gì vừa cay đắng vừa nhờm tởm. Ông nhớ lại hồi thời " vàng son ", bạn bè bà con của ông tới lui nhà ông ăn nhậu hà rầm, trong số đó có nhiều người đã được ông giúp đỡ cưu mang. Vậy mà bây giờ…Ông hít một hơi thuốc thật sâu rồi nhả khói ra từ từ làm khoảng trống trước mặt bị mờ đi, giống như ông muốn xoá bỏ trong đầu hình ảnh của mấy thằng bạn bè mấy người bà con mà ông vừa nhớ lại…
Anh đồng nghiệp da đen suy nghĩ một lúc lâu rồi nghiêng người qua vỗ vai
ông vài cái nhè nhẹ, một cử chỉ an ủi tầm thường như vậy mà ông già
viết mướn bỗng thấy nó đẹp vô cùng. Ông xoay người qua bắt tay anh đen,
không nói gì hết, nhưng ông chắc chắn rằng anh bạn đó hiểu là cái cám ơn
của ông già Việt Nam lưu vong…
Một hôm, bà khách hàng đầu tiên của ông già viết mướn mang biếu ông hai trái xoài Caméroun ( loại xoài xứ Caméroun ngon nổi tiếng vùng Phi Châu Da Đen ) vừa cười vừa nói :
- Tôi cám ơn ông. Nhờ cái thư của ông mà thằng con của tôi hồi tâm. Nó gởi tiền về, kèm theo một cái thư dài. Nó nói nó đọc thư của ông nó khóc quá ! Nó lạy lục xin tôi tha tội cho nó. Nó nói là nó có vợ và một con ở bên Pháp nhưng nó thề sẽ gởi tiền về đều đặn để nuôi tụi này…Tôi vui quá ! Vui quá !
Bà ta nói một hơi, nói thứ tiếng Pháp " ba xí ba tú ", nhưng trong giọng nói nghe đầy xúc động. Nói xong, bà kéo ống tay áo lên lau nước mắt. Ông già nhớ lại cách đây hơn mươi bữa, bà cũng kéo áo lên lau như vậy sau khi kể lể sự buồn khổ của bà. Thì ra, cái vui cái buồn vẫn giống nhau ở giọt nước mắt !
Ông già mỉm cười :
- Tôi viết mướn, bà trả tiền, có gì đâu mà bà cám ơn ?
- Không nhờ cái thư của ông, không biết tụi này còn khổ sở đến đâu. Cám ơn ! Cám ơn !
Nói xong, bà đi trở qua chợ. Ông già đưa một trái xoài cho anh đen :
- Anh cầm lấy để chia vui với tôi !
Anh ta cầm trái xoài trên tay nhìn ngắm một lúc rồi nói :
- Làm nghề này đã hơn năm năm, tôi chưa được khách hàng tặng quà bao giờ. Ông mới ra nghề mà được như vầy là ông viết thư phải hay lắm.
- Thì cũng ráng viết vậy thôi.
- Đâu được ! Viết mà làm xúc động người đọc đâu phải dễ. Bây giờ tôi hiểu tại sao "Ông Già" đã gởi tặng ông visa và vé máy bay !
Ông già viết mướn đốt điếu thuốc, thở khói một cách sảng khoái. Ông nhớ lại ngày xưa, thuở thiếu thời, ông lúc nào cũng đứng đầu về luận văn, và về sau ra đời, ông cũng có lai rai vài ba truyện ngắn đăng báo này tạp chí nọ. Viết, đối với ông, là để giải toả tâm tư, một cách giải toả trầm lặng và sâu đậm hơn là nói. Cho nên trong đời ông, ông rất thích viết, nhứt là viết thư cho bạn, những người cũng thích viết như ông hay ít ra cũng biết viết vài dòng hồi âm hay vài chữ để hỏi thăm nhau…
Hai hôm sau, có thêm một bà mang đến mấy trái cam để cám ơn ông đã viết thư cho chồng bà có vợ đầm ở Bỉ. Rồi cứ như vậy, vài hôm là có người đến cám ơn, cho quà, khi thì chai đậu phọng ( Ở đây, sau khi ran, đậu được cho vào chai lít đầy tới miệng rồi đóng nút để giữ cho được dòn lâu. Người nghèo bản xứ hay ăn đậu phọng với bánh mì…) Khi thì mấy trái cà chua, vài bó rau cải…Có gì cho nấy, không nề hà ! Ông già nhận hết, bởi vì ông thấy làm như vậy, người cho rất vui. Cái vui của họ được bộc lộ ra một cách rất thiệt thà : họ quay lưng bước đi, vừa vỗ tay thành nhịp vừa lắc lư nhún nhảy. Lần nào ông cũng nhìn theo, thấy cũng vui lây…
Vậy rồi không biết họ đồn với nhau thế nào mà khách hàng cứ đến nhờ ông viết. Những người cần làm đơn từ cũng đến nhờ ông ! Bên anh đen đồng nghiệp thấy thưa khách. Ông già bèn đề nghị :" Tình trạng này kéo dài coi kỳ quá ! Tôi đề nghị anh bạn như thế này : tôi lãnh viết thư nhà, anh lãnh viết đơn hành chánh. Mình cứ nói đơn hành chánh phải được đánh máy cho sạch sẽ dễ đọc thì các cơ quan mới mau chóng cứu xét. Anh đồng ý không ? " Anh đen nhăn răng cười, bắt tay ông một cái đau điếng !
Từ đó, thấy khách đến, anh đen trịnh trọng nói :" Đơn từ thì ở bàn này. Thư cho thân nhân thì bước sang bàn ông bạn đồng nghiệp của tôi đây ! " Lần hồi, khách hàng cũng quen nên cả hai người viết mướn cùng có việc làm đều đặn. Và càng ngày càng đông khách.
Một hôm, anh đen hỏi :
- Tôi cứ thắc mắc : làm sao viết thư mướn mà ông viết hay được như vậy ?
- Tại anh không biết. Xưa nay tôi say mê viết. Tôi thích viết cho một người nào đó để giải bày, để chia xẻ những cảm nghĩ những suy tư của mình, chọn lời cho đúng, chọn câu cho hay…thú lắm !
Ông già ngừng nói, hít chầm chậm một hơi thuốc rồi chép miệng :
- Bây giờ tôi chẳng còn ai để mà viết. Bạn bè thì anh biết đó. Chúng nó cũng như người vừa đui vừa điếc, viết uổng công. Cho nên làm nghề viết mướn này, tôi có chỗ để viết. Tôi khổ cái khổ của khách hàng, tôi vui cái vui của khách hàng, tôi tâm sự cái tâm sự của khách hàng. Tôi viết với tất cả những xúc cảm chân thật đó,viết mà không nghĩ là mình viết mướn !
Anh đen vỗ tay đôm đốp, khen :
- Hay ! Ông nói hay quá ! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao khách hàng mến mộ ông như vậy ! Tổng Thống tụi tôi đem ông qua đây, đúng là " Ông Già " ổng có con mắt !
Rồi hắn cười hắc hắc làm ông già cũng bật cười theo. Cả hai, không người nào nhớ rằng mình da đen hay mình da vàng, họ chỉ biết họ là hai người viết mướn…
Hai năm sau…
Một hôm ông già bỗng thèm viết cho mấy thằng bạn hồi đó. Viết cho mỗi người một cái thư, lời lẽ y chang như nhau. Viết bức thư cuối cùng cho họ. Viết để cho họ thấy rằng ông phủi đít phủi tay, dứt khoát không còn bận bịu gì nữa với quá khứ, với lớp bụi đất đã ăn bám vào ông hồi thuở " vàng son ".
Ông đốt điếu thuốc, suy nghĩ. Đại khái, ông sẽ viết :
" Thưa anh…gì gì ( hay chị … gì gì )
Tôi viết thư này để báo tin cho anh… ( hay chị… ) mừng dùm cho cha con chúng tôi. Tụi này đã định cư luôn ở Côte d'Ivoire. Bây giờ, đời sống tụi này đã ổn định, cuộc sống tương đối khá. Hai con tôi có cửa hàng bán nem ở chợ Cocody, thiên hạ đến mua cũng đông. Còn tôi thì làm nghề viết mướn, khách hàng cũng nhiều. Được như vậy là nhờ ở xứ đen này, con người thấy đen nhưng lòng dạ của họ không đen chút nào hết. Chẳng bằng người Việt mình, nhiều người bề ngoài trắng trẻo lịch sự nhưng lòng của họ chẳng những đen mà còn bạc nữa, anh… ( hay chị…) có thấy như vậy không ?..."
Nghĩ đến đó, ông già bỗng cười khan một mình !
Tiểu Tử
Một hôm, bà khách hàng đầu tiên của ông già viết mướn mang biếu ông hai trái xoài Caméroun ( loại xoài xứ Caméroun ngon nổi tiếng vùng Phi Châu Da Đen ) vừa cười vừa nói :
- Tôi cám ơn ông. Nhờ cái thư của ông mà thằng con của tôi hồi tâm. Nó gởi tiền về, kèm theo một cái thư dài. Nó nói nó đọc thư của ông nó khóc quá ! Nó lạy lục xin tôi tha tội cho nó. Nó nói là nó có vợ và một con ở bên Pháp nhưng nó thề sẽ gởi tiền về đều đặn để nuôi tụi này…Tôi vui quá ! Vui quá !
Bà ta nói một hơi, nói thứ tiếng Pháp " ba xí ba tú ", nhưng trong giọng nói nghe đầy xúc động. Nói xong, bà kéo ống tay áo lên lau nước mắt. Ông già nhớ lại cách đây hơn mươi bữa, bà cũng kéo áo lên lau như vậy sau khi kể lể sự buồn khổ của bà. Thì ra, cái vui cái buồn vẫn giống nhau ở giọt nước mắt !
Ông già mỉm cười :
- Tôi viết mướn, bà trả tiền, có gì đâu mà bà cám ơn ?
- Không nhờ cái thư của ông, không biết tụi này còn khổ sở đến đâu. Cám ơn ! Cám ơn !
Nói xong, bà đi trở qua chợ. Ông già đưa một trái xoài cho anh đen :
- Anh cầm lấy để chia vui với tôi !
Anh ta cầm trái xoài trên tay nhìn ngắm một lúc rồi nói :
- Làm nghề này đã hơn năm năm, tôi chưa được khách hàng tặng quà bao giờ. Ông mới ra nghề mà được như vầy là ông viết thư phải hay lắm.
- Thì cũng ráng viết vậy thôi.
- Đâu được ! Viết mà làm xúc động người đọc đâu phải dễ. Bây giờ tôi hiểu tại sao "Ông Già" đã gởi tặng ông visa và vé máy bay !
Ông già viết mướn đốt điếu thuốc, thở khói một cách sảng khoái. Ông nhớ lại ngày xưa, thuở thiếu thời, ông lúc nào cũng đứng đầu về luận văn, và về sau ra đời, ông cũng có lai rai vài ba truyện ngắn đăng báo này tạp chí nọ. Viết, đối với ông, là để giải toả tâm tư, một cách giải toả trầm lặng và sâu đậm hơn là nói. Cho nên trong đời ông, ông rất thích viết, nhứt là viết thư cho bạn, những người cũng thích viết như ông hay ít ra cũng biết viết vài dòng hồi âm hay vài chữ để hỏi thăm nhau…
Hai hôm sau, có thêm một bà mang đến mấy trái cam để cám ơn ông đã viết thư cho chồng bà có vợ đầm ở Bỉ. Rồi cứ như vậy, vài hôm là có người đến cám ơn, cho quà, khi thì chai đậu phọng ( Ở đây, sau khi ran, đậu được cho vào chai lít đầy tới miệng rồi đóng nút để giữ cho được dòn lâu. Người nghèo bản xứ hay ăn đậu phọng với bánh mì…) Khi thì mấy trái cà chua, vài bó rau cải…Có gì cho nấy, không nề hà ! Ông già nhận hết, bởi vì ông thấy làm như vậy, người cho rất vui. Cái vui của họ được bộc lộ ra một cách rất thiệt thà : họ quay lưng bước đi, vừa vỗ tay thành nhịp vừa lắc lư nhún nhảy. Lần nào ông cũng nhìn theo, thấy cũng vui lây…
Vậy rồi không biết họ đồn với nhau thế nào mà khách hàng cứ đến nhờ ông viết. Những người cần làm đơn từ cũng đến nhờ ông ! Bên anh đen đồng nghiệp thấy thưa khách. Ông già bèn đề nghị :" Tình trạng này kéo dài coi kỳ quá ! Tôi đề nghị anh bạn như thế này : tôi lãnh viết thư nhà, anh lãnh viết đơn hành chánh. Mình cứ nói đơn hành chánh phải được đánh máy cho sạch sẽ dễ đọc thì các cơ quan mới mau chóng cứu xét. Anh đồng ý không ? " Anh đen nhăn răng cười, bắt tay ông một cái đau điếng !
Từ đó, thấy khách đến, anh đen trịnh trọng nói :" Đơn từ thì ở bàn này. Thư cho thân nhân thì bước sang bàn ông bạn đồng nghiệp của tôi đây ! " Lần hồi, khách hàng cũng quen nên cả hai người viết mướn cùng có việc làm đều đặn. Và càng ngày càng đông khách.
Một hôm, anh đen hỏi :
- Tôi cứ thắc mắc : làm sao viết thư mướn mà ông viết hay được như vậy ?
- Tại anh không biết. Xưa nay tôi say mê viết. Tôi thích viết cho một người nào đó để giải bày, để chia xẻ những cảm nghĩ những suy tư của mình, chọn lời cho đúng, chọn câu cho hay…thú lắm !
Ông già ngừng nói, hít chầm chậm một hơi thuốc rồi chép miệng :
- Bây giờ tôi chẳng còn ai để mà viết. Bạn bè thì anh biết đó. Chúng nó cũng như người vừa đui vừa điếc, viết uổng công. Cho nên làm nghề viết mướn này, tôi có chỗ để viết. Tôi khổ cái khổ của khách hàng, tôi vui cái vui của khách hàng, tôi tâm sự cái tâm sự của khách hàng. Tôi viết với tất cả những xúc cảm chân thật đó,viết mà không nghĩ là mình viết mướn !
Anh đen vỗ tay đôm đốp, khen :
- Hay ! Ông nói hay quá ! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao khách hàng mến mộ ông như vậy ! Tổng Thống tụi tôi đem ông qua đây, đúng là " Ông Già " ổng có con mắt !
Rồi hắn cười hắc hắc làm ông già cũng bật cười theo. Cả hai, không người nào nhớ rằng mình da đen hay mình da vàng, họ chỉ biết họ là hai người viết mướn…
Hai năm sau…
Một hôm ông già bỗng thèm viết cho mấy thằng bạn hồi đó. Viết cho mỗi người một cái thư, lời lẽ y chang như nhau. Viết bức thư cuối cùng cho họ. Viết để cho họ thấy rằng ông phủi đít phủi tay, dứt khoát không còn bận bịu gì nữa với quá khứ, với lớp bụi đất đã ăn bám vào ông hồi thuở " vàng son ".
Ông đốt điếu thuốc, suy nghĩ. Đại khái, ông sẽ viết :
" Thưa anh…gì gì ( hay chị … gì gì )
Tôi viết thư này để báo tin cho anh… ( hay chị… ) mừng dùm cho cha con chúng tôi. Tụi này đã định cư luôn ở Côte d'Ivoire. Bây giờ, đời sống tụi này đã ổn định, cuộc sống tương đối khá. Hai con tôi có cửa hàng bán nem ở chợ Cocody, thiên hạ đến mua cũng đông. Còn tôi thì làm nghề viết mướn, khách hàng cũng nhiều. Được như vậy là nhờ ở xứ đen này, con người thấy đen nhưng lòng dạ của họ không đen chút nào hết. Chẳng bằng người Việt mình, nhiều người bề ngoài trắng trẻo lịch sự nhưng lòng của họ chẳng những đen mà còn bạc nữa, anh… ( hay chị…) có thấy như vậy không ?..."
Nghĩ đến đó, ông già bỗng cười khan một mình !
Tiểu Tử
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 18
CHÍNH LUẬN 18
I. QUỐC TẾ
Học
thuyết Marx đẻ ra đảng cộng sản và những quái thai thời đại. Chủ nghĩa
cộng sản lớn mạnh và đi đến hai hủy thể lớn của chính nó. Đó là sự tha
hóa (alienation) và sự phát triển cùng độ của vô sản chuyên chính.
1 THA HÓA
Marx
huyênh hoang cho rằng triết lý duy vật của ông là khoa học nhưng sự
thực sau một thời gian, chủ nghĩa Marx trở thành phản khoa học, một tôn
giáo với những giáo điều mù quáng , ngu ngốc, và những tín đồ cuồng
điên.
Những
kế hoạch năm mười năm của các chương trình phát triển kỹ nghệ hóa và
nông nghiệp là kết quả bi thảm của tư tưởng duy tâm hay duy ý chí của
Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông. Căn cứ vào đâu mà họ đặt ra những kế
hoạch đó? Thông thường các nhà kinh tế phải làm con số nhân và số cộng.
Lenin, Stalin, Mao có tính toán không hay đó chỉ là do lòng tham, do
tưởng tượng của kẻ bịnh tâm thần. Làm sao họ vượt qua kinh tế tư bản,
nhất là vượt qua Mỹ?
Mao ngu xuẩn khi bắt dân chúng lao động chân tay không nhập cảng kỹ thuật Tây phương theo kiểu Tố Hữu"Bàn tay ta làm nên tất cả". Ông cho rằng ý chí quyết định tất cả. Ý chí quan trọng hơn vũ khí, ý chí quan trọng hơn máy móc, kỹ thuật. Bởi quan điểm này ông không cho nhập cảng máy móc Tây phương trong nông nghiệp và kỹ thuật. Ông ăn uống no nê nhưng ông bắt nông dân, công nhân lao động với bụng đói, và khi bệnh tật thì không thuốc men!Sau này Đặng Tiểu Bình đi theo đường lối khác, đó là bốn hiện đại hóa.
Mao ngu xuẩn khi bắt dân chúng lao động chân tay không nhập cảng kỹ thuật Tây phương theo kiểu Tố Hữu"Bàn tay ta làm nên tất cả". Ông cho rằng ý chí quyết định tất cả. Ý chí quan trọng hơn vũ khí, ý chí quan trọng hơn máy móc, kỹ thuật. Bởi quan điểm này ông không cho nhập cảng máy móc Tây phương trong nông nghiệp và kỹ thuật. Ông ăn uống no nê nhưng ông bắt nông dân, công nhân lao động với bụng đói, và khi bệnh tật thì không thuốc men!Sau này Đặng Tiểu Bình đi theo đường lối khác, đó là bốn hiện đại hóa.
Mao viết quyển sách đỏ và theo lệnh ông, mọi người coi đó là thánh kinh,
nếu gặp việc gì khó khăn, giở vài trang sách Đỏ là sẽ được thánh thần
linh thiêng truyền dạy.
Hồ Chí Minh chết đi, dân Việt Nam nghèo đói nhưng cộng đảng cũng bắt chước Liên Xô xây mộ to lớn và tốn kém, với mục đích biến mộ ông Hồ thành một thánh tích. Không những thế, Việt Cộng còn bắt dân thờ cúng. Tại tư gia và chùa chiền, chúng bắt dân đặt ảnh lão già chung với tổ tiên và Phật.
Hồ Chí Minh chết đi, dân Việt Nam nghèo đói nhưng cộng đảng cũng bắt chước Liên Xô xây mộ to lớn và tốn kém, với mục đích biến mộ ông Hồ thành một thánh tích. Không những thế, Việt Cộng còn bắt dân thờ cúng. Tại tư gia và chùa chiền, chúng bắt dân đặt ảnh lão già chung với tổ tiên và Phật.
Họ
không biết rằng tín ngưỡng và thờ phụng là do tâm chứ không do bắt
buộc. Họ không biết rằng tại một quốc gia nọ vị vua kia bắt dân theo tôn
giáo của ông, ai không theo thì bị giết, bị bỏ tù. Một số dân phải bỏ
lên núi gia nhập đảng cướp. Rốt cuộc, dân nổi lên giết gia đình vua.
Sau đó
con cháu vua đều bị báo oán mà trước sau đều chết thảm khốc. Kết quả
rõ ràng nhất là ngay sau khi vua chết, gần một triệu người bỏ đạo!
Sau khi Kim Chính Nhật qua đời, nhiều hình ảnh cho thấy người dân Bắc Triều Tiên khóc thương thảm thiết, và có đến năm triệu người đã ra đường bày tỏ sự thương tiếc đối với ông. Tuy nhiên cũng có người nghi ngờ tính chân thật của nỗi đau này, BBC dẫn lời người từng có tác phẩm viết về Bắc Triều Tiên Barbara Demick nói rằng:
"Cả tương lai của anh tùy thuộc khả năng khóc được không.
Không chỉ sự nghiệp, tấm thẻ đảng Lao Động, mà cả sinh mạng.
Đó là chuyện sống hay chết."
Hãng
thông tấn Trung ương Triều Tiên
(KCNA) cho biết: cả thiên nhiên và loài chim chóc cũng khóc thương lãnh
tụ Kim Chính Nhật, người được gọi là "con của thánh thần" Cũng theo Bắc
Triều , bão tuyết đã nổi lên khi ông qua đời, băng trên hồ ức Thiên
Trì trên đỉnh ngọn núi Paektu
tại biên giới Trung-Triều nơi ông sinh ra đã vỡ tan, ánh hào quang bí
ẩn hiện ra trên núi và người ta thấy một dòng chữ sáng chói: "Núi
Paektu, ngọn núi thiêng liêng của cách mạng. Kim Chính Nhật".(Wikipedia)
Ông Trần Đại Sĩ đã kể chuyện ông gặp một nữ bác sĩ Bắc Hàn:" Bấy giờ tôi đã 41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt.
Ông Trần Đại Sĩ đã kể chuyện ông gặp một nữ bác sĩ Bắc Hàn:" Bấy giờ tôi đã 41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt.
Cô hỏi tôi:
- Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à?
- Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh gì vậy?
- Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ?
- Vậy cô đọc kinh gì ?
- Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đã cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc!
Không biết cô này nói thật hay chỉ là một màn biểu diễn trước công an và quan khách quốc tế?
2. LƯU MANH
Cái tàn ác của cộng sản nằm trong hai chữ chuyên chính. Lenin và Stalin thực hiện vô sản chuyên chính một cách triệt để bằng cách giêt người , cướp của, bỏ tù. Họ bắt người, xử người không cần bằng cớ, không cần tòa án. Họ chủ trương giết lầm hơn bỏ sót, họ nói " mục đich biện minh phương tiện". Họ làm tất cả điều ác, điều xấu để được thắng lợi. Họ khủng bố, giết người, họ cũng dối trá, lường gạt, vu vạ, nói xấu...Chuyên chính và lưu manh trở thành một. Hồ Chí Minh là một kẻ gian giảo xảo quyệt. Hồ Chí MInh và đảng cộng sản là một lũ du côn đúng như vua Bảo Đại nhận xét. Ngay cả Đặng Tiểu Bình cũng gọi người anh em đồng chí mình là côn đồ!
Bắc Hàn nghèo đói nhưng đã khoe khoang về khả năng hạt nhân và hỏa tiễn. Lâu lâu, Bằc Hàn thử hạt nhân và hỏa tiễn khiến Mỹ " lo quýnh lên" mà phải hội đàm cùng họ. Cuối cùng họ cũng được Mỹ và Nam Hàn viện trợ lương thực. Mỹ và Nam Hàn sợ Bắc Hàn? Mỹ và Nam Hàn ngu si để cho lũ yêu ma bắt nạt ư? Cậu Ủn Bắc Hàn vừa lên ngôi đã bắt chước âm mưu cũ của cha. Trong mấy tháng đầu hung hăng, cậu Ủn dọa bắn tan tành Nam Hàn, Mỹ và Nhật. Nhưng ông ngoại trưởng mới của Mỹ cũng chì thật, không chịu xuống nước, còn ráo riết trừng phạt Bắc Hàn.
Theo quan điểm của Bắc Hàn, cần có hiệp định hòa bình đảm bảo vắng bóng kẻ thù từ bên ngoài trước khi Bình Nhưỡng có thể từ bỏ vũ khí nguyên tử một cách an toàn. Nghĩa là Mỹ có bom hạt nhân, có hỏa tiễn xuyên lục địa thì Bắc Hàn cũng phải có!
Washington nghĩ ngược lại: hoàn toàn không thể bình thường hóa quan hệ nếu Bắc Hàn còn có chương trình hạt nhân. Như thế là lần này Mỹ và Bắc Hàn đều lên gân, chưa ai chịu thua ai. Lần này, cậu Ủn tỏ ra là một tay chơi bài gỉỏi lắm, cậu tố xả láng khi cậu đóng cửa khu Kaesong. là nơi hái ra bạc, khạc ra ngoại tệ của cậu. Làm như thế cậu muốn tỏ ra là ta không cần tiền, ta không cần xin cơm thừa canh cặn của tư bản như cha của cậu đã từng làm một cách lưu manh và nhục nhã như thế! . Nhưng kết cuộc ra sao? Mỹ và Nam Hàn nói không hoặc vì lẽ nào đó cuối cùng lại đem tiền thuế của nhân dân nhét vào miệng cọp đói?
II.VIỆT NAM
1.HIẾN PHÁP
Cộng đảng loan tin sửa đổi Hiến Pháp. Hiện nay đã có những bản dự thảo và các bản kiến nghị. Nhưng giờ chót sẽ là cái gì? Một điểm được thông báo là đổi tên nước, là trở lại cái tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà bỏ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Phải chăng là muốn bỏ chủ nghĩa cộng sản? Thật ra cái tên không quan trọng bằng thực chất. Thời Dân chủ cộng hòa đã có đảng cộng sản ác gian, và nước ta không có tự do, dân chủ vì Hồ Chí Minh đã treo Hiến Pháp 1946 lên cành đa.
Và thời Dân Chủ Cộng hòa vẫn có tàn sát Quốc Dân đảng, Đại Việt , Hòa Hảo, Cao Đài. Nhất là đã có cuộc Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất gây sầu thảm cho nhân dân và đảng viên.
Đổi Hiến Pháp có mục đích gì? Để trao quyền Tổng Bí Thư và Chủ Tịch nước vào một người như Trung Cộng? Hay đổi tên Việt Nam thành một quận huyện của Trung Cộng? Và bỏ cờ đỏ sao vàng thành cờ Trung Cộng sáu sao? Việt Cộng gian xảo, quỷ quyệt, chúng ta phải đề phòng.
Việt Nam nay như một căn nhà bị mối mọt ăn hết rồi, phải phá đi mà xây dựng nhà mới, còn lấy ni lon che, hay mâm thau mà hứng nước cũng vô ích. Sửa hiến pháp chỉ là việc xoa bóp ngoài da không chữa nổi bệnh ung thư. Phải vứt bỏ khối u độc, phải tiêu diệt chủ nghĩa Marx ,đập tan đảng cộng sản để xây dựng một đất nước thật sự tự do, dân chủ.
2. HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 6 VÀ 7
Mục đích của Tổng bí thư và Chủ tịch nước mở hội nghị trung ương 6 và 7 là thanh trừng tham nhũng, làm sạch chế độ, củng cố bô máy chính quyền,.... Nói rất hay nhưng kết quả hai ông Tổng bí thư và Chủ tịch nước hăm he đe dọa ầm ầm mà chẳng trừng phạt, truất phế được đồng chí X như hai ông mong muốn.
Mặc dầu các ông lịch sự chẳng nói ra, cả nước đều biết d /c X là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thật ra cả nước đã thấy toàn là tham nhũng chẳng thấy đâu Bao Công thì xử án làm sao! Chính Tổng bí thư nói là cả một đàn sâu chứ chẳng phải một hai con. Ba ông lớn nhất là đại tham nhũng, và còn có cả mấy trăm, mấy ngàn đảng viên gộc đều mặt mũi xấu xa, lòng dạ tàn ác, tất cả đều phạm tội tham nhũng, bòn rút tài sản quốc gia, cướp đất, cướp nhà nhân dân và thuộc tập đoàn bán nước cho Trung Cộng. Như vậy bọn chúng mượn danh trừ tham nhũng để giết nhau giành ăn, hoặc đàng sau có mục đích gì. Phải chăng phe thân Trung Cộng và chống Trung Cộng đang hầm hè đấu tranh?
Đây là một vấn đề tế nhị nhưng đã xì ra từ vụ Tổng cục 2 muốn trừ phe chống Trung cộng. Nguyễn Chí Vịnh được Nông Đức Mạnh giao cho việc thanh trừng Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt cùng một số tướng lãnh và đảng viên cao cấp khác với tội danh là CIA. May thay, cuộc thanh trừng không thành công, chỉ một mình Võ Văn Kiệt lãnh đạn!
Trước đại hội 6, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh gửi thư cho Bauxite Vietnam cho rằng Trung Quốc can thiệp vào nội bộ Việt Nam mục đích cho Nguyễn Tấn Dũng tồn tại. Sự nghi ngờ này là do một diễn biến mới đây , ngay trước thềm Hội nghị trung ương 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam mà theo nhiều nguồn tin sẽ xem xét và kiểm điểm các sai phạm của Thủ tướng Dũng, ông Dũng đến tham dự hội chợ đầu tư thương mại giữa Trung Quốc và các nước Asean tại Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, đã có cuộc gặp với lãnh đạo tương lai của Trung Quốc là phó Chủ tịch Tập Cận Bình.Ông cho là Nguyễn Tấn Dũng là người của Trung Quốc, được TRung Quốc bảo vệ. Ông nói
"Cái Trung Quốc không bằng lòng thì không dám làm, vậy thì còn gì là độc lập tự chủ?"Nếu không kiên quyết xử lý dứt điểm vấn đề Nguyễn Tấn Dũng trong thời điểm hiện nay để mắc mưu ông ta thoát khỏi bị xử lý ngay trong hội nghị trung ương kỳ này và kỳ họp Quốc hội tháng 11 tới thì vô cùng nguy hại."
- http://boxitvn.blogspot.ca/2012/10/bbc-noi-ve-bai-viet-tren-trang-boxitvn.html
- http://iixij.blogspot.ca/2012/10/tuong-nguyen-trong-vinh-khong-e-tq-can.html
Sau đại hội 7, trả lời đài BBC , giáo sư Tương Lai của nhà nước Cộng sản cho rằng việc hai ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ không vào bộ Chính trị là điểu mừng. Ông cho rằng Nguyễn Bá Thanh đi với Trung Quốc.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/05/130511_7th_plenum_comments.shtml
TIN TỨC XA GẦN
Vì tế nhị, GS Tương Lai không nói ra nhưng ta cũng hiểu là Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang là tay sai Trung Quốc. Nhiều bài báo cho rằng ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân vào bộ Chính trị là một điềm tốt nhưng bà Kim Ngân thì không nổi bật còn ông Nguyễn Thiện Nhân thì đã phá nát nền giáo dục Việt Nam. Những con người đó thì có ích lợi gì cho đại cuộc!
Cuộc diện Việt Nam thật tối tăm, khuất khúc và khó khăn thay!
Sau đại hội 7 là hồng thủy hay là gì đây?
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 262
Posted by
vanhoa
at
9:34 PM
No comments:
Trả lại sự thật cho lịch sử : Anh Em Diệm, Nhu Thỏa Hiệp Với CSBV
Cuốn sách bị bỏ quên: Phật giáo tranh đấu (1)
Phần Thứ III: Ngọn Lửa Thích Quảng Đức
NGÔ ĐÌNH DIỆM
Monday, May 20, 2013
CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ " NỀN HÒA BÌNH DANG DỞ " 1
Trả lại sự thật cho lịch sử : Anh Em Diệm, Nhu Thỏa Hiệp Với CSBV
Đỗ Tùng
... với kế hoạch toàn bộ sách lược
thỏa hiệp với CSBV của anh em Diệm Nhu có thể tóm tắt trong bốn kế hoạch như
sau :
1.- Công
khai và cụ thể chống Mỹ, nhưng chỉ chống đến một mức độ còn kiểm soát được, để
vừa thỏa mãn điều kiện tiên quyết của Hà Nội vừa lại có thể sử dụng được lực
lượng của Mỹ như một áp lực với Hà Nội, hoặc nếu cần, có thể quay trở lại tình
trạng đồng minh như cũ.
2.- Vận động
để một số quốc gia, đặc biệt là Pháp, đóng vai trò trung gian và bảo đảm sự
thực thi của thỏa hiệp thành hình.
3.- Chuẩn bị
và tiến hành những biện pháp an ninh và chinh trị để kiểm soát các lực lượng
quốc gia và quần chúng miền Nam trong trường hợp nổi dậy chống đối thỏa hiệp này.
4.- Trực
tiếp đối thoại với chính quyền Hà Nội để thương thảo về vấn đề chấm dứt chiến
tranh và thống nhất đất nước. (Hồi Ký VNMLQHT của Tướng Đỗ Mậu trang 566).
Bởi những kế hoạch ở trên, nên Nhu
đích thân điều động và kiểm soát cũng như âm mưu bắt tay với Hà Nội, không chỉ
nhờ Đại Sứ Maneili làm liên lạc giữa Hà Nội và Sàigòn, mà chính Ngô Đình Nhu đã
đích thân đi gặp Phạm Hùng, như tướng Trần Văn Đôn
đã tiết lộ trong tác phẩm Việt Nam Nhân Chứng từ trang 183 đến 184 như sau
đây :
"Đầu tháng
2 năm 1963, Trung Tá Bường, lúc ấy đang làm Tỉnh Trưởng Bình Tuy, dùng xe dodge
4 x 4, chở Ông Ngô Đình Nhu và Ông C đi săn. Trời đã trơ lạnh và có mưa, mà ông
Cố Vấn đi săn! Nhưng, có ai biết được, đó chỉ là lối ngụy trang. Sư thật các
ông ấy không đi săn, mà đi thẳng tới một căn nhà lá trong rừng thuộc địa hạt
quận Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Tuy...
Trung Tá
Bường lái xe đưa ông Ngô Đình Nhu đến chỗ hẹn. Đến nơi, Trung Tá Bường và ông C
chờ ngoài xe, lo an ninh. Chỉ có ông Nhu vô. Hai người ngồi ngoài lắng tai nghe
những lời đối thoại ở bên trong lúc nhỏ lúc to. Người đang nói chuyện với ông
Nhu là Phạm Hùng, có hai người nữa ngồi bên cạnh... Ông
Nhu hứa với Phạm Hùng khi nối xong đường xe lửa thì Bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy
sẽ đi chuyến xe thống nhưt đầu tiên ra Hà Nội...
Trong câu
chuyện Phạm Hùng
cũng trách sao giao những căn cứ quân sự cho Mỹ sử dụng. Ông Nhu nói
Mỹ là
đồng minh của miền Nam, Mỷ đến miền Nam và dỉ nhiên sử dụng những nơi đó chứ
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không có giao nhượng cho Mỷ..."
Tiết lộ của
tướng Đôn trên đây, nhắc tôi nhớ lại đần năm Quý Mão (tháng 2-1963), nhân buổi
tiếp tân đầu Xuân tại dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm chỉ một cành đào được
chưng bày trong đại sảnh rồi nói với quan khách rằng : Đó là cành đào do đồng
bào Bắc Việt gởi tặng. Mọi người im lặng nhưng đều có vẻ suy tư...(Hồi Ký VNMLQHT
trang 598).
Trong khi
đó, ông Nguyễn
Văn Ba viết về "Cành Đào" như sau :
Tết Quý Mão,
1963, cái Tết cuối cùng của nên Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đón
xuân ở Dinh Gia Long (Phủ Thủ Tướng), vì Dinh Độc Lập (Phủ Tổng Thống) đang
được sửa chữa do bị hai phi công Quốc và Cử ném hai trái bom ngay sau Tết Nhâm
Dần, 1962.Như thường lệ, Sở Nội Dịch Phủ Tổng Thống lo trang hoàng phòng khánh
tiết với một cành mai.Bổng ngày 28 Tết, Nha Nghi Lễ Phủ Tổng Thống được thông
báo từ phòng Liên Lạc Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (UHQTKSĐC) rằng ông
Ram C.Goburdhun, Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC tại Việt Nam
có nhờ chuyển đến Phủ Tổng Thống một cành đào lớn để
Tổng Thống Ngô Đình Diệm thưởng ngoạn trong dịp Xuân về. Cành đào được chuyển
từ UHQT KSĐC trên đường Lý Thái Tổ về Dinh Gia Long bằng một xe vận tải mui
trần với bốn quân nhân đỡ bốn góc và một người khác giữ gốc.Cành đào lớn thiệt,
vô không lọt cửa sau Dinh Gia Long nên phải dùng cửa trước.
Nhiều người
hiếu kỳ muốn xem cành đào đẹp cỡ nào, nhưng không ai dám mạo phạm mở lớp giấy
dầu, giấy nylon. Một tùy viên của Tổng Thống Diệm mang lá thư của Đại Sứ Ấn Độ,
chủ tịch UHQTKSĐC lên trình Tổng Thống Diệm.
Sau khi xem
thư, Tổng Thống Diệm xuống lầu, ra lịnh gỡ giấy. Cành đào tuyệt đẹp hiện
ra với tấm băng lụa màu hồng có những dòng chữ mang nét viết thật mỹ thuật.
Mọi người
tái mặt khi đọc nhưng dòng chữ này, chỉ riêng Tổntg Thống Diệm là sắc mặt không
đổi, có lẽ đã biết lai lịch cành đào từ lá thơ của ông Đại Sứ Ấn Độ.
Với
giọng Huế thường nhật, Tổng Thống Diệm bảo ông Giám Đốc Sở Nội Dịch : "mần
răng kiếm cái thống lớn, đặt vô trông mơí đẹp..." Sau khi Tổng Thống Diệm
trở lên lầu, mọi người bu lại xem cho kỹ những dòng chữ trên tấm lụa hồng :
"Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Kính Tặng Tổng Thống Ngô Đình
Diệm". Ngày nay người Việt hải ngoại, qua những hồi kỳ đã ấn hành, ai cũng
biết ông Diệm tuy là Tổng Thống một nước Cộng Hòa, nhưng hành xử rất phong
kiến, không kém vua chúa thời xưa. Nào là xem thuộc cấp sỗ sàng như quan sát
một quái vật, nào là tiếp kiến Tổng Thống xong phải đi lui, không được quay
lưng lại... Một trong những cái phong kiến ấy là thủ tục "Chúc Thọ"
ông ngày Tết.Mùng một Tết năm ấy, lúc 10 giờ sáng, trên con đường Ngô Đình Khôi
(tên anh ruột Tổng Thống Diệm, một vị Tổng Đốc, đường này trươc đó mang tên De
Gaulle), hàng trăm xe du lịch nối đuôi nhau, trên kiếng xe có tên và chức vụ
của từng người.
Nha Nghi Lễ
Phủ Tổng Thống dùng máy phóng thanh mời những Bộ Trưởng, Tướng Lãnh...nhập Dinh
Gia Long. Bộ Trưởng thì khăn đóng áo dài. Tướng Lãnh thì đồ đạt lễ trắng, ngực
đeo huy chương.
Bước vô
phòng khánh tiết Dinh Gia Long ai cũng ngạc nhiên, trầm trồ cành đào
tuyệt đẹp. Tấm băng lụa màu hồng có những chữ đề tặng đã
không cánh mà bay.
Nhân lúc
Tổng Thống chưa xuống lầu, mọi người xì xào bàn tán, đoán già đón non rằng cành
đào đó không thể xuất phát từ miệt cao nguyên Lâm Viên. Ông Giám Đốc Nha Nghi
Lễ được hỏi, câu trả lời lập tức truyền ra, chẳng mấy chốc mọi người đều biết
cành đào do ông Đại Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKSĐC đem từ miền Bắc về. Chẳng
ai thắc mắc, vì phi cơ của UHQTKSĐC
thường xuyên ra vô liên lạc giữa hai miền Nam Bắc, mỗi tuần hai lần, nên chuyện
ông Đại Sứ Ấn Độ mua cành đào ở một nơi nào đó trên đất Bắc mang vào Nam cũng
đơn giản như ta mua hoa ở chợ Nguyện Huệ Sàigòn mà thôi.Người ta tiếp tục bàn
tán, ông Đại Sứ Ấn Độ thật là một nhà ngoại giao lỗi lạc, một người tế nhị, đã
chịu khó tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt Nam, có lẽ ông ấy cũng đã
mua một cành mai thiệt lớn ở miền Nam, mang ra Bắc tặng Hồ Chi Minh.
Nhân viên
phục vụ Tổng Thống Phủ đã thấy tấm băng lụa màu hồng, giờ tấm băng lụa biến
mất, họ không dám hở môi, cũng không dám hỏi nhau và dĩ nhiên không dám hỏi cụ
Tổng Thống.Tổng Thống Diệm bước xuống lầu trong tiếng chúc
tụng hoan hô. Cầm ly Champagne trên tay, Tổng Thống đi lại, chuyện trò tự nhiên
với các Bộ Trưởng, Tướng Lãnh và không đề cập gì đến lai lịch cành đào. Hôm ấy,
cụ vui vẻ ra mặt. Ngoài những lời chúc thọ kinh cẩn, các Bộ Trưởng, Tướng
Lãnh...dĩ nhiên còn khen cành đào :
- Cành đào
đẹp là dấu hiệu của một tương lai thạnh trị, thanh bình.
- Chế độ
Cộng Hòa sẽ mãi mãi tươi sáng, ngai rồng sẽ đời đời bên vững.
- Dạ, cành
đào có nhiều nhánh, trông như cái "lọng", cái "tán", chứng
tỏ vận nước "vượng" lắm, thưa Tổng Thống.
- Dạ, cành
đào trổ thiệt nhiều hoa, Tổng Thống sẽ sống lâu trăm tuổi.
- Trình cụ,
từ thuở nhỏ, con chưa hề thấy một cành đào nào đẹp như vậy.
- Bẩm cụ, cả
đời con, con mới thấy cành đào đẹp như thế này là lần thứ nhất, ôi chu choa,
đẹp sao là đẹp...
Cách mạng 1
tháng 11 năm 1963 bùng nổ, nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, ông Diệm và ông Nhu bị
thảm sát, chuyện "cành đào chính trị" mới được "xì" ra cùng
với những lời bình luận, những nghi vấn :
- Băng lụa màu hồng,
với lời đề tặng của Hồ Chí Minh đã bị ông Diệm hoặc người
nhà gỡ đi vì họ Hồ đã "chơi chữ". "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân
Chủ cộng hòa kính tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm", "nước Việt Nam Cộng
Hòa" đã không được họ Hồ đề cập đến. Chánh quyền Đệ Nhị Cộng Hòa đưa ra
những hình ảnh, trong đó hai vợ chồng cố vấn Ngô Đình Nhu đã nhiều lần khoản
đãi phái đoàn UHQTKSĐC tại khu vực nghỉ mát nằm trên quốc lộ 1, gần Tháp Chàm,
trên đoạn đường Phan Rang - Nha Trang.
Trong những
buổi họp mặt, ngoài vợ chồng ông bà Nhu, có ông Đại
Sứ Ấn Độ, chủ tịch UHQTKS ĐC, đại
diện cho chánh quyền Ấn Độ thân cộng và ông Mieczylau Maneli, Đại Sứ nước cộng
Sản Ba Lan, tuyệt nhiên không có Đại Sứ Canada ....
(Để
tưởng nhớ đến tác giả quyển "Khổ Qua Đắng Khổ Qua Đèo", tôi đã trích
đoạn vừa qua. Đó là, nhà giáo Thái Minh Kiệt tức nhà văn Nguyễn Văn Ba, đồng
nghiệp thân quý tôi, anh sanh năm 1947 tại Sa Đéc. Trước 1975 nhân viên giảng huấn
tại Viện Đại Học Cần Thơ, sau 1975, anh làm chuyên viên Canh Nông tại Đại
Học Saskatchewan, Canada, nơi gia đình anh tạm định cư. Ngoài ra, anh đã viết
những tác phẩm giá trị như sau : Làm Mai, Lãnh nợ, Gát cu, Cầm chầu - Phận Đàn
Bà (viết chung với Nguyễn Thị Bạch Mai tức phu nhân của anh) - Thành Đô Gió Bụi
- Cây Trái Quê Mình - Tự Truyện - Khổ Qua Đắng Khổ Qua Đèo - Từ Miền Đất
Lạnh... và anh còn góp phần những bài viết trên các sách báo khác ở hải ngoại,
cũng như tham gia vào Hội Văn Bút Hải Ngoại.
Nhưng anh
lại đột ngột ra đi vào lúc 1 gìờ sáng ngày 14 tháng 8 năm 1998, nhằm ngày 23
tháng 7 âm lịch năm Mậu Dần tại Canada sau cơn bạo bịnh, hưởng dương 51 tuổi.
Anh mất đi mọi người thương tiếc, các văn hữu mất một người bạn quý, các độc
giả mất một cây viết về quê hương dân tộc. Riêng gia đình anh mất con, chồng và
cha thương mến).
Mặt
khác, Cụ Cao
Xuân Vỹ, năm 2002 cụ đả 82 tuổi hiện ở thị xã Huntington Beach, Nam
California Hoa Kỳ, đã từng Tổng Ủy Viên Thanh Niên Cộng
Hòa,Tổng
Giám Đốc Thanh Niên của Chánh Phủ rất thân cận với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và
là người đưa Tổng Thống Diệm và Ông Cố Vấn Nhu rời khỏi Dinh Độc Lập khi đảo
chánh 1-11-1963 để sau cùng đến nhà thờ Cha Tam. Cụ Cao
Xuân Vỹ cũng xác nhận về
"Cành Đào" do Đại Sứ Ấn Độ, chủ
Cụ Cao Xuân Vỹ tịch UHQTKSĐC mang cành đào của
Hồ Chí Minh vào miền Nam trao tặng Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Ngoài ra, Cụ
Cao Xuân Vỹ còn cho biết năm 1962 (chớ không phải năm 1963 như đã trích dẫn ở
trước), Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã có gặp tay đôi với Phạm Hùng, Bí Thư Trung Ương
Cục R của Cộng Sản ở miền Nam tại khu rừng ở Tánh Linh, mà đã Cụ đả có đi tháp
tùng.
Riêng về
Giáo Sư Tôn Thất Thiện hiện đang sống tại Canada, theo lời Cụ Cao
Xuân Vỹ nói :"Khoảng giữa tháng 10 năm 1963, giáo sư Tôn Thất Thiện với tư
cách Tham Vụ Báo Chí Phủ Tổng Thống, ông làm thông dịch cho ông Nhu trong một
cuộc tiếp xúc với sau nhà báo ngoại quốc. Một nhà báo Úc hỏi
ông Nhuvề nguồn tin rằng Việt Nam Cộng Hòa đang có những cuộc thương thảo riêng
với Hà Nội. Theo lời thuật lại của giáo sư Thiện, ông Nhu giơ tay chỉ chiếc ghế
mà nhà báo Úc đang ngồi và nói rằng : Tướng Trần Độ của Hà Nội đã vào Dinh Độc
Lập gặp ông và ông Độ ngồi trên cái ghế đó... (nếu quý độc giả cần tìm hiểu
thêm, xin tìm đọc "Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ 2002" của tạp chí Việt
Tide, phát hành tại Nam California Hoa Kỳ, từ trang 77 đến 79 do Nguyễn Xuân
Nghĩa ghi).Như ở trang trước, các quan khách có nói đến ý nghĩa cành đào to lớn
lại xum xuê, khoe sắc tốt tươi tuyết đẹp đầu năm đặt trong dinh Tổng
Thống Ngô Đình Diệm : "Chế độ Cộng Hòa sẽ mãi mãi tươi sáng, ngai rồng sẽ
đời đời bên vững.", tôi nhớ lại trong quyển Đệ Nhất Phu Nhân tập 1 của
Hoàng Trọng Miên, nơi Chương XI I : Triều Đại Nhà Ngô, xin trích đoạn tại đầu
trang 505 như sau :
"Trưa
hôm Ba Cụt rơi đầu trên máy chém, tại dinh Độc Lập, một bữa tiệc lớn tụ họp anh
em họ Ngô nhân dịp lễ thánh bổn mạng đứa con trai đầu của vợ chồng Lệ (tức Ngô
Đình Nhu & Trần Lệ Xuân).Diệm gọi cháu trai đến bên mình võ vai nói :
"Cháu lớn lên rồi bác nhường ngôi Tổng Thống lại cho"Lệ cười nói :
Anh làm như ghế Tổng Thống là ngôi hoàng đế
"truyền tử lưu tôn" không bằng.Chớ thím nghĩ không phải sao? Tôi ngồi
chức Tổng Thống hai nhiệm kỳ cũng mười năm, rồi nhường lại cho chú, thêm mười
năm nữa, thì vừa cháu lớn lên, đủ tuổi tiếp tục ba cháu để trị vì, nối dõi cho
họ Ngô. Còn ai vô đó nữa? Với tâm trạng tự cho mình có sứ mạng thiêng liêng,
như một vị thiên tử từ xưa, Ngô Đình Diệm xem địa vị Tổng Thống không khác nào
ngôi vua danh riêng cho gia đình họ Ngô, với tất cả những quyền tối
thượng..."
Trở lại,
việc Cố Vấn Ngô
Đình Nhu thỏa hiệp với CSBV đã đề cập ở trước, nay xin mời quý độc
giả đọc tiếp từ trang 18 đến trang 22 trong tác phẩm Một Kiếp Người của Tướng Huỳnh Văn Cao
(Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao đã từng Tư Lệnh Quân Đoàn 4 /Vùng 4 Chiến Thuật, là
người rất thận cận với anh em Ngô Đình Diệm, hiện nay ở Hoa Thanh Đốn,
U.S.A), ấn hành năm 1963 tại Hoa Kỳ. Xin trích có liên quan đến : Trận Ấp Bắc
như sau :
18 Huỳnh
Văn Cao
...
Một
ngày trước khi hành quân ấp Bắc băt đầu, Tham mưu trưởng Quân đoàn và cố vấn
Trưởng Quân đoàn đem lệnh hành quân của Sư doàn 7 có bản đồ và phóng ảnh đính
kèm, trình cho tôi xem. Nhận thấy kế hoạch hành quân của Sư đoàn hoàn toàn khác
hẳn với kế hoạch do tôi khuyến nghị, không thích ứng với địa hình địa vật,
khônng dồn nỗ lực chính vào mục tiêu, cho nên tôi đã nói trước mặt cố vấn
trưởng và tham mưu trưởng Quân đoàn :"Ngày mai Sư đoàn 7 sẽ
thất bại".
Sáng ngày
hành quân ấp Bắc, được tin Sư đoàn 7 bị tổn thất ngay khi vừa mới lâm trận,
đụng độ với địch, bị rơi một trực thăng, cháy một M113, tôi bay đến Bộ Chỉ Huy
Hành Quân Sư Đoàn 7, hội thảo với Tư Lệnh Sư Đoàn 7. Muốn chuyển bại thành
thắng, tôi "khuyến nghị" một thế đánh mới : xin Bộ Tổng Thaml Mưu
tăng phái ngay một đaị đội Nhảy Dù, nhảy vào 1 giờ trưa, DZ là một thửa ruộng
nơi cánh quân thiết vận xa M113 đang chiếm giữ, mục đích (a) tăng
cường lực lượng cho M113 xung phong chiếm mục tiêu ấp Bắc, (b) quân Dù nhẩy
xuống giữa mặt trận sẽ kích thích tinh thần chiến đấu của quân ta, (c) đồng
thời làm nao núng tinh thần của quân địch.
Nguyên tắc hành quân là phải kịp thời tiến chiếm mục tiêu nội trong ngày, giải quyết chiến trường trước khi trời tối.Nhân dịp tôi phải về Sàigòn có công việc, tôi nhận giúp Tư Lệnh Sư Đoàn 7 trình với Bộ Tổng Tham Mưu, xin tăng cường hành quân cấp kỳ. Đến Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đã gặp Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, có Trung Tướng Charles Timmes hiện diện. Tham Mưu Trưởng Liên Quân và tôi đi sang phòng bên cạnh, để tôi tiện trình bày chi tiết mọi thỉnh cầu của Sư Đoàn 7. Xong nhiệm vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đi vào Dinh Độc Lập yết kiến Tổng Thống, có Đại Biểu Chính Phủ Miền Tây và Tư Lệnh Sư Đoàn 21 chờ tôi tại Dinh Tổng Thống. Tại chiến trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 và tôi nhận thấy DZ chỉ vừa cho một đại đội nhảy xuống, thời gian gấp rút, chỉ cần một đại đội lên máy bay nhảy xuống mật trận kịp 1 giờ trưa, như vậy mới có thì giờ tập trung quân Dù sau khi nhảy xuống, rồi phối hợp với M113 để tấn công vào mục tiêu trươc tối.
Thế nhưng, sau khi tôi rời Bộ Tổng Tham Mưu thì kế hoạch laị hoàn toàn đổi mới. Bộ Tổng Tham Mưu cho một lực lượng nhảy Dù gồm 2 đại đội, có một bộ phận chỉ huy, sắp xếp như vậy thì ĐÚNG sách vở, mà KHÔNG ĐÚNG với thực tế chiến trường. Chờ cho máy bay chuẩn bị đầy đủ để chở một lực lượng Nhảy Dù thì gần hết ngày, thả quân Dù xuống mặt trận thì trời sắp tối, và khi máy bay thả Dù xong thì trời tối om. Có số nhảy xuống đúng DZ, nhưng chỉ để nằm tại chỗ qua đêm, có số mắc tòn ten trên cây trong
Nguyên tắc hành quân là phải kịp thời tiến chiếm mục tiêu nội trong ngày, giải quyết chiến trường trước khi trời tối.Nhân dịp tôi phải về Sàigòn có công việc, tôi nhận giúp Tư Lệnh Sư Đoàn 7 trình với Bộ Tổng Tham Mưu, xin tăng cường hành quân cấp kỳ. Đến Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đã gặp Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, có Trung Tướng Charles Timmes hiện diện. Tham Mưu Trưởng Liên Quân và tôi đi sang phòng bên cạnh, để tôi tiện trình bày chi tiết mọi thỉnh cầu của Sư Đoàn 7. Xong nhiệm vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đi vào Dinh Độc Lập yết kiến Tổng Thống, có Đại Biểu Chính Phủ Miền Tây và Tư Lệnh Sư Đoàn 21 chờ tôi tại Dinh Tổng Thống. Tại chiến trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 và tôi nhận thấy DZ chỉ vừa cho một đại đội nhảy xuống, thời gian gấp rút, chỉ cần một đại đội lên máy bay nhảy xuống mật trận kịp 1 giờ trưa, như vậy mới có thì giờ tập trung quân Dù sau khi nhảy xuống, rồi phối hợp với M113 để tấn công vào mục tiêu trươc tối.
Thế nhưng, sau khi tôi rời Bộ Tổng Tham Mưu thì kế hoạch laị hoàn toàn đổi mới. Bộ Tổng Tham Mưu cho một lực lượng nhảy Dù gồm 2 đại đội, có một bộ phận chỉ huy, sắp xếp như vậy thì ĐÚNG sách vở, mà KHÔNG ĐÚNG với thực tế chiến trường. Chờ cho máy bay chuẩn bị đầy đủ để chở một lực lượng Nhảy Dù thì gần hết ngày, thả quân Dù xuống mặt trận thì trời sắp tối, và khi máy bay thả Dù xong thì trời tối om. Có số nhảy xuống đúng DZ, nhưng chỉ để nằm tại chỗ qua đêm, có số mắc tòn ten trên cây trong
Một kiếp
người 19
làng,
có số nhảy xuống giữa vị trí địch. Hành quân như thế, tất nhiên không tránh
khỏi thất bại, và cũng không thể quy trách nhiệm cho Tư Lệnh Sư Đoàn 7, chỉ huy
cuộc hành quân ấp Bắc.Tại đồng bằng sông Cửu Long, quy luật hành quân phải là
thanh toán mục tiêu ban ngày, giải quyết chiến trường trước khi trời tối. Nếu
không xong, thì Việt cộng không bao giờ ngồi qua đêm tại chỗ, để chờ quân ta
tấn công vào ngày kế tiếp. Sự thật về mọi diễn tiến trong Trận Ấp Bắc là như
vậy...
Để tìm hiểu
chi tiết của Trận
Ấp Bắc như thế nào? xin quý độc giả tìm đọc tạp chí Đông Phương,
phát hành miền Đông Hoa Kỳ tháng 8 năm 2001, từ trang 36 đến trang 40 do Cựu Tướng Lý Tòng Bá,
người chỉ huy Sư Đoàn 7 của trận Ấp Bắc.Hành quân bắt được LÊ DUẨN nhưng cuối cùng được cố vấn Ngô
Đình Nhu thả ra sao?
Mùa
Thu 63, tin tình báo Mỹ tại Sàigòn, ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương đều biết
rằng Cộng Sản Hà Nội sẽ gởi một lãnh tụ cao cấp vào miền Nam hội họp với Xứ Uỷ
Nam Bộ, để chuẩn bị cho một chính sách mới, giải pháp mới. Ước tính tình hình
và thời điểm, MACV ra
20 Huỳnh Văn Cao
lệnh cho tất
cả các đại đội trực thăng Mỹ khăp trên lãnh thổ VNCH đều nghỉ bay để bảo trì
đến mức hoàn hảo nhưt, để có thể sử dụng được eố tối đa trực thăng hiện có. Mục
đích la thực hiện một cuộc hành quân trực thăng vận to lớn nhứt, gọi
là Hành Quân Liên Vùng II và III, dự trù vào một mục tiêu tại vùng liên ranh ba
biên giới, nơi sẽ có cuộc hội nghị cao cấp và quan trọng nhưt của Cộng Sản.
Vùng II do Tướng Nguyễn Khánh và vùng III do Tướng Tôn Thất Đính làm tư lệnh.
Làm Tư Lệnh
Quân Đoàn IV và vùng IV Chiến Thuật, tôi thường xuyên theo dõi và ước tính tình
hình trong vùng và trong nước, luôn luôn sắp sẵn các giải pháp quân sự để đối
phó kịp thời. Tôi đồng ý là sẽ có hội nghị của phía Cộng Sản sẽ xảy ra nay mai,
vì đương nhiên al chúng biết chắc sắp có đảo chánh tại miền Nam; nhưng tôi
không đồng ý về địa điểm hội nghị tại cùng ba biên giới, mà trái lại tôi nghĩ
rằng, địa điểm hội nghị của Cộng Sản sẽ ở tại Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Thẩml định tình hình một cách kỹ lưỡng, tôi đoan chắc là cộng Sản sẽ mở hội
nghị tại Hậu Giang. Vì Sao? Vì lãnh tụ cao cấp từ Bắc vào Nam, sau ông Hồ già
lão, thì chỉ có Tổng
Bí Thư Cộng Sản Lê Duẩn, mà Lê Duẩn đã từng là Xứ Ủy Nam Bộ, Lê Duẩn
đã từng lặn lội khắp miền Tây, đặc biệt ở Hậu Giang, từ Chương Thiện, Chắc
Băng, Thới Bình, Biện Nhị, Cà Mau.Trung tá Phạm Ngọc Thảo, hiện là sĩ quan của miền Nam, diện
hồi chánh, nhưng đã từng là bạn thân của Lê Duẩn, ngày đám cưới của Thảo tại
Thiên Hộ Đồng Tháp thì Lê Duẩn đã đích thân đến dự.
Khi tôi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Thuật Tiền Giang, thì Thảo làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiến Hòa, người được Tổnt Thống Diệm tin cậy. Trong những giây phút thân tìn, Thảo đã thỏ thẻ với tôi :"Nếu Đại Tá Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn thì tôi có thể sắp xếp được". Cho nên, đã có lần tôi thưa với Cụ Diệm : "Sao Cụ cứ để Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lâu vậy, Cụ không sợ Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?". Lúc ấy, tôi đã hiểu là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được, nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rõ Thảo là Cộng Sản.
Khi tôi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Thuật Tiền Giang, thì Thảo làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiến Hòa, người được Tổnt Thống Diệm tin cậy. Trong những giây phút thân tìn, Thảo đã thỏ thẻ với tôi :"Nếu Đại Tá Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn thì tôi có thể sắp xếp được". Cho nên, đã có lần tôi thưa với Cụ Diệm : "Sao Cụ cứ để Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lâu vậy, Cụ không sợ Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?". Lúc ấy, tôi đã hiểu là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được, nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rõ Thảo là Cộng Sản.
Trong mấy
tháng vừa qua, Thảo đã mạo hiểm đến Hậu Giang, thăm viếng vùng ở
Chương Thiện, Cà Mau, thăm Biên Nhị, Thới Bình, Sông Ông Đốc. Tiếp đó, Biên Nhị
Cái Nước bị thất thủ, vùng an toàn của Cộng Sản rộng mở thênh thang giữa 2 cánh
rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ. Do đó, Tư Lệnh Vùng IV có lý để
đoan chắc là Cộng Sản sẽ mở hội nghị gần mé biển giữa U Minh Thượng và U minh
Hạ, mà chỗ lý tưởng an toàn nhứt là vùng Heng Mây.Cũng bởi vì, muốn chọn lộ
trình đi từ Bắc vào Nam, lãnh tụ cao cấp Cộng Sản chỉ cần xuống một chiếc tàu biển
của Liên Sô hoặc của
Một kiếp
người 21
một nước nào
đó trong khối Cộng Sản, đi từ Hải Phòng đến Sihanouk Ville, rồi từ hải cảng
Sihanouk Ville đi bằng ghe biển có máy đẩy, qua các đảo chung quanh Phú Quốc,
đến U Minh một cách mau chóng, dễ dàng và an toàn. Ngoài ra, dương Đông kích
Tây là chiến thuật trí trá cơm bữa của Cộng Sản, khi chúng tung tin họp ở Núi
thì chúng sẽ họp ở đồng bằng; ngày D mà chúng tiết lộ thì chúng lại
họp 1, 2 ngày sớm hơn, để chúng ngồi rung đùi nhìn quân ta tấn công vào mục
tiêu trống rỗng.Thẩm định tình hình như thế, và sau khi
rà sát các hoạt động thường ngày của Việt Cộng tại các tỉnh Chương Thiện, Cà
Mau, kiểm chứng tin tức các đường giao liên của Tiền Giang và Hậu
Giang, của miền Đông và miền Tây, tìm hiểu khả năng tập họp Xứ Ủy Nam Bộ đến
địa điểm hội nghị, Tư Lệnh Vùng IV quyết định mở hành quân ở U Minh.
Xin được tăng cường tàu Hải Quân để : (a) chở một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ từ ngoài biển vào, (b) bao vây mặt biển để chận bắt toàn thể hội nghị tìm đường thoát thân ra các đảo trong Vùng Phú Quốc. Bởi vì, Cộng Sản đương nhiên phải dự trù nhiều phương án rút lui, mà tốt nhứt cho chúng là ra phía biển.Quân Đoàn IV cũng xin 2 đại đội trực thăng dùng để đổ quân Sư Đoàn 21 xuống mặt trận, làm thành 3 cánh quân tấn công vào mục tiêu. Bình thường thi 2 đại đội trực thăng của Mỹ, đóng ở Bạc Liêu và ở Vĩnh Long là để sử dụng cho Vùng IV Chiến Thuật, nhưng lần này tôi muốn sử dụng thì Mỹ không cho.Thẩm định tình hình, tôi nắm chắc phần thắng mà bị cản trở, tôi nóng nảy bay về Sàigòn, cầu cứu Tổng Thống Diệm. Cụ Diệm điện thoại ngay cho Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Đại Tướng nói chuyện liền với Đại Tướng Harkins, MACV buộc lòng phải ra lệnh cho 2 đại đội trực thăng đóng ở vùng IV, đặt thuộc quyền sử dụng hành quân của tôi.
Chiều ấy, tức ngày D-1, tôi bình thản ngồi tại tư dinh, lúc 6 giờ chiều Đại Tá cố vấn trưởng từ Sàigòn về, đến thẳng tư dinh tôi, gặp tôi với bộ mặt hớt hãi lo âu, Connor nói : "Ông tướng ơi! Cả Sàigòn phẫn nộ về ông, bảo rằng ông ỷ thế Tổntg Thống, phá hoại cuộc hành quân liên vùng nhằm đánh vào cuộc hội nghị cao cấp cuả Cộng Sản. Việc này rất quan trọng, mọi người ở MACV, Tổng Tham Mưu, Toà Đại Sứ, đều đổ tội cho ông phá hoại. Ngày mai, nếu hành quân không có kết quả, thì ông và tôi phải lấy một cái bè bơi ra Thái Bình Dương, chứ không sống trên đất liền này được nữa" Tôi bảo với Connor :"Đại Tá Connor ạ! Ông sống gần tôi mấy tháng qua, ông đã thấy tôi làm đúng, quyết định đúng, và ngày mai hanh quân cũng đúng thôi. Đừng có lo".
Xin được tăng cường tàu Hải Quân để : (a) chở một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ từ ngoài biển vào, (b) bao vây mặt biển để chận bắt toàn thể hội nghị tìm đường thoát thân ra các đảo trong Vùng Phú Quốc. Bởi vì, Cộng Sản đương nhiên phải dự trù nhiều phương án rút lui, mà tốt nhứt cho chúng là ra phía biển.Quân Đoàn IV cũng xin 2 đại đội trực thăng dùng để đổ quân Sư Đoàn 21 xuống mặt trận, làm thành 3 cánh quân tấn công vào mục tiêu. Bình thường thi 2 đại đội trực thăng của Mỹ, đóng ở Bạc Liêu và ở Vĩnh Long là để sử dụng cho Vùng IV Chiến Thuật, nhưng lần này tôi muốn sử dụng thì Mỹ không cho.Thẩm định tình hình, tôi nắm chắc phần thắng mà bị cản trở, tôi nóng nảy bay về Sàigòn, cầu cứu Tổng Thống Diệm. Cụ Diệm điện thoại ngay cho Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Đại Tướng nói chuyện liền với Đại Tướng Harkins, MACV buộc lòng phải ra lệnh cho 2 đại đội trực thăng đóng ở vùng IV, đặt thuộc quyền sử dụng hành quân của tôi.
Chiều ấy, tức ngày D-1, tôi bình thản ngồi tại tư dinh, lúc 6 giờ chiều Đại Tá cố vấn trưởng từ Sàigòn về, đến thẳng tư dinh tôi, gặp tôi với bộ mặt hớt hãi lo âu, Connor nói : "Ông tướng ơi! Cả Sàigòn phẫn nộ về ông, bảo rằng ông ỷ thế Tổntg Thống, phá hoại cuộc hành quân liên vùng nhằm đánh vào cuộc hội nghị cao cấp cuả Cộng Sản. Việc này rất quan trọng, mọi người ở MACV, Tổng Tham Mưu, Toà Đại Sứ, đều đổ tội cho ông phá hoại. Ngày mai, nếu hành quân không có kết quả, thì ông và tôi phải lấy một cái bè bơi ra Thái Bình Dương, chứ không sống trên đất liền này được nữa" Tôi bảo với Connor :"Đại Tá Connor ạ! Ông sống gần tôi mấy tháng qua, ông đã thấy tôi làm đúng, quyết định đúng, và ngày mai hanh quân cũng đúng thôi. Đừng có lo".
Ngày hành
quân, các cuộc đổ bộ bằng trực thăng cũng như bằng tàu hải quân đều nhịp nhàng
đều đặn. Tôi ở tại Bộ Chỉ Huy Hành
22 Huỳnh
Văn Cao
quân tại Cà
Mau, các cánh quân báo cáo về, có chạm súng lẻ tẻ, tiến vào một nơi xem như sào
huyệt của chúng, cánh quân khác khám phá hầm súng đạn và công binh
xưởng, canh quân khác thì giải thoát hơn 80 quân nhân công chức bị Cộng Sản
cầm tù trong rừng U Minh. Bây giờ đến lượt màn
lưới bao vây mặt biển báo cáo, một tàu hải quân bắt được một ghe biển có máy
đẩy, từ U Minh đổ ra, chở mười mấy người toàn đàn ông, có vài phụ
nữ, một tàu hải quân khác chận bắt một chiếc ho-bo biển, có máy mạnh gấp mấy
lần ho-bo của Mỹ, cũng tư U Minh đổ ra, trêbn đó chỉ có một người khách và một
tài công. Từ tàu hải quân đến các cánh quân trung đoàn, radio thông báo cho
nhau là đã bắt
được Lê Duẩn.Tôi ra lệnh cho các tàu hải quân đem tất cả các
người bắt được về Bộ Tư Lệnh Hành Quân, hãy đối xử lịch sự vơí họ? Và các cánh
quân bắt đầu rút lui. Chiều lại, tôi giao cho Tư Lệnh Sư Đoàn 21 chỉ huy cuộc
hành quân. Tôi và cố vấn Connor bay về Cần Thơ.
Lối 8 giờ tối, Connor điện thoại cho tôi
:"Ông Tướng ơi! Tàu hải quân thả Cộng Sản hết rồi" Tôi bảo :
"Tôi đã ra lệnh đem về cho tôi, ai dám ra lệnh thả chúng?" Đại Tá
Connor nói tiếp :" Thế mà, tàu hải quân đã thả đi rồi. Bây giờ,
tôi đề nghị sáng mai, ông Tướng khỏi về Cà Mau làm gì nữa. Nhưng xin
ông vui lòng tiếp 3 người khách từ Sàigòn đến, và họ ăn cơm trưa với ông tại tư
dinh ông. Có 2 tướng 1 đại tá". Tôi bảo Connor cùng đến ăn cơm
luôn thể. Cố vấn Connor nói tiếp :"Ngày mai tôi sẽ ra sân bay đón khách,
đem đến nhà ông, rồi tôi xin kiếu về, ông hãy tiếp họ một mình". Tại tư
dinh Tư Lệnh Vùng, phía Mỹ có tướng 2 sao, 1
tướng 1 sao và 1 đại tá. Gặp nhau thì chào hỏi lịch sự thân tình, nhưng trên
mặt của 3 vị khách vẫn còn nét nóng nảy.
Tướng Mỹ 2 sao nói : "Cả một cuộc chiến tranh chỉ có một cơ hội duy nhứt, cuộc diện chiến tranh này tùy thuộc nơi người Cộng Sản ấy, thế mà sao ông thả cho họ đi?".Ngồi thoải mái tại phòng khách, tôi nhẹ nhàng nói : "Vì tinh thần chóng Cộng của tôi, với khả năng và kinh nghiệm chiến trường của tôi và vì danh dự một tướng lãnh, tôi đã lấy hết can đảm để mở cuộc hành quân, quyết bắt cho được họ. Bắt được họ rồi, tôi đã ra lệnh cho cánh quân ngoài biển giải họ về cho tôi. Tôi điên gì mà ra lệnh thả họ đi".Chúng tôi sang phòng ăn, dùng bữa trưa. Mọi việc trắng đen trong các cuộc Hành Quân tại Sư Đoàn 7 và vùng IV Chiến Thuật là trung thực rõ ràng như vậy. Thế mà một số tác giả Mỹ đã nói rằng tôi nghe lời khuyến dụ của Tổng Thống Diệm nên đã để cho Việt Cộng chạy thoát trong các cuộc hành quân....Để cho rõ ràng Lê Duẩn do ai ra lệnh thả? tác giả viết thơ nhờ Cụ Lê Tấn Bửu, Cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH, rất thân quen cũng là người hàng xóm với tướng Huỳnh Văn Cao ở Arlington, VA, Hoa Kỳ, để hỏi tướng Cao hư thực như thế nào? và may thay được Cụ Lê Tấn Bửu, cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH gởi thơ cho biết như sau :
Tướng Mỹ 2 sao nói : "Cả một cuộc chiến tranh chỉ có một cơ hội duy nhứt, cuộc diện chiến tranh này tùy thuộc nơi người Cộng Sản ấy, thế mà sao ông thả cho họ đi?".Ngồi thoải mái tại phòng khách, tôi nhẹ nhàng nói : "Vì tinh thần chóng Cộng của tôi, với khả năng và kinh nghiệm chiến trường của tôi và vì danh dự một tướng lãnh, tôi đã lấy hết can đảm để mở cuộc hành quân, quyết bắt cho được họ. Bắt được họ rồi, tôi đã ra lệnh cho cánh quân ngoài biển giải họ về cho tôi. Tôi điên gì mà ra lệnh thả họ đi".Chúng tôi sang phòng ăn, dùng bữa trưa. Mọi việc trắng đen trong các cuộc Hành Quân tại Sư Đoàn 7 và vùng IV Chiến Thuật là trung thực rõ ràng như vậy. Thế mà một số tác giả Mỹ đã nói rằng tôi nghe lời khuyến dụ của Tổng Thống Diệm nên đã để cho Việt Cộng chạy thoát trong các cuộc hành quân....Để cho rõ ràng Lê Duẩn do ai ra lệnh thả? tác giả viết thơ nhờ Cụ Lê Tấn Bửu, Cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH, rất thân quen cũng là người hàng xóm với tướng Huỳnh Văn Cao ở Arlington, VA, Hoa Kỳ, để hỏi tướng Cao hư thực như thế nào? và may thay được Cụ Lê Tấn Bửu, cựu Thượng Nghị Sĩ VNCH gởi thơ cho biết như sau :
Xin trích dẫn
từ trang 458 – 459 tập 1 50 năm qua (1963-2013) đã đăng Anh em Ngô Đình thỏa hiệp
với CSBV cho nên sau khi bị đảo chánh 1-11-1963 phải chạy trốn nhà Mã Tuyên để
hy vọng được CSBV tiếp cứu....
(từ trang 230
đén trang 251 Quyển sách 50 năm Nhìn Lại (1963-2013 tập 3)
http://www.phattuvietnam.net/8/39/15663.html
ttp://daovang.free.fr/CuonSachBiBoQuen.html
Cuốn
sách bị bỏ quên: Phật giáo
tranh đấu (1)
Cuốn sách bị bỏ quên: Phật giáo tranh đấu (1)
Đào Văn Bình Sinh
năm 1942 tại Hải Phòng. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Năm 1966
tốt nghiệp Cử Nhân
Luật Khoa, Ðại Học Luật Khoa Sài Gòn. Năm 1968 tốt nghiệp Cao
Học Hành Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Phó Tỉnh Trưởng
các tỉnh: Quảng Ngãi, Kiến
Hoà. Hiện định cư tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.
06/08/2011 09:25:00 Đào Văn Bình
====
De : Binh Dao
À : nguyentran2004@yahoo.fr
Envoyé le : Vendredi 26 avril 2013 21h18
Objet : Cuốn Sách Bị Bỏ Quên
De : Binh Dao
À : nguyentran2004@yahoo.fr
Envoyé le : Vendredi 26 avril 2013 21h18
Objet : Cuốn Sách Bị Bỏ Quên
Cuốn Sách Bị Bỏ Quên: Phật Giáo Tranh Đấu
Đây là “Tập tài liệu và hình ảnh trong vụ Phật Giáo tranh đấu từ Tháng 5
tới Tháng 11 năm 1963” (*) của tác giả Quốc Oai do nhà xuất
bản Tân Sanh số 12 Bùi Viện, Sài Gòn, điện thoại 22.641 phát hành chỉ ít
tháng sau khi chế độ độc tài gia đình trị của Ô. Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
Quốc Oai là bút hiệu lúc bấy giờ của nhà báo Thanh Thương Hoàng đã từng đảm
nhiệm các chức vụ: Chủ Bút tờ Phim Kịch (1963), Tổng Thư Ký nhật báo Chính
Luận (1964-1965), Chủ Tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả (1965). Quốc Oai chính là tên
người con trai thứ tư của ông vừa chào đời. Tác giả có nhắc lại cuốn sách này
trong phần giới thiệu các tác phẩm đã xuất bản tại Hoa Kỳ nơi tuyển tập truyện
ngắn Cõi Đời Cõi Người
(2011). Theo nhà văn Thanh Thương Hoàng thì lịch sử báo chí Miền Nam, từ
trước tới giờ chưa có cuốn sách nào bán chạy đến như vậy. Sách vừa ra lò đã
bán hết ngay 3000 cuốn, tái bản lần thứ nhất hết ngay 5000 cuốn và in lần thứ
ba 10,000 cuốn cũng hết bay.
Là ký giả, ông có cơ hội thu thập các tài liệu, hình ảnh từ phía chính
quyền, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, ký giả
ngoại quốc, bản tin của các hãng thông tấn, các đoàn thể thanh niên, sinh
viên và cá nhân tranh đấu thường gửi tài liệu tới báo chí để nhờ phổ biến.
Đây là cuốn sách tổng hợp các tài liệu và hình ảnh xác thực, chứ không phải
cuốn hồi ký phản ảnh chủ quan, thương ghét cá nhân.
Vào những ngày đầu của biến cố 30-4-75, tác giả tiên liệu những sách xuất
bản ở Miền Nam thế nào cũng bị đem ra đốt hết cho nên, nhân có cô em ruột từ
Hà Nội vào thăm, tác giả đã gửi gấm cuốn sách này. Chính vì thế mà hơn 47
năm, tức gần nửa thế kỷ, cuốn sách vẫn sống sót và ngày hôm nay được nhắc tới
như “Một Cuốn Sách Bị Bỏ Quên”. Sau đó tác giả, theo quân-cán-chính,
văn nghệ sĩ, đảng phái VNCH trình diện “học tập cải tạo” và bị giam giữ 10
năm. Phóng thích năm 1985, Thanh Thương Hoàng được Văn Bút Quốc Tế cũng như
Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại gửi cho ít tiền để sinh sống. Nhưng chính vì thế
mà ông bị Bộ Nội Vụ nghi ngờ ông là nhân vật quan trọng, nên không cho xuất
cảnh sang Hoa Kỳ theo chương trình tạm gọi là HO. Sau nhờ sự can thiệp của Ô.
Robert L. Funseth cựu Phụ Tá Thứ Trưởng Hoa Kỳ- người cùng ký thỏa hiệp cho phép
“Định Cư Tù Cải Tạo” với Thứ Trưởng Phạm Quang Cơ…mà năm 1999 ông được ra
đi…như thế là rất trễ.
Ra tới hải ngoại, dù tuổi đã cao, năm nay đã hơn 80, Thanh Thương Hoàng
vẫn theo đuổi nghiệp văn chương và viết rất khỏe. Ông đã cho ra đời tuần báo
Đời ở San Jose. Nhưng vì thiếu quảng cáo nên báo phải đóng cửa vĩnh viễn.
Riêng tại hải ngoại ông đã xuất bản các tác phẩm:
-Tập truyện Tiến Sĩ Lê Mai (1999)
-Người Mỹ Cô Đơn (tiểu thuyết Anh Ngữ năm 2000)
-Tập truyện Những Nỗi Đau Đời (2001)
- Tập Truyện Ông Tướng Tỵ Nạn (2005)
- Tập Truyện Dòng Suối (2009)
- Tuyển tập truyện ngắn Cõi Đời, Cõi Người (2011).
Là bạn viết văn, bạn vong niên, thấy tôi thỉnh thoảng có viết bài giới
thiệu sách, tác giả hứa tặng một một bản sao của cuốn Phật Giáo Tranh Đấu. Có
lẽ cũng phải mất gần hai năm, sau khi cho con về Hà Nội chụp lại…và ngày hôm
nay cuốn sách đến tay tôi. Sách dày 245 trang bao gồm 8 Phần và Kết Luận.
Phần Thứ I: Tiêu Diệt Phật Giáo
Mở đầu
phần này tác giả viết, “ Một sự
kiện hiển nhiên không ai có thể chối cãi được là tám mươi phần trăm dân chúng
Việt Nam theo Phật Giáo. Từ lúc mới lập quốc, hơn bất cứ đạo giáo nào khác,
Phật Giáo đã xuất hiện ở nước ta. Phật Giáo như một cây Bồ Đề to lớn, gốc rễ
ăn sâu bám chặt và cành lá xum xuê trùm phủ kín mảnh đất Việt Nam . Dù giông
to bão lớn, dù sấm sét dữ dội cũng không thể nào lật đổ cây Bồ Đề to lớn ấy
được. Lịch sử và thời gian đã chứng minh Phật Giáo đóng góp một phần công lao
rất lớn vào việc xây dựng đất nước, nòi giống. Biết bao vị chân tu từ xưa tới
nay đã làm rạng danh đất nước. Dân chúng yêu kính và tôn sùng như những bậc
Thánh. “ (*)
Bởi vì “Phật Giáo không ồn áo náo nhiệt, sôi nổi hời hợt bề mặt. Phật
Giáo không phô trương thanh thế; không tổ chức thành một lực lượng để bảo vệ
cũng như tranh đấu cho đạo. Phật Giáo không bao giờ chen lấn, áp đảo các đạo
giáo khác, ngay như hồi Phật Giáo được nâng lên hàng Quốc Giáo ở các đời Lý,
Đinh, v.v…(Lúc đó Khổng Giáo và Lão Giáo đã truyền sang nước ta từ
lâu). Phật Giáo lúc nào cũng chủ trương ôn hòa, bất bạo động theo đúng như
giáo lý của Phật. Bởi những nguyên cớ ấy nên tới ngày nay mới có người coi
thường ,( hay quá sợ?) Phật Giáo và nhất định ra tay đàn áp, trừ diệt. Những
kẻ đó chính là anh em nhà họ Ngô: những bạo chúa, hung thần của nước Việt Nam
cuối Thế Kỷ Hai Mươi.” (***) Để minh chứng, tác giả đã dùng “một số
tài liệu chính xác về sự đàn áp Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm từ
năm 1959 tại các Tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.” (*)
1. Tỉnh Quảng Ngãi: “Chính quyền đã bắt hai Phật tử
Hà Thừa và Đỗ Trọng cho “học tập” dài hạn tại Trại Cải Huấn. Ngày 12/10/1961
lại bắt thêm hai Phật tử Dương Khanh và Nguyễn Hữu Khánh (nhân viên trong ban
trị sự Phật Giáo) đem về Trại Cải Huấn “học tập” dài hạn. Ngày 12/12/1961 Hội
Đồng Xã Sơn Trung Sơn Trung đã tổ chức một lớp học tập về Thuyết Duy Linh
trong bốn ngày tại Thôn Hà Nhai. Sau khóa học tập chính quyền địa phương đã
bắt buộc các Phật tử phải bỏ Phật Giáo và ký giấy theo Thiên Chúa Giáo. Ngày
19/10 năm Tân Sửu (1962) Phật tử Phạm Thơ 52 tuổi vô cớ bị bắt đưa vào Trại
Cải Huấn giam hơn 3 tháng. Viên quản đốc trại cải huấn rỉ tai cho ông Thơ
biết nếu chịu bỏ Phật Giáo và ký tên theo Thiên Chúa Giáo thì sẽ được thả
ngay tức khắc.
Vì gia đình đông con lại nghèo và nhất là đương ở trong hoàn cảnh tù đày bất đắc dĩ ký giấy theo Thiên Chúa Giáo. Quả như lời viên quản đốc nói, một giờ sau ông được thả ngay. Nhưng sau khi đã được về với gia đình, ông Thơ không chịu được sự cắn rứt của lương tâm nên đã nhất định trở về với Phật Giáo. Ngày 20/11/1961 tại Xã Sơn Mỹ, Quận Sơn Tịnh một số Phật tử là Nguyễn Ngạt, Ngô Phong, Đỗ Hoài, Nguyễn Đài, Võ Trung, Nguyễn Văn Đường, Nguyễn Ký đã bị hai ông Lưu Truyên và Lê Đạt là người Thiên Chúa Giáo, đại diện cho chính quyền địa phương lạm dụng chức vụ của mình bắt những người nói trên phải rửa tội và đe dọa nếu không chịu nghe theo sẽ bị bắt đi trại cải huấn ba tháng. Ngày 20/8/1961 Khuôn Hội Phật Giáo Kim Sa thuộc Xã Sơn Kim, một số đạo hữu là: Hà Ngu, Phạm Phẩm, Trần Đến, Nguyễn Thị Lễ, Nguyễn Chẩn, Nguyễn Nhung đã bị ông thôn trưởng Hà Sơn Mai và hai cán bộ truyền giáo Thiên Chúa Giáo đến tận từng nhà bắt ký giấy theo đạo Thiên Chúa.
Họ ngang nhiên đưa ra điều kiện nếu chịu ký giấy gia nhập Thiên Chúa Giáo sẽ được sống yên ổn làm ăn, còn trái lời sẽ bị ghép vào thành phần tình nghi là cán bộ cộng sản và sẽ bị bắt về trại cải huấn giam giữ. Năm 1960 Thày Thích Minh Tịnh tục danh là Lê Hồng Vân tọa chủ Chùa Phước Long ở Thôn Lộ Bàn, Xã Phổ Bình, Quận Đức Phổ, vô cớ bị bắt giam tra tấn cực kỳ dã man và bị vu khống là cán bộ cộng sản. Sau một thời gian tra tấn tù đày, Thầy Thích Minh Tịnh được trở về chùa mang theo nhiều vết thương và bệnh tật trên mình. Nhưng được ít lâu Thày lại bị bắt và bi vu khống là xâm phạm thuần phong mỹ tục (với phụ nữ). Đứng trước sự vu khống trắng trợn này người phụ nữ bị tình nghi dan díu với Thày Thích Minh Tịnh đã hơn một lần làm đơn kêu oan cho Thày lên tòa án do đấy Thày mới được phóng thích. Nhân Ngày Thành Đạo (tức ngày 13-1-1962 ) Chi Công An Quận Đức Phổ lại bắt Thày Thích Minh Tịnh, tra tấn cực hình rồi hạ ngục với tội mà họ tự dựng đứng lên là Thày tiếp tế cho Việt cộng.” (*)
Vì gia đình đông con lại nghèo và nhất là đương ở trong hoàn cảnh tù đày bất đắc dĩ ký giấy theo Thiên Chúa Giáo. Quả như lời viên quản đốc nói, một giờ sau ông được thả ngay. Nhưng sau khi đã được về với gia đình, ông Thơ không chịu được sự cắn rứt của lương tâm nên đã nhất định trở về với Phật Giáo. Ngày 20/11/1961 tại Xã Sơn Mỹ, Quận Sơn Tịnh một số Phật tử là Nguyễn Ngạt, Ngô Phong, Đỗ Hoài, Nguyễn Đài, Võ Trung, Nguyễn Văn Đường, Nguyễn Ký đã bị hai ông Lưu Truyên và Lê Đạt là người Thiên Chúa Giáo, đại diện cho chính quyền địa phương lạm dụng chức vụ của mình bắt những người nói trên phải rửa tội và đe dọa nếu không chịu nghe theo sẽ bị bắt đi trại cải huấn ba tháng. Ngày 20/8/1961 Khuôn Hội Phật Giáo Kim Sa thuộc Xã Sơn Kim, một số đạo hữu là: Hà Ngu, Phạm Phẩm, Trần Đến, Nguyễn Thị Lễ, Nguyễn Chẩn, Nguyễn Nhung đã bị ông thôn trưởng Hà Sơn Mai và hai cán bộ truyền giáo Thiên Chúa Giáo đến tận từng nhà bắt ký giấy theo đạo Thiên Chúa.
Họ ngang nhiên đưa ra điều kiện nếu chịu ký giấy gia nhập Thiên Chúa Giáo sẽ được sống yên ổn làm ăn, còn trái lời sẽ bị ghép vào thành phần tình nghi là cán bộ cộng sản và sẽ bị bắt về trại cải huấn giam giữ. Năm 1960 Thày Thích Minh Tịnh tục danh là Lê Hồng Vân tọa chủ Chùa Phước Long ở Thôn Lộ Bàn, Xã Phổ Bình, Quận Đức Phổ, vô cớ bị bắt giam tra tấn cực kỳ dã man và bị vu khống là cán bộ cộng sản. Sau một thời gian tra tấn tù đày, Thầy Thích Minh Tịnh được trở về chùa mang theo nhiều vết thương và bệnh tật trên mình. Nhưng được ít lâu Thày lại bị bắt và bi vu khống là xâm phạm thuần phong mỹ tục (với phụ nữ). Đứng trước sự vu khống trắng trợn này người phụ nữ bị tình nghi dan díu với Thày Thích Minh Tịnh đã hơn một lần làm đơn kêu oan cho Thày lên tòa án do đấy Thày mới được phóng thích. Nhân Ngày Thành Đạo (tức ngày 13-1-1962 ) Chi Công An Quận Đức Phổ lại bắt Thày Thích Minh Tịnh, tra tấn cực hình rồi hạ ngục với tội mà họ tự dựng đứng lên là Thày tiếp tế cho Việt cộng.” (*)
2. Tỉnh Bình Định: “Ngày 15/13/1961 tại Vức Diêm Vân
thuộc Khuôn Hội Phước Thuận, Quận Tuy Phước, các Phật tử là Nguyễn Giang,
Trần Tích Trần Cang bị ghi vào danh sách di dân mặc dầu những người này thuộc
hạng giàu có nhất trong vùng. Nguyên do chỉ vì họ đã bỏ tiền làm chùa và là
Phật tử. Ngày 12/12/1961 tại Thôn Quảng Vân, Xã Phước Thuận, Quận Tuy
Phước những đạo hữu là Trần Thích, Trần Cũng, Trần Chim, Lê Có là những người
giàu có nhất vùng nhưng bị bắt đi di dân chỉ vì họ là những người theo đạo
Phật.
Ngày 21/11/1961 ông Nguyễn Đức Chỉnh mang thẻ căn cước số T300048. A001077 tại Thôn Lạc Điền, Xã Phước Thắng, Quận Tuy Phước, công an tới nhà tịch thu thẻ căn cước và bắt buộc phải di dân, chỉ vì ông là một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử. Ngày 15 và 16/11/1961 công an Xã Phước Thắng, Quận Tuy Phước đã thu giấy kiểm tra các đạo hữu ở các Khuôn Lạc Điền: Gia đình đạo hữu Nguyễn Vi 4 thẻ, gia đình Trần Ân 2 thẻ, gia đình Nguyễn Văn Cương 2 thẻ, gia đình Bùi Xuân Bình 4 thẻ, gia đình Trần Cao Thăng 1 thẻ; tại Vức Hội, Phổ Đồng: Gia đình Võ Lý Bá 2 thẻ, Nguyễn Bong 5 thẻ, Lê Thị Ngưu 3 thẻ, Võ Thị Phiếm 1 thẻ; Vức Hội An Lợi: Gia đình Lê Tòng 4 thẻ, Trần Khánh Đinh 2 thẻ, Phạm Thẩm 2 thẻ. Tổng số đạo hữu bị thu thẻ căn cước là 33 người. Những người này đều bị bắt đi di dân vì họ là Phật tử.”
Ngày 21/11/1961 ông Nguyễn Đức Chỉnh mang thẻ căn cước số T300048. A001077 tại Thôn Lạc Điền, Xã Phước Thắng, Quận Tuy Phước, công an tới nhà tịch thu thẻ căn cước và bắt buộc phải di dân, chỉ vì ông là một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử. Ngày 15 và 16/11/1961 công an Xã Phước Thắng, Quận Tuy Phước đã thu giấy kiểm tra các đạo hữu ở các Khuôn Lạc Điền: Gia đình đạo hữu Nguyễn Vi 4 thẻ, gia đình Trần Ân 2 thẻ, gia đình Nguyễn Văn Cương 2 thẻ, gia đình Bùi Xuân Bình 4 thẻ, gia đình Trần Cao Thăng 1 thẻ; tại Vức Hội, Phổ Đồng: Gia đình Võ Lý Bá 2 thẻ, Nguyễn Bong 5 thẻ, Lê Thị Ngưu 3 thẻ, Võ Thị Phiếm 1 thẻ; Vức Hội An Lợi: Gia đình Lê Tòng 4 thẻ, Trần Khánh Đinh 2 thẻ, Phạm Thẩm 2 thẻ. Tổng số đạo hữu bị thu thẻ căn cước là 33 người. Những người này đều bị bắt đi di dân vì họ là Phật tử.”
3. Tỉnh Phú Yên: “Ngày 24/6 năm Tân Sử, tại Xã Xuân
Phước, Quận Đồng Xuân, có một ông thày đến giảng đạo Thiên Chúa tên là Tùng.
Đã cấu kết với tên Phan Khằn là trưởng ban quản trị Làng Phước Hòa, bắt hai
đạo hữu Trần Thư và Mai Phước Hữu. Ông Khằn lại còn đe dọa nếu không chịu rửa
tội thì đừng trách là không nói trước. Ông Võ Oanh pháp danh Tâm
Tiếng, 41 tuổi, thẻ kiểm ra số 20A.0664 cấp ngày 30/10/1955 tại Tuy Hòa và vợ
là Lê Thị Bàn pháp danh Tâm Kính cùng ở Làng Trường Thạnh, Xã Hòa Vinh đều bị
bắt ra quận giam ngày 24/1/1962 và buộc phải theo Thiên Chúa Giáo mới được
tha. Bà Lương Thị Phượng 30 tuổi, kiểm tra số 31B.0030 tại Thôn
Phú Thạnh, Xã Hòa Quang, ủy viên Tỉnh Hội Phật Giáo Phú Yên.
Ngày 20/8/1961 có làm đơn nhờ Tỉnh Hội Phật Giáo Phú Yên can thiệp về việc chồng bà là ông Đặng Dương Oai bị Đặng Sĩ, dân vệ Xã Hòa Quang bắt đi mất tích vào hồi 8 giờ sáng ngày 21/1/1961 mãi tới nay không thấy tin tức. Nguyên do chồng bà bị bắt chỉ vì là người có công với Phật Giáo tại địa phương này. Theo đơn thưa của Ban Trị Sự Khuôn Hội Phật Giáo Hòa Vinh ngày 27/11/1961 v/v chính quyền địa phương đã bắt cóc thủ tiêu các hội viên dưới đây: a) Lê Đức Ngưng b) Võ Cho c) Một số hội viên không ở trong ban quản trị khuôn hội cũng bị hội đồng xã bắt và buộc phải theo Thiên Chúa Giáo mới cho về d) Bà Hà Thị Đam 60 tuổi nạp đơn lên Tỉnh Hội Phật Giáo Phú Yên xin can thiệp về việc chồng bà là Nguyễn Chuyển 60 tuổi bị hội đồng xã bắt đi đem chôn sống. Bà Nguyễn Thị Thiện làm đơn thưa về việc chồng bà là Đỗ Thìn bị bắt đi đem chôn sống. e) Ông Võ Xuân Chính cán bộ tư pháp Xã Xuân Phước, Quận Đồng Xuân hăm dọa và bắt giam Phật tử Lê Hồng Hải.
Sau khi giam 17 ngày Chính buộc ông Hải phải theo Thiên Chúa Giáo mới toàn mạng sồng. g) Bà Hà Thị Voi, Xã Phước Hòa ngày 12/4/1961 cũng bị Võ Xuân Chính vu cho là Việt cộng và bắt ép phải theo Thiên Chúa Giáo mới toàn mạng sống. h) Ông Trần Kỷ 43 tuổi ở Làng Phú Xuân, Xã Xuân Phước bị Nguyễn Cù và Lê Ngọc Mai thuộc chính quyền địa phương bắt ép phải bỏ Phật Giáo để theo Thiên Chúa Giáo ngày 26/8/1961. i) Khuôn Hội Phật Giáo Xã Hòa Quang có những đạo hữu sau đây đã bị chính quyền địa phương thu thẻ kiểm tra và buộc theo Thiên Chúa Giáo: Trần Di thôn Mậu Lâm, Phan Đích thôn Thạnh Lâm, Ngô Thị Ràng và chồng ở Thạnh Lâm. k) Ông Đỗ Sửa bị Trần Văn Thiện và Lê Năng Đắc bắt tra tấn vu cho là Việt cộng, nếu theo Thiên Chúa Giáo sẽ được thả. l) Bà Nguyễn Thị Đôn và chồng Lê Trung Thành bị Trần Văn Thiện, Lê Năng Đắc, Dương Nhảy bắt giam và ép vào Thiên Chúa Giáo mới tha.”
Theo tác giả “ Trên đây chỉ là hồ sơ đại cương của 21 vụ trong số 50 vụ của ba Tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên từ năm 1960-1961. Còn những năm về sau chưa kể tới…Dân tộc Việt Nam quen nhẫn nhục chịu đựng, nhưng sức người có hạn mà sự hà hiếp, đàn áp, khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm ngày một gia tăng quá mức, nên trước sự mất còn của Đạo, họ phải vùng lên công khai chống đối lại bạo lực, chống đối lại cường quyền. Việc phải đến đã đến! “ (*)
Ngày 20/8/1961 có làm đơn nhờ Tỉnh Hội Phật Giáo Phú Yên can thiệp về việc chồng bà là ông Đặng Dương Oai bị Đặng Sĩ, dân vệ Xã Hòa Quang bắt đi mất tích vào hồi 8 giờ sáng ngày 21/1/1961 mãi tới nay không thấy tin tức. Nguyên do chồng bà bị bắt chỉ vì là người có công với Phật Giáo tại địa phương này. Theo đơn thưa của Ban Trị Sự Khuôn Hội Phật Giáo Hòa Vinh ngày 27/11/1961 v/v chính quyền địa phương đã bắt cóc thủ tiêu các hội viên dưới đây: a) Lê Đức Ngưng b) Võ Cho c) Một số hội viên không ở trong ban quản trị khuôn hội cũng bị hội đồng xã bắt và buộc phải theo Thiên Chúa Giáo mới cho về d) Bà Hà Thị Đam 60 tuổi nạp đơn lên Tỉnh Hội Phật Giáo Phú Yên xin can thiệp về việc chồng bà là Nguyễn Chuyển 60 tuổi bị hội đồng xã bắt đi đem chôn sống. Bà Nguyễn Thị Thiện làm đơn thưa về việc chồng bà là Đỗ Thìn bị bắt đi đem chôn sống. e) Ông Võ Xuân Chính cán bộ tư pháp Xã Xuân Phước, Quận Đồng Xuân hăm dọa và bắt giam Phật tử Lê Hồng Hải.
Sau khi giam 17 ngày Chính buộc ông Hải phải theo Thiên Chúa Giáo mới toàn mạng sồng. g) Bà Hà Thị Voi, Xã Phước Hòa ngày 12/4/1961 cũng bị Võ Xuân Chính vu cho là Việt cộng và bắt ép phải theo Thiên Chúa Giáo mới toàn mạng sống. h) Ông Trần Kỷ 43 tuổi ở Làng Phú Xuân, Xã Xuân Phước bị Nguyễn Cù và Lê Ngọc Mai thuộc chính quyền địa phương bắt ép phải bỏ Phật Giáo để theo Thiên Chúa Giáo ngày 26/8/1961. i) Khuôn Hội Phật Giáo Xã Hòa Quang có những đạo hữu sau đây đã bị chính quyền địa phương thu thẻ kiểm tra và buộc theo Thiên Chúa Giáo: Trần Di thôn Mậu Lâm, Phan Đích thôn Thạnh Lâm, Ngô Thị Ràng và chồng ở Thạnh Lâm. k) Ông Đỗ Sửa bị Trần Văn Thiện và Lê Năng Đắc bắt tra tấn vu cho là Việt cộng, nếu theo Thiên Chúa Giáo sẽ được thả. l) Bà Nguyễn Thị Đôn và chồng Lê Trung Thành bị Trần Văn Thiện, Lê Năng Đắc, Dương Nhảy bắt giam và ép vào Thiên Chúa Giáo mới tha.”
Theo tác giả “ Trên đây chỉ là hồ sơ đại cương của 21 vụ trong số 50 vụ của ba Tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên từ năm 1960-1961. Còn những năm về sau chưa kể tới…Dân tộc Việt Nam quen nhẫn nhục chịu đựng, nhưng sức người có hạn mà sự hà hiếp, đàn áp, khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm ngày một gia tăng quá mức, nên trước sự mất còn của Đạo, họ phải vùng lên công khai chống đối lại bạo lực, chống đối lại cường quyền. Việc phải đến đã đến! “ (*)
Phần Thứ II: Cuộc Tranh Đấu Phát Khởi tại
Huế
Vụ hạ cờ Phật Giáo
trong đại lễ Phật Đản tại Huế được tác giả dẫn chứng bằng công điện đánh đi
vào lúc 5 giờ
ngày 6/5/1963 theo chỉ thị của Ngô Đình Diệm và “bản
sao bức công điện đã được Tỉnh Trưởng ký tên chuyển tới Thượng Tọa Thích Trí
Quang vào hồi 20 giờ 30 ngày 6/5/1963: Trân trọng yêu cầu qúy liệt vị giáo
hội thông báo cho các cơ quan phụng tự và các tín đồ thi hành đúng chỉ thị
trên đây của tổng thống.” Sau đó Thượng Tọa Thích Trí Quang được ủy
thảo bức điện văn: một gửi cho Hội Phật Giáo Thế Giới, một gửi cho Ngô Đình
Diệm và một gửi cho các tập đoàn Phật Giáo Việt Nam . Điện văn gửi Ngô Đình
Diệm viết như sau “Phật Giáo rất xúc động nhận được công điện 9195 không cho
treo cờ Phật Giáo Thế Giới trong đại lễ Phật Đản quốc tế. Chúng tôi không tin
rằng quyết định đó phát xuất từ Tổng Thống. Thỉnh cầu Tổng Thống ra lệnh điều
tra và thu hồi công điện trên. Trân trọng.” (*)
Cả ba điện văn nói trên đều do Hòa Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo VN
ký tên. “Nhưng ba bức điện văn này đã bị chánh quyền địa phương can thiệp
không cho đánh đi. Viên Tỉnh Trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng đã thân hành
tới Chùa Từ Đàm mời Thượng Tọa Thích Trí Quang và hai thượng tọa nữa tới tư dinh
Cố Vấn Miền Trung Ngô Đình Cẩn để hội kiến. Về phía chính quyền có Ngô Đình
Cẩn, Bùi Văn Lương – Bộ Trưởng Nội Vụ, Nguyễn Văn Đẳng – Tỉnh Trưởng Thừa
Thiên. Bùi Văn Lương chịu về Sài Gòn để gấp thỉnh cầu Ngô Đình Diệm thu hồi
công điện số 9195, nếu không được khắp toàn quốc thì ít ra cũng phải ở Huế.”
(*)
Nhưng “Công việc chưa giải quyết xong thì ngay buổi chiều hôm đó
7/5/63 cảnh sát đi khắp Thành Phố Huế, tự tay triệt hạ cờ Phật Giáo và xé
nát, lại còn công khai đánh đập chửi rủa, đe dọa bắt bỏ tù những tín đồ Phật
Giáo có thái độ phản đối. Tất cả tượng Phật thờ trong nhà và đèn lồng treo
ngoài cửa của các tư gia đều bị đập phá tan nát. Nhân dân khắp Thành
Phố Huế sục sôi, căm phẫn. Họ ùn ùn kép tới Chùa Từ Đàm…Thượng Tọa Thích Trí
Quang phải đứng ra dàn xếp mọi công việc. Thượng Tọa đề nghị ban tổ chức Lễ
Phật Đản mời viên tỉnh trưởng Thừa Thiên hoặc đại diện tới Chùa Từ Đàm để
giải quyết sự kiện trên nhưng chính quyền địa phương từ chối cuộc tiếp xúc
này.” (*)
Thượng Tọa Trí Quang phải cùng quý Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết,
Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Huyền Tôn, Thượng Tọa Thích Mật Hiển, Thượng Tọa
Thích Thanh Trí và mấy vị thượng tọa khác tới tỉnh đường để gặp viên tỉnh
trưởng Nguyễn Văn Đẳng. Trong khi đó khoảng 5000 Phật tử tụ tập trước tòa
tỉnh để nghe ngóng, chờ đợi phản ứng của chính quyền. Viên tỉnh trưởng giải
thích là cảnh sát đã quá “sốt sắng” chứ thực ra ông ta chỉ ra khẩu
lệnh khuyên đồng bào triệt hạ đèn và cờ Phật Giáo, nếu họ không nghe thì
thôi. Thượng Tọa Trí Quang yêu cầu cho xe Thông Tin loan báo trước 21 giờ là
cờ Phật Giáo không bị triệt hạ để cử hành đại lễ. Viên tỉnh trưởng bằng lòng.
Sáng hôm sau 8/5/1963 là ngày đại lễ.
Các Phật tử tập trung tại Chùa Diệu Đế để rước tượng Phật lên Chùa Từ Đàm là nơi cử hành Lễ Phật Đản. “Như mọi năm, vào lúc 20 giờ Ngày Phật Đản, đài phát thanh Huế sẽ dành riêng để phát thanh về Phật Giáo và các Phật tử sẽ đứng quanh khu đất trống của đài để nghe. Nhưng năm nay, mọi người tụ họp lại chờ đợi mãi mà đài phát thanh không nói gì. Mọi người xôn xao bàn tán tỏ vẻ bất bình. Thượng Tọa Trí Quang tới đài can thiệp nhưng không có kết quả. Chính quyền địa phương lo ngại, sợ biến thành cuộc biểu tình phản đối nên phải cho xe cứu hỏa tới xịt nước giải tán, sau dùng lựu đạn cay và bắn đạn mã tử. Nhưng ngọn lửa vì Đạo đang dâng lên ngùn ngụt. Tiếng la ó phản đối át tiếng súng.” (*)
Các Phật tử tập trung tại Chùa Diệu Đế để rước tượng Phật lên Chùa Từ Đàm là nơi cử hành Lễ Phật Đản. “Như mọi năm, vào lúc 20 giờ Ngày Phật Đản, đài phát thanh Huế sẽ dành riêng để phát thanh về Phật Giáo và các Phật tử sẽ đứng quanh khu đất trống của đài để nghe. Nhưng năm nay, mọi người tụ họp lại chờ đợi mãi mà đài phát thanh không nói gì. Mọi người xôn xao bàn tán tỏ vẻ bất bình. Thượng Tọa Trí Quang tới đài can thiệp nhưng không có kết quả. Chính quyền địa phương lo ngại, sợ biến thành cuộc biểu tình phản đối nên phải cho xe cứu hỏa tới xịt nước giải tán, sau dùng lựu đạn cay và bắn đạn mã tử. Nhưng ngọn lửa vì Đạo đang dâng lên ngùn ngụt. Tiếng la ó phản đối át tiếng súng.” (*)
Thượng Tọa Thích Trí Quang yêu cầu viên tỉnh trưởng cho ngưng xịt nước để
Phật tử yên ổn ra về thì “Viên Phó Tỉnh Trưởng Nội An Đặng Sĩ đã bất chấp
quyền tỉnh trưởng, huy động xe tăng, thiết giáp ủi vào đám người vô tội,
trong tay không có một thư khí giới nhỏ.” (*)
Kết quả 08 em nhỏ đã bị giết hại. Quý vị có thể xem tấm hình thảm sát tại
đài phát thanh Huế và hình gia đình nạn nhân đang cầu siêu tại chùa nơi trang
28 &31.
Chuyện đáng lý ra có thể giải quyết êm đẹp nếu như Ngô Đình Diệm thật sự
là tổng thống “anh minh”. Nhưng “Máu người Phật tử đã đổ để tranh
đấu cho ngọn cờ Phật Giáo được tung bay.” (*) Và cuộc đấu tranh khốc liệt
bắt đầu bằng: Bản Tuyên Ngôn của Tăng, Tín Đồ Phật Giáo Việt Nam do Hòa
Thượng Thích Tường Vân- Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam ký tên và được
gửi cho Ngô Đình Diệm và Đại Biểu Chính Phủ Trung Nguyên- Trung Phần. “Sau
đó một phái đoàn Phật Giáo vào yết kiến Ngô Đình Diệm tại Dinh Gia Long nhưng
kết quả cũng không đi tới đâu.” (*) Trong tấm hình nơi trang 32 chúng ta
thấy có TT. Ngô Đình Diệm, TT. Thích Tâm Châu, TT. Thích Thiện Hoa và một vị
nữa đeo kính mát, không biết có phải là TT. Thích Thiện Minh hay không?
Rồi cuộc đấu tranh bắt đầu lan rộng vào Sài Gòn với sự kết hợp của nhiều
tông phái Nam Tông cũng như Bắc Tông bằng sự ra đời của Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo qua Bản Tuyên Ngôn ngày 25/5/63
“Đồng lòng: Ủng hộ năm nguyện vọng tối thiểu và thiêng liêng
nhất của Phật Giáo Việt Nam . Thệ nguyện đoàn kết đến cùng trong cuộc tranh
đấu bất bạo động và hợp pháp để thực hiện những nguyện vọng ấy.” (*)
-Tại Sài Gòn các vị thượng tọa chuẩn bị
lễ cầu siêu cho những Phật tử bỏ mình ở Huế vào ngày 15-5-1963 .
-Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế
ra tâm thư gửi đồng bào toàn quốc “Chúng tôi báo nguy cho đồng bào toàn
quốc sự kỳ thị tôn giáo đã đến giai đoạn trầm trọng và nỗi lầm than của tín
đồ Phật Giáo Việt Nam cũng đã dâng cao…” (*) “Thấy phong trào Phật
Giáo tranh đấu lan rộng và nhanh quá, chính quyền Ngô Đình Diệm liền ra mặt
thẳng tay đàn áp Phật Giáo. Chúng dùng đủ mánh khóe, thủ đoạn để dẹp phong
trào Phật Giáo đang ồ ạt dâng lên. Nào tung người vào trong nội bộ Phật Giáo
để chia rẽ, xúi giục những gia đình có con em tử nạn trong vụ đàn áp ở Huế
rút tên ra khỏi danh sách Phật tử, nào cho mật vụ tới các chùa chiền canh
chừng, dò xét, hăm dọa theo dõi và khủng bố Phật tử.” (*)
Phần Thứ III: Ngọn Lửa Thích Quảng Đức
Trong giai đoạn này, Đoàn Sinh Viên Phật Tử
Huế lại ra tâm thư gửi sinh viên học sinh toàn quốc kêu gọi đấu tranh cho “Lý
tưởng tự do, bình đẳng.”
Rồi vào ngày 31/5/1963 Đoàn Sinh Viên Phật Tử
Huế trong đó có: Đại diện các trường Đại Học Y Khoa, Đại Học Sư Phạm, Đại Học
Văn Khoa, Đại Học Luật Khoa, Đại Học Khoa Học, Viện Hán Học, Trường Cán Sự Y
Tế Điều Dưỡng, Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật, Trường
Quốc Gia Âm Nhạc cùng ký tên gửi Tổng Thống và Chính Phủ VNCH kiến nghị 4
điểm trong đó “Yêu cầu Tổng Thống và Chính Phủ thực thi tính cách tự do
dân chủ và bình đẳng thật sự là lý tưởng mà toàn thể thanh niên trí thức hằng
thiết tha cầu đạt. Yêu cầu chính phủ tìm mọi biện pháp để đánh tan sự chia rẽ
trầm trọng giữa dân tộc hiện tại do chính sách bất bình đẳng tôn giáo gây
nên. Yêu cầu chính phủ ra lệnh triệt để đình chỉ những mánh lới trẻ con
thiếu trí thức của cán bộ đối với tín đồ Phật Giáo trong cuộc tranh đấu. Vì
chính những mánh lới đó không lừa bịp được ai mà chỉ mất uy tín của cán bộ và
của chính phủ.“ (*)
“Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn cố
tình làm ngơ trước sự đòi hỏi nồng nhiệt và chính đáng của tăng, ni, Phật tử
và thẳng tay đàn áp, khủng bố, bất chấp cả dư luận trong, ngoài nước.” (*) Thế nên “Vào ngày 11/6/1963 Hòa
Thượng Thích Quảng Đức đã tự nguyện tự thiêu thân cúng dường Phật pháp, để
làm động cơ thúc đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm phải giải quyết gấp rút 5
nguyện vọng của Phật Giáo và giải tỏa ba ngôi chùa ở Huế đang bị vây khốn.”
(*)
Chúng ta có thể nhìn thấy tấm hình HT. Thích Quảng Đức đang đứng trang nghiêm trước sân Chùa Quan Thế Âm (trang 58), hình HT. Thích Quảng Đức ngồi kiết già giữa ngã tư Đường Lê Văn Duyệt & Phan Đình Phùng (trang 59), hình HT. Thích Quảng Đức ngồi uy nghi trong biển lửa (trang 60), hình ngài ngã xuống, thân thể cháy gần thành than nhưng tay vẫn giữ Ấn Tam Muội (trang 61) và hình ngài đang bình thản viết Lời Nguyền Tâm Huyết tại Chùa Ấn Quang gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong đó lời lẽ thật cảm động “Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận 5 nguyện vọng tối thiểu của Phật Giáo Việt Nam ghi trong Bản Tuyên Ngôn. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật Giáo Việt Nam được trường tồn, bất diệt. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.” (*)
Chúng ta có thể nhìn thấy tấm hình HT. Thích Quảng Đức đang đứng trang nghiêm trước sân Chùa Quan Thế Âm (trang 58), hình HT. Thích Quảng Đức ngồi kiết già giữa ngã tư Đường Lê Văn Duyệt & Phan Đình Phùng (trang 59), hình HT. Thích Quảng Đức ngồi uy nghi trong biển lửa (trang 60), hình ngài ngã xuống, thân thể cháy gần thành than nhưng tay vẫn giữ Ấn Tam Muội (trang 61) và hình ngài đang bình thản viết Lời Nguyền Tâm Huyết tại Chùa Ấn Quang gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong đó lời lẽ thật cảm động “Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận 5 nguyện vọng tối thiểu của Phật Giáo Việt Nam ghi trong Bản Tuyên Ngôn. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật Giáo Việt Nam được trường tồn, bất diệt. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.” (*)
Ngoài sự ngưỡng mộ và ngạc nhiên của toàn thế giới. Riêng tác giả đã nhận
định như sau về việc tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức “Trước sự hy
sinh bảo vệ Phật Pháp vô cùng cao cả, hào hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức,
thiết tưởng khó có ngòi bút nào có thể viết nổi, cho dù viết cả ngàn trang
vẫn không đủ lời để ca tụng cái đẹp thánh thần, ngàn năm có một đó.” (*)
Cảm nghĩ này giống như nhà thơ Vũ Hoàng Chương trong bài thơ Lửa Từ Bi:
Lửa! Lửa cháy ngất toà sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quỳ cả xuống.
Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc
Chỗ người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm
rác.
Và chỉ nguyện được là rơm rác.”
Sau đó nhục thân của Hòa Thượng được rước về quàn tại Chùa Xá Lợi. Hằng ngày
không biết bao nhiêu đồng bào, Phật tử tới chiêm bái, phúng viếng. Vì “ Ảnh
hưởng của việc tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức vộ cùng rộng lớn nên chính
quyền Ngô Đình Diệm hoang mang, bối rối, sợ sệt. Chúng tăng cường cả một lực
lượng khổng lồ cảnh sát, công an, mật vụ bao vây quanh Chùa Xá Lợi. Một tuần
lễ sau, ngày 16/6/1963 hằng trăm ngàn Phật tử từ các nơi kéo về để chờ đưa
linh cữu Hòa Thượng Thích Quảng Đức lên An Dưỡng Địa…và cảnh sát, công an,
cảnh sát chiến đấu, mật vụ đã vây chặt các ngả đường và đàn áp bằng lựu đạn
cay, ma- trắc.” (*) Chúng ta có thể nhìn thấy hình ảnh chống trả của quần
chúng Phật tử trên đường phố Sài Gòn, nơi các tấm hình ở các trang 65 &
66.
Phải đợi tới ngày hôm sau 17/6/1963 sau khi Bản Thông Cáo Chung được ký kết vào
lúc 1:30 đêm ngày 16/6/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm mới cho phép làm lễ
rước linh cữu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức tới An Dưỡng Địa. Những dãy nhà
hai bên đường, khi đoàn xe tang đi qua, dân chúng lén bày bàn, thắp hương,
làm lễ vô cùng trang trọng, kính cẩn. Dưới sức nóng ngót 4000 độ, dù thiêu
hai lần mà trái tim của ngài vẫn còn nguyên. “Cả thế giới đều xúc động,
bàng hoàng về ngọn lửa và Trái Tim Bồ Tát Thích Quảng Đức nhưng chỉ có anh em
họ Ngô là dửng dưng không xúc động lại còn tỏ ra căn uất. Trong một thông
điệp kêu gọi dân chúng, Ngô Đình Diệm đã trắng trợn phủ nhận sư hy sinh cao
cả của Bồ Tát Thích Quảng Đức lại còn gán cho là “một vụ mưu sát”. Còn Trần
Lệ Xuân - vợ Ngô Đình Nhu thì gọi là một vụ nướng người. Thiết tưởng
tôi chẳng cần ghi thêm lời lẽ của họ nữa e làm bẩn mắt, rác tai bạn đọc”
Phần Thứ IV: Giai Đoạn Tranh Đấu Quyết Liệt
Do ảnh hưởng của cuộc tự
thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức, chính quyền Ngô Đình Diệm miễn cưỡng
phải làm bộ hòa hoãn và một cuộc họp kéo dài 3 ngày (14/6-16/6) tại Hội
Trường Diên Hồng giữa Ủy Ban Liên Bộ do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cầm
đầu và Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo bao gồm: TT. Thích Thiện Minh-
Trưởng Phái Đoàn. Đoàn viên gồm: TT. Thích Tâm Châu, TT. Thích Thiện Hoa, TT.
Thích Huyền Quang (Thư Ký) và Đại Đức Thích Đức Nghiệp (Phó Thư Ký) và Bản
Thông Cáo Chung ra đời với chữ ký (Khán) của Hòa Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam Thích Tịnh Khiết và Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong đó có những
điểm chính như sau:
-Tách hiệp hội có tính các tôn giáo ra
khỏi Dụ Số 10
-Chính phủ sẽ lập một Ban Điều Tra để
xét lại các hồ sơ khiếu nại của Phật Giáo
-Tất cả những ai có liên quan đến cuộc
vận động thực hiện 5 nguyện vọng của Tổng Hội Phật Giáo đề ra bất luận ở đâu
sẽ được Tổng Thống đặc biệt khoan hồng. (Đoạn này phải hiểu là tất cả những
ai bị bắt vì tranh đấu cho Phật Giáo phải được thả ra)
-Chính phủ sẽ xác nhận lệnh sửa
sai đã ban ra cho các cán bộ để thực thi chính sách bình đẳng tôn giáo
của chính phủ (Đoạn này phải hiểu là chính phủ đã thấy sai trước đây và ban
hành lệnh sửa sai (chuyện này có thật không?) nay ban hành lệnh mới để “xác
nhận” mệnh lệnh đó, tự hậu cấm không được làm sai nữa.)
-Những cán bộ có trách nhiệm về các vụ
xảy ra từ ngày 8/5/1963 (tức từ ngày nổ ra vụ triệt hạ cờ Phật Giáo) bất kỳ
thuộc thành phần nào cũng sẽ bị nghiêm trị, nếu cuộc điều tra đang tiến hành
chứng tỏ lỗi của họ.
-Các gia đình nạn nhân ở Huế đã được trợ
giúp kịp thời và có thể được trợ giúp thêm tùy theo gia cảnh từng
người.
“Sau
khi Bản Thông Cáo Chung được công bố, người người đều tưởng tất cả mọi việc
sẽ diễn ra êm đẹp. Nhưng không! Ngô Đình Diệm vốn ngoan cố, quỉ quyệt, phản
trắc đã ngấm ngầm truyền lệnh cho bọn tay sai trong toàn quốc triệt hạ
bằng được Phật Giáo.” (*) Sau đây là những biến động xảy ra sau
ngày ký kết Bản Thông Cáo Chung:
-Ngô Đình Diệm và Ngô Trọng Hiếu dàn dựng lên cái gọi là “Giáo Hội Cổ Sơn
Môn” và đánh điện tín cho Trung Tâm Điểm Phật Giáo Thế Giới tại Tích Lan vu
khống Phật Giáo Việt Nam lợi dụng danh nghĩa để hoạt động chính trị, nhưng bị
Trung Tâm Điểm bác bỏ với lập luận như sau “Chúng tôi cũng biết rằng tại
Việt Nam cũng có một Tổng Hội Phật Giáo và theo như chỗ chúng tôi biết Tổng
Hội này có đủ uy tín để đại diện và thay lời cho Phật tử ở Việt Nam. Chúng
tôi tin chắc rằng Tổng Hội Phật Giáo này không bao giờ làm những điều gì,
hoặc thái độ nào có thể gọi là phản Phật Giáo.” (*) Tổng Thư Ký W.P.
Daluwatte ký tên. (Toàn văn thư phúc đáp nơi trang 81)
- Ngày 18&19/6/1963, chỉ ba ngày sau ngày ký Thông Cáo Chung, Phòng
Thông Tin Sông Cầu (Phú Yên) đã tổ chức tại các Xã Xuân Phương và Xuân Lộc
hai cuộc mít-tinh, lập kiến nghị lên án nặng lời việc làm của Phật Giáo. Ở Xã
Nhân Hòa, Quận An Nhơn, Tỉnh Bình Định dân chúng cũng bị bắt buộc phải làm
kiến nghị như thế.
-Chùa Phật Giáo ở Quảng Trị hiện còn đang bị phong tỏa và sự lùng bắt các
cán bộ Phật tử, thanh niên Phật tử mạnh mẽ hơn lúc nào hết.
-Sự đi lại của tăng ni giữa các tỉnh và thủ đô bị chặn lại, mời trở lui
hay xe đò từ chối bán vé vì có lệnh cấm của nhà chức trách địa phương.
-Tăng ni, Phật tử lui tới các Chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Giác Minh bị
mật vụ biên số xe theo dõi tới tận nhà hăm dọa.
-Cao Xuân Vỹ- Tổng Giám Đốc Nha Thanh Niên dự định tổ chức một cuộc biểu
tình đại qui mô với lực lượng Thanh Niên-Thanh Nữ Cộng Hòa yêu cầu tổng thống
duyệt lại Bản Thông Cáo Chung.
-Nhiều cấp quân-cán-chính đã được chỉ thị nhân nhượng trước khí thế tranh
đấu của Phật Giáo và đợi lệnh phản công.
Tất cả
những tin tức này nằm trong thư tố cáo“ Kính đệ Tổng Thống VNCH” do
Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết ký này 26/6/1963 mà đoạn cuối bày tỏ sự
tôn kính uy quyền của vị nguyên thủ quốc gia như sau “Tôi trân trọng kính
xin Tổng Thống cương quyết tỏ rõ quyền uy lãnh đạo quốc dân của Tổng Thống,
gạt bỏ mọi điều xàm tấu nguy hại và nhất định cho thi hành thẳng thắn Bản
Thông Cáo Chung để cho toàn dân hân hoan ca ngợi, và đồng thời để xóa nhòa
những ấn tượng không hay của những ngày qua mà quyền lợi tối cao của quốc gia
dân tộc bắt buộc phải để cho trôi theo giòng nước của dĩ vãng. Xin Tổng Thống
nhận lòng kính mến của tôi và toàn thể Phật Giáo đồ trong nước.” (*)
-Ngày 12/7/1963 TT. Thích Thiện Minh đại diện cho Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ
Phật Giáo gửi thư cho Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ tố cáo:
1) Những vị phạm có tính cách công khai Bản Thông Cáo Chung: Như
công an bao vây Chùa Xá Lợi ngay trước cửa Dinh Phó Tổng Thống. Cảnh sát và
công an Quận Tân Bình ồ ạt bao vây Chùa Quan Âm của Cố Hòa Thượng Thích Quảng
Đức. Ở Bình Định suốt ba đêm 24,25&26 nhiều loạt đạn bắn vào Tu Viện
Nguyên Thiều suýt gây tai nạn cho các vị sư ở trong ấy.
Tại Tỉnh Hội Khánh Hòa, có bàn tay bí mật đập phá khuôn kính và lấy đi hình ảnh của Cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức, đốt chiếc xe của ông Trần Quang Ba là chiếc xe thường cho chùa mượn xử dụng. Chùa Quan Âm Quận Quảng Long, Tỉnh An Xuyên (Cà Mau) bị khủng bố bằng tạc đạn khiến tăng ni phải tản cư đi nơi khác. Hai tập đoàn Phật Giáo Miền Trung đã than phiền với ông Đại Biểu Chính Phủ tại Huế rằng công chức và quân nhân Phật tử bị cấm cản đi chùa ở nhiều nơi. Những người bị bắt trong cuộc vận động của Phật Giáo chưa được thả hết còn nhà sư Đặng Văn Cát thì mất tích luôn, mặc dù Phó Tổng Thống nói rằng chính quyền không hề bắt nhà tu hành ấy. Còn Ni Cô Trang Thị Thắm căn cước số 733.126 bị mất tích bỗng nhiên xuất hiện sáng ngày 12/7/1963 tay chân bị trói bằng giây thép và bỏ nằm trước cửa Chùa Huê Lâm.
Tại Tỉnh Hội Khánh Hòa, có bàn tay bí mật đập phá khuôn kính và lấy đi hình ảnh của Cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức, đốt chiếc xe của ông Trần Quang Ba là chiếc xe thường cho chùa mượn xử dụng. Chùa Quan Âm Quận Quảng Long, Tỉnh An Xuyên (Cà Mau) bị khủng bố bằng tạc đạn khiến tăng ni phải tản cư đi nơi khác. Hai tập đoàn Phật Giáo Miền Trung đã than phiền với ông Đại Biểu Chính Phủ tại Huế rằng công chức và quân nhân Phật tử bị cấm cản đi chùa ở nhiều nơi. Những người bị bắt trong cuộc vận động của Phật Giáo chưa được thả hết còn nhà sư Đặng Văn Cát thì mất tích luôn, mặc dù Phó Tổng Thống nói rằng chính quyền không hề bắt nhà tu hành ấy. Còn Ni Cô Trang Thị Thắm căn cước số 733.126 bị mất tích bỗng nhiên xuất hiện sáng ngày 12/7/1963 tay chân bị trói bằng giây thép và bỏ nằm trước cửa Chùa Huê Lâm.
2) Những vi phạm có tính cách nguyên tắc quan trọng: Công điện MẬT
từ Phủ Tổng Thống đánh đi chỉ thị cho các cấp quân-chính “ Phải tạm thời
nhún nhường trước khí thế đấu tranh quyết liệt của bọn tăng ni và Phật Giáo
phản động và chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới theo kế hoạch sẽ gửi
đến sau.”(*) Các tài liệu chính huấn cho tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa nhục
mạ và vu khống Phật Giáo lại được đài phát thanh quốc gia đọc đi đọc lại
nhiều lần. “Tại sao cơ quan thông tin của chính phủ lại cho công bố những
tài liệu chống báng lập trường của chính phủ và chủ trương tốt đẹp của Tổng
Thống trong việc ký kết Bản Thông Cáo Chung?” (*)
Nơi trang 95 tác giả đã nói về cái chết của Nhất Linh vào ngày 7/7/1963
và thuật lại đám tang của nhà văn nổi tiếng trong Tự Lực Văn Đoàn này. Đây
đúng là “trái bom nổ” vào thời kỳ căng thẳng và “đã gây một mối xúc động
lớn cho tất cả các giới trong nước và ảnh hưởng rất lớn tới cuộc tranh đấu
của Phật Giáo.” (*)
Phần Thứ V: Tranh đấu thực thi Thông Cáo
Chung
Do chính quyền Ngô
Đình Diệm không thực thi những gì đã ký kết “Nhân dân trong nước nói
chung, Phật tử nói riêng, sục sôi, căm hận đến tận cùng độ. Nhất là giới sinh
viên học sinh ở Huế và Sài Gòn. Họ bỏ học để hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban
Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và phản đối hành động quỷ quyệt phản bội của cường
quyền.” (*)
- Ngày 16/7/1963 Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ra tâm thư gửi quý đại
đức tăng ni và đồng bào Phật Giáo kêu gọi “Quý liệt vị hãy cùng chúng tôi
thề hy sinh đến người cuối cùng cho nguyện vọng chân chính của chúng ta và
tung hô Phật Giáo Việt Nam Bất Diệt” (*)
-Nơi trang 103 quý vị có thể thấy tấm hình TT. Thích Tâm Châu và các tăng
ni đang đứng biểu tình hơn hai tiếng đồng hồ trước tư dinh Đại Sứ Mỹ Nolting
(người hết lòng bênh vực Ngô Đình Diệm, sau bị triệu hồi)
-Nơi trang 105& 106 hình ảnh chư tăng ni tuyệt thực tại Chùa Xá Lợi
và Chùa Ấn Quang và nơi trang 107 hình ảnh của cuộc biểu tình khổng lồ của
đồng bào tại Đường Phan Thanh Giản, khu vực Chùa Giác Minh cùng với công an,
cảnh sát, mật vụ và kẽm gai giăng đầy.
-Rồi hình ảnh Phật tử đi thăm quý thầy, quý cô tuyệt thực rồi biến thành
cuộc biểu tình với những biểu ngữ đòi chính quyền thực thi Bản Thông Cáo
Chung. (trang 108)
-Nơi trang 111 quý vị có thể thấy hình Đại Đức Thích Quảng Độ đương giải
thích cuộc tranh đấu của Phật Giáo trong khi đó xe thông tin của chính quyền
oang oang nói chõ vào để quấy nhiễu và lực lượng công an, cảnh sát, mật vụ áp
tới “ Gậy gộc, báng súng tới tấp quất xuống đầu, xuống lưng những kẻ vô
tội. Tiếng la ó, phản đối, kêu thét phản đối vang lừng. Một số tăng ni chịu
chung số phận như các Phật tử: bị bóp cổ, bẻ gẫy tay, đánh vỡ đầu, máu me
chảy ròng ròng ướt đẫm cả bộ áo tu hành.” (*)
-Cùng ngày 17/7/1963 vào lúc 8:15 sáng, một cuộc biểu tình khác xảy ra từ
Chùa Xá Lợi tới Chợ Bến Thành được mệnh danh cuộc biểu tình “đại tốc hành”
bao gồm 400 tăng ni. Khi tới Chợ Bến Thành biểu ngữ “Yêu Cầu Chính Phủ
Thực Thi Bản Thông Cáo Chung” được căng lên thì công an, cảnh sát chiến
đấu vây chặt và bắt phải hạ biểu ngữ và cờ Phật Giáo xuống.
Nhưng “tăng ni sẵn sàng chịu chết chứ quyết không hạ cờ Phật Giáo và biểu ngữ.” (*) (trang 115) và “cảnh sát chiến đấu như đàn cọp dữ ào ào sấn lại đấm đá, đánh đập túi bụi vào đầu, vào mình các tăng ni. Rồi cứ hai, ba tên túm một nhà sư quăng lên xe hơi trong khi các vị này cố níu lấy tay nhau chống đỡ. Cuộc giằng co, níu kéo giữa lũ sát nhân và các nhà tu diễn ra gay go” thì Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành Trần Văn Tư xuất hiện và thi hành độc kế. Y làm bộ thân thiện, bắt tay một vị đại diện tăng ni rồi nói “Tôi lấy danh dự cá nhân và tư cách đại diện chính phủ xin thề với ông rằng chúng tôi sẽ đưa các ông về Chùa Xá Lợi. Nhưng khi quý tăng ni lên xe rồi thì đoàn xe phóng thẳng ra tới Đường Lục Tỉnh rồi phóng vụt tới An Dưỡng Địa nằm giữa cánh đồng hoang vắng có sẵn công an, cảnh sát và hàng rào kẽm gai chờ đón.” (*)
Nhưng “tăng ni sẵn sàng chịu chết chứ quyết không hạ cờ Phật Giáo và biểu ngữ.” (*) (trang 115) và “cảnh sát chiến đấu như đàn cọp dữ ào ào sấn lại đấm đá, đánh đập túi bụi vào đầu, vào mình các tăng ni. Rồi cứ hai, ba tên túm một nhà sư quăng lên xe hơi trong khi các vị này cố níu lấy tay nhau chống đỡ. Cuộc giằng co, níu kéo giữa lũ sát nhân và các nhà tu diễn ra gay go” thì Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành Trần Văn Tư xuất hiện và thi hành độc kế. Y làm bộ thân thiện, bắt tay một vị đại diện tăng ni rồi nói “Tôi lấy danh dự cá nhân và tư cách đại diện chính phủ xin thề với ông rằng chúng tôi sẽ đưa các ông về Chùa Xá Lợi. Nhưng khi quý tăng ni lên xe rồi thì đoàn xe phóng thẳng ra tới Đường Lục Tỉnh rồi phóng vụt tới An Dưỡng Địa nằm giữa cánh đồng hoang vắng có sẵn công an, cảnh sát và hàng rào kẽm gai chờ đón.” (*)
-Vào ngày 18/7/1963 Ngô Đình Diệm đọc một bản thông điệp mục đích làm dịu
cuộc đấu tranh của Phật Giáo “Tôi mong đồng bào hãy ghi nhận ý chí hòa
giải tột bực của chính phủ…” (*)
-Ngày 19/7/1963 TT. Thích Tâm Châu gửi văn thư kính đệ Tổng Thống VNCH
trong đó yêu cầu chính phủ giải quyết 05 điểm:
1) Phóng thích tất cả tăng ni, thiện tín, sinh viên, học sinh, Gia Đình
Phật Tử bị bắt bất luận ở đâu trong khắp nước.
2) Tất cả các tăng ni bị bắt nhốt tại An Dưỡng Địa cần phải được trả về
Chùa Xá Lợi đầy đủ.
3) Xin chính phủ can thiệp để các báo đăng hoặc các gia đình có người bị
bắt hay mất tích mà chưa thấy trở về từ đây tới Chủ Nhật 21/7/1963 kịp thời
thông báo cho Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo biết để chuyển đến chính phủ.
4) Xin chính phủ công bố danh sách và truy tố những cán bộ có trách nhiệm
trong vụ đổ máu tại Đài Phát Thanh Huế 8/5/1963 .
5) Xin chính phủ bồi thường xứng đáng cho các nạn nhân đêm 8/5/1963 và
cuộc đàn áp ngày 4/6/1963 tại Huế. Văn thư nói tiếp “Kính thưa Tổng Thống:
Toàn thể tăng ni chúng tôi trong Ủy Ban Liên Phái thà chết chứ không chịu để
cho lòng tin tưởng của chúng tôi nơi thành tín của chính phủ bị thực tế đánh
đổ một lần nữa.” (*)
Tại nơi trang 125 quý vị có thể thấy hình ảnh chư tăng ni rời An Dưỡng
Địa sau khi Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành Trần Văn Tư và Bộ Trưởng Ngô Trọng
Hiếu và phái đoàn báo chí trong và ngoài nước tới.
Những tin tức về cuộc tranh đấu của Phật Giáo trong những ngày qua đã
được các Đài VOA, BBC, các hãng thông tấn AP và Stars And Stripes truyền đi
và họ đã dùng những danh từ như “kỳ thị tôn giáo”. Đài VOA trong buổi
phát thanh lúc 12:30 ngày 18/7/1963 cho biết trong cuộc họp báo ngày Thứ Tư,
một ký giả đã hỏi TT. Kennedy “Chúng tôi xin Tổng Thống cho biết những nỗi
khó khăn hiện giờ giữa Phật Giáo đồ ở Việt Nam và chính phủ Việt Nam có làm
trở ngại gì đến nhiều năm viện trợ của Mỹ trong công cuộc chiến đấu chống
Việt cộng tại đó không?” (*) Và TT. Kennedy đã trả lời “Tôi hy vọng
cuộc tranh chấp này sẽ được giải quyết ổn thỏa, vì lẽ chúng ta muốn thấy có
một chính phủ vững vàng ở Việt Nam Cộng Hòa để tiến hành cuộc chiến đấu duy
trì độc lập quốc gia của họ.” (*)
-Ngày 27/7/1963 Sư Bà Diệu Không, thân mẫu nhà bác học Bửu Hội - đại sứ
tại nhiều nước tại Châu Phi mở cuộc họp báo tại Chùa Xá Lợi tuyên bố sẽ noi
gương Bồ Tát Thích Quảng Đức để cúng dường Phật pháp. Trong khi đó khoảng 100
người tự xưng là thương phế binh biểu tình dùng máy phóng thanh chĩa vào chùa
phản đối và cho rằng Phật Giáo đã bị cộng sản lợi dụng. Một số “thương phế
binh” còn nhẩy lên tường rào cao, đạp lên đầu mấy sư đang đứng phía trong,
ném tung vào chùa nào là truyền đơn, hình vẽ chiến sĩ đóng khung…ung dung kéo
đi diễn hành trên nhiều đường phố trước mắt cảnh sát và cảnh sát chiến đấu
đang giữ trật tự cho họ trước chùa. Quý vị có thể thấy tấm hình chụp thương
phế bình ngồi trên xe xích-lô biểu tình trên đường phố nơi trang 140.
-Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ra tâm thư gửi anh em thương phế binh
đã biểu tình trước Chùa Xá Lợi trong đó có những đọan như sau: (trang
142& 143)
“Chúng tôi không lầm thì trong số anh em tàn tật vì đã hy sinh cho quốc
gia, đã có trên 80% Phật tử.”
“Chúng tôi chỉ phản đối những kẻ chủ
trương dợi dụng chiêu bài chống cộng để bắt tội những người này, kẻ nọ là thân
cộng, là không chống cộng để nhằm tiêu diệt họ dưới nhiều hình thức trong đó
có Phật Giáo.”
“Chúng tôi cực lực lên án âm mưu dùng xương máu toàn dân để xây dựng ngai
vàng của một nhóm.”
-Ngày 30/7/1963 hằng vạn đồng bào và tín đồ đã kéo tới Chùa Xá Lợi nhân
lễ chung thất (49 ngày) của HT. Thích Quảng Đức. Cũng trong ngày hôm đó một
bản Tuyên Ngôn do TT. Thích Tâm Châu ký tên đã ra đời trong đó có đoạn “Kiểm
điểm lại cuộc vận động nói trên đến nay chỉ mới được giải quyết trên giấy tờ
và bằng lời nói. Nhưng trên thực tế chưa có một thực thi cụ thể nào khả dĩ
làm dịu nỗi đau khổ triền miên của toàn thể Phật Giáo đồ Việt Nam . Ngược lại
những thực tế đau lòng ngày càng dồn dập làm cho Phật Giáo đồ mất hết tin
tưởng. Dù vậy Phật Giáo đồ Việt Nam quyết định không lìa bỏ tinh thần thuần
túy tôn giáo bằng cách áp dụ
-Ngày 12/8/1963 tại Chùa Xá Lợi, nữ sinh Mai Tuyết An tự chặt cánh tay
trái của mình để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo với tấm
hình nơi trang 149.
Phần Thứ VI: Sáu ngọn lửa bi hùng tiếp nối
ngọn lửa Thích Quảng Đức
-Đại Đức Thích Nguyên Hương tự thiêu và để lại Trần Tình Thư gửi Hòa
Thượng Hội Chủ và Quý Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, Tín Đồ Phật Giáo trong và
ngoài nước, phát nguyện tự thiêu để “Phản đối tình trạng bắt bớ, khủng bố
các tăng, ni, tín đồ Phật Giáo và để hòa nhịp với sự đau buồn của các Phật tử
bị thiệt mạng và đang bị thương trong thời gian tranh đấu vì chính pháp.”
(*) Và bức thư gửi “Tía Má” (Bố Mẹ) ở Phan Thiết, trong đó có đoạn “Tuy
thể xác đã vãng nhưng linh hồn con lúc nào cũng nhớ tới tía má. Đến đây con
xin ngừng bút, đây là nét cuối cùng của con tiễn biệt tía má, con xin tía má
nhận lòng thành kính của con.” (*)
-Đại Đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu ở Huế ngày 13/8/1963
-Ni Cô Diệu Quang ba ngày sau tức ngày 15/8/1963 tự thiêu trước Chi Hội
Phật Học Ninh Hòa.
-Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu 71 tuổi, tự thiêu tự thiêu tại Huế lúc 4 giờ
sáng ngày 16/8/1963 trước sự hộ niệm của chư vị hòa thượng, đại đức, tăng ni
và rất đông Phật tử.
-Ngày 5/10/1963 Đại Đức Thích Quảng Hương tự thiêu trước bồn binh Chợ Bến
Thành. Khi ngọn lửa bùng lên được mấy phút thì xe cứu hỏa chạy tới xịt nước
và đem nhục thân của đại đức đi. Hiện nay chưa ai biết thi hài của đại đức
chôn ở đâu.
-Đại Đức Thích Thiện Mỹ tự thiêu trên vỉa hè đối diện với Nhà Thờ Đức Bà
(Sài Gòn) vào lúc 10 giờ sáng ngày 27/10/1963 để lại ba bức thư gửi Hòa
Thượng Hội Chủ, Ngô Đình Diệm và Ô. U Thant- Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc.
Phần Thứ VII: Giai đoạn chót cuộc đàn áp Phật
Giáo
-Ngày 18/8/1963 Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tổ chức lễ cầu siêu cho
những vị tử đạo tại Chùa Xá Lợi. Khoảng mười vạn người, đủ mọi thành phần đã
tham dự buổi lễ này. “Có người cả quyết rằng trong giờ phút này chỉ cần
một lời hô của các vị thượng tọa là đám người sẽ bùng bùng kéo tới thẳng Dinh
Gia Long đạp bình địa ngay tất cả. Nhưng nhờ sự điều khiển khéo léo, tài ba
của của các vị thượng tọa, đại đức nên buổi lễ không xảy ra điều gì đáng
tiếc…nên tới 6 giờ chiều, tất cả bằng lòng giải tán.”(*)
-Vì Chùa Xá Lợi là nơi tập trung các nhân vật đầu não của Phật Giáo như:
HT Hội Chủ Thích Tịnh Khiết, TT. Thích Tâm Châu, TT. Thích Thiện Minh, TT.
Thích Trí Quang, TT. Thích Thiện Hoa cùng các Đại Đức Thích Đức Nghiệp,
Thích Quảng Độ, Thích Giác Đức, Thích Hộ Giác cùng Sư Bà Diệu Không cho nên “anh
em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu quyết định cho lực lương đặc biệt tấn công
chùa để bắt chư hòa thượng, tăng ni đem đi.” Cuộc tấn công hung hãn khởi
đầu vào lúc 0:30 khuya ngày 20/8/1963 . “Trong lúc một số tăng ni tìm cách
thoát cuộc bao vây của cường quyền vượt bức tường bên hông chùa để sang khu
vực USOM nhưng bọn cảnh sát đã hay kịp. Những loạt đạn tuôn ra. Vài thây
người ngã gục trong đêm tối. Tuy vậy cũng có hai vị thoát được sang địa phận
USOM xin tỵ nạn.” (*) Cả Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết cũng bị xô
ngã mang vết thương nơi mắt. Cuộc tấn công chấm dứt lúc 2:15 sáng. Năm chiếc
xe cam-nhông hốt tăng ni về nhà giam.
-Sáng 21/8/1963 Ngô Đình Diệm ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc.
Nhưng cuộc tấn công vào Chùa Xá Lợi như đổ thêm dầu vào lửa - một tính toán
hoàn toàn sai lầm của anh em Ngô Đình Diệm.
-Sáng ngày 22/8/1963 sinh viên các trường Đại Học Y Khoa, Cao Đẳng Kỹ
Thuật, nổi dậy hưởng ứng cuộc đấu tranh của Phật Giáo. Ngoại Trưởng Vũ Văn
Mẫu cạo trọc đầu, từ chức để hưởng ứng cuộc đấu tranh.
-Sáng ngày 23/8/1963 sinh viên, học sinh khắp nơi kéo tới Đại Học Luật
Khoa để bầu ủy ban tranh đấu.
-Cùng ngày vào lúc 10 giờ sáng sinh viên học sinh tổ chức cuộc biểu tình
tai bùng binh Chợ Bến Thành và nữ sinh Quách Thị Trang 15 tuổi đã bị bắn chết
và 10 người khác bị thương.
- Cũng trong thời điểm này học sinh các trường Chu Văn An, Trưng Vương,
Gia Long, Võ Trường Toản bỏ học, không chịu vào lớp biểu tình phản đối chính
quyền Ngô Đình Diệm. Tại nơi trang 198 chúng ta thấy hình học sinh Chu Văn An
biểu tình tại sân trường, cầm cờ Phật Giáo và dùng khăn bịt miệng để phòng
ngừa hơi cay. Hình nữ sinh Trưng Vương biểu tình phản đối đàn áp tôn giáo.
Tại nơi trang 188 chúng ta thấy tấm hình học sinh Chu Văn An vẽ phấn trên
bảng “Ngô Đình Nhu là con quỷ cái. Nhu Diệm độc tài.” (*), hình cảnh
sát chiến đấu leo lên tường để gỡ những biểu ngữ đả đảo chính quyền Ngô Đình
Diệm của học sinh.
-Ngày 24/8/1963 Ủy Ban Chỉ Đạo Sinh Viên Học Sinh ra mắt tại Đại Học Luật
Khoa trước mấy ngàn sinh viên. “Điều đáng nói là trong buổi này có cả sự
hiện diện của GS. Vũ Văn Mẫu, GS. Vũ Quốc Thúc và GS. Nguyễn Văn Bông và được
hoan nghênh nồng nhiệt.” (*)
-Mỗi ngày hàng ngàn sinh viên học sinh bị bắt đưa đi giam tại Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung.
-Ở Huế hằng ngàn sinh viên học sinh đã kéo tới ở ngay trong Chùa Từ Đàm
để hợp sức với chư tăng ni.
-Ngày 19/9/1963 Liên Hiệp Quốc quyết định ghi vào chương trình nghị sự
vấn đề chính phủ Ngô Đình Diệm vi phạm nhân quyền.
-Hồi 0:30 ngày 24/10/1963 phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam để điều
tra, Đại Sứ Raman Pazhwak đại diện A Phú Hãn (Afghanistan) làm trưởng đoàn.
Phái đoàn đã tiếp xúc với Ô. Nguyễn Ngọc Thơ, Ngô Đình Nhu và viếng thăm Chùa
Xá Lợi, Chùa Giác Lâm và tiếp xúc riêng với từng vị thượng tọa, đại đức.
Trong dịp này Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết đã gửi mật thư cho đại sứ
trưởng phái đoàn Liên Hiệp Quốc trong đó có những đoạn như sau:
a) Ngày lễ Chúa giáng sinh, tất cả các công sở phải treo đèn kết hoa; hơn
thế nữa trước Tòa Đô Chánh Sài Gòn, một trong những hang đá nguy nga đồ sộ
được dựng lên bởi toàn lực của cơ quan quân đội cũng như dân chính mà phần
lớn là những Phật tử, đài phát thanh trong ba ngày liên tiếp dùng để truyền
thanh các buổi thánh lễ và những bài thánh ca, Tổng Thống đọc thông điệp hiệu
triệu tất cả quốc dân hướng về ngày đó.
b) Nhà thờ được xây cất tự do bởi sự khuyến khích của viện trợ của chính
phủ nhưng Phật Giáo muốn xây chùa chiền phải được phép của chính phủ và điều
này rất khó khăn.
c) Trong quân đội có nghành Tuyên Úy Thiên Chúa Giáo trong khi đó 70%
binh sĩ Phật tử không có Tuyên Úy Phật Giáo.
“Mục đích của chính phủ hiện tại là muốn biến Miền Nam Việt Nam thành một
nước Thiên Chúa Giáo, nên đã thành lập một tổ chức mênh danh là Công Giáo
Tiến Hành hoạt động rất mạnh trên toàn lãnh thổ với nhiều kế hoạch rất tinh
vi nhắm tiêu diệt Phật Giáo mà tôi xin đơn cử một vài điển hình dưới đây”(*)
a) Đến từng gia đình Phật tử nghèo túng khuyên rửa tội theo Thiên Chúa
Giáo bằng cách giúp cho một số tiền, gạo hoặc tìm cho việc làm.
b) Mở các khu dinh điền và khu trù mật gồm toàn những người theo Thiên
Chúa Giáo rồi khuyến dụ Phật Giáo đến lập nghiệp và theo đạo, nếu ai không đi
sẽ bị đe dọa đủ điều.
c) Lập các Ấp Chiến Lược ở miền quê, bắt dân chúng phải dỡ nhà, tập trung
vào một chỗ, tất cả các chùa chiền cũng phải dỡ đi, nhưng khi vào Ấp Chiến
Lược chỉ được cất nhà mà không được phép tái lập chùa, trong khi đó thì trong
Ấp Chiến Lược được tự do xây cất nhà cửa. Nếu các chùa không chịu dời vào ấp
thì nhà sư trụ trì đó bị nghi là lừng khừng.
-Ngày 23/8/1963 Luật Sư Trần Văn Chương (thân phụ Trần Lệ Xuân) – Đại Sứ
VNCH tại Hoa Kỳ đánh điện từ chức vì chính phủ đàn áp và nhục mạ Phật Giáo.
-Ngày 19/9/1963 Giáo Sư Nguyễn Thanh Thái, một Việt kiều ở Pháp “đã
hành động một cách phi thường” (*) bằng cách thản nhiên lấy một con dao
găm tự rạch ngực cho máu chảy rồi lấy một cái chén nhỏ bằng bạc, hứng máu
viết thư gửi Ô. U Thant- Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tố cáo những tội ác của
chính phủ Ngô Đình Diệm. Viết xong ông giơ cao lên cho mọi người nhìn và nói
lớn: “Đây là máu của nhân dân quật khởi chống một chính phủ vi phạm nhân
quyền.” (*)
Phần Thứ VIII: Dư luận thế giới
Bao gồm các báo chí khắp nơi như tờ Straits Times Mã Lai, Tờ Nanyang
Siang Pan viết bằng Hoa Ngữ tại Singapore và Miến Điện.
Tại Cao Miên Thủ Tướng Căm Bốt đã bày tỏ thiện cảm với Phật Giáo Việt Nam
. Thái Lan các báo chí tại Vọng Các đều đều đăng tải các tin tức liên quan
đến những biến cố ở Huế. Trung Hoa Quốc Gia, rồi Lời Hiệu Triệu của Ô. Hội
Trưởng Hội Phật Giáo Thế Giới tại Ngưỡng Quang, Miến Điện, Nhật Bản, Ấn Độ,
Ai Lao, Đại Hàn, Indonesia, Hongkong.
Tại Hoa Kỳ, báo News and World Report viết như sau “Người Mỹ ở Sài Gòn
cho biết cuộc sinh sự với các nhà lãnh đạo Phật Giáo của Ô. Diệm là một lỗi
lầm tệ hại nhất từ xưa tới nay…khiến cho vai trò của Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt
Nam lâm vào tình trạng khốn quẫn.” (*)
Rồi tới các báo chí ở Thụy Sĩ, Anh Quốc, Úc Đại Lợi, Pháp. Riêng tờ Neak
Cheat Niyum ra ngày 30/6/1963 trong bài xã luận nhan đề “Bước Đường Cùng Của Sự Dối Gạt”
đã viết “ Ông Ngô Đình Diệm với những anh em ông ta và người em dâu bất
khả xa lìa, đã dùng hai tuần lễ cuối cùng để chuẩn bị cho những cuộc chiến
đấu tới, những người cuồng tín nhất trong bọn đã nhận được vũ khí và tất cả
phải tức khắc ra tay trước khi Phật Giáo đồ thực hiện chủ trương tạo một
Thánh Barthelemy như của Gia Tô Giáo. Nói riêng thì tập đoàn này không thể vì
cớ gì lùi bước được nữa vì chúng tôi lượm được những tin này tại các trung
tâm Gia Tô Giáo người Âu ở Nam Việt Nam.” (*)
Tại Bruxelles (Bỉ) Linh Mục Pire- người đoạt giải Nobel về hòa bình, gửi
Ô. U Thant- Tổng Thư Ký một bức thư yêu cầu ông gấp rút mở cuộc điều tra tại
chỗ để làm sáng tỏ vấn đề.
Tờ Washington Post viết “Phật Giáo đồ khắp Á Châu sẽ có cảm tưởng rằng
dù sao Hoa Kỳ cũng dung túng sự kỳ thị tôn giáo. Đó là một cảm nghĩ sai lầm,
nhưng trót là bạn của một chế độ độc tài, áp bức nên Hoa Kỳ dù sao cũng bị
ảnh hưởng.” (*)
Tờ New York Times số ra ngày 19/6/1963 viết “Tình hình ở Sài Gòn đã
đến giai đoạn giống hệt như những ngày cuối cùng của Ô. Lý Thừa Vãn tại Hán
Thành.” (*)
Tờ Sunday Examiner của Thiên Chúa Giáo xuất bản ở Hongkong viết “Mong
rằng những người tuy khác đạo giáo nhưng phải tôn trọng giá trị về tôn thờ
đạo giáo của họ, và đó là tinh thần bình đẳng tự do con người.” (*)
Nữu Ước UPI “Trong khi chính phủ đang cần sự tin tưởng của dân chúng
hơn bao giờ hết thì chính phủ lại đang mất sự ủng hộ của tín đồ Phật Giáo
chiếm ba phần tư tổng số dân chúng tại Miền Nam Việt Nam.” (*)
UPI Hoa Thịnh Đốn ngày 19/7/1963 đưa tin “Hôm Thứ Năm, Thượng Nghị Sĩ
Wayne L. Morse nói rằng ông sẽ không đồng ý cho một đô-la nào nữa để ủng hộ
cho một chế độ độc ác tàn bạo của TT. Ngô Đình Diệm tại Miền Nam Việt Nam.”(*)
Tờ Christian Science Monitor trong bài “ Sự Đau Khổ Tại Miền Nam Việt
Nam ” đã viết “Chế độ gia đình trị của TT. Ngô Đình Diệm đang tự đào
hố chôn mình.” (*)
Phần Kết Luận:
Không dông dài, trong phần kết luận, tác giả đã kết thúc ngắn gọn như
sau:
“Cuộc tranh đấu thần thánh của Phật Giáo Việt Nam đã góp một phần
không nhỏ vào cuộc Cách Mạng ngày 1/11/1963 của Quân Đội VNCH lật đổ cường
quyền họ Ngô. Phật Giáo đã tô đậm nét vàng son hào hùng vào lịch sử dân tộc.
Phật
Giáo đã nói lên tiếng nói bất khuất của dân tộc trước cường quyền. Việc bảy
tăng ni châm lửa tự thiêu để tranh đấu cho sự sồng còn của Phật Giáo Việt Nam
đã khiến cho cả thế giới cúi đầu kính phục sự hy sinh cao cả, sự can đảm phi
thường của người Việt nói chung và Phật Giáo nói riêng.
Ánh
sáng của đạo Từ Bi đã khuất phục được cường quyền, đó là bài học vô cùng quý
báu để loài người từ nay về sau lấy đó làm gương.
Cuộc
tranh đấu của Phật Giáo từ ngày 8/5/1963 tới ngày 1/11/1963 đã mở kỷ nguyên
mới cho Phật Giáo Việt Nam : Kỷ nguyên của tranh đấu bất bạo động mà chiến
thắng được cường quyền.” (*)
Đào Văn Bình
( California Tháng 8, 2011)
Cước chú:
(***) Ngô Đình Diệm được liêt kê trong cuốn History’s 100 Most Evil Despots
& Dictators (100 Bạo Chúa và Các Nhà Độc Tài Gian Ác Nhất Trong Lịch Sử) của
Nigel Cawthorne do Barnes & Noble xb năm 2006. Nigel đã luận tội Ngô Đình
Diệm nơi trang 167 ”He sought to prove anti-Communist credentials by brutal
repression” (Ông ta tạo thành tích chống Cộng bằng đàn áp dã man.” Và
nơi trang 168 “Meanwhile he ruthlessly repressed political dissenters and
religious factions, and installed member of his familiy in important jobs
(Trong khi đó ông ta đàn áp không nương tay các nhà đối lập chính trị và tôn
giáo đồng thời đưa gia đình nắm giữ những chức vụ quan trọng.”
(*) Những chữ in nghiêng là phần trích dẫn.
Quý vị muốn có bản chụp của cuốn sách xin liên lạc với tác giả theo
địa chỉ:
Thanh Thương
Hoàng PO . Box 51625 San Jose , CA 95151-9998 .
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 262
Posted by
vanhoa
at
9:29 PM
No comments:
- Sau chuyến viếng thăm và thuyết trình tại Âu châu, Đức Dalai Lama đã đến Hoa Kỳ. Trạm dừng chân đầu tiên tại Trường Đại học tiểu bang Maryland vào ngày 7-5 vừa qua đã thu hút sự chờ đón của hàng ngàn thính chúng.
Ngài thuyết trình đề tài Hoà bình - Từ bi - Tình bằng hữu (Peace - Compassion - Fellowship). Khoảng 30 ngàn người đã ghi danh tham dự buổi thuyết giảng, tuy nhiên hội trường chỉ có thể đủ chỗ cho 15 ngàn người khiến khá nhiều người tiếc nuối.
Đức Giám Mục Vincent Nguyễn Văn Long:
Hãy Liên kết phá tan xiềng xích bạo tàn
27/04/13 11:44 AM
Cả dân tộc ta đang đứng trước thảm họa bị chìm đắm và diệt vong. Con đường tiến lên cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa chính là con đường dẫn đến sự băng hoại và bế tắc toàn diện như đang diễn ra hiện nay. Đất nước chúng ta cần một con thuyền mới để ra khơi trong thiên niên kỷ mới. Con thuyền đó không được xây dựng bằng ý thức hệ ngoại lai mà được tác tạo bởi ý chí và nhiệt huyết của mọi người dân.
Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng bảng đen trong lớp học chứ không phải đứng trước tòa án Cộng Sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: “Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm”.
Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội”.
Hàng triệu người Việt Nam trong hai ngày qua sống trong tâm trạng vừa vừa phẫn nộ, vừa xót xa nhưng cũng vừa hãnh diện. Phẫn nộ khi đọc bản án của đảng CS dành cho hai em, xót xa khi nhìn vóc dáng mảnh mai, yếu đuối của Phương Uyên, nhưng hãnh diện đến rơi nước mắt vì những câu nói lịch sử của hai em.
NGÔ ĐÌNH DIỆM -
CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ "NỀN HÒA BÌNH DANG DỞ " 2
Nhân ngày 1-11 trở lại một vấn nạn
HOÀNG ĐÔNG TÀ chọn bài
| |||
Nội Dung:
1. Sơ Lược Cuộc Đời Của cố TT. Ngô Đình Diệm2. Cố Tổng Thống Ngô Đinh Diệm Bí Mật Tiếp Xúc Với Cộng Sản Việt Nam 3. Nghĩ Về Hai Dòng Họ Thông Gia Huế 4. Ngô Đình Diệm Và Bảo Đại 5. Bất Đắc Dĩ Khơi Lại Đống Tro Tàn 6. Đại Học Huế Tranh Đấu Chống Chế Độ Cũ
I- SƠ LƯỢC CUỘC ĐỜI CỦA NGÔ ĐÌNH DIỆM
Nguyễn Mạnh Quang
Theo sử gia Vũ Ngự Chiêu, ông Ngô Đình Diệm
"sinh ngày 21/7/1897, tại Đại Phong Lộc, Quảng Bình. Tuy
nhiên, từ năm 1954, ngày sinh chính thức đổi thành ngày 3/1/1954."[8]
Song thân của Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khả và Phạm Thị Thân. Ngô Đình Khả có 6 người con trai là Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và Ngô Đình Cẩn. Hai người con gái là bà Ngô Thị Hoàng và Ngô Thị Hiệp (?). Như đã trình bày ở trong chương sách nói về Nhóm Thiểu Số Tín Đồ Da-tô (Mục XII, Phần IV) trước đây, hầu hết tín Da-tô người Việt đều hoặc là những hạng người tham lợi "đi đạo lấy gạo để ăn", hoặc là háo danh và thèm khát quyền lực "theo đạo để tạo danh đời", hoặc là bị chèn ép hay cưỡng bách phải theo đạo vì hôn nhân, không muốn mất người yêu hay hạnh phúc gia đình bị tan vỡ, hoặc là những trẻ mồ côi trong đó có những đưa con rơi của các ông giám mục và linh mục. Chuyện con rơi của các hồng y, giám mục và linh mục được sách Vicars of Christ ghi lại với nguyên văn như sau: "Một bản thống kê cho biết: một xứ có 900 ngàn dân mà có tới 3 ngàn tu sĩ; và cứ 2 trong 5 (40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ." ("One amazing statistic emerges: in a country of 900,000 people, there were 3,000 clergy; and yet two out of five bastards were born to the clergy.") [9] Đoạn văn trên đây cho chúng ta biết "cứ 2 trong 5 (40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ." Không biết tại sao sử gia Peter de Rosa lại gọi những đứa trẻ này là "con hoang" (bastards). Thiết nghĩ rằng phải nên gọi chúng nó là "những đứa con của các ngài mang chức thánh" hay là "những ông thánh con" của Giáo Hội La Mã. Nói theo ngôn từ của Bà Hồ Xuân Hương, thì "ông thánh con" này chính là những đàn cá "thồng rồng" của các ngài "mang chức thánh" mang đến thả vào "những cái giếng thánh tân" của nữ tín đồ Da-tô. Trở lại chuyện những người tân tòng mà Vatican gọi là "những nguời mới trở lại đạo", như đã nói ở trên, họ theo đạo chỉ vì danh vì lợi, hay vì bị cưỡng ép, chứ thực sự, chẳng có ai muốn theo cái "đạo bạo lực" mà văn hào Voltaire gọi là "cái tôn giáo ác ôn" này làm chi! Giáo Hội La Mã và các ông truyền giáo Da-tô cũng biết như vậy, nhưng họ bất cần. Họ bất cần vì họ tin rằng nếu đã theo đạo rồi, dù là bị dụ khị bởi những miếng mồi vật chất, danh lợi, hay bị cưỡng ép vì hôn nhân, hay ở vào bất kỳ trường hợp nào, thì sớm hay muộn, những người này cũng được nhào nặn thành những tín đồ Da-tô cuồng tín bằng chính sách ngu dân và giáo nhồi sọ với nhiều phương pháp khác nhau được thi hành song hành với nhau. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong Mục XXII với tựa đề là Thi Hành Chính Sách Ngu Dân và Giáo Dục (của Giáo Hội La Mã) ở sau. Một trong những phương pháp nhồi sọ này được nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại với nguyên văn như sau: "Toàn trại này, dường như ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được thể hiện qua việc cầu nguyện và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước chân xuống đất, là phải làm dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc tới giờ đi làm. Buổi trưa, đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến Chúa. Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần tràng hạt! Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác! Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì…."[10] "Từ thuở chưa có trí khôn, cũng giống như bao nhiêu người Công Giáo khác, anh (Thông) đã được nuôi dưỡng trong bầu không khí thượng tôn tín ngưỡng, bằng những giáo điều bất di bất dịch, theo thời gian ngấm dần vào trí óc anh, khiến anh làm cái gì cũng sợ tội, sợ Chúa trừng phạt." [11] . Ông Ngô Đình Khả và đàn con đàn cháu của ông ta cũng được nhồi sọ theo cái phướng trên đây của Giáo Hội La Mã. Tới đây xin nói về thêm về ông Ngô Đình Khả, thân phụ của ông Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Khả sinh năm 1856 và là một tín đồ Da-tô đao gốc (có bố là Ngô Đình Niệm đã theo đạo). Năm 1870, ông được Giáo Hội La Mã gửi đi học làm nghề linh mục tại một chủng viện ở Pénang. Thời gian theo học ở đây là tám năm. Tám năm đèn sách để làm nghề linh mục, nhưng không biết tại sao ông lại không thành công hay không muốn làm cái nghề khoác áo chùng đen để làm cha thiên hạ. Năm 1778, ông được cho về nước và sau đó ông được một linh mục người Pháp đưa vào làm thông ngôn ở Huế. Vì hết lòng tận tụy với quan thày và được quan thày tin tưởng, tháng 6 năm 1995, ông được cho làm phó tướng cùng với ông Nguyễn Thân đem lính Việt Nam mà hầu hết là lính đạo (quân thập tự Việt Nam) đi đánh phá và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền lãnh đạo của cụ Phan Đình Phùng ở Vụ Quang và Ngàn Trươi. Nghĩa quân Văn Thân vừa am hiểu địa hình địa thế, vừa quyết tâm chiến đấu, cho nên quân thập tự Việt Nam dưới quyền của Nguyễn Văn Thân và Ngô Đình Khả bị tổn thất nặng, và không tiến được vào căn cứ của nghĩa quân. Mấy tháng sau, cụ Phan Đình Phụng qua đời vì bệnh kiết lỵ. Sau cái chết của cụ Phan, nghĩa quân Văn thân như rắn mất đầu. Do đó, Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả mới mạnh bạo xua quân tiến vào đánh tan lực lượng nghĩa quân,cho người đào mả cụ Phan Đình Phùng lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng rồi bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những thất bại trước đó. Nhờ chiến công và hành động dã man này, Liên Minh Pháp – Vatican cho ông lên làm đến chức "Thái Thượng Tự Khanh" tương đương với hàng "chánh tam phẩm". Năm 1905, ông lại được Liên Minh giặc Pháp - Vatican cho nắm giữ chức Surintendent de Palais (Tổng Quản Cấm Thành) và giao cho ông nhiệm vụ theo dõi Vua Thành Thái. Sự kiện này được ông Lữ Giang ghi lại trong cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam Quyển I với nguyên văn như sau: "Lúc đó, Pháp đã nắm hết quyền hành nên Thành Thái chỉ lo ăn học và giải trí. Cụ Ngô Đình Khả được cử làm Phụ Đạo và Cố Vấn cho vua Thành Thái. Năm 1904, cụ được cử làm Tổng Quản Cấm Thành, trông coi tử Cấm Thành… "Khi đưa cụ Ngô Đình Khả vào làm Phụ Đạo cho vua Thành Thái, người Pháp muốn cụ theo dõi các hoạt động của vua và báo cáo cho Pháp biết những ý định phản nghịch của vua để có biện pháp kịp thời."[12] Nhờ địa vị quan tước của thân phụ, ông Diệm được phong "tập ấm" và được cho vào học tại trường đạo Pellerin ở Huế, rồi lại được đặc cách đưa vào học trường Hậu Bổ cũng ở Huế. Năm 1922, ngay khi vừa hoàn tất chương trình học tại trường Hậu Bổ, ông Diệm được bổ nhậm làm tri huyện. Nhiệm sở đầu tiên là huyện Hải Lăng (Quảng Trị). Kể từ đó và cũng từ ở đây, ông đem hết tài năng, trí óc, tìm mưu tính kế, làm đủ mọi cách tâng công và chạy chọt với quan thày để leo lên nấc thang quyền lực. Kết quả là mấy năm sau ông được thăng lên chức tri phủ phủ Hoa Đa (Bình Thuận), ít lâu sau lại được thăng lên chức Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận. Trong thời gian này, để tâng công với quan thày, ông Diệm đã làm những việc vô cùng dã man với những quái chiêu cực kỳ độc ác trong những hành động hành hạ nhân dân trong vùng ông trị nhậm và tra tấn các nhà cách mạng chẳng may lọt vào tay ông. Sự kiện này được cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh ghi lại như sau: "Có người còn hiểu khi trước, ông Diệm học lực chưa đủ sức thi vào ngạch quan lại, nhờ vai ấm sinh của cha truyền mà khỏi phải thi, từ một chức tiểu lại đến 7 năm sau trở thành một vị đường quan. Vì ông khéo luồn lõi, lập công với thực dân Pháp, mau thăng chức hơn các bạn đồng liêu. Khi ông làm tri phủ Hòa Đa đã nổi tiếng là tay sai đắc lực của Pháp, lùng bắt và tra tấn các nhà cách mạng rất dã man bằng cách xông lửa nến (đèn cày) dưới ghế ngồi. Ông cho trói chặt người bị lấy khẩu cung vào ghế ngồi, mặt ghế có khoét lỗ ở ngay hậu môn chỗ ngồi, bên dưới đốt ngọn đèn cầy cho lửa xông lên, dần ruột gan, tim phổi người nọ (nạn nhân) bị sấy lửa, khô dần đi, không chịu nổi, dù có khai để chấm dứt cực hình nhưng hậu quả về sau không lường được. Lối tra tấn dã man này, ngay với các bót giam của Pháp, như bót Catinat, cũng chưa dám dùng. [13] Đoạn văn sử trên đây cho chúng thấy những tên Việt gian làm quan trong thời bảo hộ 1885-1945 ác độc và tàn ngược hơn cả chính những thằng Tây đối xử với dân ta. Do những hành động tàn ác và dã man trên đây, quan thày người Pháp rất thương yêu ông. Nhờ vậy mà năm 1933, ông được đưa về triều đình bù nhìn Huế giữ chức Thượng Thư Bộ Lại. Chức vụ này được coi như cao trọng nhất trong triều đình bù nhìn Huế lúc bấy giờ. Nhưng cũng chính cái địa vi cao trọng này đã làm cho ông bắt đầu lao đao kể từ đây. Nguyên nhân như sau: Vì cùng có tham vọng đánh chiếm và thống trị Việt Nam để cùng cướp đoạt tài nguyên và cùng cưỡng bách nhân dân ta làm nô lệ cho chúng, hai thế lực vatican và thực dân Pháp mới liên kết với nhau thành Liên Minh Pháp – Vatican. Như vậy là hai thế lực Pháp và Vatican liên kết với nhau vì quyền lợi bất chính. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng những kẻ vì quyền lợi bất chính mà tụ lại với nhau, thì sớm muộn lại cũng lại vì quyền lợi bất chính đó mà trở thành tương tranh thanh toán lẫn nhau để độc chiếm quyền lực và quyền lợi. Đây là một quy luật lích sử. Cái Liên Minh Pháp – Vatican đánh chiếm và thống trị Đông Dương trong những năm 1858-1954 cũng không thoát khỏi quy luật lịch sử này. Một yêu tố khác cũng không kém phần quan trọng làm cho hai thế lực này luôn luôn ở vào tình trạng lủng củng. Nguyên do vì nhân dân Pháp đã từng là nạn nhân của Giáo Hội La Mã cả hơn một ngàn năm và đã phải giẫy dụa cả một thời gian dài từ cuối thế kỷ 8 [thời vua Charlemagne (768-814)] cho đến khi Cách Mạng bùng nổ vào năm 1789 mới có thể vùng lên đối đầu với Giáo Hội bằng những biện pháp mạnh để đòi lại quyền làm người. (Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ ở Phần VII). Trước khi Cách Mạng 1789 bùng nổ, các bậc trí giả Âu Châu đã thường luôn luôn viết sách, viết báo lên án Giáo Hội bằng những lời lẽ vô cùng gay gắt. Trong số những bậc trí giả đưa ra quan điểm tôn giáo và chính trị chống lại Giáo Hội, có rất nhiều danh nhân như John Wycliffe (1320-1384), John Huss (1372-1415), Giordano Bruno (1548-1600), John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1775), Denis Diderot (1713-1784), Jean- Jacques Rousseau (1712-1778), Voltaire (1694-1778). Sau thời Cách Mạng 1789, cũng vẫn còn có nhiều học giả Âu Mỹ tiếp tục viết sách, viết báo, diễn thuyết trình bày những quan điểm chính trị chống lại Giáo Hội hết sức mãnh liệt. Trong số những người này, có những nhân vật nổi tiếng như Lamartine (1790-1869), Victor Hugo (1802-1885), Léon Gambetta, Jules Ferry, Thomas Paine (1737-1809), Thomas Jefferson (1743-1826), v.v… Theo chân các nhà trí thức trên đây, các nhà trí thức sau này miệt mài nghiên cứu cả hai bộ Cựu và Tân Ước Kinh, tìm đọc lịch sử của Giáo Hội, tìm hiểu về những việc làm tộI ác của Tòa Thánh Vaticanvà đời sống bê bối thối tha của các giáo hoàng và các tu sĩ Da-tô rồi biên soạn thành những tác phầm lừng danh như The Decline and Fall of The Roman Church, the Jesuits, Rich Church, Poor của giáo sĩ Malachi Martin, Vietnam Why did we Go? và The Vatican's Holocaust của giáo sĩ Avro Manhattan, The Thick Darkness of Romanism của Tiến-sĩ Barnado, In Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic Church của Thomas J. Reese, The Vatican's Last Crime của Joseph McCabe, Roman Catholicism của Loraine Boettner, The Vicar Of Christ của Peter de Rosa, The Dark Side of Christian History của Hellen Ellerbe, The Babylon Mystery Religion của Ralph Woodrow, Deceptions and Myths of The Bible của Lloyd M. Graham, The Book Your Church Doesn't Want You To Read của Tim C. Leedom. Đặc biệt nhất là Thomas Paine viết cuốn The Age of Reason trong đó ông đem Cựu Ước và Tân Ước Kinh ra phân tách rất là công phu, rồi đưa ra những luận cứ bất khả phản bác về tính cách hoang đường của hai bộ thánh kinh này. Sau đó, lại có triết gia Bertrand Russell viết cuốn Why I Am Not A Christian cũng không ngoài mục đích nói cho người đời biết rõ về những sai lầm căn bản của lý thuyết thần học Thiên Chúa Giáo. Những tác phẩm này đã ảnh hưởng rất lớn đến tư duy và hành động của nhân dân Âu Châu và nhân dân thế giới, khiến cho tinh thần chống Giáo Hội càng ngày càng trở nên mãnh liệt, rồi bùng nổ thành các phong trào chống lại Giáo Hội. Phong trào cách mạng chống Giáo Hội mãnh liệt nhất bùng nổ ở Đức vào năm 1517 do Martin Luther (1483-1546) chủ xướng. Phong trào này trở thành Phong Trào Tin Lành lan rộng gần khắp Trung Âu và Bắc Âu, gây nên những cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Tin Lành và Da-tô La Mã, kéo dài trong nhiều chục năm. Cho đến ngày nay, ở Ái Nhĩ Lan tình trạng căng thẳng giữa những người theo đạo Tin Lành và những người theo đạo Da-tô La Mã vẫn còn nguyên vẹn như mấy trăm năm về trước. Giậu đổ bìm leo. Năm 1534, chính quyền Anh trong thời Anh Hoàng Henry VIII (1491-1547), chống lại Vatican, ly khai khỏi Giáo Hội, thành lập Anh Giáo, rồi tịch thu toàn bộ tài sản của Vatican tại Anh Quốc. Năm 1691, Quốc Hội Anh lại ban hành một đạo luật, cấm không cho người Anh theo đạo Da-tô La Mã được lên cầm quyền.
Kể từ đó, không có một người Anh theo đạo
Da-tô La Mã (Catholic) nào được đưa lên cầm quyền.
Năm 1789, Cách Mạng Pháp bùng nổ. Các nhà
lãnh đạo cách mạng Pháp thường tự nhận là đứa con tinh thần của
Voltaire, người đã gọi đại Ki-tô La Mã là "cái tôn giáo ác ôn".
Giống như vết dầu loang, Cách Mạng Pháp 1789 trở thành tấm gương cho nhân dân thế giới theo đó mà tiến lên hành động chống lại Giáo Hội La Mã. Ngay cả khi nước Pháp liên kết với Giáo Hội La Mã xuất quân đánh chiếm và thống trị Việt Nam vào giữa thế kỷ 19, nhữngchính khách có thế lực cầm quyền ở Pháp cũng như ở Đông Dương, vẫn hành động theo tinh thần Cách Mạng 1789, chống lại Vatican, khinh rẻ bọn giáo sĩ Pháp và tín đồ Da-tô người Việt dù rằng trong thực tế và bề ngoài, họ vẫn liên kết với Vatican như là một Liên Minh để cùng thống trị Đông Dương. Vatican cũng biết như vậy, nhưng Vatican vẫn còn hy vọng bám lấy quyền lực ở Pháp vì có một nhóm thiểu số tín đồ người Pháp chỉ biết tuyệt đối tuân phục Vatican và vì bọn phản động còn nắm quyền tại các nước Áo, Phổ, Nga và Anh. Nhờ đó, Giáo Hội đã sử dụng nhóm thiểu số tín đồ cuồng tín người Pháp này và liên kết với các chính quyền phản động tại các quốc gia trên đây chống lại Cách Mạng 1789 và nước Pháp. Chính vì thế mà cuộc chiến của nhân dân Pháp chống lại Vatican ở vào thế giằng co cho mãi tới năm 1905, người Pháp mới thực sự loại được bàn tay quyền lực của Vatican ra khỏi chính quyền bằng cách ghi vào trong Hiến Pháp điều khoản "tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền." Trong khi đó, tại Bắc Mỹ, Hoa Kỳ đã đưa điều khỏan này vào Hiến Pháp ngay từ năm 1791. Kể từ đó, càng ngày ảnh hưởng của Giáo Hội đối với quần chúng Pháp càng ngày càng giảm thiểu. Hiện nay ở Pháp cũng như ở Anh và ở nhiều quốc gia Âu Châu khác, con số người đi nhà thờ hàng tuần chỉ còn từ 1% đến 5% là nhiều. Tuyệt đại đa số nhân dân Âu Châu ghê tởm Giáo Hội và lánh xa Giáo Hội như lánh hủi. Sự kiện này được học giả Da-tô Phan Đình Diệm ghi lại như sau: "Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh trong thời cực thịnh kinh bang tế thế, đội vương miện cho các hoàng đế, tung hoành dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu tóm cả thiên hạ trong tay, tiền rừng bạc biển, đã không biết tự chế, không học bài học khiêm hạ rửa chân, tự cao tự đại, coi bàn dân thiên hạ như cỏ rác… Hôm nay hối bất cập, lịch sử còn nằm trơ ra đó. Người Âu Châu khiếp sợ Giáo Hội và tránh xa như tránh hủi! Người Á Châu có thành kiến ghép Giáo Hội với ông Tây thực dân và chống thực dân! Người Mỹ Châu La-tinh đồng hóa Giáo Hội vào đại họa diệt chủng! Và người Trung Đông làm sao quên được 250 cuộc thánh chiến hãi hùng!.v.v…" [14] Vì nguyên nhân này mà trong thời gian từ năm 1858 cho đến 1945, có rất nhiều nhân vật Pháp có thế lực ở chính quốc Pháp như Jules Ferry, Léon Gambetta, Léon Blum cũng như các tướng lãnh chỉ huy các đạo quân tấn chiếm Việt Nam như Đô Đốc Page, Đô Đốc Bonard, Đô Đốc Rieunier, Đại Tá Bernard cho đến các chính trị gia nắm quyền chủ chốt trong bộ máy cai trị Đông Dương như Paul Beau, Paul Bert, Pierre Pasquier, v.v… đều là những người hăng say chống Giáo Hội La Mã và thường tỏ ra khinh rẻ các ông tu sĩ Da-tô hoạt động tại Đông Dương vào thời bấy giờ. Sự kiện này được sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn - Tập 2 ghi nhận như sau: "Paul Bert là đảng viên "Cộng Hòa" từng bị phe cực hữu và bảo thủ kết án như "kẻ chống Giáo Hội điên cuồng," và "kẻ thù quyết liệt của Giáo Hội." Tội lỗi lớn nhất của Bert là khi giữ ghế Bộ Trưởng Giáo Dục trong chính phủ Ferry, Bert đã cổ võ và phát động một chính sách giáo dục quốc gia phi tôn giáo. Theo Bert, nước Pháp không còn trách nhiệm hoằng dương hay rao giảng một tôn giáo nào, và cũng không công nhận một tôn giáo nào làm quốc giáo"[15] Cũng nên biết là hai thế lực Pháp và Vatican đều có những bọn Việt gian làm tay sai thân tín đắc lực riêng và cả hai thế lực này đều muốn sử dụng bọn Việt gian này trong chính sáchChia Để Trị. (Dùng người Việt đánh người Việt và dùng người Việt cai trị người Việt.) Phần lớn bọn Việt gian làm tay sai cho thực dân Pháp không phải là tín đồ Da-tô và có thể là mang quốc tịch Pháp như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Xuân, v.v… hay không mang quốc tịch Pháp như bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân, Hoàng Trọng Phu, Hoàng Gia Mô, Nguyễn Duy Hàn, Phạm Quỳnh, v.v… Hầu hết những bọn Việt gian làm tay sai cho Vatican là những tín đồ Da-tô cuồng tín mang quốc tịch Vatican (đều có tên thánh ở trước cái tên bình thường của chúng) như bọn Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương (Đỗ Hữu Vị), Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Hữu Độ, Trần Lục, Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Tường Tộ, Ngô Đình Khả, Lê Hoan, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, v.v… Khi hai thế lực Pháp và Vatican không có chuyện gì xích mích với nhau thì hai nhóm Việt gian này được yên ổn lo việc đàn áp nhân dân ta để tâng công, lấy lòng quan thày giặc với hy vọng sẽ được thăng quan tiến chức vù vù như trường hợp Trần Lục, Ngô Đình Khả, Trần Bá Lộc, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Bá Tòng, v.v... Nhưng khi hai thế lực Pháp và Vatican mưu tính chèn ép lẫn nhau để lấn quyền rồi hục hặc với nhau, thì hai nhóm Việt gian này rơi vào tình trạng khốn đốn và chìm nổi với chủ riêng của chúng. Sự kiện này được Cụ Phan Bá Kỳ nói sơ qua như sau: "Ai biết chút ít về lịch sử cũng phải hiểu rằng chính sách, nhân sự ở Đông Dương hồi Pháp thuộc là do nơi ba thế lực chính: Thực Dân, Giáo Hội (Vatican), Tam Điểm (Free Mason), tùy theo tình hình chính quốc. Khi ở Pháp phe Tam Điểm thắng thế thì thực dân ở Đông Dương về phe Tam Điểm. Khi phe Công Giáo lên chân thì thực dân về phe Giáo Hội. Việc ông Diệm bị cách tuột hết mọi thứ có thể là đang có một sự tranh chấp giữa Tam Điểm và Giáo Hội, mà ông ta ngu ngơ, dại dột đi vâng phục quá đáng cái thế lực thất thế vào thời điểm đó. Cứ tìm xem Khâm Sư Léon Thibaudeau và Toàn Quyền Pierre Pasquier thuộc nhóm nào là ra ngay. Chứ Bảo Đại, Phạm Quỳnh, ngoài chuyện thừa hành, làm gì có quyền để trừng phạt oan ức một người… đáng quí như ông Diệm…"[16] Chuyện tranh chấp giữa ông Ngô Đình Diệm và ông Phạm Quỳnh về chức vụ Tổng Lý Đại Thần tại triều đình Huế được cụ Nguyễn Bính Thinh ghi lại như sau: "Có một số người từng làm cách mạng, hoặc có xem báo chí ở Huế, ở Hà Nội trước năm 1940, đều biết ít nhiều về ông Diệm khi làm Thượng Thư Bộ Lại của triều đình Huế, có óc quan lại phong kiến và nịnh quan thầy Tây. Ông tranh quyền với ông Phạm Quỳnh, song quan thầy của ông là Khâm Sứ Thibaudeau kém thế hơn quan thầy của ông Phạm Quỳnh là Toàn Quyền Pasquier. Ông Diệm thua Phạm Quỳnh bất mãn từ quan."[17] Theo sử gia Vũ Ngự Chiêu, Không phải ông Diệm từ quan, mà là bị bãi chức và bị truất hết cả những chức tước phẩm hàm. Hơn nữa, ông ta còn bị trục xuất khỏi Huế, bị cho ra cư trú ở Quảng Bình. Dưới đây là bản văn củaTiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu viết về sự kiện này: "Sau cuộc "đảo chính" 2/5/1933, Bài bị loại khỏi vòng quyền lực. Toàn Quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) gọi Diệm về làm Thượng Thư Bộ Lại kiêm Tổng Thư Ký Ủy Ban Cải Cách. Quyền Khâm Sứ Léon Thibaudeau (2/1933-7/1934) yêu cầu Diệm làm tờ trình về kế hoạch canh tân. Diệm có lẽ với sự tiếp tay của Bài, đưa ra hai điều kiện: Phải thống nhất Bắc và Trung Kỳ, và bổ nhiệm một tổng trú sứ (resident général) cho Trung và Bắc Kỳ như đã qui định trong Hòa Ước 6/6/1884. Phải cho Viện Dân Biểu quyền thảo luận (báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier gửi Colonies). Lập trường này cũng giống Bài: Muốn cải cách, việc đầu tiên là phải hủy bỏ hai chức thống sứ (ở Hà Nội) và khâm sứ Huế; sau đó cho An Nam ngân sách riêng. Ngày 9/7/1933: Diệm ra Quảng Trị gặp Bài ít ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao đơn từ chức đã gửi lên Bảo Đại. Lý do Diệm nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại không phù hợp với Hiệp Ước 6/6/1884. Hiệp ước này qui định rằng Pháp chỉ giữ một chế độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải là bảo hộ trực tiếp (protectorat direct). Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933, Gougal gửi Colonies; INF, c.366/d.2905). Theo một mật báo viên (Luật-sư Lê Văn Kim), tháng 12/1933, Diệm vào Sàigòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Đức, v.v… Tiếp đó, báo chí Sàigòn và cả tờ La Lanterne ỏ Paris mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn Quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm Sứ Yves Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế (INF, c.366/d.2905). Biết được tin này qua Luật-sư Lê Văn Kim, Pasquier nổi giận truất hết chức tước của Bài, Diệm và Đệ. Diệm còn bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định cư trú tại Quảng Bình. May mắn, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài cũng chết. Tân Toàn Quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm Sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936, 4/1937-8/1941) đồng ý phục hồi tước vị cho Bài và Diệm. Diệm được trở về Huế dạy học ở trường Providence của Thục,…"[18] Chiến dịch "Đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn Quyền Alexandre Varennevà đưa cựu Khâm Sứ Yves Châtel trở lại Huế" là do Vatican chủ mưu, mượn bọn tay sai Việt gian cuồng tín để làm áp lựccho việc đòi thay thế những nhân vật có tinh thần chống Giáo Hội La Mã bằng những nhân vật bảo thủ thân Giáo Hội La Mã. Trước đây Ngô Đình Khả cũng vì cuồng tín nghe theo Vatican mà mất chức. Bây giờ đến lượt Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Diệm, và sau đó là Ngô Đình Khôi cũng ở vào tình trạng này. Chúng ta đừng quên rằng Cường Để cũng là người mang quốc tịch Vatican (đã theo đạo Da-tô). Đến đây, thiết tưởng độc giả đã có thể hiểu tại sao mà bọn Việt gian làm tay sai tai mắt đắc lực cho Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican như bọn Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, v.v… không những bị cho về vườn, mà còn bị đám quan thày người Pháp khinh rẻ như những phường phản phúc hèn hạ và những quân lưu manh vô lại. Bản văn sử dưới đây nói lên thực trạng này: "Chúng tôi chỉ có với mình", Đô Đốc Rieunier sau này nói, "những giáo dân và bọn du thủ du thực". "Bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì tội phạm," Đại Tá Bernard viết, xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc mình, sẵn sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào… Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, làm khuân vác, làm người chạy giấy và cả những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội Truyền Giáo. Chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà bọn thực dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen với dân tộc Việt Nam …" Nhà sử học Cultru kết luận: "Hoàn toàn hời hợt về cái gọi là giáo dục phương Tây mà họ đã được tiếp thụ, những thanh niên Việt Nam này đã trở thành những ông thông, ông phán, ông ký, kiểm soát, phiên dịch.. ấy, lập thành tại xứ sở thuộc địa một tầng lớp những người tha hóa, chuyên lợi dụng địa vị chính thức của chúng để nhân danh chính phủ Pháp, lúc này không đủ biện pháp cai quản họ, để áp bức, đục khoét dân chúng, buộc lòng phải nhờ đến sự trung gian cuả họ…" "Tại Nam kỳ, chính là từ trong những người Công Giáo Annam mà người ta tuyển chọn những kẻ giúp việc cho chính phủ Pháp, Phạm Quỳnh đã viết, "Họ có tài cán gì? … Phần lớn là những tay dạy giáo lý Cơ Đốc, vì hạnh kiểm kém mà bị các giám mục đuổi về, và dưới một cái tên La Tinh (bởi vì họ nói lõm bõm tiếng La Tinh), là đại diện sơ lược của thủ đoạn, của sự vô trách nhiệm, và sự thoái hóa của Châu Á."[19] Từ năm 1931, Nhật bành trướng thế lực vào lục địa Á Châu. Tháng 7 năm 1937, Nhật gây hấn tấn công và chiếm đóng các vùng ven biển Thái Bình Dương của Trung Hoa, rồi năm 1940 Nhật cưỡng bách Liên Minh Pháp – Vatican để cho Nhật đưa quân vào trú đóng ở Đông Dương. Từ đó cho đến khi xẩy ra vụ Trân Châu Cảng vào ngày 7/12/1941, đúng ra là cho đến năm 1942, thế lực Nhật ngày càng trở nên hùng mạnh ở Đông Á và Đông Nam Á Châu. Đồng minh của Nhật ở Âu Châu là Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý (Phe Trục) cũng đang thắng thếchiếm gần trọn Tây Âu và Nam Âu. Tại Âu Châu, Vatican quay ra kết thân với Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý để củng cố chế độ đạo phiệt Da-tôFrancisco Franco (1892-1975) ở Tây Ban Nha, và đưa tên Da-tô cuồng tín Ante Pavelich lên cầm quyền, thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô tại Croatia. Cũng nên biết vào năm 1936, Tây Ban Nha xẩy ra cuộc nội chiến. Lúc đó, Tây Ban Nha đã có một chính quyền dân chủ do ông Casares Quiroga làm thủ tướng. Với tinh thần bảo thủ và suy tôn Vatican, ông Tướng Da-tô Francisco Franco chống lại chính quyền dân chủ của Thủ Tướng Casares Quiroga và được Tòa Thánh Vatican hậu thuẫn. Việc làm này của Tướng Franco làm cho Tây Ban Nha rơi vào tình trạng nội chiến. Cuộc chiến này chính thức bùng nổ vào ngày 17/7/1936, kéo dài gần 3 năm trời. Nhờ có Vatican tích cực vận động Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý viện trợ, phe Tướng Da-tô Francisco Franco thắng thế và cuộc chiến chấm dứt vào ngày 1/4/1939, để lại không biết bao nhiêu đắng cay, căm phẫn, và thù hận trong lòng người dân Tây Ban Nha đối với Vatican. Trong thời gian chiến tranh, hàng ngàn nam nữ tu sĩ Da-tô Tây Ban Nha bị phe dân chủ thẳng tay nghiêm trị cho về nước Chúa vì họ đã tích cực tham gia hoạt đồng tiếp tay cho phe Tướng Da-tô Franco, giống như nhóm thiểu số tu sĩ và tín đồ Da-tô Việt Nam tích cực tiếp tay cho quân giặc xâm lăng Pháp-Vatican trong nửa sau thế kỷ 19 và trong thời Kháng Chiến 1945-1954. Con số người bị nghiêm trị lên đến hàng ngàn. Đối với nhân dân Tây Ban Nha, bọn người bị nghiêm trị này là những quân phản quốc và phản dân tộc. Nhưng đối với Tòa Thánh Vatican, hạng người vong bản phản quốc này lại là những "thánh tử đạo". Cũng vì thế mà trước đây, một số trong những "thánh tử đạo" này đã được Giáo Hoàng John Paul II phong chân phước và phong thánh. Ngày 28/10/2007, lại có thêm 498 nam nữ tu sĩ "thánh tử đạo" khác nữa cũng nằm trong số người bị nghiêm trị này được Giáo Hoàng Benedict XVI phong chân phước. Việc phong chân phước này được tờ The News Tribune, Tacoma Thứ Hai, 28/10/2007 loan tin với nguyên văn như sau: "Giáo Hoàng (Benedict XVI) phong chân phước cho 498 nam nữ tu sĩ chết trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Những kỷ niệm cay đắng về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha là đề tài chính tranh cãi vào ngày Chủ Nhật (28/10/2007) khi mà Vatican phong chân phước cho 498 nam nữ tu sĩ Tây Ban Nha bị sát hại trong thời kỳ nội chiến Tây Ban Nha. Buổi lễ phong chân phước những nam nữ tín đồ Da-tô bị sát hại trong thời Nội Chiến 1936-1939 là một buổi lễ lớn nhất trong lịch sử Giáo Hội…. Tuy nhiên, việc phong chân phước này đã gây nên những cuộc tranh luận ở Tây Ban Nha, trong đó những người chỉ trích tố cáo Vatican đã chơi đòn chính trị bằng cách chỉ nhìn nhận phe Vatican ủng hộ mà thôi." Nguyên văn: "Pope beatifies 498 priests, nuns who died in Spanish's Civil War. Bitter memories of Spain's Civil War were the center stage here on Sunday (Oct. 28/2007) as the Vatican put 498 slain Spanish preists and nuns from that divisive era on the path to sainthood. The Mass recognizing the Catholic men and women killed around the time of the 1936-39 Civil War was the largest beatification ceremony in church history… However the beatifications have stirred controversy in Spain, where critics acuse the Vatican of playing politics by promoting recognition of one side of the war protagonist. - Los Angeles Times."[20] Tại Á Châu, Giáo Hội ra lệnh cho bọn tu sĩ kêu gọi tin đồ Da-tô người Việt triệt để ủng hộ con bài phòng hờ của Giáo Hội là ông Da-tô Cường Để đang sống lưu vong ở Nhật và đang cầu xin Nhật đưa về Việt Nam thay thế Bảo Đại làm vua gỗ tại triều đình bù nhìn Huế. Sự kiên bọn tu sĩ Da-tô kêu gọi giáo dân ủng hộ Cường Để được sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi lại trong bài viết Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ "Trung Quân" sang "Ái Quốc" với nguyên văn như sau: "Nhờ chiêu bài Cường Ðể, một số giáo mục và giáo dân từ Quảng Bình tới Nghệ An cũng ủng hộ. Ða số giáo mục và giáo dân đều thuộc địa phận Bắc Ðàng Trong của Giám mục Louis Pineau. Sau này, còn có những cộng đồng Ki-tô ở Xiêm La." Vũ Ngự Chiêu. Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang Ái Quốc. [21] Trong những giáo mục (tu sĩ) và giáo dân ủng hộ ông Da-tô Cường Để, ông vua đón gió trở cờ Ngô Đình Diệm là người đi hàng đầu và được coi như lãnh tụ của Phong Trào Cường Để ở trong nước. Tại Việt Nam, từ đầu thập niên 1930, có một số người Việt Nam xính hơi cố gắng học tiếng Nhật, rồi làm việc hay hoạt động (chính trị) và làm tay sai cho Nhật. Trong những năm 1940-1945, trong gia đình họ Ngô, không phải chỉ có một mình Ngô Đình Diệm làm tay sai cho Nhật mà có cả người anh của ông ta là Ngô Đình Khôi (người anh cả) và đứa con trai của Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huân cũng hoạt động làm tay sai cho Nhật. Ngô Đình Huân làm mật vụ cho Nhật và được Nhật cho "làm bí thư cho đại sứ Nhật Yokohama, tức người thay thế khâm sứ Pháp tại miền Trung sau đêm đảo chánh 9/3/1945."[22] Nhật chống Pháp. Làm việc hay hoạt động làm tay sai cho Nhật tức là chống Pháp. Vì lẽ này, anh em Ngô Đình Diệm mới bị Pháp bắt giam, và vì thế mới có chuyện Giám-mục Ngô Đình Thục viết lá thư đề ngày 21/8/1944 gửi Toàn Quyền Jean Decoux để xin miễn tội chống Pháp (phản chủ) của Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm. Dưới đây là bản chụp và bản dịch nguyên văn lá thư này: Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21 tháng 8 năm 1944 Vĩnh Long (Nam Kỳ), Thưa Đô Đốc, Một linh mục từ bổn Tòa được phái đi Sàigòn để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi được báo cáo có đúng sự thực hay không. Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô Đốc đã cảm thấy - nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này. Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì - với tư cách của một giám mục, của một người An Nam, và với tư cách là con của một gia đình mà phụ thân đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi mới tới An Nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền của Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận [hoạt động của các em tôi]. Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo [Thiên Chúa], tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Tòa Giám Mục này ngay. Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc [đối với tôi] đã không đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn. Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế này. Giá có mặt ở đấy, thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy ra, tôi đã có thể chống lại các chủ đích của em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền lợi của nước Pháp. Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại - rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi. Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa Kiều Chợ Lớn được phái đến Phan Rang với mục đích hại Diệm, Phan Rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An Nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến. Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn này được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều này khi xét thấy rằng Thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp. Thưa Đố Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ này, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi, Ngô Đình Thục[23] Thời gian từ chiều tối ngày 9/3/1945 (khi xẩy ra biến cố Nhật đảo chính Pháp) cho đến ngày17/4/1945, Ngô Đình Diệm cho rằng chắc chắn là Nhật sẽ đưa ông Da-tô Cường Để về Việt Nam thay Bảo Đại và nôn nóng ngóng trông được Nhật đưa lên làm thủ tướng trong cái chính phủ bù nhìn mới do Nhật sắp xếp. Lúc đó, Diệm cư ngụ ở Sàigòn. Có thể vì viên Khâm Sứ đại diện Tòa Thánh Vatican ở Huế là Tổng Giám Mục Antoni Drapier đã rỉ tai với Bảo Đại là phải nên cho mời Ngô Đình Diệm về Huế để thành lập tân nội các thân Nhật, cho nên ông vua gỗ "playboy" này mới sai ông Phạm Khắc Hòe soạn thảo một bức điện tín, rồi nhờ ông Đại Sứ Nhật Yokoyama (ở Huế) đánh điện mời Diệm về Huế để thành lập tân chính phủ thân Nhật. Thế nhưng, người Nhật vốn đã có kinh nghiệm máu với Giáo Hội La Mã trong thế kỷ 17 ở ngay chính quốc Nhật (sẽ được trình bày đầy đủ trong một chương sách nằm trong Mục XVI, Phần VII của bộ sách này), cho nên họ không đưa ông Da-tô Cường Để về Việt Nam thay thế Bảo Đại và cũng không sử dụng ông Da-tô Ngô Đình Diệm làm thủ tướng dù là vẫn giữ ông Bảo Đại làm vua bù nhìn để cho họ sai khiến, bất kể là chính ông Bảo Đại đã nhờ họ triệu ông Diệm về Huế để trao cho nắm giữ chức thủ tướng. Vì vậy mà ông đại sứ Nhật Yokoyama tuy bề ngoài tỏ ra sốt sắng nhận lời chuyển bức điện tín của Bảo Đại cho Ngô Đình Diêm, nhưng lại cố tình ỉm đi, và mời cụ Trần Trọng Kim đứng ra thành lập tân chính phủ. Sự kiện này được ông Phạm Khắc Hòe, Đổng Lý Văn Phòng của Bảo Đại vào lúc đó, kể lại, và chính cựu hoàng Bảo Đại cũng ghi lại trong sách hồi ký của ông. Sách Việt Sử Khảo Luận Cuốn 4 ghi lạ lời ông Phạm Khắc Hòe kể lại trong cuốn hồi Ký Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắcnhư sau: "Trong danh sách 14 người của bọn Hòe - Phiệt (Phạm Khắc Hòe và Tôn Quang Phiệt) tiên liệu, cũng như trong số 8 người trên 14 người ấy được vua Bảo Đại lựa chọn, không có tên ông Trần Trọng Kim. Chiều tối ngày 21/3, Trần Đình Nam từ Đà Nẵng vào,… tôi đưa vào yết kiến Bảo Đại, thì Bảo Đại cũng đồng ý với Nam chỉ nên ra những lá bài thân Nhật, cụ thể là nên giao cho Ngô Đình Diệm thành lập một nội các hẹp, ba, bốn người thôi. Tôi lập tức đánh điện triệu tập Ngô Đình Diệm, lúc ấy đang ở Sàigòn." Xin nhắc rằng điện tín đều phải nhờ quân đội Nhật đánh giùm, qua trung gian Đại Sứ Yokoyama (lời ông Hoàng Xuân Hãn cho biết)… "Năm ông ở ngoài Bắc (Vũ Văn Hiền đã được Hoàng Xuân Hãn lựa chọn) vào tới Huế ngày 27/3 và được vua tiếp kiến suốt ngày 28, sáng 2 người, chiều 3 người." Rồi tất cả chờ tin tức Ngô Đình Diệm."[24] Trong cuốn sách Con Rồng Việt Nam, ông Bảo Đại viết nơi trang 165 như sau: "Trong óc tôi, người tiêu biểu (thân Nhật) nhất trong số này là Ngô Đình Diệm. Ông ta đang ở Sàigòn. Tôi biết ông ta đang có liên lạc với người Nhật và sự có mặt của ông ta sẽ giúp tôi mọi sự dễ dàng với nhà cầm quyền Nhật. Tôi liền cho vời đại sứ Nhật tới, và nói cho biết ý định của tôi và yêu cầu Đại Sứ làm mọi cách để Ngô Đình Diệm có thể tới kinh đô Huế gặp tôi ngay. Đại Sứ Yokoyama nhận lời, và (cam) đoan với tôi là sẽ cố gắng gặp ông ta. Ngày 19 tháng 3, tôi báo cho Phạm Quỳnh biết tôi sẽ tự tay đảm trách quyền lãnh đạo quốc gia. Ý thức được tình thế, Phạm Quỳnh đệ đơn xin từ chức tập thể của cả nội các. Ba tuần lễ trôi qua, mà chẳng thấy tăm hơi Ngô Đình Diệm ở đâu. Trước thúc giục ngày càng khẩn thiết của tôi, Đại-sứ Yokoyama trả lời là chưa thể tìm thấy vị thủ tướng dự trù này. Sự chậm trẽ ấy làm tôi suy nghĩ. Người Nhật rất thành thạo về những sự kiện xẩy ra ở Việt Nam. Cơ quan tình báo của họ rất đắc lực, và họ biết chỗ và biết cách tìm thấy nhân vật này. Về sau, tôi biết, qua ngay lời nói của Đại-sứ Yokoyama là Ngô Đình Diệm không được cảm tình của chính phủ Nhật. Tôi hiểu ngay sự ngăn cách ấy. Giới thân cận đề nghị nên gọi Trần Trọng Kim, tuổi đã sáu mươi, vị sử gia này tỏ ra người liêm khiết, một nhà hiền giả chưa từng quan tâm đến chính trị. Ái quốc chân thành, ông ta nhờ người Nhật đưa đi lánh nạn ở Singapour do bị chính phủ Pháp đe doạ." [25] . Xin xem thêm các trang 1949-1951 trong sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 để biết rõ nỗi lòng thất vọng của ông Diệm khi hay tin người Nhật bỏ rơi. Sau ngày Cách Mạng 19/8/1945, Ngô Đình Diệm vẫn ở Sàigòn. Tháng 6/1946, Diệm bí mật tìm đường trở về Huế, dọc đường, ghé Tuy Hòa và nghỉ đêm tại nhà Cha Độ, bị Việt Minh bắt đưa ra Bắc để giao cho chính quyền trung ương xử lý. Cũng nên biết là vào thời điểm này, chính quyền Việt Nam (Việt Minh) đang cố gắng làm hòa với Pháp không muốn gây căng thẳng với Giáo Hội La Mã và giới tu sĩ Da-tô tại Việt Nam. Lý do là Cụ Hồ và phái đoàn Việt Nam còn ở nước Pháp và đang chuẩn bị thương thuyết với Pháp, và ở Bắc, Việt Minh đang phải dồn nỗ lực vào việc đối phó với Việt Quốc và Việt Cách, cho nên khi thấy Giám-mục Lê Hữu Từ (lúc đó là cố vấn của chính phủ Hồ Chí Minh) đứng ra xin trả tự do cho ông Diệm, họ không ngần ngại gì mà không trả tự do cho ông ta. Vấn đề này được tác giả cuốn Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm 1945-1954 viết như sau: "Chính ông Ngô Đình Diệm cũng đã được Đức Cha Lê Hữu Từ cứu thoát khỏi tay Việt Minh. Khoảng tháng 6/1946, khi ông Diệm tới Tuy Hòa ở nhà Cha Độ, chính xứ Tuy Hòa, cán bộ VM đã khéo léo mời được ông Diệm đi theo chúng lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân của ông thoát được chạy ra Phát Diệm báo tin cho Đức Cha Lê và xin can thiệp gấp kẻo Ông sẽ bị hại như ông Ngô Đình Khôi. Đức Cha liền đến Bắc Bộ Phủ có Cha Phạm Quang Hàm và ông Ngô Tử Hạ cùng đi. Gặp Hồ Chí Minh, Đức Cha đã nói cho ông Hồ biết việc ông Diệm bị bắt ở Tuy Hòa. Chính ông Hồ cũng không hay biết việc ấy và hứa sẽ hết sức thỏa mãn lời yêu cầu của Đức Cha là giải thoát cho ông Diệm. Ông Diệm được đưa ra Hà Nội và một tháng sau Võ Nguyên Giáp đã mời ông Ngô Đình Nhu đến lãnh nhận. Hồ Chí Minh cũng đã liên lạc về Phát Diệm báo tin cho Đức Cha: Ông Diệm đã về Hà Nội và được tự do."[26] Bản văn trên đây gồm có hai đọan. Những điều nói trong đoạn trên có thể là rất đúng với sự thật. Đoạn văn dưới nói rằng, "Gặp Hồ Chí Minh…." hoàn toàn không đúng với sự thực và chắc chắn là do tác giả cương ẩu bịa đặt ra. Lý do: trong thời gian này, Cụ Hồ không có mặt ở Việt Nam. Cụ đã khởi hành đị Pháp bằng máy bay vào ngày 31/5/1946 do lời mời của chính phủ Pháp và mãi tới ngày 20/10/1946 Cụ mới về tới Hải Phòng bằng tầu thủy. Như vậy thì là sao Giám mục Lê Hữu Từ có thể gặp được Cụ Hồ? Cái bệnh cương ẩu, bịa đặt, lắt léo, lươn lẹo, không nói thành có, có nói thành không và nói ngược là bản chất của Giáo Hội La Mã và các ông văn nô Da-tô. Cái bản chất này giống như một thứ bệnh ung thư đã ăn sâu vào xương tủy của họ mà chúng tôi đã trình bày khá đầy đủ trong Chương 11 (Mục IV, Phần II) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã này và đã được đưa lên sachhiem.net trong tháng 9/2007 vừa qua. Trở lại chuyện việc Giám-mục Lê Hữu Từ xin chính quyền Việt Minh trả tự do cho ông Diệm, chúng ta biết rằng truyền thống của Tổng Bộ Việt Minh, có nguyên tắc"tập đoàn chỉ huy, cá nhân phụ trách". Vậy thì Cụ Hồ chỉ là người được Tổng Bộ Việt Minh giao cho thi hành những chính sách hay những quyết định đã có sẵn. Trong trường hợp Cụ Hồ vắng mặt, không ở trong nước như trường hợp trên đây, thì người được ủy nhiệm thay Cụ Hồ lúc đó là Cụ Huỳnh Thúc Kháng cứ việc thi hành theo chỉ thị của Tổng Bộ Việt Minh. Do đó, việc thể theo lời thỉnh cầu của Giám Mục Lê Hữu Từ trả tự do cho ông Diệm là do quyết định của Tổng Bộ Việt Minh. Lại nói về ông Diệm, được Việt Minh thả cho về rồi, kể từ đó cho đến 1950, ông ta lăng xăng xuôi ngược hết ra Bắc lại vào Nam, hết bay đi Hồng Kông lại trở về Sàigòn để vận động và cổ võ cho con bài Bảo Đại vì Bảo Đại là con bài do Giáo Hội La Mã chủ xướng. Con bài này được gọi là Giải Pháp Bảo Đại đã được viên Khâm sứ đại diện của Tòa Thánh Vatican ở Huế là Tổng Giám Mục Antoni Drapier đề nghị và công khai tuyên bố vào ngày 28/12/1945. Lời tuyên bố này sẽ được ghi lại rõ ràng trong một mục khác ở sau. Nhà viết sử Chính Đạo ghi nhận những hoạt động của ông Diệm trong thời gian này như sau: "Đầu năm 1947, Diệm ra Hà Nội, ngụy trang như một tu sĩ dòng tu Cứu Thế được người Pháp yêu cầu lập chính phủ Chống Cộng, Diệm đưa một kế hoạch không thể chấp nhận được. Diệm còn xin gặp lãnh sự Mỹ ở Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ tại tu viện dòng Cứu Thế ở Thái Hà ấp. Vào Sàgòn một thời gian ngắn, từ 11/4 tới 5/9/1947, rồi trở ra Hà Nội. 21/12/1947: Cùng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Lý (Da-tô) qua Hồng Kông gặp Bảo Đại. 24/12/1947: Bảo Đại lên đường qua Geneva. Diệm gặp Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper, trình bày về nội tình VN và Giải Pháp Bảo Đại. Mục đích chính của Diệm, theo Hopper, là xin viện trợ Mỹ. Tuy nhiên Hopper chỉ ghi nhận mà không có ý kiến hay hứa hẹn gì. (Ngày 18/12/1947, Tổng Lãnh Sự Charles Reed đã từ Sài Gòn điện trước cho Hopper rằng có thể Diệm sẽ ghé thăm.[FRUS, 1947, VI:152-5]). 26/12/1947: Từ Hong Kong trở lại Saigon. 2/1948: Qua Hong Kong lần thứ ba. 5/1949: Diệm từ chối thành lập chính phủ; nêu lý do sợ giáo dân Ki-tô bị Việt Minh ám sát. Thực ra, Diệm không thỏa mãn với Hiệp Ước 8/3/1949. 21/9/1949: Diệm về Huế sống ở nhà Ngô Đình Cẩn." 2/8/1950: Trở lại Sàigòn sau một chuyến dừng chân ngắn ở Đà Nẵng. 14/8/1950: Diệm cùng Thục rời Saigòn qua Roma trên tầu La Marseillaise. Trạm đầu tiên ghé chân là Nhật…"[27] Nhờ có đặc tính cuồng tín, tuyệt đối trung thành với Vatican đúng như lời ông tuyên bố với các chính khách Hoa Kỳ trong một bữa cơm chiều tại Khách Sạn Mayfolwer vào tháng 10 năm 1950 ở Washington D.C. rằng, "ông tin tưởng vào quyền lực Vatican và ông chống Cộng cực lực"[28], ông được Vatican hết sức tin dùng. Cũng vì thế, ông mới được Vatican cho người dẫn dắt sang Mỹ giao cho Hồng Y Spellman lo lót và vận độngchính quyền Hoa Kỳ đưa ông về Việt Nam cầm quyền để làm tay sai cho Vatican trong sứ mệnh tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa Việt Nam theo tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex. Sắc chỉ này được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455) và nội dung của nó được Linh-mục nói rõ ràng ở trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm.[29] Lúc đó, cuối năm 1950, chính quyền Hoa Kỳ còn đang bận rộn phải đối phó với cuộc chiến Triều tiên vừa bùng nổ vào ngày 25/6/1950. Hơn nữa, lại không có tín đồ Da-tô La Mã nào nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền của Tổng Thống Truman để có tiếng nói nặng ký giúp Vatican trong nỗ lực vận động đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền. Vì vậy mà cả Vatican và ông Diệm đều không được toại nguyện. Tuy vậy, Toà Thánh Vatican vẫn không nản lòng, vẫn ẩn nhẫn rình chờ cơ hội mới. Đầu năm 1953, chính trường Hoa Kỳ đã xoay chiều. Ngày 20/1/1953, chính quyền Cộng Hòa của Tổng Thống Eisenhower bắt đầu nhậm chức. Trong chính quyền mới này, có ông Da-tô La Mã John Foster Dules nắm giữ chức vụ Tổng Trưởng Ngoại Giao, người em của ông là Allen W. Dulles nắm giữ chức vụ Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (Central Intelligence Agency hay CIA), tại Thượng Viện, có hai ông Da-tô La Mã là Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy và Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, tại Hạ Viện có ông Dân Biểu Da-tô La Mã Walter Judd, và tại Tối Cao Pháp Viện có ông Da-tô La Mã Thẩm Phán William O. Douglas. Thấy rằng có nhiều tín đồ nắm giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ lúc bấy giờ, Tòa Thánh Vatican lại tích cực vận động cả ở Mỹ và ở Pháp để đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền. Sử gia Chính Đạo ghi lại sự kiện này như sau: "Ngày 7/5/1953: Diệm được mời tham dự bữa ăn trưa tại Tối Cao Pháp Viện để thảo luận về vấn đề Đông Dương. Có mặt: Thẩm phán Tối Cao W. O. Douglas, TNS Mike Mansfield, TNS John Kennedy, Newton (thuộc Ủy Ban Dịch Vụ Những Người Bạn Mỹ) Costello (thuộc công ty truyền thông CBS), Gullion (cựu Tổng Lãnh Sự Sàigòn) Gene Gregory (Bộ Ngoại Giao) và một người chưa rõ tên."[30] "Ngày 30/5/1953: Do lời mời của giáo dân Ki-tô Paris, Diệm rời New York trở lại Paris."[31] Do áp lực của Hoa Kỳ và của Đảng Da-tô là Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân Pháp (MRP) của ông Da-tô Georges Bidault, ngày 19/6/1954, Quốc Trưởng Bảo Đại ký Sắc Lệnh 38/QT bổ nhậm ông Ngô Đình Diệm giữ chức vụ thủ tướng "với toàn quyền quyết định về dân sự lẫn quân sự". Ngày 24/6/1954, ông đáp máy bay từ Ba Lê về Sàigòn và ngày 7/7/1954, ông chính thức nhậm chức. Người Anh đã ghê tởm tín đồ Da-tô, cho nên vào năm 1691, họ đã ban hành đạo lụât cấm, không cho một người Anh nào là tín đồ Da-tô La Mã được lên cầm quyền. Sách Living World History đạo luật này quy định rằng: "Không có một tín đồ Ki-tô La Mã có thể trở thành nhà lãnh đạo nước Anh. Như vậy là luật này loại hẳn tất cả những người con và cháu của vua James Đệ Nhị với người vợ thứ hai của nhà vua, không cho họ lên cầm quyền." Nguyên văn: "A third measure, the Act of Settlement of 1691, provided that no Roman Catholic could be ruler of England, automatically excluding the descendants of James II by his second wife."[32] Kể từ đó, không một người nào theo đạo Ki-tô La Mã được đưa lên cầm quyền ở nước Anh và ảnh hưởng Giáo Hội La Mã bị coi như là bị tiêu diệt hoàn toàn ở Anh quốc, mặc dầu quốc gia này là một nước dân chủ tự do và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người dân. Ấy thế mà vào thời điểm 1954 (so với thời điểm nước Anh ban hành đạo luật Settlement of 1691 là 263 gần 3 thế kỷ sau), miền Nam Việt Nam lại bị Vatican và Hoa Kỳ cưỡng bách phải chấp nhận ông Da-tô Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền. Khốn nạn hơn nữa, là ông Diệm không phải là một tín đồ Da-tô bình thường như Tổng Thống John F. Kenndy, mà là một tín đồ Da-to siêu cuồng tín. Xin xem tiểu mục nói về đặc tính cuồng tín của ông Diệm ở sau.) Chủ trương của Hoa Kỳ là duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong chia đôi để biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đồng Nam Á Châu, rồi lại cấu kết với Vatican để đưa ông Diệm lên cầm quyền ở miền Nam Việt Nam với mục đích cùng thống trị miền Nam. Sau khi đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền, Hoa Kỳ dồn nỗ lực vào ba mục tiêu: 1.- Vận động ngoại giao cho chính quyền miền Nam. Hồi đó, thế giới đang ở trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, chia làm ba phe: A.- Phe thân Tây Phương do Hoa Kỳ lãnh đạo. Phe này còn được gọi là phe chống Cộng hay Thế giới tự do. Vì thân Hoa Kỳ, cho nên các quốc gia trong phe này đều cộng nhận chính quyền mỉền Nam. B.- Phe các nước theo Xã Hội Chủ Nghĩa hay Cộng Sản. Phe này do Liên Xô chỉ đạo. Tất cả các quốc gia thuộc phe này đều công nhận chính quyền miền Bắc. C.- Phe các quốc gia không liên kết. Phe này còn được gọi lả các quốc gia trung lập hay thế giới thứ ba mà phần lớn là các quốc gia vốn là cựu thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Hầu hết các quốc gia này nếu không trực tiếp chịu ảnh hưởng của Mỹ đều công nhận cả hai chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam. Trong phe này, quốc gia lớn nhất và có ảnh hưởng quan trọng trên sân khấu chính trị thế giới là Ấn Độ, kế đến là Nam Dương. 2.- Tổ chức lại đạo quân đánh thuê Việt Nam do Pháp chuyển giao lại để phát triển thành đạo quân hùng mạnh nhất Đông Nam Á Châu. Kể từ đó, quân đội miền Nam được huấn luyện và tổ chức theo tiêu chuẩn Mỹ, được trang bị bằng vũ khí Mỹ, được Mỹ trả lương cho quân lính và đài thọ tất cả các khoản phí khác để chiến đấu cho quyền lợi của Mỹ, và đặt dưới quyền chỉ đạo của các cố vấn Mỹ luôn luôn sát cánh với các sĩ quan chỉ huy trưởng các đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên (có khi ngay ở các đại đội và tiểu đoàn cũng có các cố vấn Mỹ). Vì vậy: A.- Mới có chuyện 3 cố vấn Mỹ chết và 8 bị thuơng trong Trận Ấp Bắc: "2/1/1963: MỸ THO: Trận Ấp Bắc.- Hai đại đội VC giữ một ấp chiến đấu, khoảng 14 cây số Tây Bắc Mỹ-tho, và 35 dặm Tây Nam Sàigòn, khiến quân lực VNCH, có thiết vận xa M.113, phi cơ, pháo binh, và quân số gấp 4 lần bị thiệt hại nặng. Dù chết 19 chết, 33 bị thương, kể cả một đại úy và 1 trung sĩ cố vấn Mỹ, 5 trực thăng bị bắn rơi. (FRUS 1961-1963, III:1-2; Sheehan 1988, tr. 261-2)
Nguyễn Mạnh Quang
[Nguồn: http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1.php,
re. điện thư from Hoang Thuc An hoangthucan@gmail.com to PhoNang@yahoogroups.com dateWed, Oct 29, 2008 at 2:03 AM subject Cuoc doi TT Ngo Dinh Diem mailed-by gmail.com]
II - CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH
DIỆM BÍ MẬT TIẾP XÚC VỚI CỘNG SẢN
VIỆT NAM
LÊ XUÂN NHUẬN
Đến nay thì việc họ Ngô bắt tay với ông Hồ Chí Minh cộng-sản Bắc Việt không còn là một nghi-vấn, như vài nhân-vật thân-Diệm trước đây đã cố che-giấu vụ này (xin xem thêm phần "PhụLục1" dưới cùng). Theo Ông QUÁCH TÒNG ĐỨC (Cựu Đổng Lý Văn Phòng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm): Theo tiến-sĩ Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa, trong bài “Mạn Đàm với cựu Đổng-Lý (Văn-Phòng Tổng-Thống Ngô Đình Diệm) Quách Tòng Đức” thì: [Ông Ngô Ðình Nhu đã tìm cách thương-lượng với Bắc Việt để loại ảnh-hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đã mời Manelli, Trưởng Phái-Đoàn Ba Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Đình-Chiến để nhờ liên-lạc với Hà Nội qua Ðại-Sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề-nghị mở cuộc tiếp-xúc giữa 2 bên. Bắc Việt chấp-nhận ngay. Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao Nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại-diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đã xác-nhận điều này. Trong cuộc gặp-gỡ, 2 bên đồng ý tái-lập trước tiên về liên-lạc bưu-điện và sau đó về giao-thương để tiến tới thống-nhất đất nước trong hòa-bình. Sau cuộc tiếp-xúc đó, ông Nhu cố ý tiết-lộ nội-dung cuộc tiếp-xúc cho báo-chí biết để ngầm thông-báo cho Washington. Ông Quách Tòng Đức xác-nhận là “chính ông Nhu có đề-cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng-lãnh tại Bộ Quốc-phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán-bộ xây-dựng Ấp Chiến lược khoá 13.” Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ: Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn Độ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon, để liên lạc với Hànội. Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không bieát rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Song song với sự tiết-lộ của ông Nhu, Tổng-Thống Pháp De Gaulle lên tiếng kêu gọi loại bỏ “ảnh-hưởng ngoại-quốc” ra khỏi VN, còn Hồ Chí Minh lên tiếng nói rằng "một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa-thuận.” Ông Nhu đã hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại phòng đọc sách của ông (“War of the Vanquished”, Mieczyslaw Maneli). Ông Quách Tòng Đức xác-nhận: một Tết Nguyên-Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng-lẫy được trưng-bày nơi phòng khánh-tiết Dinh Độc-lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cọng hoà Xã hội Miền Bắc”. Ông Đức kết-luận: “hành-động độc-lập (không cho Mỹ biết) của ông Nhu đã làm Washington tức-giận hơn. TT Kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến-hành cuộc đảo-chánh nhanh chóng hơn." Theo một tài-liệu cho là di-chúc của Hồ Chí Minh, thì: “Ðầu năm 1963, hồi đó tôi (Hồ Chí Minh) còn chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt-chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân-viên Ủy-Hội Kiểm-Soát Quốc Tế Ðình-Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam.”] ۞ Ta thử so-sánh giữa 2 con đường, vì chỉ có 2 con đường mà thôi: - Con đường thứ nhất là tạm uyển-chuyển nhường-nhịn Đồng-Minh Hoa-Kỳ để đạt thắng-lợi diệt Cộng, rồi sẽ tranh-đấu giành lại thế mạnh của mình, một việc dễ làm đối với chú Sam trong bối-cảnh khai-phóng của Thế-Giới Tự-Do. Về điểm này, ông Hồ Chí Minh có một câu nói để đời. Năm 1946, họ Hồ rước Pháp, đuổi Tàu; được hỏi, ông trả lời: “Tôi thà chịu ngửi cứt Tây 5 năm, còn hơn phải ăn cứt Tàu suốt đời”. Ông giải-thích thêm: “Pháp là ngoại-bang, ở xa, sẽ cút; còn Tàu, láng-giếng, sẽ ở lại luôn”. Vậy ta cũng có thể nói: “Mỹ là ngoại-bang, ở xa, sẽ rút; còn Cộng, nội-thù, sẽ diệt chúng ta.” - Con đường thứ hai là chịu hòa-giải hòa-hợp với họ Hồ (nghĩa là nạp mạng cho địch) để rồi nếu không bị họ thảm-sát như các nhân-vật Quốc-Gia trong vụ Ôn Như Hầu (CSVN bất-thần tấn-công vào trụ-sở VN Quốc Dân Đảng ở Hà Nội trong đêm 27-6-46 thảm-sát hầu hết các lãnh-tụ các đảng-phái đối-lập) thì cũng trở thành bù-nhìn tay-sai cho họ nuốt gọn Miền Nam; nhưng đã vào tròng cộng-sản độc-tài thì khó lòng mà tháo cũi sổ lồng. Ông Diệm đã chọn con đường thứ hai. Mãi đến hôm nay, có người vẫn cho con đường thứ nhất là sai (nghĩa là bị Mỹ cướp hết, hoặc đa-số, quyền-lợi của quốc-gia mình.Vậy thì Nhật-Bản, Tây-Đức, Nam-Hàn (ngay cả Pháp nữa)... thì sao? họ cũng bị Mỹ "chèn-ép" lúc đầu, sao họ trở nên giàu mạnh từ bao lâu nay? Thử hỏi: một người dân Việt miền Nam nào đó mà có lời-lẽ hoặc cử-chỉ cho là xúc-phạm đến Ngô Tổng-Thống thì người đó có yên thân hay không, huống gì tự ý hành-động (độc-lập) ra ngoài chính-sách đường-lối của gia-đình họ Ngô thì bị mất mạng là chuyện tất-nhiên. Vậy thì, khách-quan mà nói, họ Ngô đơn-phương thương-lượng với kẻ thù chung là cộng-sản Bắc Việt mà không hội-ý với Mỹ trước (điều mà Đồng-Minh cần làm với nhau), lại với ý-đồ đầu-hàng cộng-sản, loại bỏ ảnh-hưởng của Hoa Kỳ, tức là phản bội Đồng Minh, thì có lẽ nào Hoa-Kỳ khoanh tay chịu đựng hay sao? (Huống chi then-chốt vẫn là lòng dân miền Nam Việt-Nam). Phản-bội Đồng-Minh tức cũng đồng-thời phản-bội cử-tri, ân-nhân, và chí-hữu của mình.
Lê Xuân Nhuận
Phụ chú:
Vị nào muốn tin là cố Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm, nếu không bị giết, có thể giữ vững Miền Nam; và
ông Hồ Chí Minh thật lòng khen ngợi, muốn "sống chung hòa-bình"
với ông Ngô Đình Diệm, cùng thành-tâm tiếc-thương khi ông Diệm
chết (chuyện này do một đồ-đệ của họ Ngô bịa ra), xin mời
đọc bài của Lê Chân-Nhân (một bút-danh khác của Lê Xuân Nhuận)
đã được phổ-biến trên các diễn-đàn liên-mạng mấy năm vào cuối
thế-kỷ thứ 20: ۞
Giã-Từ Thế-Kỷ Hai Mươi:
CỐ TỔNG-THỐNG NGÔ ÐÌNH DIỆM
MUỐN DÂNG MIỀN NAM VIỆT-NAM CHO CỘNG-SẢN BẮC-VIỆT Trước khi giã-từ Thế-Kỷ 20, tôi tưởng chúng ta cũng nên thử tìm giải-đáp cho một thắc-mắc vẫn còn tồn-đọng từ thập-niên '60 của Thế-Kỷ 20: 1/ Cứ theo nhiều người (trong đó có tôi) thì chúng ta phải đặt chủ-quyền quốc-gia lên trên hết; nói cách khác, vì tinh-thần dân-tộc, chúng ta không chấp-nhận để cho ngoại-bang lấn-lướt quyền quyết-định việc nước của chúng ta. Do đó, việc cố Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm chống lại Hoa-Kỳ trong dự-định đổ thêm nhiều quân vào VNCH (Mỹ-hoá chiến-tranh Việt-Nam) là một việc đúng. 2/ Cứ theo một số nhân-vật Hoa-Kỳ (trong đó có cựu Bộ-Trưởng Quốc-Phòng McNamara, cựu Ngoại-Trưởng Henry Kissinger) thì Mỹ không nên tán-đồng hay nhúng tay vào việc lật đổ chế-độ Diệm, và họ rất tiếc là Hoa-Kỳ đã làm như thế. 3/ Một số nhân-vật Quốc-Gia thân-Diệm dựa vào các ý-kiến trên của phiá Hoa-Kỳ để khẳng-định rằng nếu không có cuộc chính-biến 1-11-1963, nghiã là nếu cố Tổng-Thống Diệm vẫn còn sống và tiếp-tục lèo-lái công-cuộc chống Cộng của quốc-dân Việt-Nam (bất-chấp thời-lượng nhiệm-kỳ, từ 1955 đến 1975 là 20 năm!), thì Việt-Nam Cộng-Hoà hẳn vẫn còn tồn-tại và phát-triển, giàu-mạnh chứ không sụp-đổ như vào Tháng Tư Đen năm 1975. 4/ Thế nhưng, nếu ta đọc hết và đọc kỹ các ý-kiến của Mỹ chống việc chống Diệm, nghiã là ước chi Hoa-Kỳ hồi đó không gia-tăng lực-lượng và hoạt-động quân-sự mà cứ để cho ông Diệm trực-tiếp tiếp-xúc với Bắc-Việt để cả hai miền Nam Bắc cùng tự giải-quyết vấn-đề nội-bộ Việt-Nam với nhau, thì ta thấy rằng các nhân-vật Mỹ tên-tuổi kể trên đã lý-luận khác hẳn, về kết-quả của việc ông Diệm bắt tay với Bắc-Việt: Không phải là VNCH vẫn còn đứng vững, mà là Bắc-Việt “thống-nhất Việt-Nam” (nuốt chửng Miền Nam) sớm hơn, chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt sớm hơn, và, quan-trọng hơn hết là, Mỹ đã có thể tránh được thiệt-hại lớn-lao (về vật-chất là lên đến hơn năm-vạn-tám mạng ngưòi, và trăm-tư-tỷ đô-la; và về tinh-thần là ô-danh bại-trận, thay vì “được” ông Diệm – ông Diệm sau ngày thỏa-hiệp với CSVN -- yêu-cầu rút ra, rút ra trong danh-dự - xem Phụ-Lục 2). 5/ Có một số người vẫn còn tin rằng: nếu để cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm toàn-quyền và tự-lực lo lấy, thì Mỹ đã khỏi tổn-thất như trên, mà Việt-Nam cũng đã thoát được các thảm-cảnh đã xảy ra, nhất là không bị cộng-sản tràn ngập. Vấn-đề tôi xin đặt ra hôm nay là: Về phiá cộng-sản thì họ đã có quyết-tâm và kế-hoạch thôn-tính Miền Nam (qua việc cài lại cán-bộ nằm vùng tại Miền Nam sau Hiệp-Định Geneva 1954, nhất là qua Nghị Quyết 15 đầu năm 1959 chủ-trương bạo-lực cách-mạng giải-phóng Miền Nam khiến Tổng-Thống Diệm phải ban-hành Luật 10-59, cụ-thể là việc thành-lập "Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam" từ năm 1960) với sự viện-trợ tối-đa của Khối cộng-sản quốc-tế; về phía Hoa-Kỳ thì họ hẳn thấy chỉ dùng chính-trị, kinh-tế, ngoại-giao... thì vẫn chưa đủ, nên phải dùng đến quân-sự (đổ thêm quân vào Việt-Nam). Vậy thì, về phiá VNCH, nghiã là về phần cố Tổng-Thống Diệm, - người đã tin dùng cán-bộ tình-báo chiến-lược Vũ Ngọc Nhạ của Bắc-Việt làm cố-vấn cho mình, cùng với nội-tuyến-viên Phạm Ngọc Thảo được Tổng-Giám-Mục Ngô Đình Thục nhận làm con nuôi - “chúng ta” làm cách thế nào mà thắng cộng-sản (ít nhất thì cũng còn nguyên, không bị cộng-sản lấn chiếm) khi mà cộng-sản chắc-chắn là quyết tiến lên, Hoa-Kỳ rút ra, phủi tay, không còn phối-hợp và yểm-trợ về quân-sự, dĩ-nhiên giảm-thiểu nếu không cắt hết viện-trợ kinh-tế và các mặt khác, trong lúc chúng ta không được nước ngoài giúp đỡ (Mỹ mà rút đi thì ai mà chịu nhảy vào?), thua sút Cộng-Sản cả về dân-số, quân-số, vũ-khí, tiếp-liệu, viện-trợ, khả-năng tự-túc, nhất là đoàn-kết và ổn-định nội-tình? LÊ CHÂN-NHÂN ۞ Ông Hồ Chí Minh trả lời phái-bộ ngoại giao Ấn-Độ rằng "He is a patriotic man”: ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước (Cũng như sau này - thật không? - họ Hồ tỏ ý thương tiếc trước cái chết của họ Ngô). Câu nói (khen) cuả họ Hồ đối với họ Ngô chỉ là một câu nói "chính trị", và "ngoại giao". Ông Hồ Chí Minh cần (tự) đánh bóng thêm con người của mình, nên phải học đòi nói-năng lịch-sự, nhất là khi nói với một nhà ngoại-giao nước ngoài.(Ngày xưa, bên Tàu, tướng của phe này bắt được tướng của phe kia, đã công-khai khen tài-năng & tiết-tháo của kẻ thù, rồi mới ra lệnh chém đầu!) Quan-trọng hơn hết, ông ấy còn mong thuyết-phục ông Ngô Đình Diệm chịu tổ-chức tổng-tuyển-cử, và xa hơn nữa là chịu "về" với mình, thì không lẽ chê-bai người ta để rồi mình lại sẽ ngồi chung bàn hội-nghị, ký chung văn-bản với người ta? hoặc giả mình sẽ thu-dụng người ta làm người hợp-tác với mình? Câu nói (khen) cuả ông Hồ Chí Minh về ông Ngô Đình Diệm thật ra là một câu nói cố ý "giết người". a)Trước ông Ngô Đình Diệm: vào các năm 1945 và 1946, ông Hồ Chí Minh đã "khen" các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam... nồng-nhiệt đến mức nào để các ông ấy chịu đứng chung vào "Chính-Phủ Liên Hiệp" do ông Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch; để rồi sau đó, may mà họ trốn kịp chứ không thì họ cũng đã bị giết cùng với các nạn-nhân khác trong vụ Ôn Như Hầu rồi. b) Sau ông Ngô Đình Diệm: vào các năm 1973, 1974, và đầu năm 1975, ông Hồ Chí Minh (qua các lãnh-tụ Đảng thừa-kế chủ-trương đường-lối cuả mình) đã "khen" ông Dương Văn Minh ngon-ngọt đến mức nào (Hà Nội tuyên bố chỉ nói chuyện với ông DVM mà thôi, tức là công-nhận ông nầy là một "nhà yêu nước") để ông Dương Văn Minh sa vào bẫy, nhận chức Tổng-Thống miền Nam trong tình-hình đã nát bét vô-phương cứu-chữa rồi, tức là giết chết ông ấy, vì đầu-hàng tức là tự-sát (thân-bại danh-liệt, chết cả về mặt tinh-thần). c) Đối với ông Ngô Đình Diệm: ông Hồ Chí Minh biết chắc là những gì đại-sứ Ấn Độ nói với, và những gì ông này nghe từ, ông Hồ Chí Minh, đều sẽ lọt vào tai CIA (Ấn Độ trung-lập nghiã là "đu dây" giữa cộng-sản và tư-bản, chứ không phải thuần-túy thân cộng-sản). Trong trại "cải-tạo", tôi có đọc một cuốn sách dịch từ tác-phẩm của Liên-Xô, kể thành-tích Liên Xô (chỉ một mình Liên Xô mà thôi) đánh thắng Đức Quốc-Xã, và (cũng chỉ một mình) Liên Xô lôi được Đức Quốc-Xã ra Toà-Án Quốc Tế, tác-giả đã để lộ ra là hầu hết phương-tiện tổ-chức TAQT, kể cả từng chiếc xe Jeep cho các sĩ-quan Liên Xô đi, từng vật-phẩm văn-phòng, v.v... đều do Hoa Kỳ cung-cấp. Trong chiến-tranh Việt-Nam cũng thế, sau 1954 với Ủy-Hội Quốc Tế Kiểm-Soát Đình Chiến, là 1973 với Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn gồm Ba Lan, Hung Ga Ri, Iran, và Canada (sau đó thì Indonesia thay thế) cũng như Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên rồi 2-Bên (có Cộng-Sản Bắc-Việt và MTGPMN trong đó), tất cả trụ-sở làm việc, phương-tiện di-chuyển (như tàu bay, xe hơi), tài-xế, công-nhân, thậm chí lương-thực, v.v... đều do Hoa Kỳ đài-thọ. Dĩ-nhiên tai + mắt cuả CIA đã được gài vào (xem hồi-ký Cảnh Sát Hóa của Lê Xuân Nhuận). Ông Hồ Chí Minh lại còn công-khai gửi vào miền Nam biếu ông Ngô Đình Diệm một cành hoa đào để chúc Tết nữa! Do đó, ông Hồ mà "khen" (và làm thân với) ông Ngô là một câu hỏi mà CIA cần tìm câu trả lời. Rốt cuộc, ông Ngô Đình Diệm đã mắc mưu ông Hồ Chí Minh, tìm cách lén-lút liên-lạc với đối-phương, và bị CIA biết được, nên đã đánh mất tín-nhiệm và hậu-thuẫn cuả Hoa-Kỳ, kết-quả là cái chết. (Về phiá nội-bộ Miền Nam, chế-độ Ngô Đình Diệm đã đánh mất lòng dân, nhiều nhất là kể từ đầu thập-niên '60, cụ-thể với vụ 18 nhà chính-trị trong đó có đến 11 Tổng-Trưởng, Bộ-Trưởng cuả chính Đệ-Nhất Cộng-Hoà họp tại nhà hàng Caravelle ra Tuyên-Ngôn đòi ông NĐD thay-đổi chính-sách vào tháng 4-1960, cuộc đảo-chính hụt ngày 11-11-1960, vụ ném bom Dinh Độc-Lập đầu năm 1962, rồi đến việc cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật-Đản, nổ chết người tại Đài Phát-Thanh Huế tối 8-5-1963, tổng-tấn-công chuà-chiền đêm 20-8-1963, rồi Hoà-Thượng Thích Quảng-Đức (và các vị khác) tự-thiêu, Phật-Tử khắp nơi xuống đường, v.v... Chính ông + bà Trần Văn Chương, Đại-Sứ tại Mỹ và Quan-Sát-Viên tại Liên-Hiệp-Quốc, là cha + mẹ đẻ của bà Ngô Đình Nhu, thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng và là cộng-sự-viên lâu năm nhất của Tổng-Thống Diệm, mà cũng quyết-liệt chống lại chế-độ họ Ngô. Đó là những tín-hiệu, những cảnh-báo trước, từ phía người dân Miền Nam. Hoa-Kỳ đã thấy rõ tính-chất độc-tài hại dân của tập-đoàn họ Ngô và tinh-thần đối-kháng của sĩ-phu và quần-chúng Việt-Nam từ lâu, cũng như biết trước về dự-mưu đảo-chính của số tướng VNCH liên-hệ từ nhiều năm qua.Thế nhưng mãi đến tháng 9-1963 Tổng Thống Kennedy mới trả lời báo-chí rằng muốn chiến-thắng Việt-Cộng thì phải thay-đổi chính-sách và nhân-sự cuả chính-phủ Ngô Đình Diệm, và đại-sứ Henry Cabot Lodge mới trực-tiếp đề-nghị Tổng-Thống NĐD cải-tổ (nhưng ông Diệm vẫn không nghe theo!). Như thế, thái độ và quyết định cuả Hoa Kỳ tùy-thuộc rất nhiều vào lòng dân Miền Nam Việt-Nam.
LÊ CHÂN-NHÂN
Phụ-Lục 1:
1-Theo ông NGUYỄN HƯNG ĐẠT (Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam, Moscow): "Vì Mỹ muốn đổ quân vào, nên để thương thuyết, cụ Hồ đã thông qua Đại tá Phạm Ngọc Thảo liên hệ với cố Tổng thống Ngô Đình Diệm cho Đặc phái viên đặc biệt, Tướng Nguyễn Tài - Thứ trưởng Bộ Công An (chứ không phải Nội vụ) của chính phủ VNDCCH đến Sài Gòn. Ông Tài là em ruột nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Nhân chứng Đại tá Thảo nói rõ với ông Diệm mình là người CS trước lúc môi giới thương thuyết. Tướng Huỳnh Văn Cao (trong hồi ký Một Kiếp Người) đã viết : ‘Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, hiện là sĩ quan của Miền Nam, diện hồi chánh, nhưng đã từng là bạn thân của Lê Duẩn, ngày đám cưới của Thảo tại Thiên Hộ Đồng Tháp thì Lê Duẩn đã đích thân đến dự. Khi tôi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Tiền Giang thì Thảo làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiến Hòa, người được Tổng Thống Diệm tin cậy. Trong những giây phút thân tình, Thảo đã thỏ thẻ với tôi: "Nếu Đại Tá Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn thì tôi có thể sắp xếp được." Cho nên đã có lần tôi thưa với cụ Diệm: "Sao Cụ cứ để Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lâu vậy, Cụ không sợ Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?" Cụ Diệm đáp lại: "Ừ, để xem đứa nào rủ được đứa nào?" Lúc ấy, tôi đã hiểu là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được, nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rõ Thảo là Cộng Sản’. Ông Diệm cho ông Tài ở ngay bên cạnh mình trong Dinh Gia Long. Nhân vật mà Thiếu tướng Đỗ Mậu, Phụ trách An ninh Quân đội, viết (trong hồi ký Làm Thế Nào Để Giết Một Vị Tổng Thống là những nhân vật cao cấp cuả Chính phủ có thấy một người mang một lá cờ đỏ sao vàng nhỏ bằng con tem trên ve áo, chính là người này. Ông Nguyễn Tài bị bắt ngay sau Đảo chính 11.1963, bị biệt giam đến cuối tháng 4.1975, may nhờ một hạ sỹ không theo lệnh chỉ huy ném lựu đạn vào xà lim. Anh này báo với Ủy ban Quân quản đến cứu con người liệt hai chân này. Tết Việt nam 1963, thông qua Ủy hội Quốc tế, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mang vào tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm một cành đào. Tiếc thay,vì không thay đổi được lập trường thoả hiệp với CS mà Mỹ giết ông Diệm. Nhà độc tài Pinochett không bị giết vì không làm điều này. (trong bài viết Tiểu sử cuả Cụ Hồ Chí Minh cần phải được xem xét lại – BBC 05-05-2005) 2-Theo ông NGÔ KỶ (Ký-giả): (Tháng 9 năm 1963) .... Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất mãn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh Việt Nam. Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài Gòn - Hà Nội nhiều lần để tìm giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc Việt đồng ý căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân.(trong bài Khui hồ sơ "Tối Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm) 3-Theo ông VIỆT THƯỜNG (Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam): "... Nguyễn công Tài đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu hàng núi hồ sơ về gia đình nhà ông Ngô Đình Diệm và những người kế cận, cũng như những người đối lập. Tài liệu cập nhật từ nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội gián Phạm ngọc Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn người tiếp xúc thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng, sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đã lựa nhân vật Mã Tuyên, người Tàu ở Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài cho gia đình ông Ngô Đình Diệm. Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đã tiếp xúc trực tiếp được với Mã Tuyên. Và, cái thời điểm để đưa ý kiến cho Mã Tuyên "gợi ý" với anh em ông Ngô Đình Diệm là sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uý của quân đội ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom dinh Độc Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uý Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng nó lại là lý do hợp thời để Nguyễn Công Tài làm cuộc tiếp xúc với anh em ông Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở Chợ-lớn là Mã Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả nhiên ông Nhu nhận sự tiếp xúc một cách thận trọng và kéo dài thời gian để mặc cả cho cái giá đi đêm. Nguyễn công Tài có nhận xét là anh em ông Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực đoan như "Tự Đức" và cũng có mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và Lào và phải là cường quốc ở châu Á. Sự việc tin đi mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được phép của ông Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một số tài liệu chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm còn vợ chồng ông Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước sau cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đình trị, phải chia quyền lãnh đạo cho các đảng phái cũng như phải có chính sách bình đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận một cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có thể đây chỉ là giải pháp phòng ngừa mà cũng có thể ông Nhu muốn hiểu rõ hơn ý đồ của địch. Những điều này còn là bí ẩn đi theo ông Nhu xuống tuyền đài. Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đình (Hà-nội) và cấp tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và hàng không. Đầu tháng 2-1963, cuộc họp "bí mật" giữa ông Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng diễn ra tại một địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy. Trong cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng được dự. Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc họp vẫn còn nằm trong bí mật cho đến nay. Đầu tháng 11-1963, các tướng trong quân đội của ông Diệm làm đảo chánh thành công. Anh em ông Diệm, Nhu theo đường hầm trốn vào Chợ-lớn ở nhà Mã Tuyên. Phải chăng hai anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và Nguyễn công Tài đến đón ra bưng biền? Người duy nhất còn lại là Nguyễn công Tài, sau này "tình cờ" làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đã bắt được Nguyễn công Tài. Người Mỹ đã cho giam Nguyễn Công Tài ở Bạch Đằng (Sài-gòn), cho hưởng mọi tiện nghi vật chất rất cao và cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo vệ) đi "tham quan" phố xá Sài-gòn. Đến 1975, trước khi đứt phim miền Nam, Mỹ đã thả Nguyễn công Tài ra... 4-Theo ông QUANG PHỤC (Ký giả, chủ nhiệm “Góp Gió”): Chúng tôi nhận định rằng chính gia đình ông (Ngô Đình Diệm), cụ thể là ông bà Ngô Đình Nhu, và Đảng Cần Lao của ông ta đã làm hại ông, khi âm mưu thỏa hiệp với CS Hà Nội từ năm 1958 khi ra lệnh cho các Tỉnh trưởng ngưng bắt các cán bộ cộng sản và thu hồi vũ khí tự động của Bảo An, Dân Vệ, thay vào đó bằng súng mousqueton và dao găm.” (Hồi ký Công và Tội của Nguyễn Trân, trang 269) (trích từ cuốn “Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 39) 5-Theo Trung Tướng HUỲNH VĂN CAO: “Đọc hồi ký Một Kiếp Người của Trung tướng Huỳnh Văn Cao, tới đây thì vấn đề ông Nhu có liên hệ với CS không cần bàn cãi nữa. Cả tướng (Trần Văn) Đôn, tướng Huỳnh Văn Cao và Nha An Ninh Quân Đội của Đại tá Đỗ Mậu đều báo cáo (rằng) Đại tá Phạm Ngọc Thảo là VC nằm vùng, nhưng cả 2 ông Diệm và Nhu lẫn cha Thục vẫn cứ cố ý bảo vệ cho Thảo. Trong hồi ký Một Kiếp Người của Huỳnh Văn Cao cho biết Đ/tá Thảo còn dám cả gan “móc nối” ông Cao (lúc còn Đại tá), đòi giới thiệu để ông Cao làm quen với Tổng bí thư Lê Duẫn, các sĩ quan dưới quyền ông Cao rất tức giận vì biết Thảo là VC nằm vùng, đòi giết Thảo (các trang 79-80). Ông Nhu nghe Thảo báo cáo bèn dọa “Kẻ nào đụng tới Thảo (tôi) sẽ bỏ tù rục xương” (trang 90). Đồng thời, nơi trang 84, Tướng Huỳnh Văn Cao còn cho biết cả Đại tướng Harkins cũng nghi ngờ TT Diệm. Bởi vì cuộc hành quân nào của QLVNCH sắp mở ra mà báo cho Tổng Thống phủ thì VC đều biết trước! Cho thấy người Mỹ, CIA đã biết và theo dõi bám sát ông Ngô Đình Nhu từ lâu. Và người Mỹ nhiều lần đòi Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu. Các tướng lãnh cũng đòi loại trừ ông Nhu nhưng ông Diệm cương quyết giữ ông Nhu! (trích từ hồi ký Một Kiếp Người của tướng Huỳnh Văn Cao - theo Quang Phục trong cuốn Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 30) 6-Theo NEW YORK TIMES và THE WASHINGTON POST: Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài: Người Mỹ Làm Thế Nào Để Giết Tổng Thống Việt Nam? Ba tác giả Lan Vi, Hồng Hà và Dương Hùng đã sưu tầm, phiên dịch các bài báo đăng trên 2 tờ báo kể trên, trong đó có tiết lộ về những cuộc thảo luận bí mật giữa Tổng Thống Diệm và Hà Nội đằng sau lưng người Mỹ... (trích từ cuốn Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 41) 7-Theo Trung Tướng TÔN THẤT ĐÍNH (Cựu Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, Thượng Nghị Sĩ VNCH): Trong khi đó, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu lại phạm vào một lỗi lầm ngoại giao to lớn là khước từ sự giúp đỡ về an ninh của Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge, chạy vào nhà Mã Tuyên là Trung Tâm Liên Lạc xưa nay của ông Nhu với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Không phải cuộc binh biến 1-11-63 đã đưa đến cuộc thảm sát 2 ông, mà chính quyết định liều lĩnh này đã làm cho 2 ông gánh lấy thảm họa! Sao lại đi đến một trung tâm liên lạc với cộng sản mà Mỹ đã biết từ lâu rồi! (trích trong cuốn hồi-ký Nghĩa Bỉển Tình Sông (Hai Mươi Năm Binh Nghiệp của Tôn Thất Đính, trang 443) 8-Theo Luật Sư HOÀNG DUY HÙNG (Nhà văn, nhà báo, nhà hoạt-động cộng-đồng tại Texas): (Phỏng dịch:) "Các cuộc gặp họp bí mật với Cộng Sản. Sau Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 15 vào năm 1959, Lê Duẫn cấu kết với Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn để củng cố quyền lực ở Miền Bắc. Do đó, họ gây sức ép với Hồ Chí Minh, và kể từ năm 1965 trở đi thì quyền lực thực sự đã nằm trong tay họ. Năm 1963, Hồ đã hai lần gửi người vào tiếp xúc với Ngô Đình Nhu. Hồ muốn liên minh với chính phủ Diệm để chống lại áp lực của Duẫn. Diệm và em là Nhu cũng muốn nhân cơ hội này để chống lại áp lực của Hoa Kỳ. Ngô Đình Nhu giả vờ đi săn ở các khu rừng Tánh Linh, Khánh Hòa và Bình Long, nhưng trong thực tế là hội họp với các cán bộ cao cấp của Miền Bắc do Hồ Chí Minh phái vào. Có một lần Phạm Hùng, người mà sau năm 1975 thì được cử làm Thủ Tướng, đã mang vào trao cho Nhu những thông điệp trực tiếp của Hồ Chí Minh. Các cuộc thương thảo đã phải ngưng lại vì vài tháng sau thì Diệm và Nhu bị sát hại. Vì các cuộc họp mật này mà Hoa Kỳ đâm ra nghi ngờ Diệm và Nhu. Ngày 1-11-1963, các tướng QLVNCH phổ biến trên đài tin tức về các cuộc gặp mật giữa Nhu và cộng sản để mong dân chúng hậu thuẫn trong việc lật đổ chính phủ Diệm... Nhiều năm sau đó, vào ngày 1-11-2001, tờ Newsweek đã đăng tải một bài với hình của Tổng Thống Diệm, bình luận rằng Hành Pháp Kennedy vào năm 1963 đã khám phá ra rằng Diệm và Nhu là "công cụ của cộng sản" nên kết quả là họ phải lật đổ chính phủ Diệm..." (trích từ bản thảo tác phẩm A Common Quest for Vietnam's Future - a brief of Vietnam War, the First and Second Republic of Vietnam của Hoàng Duy Hùng) 9-Theo ông MINH VÕ (Nhà bình luận thời sự): Ngô Đình Nhu: Hiệp thương Nam-Bắc - Đài Tiếng nói VNHN – Phỏng vấn Minh Võ Người hỏi là nhà báo Hồng Phúc Lê Hồng Long, chủ nhiệm báo Thế Giới Ngày Nay. Cuộc phỏng vấn này đã được phát thanh ngày chủ nhật 07/10/2007 trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại. Hỏi: Trong cuộc mạn đàm giữa ông và ông Cao Xuân Vỹ đăng trên DCVOnline mới đây, ông Cao Xuân Vỹ có nói đến cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình Nhu với... Phạm Hùng, cán bộ cao cấp của Việt Cộng. Hỏi: Về phía nhà cầm quyền miền Bắc, phản ứng của họ ra sao, và những đìều kiện họ đưa ra là gì? Đáp: Theo bà Hammer, tác giả cuốn A Death In November, thì khi ông Goburghun, đại sứ Ấn đi Hà Nội với tư cách chủ tịch Ủy Ban Kiểm Sóat Đình Chiến, đến gặp ông Hồ Chí Minh thì thấy ông ta chẳng những không thấy có gì ngăn cản cuộc hiệp thương với Saigon...Khi Maneli đến Hà Nội trình bày kế hoạch theo sự hướng dẫn của các ông Lalouette và Goburghun, thì chỉ hai ngày sau Hà Nội đã có đáp ứng: Hà Nội sẵn sàng khởi sự thương thuyết bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai. Bộ trưởng ngoại giao Xuân Thủy, theo chỉ thị của chủ tịch và thủ tướng sẽ sẵn sàng trình lên một danh sách những hàng hóa có thể trao đổi giữa hai miền. Còn điều kiện, Hà Nội chỉ cần thấy Mỹ rút khỏi miền Nam, thì sẵn sàng bàn thảo về bất cứ vấn đề gì? (trích từ Tài liệu ĐÀN CHIM VIỆT – 30-10-2007) 10-Theo Linh Mục An-Tôn TRẦN VĂN KIỆM (Bạn thân của Tổng Thống Ngô Đình Diệm): Về sau khá lâu, tôi nghe một nguồn tin nói rằng: Khi bị Hoa kì dồn ép tới đường cùng, ông Diệm có nhờ giáo sư Bửu Hội làm trung gian mở một vài cuộc hoà đàm bí mật với đại diện ông Hồ tại Tánh Linh, khiến cho một số chính khách Mĩ đã dựa vào đó mà gỡ tội cho ông Cabot Lodge, đại sứ Tổng Thống J.F.Kennedy… (trích từ bản thảo cuốn hồi-ký Có phải Hoa thịnh đốn đã đưa ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam? của L.m. An-tôn Trần văn Kiệm) 11-Theo báo Mỹ Chicago Tribune (June 1, 1997): While the coup against him was being plotted, Diem was negotiating a political compromise with Ho, who was just as troubled by his dependence on Chinese support in the North as Diem was by the growing American presence in the South. In retrospect, the elimination of Diem destroyed the only realistic prospect for a negotiated settlement and the honorable withdrawal of the U.S. from the conflict. (trích từ bài viết A Fatal Mistake: Looking anew at Ngo Dinh Diem's 1963 ouster as president of South Vietnam) ۞
1- Ý Kiến CỦa Lê Xuân Nhuận
Kính gửi Bs. Nguyễn Thị Thanh (thư số 1)Kính cô Nguyễn Thị Thanh, Trước hết, tôi xin cám ơn cô đã gửi email phản hồi, khen ngợi loạt bài của tôi về Đức Mẹ La Vang (Sự Thật về Đức Mẹ La Vang www.LaVang.info). Để đáp lễ, tôi cũng xin có bài phản hồi, về một bài viết của cô. Sau một loạt các bài viết của cô về tôn-giáo (Ky-Tô-Giáo), mà thái-độ quá hăng-say của cô đã khiến ít nhất là chính một Ky-Tô-Hữu kiên-cường là cô Ngô Túy Phượng (tuyphuongngo56@yahoo.com) phải nhiều lần lên tiếng khuyên-nhắc cô, nay cô tiến sang lãnh-vực chính-trị, bắt đầu với bài TT Ngô Đình Diệm với Hòa Giải Dân Tộc, mà quan-điểm cũng khá chủ-quan của cô đã gây nên một loạt tranh-cãi gay-gắt trên nhiều diễn-đàn. Chính-Trị và Tôn-Giáo là hai đề-tài “cấm-kỵ” đối với một số tổ-chức và phương-tiện truyền-thông của Người Việt Hải-Ngoại hiện nay, nên tôi chưa tiện phân-tích cặn-kẽ mọi khía-cạnh trong bài viết nói trên của cô, mà chỉ tạm-thời góp ý với cô về 3 trong nhiều điểm chính, mà các vị khác chưa đề-cập đến, như dưới đây. Nhưng trước hết là chúng ta hãy đọc lại bài viết của cô (những chữ màu xanh, tô đậm và có gạch dưới là chữ của cô mà tôi đặc-biệt chú ý, còn các kiểu chữ và màu sắc khác là nguyên của cô):
“From: Dr Nguyen Thi ThanhDate: 13 sep. 2008 12:40
Subject: TONG THONG NGO DINH DIEM LA NGUOI YEU NUOC YEU DAN NĂM 1962, TT NGÔ ĐÌNH DIỆM NGƯỜI CHỦ TRƯƠNG HÒA GIẢI ĐẦU TIÊN VỚI CSBV, ĐỂ TRÁNH LỆ THUÔC NGOẠI BANG VÀ CHIẾN TRANH NỒI DA XÁO THỊT Nhiều người cho rằng giải hòa với CQ CSVN là tự sát, đó là một sự sai lầm nguy hiểm. Tôi thật rất lấy làm lạ, không biết họ hiểu chữ hòa giải là làm sao. Hòa giải là làm nô lệ hay theo ý kiến đơn phương một bên hay sao ? Hòa giải nghĩa là một cuộc đối thoại công bằng giữa hai phe, tôn trọng lẩn nhau, chấp nhận lắng nghe ý kiến và nhu cầu của hai nhau để đi đến một đường hướng chung công bằng, có lợi cho cả đôi bên. Mọi người đều biết các nước Đông Âu và nước Nga là nơi đã phát sinh ra XHCN, đã từ bỏ thể chế cở lổ sỉ sai lầm để trở nên những nước dân chủ tự do đa đảng đa nguyên. Nước việt Nam chúng ta tuy chưa bỏ CNXH chỉ vì ảnh hưởng TC. Nhưng VN đã tiến gần lại với các nước tư bản phương Tây và cũng đã bắt đầu coi trọng quyền tự do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên tuy chưa thực hiện chính thức được vì TC ngăn chặn. Năm 1961- 1962 Cụ Diệm cho rằng dầu Mỹ có viện trợ gì đi nữa thì mình phải giữ chủ quyền. Cụ Diệm muốn thay đổi những tướng tá mà Pháp đã bán cho Mỹ 50 triệu đồng, rồi Mỹ giao cho Cụ Diệm xữ dụng, nên Mỹ không muốn thất lời hứa với Pháp mà buộc Cụ Diệm giữ họ lại. Cụ Diệm cũng bất bằng về việc Mỹ lấy dân tộc thiểu số Miền Cao nguyên lập quân đội Fulro, cho ăn mặt, lĩnh lương y hệt quân đội Mỹ để sinh ra một sự chia rẻ giữa quân nhân Việt và Thượng. Sau nầy khi Mỹ trao quân đội Fulro lại cho QLVNCH thì sinh lắm lôi thôi. Việc mà Cụ Diệm hằng trăn trở luôn là quyền tự chủ của một dân tộc, quyền tự quyết của Vị Tổng Thống VNCH thường bị tòa đại sứ Mỹ đụng chạm một cách quá đáng. Nhất là Mỹ đòi đồ quân vào VN, đòi thả bom Bắc Việt . Cụ Diệm trã lời: " Không thể để cho quân lính Mỹ đổ bộ trên đất nước chúng tôi. Vì đó là hành động chúng tôi rất kiêng kỵ "cỏng rắn cắn gà nhà." Vấn đề thả bom Bắc Việt là một chuỗi ngày tranh luận dữ dội. Cụ Diệm và ông Cố vấn Nhu và ông Cẩn rất buồn rầu lo toan. Cụ Diệm than: "Đánh giặc thì phải có kế hoạch chi chớ, đem bom mà thả thì còn gì đất nước, còn gì sinh mạng và tài sản đồng bào, răng thì răng, chớ còn thả bom Bắc Việt thì tôi nhất quyết không chịu." Vậy là có chuyện lôi thôi với Hoa Kỳ rồi. Chúng ta phải hiểu vào thời gian ấy Mỹ rất coi thường người Việt Nam, văn hóa Việt Nam chứ không như sau 1975, hay hơn nữa như bây giờ. Và cũng vào thời ấy đường lối CSBV rất sắt máu. Vậy mà TT Ngô Đình Diệm đã cương quyết đi theo đường lối dân tộc. Người đã phát biểu một câu nói lịch sử với ba tôi: "Thà rằng mình chịu nhục với anh em còn hơn bị nhục nhã với ngoại bang…" Ba tôi là dân biểu Ban Mê Thuộc, trông coi Dinh điền rừng cấm, đàn em thân tín của cụ Diệm, người nghĩ rằng sớm muộn Cụ Diệm sẽ bắt tay với Cụ Hồ, nhưng chưa biết khi mô, và với hình thức ra răng đây, khó quá. Một ngày kia ba tôi đi họp Sài gòn về Ban Mê Thuộc báo tin cho mạ tôi rằng cuối tuần ông Cụ Diệm và ông Nhu sẽ lên Ban Mê Thuộc đi săn (Ban Mê Thuộc thời ấy là thủ đô Miền Cao Nguyên). Tôi nghe chuyện nhà nước BMT tổ chức cho TT Diệm đi săn, thì vui thích quá, bèn xin ba tôi cho tôi đi theo. Ba tôi nói rằng "Đi săn thì phải cưởi ngựa" "Con biết cưởi ngựa." "Nếu có cọp nhảy, ngựa sợ hất con chết thì không sao, nhưng nếu gảy chân gảy lưng, gảy cổ thì phiền lắm, thôi con không đi." tôi hết hy vọng. Sáng thứ bảy quảng vào mùa hè 1961 hay 1962 tôi không nhớ rõ (xin vị nào công cán chính, trong QLVNCH có mặt hôm đó cho tôi được biết.) cả tỉnh Ban Mệ Thuôc chộn rộn dậy thật sớm. Toàn thể quân cán chính tấp nập sửa soạn, đi đón cụ Diệm và ông Nhu lúc 5 giở sáng đế cùng thẳng tiến vào rừng xanh BMT đi săn. Tôi tuy không được đi săn nhưng hồi hộp theo dỏi. Rồi đoàn người quân cán chính, nào xe hơi nào ngựa. Nhất là quân đội sẵn sàng bao vây tứ phía cuộc săn bảo vệ ông Cụ Diệm. Vậy là đoàn người đông đảo, tấp nập, họp lại trước tòa Tỉnh, hớn hở kéo nhau ra đi khi trời chưa hừng sàng. Tôi chỉ đứng trên lầu thượng của hảng SCIB (Société Commerciale et Industrielle de Banmêthuôt) nơi ba tôi làm Giám đốc nhìn lên Tòa tỉnh mà thôi. Rồi suốt cả ngày hôm đó gia đình ba mạ tôi và các gia đình khác chỉ điện thoại cho nhau chia sẽ lo lắng. Đến chiều tối, mọi người thấp thỏm chờ mong. 5 giờ, rồi 6 giờ vẩn không tin tức. Chúng tôi lo quá, đến 7 giờ cũng không tin gì cả. Đến gần 8 giờ ba tôi mới về đến nhà, người bơ phờ, xất ba xất bất, mặt tái mét nhưng vẩn cười gượng. Tôi gấp rút muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Ba tôi điềm tỉnh không nói. Sau khi tắm rửa, ăn uống xong, vào phòng nằm nghỉ một hồi, ba tôi mới nhỏm dậy, tôi và mạ tôi chờ đợi. Ba tôi cho hay đây là cuộc đi săn tráo trộn. Ba tôi kể: "Một điều quá sức ngạc nhiên là đi săn mà ông Cụ và ông Nhu đều mặt đồ tây complet, cravate đàng hoàng, ông cụ mặc bộ đồ tơ tằm 'Tussor', tay cầm baton. Mọi người vào rừng, lúc đầu đi xe hơi một đoạn, sau bỏ lại xe đi ngựa và đi bộ. Quân đội tỏa ra bao vây khắp nơi. Đi từ 6 giờ sáng đến chừng hơn 11 giờ trưa đến một khoảng xa rừng cấm thì ông Cụ ra lệnh ngưng lại dùng cơm trưa. Ăn uống vui vẻ nghỉ ngơi chừng hơn một giờ. Sau đó ông Cụ quay lại nói với mọi người rằng: "Chúng tôi mời quý vị ngồi nghĩ cho khỏe ở đây, tôi và ông cố vấn sẽ đi với nhau mà thôi." Mọi người phản kháng. Quân đội đòi bao vây bảo vệ. Ông cụ dẹp hết. Ông Cụ Diệm mặc Veste, đội mủ, tay xách baton cùng ông Nhu cuốc bộ đi sâu vào rừng. Mọi người vừa ngạc nhiên vừa tê tái lo sợ, xầm xì to nhỏ nói chuyện với nhau. Họ chờ đợi và lo sợ đến tiều tụy xanh xao. Vì mãi đến 4 giờ tối, 5 giờ tối vẩn chưa thấy ông Cụ trở vể. Trời gần sập tối, mọi người mướt mồ hôi lo sợ thì đến 6 giờ hơn ông Cụ Diệm và ông Nhu lủi thủi từ trong rừng đi ra. Mọi người đều im lặng không một tiếng nói. Tất cả đều nhanh chóng ra về, và đưa ông Cụ thẳng lên tàu bay chờ sẵn về thủ đô Sài Gòn. Ba tôi kết luận: "Rõ ràng đây là ông Cụ thực hiện lời ông Cụ đã nói với tui nhiều lần, thà chịu nhục với anh em, còn hơn nhục với ngoại bang. Rõ ràng là ông Cụ đi nói chuyện với CSBV và với Mặt Trận giải Phóng miền Nam, chưa biết ra răng đây." Sau đó, ba tôi được ông Cụ gọi về Sài Gòn ba tôi mới được biết hôm đó ông Cụ Diêm và ông Nhu gặp đại diện đảng CSBV và đại diện MTGPMN nói chuyện, hai bên thỏa thuận nhiều điểm. Vì CSBV cũng rất ngại Mỹ thả bom BV. Đó là lần độc nhất Cụ Diệm gặp gở phe bên kia không công khai, qua mặt Mỹ. Ông Cụ cũng cho hay Mỹ tỏ thái độ lạnh lùng, không bằng lòng quyết định của ông Cụ và ông Nhu." Đây là lần gặp gở đầu tiên đích thân Cụ Diệm đi gặp mà tôi biết rõ ràng và là nhân chứng. Rất nhiều vị sĩ quan QLVNCH có mặt trong buổi hôm ấy, nay hẳn còn sống và nhớ rõ về buổi đi săn và ngày tháng năm. Việc ra đi đối thoại với CSBV như vậy rõ ràng Cụ Diệm thực hành lời Cụ đã nói: "Thà chịu nhục với anh em còn hơn chịu nhục với ngoại bang". Sau đó còn vài cuộc gặp gở khác ở Di Linh v.v... Cụ Diệm không đi gặp ai nữa. Coi như có sự đồng thuận giữa hai bên, đặt biệt là giữa TT Ngô Đình Diệm và chủ tịch Hồ Chí Minh. Vào dịp Tết đầu năm 1963 cụ Hồ Chí Minh gởi tặng Cụ Diệm 2 cành đào kèm theo môt bức thư đã công khai việc giao hòa với nhau. Tôi còn nhớ trong bức thơ cụ Hồ viết:"…Liên Bang Việt Nam gồm 2 miền. Miền nào theo đường lối chủ thuyết xã hội của đường ấy. Mục đích là chúng ta phải sống ḥa b́nh lo phát triển đất nước làm cho dân no ấm, đất nước thịnh vượng …." Đó chính là nguyên nhân chính yếu làm Hoa Kỳ mắc cở mà ra tay giết hại ba anh em TT Ngô Đình Diện, để sau đó Mỹ lại theo đường lối của Cụ Diệm nhưng với tư thế vô cùng nhục nhả cho Mỹ và VNCH. Như vậy từ năm 1963 là thời chế độ CSBV còn ác liệt, mà TT Ngô Đình Diệm đã quyết tâm giao hòa với CSBV, ngày nay qua bao nhieu đổi mới, tại sao chúng ta còn dám nói giải hòa với CSVN là tự sát. Phải chăng trí óc chúng ta còn hủ lậu quá chăng ? Tài năng chúng ta yếu kém quá chăng ? Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh” 2008/9/26 Dr Nguyen Thi Thanh <docteurthanh07@sympatico.ca> THƯA TOÀN THỂ QUÝ VỊ THƯA ÔNG LÊ XUÂN NHUẬN Thường tôi bỏ gần hết Email trên net, trừ bài nào hay thì xem qua. Tôi cám ơn ông Nhuận có ý kiến về bài của tôi. Nhưng ông hiểu lầm. Tôi sẽ phản bác bài Đức Mẹ La Vang của ông. Tôi đã có lời kêu gọi quí vị quân cán chính nhớ gì thì giúp, tôi cám ơn. Và đây tôi chỉ trình bày 3 điểm chính trong bài của ông: I- Vấn đề Quân đội: a- Mỹ lập quân đội Fulro : Vào những mùa hẻ các năm 60, 61, 62 là sinh viên đi học nước ngoài, nhưng mạ tôi đau nặng đòi có mặt tôi bên cạnh mới mau lành, tôi được hưởng những mùa hè ở Ban Mê Thuộc. Câu chuyện Mỹ lập quân đội Fulro một cách khái quát là sự thật cho 1 người SV, còn nội bộ tổ chức chỉ người trong cuộc như anh Nhuận mới rõ. Bài nầy tôi chỉ phớt qua chuyện Fulro chứ đâu phải là 1 đề tài mà cần đi sâu. Vậy chuyện Mỹ lập quân đội Fulro là điều tôi nói không sai. Ngày Mỹ bàn giao quân đội Fulro xẩy ra trên BMT, ba tôi lo tổ chức với 2 vị là tỉnh trưởng và ông Tướng Quân khu BMT. Y kiến tôi nghe từ ba tôi như sau: "Ông Nhu cứng thật (vì ông Nhu thay Cụ Diệm nhận bàn giao), ông thuyết trình nẩy lửa trước mặt tướng tá Mỹ. Ông kêu gọi Fulro là "chúng ta là dân nước VN, có bổn phận bảo vệ đất nước... Hởi Quân lực Fulro hãy hướng vể Sài Gòn (ông hét lên chỉ tay về Sài Gòn) chứ không hướng về Washington !!!...". Ít lâu sau tôi nghe Fulro không bằng lòng lảnh lương ít ỏi, ăn mặc áo quần, quân trang quân dụng như quân đội Việt Nam. Ông Nhuận là sĩ quan trong cuộc nói rõ chi tiết là điều tốt. b- Vụ Quân cán chính đi săn tụ lại trước Tòa Tỉnh mà tôi đứng trên lầu hảng SCIB làm sao biết hết? Những điều tôi biết là do tôi và cả gia đình. Nhưng trong chuyện nầy đó là một cái khung nhỏ để kể lại cho có đầu đuôi thôi, nó không phải là vấn đề quan trọng, nên qua loa là đủ. Hơi đâu anh Nhuận bắt bẻ những chi ểu vô ích, nó đâu phải là vấn đề có tầm liên quan thiết yếu trong bài. Nếu tôi viết kỷ như ý anh thì thành ra lạc đề, mà rồi nó thành tiểu thuyết. II- Việc hai anh em Cụ Diệm có lên Ban Mê Thuột đi săn không ? a- Vì những người gặp Cụ Diệm trong rừng là CSBV nên họ là nhân chứng. Phim của CSVN với mục đích bôi nhọ danh dự một tổng thống: "Trong cuốn phim được kể lại đời sống Cụ Diệm họ đã nói chuyện hai anh em TT Diệm vào rừng BAMT với mục đích hòa giải với quân Fulro." Câu nói tuy xuyên tạc nhưng rõ ràng CSVN nhìn nhận TT Diệm và ông Cố vấn Nhu có vào rừng BMT. Dầu Cụ Diệm có vào rừng gặp CSBV và MTGPMN thì vẫn là vấn đề danh dự cho phe CSBV bầy giờ. Các nhà đạo diễn VN thích xuyên tạc để bôi nhọ anh em Cụ Diệm: Một vị nguyên thủ quốc gia mạo hiểm vào rừng gặp bọn lính thiểu số! Cứ liệu cho thấy anh em Cụ Diệm đã vào rừng BMT, đó là sự thật. Phim VN thường lấy bộ sườn là sự thật còn chi tiết hư cấu thật xấu để mạ lỵ kẻ thù xưa là thường. b- Hai anh em Cụ Diệm có tổ chức đi săn không ? Những chi tiết trong cuộc đi săn của ông Cụ Diệm và ông Nhu là một sự thật như sự tồn tại của chính con người tôi đang viết những dòng nầy. Tôi xác quyết đó là sự thật, vì sự hiện diện của chính tôi là một SV Y khoa năm thứ tư. Mỗi lần có Cụ Diệm lên Ban Mê Thuột là cả CQ BMT chộn rộn, trong đó ba tôi giữ một vai quan trọng dầu ba tôi chỉ là dân biểu nhưng là đàn em thân tín của cụ lo về dinh điền và quản lý rừng cấm. Bây giờ tôi hoàn toàn sống lại với giờ phút lịch sử nói trên. Trí óc tôi rất sáng suốt trong từng câu nói và từng vấn đề. Qua Canada tôi còn gặp nhiều người biết về liên hệ giữa ba tôi với Cụ Diệm và Cậu Cẩn kể lại cho tôi nghe thêm nhiều việc lạ nữa, tôi vô cùng biết ơn. Câu trả lời hai anh em Cụ Diệm có lên BMT nói là đi săn không ? Có thật. c- Cụ Diệm vào rừng mặc bộ đồ Tussor. Đồ Tussor may bằng tơ tằm thô, bền dai không nhăn, khó dơ, Người Miền Trung mặc nó vào dịp đi chơi tầm thường chứ chẳng quí báu gì. Tôi mặc một chiếc áo dài tơ tằm đi học hằng ngày có chi là quí giá, đó là hàng nội hóa rẻ tiền. Khi tôi xin ba tôi đi săn tôi biết ba tôi tìm cớ không cho vì nhiều lý do: Không muốn con gái lợi dụng cha. Không muốn con gái giao thiệp với đoàn người hộ tống Cụ Diệm, không muốn có việc rắc rối chỉ vì con gái của dân biểu, không muốn mọi dị nghị, sợ gặp nguy hiểm vv… d- Hai anh em Cụ Diệm có dắt nhau mạo hiểm và rừng không? Thưa có thật. Trước những lời kể lại tường tận của ba tôi thì tôi coi như chính bản thân tôi trông thấy, tôi tin lời ba tôi hoàn toàn. Nhất là khi ba tôi kể nỗi lo lắng toát mồ hôi, tê cứng người của quân cán chính theo bảo vệ. Ba tôi còn nói suốt nhiều giờ đồng hồ mọi người như đứng tim, ngơ ngẩn trong rừng không biết câu chuyện lành dữ thế nào, đến nổi ba tôi chỉ biết kêu cấp cứu 3 chữ luôn miệng " Giêsu Maria Giuse" chứ không cầu nguyện gì nổi. Thật ra Cụ Diệm khi báo tin lên là đi săn như có ý dấu, nhưng thật tình Cụ không dấu khi ăn mặc bình thường, và khi cùng ông Nhu dắt nhau vào rừng không cho Quân đội bảo vệ. Ngoài người cha mà tôi tin vững vàng 100%, còn thêm một người thầy nhân chứng quan trọng, đó là Phó tỉnh trưởng Nguyễn Đãi là thầy giáo dạy tôi tại trường nữ trung học Đồng Khánh Huế. Câu nói mà Ông Cụ nói với ba tôi :"Thà nhục với anh em còn hơn nhục với ngoại bang." Đó là câu nói Ông Cụ thốt ra không phải một lần. Đó là một sự thật, vụ đi săn BMT có lẻ là một vụ kết thúc chính cuối cùng, tuy rằng sau nầy còn vài lần gặp gở nhưng ông Cụ không đi nữa. Chúng ta nhớ lại lúc mới 23 tuổi, làm thượng thư bộ lại (như thủ tướng) của vua Bảo đại, chỉ bất bằng với Tây là Cụ Diệm cổi áo ra đi. Nay chính vua Bảo Đại buộc Cụ thề trước tượng Thánh Giá lo cho dất nước, Cụ lãnh trách nhiệm lớn cho quốc gia. Thành cụ dứt khoát không chịu làm TT bù nhìn của Mỹ. Luôn tiện ở đây tôi xin kể 2 câu chuyện nhỏ. Chuyện căn phòng ngủ của cụ Diệm. Ba tôi vân vào phòng nói chuyện riêng với Cụ. Ba tôi kể: "Cụ ngủ trên bộ ghế ngựa nguyên tấm, rộng, đẹp (ván dày). Trong phòng có 1 bàn viết cũng dùng làm bàn ăn và độc một chiếc ghế. Đến giờ ăn một thanh niên vào trãi khăng bàn và dọn cho cụ một mâm cơm đơn sơ. Trên cao bức tường sát bộ ghế ngựa có viết câu sau: " Xin Chúa cho con đem hết lòng trí, tình yêu, sức lực lo cho dân cho nước, nếu con không làm tròn bổn phận thì xin cho con lấy cái chết đền tội". Câu chuyện thứ hai là việc Cụ Diệm có phản vua Bảo Đai không? Nguyên khi người Pháp thấy Cụ Diệm chống Pháp, tịch thu hết mọi cơ sở của Pháp, người Pháp xúi vua Bảo Đại lật cụ Diệm đưa ông Hinh hay ai đó lên thay. Cái chủ tâm đê hèn mọi người và vua Bảo đại đều biết. Phải nghe lời Pháp, Bảo Đại kêu Cụ Diệm qua Pháp để truất phế. Dù biết rõ như vậy, Cụ Diệm vẫn tuân lệnh ra đi. Cả một chính phủ ra sức ngăn cản Cụ vẫn một mực quyết định ra đi. Hoảng quá người ta báo cho dân Bắc kỳ di cư lên Tân Sơn Nhất ngăn chận. Mọi người báo tin cho Cụ hay Tân Sơn Nhất nghẹt cứng BKDC không còn lối đi. Cụ lên họ sẽ bắt cụ lại. Do đó Cụ Diệm không đi Pháp được. Bảo Đại tiếp tục ra lệnh phải qua nhiều lần, dân chúng và chính phủ quyết giữa lại. Do đó qua năm 1955 mới có cuộc bầu cử lựa chọn vua Bảo Đại hay Cụ Ngô Đình Diệm. Chứ thật tình Cụ Diệm là người thánh thiện không hề có tâm phản Bảo Đại mà Bảo Đại cũng chẳng muốn truất phế Cụ Diệm, chỉ có bọn Tây thực dân là điếm đàng. Để kết luận: Giữa lời chứng của ông Nhuận, và lời chứng rành rành của ba tôi cùng sự giám định hoàn cảnh bên ngoài của cá nhân tôi thì tôi tin ai. Tôi tin ba tôi và tin tôi. Tôi không nói rằng ông Nhuận nói láo, nhưng có thể ông Nhuận gặp một công tác nào đó hay nghỉ phép nên vắng mặt hôm Ông Cụ lên BMT đi săn, vì việc nầy xẩy ra rất bất ngờ. Tôi xin khẳng định đây là một sự thật lịch sử. Tôi vẫn tìm cơ hội nói ra điều nầy từ lâu, nhưng tôi vẫn ngại có người biết rồi nói rồi, mình nói ra vô duyên, nên nay mới nói ra một sự thật lịch sử. III- Đề tài đa dạng: A- Tôi đã xin ông Nhuận toàn bộ những bài ông viết về Đức Mẹ La Vang để làm tài liệu, tôi khen là khen ông đã có công nghiên cứu chứ tôi đâu đồng ý với ông. Tôi nói là sẽ phản bác lại lý luận bài của ông khi tôi có thì giờ. Chính tôi có hẹn với ông như thế, vì bệnh hoạn mà ông quên rồi. B- Ông viết :"…một loạt các bài viết của cô về tôn-giáo (Ky-Tô-Giáo), mà thái-độ quá hăng-say của cô đã khiến ít nhất là chính một Ky-Tô-Hữu kiên-cường là cô Ngô Túy Phượng (tuyphuongngo56@yahoo.com) phải nhiều lần lên tiếng khuyên-nhắc cô …." Đó là bài về Đức Mẹ Medjugorje mà Ngô Túy Phượng phải nhiều lần lên tiếng !!! Ôi chao ! NTP là cái chi chi, có quyền gì mà lên tiếng chứ, mà nó không thích kệ xác nó; bà lớn không bằng lòng là sai lính ông kiểm điểm cấm kỵ tôi hà, hổn láo quá quắt. Các LM phải vâng lời bề trên khi làm việc gì quá đáng. Còn về Đức Mẹ Medjugorje, nhiều LM và Giáo hữu đã viết sách và dã dịch ra tiếng Việt từ trên 20 năm nay. Tôi xin kể các sách tôi biết sau: - Medjugorje: Giới thiệu Đức Mẹ Mể Du – Mẹ đến lần cuối (quyển căn bản) – Các Chứng Từ Về Mẹ - Sống Sứ Điệp của Mẹ (3 tập) – Suy niệm và sống Sứ điệp (Trọn bộ: 2001, 2002, 2003) – Đâu là sự thật Đức Mẹ hiện ra ở Mễ Du (R. Laurentin: Khảo sát mặt khoa học) – Bà là Ai (Chứng từ của ký giả Tin Lành Wayne Weible) Nxb: Giờ của Mẹ, USA, www.Memaria.org, www.Medjugorje.com – Đức Mẹ hiện ra tại Medjugorje, Nam Tư - Ơn lành Đức Mẹ tại Medjugorje, Nam Tư – Phép lạ tại Medjugorje, Nam Tư. NTP là tên không biết gì hết và không biết tôn trọng tự do ngôn luận của tôi, nhưng vì là việc nhỏ, nên tôi bỏ qua. NTP như con cóc nhỏ ngồi đáy giếng, làm tàng, làm phách tấu ta đây là CG kỳ cựu. Tôi coi NTP đáng thương hơn đáng trách và tôi tha thứ. C- Ông Nhuận viết : "… nay cô tiến sang lãnh-vực chính-trị, bắt đầu với bài TT Ngô Đình Diệm với Hòa Giải Dân Tộc, mà quan-điểm cũng khá chủ-quan của cô đã gây nên một loạt tranh-cãi gay-gắt trên nhiều diễn-đàn …." Ôi chao! Xin lỗi, đâu phải mới nay đau, ông Nhuận cũng là 'cóc ngồi đáy giếng luôn'. Ghê gớm thật! Tôi thấy ông Nhuận còn hơn Mafia ra tay trừng trị đàn em dám sai trái. Khá lắm, ráng lên em. Tôi viết về nhiều đề tài: Khoa học, đặc biệt là "Phát minh về Nguồn gốc siêu nấm của ung thư và siêu vi" với "Bằng Phát Minh Canada và Mỹ về trị liệu ung thư tận gốc bằng những thuốc chống nấm", Văn Hóa Cổ truyền, Lịch sử, Khảo Cổ, Chính trị, Tôn giáo, Đức Mẹ La Vang, Đạo Đức, Luân Lý dân tộc, Y khoa thường thức, Giao thông vận tải, Môi sinh, Tình yêu và hôn nhân, Phá Thai là Giết người, Chống Ấu Dâm, Lên án Ấu Dâm, Kế hoạch gia đình, Sinh con theo ý muốn, Thơ phú tình cảm, Thơ phú yêu nước, Vè vv…., là do sự hiểu biết và nghiên cứu đa dạng của cá nhân tôi, ông Nhuận có biết gì đâu. Mỗi đề tài đầy đủ tài liệu chứng minh và riêng biệt của nó. Không hề có sự lạm dụng từ đề tài nầy qua đề tài khác. Và đó là sự tự do của tôi. Không phe phái, đoàn thể hay cá nhân nào có quyền cấm kỵ được tôi, nói chi là ở xứ tự do mà dám ra lệnh cấm đoán ! Gan dữ á!. Ông Nhuận nói rằng: "Chính-Trị và Tôn-Giáo là hai đề-tài "cấm-kỵ" đối với một số tổ-chức và phương-tiện truyền-thông của Người Việt Hải-Ngoại hiện nay". Ủa, sao tôi phải sợ tổ chức nào hay phương tiện truyền thông vô văn hóa nào mà dám đi cấm kỵ người ta ghê tởm như rứa há ? Riêng ông Nhuận, trí óc ông nghĩ sao mà dám ra lệnh cho tôi còn hơn CA CSVN vậy. Ông tưởng tôi là ma mới ngây thơ cho ông bắt nạt há : " Chính-Trị và Tôn-Giáo là hai đề-tài "cấm-kỵ" đối với một số tổ-chức (của ông) và phương-tiện truyền-thông của Người Việt Hải-Ngoại (của ông)" sao dám mở miệng nói chữ "cấm kỵ" như vậy, chớ thì ông chỉ trích CSVN độc tài đãng trị là cái chi chi rứa. Họ còn đảng trị còn ông thì cá nhân trị. Xin lỗi ông, cho phép tôi nói nhỏ câu khó nghe nầy nhé 'trí óc ông sao hẹp hòi, nông cạn, dốt nát quá xấc láo !'. Ông muốn dùng uy dũng đàn ông để ức hiếp một người đàn bà mà ông cho là cô độc là ma mới ư ? Hảo huyền. Tôi viết về hàng mấy chục đề tài là ít. Tất cả đều nằm trong một mục đích, một tôn chỉ Yêu thương con người, yêu thương dân tộc, tung hô Tổ Quốc. Thôi nói gần nói xa chẵng qua nói thiệt. Không phải khoe khoan, hoàn cảnh bắt buộc tôi phải cho ông biết để ông hạ hỏa cái kiêu ngạo của óc nảo hẹp hòi của ông xuống. C.1-Tôi đã làm chính trị từ trẻ lúc còn là SV tại Paris để ủng hộ TT Ngô Đình Diệm. Ông muốn biết cứ hỏi những cựu SV VN vào thời 1963 tại nhà Đông Dương và tại Viện Pháp Việt thì biết. Tên thực dân Mayon bao chục năm ăn hiếp nữ SVVN tại Viện Pháp Việt đã bị tôi đánh tan óc thực dân của ông ta. Tôi một mình, đơn thương độc mã cực kỳ chống lại cựu LM Nguyễn Ngọc Lan và nhóm sinh viên CG của NGL quấy phá chế độ của TT Ngô đình Diệm đến độ chúng gọi tôi là Diemiste. C.2- Lúc tôi đang làm GS Sinh Lý học tại đai học Moncton, Moncton, New Brunwick Canada thì được mời về nước làm việc, tôi bỏ dạy học với lương cao, để nhận lời về VN làm Phụ tá Tổng trưởng Trần Lữ Y, trông coi nguyên bộ Xã Hội và Cứu trợ với lương chết đói năm 1968. Tôi làm chính trị, tôi chống tham những ầm ầm trong bộ Xã hôi và Cứu trợ đến độ BT. Trần Lữ Y phải ôm đầu khóc. C.3- Tôi đã coi nhẹ Y khoa hơn chánh trị rồi đó. Y khoa trị được vài ngàn người, chính trị cứu Tổ quốc và toàn dân. Nhưng chính trị của tôi là chính trị đạo đức: Đó chính là cao vọng của đời tôi. Nhưng khổ nổi là tôi sinh bất phùng thời đành chịu. C.4- Tháng 1/1973, TT Trần Thiện Khiêm mời tôi làm Thủ lãnh 11 triệu Phụ nữ Nhân Dân Tự Vệ với 'Carte blanche" ông TT Khiêm giao mọi thẩm quyền cho tôi. Tôi chẳng những làm chính trị mà còn bị kéo vào quân sự. Tôi nhận lời. C.5- Năm 1974, tôi đã từng viết bài Cáo Trạng Số 1 chống Thiệu tham những, và bị nó bao vây nhà, nhưng tôi trốn thoát cho đến lúc Thiệu từ chức. C.6- Ngay khi tôi thuyết trình trong Đại Chủng Viện Thánh Giuse tại đường Cường Để về Kế hoạch hóa gia đình theo đường lối CG 'Cấm kỵ phá thai, cấm kỵ đặt vòng xoắn' trước mặc 400 LM địa phận Sài Gòn và trước mặt ký giả Du Miên báo Trắng Đen mà tôi cố tình đem theo vào. Tôi muốn làm gì tôi có chân lý để làm. Chính ký giả Du miên báo Trắng Đen của Sài gòn VNCH ngày nay đang sống ở Cali. làm chứng là tôi đã lên tiếng trách cứ mạnh mẽ đời sống không trong sạch của một số LM làm gương xấu cho giáo dân. Du Miên đã theo tôi nhiều phen để kiếm tin tức sốt dẻo và hấp dẫn cho báo Trắng Đen. C.7- Dưới thời VNCH tôi cũng đã viết và đăng báo nhiều, tôi chưa nghe ai khuyên tôi làm theo họ được. Ngay các LM tôi cũng chống đời sống sa đọa của họ và tôi bút chiến với 1 ông LM nhiều tháng trên các báo Sài Gòn vào năm 1974 về đời sống sa đọa của hàng ngủ LM. C.8- Việc viết "Cáo trạng số 1" chống TT Thiệu, cũng chính tôi viết và tìm chứng cứ với các đồng chí và LM Thanh đã tung ra từ trường Việt Hương Huế. Sau mới đăng các báo Sài Gòn. Các nhà báo đều bị đóng cửa và bị bắt (VNCH có tự do ngôn luận đó !!). Chính chúng tôi đã tổ chức biểu tình trước Tòa Án Sài Gòn nhận mình là tác giả Cáo Trạng Số 1 để xin vào tù thay cho các ký giả. Sau đó PTNDCTN bị bắt gần hết. C.9- Chính tôi đã đi thuyết trình cùng LM Thanh và nhiều người khác tại Nhà Thờ Tân Sa Châu: Công an của VNCH đã đánh LM Trần Hữu Thanh ngã giữa đường bể mắt kính (có dã man không!) Tôi mau chân khi bước xuống diễn đàn thay áo rồi ra xe về nhà ngay. Một Sĩ quan lên phát biểu cũng bị bắt. LS Phạm Nam Sách chỉ đến dự cũng bị bắt và nhiều người khác bị bắt. Cha Thanh khuyên tôi tránh đi. Mặc dầu vậy chúng tôi vẫn trở về họp tại Trụ sở là nhà Thờ Tân Chí Linh. C.10- Dưới thời XHCHVN, tôi cũng đã viết 6 bài tố cáo tham nhũng về thuốc men, gạo, xăng, thực phẩm vv... tại những nơi tôi làm việc từ tháng 9/1975 đến 30/8/1980 thì tôi bị bắt giam tại Chí hòa. C.11- Nay tôi ở xứ tự do, tôi đưa lên DĐ tự do bài viết tự do của tôi. Có ai có cái quyền chi khuyến nhắc tôi. Họ có ý kiến của họ, tôi có ý kiến của cá nhân tôi và hành ðộng theo ý tôi. C.12- Ra tù Chí hòa là tôi đi Canada với giấy tờ có sẵn. Tới Montreal 1990. Qua năm 1991, tôi qua Houston thuyết trình cho 41 nhà lãnh đạo các đảng phái, hội đoàn, tôn giáo vv.... về " Đường Lối Nhu Thuận (Đại đoàn kết dân tộc)Để Chấn Hưng Đất Nước VN Băng Hoại Từ Tay CSVN". Các nhà lãnh đạo đi nghe tôi thuyết trình đều đồng thuận. Nhiều người biết chuyện, nhất là nhóm Matthew Trần lấy cớ đó chụp mủ tôi và em Diễn tôi là CS làm nó đâm ra lo sợ mang tiếng. Bằng chứng tôi vẫn còn. Nếu ông muốn tôi sẽ đưa tất cả tài liệu đó lên DĐ. Nhiều quá, ai mà đọc chuyện từ 17 năm về trước chi cho mệt. Hôm nay tôi đưa một chút xíu cứ liệu đính kèm theo đây về việc tôi thuyết trình kêu gọi Đại Đoàn kết dân tộc tại Houston 17 năm trước (nó có nghĩa như là Hòa Hợp Hòa Giải đó, nhưng tôi không thích dùng mấy chữ HH HG làm tôi và nhiều người bị dị ứng). C.13- Vậy là ông có thấy tôi thẳng thừng làm chính trị không? Tôi làm chính trị đạo đức vì tôi yêu mến Chúa, vì tôi yêu mến đồng bào tôi, vì tôi càng tha thiết với Đức Tin của tôi. Nay thời thế thay đổi, nhiều thuận lợi hơn 17 năm trước, nhưng tôi lớn tuổi nên hết có ý nghĩ làm chính trị. Nhưng lại thấy TC xâm chiếm đất đai biển cả quần đảo của VN, tôi đã đau khổ rồi, nay lại thấy TC muốn thôn tính cả nước VN, tôi hốt hoảng nêu lại vấn đề Đại đoàn kết dân tộc dưới chiêu bài mới là giải hòa đễ cứu nước khỏi xâm lăng giặc Tàu phù. Nói trắng ra là tôi chủ trương hòa hợp hòa giải thật sự đó. Đó là quyền tự do của tôi, là chân lý sống trong hoàn cảnh thiên thời địa lợi nhân hòa hiện tại của tôi. Trường hợp có người cùng quan điểm thì tôi xin đóng góp. Ai không cùng quan điểm thì thôi. C.14- Nếu người VNHN đã cùng tôi làm được nên Đại đoàn kết dân tộc từ trước thì chắc chắn không có vụ Tòa Khâm sứ và DCCT-GX Thái Hà. Vì như tôi đã từng nói, chưởi bới người ta thì người ta chơi lại. Nhưng trong cái rủi chắc chắn sẽ có cái may cho GHCG, tôi xác tín như vậy. C.15- Vì ông Nhuận độc đoán coi ông là trời con của các DĐ. Tôi biết rõ thâm tâm ông ganh tị với tôi quá quắt, ông đừng quên tôi là hậu duệ của Trưng Vương, Triệu Soái nghe. Ông tưởng ra oai như với lính của ông khi trước là tôi vặn lưng ông há ? C.16- Ông nghĩ chỉ có ông làm chủ các quyền tự do ngôn luận trên DĐ trong xứ tự do khi ông di tản qua đây hí. Ông không muốn người khác nói và làm những gì không cùng ý kiến của ông hí. Ông không thấy đó là vi phạm tự do và nhân quyền người khác hí. Có thể bị kiện ra tòa ông biết không? Tôi đã có mặt trên đất Pháp từ năm 1959 và tại Canada 1967. C.17- Tôi yêu cầu ông để yên tôi với tự do ngôn luận về Tôn giáo, Y học, Chính Trị vv.... của tôi, tôi không thuê ông làm 'thầy đời' mệt!. Nếu tôi nói điều gì sai thì ông cứ phản bác, đó là điều tôi mong mỏi, và hết lòng biết ơn. Nếu ông nghi ngờ lời gì tôi nói, ông cứ buộc tôi đưa ra bằng chứng và nhân chứng (đừng để lâu, người ta bị lú lẩn vì bệnh mà quên, hay chết hết), tôi sẵn sàng. C.18- Tôi đề nghị ông gôi tôi bằng chị tôi gọi ông bằng anh cho công bằng. Hoặc tôi gọi ông bằng ông thì ông gọi tôi bằng bà, chứ tôi không phải là em ông cũng không phài là Mademoiselle. C.19- Cuối cùng, tôi xin thưa với ông là những điều tôi đưa ra trên là để các ông và bọn 'lau nhau lẩu chẩu' đừng lải nhải kiếm cớ khích bác thô bỉ tục tỉu xúc phạm danh dự một người ĐÀN BÀ là tôi. Nếu người ta xúc phạm tôi, chút đỉnh cho vui tôi còn trã lời, quá quắt tục tỉu thì tôi xa lánh vì khinh bỉ và ghê tởm DĐ thôi. Trân trọng kính chào ông Ts. Bs. NguyễnThị Thanh Trả Lời bà Nguyễn Thị Thanh Kính gửi bà Nguyễn Thị Thanh, Tôi xin tóm-tắt trả lời bài viết của bà (Date: Thursday, September 25, 2008, 3:47 AM) như sau. A- Về hình-thức: 1/ Bà Nguyễn Thị Thanh thiếu tỉnh-táo: Sở dĩ tôi viết “Chính-Trị và Tôn-Giáo là hai đề-tài “cấm-kỵ” đối với một số tổ-chức và phương-tiện truyền-thông của Người Việt Hải-Ngoại hiện nay” là vì: nói chung, có một số diễn-đàn đã ân-cần nhắc-nhở thành-viên tránh đề-cập đến hai lãnh-vực ấy, và, nói riêng, tôi thấy sau khi bà phổ-biến một số bài viết về tôn-giáo rồi về chính-trị thì có nhiều vị đã lên tiếng kịch-liệt phản-bác bà, và bà cũng đã gay-gắt trả lời. Cho nên, khi tôi bắt đầu góp ý với bà thì tôi viết lên câu đó, để vừa “thông cảm” với bà, vừa tự “trấn an” chính mình (và quả là tôi viết đúng). Có thể nói là, với câu viết đó, tôi có “thiện cảm” với bà, thay vì ác-cảm như bà đã nghĩ. Thế mà bà viết: “Ôi chao! Ghê gớm thật! Tôi thấy ông Nhuận còn hơn Mafia ra tay trừng trị đàn em dám sai trái.”, “Riêng ông Nhuận, trí óc ông nghĩ sao mà dám ra lệnh cho tôi còn hơn CA CSVN vậy” và “Tôi yêu cầu ông để yên tôi với tự do ngôn luận về Tôn giáo, Y học, Chính Trị vv.... của tôi, tôi không thuê ông làm 'thầy đời' mệt!. Nếu tôi nói điều gì sai thì ông cứ phản bác, đó là điều tôi mong mỏi, và hết lòng biết ơn.” Tôi không hề không “để yên” bà “với tự do ngôn luận về Tôn giáo,... Chính Trị... của” bà, mà tôi chỉ “phản bác” những “điều gì sai” trong bài viết của bà mà thôi; Bà lại viết “Cuối cùng, tôi xin thưa vối ông là những điều tôi đưa ra trên là để các ông và bọn 'lau nhau lẩu chẩu' đừng lải nhải kiếm cớ khích bác thô bỉ tục tỉuxúc phạm danh dự một người ĐÀN BÀ là tôi.” Bà thấy là tôi không hề góp thêm ý-kiến (reply) hay là phổ-biến (forward) các bài viết của các vị khác liên-quan đến bà, tức là tôi đứng một mình, một mình góp ý với bà, và tôi toàn dùng lời-lẽ nhã-nhặn; bà đọc lại bài viết của tôi thì sẽ thấy rõ. Thế mà bà lại viết như trên để trả lời riêng tôi thì quả là bà đã thiếu tỉnh-táo. Vậy tôi đề-nghị bà hãy tỉnh-táo nếu muốn tiếp-tục thảo-luận với tôi. B- Về Nội-Dung: 2/ Mỹ không “bàn giao quân đội Fulro” (cho VNCH) tại Ban Mê Thuột. Bà Nguyễn Thị Thanh viết: “Ngày Mỹ bàn giao quân đội Fulro xẩy ra trên BMT, ba tôi có nhiệm vụ trong biệc tổ chức với 2 vị là tỉnh trưởng và ông Tướng của Quân khu BMT”. Ý-Kiến của Lê Xuân Nhuận: 21. Về vụ “Fulro” nổi loạn tại Trại Sarpa năm 1964 thì tôi đã có đề-cập trong “thư số 1”, ở chỗ nối kết “Fulro nổi loạn” rồi. 22. Về việc “Mỹ bàn giao quân đội Fulro (tại Ban Mê Thuột)” thì tôi là một nhân-chứng, với vai trò tích-cực trong đó. Đại-ý: 221. Mỹ chỉ là “tác-giả” tổ-chức Dân Sự Chiến-Đấu (CIDG). Nếu nói trắng-trợn, là “Who pays governs” (người trả tiền, là người chỉ-huy), thì Mỹ chi tiền cho DSCĐ (vì do sĩ-quan Lực-Lượng Đặc-Biệt Mỹ làm cố-vấn nên DSCĐ gốc Thượng cũng được gọi là LLĐB). Còn “Fulro” thì là tổ-chức của một số người Thượng “đòi tự-trị (không ở dưới quyền người Kinh)” do các phần-tử dân-sự “thượng-lưu” lớn tuổi gốc Thượng cầm đầu và khích-động một số phần-tử “trung và hạ-lưu” trẻ tuổi gốc Thượng trong các trại DSCĐ hay LLĐB (trong đó họ được Mỹ vũ-trang), xúi họ nổi loạn xong chạy trốn vào rừng. Cho nên Mỹ chỉ vô-tình chỉ-huy các phần-tử DSCĐ hay LLĐB gốc Thượng vốn trong một giai-đoạn nào đó đã bị “Fulro” bí-mật móc nối và đang còn ở trong các Trại, chứ Mỹ không chỉ-huy “Fulro” (nhất là các phần-tử đã nổi loạn chạy trốn vào rừng theo “Fulro” rồi); cho nên Mỹ không có tư-cách gì để “bàn giao” “quân đội Fulro”. 222. Sau vụ Sarpa năm 1964, đến năm 1967 thì Chính-Quyền VNCH đã thành-công trong việc kêu gọi các lãnh-tụ “Fulro” đưa các phần-tử cựu DSCĐ/LLĐB còn trốn trong rừng, cùng với các phần-tử thuần-túy “Fulro” lâu nay ở trong rừng (riêng ở Tỉnh Darlac là trên 2,000 người), về “hồi-chánh”. 223. Trong buổi lễ trình-diện 2,000 phần-tử “Fulro” về “hồi chánh” này, diễn ra tại Ban Mê Thuột, viên đại-diện của Y Bham (lãnh-tụ “Fulro”) là người đứng ra bàn giao; BTL Quân Đoàn II và Vùng II Chiến-Thuật (Tư-Lệnh là trung-tướng Vĩnh Lộc) cùng Chính-Quyền Tỉnh Darlac (Tinh-Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng là đại-tá Nguyễn Văn Thành) đứng ra tiếp-nhận; và sau đó là phía Việt Nam chuyển-giao cho Ban Chỉ-Huy Lực-Lượng Đặc-Biệt Hoa-Kỳ (cố-vấn DSCĐ tức LLĐB gốc Thượng) nhận đưa về lại các Trại những ai còn muốn phục-vụ trong đó (ngoại-trừ một số xin trở về Buôn, một số xin nhập QLVNCH). Như thế, các sĩ-quan LLĐB Mỹ có mặt trong buổi lễ là với tư-cách tiếp-nhận chứ không phải “bàn-giao”. 23. Muốn biết rõ hơn về nguyên-nhân ra đời của “Fulro”, cách đối-phó của Chính-Quyền VNCH (ưu hay khuyết), v.v..., xin bấm nút nối kết “Fulro Hồi-Chánh” hoặc xem bạch-văn ở cuối bài này (trích trong cuốn hồi-kư của tôi nhan để “Cảnh-Sát-Hóa: Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hòa” do Xây-Dựng xuất-bản năm 2002). 3/ TT Ngô Đình Diệm Không hề “Vào Rừng Hòa Giải Bà Nguyễn Thị Thanh viết: “Trong cuốn phim được kể lại đời sống Cụ Diệm họ đã nói chuyện hai anh em TT Diệm vào rừng với mục đích hòa giải với quân Fulro.” Câu nói tuy xuyên tạc nhưng rõ ràng CSVN vẫn nhìn nhận TT Diệm và ông Cố vấn Nhu có vào rừng BMT”. Ý-Kiến của Lê Xuân Nhuận: 31. Sau đây là phương-thức của (Chính-Quyền) TT Diệm đối-phó với “Fulro”: 311. Từ sau khi Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm truất-phế Cựu-Hoàng Bảo-Đại, vùng đất Cao Nguyên mà dưới thời Hoàng-Đế Bảo Đại là “Hoàng Triều Cương Thổ” đã được sáp-nhập vào lãnh-thổ Việt-Nam Cộng-Hòa. Do đó, các sắc-tộc Thượng cảm thấy bị mất “sông núi” của mình, nên một số phần-tử Thượng trước kia là công-chức, sĩ-quan, nghiệp-chủ dưới thời Pháp lẫn dưới thời Bảo Đại, ở khắp Miền Nam, đã đứng lên công-khai hoặc ngấm-ngầm chống-đối người Kinh, thực ra là chống-đối chế-độ Ngô Đình Diệm. 312. Chính-Quyền TT Diệm đã tóm bắt hầu hết các kẻ cầm đầu mưu-đồ nói trên, gọi chung là “Phong Trào Thượng Tự Trị”, và đưa ra tập-trung học-tập trong một khu trại bên bờ sông An Cựu tại Huế. Sau đó họ đã lần-lượt được trả tự-do, cho trở về nhiệm-sở cũ, hoặc trả về nguyên-quán để chịu biện-pháp khác. Thời-gian 1954-1956, tôi làm Trưởng Đài Phát-Thanh “Tiếng Nói Quân-Đội tại Miền Trung”, có thời-gian đặt một trụ-sở cạnh cầu Tiệm Rượu (Phủ Cam), gần đó, nên đã có thấy và biết về khu trại ấy. 313. Nhóm cầm đầu “Thượng Tự Trị” bị tập-trung học-tập này gồm có cả người ở một số Tỉnh nằm ngoài Cao Nguyên, thí-dụ Tỉnh Quảng-Ngãi (mà một phần-tử là Đinh Ngô, trước cuộc Cách Mạng 1-11-1963 đã là thiếu-tá QĐVNCH, sau này là một bạn thân của tôi – xem “Đinh Ngô”). 32. Cho nên không hề có việc TT Ngô Đình Diệm “Vào Rừng Hòa Giải Với Quân Fulro”. Nếu xem việc làm của TT Diệm là “hòa giải” thì: a) Trước năm 1963 danh-xưng “Fulro” chưa được phổ-biến, Chính-Quyền chưa ghi nhận như là một tổ-chức (Front= Mặt Trận), mà chỉ gọi chung là “Phong Trào Thượng (Đòi) Tự Trị” cho nên không có hòa giải với “Fulro”. b) Hồi đó, người Thượng liên-hệ chỉ có cung+tên, dao, giáo, mác; ai thủ-đắc súng (kể cả người Kinh) bất-hợp-pháp đều bị tử-hình; cho nên chưa có “Quân Fulro”. c) Việc tóm bắt các phần-tử ấy thì chỉ do nhân-viên Công-An cấp Tỉnh và cấp Quận thi-hành, chứ không cần đến Tỉnh-Trưởng, nói chi Quốc-Trưởng (Tổng-Thống). 4/ Ông Ngô Đình Nhu Không Phát-Biểu Gì Cả trong Buổi Lễ “Bàn Giao” kể trên. Bà Nguyễn Thị Thanh viết: “ý kiến tôi nghe từ ba tôi là như sau: Ba tôi nói mạnh mẽ: “Ông Nhu cứng thật (vì ong Nhu thay Cụ Diệm nhận bàn giao), ông thuyết trình nẩy lửa trước mặt tướng tá Mỹ. Ông kêu gôi Fulro là chúng ta là dân nước VN, có bổn phận bảo vệ đ61t nước…. Hởi Quân lực Fulro hãy hướng vể Sài Gòn (ông hét lên chỉ tay về Sài Gòn) chứ không hướng về Washington !!!...” Ý-Kiến của Lê Xuân Nhuận: 41. Lễ “bàn giao” mà bà Thanh đang nói đến là lễ qui-thuận của 2,000 phần-tử Thượng tại Ban Mê Thuột, như đã kể trên. Lễ này diễn ra vào năm 1967, mà ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu thì đã cùng với TT Ngô Đình Diệm từ-trần từ năm 1963 (4 năm trước) rồi; ông Nhu đâu còn sống mà dự lễ. 42. Có thể là ông Nhu đã có phát-biểu gì đó trong một buổi lễ kết-thúc đợt tập-trung học-tập của số phần-tử Thượng “đòi Tự-Trị” ở Huế trước năm 1963. Nhưng về câu nói “chứ không hướng về Washington !!!...” thì không hợp luận-lý, bởi lẽ Mỹ đã bật đèn xanh cho TT Diệm thành-lập một chính-quyền nhất-thống, tiếp tay và yểm-trợ cho TT Diệm thanh-toán các giáo-phái, giải-tán các tổ-chức còn lại từ thời Pháp, Bảo Đại, nghĩa là Mỹ chống “Hoàng Triều Cương Thồ”, Mỹ chống “Phong-Trào Thượng Tự-Trị”, Mỹ chống “Fulro”; làm sao có chuyện “Thượng Tự-Trị” hay “Fulro” “hướng về Washington” để ông Nhu “hét lên” như thế? 5/ Ông Ngô Đình Diệm Không Làm Thượng Thư vào năm 23 tuổi. Bà Nguyễn Thị Thanh viết: “Chúng ta nhờ lại lúc còn trai 23 tuổi, làm thượng thư bộ lại (như thủ tướng) của vua Bảo đại”. Ý-Kiến của Lê Xuân Nhuận: Ông Ngô Đình Diệm không làm Thượng Thư vào năm 23 tuổi. Cứ theo các tài-liệu do nhiều tác-giả hiện-đại thực-hiện thì ông Diệm (sinh năm 1901) làm Thượng Thư Bộ Lại vào năm 1933 tức 32 tuổi (xem “Thượng-Thư” để biết nhiều chi-tiết liên-quan. Kết-Luận: Tôi chỉ “ phản bác” “ điều gì sai” như bà đã viết, nhưng: 1. Tôi chỉ nói về các điểm bà đã viết ra, tức là thảo-luận về “việc” (không nhắm “hơn thua” với bà, mà chỉ nhân dịp trình-bày những gì tôi biết, để tùy mọi người đối-chiếu tìm hiểu Sự Thật Lịch-Sử. Nếu bà không đồng-ý thì thôi, bà vẫn có quyền bảo-thủ ý-kiến của bà). 2. Tôi không đả-động gì đến đời tư/con người của bà, tức là không thảo-luận về “người” (không “xúc phạm danh dự một người ĐÀN BÀ” là bà. 3. Tôi chỉ sử-dụng lời-lẽ hòa-nhã, viết ra trong lúc “tỉnh-táo” (hẳn bà đã thấy), ước mong nhận được những ý-kiến phản-hồi đúng-đắn và đứng-đắn, để học hỏi thêm. Trân-trọng kính chào bà. LÊ XUÂN NHUẬN www.Thanh-Thanh.com www.LeXuanNhuan.com Tôi xin tạm-thời góp ý với cô về 3 trong nhiều điểm chính, mà các vị khác chưa đề-cập đến, như sau: 1) MỸ LẬP QUÂN ĐỘI FULRO a/ Cô Nguyễn Thị Thanh viết: “Mỹ lấy dân tộc thiểu số Miền Cao nguyên lập quân đội Fulro, cho ăn mặt, lĩnh lương y hệt quân đội Mỹ để sinh ra một sự chia rẻ giữa quân nhân Việt và Thượng. Sau nầy khi Mỹ trao quân đội Fulro lại cho QLVNCH thì sinh lắm lôi thôi” b/ Ý-Kiến: Tôi xin trình-bày tóm-tắt: Trong cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam, song-song với Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, Hoa Kỳ đã tuyển-mộ một số thanh-niên gốc thiểu-số tại vùng Cao-Nguyên, huấn-luyện, trang-bị, tổ-chức thành các Toán CIDG (Civilian Irregular Defense Group: Toán Dân-Sự Phòng-Vệ Không Chính-Quy, được gọi là Dân-Sự Chiến-Đấu), lập trại, dựng chốt, dọc theo biên-giới Việt-Lào-Miên, cố-vấn, tiếp-vận, và yểm-trợ cho họ thám-sát và hành-quân chống sự xâm-nhập và hoạt-động của cộng-sản tại vùng rừng núi các Tỉnh & Quận thượng-du Miền Nam. Toán-viên là người Thượng, nhưng chỉ-huy là sĩ-quan người Kinh, bên cạnh có cố-vấn người Mỹ thuộc Lực-Lượng Đặc-Biẹt Hoa Kỳ (do đó, trại-viên Dân-Sự Chiến-Đấu cũng được gọi là Lực-Lượng Đặc-Biệt). Về sau, trong tình-hình mới, họ được Hoa Kỳ chuyển-giao cho Việt-Nam, và họ nhập vào Lực-Lượng Đặc-Biệt của Quân-Lực VNCH. Mọi sự trôi tròn, không có gì là “sinh lắm lôi-thôi”. Cái mà cô Nguyễn Thị Thanh gọi là “lôi thôi” là vụ Fulro. Fulro (lúc đầu là “Front Unifié de Lutte de la Race Opprimée”: Mặt Trận Thống Nhất Chiến Đấu của Sắc Dân Bị Áp Bức) là một tổ-chức của một số người Thượng gốc Édé tức Rhadé ở Tỉnh Darlac, do Y Bham cầm đầu, nhằm chống lại người Kinh (họ muốn Cao Nguyên là của người Thượng, không cho người Kinh lên đây lập-nghiệp). Về sau, một số người Thượng gốc khác ở các Tỉnh khác cũng hưởng-ứng theo, nên họ sửa câu tiếng Pháp ghi trên thành “Front Unifié de Lutte des Races Opprimées” (Mặt Trận Hợp Nhất Chiến Đấu của Các Sắc Dân Bị Áp Bức). Fulro đã khích-động một số toán-viên Dân-Sự Chiến-Đấu nổi loạn, cụ-thể là trong đêm rạng ngày 20-9-1964, lính Thượng trong trại Sarpa ở Quận Đức-Lập, Tỉnh Quảng-Đức, bất-thần nổi dậy giết hết các sĩ-quan chỉ-huy người Kinh, rồi bỏ trốn vào rừng (không phải để theo Việt-Cộng). Cùng lúc, việc ấy cũng xảy ra tại các trại Bu Prang và B. Miga thuộc Tỉnh Quảng-Đức, và trại B. Briêng thuộc Tỉnh Darlac (Xem thêm). Chính-quyền VNCH can-thiệp, cùng các cố-vấn Hoa Kỳ kêu gọi các phần-tử ấy trở về, trong một buổi lễ có đại-tướng Nguyễn Khánh (nửa Quốc-Trưởng, nửa Thủ-Tướng) từ Saigon ra chủ-tọa. Ngoài việc Tòa Án Quân-Sự, nhóm ngay ở Ban Mê Thuột, do đại-tá Nguyễn Văn Mạnh (về sau là trung-tướng Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân) làm chánh-thẩm, xét xử những kẻ chủ-mưu, chính-sách ưu-đãi đồng-bào Thượng (giảm bớt điều-kiện để học ra làm Phó Tỉnh-Trưởng, Phó Quận-Trưởng, Trưởng Ty Thượng-Vụ, Chánh Án Tòa Án Sắc-Tộc, sĩ-quan cấp úy, cấp tá, trên có Bộ-Trưởng Phát-Triển Sắc-Tộc, dưới có các cơ-sở quần-chúng, v.v...) đã giúp thỏa-mãn đa-số nguyện-vọng của đồng-bào Thượng, nên sau vụ đó th́ Fulro xem như lắng yên... Cho đến sau Tháng Tư Đen 1975 thì Fulro (có cả người Kinh tham-gia) đồng loạt nổi lên chống Cộng tại khắp các Tỉnh Tây Nguyên. Tóm lại, Hoa Kỳ không lập “quân đội Fulro” như cô Thanh viết. 2) CHUYẾN ĐI SĂN CỦA TT NGÔ ĐÌNH DIỆM TẠI BAN MÊ THUỘT a/ Cô Nguyễn Thị Thanh viết: “Ba tôi là dân biểu Ban Mê Thuộc,... đàn em thân tín của cụ Diệm, người nghĩ rằng sớm muộn Cụ Diệm sẽ bắt tay với Cụ Hồ... Một ngày kia ba tôi đi họp Sài gòn về Ban Mệ Thuộc báo tin cho mạ tôi rằng cuối tuần ông Cụ Diệm và ông Nhu sẽ lên Ban Mê Thuộc đi săn ... Tôi nghe chuyện nhà nước BMT tồ chức cho TT Diệm đi săn, thì vui thích quá... Sáng thứ bảy quảng vào mùa hè 1961 hay 1962... cả tỉnh Ban Mệ Thuôc chộn rộn dậy thật sớm. Toàn thể quân cán chính tấp nập sửa soạn, đi đón cụ Diệm và ông Nhu lúc 5 giở sáng đế cùng thẵng tiến vào rừng xanh BMT đi săn... Rồi đoàn người quân cán cính, nào xe hơi nào ngựa. Nhất là quân đội sẵn sàng bao vây tứ phía cuộc săn bảo vệ ông Cụ Diệm. Vậy là đoàn người đông đảo, tấp nập, họp lại trước tòa Tỉnh, hớn hở kéo nhau ra đi khi trời chưa hừng sàng... Rồi suốt cà ngày hôm đó gia đình ba mạ tôi và các gia đình khác chỉ điện thoại cho nhau chia sẽ lo lắng...Ba tôi cho hay đây là cuộc đi săn tráo trộn. ba tôi kể: "Một điều quá sức ngạc nhiên là đi săn mà ông Cụ và ông Nhu đều mặt đồ tây complet, cravate đàng hoàng, ông cụ măc bộ đồ tơ tằm 'Tussor', tay cầm baton. Mọi người vào rừng, lúc đầu đi xe hơi một đoạn, sau bỏ lại xe đi ngựa và đi bộ. Quân đội tỏa ra bao vây khắp nơi... Ông Cụ Diệm mặc Veste, đội mủ, tay xách baton cùng ông Nhu cuốc bộ đi sâu vào rừng... đến 6 giờ hơn ông Cụ Diệm và ông Nhu lủi thủi từ trong rừng đi ra. Mọi người đều im lặng không một tiếng nói. Tất cả đều nhanh chóng ra về, và đưa ông Cụ thẵng lên tàu bay chờ sẵn về thù đô Sài Gòn. Ba tôi kết luận: "... Rõ ràng là ông Cụ đi nói chuyện với CSBV và với Mặt Trận giải Phóng miền Nam, chua biết ra răng đây." Sau đó, ba tôi được ông Cụ gọi về Sài Gòn ba tôi mới được biết hôm đó ông Cụ Diêm và ông Nhu gặp đại diện đảng CSBV và đại diện MTGPMN nói chuyện, hai bên thỏa thuận nhiều điềm. Vì CSBV cũng rất ngại Mỹ thả bom BV. Đó là lần độc nhất Cụ Diệm gặp gở phe bên kia không công khai, qua mặt Mỹ... Đây là lần gặp gở đầu tiên đích thân Cụ Diệm đi gặp mà tôi biết rõ ràng và là nhân chứng. ...” b/ Ý-Kiến: Trong một email của cô gửi ông Hoàng Nam vào ngày Sat, 6 Sep 2008 7:15 am (Subject: [Thao Luan] TRA LOI CAU HOI CUA ANH HOANG NAM), cô viết: “tôi, tuy vẫn làm Y khoa và xã hội, vẫn không từ nan đóng góp ý kiến vào chính trị như ông Khương Thương đã 81 tuổi ngày xưa ngồi câu cá ở sông vị, rồi ra giúp nhà Châu dẹp loạn. Tôi còn thua KT hơn cả chục tuổi thì góp ý kiến cho hậu duệ đâu phải là không hữu ích.” Vậy tôi có thể đoán tuổi của cô năm nay, 2008, là vào khoảng/gần 70. Năm 2008 mà 70 tuổi thì năm 1962 (46 năm về trước) là (70-46=) 24 tuổi. Trẻ hơn nữa thì cũng vào khoảng 20, trên 18 tuổi, tức là đã thành-niên rồi. Do đó: 1- Tôi nghĩ rằng cô đã không thật-sự đích-thân thấy biết mọi điều, mà đã nghe theo người khác kể lại, và họ thêm mắm dặm muối, tiểu-thuyết-hóa, huyền-thoại-hóa, nên bài cô viết gây nhiều thắc-mắc: 1. Cô “chỉ đứng trên lầu thượng của hảng SCIB nhìn lên Tòa Tỉnh” (nhìn về hướng Tòa Hành-Chánh Tỉnh, phía bên kia đường và ở tít đằng xa), “khi trời chưa hừng sàng” mà thôi, thì làm sao mà cô thấy được “đoàn người quân cán cính, nào xe hơi nào ngựa. Nhất là quân đội sẵn sàng bao vây tứ phía cuộc săn bảo vệ ông Cụ Diệm. Vậy là đoàn người đông đảo, tấp nập, họp lại trước tòa Tỉnh, hớn hở kéo nhau ra đi khi trời chưa hừng sàng... ”? 2. Cô viết: “Mọi người vào rừng, lúc đầu đi xe hơi một đoạn, sau bỏ lại xe đi ngựa và đi bộ”. Thông-thường, người ta đã bố-trí sẵn, nơi nào phải rời xe hơi để leo lên ngựa thì cho ngựa chực tại đó, chứ đâu có bắt ngựa phải “họp lại trước tòa Tỉnh” rồi mới chạy không, theo đoàn xe hơi kéo nhau ra đi? 3. TT Diệm ở Saigon, sử-dụng phi-cơ để lên Ban Mê Thuột, phi-trình nhanh nhất cũng hơn một tiếng đồng-hồ, đáp xuống phi-trường Phụng Dực, rồi ghé Tòa Tỉnh, rồi mới “kéo nhau ra đi khi trời chưa hừng sàng”. Vậy th́ “ông Cụ” phải thức dậy, chuẩn-bị, và rời khỏi Dinh Độc-Lập từ giờ nào? Đi săn chi mà khổ rứa? 4. Nếu đi kinh lý (thăm dân cho biết sự tình) thì huy-động dân nghênh đón là chuyện dễ hiểu; đằng này đi săn mà bắt “Toàn thể quân cán chính ” BMT phải nhọc vì mình, thì có đắc-sách hay không? 5. Đi săn (dù là giả vờ) mà hai ông lại ăn mặc sang trọng như thế thì mong đánh lừa được ai? (Chính ba của cô cũng đã ngạc-nhiên cơ mà!) 6. Đi gặp đối-phương một cách lén-lút, trong rừng, thì có cần phải trưng-diện theo kiểu mà địch gọi là “phồn vinh giả tạo” hay không? 7. Không lẽ không thể vi-hành; hoặc giả du-hành bí-mật (hai ông cùng với nhân-viên an-ninh cải-trang làm người dân thường, lực-lượng bảo-vệ được lệnh ngẫu-nhiên hành-quân ở vùng liên-hệ với mục-tiêu khác mà thôi)? 8. Vào rừng gặp địch mà tự mình đi khơi-khơi, chứ không có người dẫn đường (trung-gian, giao-liên, v.v...)? 9. Ngay chính “ông Cụ” cũng đã từng bị mưu-sát, thế mà tin-tức về chuyến đi săn đã được tiết-lộ từ nhiều ngày trước (“ông Cụ” có biết bao nhiêu “đàn em thân tín” như ba của cô, kể cả điệp-viên VC Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo...), như thế có an-toàn không? 10. Đi săn (dù là giả vờ) mà khi xuống ngựa vào rừng thì không mang theo súng săn, và khi “lủi thủi từ trong rừng đi ra” lại không xách theo ít nhất là một... con thỏ, thì ai mà không thắc-mắc về cuộc đi săn (bí-mật quốc-gia)! 11. Nếu cô là phía Cộng-Sản Việt-Nam, cô sẽ ôn-hòa tiếp-xúc, thảo-luận, rồi sẽ gặp lại, bàn thêm, thư qua tin lại, mặc-cả này kia, đi từng bước một, để tiến đến chỗ hai bên công-khai hội-họp, ký-kết văn-bản, thi-hành thỏa-hiệp, tháng này năm khác, để cho Miền nào theo dường lối chủ thuyết xã hôi của đường ấy...; hay là cô sẽ chớp lấy thời-cơ ngàn năm một thuở (Quân đội đòi bao vây bảo vệ. Ông cụ dẹp hết. Ông Cụ Diệm mặc Veste, đội mủ, tay xách baton cùng ông Nhu cuốc bộ đi sâu vào rừng), mà “thịt” hai ông tức-thời, đúng với đuờng-lối (vào thời ấy đường lối CSBV rất sát máu) và chính-sách “giải phóng Miền Nam” (hai ông mà chết bất-thần lúc ấy [1961-1962] thì cả Miền Nam như rắn mất đầu, cộng-sản tiến chiếm nhanh-chóng dễ-dàng biết bao)? Vậy việc “ông Cụ” vào rừng như thế là một tính-toán khôn ngoan? Thế thì: Tôi đề-nghị cô, nếu cô chỉ viết theo lời người khác kể lại, thì nếu cô muốn kể lại chuyện này trong sách hồi-ký hay sách tự-sự gì đó của cô, thì cô nên lược bỏ các chi-tiết bịa đặt, để khỏi bị nghi là cô giả vờ viết khen nhưng thật ra thì cô có dụng-ý bôi-bác Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, nói chung là tầng-lớp lãnh-đạo Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà cô kính yêu. 2- Còn nếu quả thật những gì cô viết là đúng sự thật, thì hẳn là cô phải tự nhận-chân rằng các lãnh-đạo Đệ-Nhất Cộng-Hòa quả quá non-nớt, trong một việc lớn như vụ “đi đêm” (cuộc đi săn) kể trên, mà phạm sơ-khuyết như thế thì còn mong gì hoàn-thành các đại-sự khác? 3) TT NGÔ ĐÌNH DIỆM CÓ ĐI BAN MÊ THUỘT GẶP GỠ CSBV VÀ MTGPMN HAY KHÔNG? Đây là câu hỏi và lời giải-đáp dứt khoát cho vấn-đề “Cụ Diệm gặp gở phe bên kia không công khai” tại Buôn Mê Thuột vào năm 1992 (có đoạn cô viết là “vào mùa hè 1961 hay 1962”). Tôi xin tóm-tắt kể lại những lần Tổng-Thống Ngô Đình Diệm đến Ban Mê Thuột, như sau: Lần thứ nhất: 22-2-1957.- Khánh thành long trọng Hội Chợ Ban Mê Thuột. 8g30 T.T. Ngô Đình Diệm tới, gần đến khán đài, bị một thanh niên bắn bằng tiểu liên Mas-49 dấu dưới áo blouson. Nhưng đạn lại trúng Bộ Trưởng Cải Cách Điền Địa là ông Đỗ Văn Công; ông Công bị thương nặng ở tay và ngực. Người bắn bị bắt ngay... Thanh niên bị bắt là Hà Minh Chí, tức Phạm Ngọc Phú, đã từng làm việc ở Ty Thông Tin Tây Ninh (trích Hai Mươi Năm Qua - Việc Từng Ngày (1945-1964) của Đoàn Thêm (Xuân Thu, Saigon, 1965) trang 2 Lần thứ hai: 17-3-1961.- Đồng bào Thượng làm lễ biếu TT NDD bạch-tượng vừa bắt được tại Ban Mê Thuột (trích Hai Mươi Năm Qua - Việc Từng Ngày (1945-1964) của Đoàn Thêm (Xuân Thu, Saigon, 1965) trang 291. Trong lần thứ hai này, tôi có mặt tại chỗ. Tôi bị đày lên Cao Nguyên (vùng “nước độc và nguy-hiểm”), phụ-trách Cảnh-Sát Tư-Pháp tại Nha Cảnh-Sát Công-An Cao-Nguyên Trung-Phần trụ-sở tại Ban Mê Thuột, và ngụ tại đây từ 1960 đến 1963. Trong buổi lễ dâng bạch-tượng kể trên, toàn-thể viên-chức CSCA đều được huy-động tham-gia giữ-gìn an-ninh trật-tự, nhất là bảo-vệ cho Ngô Tổng-Thống, vì cũng tại đây “ông Cụ” đã từng bị bắn vào năm 1961. Từ phòng của tôi, có một nhân-viên người Thượng, sắc dân Édé (Rhadé), tên Y Tlung M’Lô, được chọn sung vào một toán đặc-biệt, cùng với một số quân-nhân gốc Thượng, đảm-trách công-tác bí-mật. Anh ấy kể lại với tôi: về việc làm cho bộ lông của con voi con có được màu trắng (voi trắng theo phong-tục Thượng là một biểu-tượng thiêng-liêng đem lại khương-ninh, thịnh-vượng, trường-thọ cho ai bắt đuợc và làm chủ nó) để dâng tặng Ngô Tổng-Thống, thì người khác lo; anh ấy đích-thân giữ-gìn chậu nước dùng để một viên Tù-Trưởng niên-trưởng đại-diện đồng-bào sắc-tộc rửa chân cho Ngô Tổng-Thống (để chứng-tỏ sự thần-phục và lòng trung-thành), và gài một chai nước ngọt vào trong đáy vò, gắn một cái cần vào trong chai đó, thắt mấy sợi chỉ làm dấu, để khi Tổng-Thống được mời cùng uống rượu cần theo phong-tục Thượng (mỗi vò rượu cần có nhiều cái cần, mỗi người dùng một cái cần mà hút một lần với nhau) thì dùng cái cần đã có làm dấu để hút... nước ngọt, thay vì rượu cần (mùi vị khó uống, vả lại không đuợc vệ-sinh). Lễ-đài được dựng ngay tại Ngã Năm (không xa “hảng SCIB” của thân-phụ cô). Tóm lại, TT Ngô Đình Diệm chỉ đến Ban Mê Thuột hai lần kể trên mà thôi. Tôi là nhân-chứng, chứng-nhận rằng không hề có lần nào “đích thân Cụ Diệm” lên Ban Mê Thuột để “gặp gở phe bên kia không công khai” như cô đã kể. Còn về đề-tài “từ năm 1963 là thời chế độ CSBV còn ác liệt, mà TT Ngô Đình Diệm đã quyết tâm giao hòa với CSBV, ngày nay qua bao nhieu đổi mới, tại sao chúng ta còn dám nói giài hòa với CSVN là tự sát” thì tôi sẽ xin góp ý với cô trong “thư số 2” vào đầu tháng sau. Lần nữa, xin cám ơn cô, và kính chúc cô khỏe mạnh. LÊ XUÂN NHUẬN www.Thanh-Thanh.com www.LeXuanNhuan.com KÍNH GỬI BÀ NGUYỄN THỊ THANH (thư số 2) Như tôi đã hứa với bà, hôm nay tôi xin gửi “thư số 2” đến bà, để góp ý về vấn-đề mà bà nêu lên: Năm 1962, TT NgôđìnhDiệm người chủ trương hòa giải đầu tiên với CSBV Như vậy từ năm 1963 là thời chế độ CSBV còn ác liệt, mà TT Ngô Đình Diệm đã quyết tâm giao hòa với CSBV... Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh Đây chỉ là một bài viết đã cũ, nhưng có liên-quan đến điều mà bà nêu lên, nên tôi chép lại gửi bà như một ý-kiến phản-hồi. [Nguồn: From Matthew Tran hi5forhrinvn@yahoo.com reply-to BTGVQHVN-2@yahoogroups.com date Mon, Oct 27, 2008 at 5:58 PM subject [BTGVQHVN-2] Matthew Trần góp ý ....// LeXuanNhuan: TT Diệm tiếp xúc với CSVN mailing list ]
III - NGHĨ VỀ HAI DÒNG HỌ THÔNG GIA HUẾ
Nguyễn Hạnh Hoài Vy
Hai dòng họ Nguyễn Hữu và Ngô Đình nhờ vào mối liên hệ thông
gia tôn giáo-chính trị (Nguyễn Thị Giang, con gái của Nguyễn Hữu
Bài kết hôn với Ngô Đình Khôi) đã đưa dòng họ Ngô Đình bồng bềnh
với quyền lực đến hơn nửa thế kỷ, mang một nét độc đáo vượt trội
hơn cả, bao gồm các đặc tính sau: - dòng dõi vốn xuất thân từ khố rách áo ôm, nhờ 'rửa tội' mà mấy đời con cháu no cơm ấm cật. - cung cúc phục vụ cho ngoại nhân (thế quyền lẫn giáo quyền). - tâm chất thì bán nước cầu vinh, nhưng lúc nào cũng cố mang chiếc áo quốc gia, dân tộc. - đạo đức qua bộ mặt cuồng tín tôn giáo. - cả hai đều phải "vào ra" cánh cửa các nhà tu Công giáo mà tạo quyền thế về sau. Theo "Nhân Vật Giáo Phận Huế", tập I (tác giả Lê Ngọc Bích, tài liệu lưu hành nội bộ), cho rằng "Nguyễn Hữu Bài vốn nguyên quán Thanh Hóa, là hậu duệ của Nguyễn Trãi" (trang 110). (Theo bảng phụ chú "Thế hệ dòng họ" (trang 111), Hoài Vy ghi nhận có rất nhiều dấu hỏi cần phải được đặt ra trên phương diện sử liệu về mối liên hệ dòng họ của ông Bài với Nguyễn Trãi, nhưng đây là một vấn đề khác cần được trình bày ở một bài viết khác). Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài, sinh ngày 18-9-1863 tại làng Cao Xá, phủ Vĩnh Linh, Quảng Trị. Thời thiếu niên, cha mất sớm, năm lên 10 tuổi mẹ ông xin linh mục Gioan Châu bảo trợ vào tiểu chủng viện An Ninh. Chính Linh mục Caspar (tên Việt: Lộc) có lần khen "Bài là một thanh niên tuấn tú, tương lai thành tài, đạt đức." (trang 112), sau đó gời ông đi học chủng viện Pénang (Mã Lai). Học xong, Bài về nước vào đúng lúc hòa ước Patenôtre Việt-Pháp vừa được ký kết, Bài được giới thiệu làm thừa phái Nha Thương Bạc (chức nhỏ tùng sự tại cơ quan ngoại giao của triều đình, việc chính là làm thông ngôn). Năm 1887, ông được cử đi đánh giặc "thổ phỉ" miền thượng du Bắc kỳ trong 5 năm (sách đd, trang 113). Đây mới là chỗ có vấn đề! Giữa lúc thực dân dân Pháp tác oai tác quái trên khắp lãnh thổ Việt Nam, giai tầng "phục dịch ngoại nhân bản địa" thăng quan tiến chức, trong lúc các phong trào Cần Vương yêu nước nổi lên kháng chiến khắp nơi. Ở Bãi Sậy có Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Bành. Ở Thanh Hóa có Đinh Công Tráng với căn cứ Ba Đình. Ở Bắc Giang có Hoàng Hoa Thám với chiến khu Yên Thế. Ở Hưng Sơn (Hà Tây) có Phan Đình Phùng, Cao Thắng... Cao trào kháng chiến bùng nổ năm 1887, là kết quả một chuổi tiếp nối từ "Sau biến cố 1885, tầng lớp "ký lục" kiêm "thông sự" được đeo thẻ bài ở Tòa Khâm, cái giai tầng được sự đỡ đầu bằng đề cử của các giáo sĩ ở ngoại quốc. Họ thành lập giai tầng trung gian bản xứ thay thế giai tầng Văn Thân nho sĩ và thường biện minh cho sự hợp tác với Pháp qua chiêu bài "thánh chiến" lập tân trào." (Vũ Ngự Chiêu, sách đd, tập 2, trang 484) Ngược lại với cảnh tượng nhốn nháo trên, hàng hàng lớp lớp sĩ phu trên lãnh thổ phía Bắc, các anh hùng kháng Pháp nổi lên khắp nơi, thì ông Nguyễn Hữu Bài lại được triều đình (tất nhiên là qua mật lệnh của Pháp) được cử đi đánh dẹp "thổ phỉ" (theo Lê Ngọc Bích, sách đd). Thổ phỉ thật ra là một lối chơi chữ để tránh phải gọi là các anh hùng nghĩa quân chống Pháp, một lối chơi chữ 'xách mé' vô trách nhiệm, không biết hổ thẹn với lương tâm, không sợ phải mang tội với lịch sử dân tộc. Biết bao nhiêu anh hùng kiểu 'thổ phỉ' này đã bị bọn người bản xứ được "rửa tội" và đeo "thánh giá" vào người gài bẫy, giết hại để lập công với nước Đại Pháp ! Và cũng nhờ các công trạng đó, Bài được thăng tiến từ Bố chánh Thanh Hóa rồi ngóc đầu lên tới Thị lang Bộ Lại, Thượng tá Cơ Mật, Tham tri Bộ Hình, sau cùng là Thượng thư triều đình. Năm 1922, được đi sứ sang pháp, tháp tùng vua Khải Định với chức Hộ giá Đại thần, Bài ghé thăm kinh đô của con dân Chúa là Vatican, được Giáo hoàng Piô XI cho quỳ xuống hôn chân, tâm hồn Bài bốc lên tận mây xanh, làm bài thơ ca ngợi "Nước Thánh" như sau: "Nghe rằng La mã, nước văn minh, Rằng mới qua xem thấy hiện hình. Cung điện Giáo hoàng còn vị trí, Thành trì Ý quốc đã kinh dinh. Thần đồ, từ vũ, nên kỳ tuyệt, Cổ tích lâu đài thật khủng kinh. Yết kiến mông ơn chầu Thánh tọa, Trăm phần danh giá, bội thêm vinh." ("Lịch Sử Giáo Phận Huế", 'Vịnh đi La mã', trang 116. Theo chú thích của Lê Ngọc Bích, "thần đồ": tượng ảnh, "từ vũ": đền đài ). Bài thơ 'xuất thần' ca tụng Vatican này đáng được Giáo hội Công giáo Việt Nam khắc bảng vàng để ghi nhớ tấm lòng sắt son của những kẻ biết "hiếu nghĩa". Bản chất của Bài rất đáng được xếp loại vào giai tầng "trung gian" mà Vũ Ngự Chiêu đã mô tả rất cụ thể : "Vào thời điểm 1885, đây không còn là những lời cáo buộc vô bằng chứng nữa. Vì lý do này hay lý do khác, đa số tín đồ Ki-tô đã bị lọt vào vòng ảnh hưởng của Pháp, và một thiểu số khác – vì cuồng tín hay vì danh lợi bản thân, hoặc cả hai – tích cực hợp tác hoặc phục vụ quân viễn chinh Pháp. Trên khắp chiến trường từ Bình Thuận ra tới thượng du Bắc Việt, đại đa số thông sự, nho, lính tập, điềm chỉ, dẫn đường cho Pháp là giáo dân Ki-tô." (sách đd, tập 2, trang 456). Và danh lợi muốn bền vững cũng cần sự kết hợp gắn bó: "Ông Nguyễn Hữu Bài có một người bạn đồng liêu lớn hơn ông chừng một con giáp: ông Ngô Đình Khả (1857-1923). Hai vị đều là lương đống của triều đình, đồng hương, đồng đạo và đồng chí. Mỗi vị có những hoạt động khác nhau, nhưng hỗ trợ nhau." (Theo Lê Ngọc Bích, sách đd – tập I, trang 125). Khá khen cho cụ Lê Ngọc Bích dùng chữ để mô tả khá cụ thể: hai họ có rất nhiều cái "đồng", nhưng đồng chí mang một nét "độc đáo" nổi bật. Ông Khả và ông Bài đã đồng chí ở những điểm nào ? Trước hết, hãy nhắc lại tông tích của ông Khả là ai? – Micae Ngô Đình Khả sinh năm 1857 nguyên quán làng Đại Phong, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Thuở nhỏ, Khả được cha là Giacôbê Ngô Đình Niêm hay cho đi giúp lễ với một vị linh mục Pháp ở họ đạo Mỹ Duyệt Hạ (tổng Thạnh Xá, Lệ Thuỷ). Năm 1870, Khả được Linh mục Caspar (Lộc) cho đi học chủng viện Pénang. Học được 8 năm, đến năm 1878, nhưng "không thấy ơn Chúa gọi", nên lấy vợ cho ấm thân. Lấy vợ lần thứ nhất với Madelêna Chĩu, bà này qua đời, lấy vợ lần nữa (năm 1889) với Anna Phạm Thị Thân. (Theo Lê Ngọc Bích, sách đd, trang 105-109, tập I). Chúng tôi chưa biết có tài liệu nào nói đến việc ông có con cái gì với bà Chĩu hay không, riêng với bà Thân, đã đẻ ra một loạt quý tử Ngô Đình, có người về sau làm tới tổng thống. Cũng như Bài, ông Khả đã "vào ra" chủng viện Pénang, làm thông ngôn, Cơ Mật viện triều đình, quan hàm Chánh Tứ Phẩm, thăng đến Thượng Thư Bộ Công. Nét giống nhau độc đáo nữa, là 12 năm sau (1895) kể từ ngày Phêrô Giuse Bài ra Bắc trừng phạt "thổ phỉ", Micae Khả được cử làm Phó tướng cho Nguyễn Thân ra Bắc đánh dẹp nghĩa quân "phản loạn" Cần Vương ở Vụ Quang (căn cứ kháng chiến của Phan Đình Phùng). Khả thắng trận, nhưng chưa hả dạ, đào mã lấy xác cụ Phan trộn thuốc súng làm đạn, bỏ vào súng đại bác bắn cho tiêu xác trên sông Lam giang. Đây là "trò chơi" độc đáo nhất của "cụ" Khả, đúng là "Đức lớn tài cao, trí có thừa; Đại thần Thị vệ tiếng khi xưa..." ('Nhân Vật Giáo Phận Huế', Lê Ngọc Bích, sách đd, trang 109). Cái tâm chất "trí có thừa" này hẳn là một nhiễm-sắc-thể di truyền khó thoát : các hậu duệ của ông Khả như Ngô Đình Khôi – đã từng nổi danh với cách dùng mãnh sành và nước lạnh để tra khảo những người làm cách mạng lúc ông làm Tổng đốc Quảng Nam, hay "cụ Ngô" hồi làm quan lớn cũng từng dùng đèn cầy hơ nóng hậu môn tù nhân ngay lỗ khoét của ghế ngồi để tra khảo tù nhân cách mạng. Có người đã cho rằng, một kẻ làm đến tổng thống, khi đã ra lệnh tấn công chùa chiền, bắt bớ hàng ngàn tăng ni, thì việc ác nào cũng có thể làm. Hậu duệ Ngô Đình Cẩn với 'Chín Hầm' ở gần Phủ Cam, Huế là nơi đã bức tử, hại sinh biết bao sinh mạng vô tội; hay một đứa con khác đã đi tu tới chức Giám mục rồi, mà vẫn đeo đẳng tinh thần: "Ngô Đình Thục háo danh thèm chức tước, Tiếm loạn quyền nên cả nước khinh khi, Tu hành gì mà gian ác sân si! Thế mà vẫn nghiễm nhiên làm Giám mục..." (Nguyễn Mạnh Quang, 'Thực Chất của Giáo Hội La Mã', tập 2, tác giả xb, trang 571). Nhận định về công trạng của hai đại dòng họ Nguyễn Hữu-Ngô Đình đã đóng góp cho thế quyền (Đại Pháp) và giáo quyền (Giáo hội Công giáo Vatican) lớn tới đâu, chỉ có trong nội bộ của hai thế lực này biết thôi, nhưng có một câu vè trong dân gian ở Huế về hai nhân vật này "Đày vua có Khả, đào mã có Bài" vẫn còn là dấu hỏi. Dấu hỏi bởi, theo các tài liệu lịch sử Giáo hội Công giáo VN viết thường là ca tụng hai nhân vật "độc đáo" này hết lời, và tất nhiên câu vè dân gian trên được sửa lại: "Phế Vua không Khả, Đào mã không Bài" ("Nhân Vật Giáo Phận Huế", sách đd, tập I, trang 115) để ám chỉ tới lập luận của chính họ: Bài đã từng "lên tiếng" ngăn chận, dù không thành Khâm sứ Mahé ngang ngược bắt khai quật lăng Vua Tự Đức lấy vàng ngọc châu báu vào năm 1907, dưới triều Vua Duy Tân. Ông Thượng Ngô Đình Khả "phản đối" Pháp trong âm mưu truất phế và đày Vua Thành Thái ('cũng chỉ lên tiếng thôi mà không thành'!). Cho tới hôm nay, các nhà viết sử ở nước ngoài chưa thấy ai nói rõ điều này một cách rạch ròi cho thỏa lòng dân Huế. Đến ngay cả tác giả Hoàng Trọng Thược trong "Hồ Sơ Vua Duy Tân" (Thanh Hương xuất bản 1984, Hoa Kỳ) cũng dùng tài liệu cũ vốn thiếu phần chính xác để xác nhận việc Ngô Đình Khả không chịu ký tờ biểu vua thoái vị (trang 410). Nhưng với vai trò "Thị vệ" (đúng nghĩa là làm nhiệm vụ cảnh sát và báo cáo) báo cáo mọi hành vi, nhất cử nhất động của Vua Thành Thái lên quan Đại Pháp, thì sự việc ông Khả có lên tiếng "phản đối' âm mưu "truất ngôi, đày vua" có thật hay không cũng chẳng có giá trị thuyết phục nhân dân Việt thay đổi cái nhìn về bản chất và hành động của Bài và Khả. Theo nhận xét qua phương pháp phân tích sử liệu của Vũ Ngự Chiêu ('Các Vua Nhà Nguyễn', tập 2), chúng ta thấy có sự mâu thuẫn giữa Giáo hội Công giáo (bản xứ + truyền giáo) và chính quyền thực dân về việc truất phế Thành Thái. Báo 'L'Avenir de Tonkin' (có cổ phần của Hội Truyền giáo) đã báo cáo về Paris rằng: "Có vẻ Thành Thái đã rửa tội trong một cơn bệnh nặng trước khi lên ngôi (1884). Hội Truyền giáo chẳng bao giờ chống lại vua; vài năm trước Hội đã vận động để cắt cử một giáo dân Ki-tô, Ngô Đình Khả vào chức vụ thân cận cho phép hành xử trên vua những ảnh hưởng trực tiếp và liên luỹ..." (trang 583). Quan điểm của chính quyền thực dân Pháp (qua đại biểu Khâm sứ F. Levecque, có khuynh hướng Tam Điểm ('Freemason' – vốn không ưa Công giáo Rôma) không quan tâm lắm tới một ông vua bù nhìn có "rửa tội" hay không, mà là một ông vua tương đối "tử tế", biết vâng lời nước Pháp và quan Đại Pháp. Trong lúc Hội Truyền giáo và nhóm Ki-tô thì thích một ông vua đã rửa tội hơn, và điều quan trọng nhất là họ có khả năng kiểm soát và kiềm chế ông vua này không. "Ngô Đình Khả – người được giao chức quan Thị vệ và an ninh Cấm thành – bị nghi là gieo rắc những ảnh hưởng tai hại trên vua." (Vũ Ngự Chiêu, tập 2, sách đd, trang 585). Trong lá thư ngày 15/8/1907, Khả vận động 154 học sinh Quốc Tử Giám gởi Khâm sứ Levecque tỏ lộ rằng: "Yêu cầu Pháp ban cho họ một ông vua mà chỉ nguyên sự hiện diện đủ trấn an tinh thần binh sĩ và các liệt thần của đế quốc." (sách đd, trang 585). Do đó, vấn đề Khả dù có chống việc "phế ngôi, đày vua", không phải vì ông ta thương xót gì triều đình nhà Nguyễn, lo cho sơn hà xã tắc nước Nam, mà do điều đó có phù hợp với mưu đồ hợp tung giữa Bài và Khả, có được lòng Giáo hội Mẹ, quyền lợi nước Đại Pháp và khả năng khuynh loát triều chính hay không ? Câu trả lời : ngày 3/9/1907, Nguyễn Hữu Bài, cùng Phủ Phụ Chính (tất nhiên trong đó có Khả) chấp nhận giải pháp của nước Đại Pháp, và hơn một tháng sau (17/10/1907), Vĩnh San (hoàng tử thứ hai mới 10 tuổi) lên ngôi, Thành thái phải rời Huế đi Bà-rịa, mở đầu cho cuộc đời tù đày long đong viễn xứ của ông vua giả điên này. Một tài liệu khác trong "Lịch Sử Phật Giáo Huế" của Thượng tọa Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm (nhà xb TP/Hồ Chí Minh 2000) lại trưng ra những chứng cớ đơn giản hơn, khẳng quyết Nguyễn Hữu Bài là kẻ đã đồng ý đào mã Vua Tự Đức : "Nguyễn Hữu Bài là người đã ký giấy để bọn thực dân Pháp quật lăng Vua Tự Đức. Điều này có thể không sai, bởi vì ông đã nói với ông A. Delvaux là "nước Pháp đã mở rộng nền bảo hộ của họ một cách "cực chẳng đã", nghĩa là điều nước Pháp không muốn, họ vẫn bị đẩy bởi sự vi phạm không ngừng các hiệp ước do triều đình Vua Tự Đức gây nên." (dẫn theo LSPGH, trang 355-356 A. Delvaux, 'Quelques précisions sur une période troublé d'histoire d'Annam' – Bulletin des Amis du Vieux de Hue số 3, năm thứ 28). Đây là lối luận định - tư tưởng đã như vậy thì hành động không thể khác. Riêng Ngô Đình Khả "là người đã ký giấy cho bọn thực dân Pháp đày Vua Thành Thái sang Réunion. Dân Huế còn truyền tụng "Đày vua ông Khả, đào mã ông Bài"" (trang 356). "Lịch Sử Phật Giáo Huế" đã kết luận về con người ông Khả rằng : "Mấy chữ sau đây của ông Nguyễn Đình Hòe nói về ông Ngô Đình Khả, mà Louis Sogny trích lại trong bài viết của ông ở BAVH (Bulletin des Amis du Vieux de Hue), tưởng là quá đủ: "...un grand serviteur de la France..." Cho nên đối với nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, nhất là dân Huế, thì ông Ngô Đình Khả đã bị "tombé dans l'oubli depuis longtemps" như lời ông Nguyễn Đình Hòe đã nói vào đầu thế kỷ 20 này là điều hiển nhiên vậy." (LSPGH, trang 357). Đúng vậy, cái 'tên' Ngô Đình Khả – "một đại-tôi-tớ cho nước Pháp" đã bị tiêu trầm trong lòng người dân Huế một thời gian dài đằng đẳng, nhưng dòng họ Ngô Đình chỉ thật sự hoàn toàn "xóa sổ" vào ngày 13/12/1984, lúc Tổng Giám mục Ngô Đình Thục (con trưởng nam cuối cùng của dòng họ Ngô Đình) lìa trần trong tình trạng "tù đày" (captivity) cô độc sau một thời gian dài công khai chống lại Vatican. C̣n một chút ảo vọng khác là Hồng y Nguyễn Văn Thuận (cháu ngoại của Ngô Đình Khả (*)), trong niềm mơ ước hoang tưởng của một số người Công giáo hoài Ngô ôm ấp viễn mộng một ông Giáo hoàng Việt Nam đầu tiên – ngày 16/9/2002 cũng đã "về với Chúa". Ngoài những "hậu duệ" bàng dân thiên hạ như : Nguyễn Văn Lục, Thoma Thiện, Lữ-Giang-Tú-Gàn còn tỏ chút "Đôi dòng ghi nhớ", và những bùi ngùi, luyến thương công khai hoặc âm thầm khác; từ đây không biết còn có những tung hô "dựng đền tạc tượng" dòng họ Ngô Đình nữa hay không – cũng chỉ vì những bâng khuâng tiếc nuối, mơ tưởng về đống của phù vân đã tan biến theo dòng đời ? Nguyễn Hạnh Hoài Vy (Thu 2002 - hồi tưởng về 1.11.63) [(*) Trích sau đây là một đoạn qua bản tin "Hồng y Nguyễn Văn Thuận từ trần" của website ở Paris tháng 10 năm 2002 : "Theo thông tín viên của chúng tôi ở Roma, cách đây vài tháng, em trai của hồng y, ông Nguyễn Văn Tuyên, đã từ trần tại Houston, Texas. Ông Tuyên sống độc thân sau khi li dị, chết đơn độc không ai hay. Nhiều ngày sau, bạn bè mới phát hiện khi thấy đàn quạ bay vần vũ trên nóc nhà"]. NDVN, ngày 16/7/06 [Nguồn: fromHoang Thuc An hoangthucan@..... toPhoNang@yahoogroups.com dateWed, Oct 29, 2008 at 2:03 AM subject Cuoc doi TT Ngo Dinh Diem mailed-by gmail.com]
IV - NGÔ ĐÌNH DIỆM và BẢO ĐẠI
Nguyễn Đắc Xuân
Bà "thứ phi" Mộng Điệp nói về
chuyện ông Ngô Đình Diệm phản bội Cựu hoàng Bảo Đại như thế nào?
Chuyện ông Ngô Đình Diệm phản bội Cựu hoàng Bảo Đại đã được
báo chí nói đến nhiều. Lần đầu tiên nhà văn nhà nghiên cứu
Nguyễn Đắc Xuân được nghe chính người trong cuộc là bà Mộng Điệp
"thứ phi" của Cựu hoàng Bảo Đại đề cập đến vấn đề đó tại Paris.
Câu chuyện lịch sử ấy đã được xuất bản trong cuốn
Hỏi chuyện đời bà "thứ phi" Mộng Điệp với Cựu hoàng Bảo Đại
do Nxb Thuận Hóa ấn hành vào tháng 6-2008 vừa qua. Được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi xin trích hai đọan từ tr.47 đến 52 và từ tr.132 đến tr.139 sau đây. NĐX.- Có dư luận nói rằng, Cựu hoàng bị áp lực của Mỹ nên mới mời ông Ngô Đình Diệm về làm Thủ tướng ? Bà Bùi Mộng Điệp.- Không có lửa thì làm sao có khói. Dư luận đó có phần nào đúng. Tôi xin kể chuyện nầy: Trong thời gian sắp ký Hiệp định Genève, Dulles gặp ông Bảo Đại ở nhà hàng gần hồ Léman (Thụy Sĩ). Hai người không dám ngồi ăn trong nhà vì sợ gián điệp thu âm, phải dọn ăn ở ngoài vườn. Hai người Pháp theo hầu Bảo Đại cũng cho ăn riêng ở một chỗ xa. Lúc về ông Bảo Đại bảo tôi : - "Thằng Dulles bảo đại ý là Ngài lùi đi, Ngài đi đi. Ngài đừng về VN nữa. Ngài cứ ngồi im ở bên nầy. Mỹ sẽ đuổi Pháp ra và lấy Việt Nam lại cho. Mỹ cần một người không cần giỏi lắm, miễn là dân chúng cho là trong sạch, ghét Tây là được. Còn vấn đề sinh sống của Ngài bên Tây, Ngài đừng lo !" NĐX.- Thế sau người Mỹ có giữ lời hứa giúp Cựu hoàng không ? Bà Bùi Mộng Điệp.- Đầu năm 1955 ông Tôn Thất Hối và ông Ngô Đình Luyện có đem tiền qua, gặp ông Ngài ở bờ biển Cannes. Nhưng Ngài không nhận. Nếu ông Bảo Đại nhận số tiền ấy là mắc bẫy của Mỹ và ông Diệm rồi ! Chuyện nầy ông Trần Văn Đôn cũng biết đã ghi trong Việt Nam Nhân Chứng [1]. NĐX.- Cũng có dư luận nói rằng Ngô Đình Diệm định mời Hoàng hậu Nam Phương về làm "Phụ chánh" cho chính phủ của Diệm, theo bà chuyện đó có không ? Bà Bùi Mộng Điệp: Trước khi lên đường về Sài Gòn nhận chức Thủ tướng, người ta nói ông Diệm hứa, sau khi cầm quyền sẽ mời Hoàng hậu Nam Phương về làm Phụ chánh và sau đó sẽ cho Hoàng thái tử Bảo Long lên nối ngôi và sẽ thiết lập quân chủ lập hiến giống như Anh quốc. Nghe người Pháp nói lại, sau đó bà Nam Phương chuẩn bị khăn áo để về làm Phụ chánh. Chuyện đó ông Bảo Đại hoàn toàn không hay biết. Chồng làm một đường, vợ làm một nẽo. Do ai gây ra chuyện chia rẽ ấy? Có lẽ do mấy ông chịu ảnh hưởng của Vatican lúc đó mà thôi. Nhưng rồi sau đó ở bên nhà xảy ra bao chuyện rắc rối, bà Nam Phương chưa về được bèn cử ông Phạm Bích về. Trong một bữa cơm trưa tôi nói cho ông Bảo Đại biết Đức Từ gởi thư cho biết ông Phạm Bích đã nói với Đức Từ rằng "Ngài hoàng sắp về VN". Ông Bảo Đại nói: - "Tôi có biết gì đâu !". Sáng hôm sau ông Nguyễn Đệ đi tàu đêm về Cannes bảo tôi: - "Có chuyện rất quan trọng cần phải gặp Quốc trưởng gấp". Tôi phôn tìm ông Bảo Đại, ông đi vắng, đến 10 giờ mới gặp được ông. Có tin ông Bidault của Pháp muốn ngăn chận việc bà Nam Phương đơn phương về Việt Nam. Từ đó tôi mới hiểu. Trước đó những người giúp việc trong nhà xa Việt Nam lâu nhớ nhà, tranh nhau để được theo Hoàng hậu Nam Phương về thăm nhà một chuyến. Như vậy là chuyện bà Nam Phương được ông Diệm mời về là có thật. Có lẽ đây là một âm mưu của Hồng y Spellman với Mỹ bày ra và không có ý kiến của Thiên chúa giáo ở Pháp. Cho nên sự thể mới ra như thế. Có lẽ vì Pháp chận lại nên bà Nam Phương lần đó không về VN và không bao giờ bà về Việt Nam nữa. Cái trò nầy do các ông cố đạo bên Mỹ sắp xếp, chính bà Nam Phương cũng không hiểu hết ý nghĩa chính trị của nó. Về sau, một mặt Pháp không muốn bà Nam Phương về tiếp tay cho Mỹ và phía Mỹ thấy ông Diệm đã làm chủ được tình thế nên cũng không cần đến vai trò hiệu triệu của bà Nam Phương nữa nên họ đã lật lọng mọi lời hứa ban đầu. Cũng may bị lật lọng sớm không thôi bà Nam Phương chuốc phải một cái nhục suốt đời. Nhưng mà lúc đó bà Nam Phương rất ghét ông Nguyễn Đệ. Tôi hỏi ông Nguyễn Đệ: - "Bà Nam Phương là người của Tây, tại sao Tây không cho bà đi ?" Ông Nguyễn Đệ kể lại: - "Tôi được tin của chính phủ Pháp cho biết là bà Nam Phương cả tin quá, nghe tụi Ngô Đình Diệm nên định đi về. Ông Diệm hứa về trước quét sạch rác rưởi rồi rước bà Nam Phương về tôn lên làm Phụ chánh đại thần. Bảo Long sẽ lên ngôi."- Nguyễn Đệ nói tiếp: "Bà Hoàng là người Nam bộ thật thà không hiểu hết cái thâm ý của bọn Diệm. Tây cho biết ngày bà Nam Phương về đến Sài Gòn thì sẽ có một cuộc biểu tình phản đối hạ nhục bà và qua đó hạ nhục ông Bảo Đại". Đó là lý do tại sao Bidault bắt ông Nguyễn Đệ là Đổng lý văn phòng phải cấp báo không cho bà Nam Phương đừng về Việt Nam nữa. Chuyện ông Diệm viết thư cúc bái ông Ngài để được trao quyền, cả ông Trần Văn Đôn và ông Đỗ Mậu đều biết. Nhưng không ai được biết cái thư đó cụ thể nói gì. Đây là một cái thư lịch sử do chính tay Ngô Đình Diệm viết bằng tiếng Pháp. Nhân đây tôi công bố cái thư ấy để cho lịch sử biết bộ mặt thật của ông Diệm. (Xem phần Phụ Lục ở sau kỳ cuối cùng) . NĐX.- Lúc ấy làm sao bà có thể biết chuyện ở bên nhà ? Bà Bùi Mộng Điệp.- Lúc ấy tình hình hết sức phức tạp, tôi phải bỏ khá nhiều tiền mua báo chí để lấy tin, nhất là báo chí Anh quốc. Họ đòi năm chục ngàn mình phải trả năm chục, đòi một trăm phải trả một trăm với một cái tin. Nhờ thế mà chúng tôi biết được tin tức bên nhà. NĐX.- Thưa bà, qua Pháp, nhất là giai đoạn sau khi bị ông Diệm tịch thu hết tài sản của ông Bảo Đại, bà sinh sống ra sao ? Bà Bùi Mộng Điệp.- Sang bên Tây tôi buôn bán nhà cửa, tôi mở hiệu, tôi làm đủ thứ để sống. Tôi cho rằng mình cần tiền để sinh sống mình buôn bán để kiếm tiền, có chuyện gì nhục đâu. Sau khi bị bọn Diệm lấy hết tiền, người ta bảo tôi: - "Sao bà không xin một cái dommage de guerre (thiệt hại do chiến tranh) ? Tại sao con cái bà học giỏi thế mà bà không xin bourse (học bổng) của chính phủ Pháp cho chúng ?" Tôi đáp: - "Tôi xin cám ơn nước Pháp đã cho gia đình ông Bảo Đại, cho mấy mẹ con tôi ở đây được yên thân là quý lắm rồi! Tôi không dám xin gì nữa !". Trong việc buôn bán kinh doanh tôi nạp thuế nạp má đàng hoàng. Tôi biết tôi xin các thứ ấy chính phủ Pháp sẽ cho ngay nhưng tôi không xin. Bởi vì khi người ta đã cho mình một cái gì là mình thiếu nợ họ cái ấy. Đời tôi không trả được thì đời sau con tôi cũng phải trả. Mà chưa trả được nợ cho người ta thì đừng có hòng mà ngẩng đầu lên. Sống mà phải cúi mặt thì tôi không muốn. [….] NĐX.- Nhắc đến một việc hệ trong liên quan đến ông Ngô Đình Diệm, hôm trước bà có nói:"Chuyện ông Diệm viết thư cúc bái ông Ngài để được trao quyền, cả ông Trần Văn Đôn và ông Đỗ Mậu đều biết. Nhưng không ai được biết cái thư đó cụ thể nói gì. Đây là một cái thư lịch sử do chính tay Ngô Đình Diệm viết bằng tiếng Pháp. Nhân đây tôi công bố cái thư ấy để cho lịch sử biết bộ mặt thật của ông Diệm". Thưa bà, hôm nay bà có thể cho tôi công bố cái thư lịch sử ấy được chưa ? Bà Bùi Mộng Điệp - Vâng, tôi đã hứa thì tôi phải thực hiện chứ ! Đây là lá thư viết tay bằng tiếng Pháp của ông Diệm gởi cho ông Ngài, lần đầu tiên tôi đưa cho anh và anh có thể đem về lưu trữ ở Việt Nam. Trang cuối lá thư 5 trang viết tay của ông Ngô Đình Diệm gởi Quốc trưởngBảo Đại: Kính gởi Hoàng thượng Bảo Đại Quốc trưởng Việt Nam Kính thưa Ngài, Tôi thật vô cùng cảm kích trước những lời tin cậy và khích lệ đầy thương mến mà Ngài đã chỉ thị cho bào đệ Ngô đình Luyện truyền lại cho tôi. Ngài đã biết rõ sự bất vụ lợi và lòng trung thành của dòng họ chúng tôi, trong quá khứ, đã phục vụ Tổ quốc và Hoàng triều như thế nào. Xin Ngài hãy tin tưởng rằng đến lượt tôi, tôi sẽ cố gắng tiếp tục phục vụ với tất cả sức lực và tâm hồn để xứng đáng với lòng tin cậy thân yêu mà Ngài đã dành cho. Trong lúc có những giải thích đầy xuyên tạc của dư luận về sự mở rộng thành phần Nội các đã gây cho tôi quá nhiều phiền muộn, tôi muốn nói lên đây lòng tri ân của tôi về sự tín nhiệm của Ngài vẫn dành cho tôi. Thật ra hoài bảo thân thiết nhất của tôi là nhận được sự chấp thuận của Quốc trưởng trong các đại sự của Quốc gia, về Binh bị, Ngoại giao, Xã hội, Tài chánh hay Hành chánh. Chỉ có sự chỉ đạo khôn khéo và chỗ dựa vững chắc ở Quốc trưởng, tôi mới có thể thực thi được những quyền lực đầy đủ để giải quyết tất cả vấn đề có tầm vóc liên quan đến sự sống còn và tương lai của đất nước. Những cải cách về Hiến pháp và Dân chủ phải được nhanh chóng thực thi theo đúng những lời tuyên bố của Ngài khi Ngài trở về sau chuyến lưu vong. Nhưng quyền lực của Hoàng triều phải thật sự cứng rắn để bảo đảm trật tự và công bằng xã hội, kỷ luật quân đội, tôn trọng quyền lợi và tự do của dân. Trình Ngài, chính trong tinh thần nầy mà tôi đã nhờ bào đệ Luyện thỉnh cầu Ngài hồi loan càng sớm càng tốt, miễn là không trở ngại đến việc chữa bệnh của Ngài ở Pháp. Tiếc thay khi được tin nầy thì những xáo trộn những âm mưu chính trị không tránh được khi đất nước bị chia cắt, đã tăng lên gấp bội, vì những tham vọng và quyền lợi riêng tư đó đã lo sợ sự hiện diện của Hoàng thượng và sự củng cố chánh quyền của Ngài. Là người chủ xướng sự hồi loan nhanh chóng của Ngài, thế mà tôi phải đau lòng thỉnh cầu ngài dời hoãn ngày về nước để cho tôi có đủ thời gian cần thiết để san bằng những trở ngại khó khăn và đánh tan một vài thái độ mâu thuẫn. Sự mong đợi chuyến về của Hoàng thượng càng lớn khi tôi cần dựa vào sự minh triết của Hoàng thượng để giúp tôi, ngoài những việc khác, tái tổ chức và phát triển Hoàng Triều Cương Thổ mà Hoàng thượng đã tức thời quyết định cho sát nhập về với Việt Nam. Việc nầy đã được sự tán thành của toàn dân. Tôi nghỉ rằng, thật ra các miền Cao nguyên đó, từ lâu đã được sự chăm lo ưu ái của Hoàng thượng, rồi đây sẽ được hưởng những lợi ích to lớn về một tổ chức xã hội, kinh tế và quân sự mà các ngành Hành chánh cao cấp sẽ được chính phủ bổ nhiệm sau khi được sự chấp thuận của Ngài. Để kết thúc, tôi xin đươc phép nhắc lại sự cảm tạ của tôi về sự tiếp tục tín nhiệm mà Ngài đã dành cho. Tình trạng đất nước, bị xâu xé và tàn phá bởi cuộc chiến lâu ngày nầy đã gây quá nhiều lo âu cho tôi, vì vậy những bằng chứng về lòng tin tưởng thương yêu của Hoàng thượng sẽ là một niềm khích lệ vô giá đối với tôi. Xin được phép nhắc Ngài rằng khi nhận chức Thủ tướng chính phủ, tôi đã có xin Ngài hứa cho là trong trường hợp chính sách của tôi, nếu xét có bằng chứng có thể phương hại cho Tổ quốc, thì Hoàng thượng sẽ không để những tình cảm tốt đẹp dành cho tôi chi phối, mà sẽ cương quyết chối từ chính sách đó để cứu quốc dân. Xin phép Ngài cho tôi được tin vào lời hứa đó, vì tôi phải có một chính sách cứng rắn và dũng cảm để đối phó với các sự xáo trộn chính trị và các liên hệ chằng chịt quá phức tạp của những quyền lợi lớn của cá nhân hay ngoại quốc gây ra. Tôi sẽ làm chuyện nầy với lương tâm thanh thản vì tôi biết trước, nếu trường hợp gặp thất bại, Ngài sẽ sẵn sàng điều chỉnh tay lái khi cần. Tôi trao thư nầy cho bào đệ Luyện để đệ trình lên Ngài với lòng trung thành tôn kính và thâm sâu của tôi. Sài gòn, ngày 10 tháng 11 năm 1954 Ngô Đình Diệm" NĐX.- Bà có nhận xét gì về lá thư lịch sử nầy của ông Ngô Đình Diệm ? Bà Bùi Mộng Điệp.- Trước tiên người đọc thấy ông Diệm viết chữ đẹp, viết tiếng Pháp giỏi, tự nhận mình là người xuất thân trong "dòng họ trong quá khứ, đã phục vụ Tổ quốc và Hoàng triều Nguyễn" rất tận tụy, được ông Bảo Đại "tin cậy và khích lệ"; ông ta hứa sẵn sàng ra đi "nếu ông Bảo Đại xét thấy có bằng chứng có những hành động chủ trương có thể phương hại cho Tổ quốc".v.v. Qua lá thư nầy chứng tỏ ông Diệm là người được ông Bảo Đại tin cẩn giao phó cho việc phụng sự tổ quốc và triều Nguyễn và đáp lại ông Diệm hứa cúc cung tận tụy với ông Bảo Đại và đất nước. Nhưng ngay sau đó ông Diệm đối xử với ông Bảo Đại với đồng bào và đất nước như thế nào các sử gia trong và ngoài nước đã biết rõ [2]. NĐX.- Thưa bà, vẫn biết như thế nhưng xin bà cho một vài ví dụ ấn tượng nhất đối với bà. Bà Bùi Mộng Điệp.- Sự phản trắc của ông Diệm có nhiều, như ông Diệm không chịu thi hành Hiệp định Genève để thống nhất đất nước năm 1956, tuyên bố cải tổ chính phủ rồi nuốt lời quay lại đàn áp cuộc đảo chính 11.11.1960, đặc biệt là không thi hành Thông Cáo Chung ký với Phật giáo tháng 6.1963. Riêng việc phản trắc của ông Diệm đối với người đứng đầu họ hàng Nguyễn Phước tộc là ông Bảo Đại gây cho chúng tôi đau đớn nhất. Sau khi được ông Bảo Đại trao quyền và được Mỹ (đại tá CIA Lansdale) hậu thuẫn, ông đã "trả ơn" ông Bảo Đại bằng cuộc "Trưng cầu dân ý" bịp bợm truất phế ông Bảo Đại một cách hèn hạ chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Ông Diệm cho thực hiện cuộc "trưng cầu dân ý" đó như thế nào anh hãy xem một đoạn của "người trong cuộc" với ông Diệm lúc ấy là tướng Trần Văn Đôn viết trong hồi ký «Việt Nam Nhân Chứng» sau đây thì sẽ rõ: "Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý vào ngày 23 tháng 10 năm 1955 để lật đổ Bảo Đại. Kết quả là Bảo Đại bị truất phế. Trong phong bì bỏ phiếu trưng cầu dân ý, nhiều cán bộ phụ trách đã bỏ sẵn phiếu ủng hộ Ngô Đình Diệm, người dân không cần chọn lựa gì, chỉ cầm lá phiếu đó bỏ vào thùng nên Ngô Đình Diệm thắng 99%." [3] NĐX.- Thưa bà, lúc ấy tôi còn là cậu học sinh mới vào trường trung học, tôi cũng đã nhiều lần được trường dẫn đi biểu tình mít-tin hô hào truất phế Bảo Đại, nên tôi có biết sự kiện mà bà vừa kể. Nhưng đó là vấn đề chính trị, ngoài chuyện ấy ra ông Diệm còn có hành động gì nghiệt ngã đối với Cựu hoàng nữa không ? Bà Bùi Mộng Điệp.- Ông Diệm cho tịch thu nhiều tài sản riêng của ông Bảo Đại, trong đó có chiếc du thuyền. Hành vi tàn nhẫn nhất của ông Diệm là việc ông lấy ngôi biệt thự của Đức Từ Cung ở Sài Gòn [4] và đuổi Đức Từ về Huế. Những chuyện phản trắc ấy đã làm cho ông Bảo Đại "phát điên" như hôm trước tôi đã kể với anh. Tinh thần của ông Bảo Đại tuột dốc từ đó và không cứu vãn được. Tôi trao cho anh sử dụng lá thư nầy: Đây là một tư liệu lịch sử chính thức cùng với những hành động phản trắc của ông Diệm từ 1955 đến 1963 mà lịch sử đã viết bộc lộ cái bản chất lá mặt lá trái của ông Diệm. Một người phản trắc như thế mà lãnh đạo miền Nam làm sao đồng bào mình không khổ, không chết chóc ! May mà chế độ Diệm chỉ tồn tại đến cuối năm 1963 thôi. Nếu không ….không biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa ! Chú thích: [1] "Trong hiệp định Genève, phía Việt Nam tự do và Mỹ không ký nên Ngô Đình Diệm viện cớ đó không thi hành tổng tuyển cử thống nhứt Nam Bắc Việt Nam vào năm 1956 như văn kiện kết quả hội nghị quy định. Ngô Đình Nhu cho tôi (Trần Văn Đôn) biết trước khi tổ chức trưng cầu dân ý, để có phương thức dân chủ, Ngô Đình Diệm tự tay viết một lá thư dài cho Bảo Đại, giải thích tình hình, yêu cầu Bảo Đại về nước tiếp tục lãnh đạo Việt Nam. Ngô Đình Diệm sẽ trả lại toàn quyền lãnh đạo cho Bảo Đại. Tôi không được đọc là thư lịch sử đó, nhưng Ngô Đình Nhu cam đoan với tôi là có lá thư như vậy. Ngô Đình Nhu không cho tôi biết Bảo Đại có trả lời hay không. Ngô Đình Nhu cũng tiết lộ là nếu Bảo Đại điều đình với Ngô Đình Diệm hàng tháng gửi cho một số tiền để chi tiêu thì chắc Ngô Đình Diệm cũng thu xếp chu toàn, nhưng Bảo Đại không đòi tiền chu cấp hàng tháng mà đòi một triệu Mỹ kim. Ngô Đình Luyện hứa nhưng Bảo Đại không nhận được tiền mà chỉ nhận tin kết quả trưng cầu dân ý truất phế đưa Ngô Đình Diệm lên chức Tổng Thống mà thôi". (Trần Văn Đôn, Sđd, Nxb Xuân Thu (Mỹ), 1989, tr. 133) [2] Trưng cầu dân ý bịp bợp như thế nào, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuyến, trong cuốn Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975, do "Đại Học Đông Nam" ở Houston, TX, USA, xuất bản năm 1995, đã viết (nơi trang 39) như sau: ‘Ngày 6 tháng 10 năm 1955 Bộ Nội Vụ của Thủ Tướng Diệm tuyên bố sẽ có cuộc Trưng Cầu Dân Ý được công bố với kết quả là 98,2% chống Quốc Trưởng Bảo Đại, đồng ý bầu Thủ Tướng Diệm làm Quốc Trưởng. Cuộc Trưng Cầu Dân Ý này là màn đạo diễn của Đại tá Landsdale đã đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Ở nhiều nơi trong thành phố Saigon, số phiếu bầu cử cho ông Diệm bằng 130% con số cử tri (vì binh sĩ của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Thủ Tướng và Đoàn Viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia của ông Diệm đã được phép đi bầu lại nhiều lần’. (Trích lại của Lê Xuân Nhuận) [3] Việt Nam Nhân Chứng, Trần Văn Đôn, tr.133 [4] Theo nghiên cứu của tôi [NđX], ngôi biệt thư của bà Từ Cung bị ông Diệm trịch thu và bán cho Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần giá 1$. Về sau ông Thuần bán lại theo thời giá cho tướng Dương Văn Minh, nay vẫn còn ở 3 Võ Văn Tần, Q.1, TP HCM. [5] Nguyễn đắc Xuân và Thứ phi Mộng Điệp
[6] Trang cuối lá thư 5 trang viết tay của ông Ngô Đình Diệm gởi Quốc trưởng Bảo Đại. Bản dịch nguyên văn lá thư do ĐDTB thực hiện:
V - Bất đắc dĩ khơi lại đống tro
tàn
Lê Nguyên Long
LTS: Tác giả bài này là một nhân sĩ miền Trung, lãnh tụ Việt Quốc vùng Nam Ngãi. Trưởng thành qua những thời đại Phong kiến, Độc tài, Cộng Sản. Ông đã là chứng nhân của lịch sử cận và hiện đại. Bài viết của ông sau đây, dù thuộc về một đề tài vốn đã được nói nhiều nhưng vì tính cách chứng nhân đó của tác giả mà nó vẫn có cái giá trị riêng biệt của nó - cần thiết cho một cái nhìn đúng đắn về lịch sử. – KP, 1981 Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát cách đây đã gần hai thập niên, sự việc đã chìm vào quên lãng, đáng lẽ những ân oán xa xưa chẳng nên đề cập, nhưng hơn vài năm nay nơi hải ngoại, một vài tổ chức đã phát động phong trào suy tôn ông Diệm. Một vài tờ báo đã đề cao ông Diệm như: "Lịch sử đã ghi tên Ngô Đình Diệm là một vĩ nhân cận đại, lịch sử đã ghi nhận Ngô Đình Diệm là một nhà đại ái quốc, một người Việt Nam kiêu hùng, một cứu tinh của dân tộc v.v..." và đã có nhiều kẻ từng thừa hưởng đỉnh chung của nhà Ngô đã lập luận: "Nếu ông Diệm không chết thì chúng ta đã không mất nước!". Kẻ viết bài này thật sự luôn luôn thiết tha với tình tự đoàn kết quốc gia dân tộc, không muốn khơi lại đống tro tàn ô uế dĩ vãng... Đã bỏ nước đau khổ lưu vong thôi thì tất cả ai cũng chống Cộng là đồng chí, là anh em... nhưng thiết nghĩ Sự Thật chẳng thể bẻ cong, nhất là sự thật lịch sử phải trả cho lịch sử. Lịch sử Việt Nam không thể gọi vua Long Đỉnh Ngọa Triều là anh quân, Mạc Đăng Dung là ông vua anh hùng, Lê Chiêu Thống là ông vua cứu nước. Vậy thì sự thật như thế nào về thời Ngô Đình Diệm phải được minh định để trả sự thật về cho lịch sử. Từ ngày được Hồng Y Spellman đỡ đầu, được Chính phủ Eisenhower ủng hộ, được Quốc trưởng Bảo Đại chấp nhận, ông Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ về chấp chánh ở Việt Nam năm 1954, trong khi Hiệp định Genève sắp kết thúc, (tháng 7-1954). Lúc đó, lòng dân thật tình hướng về ông Ngô Đình Diệm. Người ta đã nghĩ ông Diệm sau khi từ quan, chu du ngoại quốc, chắc hẳn là một nhà lãnh đạo quốc gia xứng đáng. Hầu hết các phe phái và các nhân vật quốc gia đã nồng nhiệt tin tưởng và kỳ vọng ở ông Diệm. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn cầm quyền, chủ trương độc tôn, độc tài, phản bội, lật lọng, phong kiến, thối nát, bất lực, kỳ thị của nhà Ngô đã lần lượt thể hiện... Khiến những người vốn tích cực ủng hộ ông Diệm, đến những người vô tư khách quan với ông Diệm lần lượt đứng lên chống đối và nhà Ngô đã dùng thủ đoạn sắt máu đàn áp để củng cố địa vị suốt 9 năm cầm quyền. Có thể nói trừ chế độ Cộng Sản ra, chưa có một chế độ nào ở Việt Nam đã đàn áp, thủ tiêu, ám sát, bắt cóc, tra tấn, cầm tù hàng vạn người quốc gia cũng như các tu sĩ các tôn giáo như thời Diệm. Trừ Cộng Sản ra, chưa có một chế độ nào đã thẳng tay đàn áp đối lập để củng cố địa vị như chế độ ông Diệm. Chưa có một chế độ nào phản dân chủ và khinh thị lợi dụng nhân dân làm cái bung xung để hợp thức hóa các chức vụ theo ý muốn của mình bằng cách tổ chức những cuộc bầu cử gian lận như chế độ ông Diệm. Tất cả những ai chỉ ở thủ đô hoặc các thành phố lớn khó lòng thấy rõ chánh sách gian ác, hành động bất nhân, phản dân hại nước của chế độ Diệm, mà phải quan sát ở các tỉnh, quận, nông thôn (90% lãnh thổ toàn quốc) mới thấy rõ tội ác của tay chân nhà Ngô một thời... mà có người đã nói: Trúc Nam Sơn không thể chép hết tội, nước muôn sông không thể nào rửa hết nhơ! Rõ ràng ông Diệm đã có một cái may mắn mà chưa có một nhân vật lãnh đạo quốc gia nào sau 1945 được cái may mắn như ông kể từ Chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đến Bửu Lộc là: Đất nước đã tạm chấm dứt chiến tranh, dân tình phấn khởi bồng bột ủng hộ người lãnh đạo và được ngoại viện dồi dào như ông Diệm. Ông Diệm cầm quyền sau Hiệp định Genève, khoảng 6 năm trời từ 1954 đến 1959 miền Nam không có chiến tranh và chưa có Cộng Sản hoạt động đáng kể. Từ thành thị đến thôn quê quốc gia có thể kiểm soát chặt chẽ khắp hang cùng ngõ hẻm. Đại đa số dân chúng nông thôn ở các vùng Cộng Sản chiếm từ trước như Nam, Ngãi, Bình, Phú chẳng hạn, đã chán ngấy thù ghét Cộng Sản và đều ngã về Quốc gia. Ông Diệm còn có một kho cán bộ kinh nghiệm chống Cộng, vốn mắc kẹt trong vùng Cộng Sản hoặc một số lớn thị thành, vì mặc cảm làm việc cho Pháp, đã "trùm chăn", nay vươn mình đứng lên tích cực ủng hộ cho Ngô Thủ tướng. Lúc ấy ở miền Trung có hàng nghìn cán bộ không cần làm việc có lương nhiều, chỉ sao đủ sống đạm bạc để hoạt động chống Cộng là họ thỏa chí. Bao năm khổ đau sống trong tăm tối của Cộng Sản, nay ánh sáng quốc gia rọi về, họ hứng khởi đứng dậy, lửa chống Cộng bừng bừng, khí thế Cộng Sản lụi tàn. Nhưng ngay lúc đó, ông Diệm và tay chân của ông lo diệt người Quốc gia hơn là Cộng Sản, một thời cơ thuận lợi để nắm dân ông Diệm đã đánh mất! Những cuộc bầu cử như Trưng Cầu Dân ý truất phế Bảo Đại, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, Lập Pháp, Tổng thống đều hoàn toàn gian lận vi luật trắng trợn. Ông Diệm đã hạ lệnh cho quân đội tấn công Hòa Hảo, Cao Đài vốn là những lực lượng chống Cộng, hữu hiệu từ 1945 đến bây giờ và nếu ông Diệm không độc tôn đã có thể đoàn kết thu hút họ. Ông đã lường gạt tướng Lê Quang Vinh, người hùng Nam Bộ, từng lập chiến khu chống cả Pháp lẫn Cộng về hợp tác, rồi bắt chặt đầu. Cái chết bí mật của tướng Cao Đài Trình Minh Thế cũng trong nghi vấn là ông Diệm đã giết. Và, ác nghiệt hơn cả, nhà Ngô đã tuyển chọn quân đội người Nùng - một binh chủng thiện chiến say máu - thời bấy giờ, và các chỉ huy trưởng có đảng tịch Cần Lao cầm quân vào các chiến khu Quốc Dân Đảng ở miền Trung với ác lệnh: giết sạch. Sự tấn công vào các chiến khu Quốc Dân Đảng còn tàn độc hơn hồi giặc Pháp đi "càn quét" nhiều. Đốt thực phẩm đốt nhà, tra tấn giết người một cách tàn ác đã xảy ra ở Quế Sơn, Tiên Phước, Duy Xuyên v.v... vào những năm 1955-1956. Với lối tấn công ấy, nhà Ngô đã phá vỡ được chiến khu Ba Lòng của Đại Việt, nhưng không thể tiêu diệt các chiến khu Quốc Dân Đảng. Thuở đó quân du kích Quốc Dân Đảng Nam Ngãi đã giáng cho chính quyền địa phương Diệm nhiều đòn chí tử. Biết rõ không thể tấn công để thủ thắng, cuối cùng Ngô Đình Cẩn, bào đệ ông Diệm, lập kế mời về hợp tác. Làm kế phỉnh gạt, hơn 2000 nghĩa binh Quốc Dân Đảng kéo về với đầy đủ vũ khí và làm lễ hợp tác tại Hội An cuối năm 1956. Nhưng sau đó bọn họ đều bị thủ tiêu và lần lượt bị bắt đi mất tích. (Khi ông Diệm đổ, một số trong bọn họ đã được thả ra, nhưng đều thân tàn ma dại). Thiết tưởng kẻ viết cần trình bày rõ là Quốc Dân Đảng miền Trung lúc đầu ủng hộ ông Diệm tích cực. Họ đã lên án Nguyễn Văn Hinh và ủng hộ ông Diệm để chống Cộng. Họ đã có cán bộ giữ chức vị Tỉnh trưởng và Quận trưởng ở hai tỉnh lớn Nam Ngãi (Quảng Nam Tỉnh trưởng Lê Trung Chi, Quảng Ngãi Phạm Đình Nghị). Phong trào tố Cộng ly khai Cộng Sản, xé đảng kỳ Cộng Sản, bắt đầu tháng 10-1954 do họ tiên khởi phát động ở Quảng Nam rồi sau mới lan ra toàn quốc, nhưng tay chân nhà Ngô nhận định: Nếu để uy thế Quốc Dân Đảng miền Trung lan tràn thì Phong trào Cách mạng Quốc gia và đảng Cần Lao Nhân Vị do nhà Ngô đẻ ra sẽ tuyệt địa. Nên ông Diệm bất thần giải chức các Tỉnh trưởng và bắt giam hàng loạt các Quận trưởng Quốc Dân Đảng ở hai tỉnh Nam Ngãi và mật lệnh triệt hạ toàn bộ Quốc Dân Đảng (lại vu cáo Quốc Dân Đảng theo Pháp). Và, vì cớ ấy, khoảng tháng 3-1955 Quốc Dân Đảng miền Trung lập chiến khu để tự vệ và để quật khởi chống Diệm. Trong suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền, thời gian đó ở nông thôn cơ quan nào cũng có thể bắt người. Công an bắt người, Xã trưởng bắt người, Cách Mạng Quốc Gia (phong trào đẻ ra từ nhà Ngô) cũng bắt người rồi giao cho Công an trừng trị. Nhưng ghê tởm nhất là đoàn "Mật Vụ Miền Trung" do Ngô Đình Cẩn đỡ đầu. Đó là đoàn hung thần toàn quyền sinh sát. Đoàn có quyền đi khắp nơi, đến đâu địa phương phải tiếp rước chu đáo. Đoàn cần bắt ai thì giao cho Công an đi bắt bất kỳ đêm ngày. Nếu tra tấn chết thì Quận trưởng và Công an phải lập biên bản hợp thức hóa sự chết và bị bắt không cần phải có chứng cớ chỉ bị nghi chống Chính phủ là bị bắt. (Tại Long Beach, California có một đồng hương từ ngày vào đất Mỹ đến nay, vẫn nằm bẹp ở nhà, vì bệnh cũ tái phát, hậu quả của sự tra tấn tàn độc của mật vụ Diệm). Hầu hết viên chức chính quyền từ Quận trưởng, Ty trưởng, Tỉnh trưởng ở miền Trung được bổ dụng thời đó, không phải vì khả năng chuyên môn hay tài đức, mà vì lòng trung thành hay mức quỳ lụy cao thấp đối với gia đình nhà Ngô thôi. Phần lớn viên chức chỉ huy cấp Tỉnh, Quận được bổ dụng do một người ở hậu trường định đoạt. Đó là ông Ngô Đình Cẩn, bào đệ ông Diệm, với chức vụ "Cố vấn Chỉ đạo" Phong trào Cách mạng Quốc gia (chức vụ này trên danh nghĩa là một tổ chức nhân dân, nhưng trên thực tế là quyền quyết định tối hậu) cũng như ở miền Nam thì do vợ chồng ông Nhu định đoạt. Cũng vì lối bổ dụng đặc biệt này mới có tên Nguyễn Văn Tất nguyên là hương bộ thôn thời Pháp thuộc, nghiễm nhiên thành Tỉnh trưởng Quảng Ngãi; Lê Gia Quyến, cán bộ phù động hạng chót, bỗng nhiên là Quận trưởng Trà Bồng. (Hai tên này khi Diệm đổ thì bị bắt) và còn hàng chục hàng trăm trường hợp bổ dụng tương tự kể sao cho xiết. Cũng vì lối bổ dụng này mới có tên Thái, Quận trưởng Điện Bàn, mỗi khi đi hành hạt có điều phật ý là cầm "ba tông" đánh xả lên đầu viên chức xã. Cũng vì lối bổ dụng này mà các Tỉnh, Quận trưởng mỗi khi về chầu hầu ông Cố vấn chỉ đạo, ông đều xem như tôi tớ, xưng hô "mày tao" nhưng bọn vô liêm sỉ này vẫn gật đầu vâng dạ và xem sự điếu đóm chầu hầu "cậu" là một diễm phúc có hy vọng thăng quan tiến chức hoặc giữ vững địa vị. Trước 1954 các Xã trưởng đều được dân bầu, nhưng thời Diệm đã bãi bỏ bầu cử các viên chức Xã. Lại cho quyền Quận trưởng đề nghị lên Tỉnh trưởng bổ dụng hoặc cách chức viên chức xã, ấp. Vì thế các Xã trưởng, ấp trưởng là những tôi tớ của Quận, Tỉnh hoàn toàn không phải của dân. (Điểm này phải khen ông Diệm thành thật. Tuy phản bội nguyên tắc dân chủ trắng trợn, nhưng lại có minh văn. Nghị định bãi bỏ bầu cử xã 1956). Vì bộ máy chính quyền gồm toàn tay sai, tổ chức theo lối gia nô hóa cho nhà Ngô như vậy, cho nên đã gây ra bao nhiêu tham nhũng bất công, tang tóc, tù đày cho lương dân vô tội nơi nông thôn. Mỗi một chính sách của nhà Ngô đưa ra là dân chúng kinh hoàng. Quốc sách Dinh Điền nghe thuyết trình thì thật hay nhưng thi hành thì lệch lạc sai quấy. Cán bộ Xã, Ấp cứ nhằm những người mình thù ghét hoặc cần làm tiền thì ép buộc phải đi dinh điền. Thế cho nên ở một vài tỉnh đã có người tự tử vì bị ép buộc. Còn những người chịu đi Dinh Điền, khi đến nơi lại bị cán bộ dinh điền hành hạ, đối xử bất công, ăn chận của cấp phát v.v... nhiều sự không tốt xảy ra khiến họ chán nản trốn về, vì vậy tỉnh nào cũng có người ở tù vì chống phá quốc sách dinh điền. Quốc sách Dinh Điền của nhà Ngô trừ một vài vùng tương đối thành công, còn phần lớn, hàng chục vùng Dinh Điền khác đều thất bại hoàn toàn. Dân chúng lũ lượt trốn về quê, rồi bị bắt bớ đánh đập đã tổn phí tiêu hao không biết bao nhiêu công quỹ! Nhà "lãnh đạo anh minh" có lần đi kinh lý một vùng dinh điền nhìn thấy những cây ăn trái được trồng trọt tốt tươi, ngay thẳng, ông ta ban khen, nhưng chính đó là những nhánh cây vừa được chặt cắm xuống đất trong ban đêm, do sáng kiến của khu trưởng Dinh Điền chào mừng Tổng thống. Về Quốc sách Ấp Chiến Lược là một quốc sách vô hiệu, nhưng đã làm phiền nhiễu hành hạ dân chúng không thể kể xiết. Ấp Chiến Lược trước hết là phải rào làng-Xã, Ấp bằng nhằm vào những nhà có của khá giả trong làng đe dọa sẽ bỏ ra ngoài vòng rào vì những lý do "tiện" hoặc "bất tiện" theo ý của họ. Thế là màn trà nước van xin được diễn ra (vì bỏ ra ngoài rào là chết). Rồi đến khi rào làng, thì dân chúng phải tự nai lưng ra tìm kiếm vật liệu như tre, gai, cọc gỗ v.v... và bỏ công đi rào ngày này qua ngày nọ. Còn quỹ Ấp Chiến Lược do Mỹ viện trợ phần nhiều do Tỉnh trưởng, Quận trưởng chia nhau bỏ túi hoặc làm kinh tài cho "Cậu". Sự rào các Xã cho đúng tiêu chuẩn là một điều kiện khó khăn mà dân làng không đủ sức vì quá tốn kém. Vì vậy Ấp Chiến Lược chỉ được rào kỹ một vài đoạn bề mặt để trình diện và để báo cáo. Còn lại, thì chỉ rào sơ sài, ai ra vào cũng được. Nhưng mỗi tháng một lần, Xã, Ấp lại đốc xuất dân kiếm vật liệu như tre, gai đi tu bổ. Người dân biết rõ ràng rào Xã, Ấp như kiểu họ đang làm là một điều vô ích, chẳng ngăn ngừa gì được Cộng Sản, nhưng phải bỏ công đi rào vì không thể không tuân lệnh. Trên đây là một vài nét điển hình về những quốc sách kỳ công của ông Diệm. Thời Ngô, những sự xây dựng cơ cấu dân chủ như bầu cử Quốc hội, Tổng thống là những Trò Hề. Khi chưa bỏ phiếu người dân đã biết rõ ai trúng ai trật một cách chắc chắn. Một Dân biểu thời Ngô, người Thừa Thiên, được chỉ định ra ứng cử tại Quận Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam có cái tên mà dân chúng địa phương không biết y là đàn ông hay đàn bà vẫn đắc cử với số 99% với số phiếu. Đó là ông Lâm My Bạch Tuyết. (Dân biểu này có liên quan trong một vụ buôn gạo của Ngô Đình Cẩn cho Cộng Sản Bắc Việt, bị bắt quả tang, nhưng Tòa án không giám xử). Dân chúng Ninh Thuận vẫn còn nhớ trong năm 1956, ứng cử viên Dân biểu đơn vị Ninh Thuận là ông Trần Trung Dung, cháu rể ông Diệm, từ chức Thứ trưởng Quốc phòng để ra ứng cử. Khi ra Ninh Thuận "tranh cử", ứng cử viên Trần Trung Dung đã được Tỉnh trưởng Ninh Thuận Hồ Trần Chánh tổ chức một cuộc tiếp rước linh đình trọng thể. Dân chúng và học sinh đứng hai bên đường từng đoàn từng đoàn từ ga Tháp Chàm về đến tỉnh lỵ Phan Rang để hoan hô ứng cử viên. Khi ông Dung bước lên diễn đàn để tuyên bố: "Ngày trước Ngô Tổng thống cai trị ở đây, ngài biết rõ dân tình ở đây nên nhờ tôi ra ứng cử ở địa phương này để có thể đạo đạt nguyện vọng nhân dân lên Tổng thống v.v..." Rồi sau đó ứng cử viên Dung được tiếp rước về nhà Công quán của Tòa Hành Chánh Ninh Thuận có lính hầu hạ canh gác trước sau. Chưa bỏ phiếu, dân Ninh Thuận đã biết chắc ông Dung sẽ đắc cử 99% số phiếu. Ai cũng chưởi ông Thiệu độc diễn. Nhưng sự độc diễn của ông Thiệu còn thật thà hơn ông Diệm, là khi ông Diệm ứng cử nhiệm kỳ 2 (1961) có các ông Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Đình Quát dàn cảnh. Mỗi lần ông Quát, ông Truyền đọc diễn văn tranh cử trên đài không có ai nghe được gì hết vì đài bị phá. Cán bộ các ông ấy đi về các tỉnh vận động liền bị Công an tổ chức những nhóm anh chị du côn hăm dọa họ xin tý huyết. Khắp nơi, ngày bỏ phiếu họ trốn về không dám ở lại các tỉnh. Vậy mà sau khi kiểm phiếu Quận trưởng, Xã trưởng phải... chịu khó tráo sửa biên bản để Ngô Tổng thống được 95% số phiếu. Về kinh tế, tất cả tài nguyên từ trên núi xuống bể, mọi dịch vụ tài chánh từ Quảng Trị đến Cà Mâu, thượng vàng hạ cám, đều do tay chân quyến thuộc nhà Ngô bao thầu, thao túng, chiếm đoạt khai thác. Người viết không muốn bẩn bút nhắc đến những ai trong thân tộc hoặc tay chân Ngô triều vốn là Tay trắng chỉ trong vài năm "làm kinh tài cho đoàn thể" đã trở nên triệu phú kếch xù! Ông Diệm nói chống Cộng nhưng tất cả việc làm của Ngô triều đều bắt chước Cộng Sản. Cộng Sản bắt dân suy tôn Hồ Chí Minh thì ông Diệm cũng bắt dân suy tôn mình. Cộng Sản có Quốc Hội bù nhìn, thì ông Diệm cũng tổ chức một cái Quốc Hội nghị gật tay sai. (Quốc Hội gì mà cả một khóa họp chỉ ê a thảo luận các luật gia đình để có lợi cho bà "Đệ Nhất Phu Nhân"?) Cộng Sản có cái đảng Lao Động làm nòng cốt, Mặt Trận Cứu Quốc Liên Việt làm ngoại vi, thì ông Diệm cũng có cái Đảng Cần Lao làm cốt và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Tập Đoàn Công Dân, Phụ Nữ Liên Đới làm ngoại vi. Nhưng có một điều khác là Cộng Sản, từ Đảng đẻ ra chính quyền, còn ông Diệm thì có chính quyền rồi mới dùng nhân sự, phương tiện của chính quyền đẻ ra Đảng. Nên tất cả tổ chức của ông Diệm chỉ là bèo bọt, chính quyền đổ thì đảng đổ theo. Cộng Sản độc quyền ái quốc, ai khác mình là phản động Việt gian, thì ông Diệm cũng độc quyền chống Cộng, ai khác mình là Cộng Sản phải giết! (Đã biết bao người chống Cộng, từng bị Cộng Sản giam cầm, đến khi ông Diệm cầm quyền thì hồ sơ của họ trở thành là những người hoạt động cho Cộng Sản! Biết bao đảng viên Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân một sớm một chiều hồ sơ của họ biến thành Cộng Sản di hại cho họ mãi sau khi ông Diệm đổ). Cộng Sản có chủ thuyết Mác Xít, giai cấp đấu tranh thì ông Diệm cũng ráng nặn ra cái chủ nghĩa nhân vị nhưng hoàn toàn vô vị... (vô vị vì ngoài tay chân ông Diệm ra toàn dân có ai để ý hoặc tìm hiểu các thuyết nhân vị là gì đâu?). Cộng Sản có hiến pháp nhưng không bao giờ thực thi, thì ông Diệm cũng bắt chước mà dẫm nát lên Hiến Pháp của mình. Tự do đi lại, hội họp, ngôn luận v.v... những quyền tối thiểu ấy có ghi trong Hiến Pháp, nhưng suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền có bao giờ thực thi đâu?. Báo chí thời Diệm trừ tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện bị đóng cửa đưa ra Tòa và tờ Tân Dân của Cụ Lộc phải đình bản, còn tất cả đều nói theo luận điệu của đài Sài Gòn. Thế cho nên bao nhiêu hành vi gian ác bất lương, tham nhũng của tay chân cán bộ nhà Ngô có bao giờ được công khai phanh phui như trong các Chính phủ khác?. Từ xưa đến nay chưa có một vị lãnh đạo quốc gia nào làm phiền nhiễu dân chúng như ông Diệm. Mỗi lần ông Diệm đi kinh lý một tỉnh nào thì toàn dân tỉnh ấy phải chuẩn bị cơm nước từ khuya, quần áo tươm tất, đi bộ lên tỉnh để cầm cờ tung hô ông Diệm. (Gia đình nào không có lý do chính đáng mà vắng mặt sẽ bị Xã, Ấp ghi vào sổ đen rất nguy hiểm). Còn các cơ quan Hành chánh, Quân sự Tỉnh, Quận được huy động tối đa trong việc đón tiếp. Phải bố trí công an chìm nổi, phải tổ chức huấn luyện cho những người đứng gần ông Diệm thưa bẩm những gì... phải dàn cảnh sao cho xôm tụ, cho Tổng thống hài lòng. Thành thử dù nghìn lần đi kinh lý, ông Diệm chỉ thấy cái giả dối, hào nhoáng bề ngoài, làm gì biết được ẩn tình dân chúng bên trong..Thời gian ông Diệm cầm quyền ở nhiệm kỳ I, trong nước chưa có chiến tranh nhưng mọi tự do đều bị bóp nghẹt: không có giấy chứng nhận đi bầu cử thì không được ra khỏi làng để đi chợ.. Có một điều kỳ lạ tại sao ông Diệm lại bãi bỏ Lễ Tổ Hùng Vương? nhưng có người mách: điều kỳ lạ này có thể hỏi Đức Cha Cố Vấn cho ông Diệm.. Về việc kỳ thị tôn giáo, bản thân kẻ viết không muốn nhắc đến. Chỉ mong sao các tôn giáo hiện tại tâm thành Đoàn Kết trước quốc thù Cộng Sản vì tất cả các tôn giáo đều đã bị đại khủng bố ở quê nhà.. Nhưng vì có kẻ biện hộ ông Diệm đã nói: Họ chưa thấy ông Diệm ký một sắc lệnh nào nâng đỡ ưu tiên cho Công giáo hay bóp nghẹt Phật giáo mà gọi là kỳ thị?. Vụ tranh đấu Phật giáo đâu phải bất thần nổ ra từ Phật Đản 1963 mà nó đã tiềm tàng âm ỉ từ nhiều năm về trước. Thời ông Diệm tại miền Trung, mỗi tỉnh có một vị Linh mục hầu như cố vấn và giám sát TỉTỉnh trưởng. Những Tỉnh trưởng nào dù lương hay giáo, nếu có hành vi trái ý vị Linh mục thì rất khó tại vị. Vị linh mục sẽ đề nghị lên ông Cố vấn chỉ đạo Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (ông Ngô Đình Cẩn) có biện pháp (hoặc thuyên chuyển hoặc cách chức).. Vì cảm thông uy quyền ngầm của các vị Linh mục, nên các Tỉnh, Quận trưởng thời nhà Ngô không có ai gan làm trái ý những yêu cầu, đề nghị của các vị Linh mục. Nhiều vùng Linh mục đi giảng đạo nơi nào, có thể yêu cầu Xã trưởng cho mượn Trụ Sở Xã, triệu tập dân xã v.v... Trong khi đó các tôn giáo khác muốn hội họp phải xin phép khó khăn. Nhiều Linh mục còn lộng hành hơn nữa là nhận đơn kiện cáo hoặc thỉnh nguyện của các con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến Quận trưởng bảo xử theo ý của Linh mục. Người ta rỉ tai nhau cho biết các Cha rất có thế lực. Cứ vào Công giáo sẽ như ưu dân, sẽ được đề bạt v.v... Có nhiều Linh mục tổ chức Hội chợ, tổ chức sổ số Tombola không cần giấy phép Bộ Nội Vụ. Khi tiêu thụ Tombola, các Linh mục đã nhờ các Quận trưởng gởi cho các xã bán. Nhiều xã đã xuất công quỹ để mua Tombola ủng hộ các Cha. Người viết biết rất rõ có một nhà thờ ở một tỉnh miền Trung, do Tỉnh trưởng dùng uy quyền chiếm trên 2 mẫu đất công, ở một địa điểm tốt đẹp và lươn lẹo dùng phương tiện công quỹ của tỉnh để xây cất tòa nhà thờ đồ sộ ấy. Công việc nửa chừng thì ông Diệm đổ, viên Tỉnh trưởng bị bắt và nhà thờ xây cất nửa chừng phải bỏ dở. Còn biết bao nhiêu tranh chấp lặt vặt phi lý như những thắng cảnh từ lâu vốn là của Phật giáo như Núi Bút Quảng Ngãi, Ngũ Hành Sơn Quảng Nam, chính quyền địa phương đã muốn giúp các linh mục thiết lập nhà thờ ở những nơi ấy nhưng đã bị Phật tử phản ứng quyết liệt. Thời gian thuận lợi 1954-1958 bất kỳ ai cũng có thể cầm quyền làm bằng hoặc hơn ông Diệm. Không cần ông Diệm chống Pháp, Pháp cũng rút, vì Hiệp định Genève đã quy định, và vì Pháp đã ký kết với chính phủ Bảo Đại giao trả độc lập cho Việt Nam. Trước khi ông Diệm về chấp chánh đã có gần 40 nước trong thế giới Tự Do công nhận và bang giao với Việt Nam kể cả Anh, Mỹ và Tòa Thánh Vatican. Nếu nói những khó khăn của ông Diệm thời đó, thì cũng phải nói đến những thuận lợi, tiện nghi của ông Diệm trong việc tiếp thu một chính quyền có sẵn tất cả và Đất Nước Đã Chấm Dứt Chiến Tranh. Đến đây kẻ viết muốn hỏi nhỏ quý vị đang suy tôn ông Diệm: Ông Diệm từ một đường quan Tri Huyện, lần lượt lên Quản Đạo, Tuần Vũ rồi Thượng thư Bộ Lại, nếu thật sự chống Pháp, sao đường công danh của lãnh tụ quý vị lại hanh thông như vậy? (trong thời Pháp thuộc muốn xin một chân giáo viên mà có thành tích chống Pháp bị ty Liêm Phóng (Service de Sureté phê "Avis défavorable" vào hồ sơ là đương sự xem như... "lúa", chỉ có về nhà... xua gà cho vợ). Vậy tại sao đường công danh của "chí sĩ" Ngô Đình Diệm lại lên vùn vụt?. Việc từ quan của ông Diệm chỉ vì chống nhau với ông Phạm Quỳnh đương triều, nhưng ở đây người viết không đề cập đến vấn đề đó. Ông Diệm tự phong mình là người thành tín quân tử, nhưng việc truất phế Bảo Đại là Đại Phản Phúc. Nếu nói chống ông Bảo Đại, thì ai cũng có quyền chống, nhưng trừ ông Diệm. Vì cha, anh ông Diệm và cả ông Diệm vốn là tôi con nhà Nguyễn. Ông Bảo Đại trên nguyên tắc đã tín nhiệm ông Diệm, đã phú thác việc nước cho ông Diệm và ông Diệm đã phục mệnh. Trước và sau khi truất phế ông Bảo Đại, ông Diệm, (qua Bộ Thông Tin) đã thuê bọn bồi bút (hầu hết báo chí thời Diệm) mở một chiến dịch dài hạn đả kích, bêu xấu, vu cáo nhục mạ ông Bảo Đại một cách tàn tệ. Thiết nghĩ một người có lương tâm tối thiểu, không ai nỡ hành xử như thế! Cũng phải khen việc "Trưng cầu dân ý" tổ chức thật chu đáo. Đến Bà Từ Cung mà cũng bỏ phiếu truất phế ông Bảo Đại!. Tóm lại: Ông Diệm Đã Làm Hỏng Đại Cuộc, đã sát hại nhiều phần tử quốc gia, đã tự tâm thiên vị làm hư Công giáo, đã kỳ thị khủng bố Phật giáo đã Lường Gạt Phản Bội Và Vô Cùng Tham Quyền Cố Vị. (Ông đã vận động Quốc Hội thông qua đạo luật cho ông ứng cử lần thứ 3). Do những hành động tham nhũng, đàn áp, khủng bố đại thất nhân tâm như đã kể trên, của bộ máy chính quyền gia nô, do ông lãnh đạo, đã xô đẩy hàng hàng lớp lớp thanh niên, phụ lão, những người vốn không phải Cộng Sản đã ngã về Cộng Sản. Ông Diệm hô hào chống Cộng, độc quyền chống Cộng, cho đến đầu năm 1963 thì toàn quốc ở trong cái thế cài răng lược với Cộng Sản và ông đã tuyên bố trước đó: "Tổ Quốc Lâm Nguy!". Sau khi ông chết, thì tay chân tôi tớ ông vẫn cầm quyền. Hậu quả của Ngô Đình Diệm để lại sau 63 là một ngôi nhà mục nát sửa sang gì cũng khó lòng đứng vững. Bàn cờ nhà Ngô đã đi bậy bạ... Khi sang tay khác đánh cờ, nếu gặp phải tay cao thủ thì còn có thể gỡ gạt..., nhưng không may, bàn cờ lại rơi vào các tay thấp như vịt, cho nên họ chỉ loay hoay lên Tướng, xuống Sĩ và giục Tốt mà thôi! Trách Mỹ lật đổ nhà Ngô ư? Mỹ bồng nhà Ngô lên thì Mỹ lại hạ nhà Ngô xuống, có gì mà đáng trách. Sau khi ông Diệm chết, tay chân nhà Ngô còn trong quân đội, trong chính quyền đã âm mưu phá nát thêm Quốc gia, bí mật mở cửa cho Cộng Sản thao túng vì muốn chứng tỏ: Không có "Cụ" của chúng thì tai hại thế đó. (Đây là một hiện tượng nguy hiểm cho quốc gia sau ngày Diệm đổ mà ít ai để ý). Chỉ tiếc Dương Văn Minh nhu nhược, đã lật Diệm mà chỉ lật nửa chừng, chỉ hạ cái chóp bu còn tay chân vẫn để y nguyên như cũ, sau Diệm có thể gọi là "Diemist sans Diem". Cuộc lật đổ nhà Ngô năm 1963 đáng lý là một cuộc cách mạng vì đã nối tiếp tinh thần quật khởi chống bạo quyền của dân Việt, nối tiếp những hành động đại nghĩa hy sinh liên tục của các chiến sĩ quốc gia dưới thời Diệm trị. Ta có nên kể lại từ một thanh niên Cao Đài hành động như một Kinh Kha tại Ban Mê Thuột năm 1955, từ các sĩ quan Nhảy Dù bao vây dinh Độc Lập 1960, từ 2 phi công ưu tú Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử bắn phá dinh Độc Lập 1962 và biết bao nhiệm vụ mưu sát bạo chúa bất thành, mà chỉ có mật vụ nhà Ngô mới biết rõ, cho đến khi Đại úy Nhung và Thiếu tá Nghĩa căm phẫn trả thù cho các đồng chí của họ. Lật Diệm năm 1963 đáng lý là một cuộc cách mạng vì đã giải thoát hàng vạn người quốc gia trong các ngục tù trên toàn quốc, giải thoát hàng triệu nhân dân đang nghẹt thở dưới một chế độ thối nát học thói độc tài. Toàn dân đã bừng bừng phấn khởi... Nhưng hỡi ơi hương lửa cách mạng chỉ bừng lên vài ba tuần đầu rồi dần dần tắt ngủm, chỉ vì người cầm đầu Dương Văn Minh nhu nhược chỉ muốn cuộc cách mạng ấy là một binh biến hay chỉnh lý thôi. Nhiều người bào chữa cho ông Diệm: Ông Diệm rất tốt chỉ vì tay chân ông làm sai. Lối bào chữa này e giống Cộng Sản: Hồ Chủ tịch luôn luôn sáng suốt chỉ có cấp dưới làm bậy! Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hỉ xả, uất hận bao nhiêu nhưng khi đối phương đã xuống ngựa thì sẵn sàng làm lành với nhau quên đi hết mọi lỗi lầm thù xưa oán cũ. Nhưng cây muốn lặng gió mà gió chẳng dừng, ta bất đắc dĩ khơi lại đống tro tàn để phơi bày sự thật. Vì là chứng nhân nên chẳng muốn ẩn danh. Lê Nguyên Long [Source: Khai Phóng số 7, 1981, USA.Nguồn:fromHoang Thuc An hoangthucan@gmail.com tophonang dateWed, Oct 29, 2008 at 10:48 AM subjectNhan gio cu Diem - Nhân ngày giổ cụ Diệm, xem lại bài báo 27 năm trước (1981)của Lê Nguyên Long : Bất đắc dĩ khơi lại đống tro tàn]
VI- ĐẠI HỌC HUẾ TRANH ĐẤU CHỐNG CHẾ ĐỘ CŨ
Qua hai giờ nói chuyện với Giáo sư Lê TuyênTạp chí BÁCH KHOA (số 171 & 172 ngày 15/2 & 1/3/1964)
Nguiễn Ngu Í
L.T.S. Ông Lê Tuyên là một trong
những người đầu tiên đã từ ngoại quốc về để cùng linh mục Cao
Văn Luận xây dựng viện Đại học Huế. Ông phụ trách môn Việt văn,
đồng thời cũng là tác giả quyển “Chinh phụ ngâm, tâm thức lãng
mạn của kẻ lưu đày”, một tập thơ và có chân trong nhóm Bút
Việt.Ông là một trong những vị giáo sư hưởng ứng phong trào giáo sư và sinh viên Đại học chống chế độ cũ (Ngô Đình Diệm). Cuộc đàm thoại sau đây giữa bạn Nguiễn Ngu Í (của báo Bách Khoa) và ông Lê Tuyên, nhơn dịp ông vô Sài Gòn để họp Hội đồng Nhân sĩ, sẽ trình bày cùng bạn đọc những nét chính của cuộc tranh đấu nói trên. Lần đầu gặp anh ở nhà một người bạn chúng tôi không ngờ người vui vẻ bắt tay mình là người mình muốn gặp. Tôi chờ đợi một thân thể gầy gò, hay một gương mặt xanh xao, hoặc đôi mắt lờ đờ, mệt mỏi: hơn hai tháng trường nằm trong bàn tay sắt của công an mật vụ Ngô Đình Diệm, một trong những người đã từng hướng dẫn phong trào giáo sư Đại học và sinh viên, học sinh Huế chống lại chế độ cũ đang hồi hăng máu, mà vẫn giữ được cái vẻ thư sinh với sắc diện hồng hào, ánh mắt vui cười sau gương trắng, thì quả là một điều ngạc nhiên thích thú. Mặc dầu hai tháng đã trôi qua . . . Như đoán được ý nghĩ tôi, anh mở lời trước: - Tôi bị mất tự do bảy mươi ba ngày, nhưng không bị tra tấn, nên nay mới được như thế này. - Nhưng mà tinh thần anh, họ nào có để yên đâu! Anh cười lặng lẽ. Tôi tiếp: - Lắm khi thể xác mình bị xác xơ, nhưng rồi sức khỏe hồi phục dễ dàng; còn như tinh thần bị dày vò, nhiều lúc bên ngoài có vẻ như chẳng sao đâu, mà bên trong mình vẫn chưa được bình thường. “Chắc anh hiện ở trong tình trạng đó.” Anh xác nhận bằng một cái gật đầu nhẹ. - Tôi thấy con người tôi chưa được bình thường như trước, tuy tôi được về với gia đình, với xã hội đã trên hai tháng. - Cũng trên hai tháng nay, anh em chúng tôi muốn tiếp xúc thân mật với anh, để nhờ anh mà hiểu đầu đuôi phong trào giáo sư, sinh viên Đại học Huế chống đối với chánh phủ trước. Vì nếu sinh viên và học sinh Sài Gòn tiếp tục và kết thúc phong trào chống lại bạo quyền, thì cái danh dự giương cao lá cờ chống đối, vốn là phần sinh viên và học sinh Huế, trong đó có thể nói các anh em giáo sư Đại học là linh hồn. Cách tổ chức, những kinh nghiệm cùng các biến cố từ ngày phong trào nhen nhúm đến khi bị đàn áp, rã tan … chúng tôi nghĩ rằng người Việt nào cũng muốn biết. Vẫn biết anh là người trong cuộc, nói ra làm sao tránh khỏi cái “tôi”, điều người trí thức nào cũng kị. Nhưng nếu người trong cuộc mãi giữ im lặng, thì dư luận ắt là phải nghe tiếng nói của người ngoài cuộc, thế nào cũng thiếu sót, nếu chẳng phải sai lầm. Thấy anh ra chiều nghĩ ngợi, tôi lại tiếp: - Hẳn anh cũng thấy, chúng ta đang ở trong một thời kì chưa ổn định. Bây giờ chúng ta ngồi đây, thong thả chuyện trò; ai biết ngày mai sẽ dành cho chúng ta những cái bất ngờ gì. Vả lại, chúng ta từng khó chịu – và lắm khi tủi hổ - phải tìm hiểu những gì xảy ra ở nước mình, hay cách mình mấy bước, qua đài phát thanh, qua báo chí, qua bản tin nước người! Chẳng lẽ anh lại nỡ để chúng tôi phải chờ người ngoại quốc cho biết sự thật về vụ này, khi nào họ muốn! Tới đây, anh vòng tay ôm lấy hai đầu gối, chậm rãi nói: - Các anh hiểu cho. Sở dĩ tôi lần lữa, là vì tôi đã hành động với một số anh em. Cần hội ý với nhau trước để xét xem có nên hay không. Nếu anh em thấy lúc này có thể nói, thì tôi có tiếc gì với Bách Khoa. Thế là đành phải chờ anh vào họp (1) khóa sau vậy. Lần này, thì anh “được phép” nói. Và chính tôi lại lúng túng, không biết nên hỏi về giáo sư trước hay về sinh viên trước! Anh thì sẵn sàng “chịu đựng”. May sao một câu hỏi ổn thỏa vụt đến: - Chẳng hay cuộc tranh đấu của giáo sư và của sinh viên xảy ra đồng thời hay nó … so le? - Đồng thời, và bên trong, có cả một chương trình hành động. - Hai bên chắc có một sự lãnh đạo chung? - Lãnh đạo chung thì không có, nhưng hai bên thường liên lạc với nhau để biết phải làm gì và để hành động ăn khớp với nhau. - Phong trào nổi dậy nhơn cuộc đàn áp tín đồ Phật giáo trong ngày Phật Đản (2), song âm ỉ từ lâu ? - Âm ỉ thì chẳng riêng gì viện Đại học Huế. Anh nhớ lại không khí trong nước lúc bấy giờ, đâu cũng nghẹt thở. Cốc nước đã đầy, vụ đàn áp trắng trợn và vô nhơn đạo trên kia là giọt nước cuối cùng làm cho nước phải tràn ra. Chúng tôi ở ngay tại chỗ, thấy tận mắt, nghe tận tai, nên công phẫn trước. Tôi có thể nói rằng, ngày lịch sử ấy tại Huế, quần chúng thế nào, thì sinh viên, giáo sư thế ấy! - Nghĩa là máu nóng sôi lên, và không còn sợ gì nữa? Anh mĩm cười rồi nói: - Tôi xin kể lại đầu đuôi. Chiều ngày 7 tháng 5 - tức 14 tháng 4 ta – tôi đang dùng cơm với cha Luận, thì nghe tin Chánh phủ ra lịnh cấm treo cờ Phật trong dịp Phật đản. Tôi rất đổi ngạc nhiên, linh tính báo có điều gì khác thường; cha Luận cũng sững sốt. Đến 9 giờ tối, thì lại được tin ông tỉnh trưởng Thừa Thiên nhượng bộ và mai – ngày Phật đản – chùa chiền, nhà cửa của Phật giáo đồ được treo cờ. Ai nấy tưởng thế là yên. Nào ngờ sáng hôm sau, sự thật lại khác. Thế là dân chúng tự động biểu tình, rồi cuộc biểu tình biến thành mết tinh. Những gì đã xãy ra trong ngày Phật đản, hẵn các anh đã rõ, báo chí đã thuật lại, nhất là thiên hồi ký của thượng tọa Thích Trí Quang. Tôi chỉ kể đôi chi tiết nhỏ anh nghe. Đêm rằm ấy, 9 giờ quân đội xịt nước rồi bắn vào đám đông đang tụ tập trước đài phát thanh. Ông tỉnh trưởng đã đích thân ra (vì lúc bấy giờ, ông và thượng tọa Thích Trí Quang đang ở trong đài) yêu cầu ngưng xịt nước và ngưng bắn, bộ đội chẳng thèm đếm xỉa … - Như thế là đã có lịnh trên rồi. Nhưng ai ra lịnh ấy ? Ông Cẩn, ông Thục ? Hay ông Nhu, ông Diệm ? - Đến giờ, tôi cũng chưa biết rõ. Đạn bắn qua trường Đại học, đối diện với đài phát thanh, làm bể mấy tấm cửa gương, hiện nay vẫn còn để làm chứng. Sáng lại, xe đạp và guốc, giép vứt bỏ ở trước đài phát thanh nhiều đến đỗi Chánh quyền phải cho mấy xe cam nhông đến để thu dọn. - Sáng hôm sau, anh có đến thăm ông Luận ? - Có. Lúc 7 giờ. Bàn về vụ rắc rối đêm qua, cha cho là do Việt cộng liệng plastic gây nên. Nhưng đến trưa, thì theo tin riêng của phái bộ quân sự Hoa Kì cho biết, họ đã lượm được những quai lựu đạn, đã đục tường đài phát thanh để lấy đạn bắn ghim vào đó, những thức ấy là loại võ khí do Hoa Kì viện trợ. Bởi vậy họ điện về tòa đại sứ ở Sàigòn xác nhận rằng chính những quân nhân được điều động để đàn áp cuộc biểu tình đến đó đã gây ra cuộc đổ máu, chứ chẳng phải Cộng sản. Họ lại nhấn mạnh thứ lựu đạn đưa ra sử dụng là lựu đạn tự vệ, chớ không phải lựu đạn tấn công. - Có gì khác nhau giữa hai thứ lựu đạn ấy ? - Lựu đạn tự vệ mạnh hơn lựu đạn tấn công. Im lặng một hồi tôi mới hỏi tiếp: - Thái độ đầu tiên của các anh chắc là dè dặt. - Phải nói là rất dè dặt. Vì thấy Chánh quyền chưa tỏ gì gọi là nhượng bộ. Khiến đại úy Minh báo cáo về văn phòng ông cố vấn Chánh trị, đại khái: “Tụi trí thức Huế không có phản ứng gì cả”. - Nhưng lúc đó, các anh nghĩ sao ? - Chúng tôi bàn riêng với nhau: lần nầy, Chánh quyền không giải quyết ổn thỏa thì Chánh phủ chết đến nơi. Đổi đi vài người có trách nhiệm trong vụ nầy; trừng trị nặng vài người gây cuộc đổ máu. Đừng để kéo dài. Dân chúng sẽ phản ứng mạnh, thì tức nước vỡ bờ. Đa số đồng bào dù không phải là Phật tử, nhưng không bằng lòng Chánh phủ từ lâu, nay gặp dịp, tất nhiên họ sẽ đứng vào một mặt trận với các Phật tử để tranh đấu … - Tôi nhớ dường như lúc gay cấn nhất, ông Cao Văn Luận đi Mĩ thì phải.. Anh gật đầu: - Cha từ giã Huế đúng vào hôm có cuộc biểu tình vĩ đại của Phật giáo. Có trên bảy vạn người. Đó là ngày thứ sáu, 10 tháng 5. - Thế thì ai trông nom viện Đại học khi ông viện trưởng vắng mặt ? - Anh Lê Văn xử lí thường vụ, nhưng lúc cha Luận đi, anh Văn đang bận việc ở Sàigòn, nên cha nhờ anh Lê Văn Diệm, khoa trưởng Văn khoa, coi giùm công việc trường. Cha Viện trưởng đi hôm trước thì hôm sau chúng tôi được giấy mời đến chùa Từ Đàm vào lúc 6 giờ chiều hôm ấy để nghe trình bày đơn phương về vụ đáng tiếc vừa xảy ra. Giấy mời từng người nên chúng tôi dễ định đoạt. Ai muốn đi thì đi, ai không muốn đi thì tùy. - Thế thì như thế giới, giới giáo sư các anh cũng chia làm hai phe ! - Phe đã “dấn thân” (engagé) thì mượn công xa, xe của Viện, mà đi, để tỏ rằng việc mình làm tỏ rõ như ban ngày; còn phe ngần ngại thì ở nhà hay đi cửa Thuận nghỉ mát ! - Phe nầy có nhiều không anh ? - Độ mươi người. - Buổi trình bày đơn phương ở chùa Từ Đàm ngày 11 tháng 5 ấy, có dân chúng không ? - Không. Chỉ có giáo sư, học sinh và sinh viên. - Chắc là Thượng tọa Thích Trí Quang đứng lên trình bày. - Phải. Ông giải thích năm nguyện vọng, và cho rằng Phật giáo đòi hỏi như thế chẳng có gì là quá đáng. Cử tọa đồng ý cho rằng đòi hỏi như vậy là điều chánh đáng. - Chắc là sau đó, tên các anh em đi dự bị ghi vào sổ đen. - Chẳng những thế, mà sau đó ông Cẩn cho gọi một anh, trách: lên đó làm chi để Phật giáo họ lợi dụng sự có mặt của các giáo sư Đại học mà tuyên truyền. Anh bạn nọ trả lời trôi chảy: bởi có giấy mời chứ nào tự động; vả lại, chính quyền cũng chẳng cấm người đến nghe. Nhưng tình hình mỗi ngày mỗi nghiêm trọng. Chính phủ chưa có dấu gì là nhượng bộ, mà có vẻ “hoãn binh”. Anh ngưng nói, nhớ một điều gì: - Tôi muốn nói với anh: trước kia, anh em giáo sư Đại học Huế đã chận đứng tại ngưỡng cửa Đại học những gì của vợ chồng Nhu. Bất cứ tổ chức gì định lợi dụng giáo sư, sinh viên, là chúng tôi tìm mọi cách “mời” nó ra xa. Như tổ chức “Thanh niên Cọng hòa” là một, tổ chức “Phụ nữ bán quân sự” là hai, và “Tổng hội giáo giới” là ba. - Nhưng còn trại Giáo dục ở Suối Lồ Ồ vào khoảng tháng sáu ? - Lúc đầu, chúng tôi định phản đối trại ấy một cách thụ động: Không tham dự. Nhưng vài anh em ngại không đi tức là ra mặt chống đối rồi, thì càng bị để ý, chi bằng một số ở nhà một số đi. Như thế, Chánh quyền chẳng bắt bẻ vào đâu được. Đi để nghe ngóng, để hiểu thái độ anh em ở Sàigòn, cũng có cái lợi. Ý kiến nầy được chấp thuận. Một số lớn đi Lồ Ồ, một số nhỏ ở lại Huế. - Anh ở lại ? - Tự nhiên là tôi ở lại. Tôi cần có mặt ở Huế hơn là ở Lồ Ồ. Và chính trong thời gian các bạn dự trại, ở Huế có cuộc biểu tình tuần hành lớn. Và chính trong cuộc biểu tình, người ta thấy xuất hiện đoàn sinh viên Phật tử. Và đoàn sinh viên nầy gởi bản kiến nghị đầu tiên cho Tổng thống, yêu cầu thực thi bản thông cáo chung. Chánh quyền có ý làm khó dễ viện Đại học về vụ nầy, chúng tôi phản đối ngay, vì họ đi biểu tình, họ viết kiến nghị, không phải với tư cách sinh viên suông mà là với danh nghĩa sinh viên Phật tử, một việc làm không còn thuộc phạm vi viện Đại học. Khi cuộc biểu tình vừa xảy ra, tôi có đánh điện vào anh em ở Suối Lồ Ồ nên anh em đã có thái độ sẵn. Bởi vậy, trong một buổi họp, khi một vị theo phe chánh quyền yêu cầu tất cả giáo sư Đại học thông qua một bản tuyên ngôn đã được soạn sẵn lên án hành động của sinh viên Huế thì một giáo sư Huế lập tức đứng lên phản đối là anh em ở xa, không thể biết việc làm của sinh viên ngoài ấy đúng hay là sai, mà vội lên án được. Lập trường của anh em giáo sư ở Huế được đa số bạn đồng nghiệp ở Sàigòn ủng hộ. Khi bỏ phiếu để lấy quyết địng của hội nghị, tuy thắng “phe địch” có hai lá thăm, nhưng anh em Huế cũng tự hào rằng mình đã thắng trong ván đầu, Không khí nặng nề càng đè nặng lên Huế. Chùa chiền bị canh gác. Ai lên chùa Từ Đàm đều bị khám xét. Trọn tháng bảy, chúng tôi chỉ liên lạc với nhau để nhận định cho rõ ràng tình hình hầu có một quyết định hành động. Chúng tôi phải tỏ ra hết sức thận trọng; những con mắt của Công an Mật vụ đã hướng về phía chúng tôi. Nhưng bước qua tháng tám là phong trào bột phát. Sinh viên Phật tử bắt đầu lên tiếng than phiền: “Thời thế như thế nầy mà các thầy còn ngồi yên”. Tôi cười: - May mà họ mới trách móc nhè nhẹ chớ chưa nặng lời mạt sát ! - Ấy cũng nhờ họ hiểu chúng tôi. Anh em chúng tôi đã ôn tồn nói với họ: “Không phải các thầy lãnh đạm thờ ơ. Nhưng các em là Phật tử, còn các thầy không phải người theo đạo Phật hết. Các thầy ở Đại học, các thầy chờ một sự kiện đặc biệt liên quan với Đại học, các thầy sẽ lên tiếng. Mà sự kiện kia thế nào cũng xảy ra. Chẳng phải các thầy trốn trách nhiệm. Nhưng giờ các thầy chưa điểm …” Nói thế, song thấy các học sinh sinh viên bị bắt bớ, bị tra tấn, mà vẫn âm thầm hoạt động, chúng tôi cũng thấy khó chịu. Ngày nào chúng tôi cũng họp. Chúng tôi có đặt vấn đề với cha Luận. Cha Luận thì chủ trương ôn hòa: ta không làm thì thiên hạ cũng làm; chế độ nầy không thể tồn tại lâu; chúng ta làm gì bây giờ cũng sẽ bị đối phương chúng ta - Cộng sản - lợi dụng để khai thác. Nhóm đầu não không chịu. Họ thấy cần tỏ thái độ mình ngay. Ngày 14 tháng 8, nhân một chú tiểu chùa Phước Duyên tự thiêu (đêm 12 rạng 13), chúng tôi họp bàn với nhau, đặt vấn đề: nói thẳng với linh mục viện trưởng. Rồi vụ một người thợ mộc chùa Từ Đàm bị ám sát bí mật … Tôi ngắt lời anh: - Chúng tôi ở trong nầy chưa biết việc nầy. Chẳng hay người thợ mộc ấy có làm gì … - Người thợ ấy lãnh việc treo biểu ngữ cho nhà chùa. Một khuya nọ, có người kêu cửa, anh ra là bị bắn chết. - Và chẳng tìm ra thủ phạm ! - Chúng tôi xét rằng mình không thể kéo dài thái độ chờ đợi nữa. Bên chánh quyền ngày càng nghi ngờ, mà bên sinh viên đã bắt đầu lộ vẻ khinh khi. Tôi với anh Trường bèn đến nhà riêng cha viện trưởng xin từ chức. Cha không nhận, buồn ra mặt, yêu cầu chúng tôi đợi ít ngày, vì từ chức ngay bây giờ không lợi. Thì ngày hôm sau, 15 tháng 8, nhân lễ Đức Bà, học sinh và sinh viên biểu tình. Chính quyền thả chó dữ đàn áp, có cuộc xô xát, và một số sinh viên bị bắt. Tình trạng căng thẳng quá rồi. Ngay chiều hôm đó, sinh viên Phật tử cử một phái đoàn đến yết kiến linh mục viện trưởng với hai yêu sách: 1- Cha viện trưởng và giáo sư Đại học phải tỏ rõ thái độ của người trí thức. 2- Cha viện trưởng và các khoa trưởng can thiệp ngay với chánh quyền để các sinh viên bị bắt được trả lại tự do. Về yêu sách thứ nhì, nếu không được chấp thuận, thì ngay chiều hôm sau, sẽ có một sinh viên tự thiêu trước viện hay trước chùa Diệu Đế. - Thế linh mục Luận đối phó ra sao ? - Cha đã rơi lệ. Vì con người Đạo và con người Đời xung đột quyết liệt trong cha, không thể dung hòa được nữa. Cha triệu tập hội đồng khoa trưởng và giám đốc lại. Chúng tôi tường thuật những sự việc đã xãy ra và sau cùng cha Viện trưởng nhận lãnh trách nhiệm can thiệp với chánh quyền để trả lại tự do cho tất cả sinh viên Phật tử bị bắt giam. Trong khi đó, Phật giáo càng tranh đấu mãnh liệt – trong sự bất bạo động. 4 giờ rưỡi khuya ngày 16 tháng 8, chùa Từ Đàm đã chuẩn bị xong cho đại đức Thích Tiêu Diêu châm ngòi lửa vào người. Chánh quyền đối phó bằng cách thiết quân luật vào lúc 6 giờ sáng. Xe tăng ở ngã tư đường, rào thép gai đây đó. - Thế các anh cũng đối phó chớ ? - May thay, cơ hội đến đúng lúc. Sáng ngày ấy, có cuộc thi về Văn chương Việt Nam do tôi chịu trách nhiệm. Tôi nhắn bảo sinh viên đừng thi vì sinh viên ở ngoại ô không đến được, thi là gây thêm một sự bất công. Tôi bèn nhờ cha Luận điện thoại cho ông đại biểu Chánh phủ xin phép hoãn cuộc thi. Tự nhiên là người thay mặt chánh quyền nầy cho phép ngay. Lúc ấy vào khoảng 8 giờ, chúng tôi – 5 anh em - họp nhau ở ngoài hành lang … - Sao các anh không họp ở trong phòng lại đứng ở ngoài hành lang ? - Vì chúng tôi được biết An ninh quân đội đã móc thêm dây đặc biệt vào điện thoại ở viện, nói gì ở phòng họp đều bị người ta biết cả ! Chúng tôi cũng đồng ý ở điểm chánh quyền họ Ngô đã để lộ bộ mặt tàn bạo, vô nhơn đạo của họ rồi, thì chẳng nên chần chờ gì nữa. Người sống tay không, họ cho xe tăng cán bừa lên, liệng lựu đạn át-xít vào đám học sinh sinh viên; người chết tự thiêu, họ cướp xác chôn vùi ở đâu không ai biết, hoặc xin họ cái hòm để chôn cho kịp, họ cũng không cho. Tàn bạo với người sống, vô nhơn đạo với người chết. Không thể tiếp tay cho một chế độ phi nhơn như thế. Nhưng muốn tranh đấu có hiệu quả nhiều, phải làm một người dân thường; chớ còn bị ràng buộc bởi những chức týớc, ðịa vị, thì vướng bận lắm. Phải cùng nhau xin từ chức ngay. Nhưng sau đó, ông tổng thư kí viện Đại học cho hay linh mục viện trưởng vừa đi Đà Nẵng, ông không có quyền nhận sự từ chức của chúng tôi, vậy chúng tôi hãy chờ cha Luận sẽ về ngay chiều hôm ấy. Chúng tôi liền yêu cầu ông tổng thư kí ghi vào nhật ký của viện để làm bằng, rằng vào ngày đó, giờ đó, chúng tôi có đến xin viện trưởng từ chức. Chiều hôm đó, ông bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục ra Huế cùng với ông Trần Hữu Thế, tân viện trưởng. Hai ông ở Sàigòn ra lúc 5 giờ thì 7 giờ, cha Luận hay tin mình bị cách chức, nhờ ông Thế báo tin riêng nên anh Hanh, khoa trưởng Khoa học, cũng biết. Nhưng vì lúc đó nhằm giờ thiết quân luật, anh chỉ có thể cho những người ở cùng một khu với anh hay được thôi. Hôm sau, 17 tháng 8 lúc 6 giờ, tôi được anh Nguyễn Văn Thạch cho biết tin. Chúng tôi kéo đến nhà cha Luận. Được biết 9 giờ làm lễ bàn giao, chúng tôi vội vã họp nhau lại ở nhà anh bác sĩ Quyến để phác họa chương trình sẽ cho “bom nổ” cùng một lúc: cha Luận vừa hết nhiệm vụ là chúng tôi lần lượt từ chức, để anh cao niên nhất mở đầu, rồi theo thứ tự tuổi lớn nhỏ. Cần cho ngoại quốc biết tin sốt dẻo nầy ngay. Anh em giao tôi việc thảo thông cáo. Tôi thảo xong đọc lên, anh em đồng ý, bèn đánh máy rồi cho người mang trao cho đài VOA, Associated Press và UPI. - Xin anh cho biết nội dung bản thông cáo ấy. - Chúng tôi xin từ chức khoa trưởng, giáo sư Đại học vì bị ba xúc động liên tiếp: Chánh phủ đàn áp Phật giáo - Chánh phủ không thực thi bản cam kết với Phật giáo - Chánh phủ cách chức viện trưởng Cao Văn Luận. - Thế “âm mưu” của các anh có được hai ông Trình, Thế biết trước buổi họp không ? - Không. Tất cả khoa trưởng, giáo sư đều đủ mặt. Ông Trình nói ít lời, đọc sắc lịnh bổ ông Thế đảm nhiệm chức viện trưởng thay cha Luận. Rồi cha Luận đứng lên nói rằng cha sung sướng mà thấy ngày mong đợi đã đến vì vai trò người viện trưởng rất quan trọng, nặng nề, nhất là viện Đại học Huế đang ở thời xây dựng. Cha là người tu hành, không thể kéo dài công việc ngoài đời mãi được. Hơn nữa, không khi nào cha cho mình là người không thể thay thế được. Và cha đọc một câu của Valéry: “Les cimetières sont remplis de gens irremplaçables” (3). Cha Luận nói tiếp: cha nghĩ rằng Văn Hóa lúc nào cũng trường tồn, nhưng đôi khi nó bị Chánh trị lãnh đạo. Vậy, muốn làm việc đắc lực cho Văn hóa lúc nầy đây, người lãnh đạo viện Đại học phải là người có cái “thế” chánh trị. Tưởng không ai hơn ông tân viện trưởng. Ông Trần Hữu Thế là người “có thế” hơn ai hết: ông có cái thế của Tổng thống tức là cái thế của Chánh phủ; lại có cái thế của tổng giám mục Huế tức là cái thế của mấy trăm ngàn giáo dân. Từ trung ương đến địa phương, từ đời qua đạo, thì chắc rằng viện Đại học Huế sẽ có một tương lai vô cùng tốt đẹp, và hơn hẳn quá khứ đi rồi … - Hẳn là mặt ông Thế lúc đó xám xịt ? - Anh đoán sai. Mặt ông ấy xanh ngắt. Rồi cha cảm ơn các vị giáo sự và yêu cầu chúng tôi cộng tác với tân viện trưởng như đã cộng tác với cha. - Đến phiên ông Thế, chắc ông cũng tìm cách “trả đũa” ông Luận ? - Đại khái ông Thế cho biết ông đã cố gắng xây dựng Đại học Huế ngay từ khi ông còn làm bộ trưởng. Bằng cách tỏ ra rất dễ dãi về mặt hành chánh, để cho cha Luận mọi sự tự do hành động, lắm khi cha Luận trực tiếp với Tổng thống mà không qua ông, theo hệ thống dưới trên, nhưng ông không lấy thế làm buồn, hiểu rằng cha Luận sở dĩ làm thế vì quá thiết tha với viện, muốn cho công việc được mau chóng. Ông chỉ đảm nhiệm chức vụ này trong một thời gian thôi, trong giai đoạn chuyển tiếp vì ông phải trở về với chức vụ đại sứ tại Phi Luật Tân của ông. - Ông tân viện trưởng dứt lời chắc cử tọa vỗ tay như thường lệ. - Không ai vỗ tay cả. - Cả ông bộ trưởng ? - Cả ông bộ trưởng cũng không buồn vỗ tay. Ông Thế vừa ngồi xuống trong im lặng thì bác sĩ Lê Khắc Quyến, người lớn tuổi nhất, khoa trưởng Y khoa, đứng lên xin từ chức. Nhưng trái với bản thông cáo gởi cho các đài ngoại quốc, anh chỉ nói: vì xúc động bởi việc cách chức cha Luận. Rồi đến anh Bùi Tường Huân, khoa trưởng Luật khoa, anh Tôn Thất Hanh, khoa trưởng Khoa học, anh Nguyễn Văn Trường, giám đốc ban Khoa học Đại học Sư phạm. Anh Lê Văn Diệm thấy anh em đồng lòng như thế bèn tìm một lối ra khác là xin ông bộ trưởng cho du học ngoại quốc một năm ! Đến tôi, tôi đưa ra hai lẽ: một là vì tôi là học trò của cha Luận, cha Luận gọi về công tác tôi mới về; hai là ở trong tình trạng nầy, tôi ở lại đây không làm được gì. Đến đây, ông Trình không cho ai nói nữa, viện lý do: đây là lễ bàn giao giữa hai ông tân và cựu viện trưởng. Các giáo sư có muốn từ chức xin nói sau với ông viện trưởng mới. - Thế ông đại biểu chánh phủ chẳng nói gì sao ? - Sao lại không, anh. Ông Khương nói với vẻ hăm dọa tế nhị. Ông bảo rằng chúng tôi không vì quyền lợi cá nhân mà về Huế (Huế kém quyến rũ, quyền lợi vật chất không nhiều), thì khi đưa ý kiến từ chức hẵn là chúng tôi muốn xa Huế lâu dài vậy. - Tôi hiểu lời hăm dọa tế nhị ấy rồi. Muốn xa Huế lâu dài tức là muốn bị đày ra miền quan tái như chàng Giang Châu tư mã đời Đường, hay muốn bị nhốt dưới một hầm bí mật nào của cậu Cẩn. Chắc anh cũng có lời gì với vị đại diện chánh quyền ấy ? - Có, nhưng mà thẳng thắn hiền lành. Anh Nguyễn Hữu Trí đáp lại: chúng tôi về Huế là để phục vụ cho viện Đại học Huế, nay xét không thể phục vụ được như ý thì xin từ chức. Chớ ở lại mà chẳng làm được gì thì chẳng hóa ra phụ người mà cũng phụ mình. Còn như phải xa Huế là việc đã đành. Ông Trình vội vàng tuyên bố bế mạc buổi lễ bàn giao. Chúng tôi đưa bản thông cáo cho một số anh em, được 27 người ký; sau đó, số người lên đến 45. Một phái đoàn được cử đến tòa lãnh sự Mĩ để cho hay rằng công việc đã xong xuôi. Ở đây, họ đã dịch tờ thông cáo của chúng tôi rồi, và hỏi chúng tôi có định rút lại đơn từ chức không. Chúng tôi trả lời không, chỉ trừ khi nào chánh phủ giải quyết êm đẹp với Phật giáo, sinh viên, cha Luận. Ngay sau đó, vào lúc 10 giờ 10 phút, ông Thế nhờ anh đưa lên thăm chùa Từ Đàm. Gặp lúc dân chúng lên chiêm ngưỡng Xá Lợi của đại đức Tiêu Diêu, người đông như thác. Ông Thế mất tinh thần. Trở về, lại được nghe bản thông cáo của chúng tôi. Ông thấy mình bị cô lập nên lẽn về Sài Gòn tức khắc (lúc 10g.30) Ngay hôm đó, lúc 11 giờ, chúng tôi đến thăm cha Luận. Cha cho biết sắp đi Đà Nẵng để rồi đi Sài Gòn. Chúng tôi khuyên cha hãy ở lại Đà Nẵng để chúng tôi tiện bề liên lạc, có gì thì bàn tính với nhau trước khi định thái độ. Chiều ngày 17, sinh viên biểu tình. Chúng tôi có đưa ý cho anh em tách cuộc tranh đấu nầy ra ngoài cuộc tranh đấu Phật giáo. Anh chị em biểu tình là để phản đối Chính phủ cách chức cha Luận, do đó đa số giáo sư phải từ chức. Mục đích là để yêu cầu cha Luận và các giáo sư ở lại. Tuyệt nhiên không nói gì đến vấn đề Phật giáo cả. - Như thế là các anh đặt Chính phủ đứng trước hai vấn đề rắc rối cả hai ! - Có phải thế không anh. Gom lại một thì ít thì yếu. Tách ra làm hai: sinh viên Phật tử tranh đấu để bảo vệ Phật pháp, tất cả sinh viên tranh đấu để giữ lại viện trưởng và giáo sư - thì làm khó dễ Chánh quyền thêm ! Hai giờ chiều, ông Trình cho mời chúng tôi tới, yêu cầu rút đơn từ chức. - Ông bộ trưởng yêu cầu các anh chung một lần hay riêng từng người ? - Riêng từng người. Nhưng không phải ông gặp chúng tôi hết, một số được ông tiếp, còn anh Trường và tôi thì lại “bị” ông đại biểu chánh phủ ngỏ ý muốn gặp. - Tiếp hai anh một lượt ? - Không, anh ạ. Ông ta chỉ mới ngỏ ý muốn gặp riêng từng người. Chúng tôi phản đối. Ông bộ trưởng là cấp trên trực tiếp, ông muốn tiếp từng người cái đó tùy ông; còn ông đại biểu chánh phủ là người thay mặt chánh quyền tiếp người này trước rồi đến người kia, ai biết ông sẽ dở trò gì đối với một người chống đối mà ông định mua chuộc hay dọa dẫm, không ai làm chứng. Nên chúng tôi đưa điều kiện mời hai người một lần chúng tôi mới chịu. - Nhưng ông ta không chịu ? Anh mĩm cười, và mắt anh mơ màng sau kính trắng như để nhớ lại cảnh và người hôm ấy. - Trong lúc ấy, hơn ngàn sinh viên kéo đến nhà cha Luận thì cha Luận đã đi Đà Nẵng trước đó năm phút. Lúc bấy giờ là hai giờ rưỡi. Đoàn sinh viên đi xuống tòa đại biểu để trình kiến nghị cho ông bộ trưởng, cuộc biểu tình nầy được ông tỉnh trưởng Nguyễn Văn Hà cho phép. Ông Trình coi mòi không êm, gọi máy bay ở Đà Nẵng ra Huế rước ông về Sàigòn gấp. Máy bay ra nhưng sinh viên đã vây chặt tòa đại biểu, ông đành chịu kẹt. Ông đại biểu Chánh phủ cho mời một phái đoàn sinh viên vô, nhưng sinh viên không chịu, họ yêu cầu hoặc cho họ vô hết hoặc ông bộ trưởng ra. Ông bộ trưởng đành nhượng bộ. Họ lễ phép trình bày nguyện vọng và trình bản kiến nghị đệ lên Tổng thống. Trong bản kiến nghị “toàn thể sinh viên thuộc các phân khoa viện Đại học Huế, họp tại trường Đại học Khoa học lúc 14 giờ ngày 17-8-1963” yêu cầu Tổng thống thâu hồi lệnh bãi chức viện trưởng của linh mục Cao Văn Luận và tìm mọi phương sách để các khoa trưởng và giáo sư đã từ chức đảm nhận lại chức vụ của mình - cũng trong bản kiến nghị nầy, các sinh viên “quyết định bãi khóa cho tới khi nguyện vọng trên đây được thỏa mãn”. Đưa kiến nghị xong, họ về cầu Tràng Tiền định diễn hành sang phố nhưng bị Cảnh sát Chiến đấu bao vây nên phải tập trung lại trong tòa Khâm sứ cũ và giải tán tại đó. Bốn giờ, chúng tôi họp để vận động anh em từ chức, nhưng có bảy anh chẳng khứng. - Anh cho biết nhân viên giảng huấn của viện được bao nhiêu người ? - Được từ 52 đến 55 người mà có 45 người ký vào đơn xin từ chức. - Như thế số người đứng ngoài cuộc tranh đấu không là bao. - Nhưng chúng tôi muốn không có một bạn nào đứng riêng nên cố vận động với anh em Đại học Văn khoa: chưa có một chử ký nào của anh em này cả. Các anh ấy hẹn ngày mai, để tối suy nghĩ lại và ra về. Những bạn đã xin từ chức ở lại bàn với nhau nên đặt kế hoạch hẳn hoi. Đã ra mặt chống đối Chánh quyền - dù là tiêu cực đi nữa - thì cần phải có quĩ tranh đấu. Mỗi anh em góp một số tiền để thành lập quĩ. Chớ còn dùng phương tiện của Chánh phủ (như đánh máy, quay rô-nê-ô) thì danh bất chánh mất. Rồi chúng tôi chia tay, hẹn họp lại sáng mai, chủ nhật 18-8. Trước khi họp, bác sĩ Quyến cho hay ông Cẩn khi được biết cha Luận bị cách chức, có thốt một câu: “tụi nó đạp trên đầu tôi mà đi” ! Trong phiên họp sáng 18-8 này tại Đại học Sư phạm, chúng tôi quyết định đánh điện cho ông bộ trưởng cho hay vẫn giữ lập trường. Chúng tôi cũng đánh điện cho hai viện Đại học Sàigòn và Đà Lạt, báo tin việc chúng tôi từ chức chớ chưa kêu gọi các bạn đồng nghiệp hai nơi này ủng hộ. Rồi chúng tôi thảo một bức thư ngỏ cho toàn thể giáo chức Tiểu, Trung và Đại học toàn quốc. Đến chiều thì bức thư ấy được anh em giáo chức duyệt y và đồng ý gởi đi. Trong thư có những đoạn nguyên văn như sau: … Tình trạng sinh viên của viện Đại học Huế càng ngày càng trầm trọng vì tinh thần của họ luôn luôn bị căng thẳng bởi tất cả lực lượng quân sự hay võ trang, bấy lâu nay chỉ biết thẳng tay đàn áp chứ không quan tâm đến sự thực thi bản Thông cáo chung giữa Phật giáo và Chánh phủ. Hầu hết sinh viên đều là Phật tử, và họ đã gánh chịu một cách thê thảm hậu quả tàn khốc của những vụ đàn áp đến nỗi ngày 15-8-63 vừa qua, một phái đoàn Nam Nữ Sinh viên đã đến yết kiến linh mục Viện trưởng, kêu gọi lòng nhân đạo của Người để ra tay cứu vớt cho họ. Một giàn củi đã được dựng lên tại chùa Diệu Đế và họ đau đớn tuyên bố sẽ hỏa thiêu và bãi khóa. Linh mục Viện trưởng đã xúc động rơi lệ trước buổi tiếp kiến đó, nhưng người chưa kịp làm gì thì đã bị cách chức và sinh viên phẩn uất biểu tình chiều 17-8 trước tòa Đại biểu Chánh phủ, trao cho ông Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục một bản kiến nghị để đệ trình Tổng thống. Họ cũng long trọng xác định lại vấn đề bãi khóa và hỏa thiêu làm cho chúng tôi vô cùng đau đớn vì nhận thấy rằng vấn đề càng ngày càng thêm trầm trọng, không những chỉ ở phạm vi tín ngưỡng mà còn lan tràn sang cả địa hạt giáo huấn, gây cho những giáo chức có trách nhiệm những khó khăn mà tự cá nhân mình cũng như cả Đại học họp ại cũng không h ể nào giải quyết được. … Vì thế chúng tôi thiết tha kêu gọi sự sáng suốt giúp đỡ của quí vị Khoa trưởng các phân khoa Đại học, các vị Giám đốc các trường Cao đẳng, các vị Hiệu trưởng các trường Trung, Tiểu học toàn quốc, sự đoàn kết huynh đệ chân thành về mọi phương diện của tất cả các bạn đồng nghiệp giáo chức, để cùng nhau tìm ra một giải pháp ổn định cho tình thế mà giáo dục cũng như xã hội đã bị lâm nguy suốt ba tháng rưỡi. Chúng tôi được tin mai ông Thế ra, bèn làm cho xong một việc chưa kết liễu, đó là một vận động lấy chử kí của anh em Văn khoa. mãi đến 9 giờ tối mà các bạn ấy vẫn không chịu kí. Chúng tôi hết sức buồn, buồn vì nói hết nước bọt thì ít mà buồn vì thấy anh em không chịu “dấn thân”: có tới hai cớ để mà chẳng thể đúng bang quan: nếu không xúc động vì Phật giáo bị đàn áp dã man thì cũng xúc động vì linh mục viện trưởng bị cách chức vô lối. Sau cùng, các bạn ấy bảo “Để rồi chúng tôi làm riêng”. Thôi thế cũng được. Miễn là anh em rồi cũng có làm một cái gì hơn là mãi thờ ơ … - Nhưng sau rốt “một cái gì” ấy có không ? Anh thở dài và gương mặt tươi trẻ của anh bỗng tối lại: - Rốt lại chẳng có gì cả. Đáng buồn hơn nữa là các bạn ấy cho là bản văn chúng tôi đã kí và mời các anh cùng kí vốn kém ôn hòa, để các anh sẽ thảo một bản khác ôn hòa hơn. Nhưng bản văn từ chức soạn vào chiều 17-8-1963 là chính do đề nghị của các anh em ấy. Xin nhắc lại rằng bản văn từ chức nầy khác với Bản Thông cáo của chúng tôi do đài VOA loan đi. Bản văn nầy chỉ nói đến tình hình của Viện Đại học mà thôi, còn bản Thông cáo gửi đài VOA nêu rõ 3 lý do từ chức của các Khoa trưởng, Giám đốc học vụ và nhân viên giáo huấn Y khoa, Luật khoa, Khoa học, Sư phạm trong viện Đại học Huế: - Xúc động trước hai vụ hỏa thiêu và cướp xác tại Huế, trước sự đàn áp bắt bớ Phật tử và sinh viên Phật giáo, - Xúc động trước sự thờ ơ của chánh phủ kéo dài đến 3 tháng rưỡi mà không đem lại giải pháp nào để ổn định tình thế, - Xúc động trước sự thay thế linh mục viện trưởng. Sáng ngày 19, ông tỉnh trưởng Thừa Thiên cho hay rằng công an đã được lệnh bố trí để kịp thời ngăn chận những cuộc biểu tình của sinh viên. Vì hôm nay là ngày kỷ niệm cách mạng tháng 8 nên công an có thể nhân dịp sinh viên biểu tình mà buộc tội những người đi biểu tình là Việt Cộng – tin nầy ông Tỉnh trưởng mật báo cho tôi để kịp đề phòng, ngăn giữ đừng cho sinh viên mắc mưu họ mà biểu tình hôm đó. Chúng tôi bèn về sân viện Đại học chờ ông Thế. Chính trong lúc chờ đợi nầy chúng tôi nhận được tờ Tuyên cáo của viện Hán học, lời lẽ còn hăng hơn chúng tôi nhiều. Nói tới đây, anh đưa cho tôi coi bản “tuyên cáo” in ronéo của “Giảng viên Viện Hán học Huế” đề ngày 17/8/63, nội dung tán đồng quan điểm của các khoa trưởng và giáo sư các phân khoa Đại học Huế, phản đối những lời tuyên bố của những nhân vật không có trách nhiệm đã gây hoang mang trong dân chúng, phản đối những hành động che dấu sự thật, xúc động trước sự tranh đấu bất bạo động của Phật giáo đồ, bất bình vì sự bãi chức linh mục viện trưởng Cao Văn Luận cũng là Giám đốc viện Hán học Huế. Do đó, toàn thể giảng viên Viện Hán học tuyên bố nghĩ việc giảng dạy. Người ta đọc được những tên ký dưới Tuyên cáo như sau: Võ Như Nguyện, Nguyễn Duy Bột, Hà Ngãi, Mguyễn Hưng Giáo, Hồ Đắc Định, Cao Hữu Hoành, Phan Chí Chương, Nguyễn Hữu Châu-Phan, Cao Xuân Duẫn, Phan Văn Dật, Châu Văn Liệu, Nguyễn Văn Dương, Nguyễn Doãn Thám, Trương Xuân Trực, bà Nguyễn Thị Trang (tức bà Nguyễn Hữu Trí), La Hoài, Vĩnh Quyền, Nguyễn văn Kháng. - Hẳn là ở viện Hán học mọi người đều kí vào tuyên ngôn “nẫy lửa” nầy ? - Tiếc thay, có hai người không kí. Chúng tôi bèn gửi bản Thông cáo của chúng tôi, bản tuyên ngôn nầy, cùng bức Thư ngỏ với giáo chức toàn quốc đã quay ronéo vào Sàigòn, nhờ một bà Mĩ mang đi. Trưa hôm ấy thì chùa Xá Lợi phát thanh hai tài liệu đó. Chúng tôi cấp tốc thành lập một ủy ban gồm 5 người lấy tên là Ủy ban Liên lạc Giáo chức với 5 tiểu ban sau đây ra đời: ấn loát, liên lạc, chính trị, ngoại giao và phụ trách sinh viên. Xong, chúng tôi nhờ người giữ công văn ghi đơn từ chức của chúng tôi vào sổ, kèm theo thông cáo của chúng tôi và tuyên ngôn của viện Hán học. Lúc 11 giờ, bác sĩ Quyến đọc cho sinh viên và chúng tôi nghe bức điện tín của đại sứ Trần văn Chương (thân phụ bà Nhu) gởi linh mục Cao Văn Luận. Đây là một bức điện tín công khai ủng hộ lập trường của viện Đại học và phỉ báng chính quyền Ngô Đình Diệm. TÉLÉGRAMME Washington, le 18-8-1963 Révérend Père CAO VAN LUẬN, University Hue Veuillez recevoir l’expression de ma sincère sympathie (stop). Vous aurez rendu un grand service au pays et au gouvernement en contribuant à montrer que la dignité humaine est le plus respectable des biens et que les forces morales triomphent toujours au Vietnam comme au treizème siècle et comme en 1954 et 1955 - Trần Văn Chương. (Dịch: Hoa Thạnh Đốn, ngày 18-8-1963 Linh mục Cao văn Luận, Đại học Huế Xin nhận cảm tình chân thành của tôi (stop). Ngài đã giúp ích nhiều cho xứ sở và cho chính phủ bằng cách giúp cho thấy rằng giá trị con người là tài sản đáng kính trọng nhất và những lực lượng tinh thần luôn luôn đắc thắng ở nước Việt, cũng như ở thế kỉ thứ mười ba và cũng như ở những năm 1954 và 1955 - Trần Văn Chương). 11 giờ 15 phút, ông Thế tới. Tất cả sinh viên đều đứng im lặng trong sân tòa viện trưởng. Ông Thế tưởng đâu sinh viên đến chào mừng viện trưởng mới, nên rất vui vẻ, song chưa biết nên có thái độ như thế nào. Sau đó ông vào văn phòng và ngỏ lời với toàn thể giáo chức, nhưng khi ông chấm dứt thì cả một sự im lặng đáp lại với ông. Trong sự im lặng nặng nề, anh niên trưởng Quyến bước ra đưa đơn từ chức của chúng tôi và liền sau đó chúng tôi rút lui. Một đoàn đại diện sinh viên liền vào văn phòng viện trưởng và đưa bức Tâm thư. Trong thư nầy, sinh viên rất mực tán dương ông … đại sứ (họ không gọi là viện trưởng !). Yêu cầu ông dùng tất cả uy tín đề đạt lên chánh phủ sự thiết tha của toàn thể sinh viên Huế được thấy cha Luận về làm viện trưởng trở lại. Trong khi ông Thế xem thư thì tất cả sinh viên đều ngồi ngoài nắng và tuyệt đối giữ im lặng. Trong bức tâm thư của sinh viên Đại học Huế gửi giáo sư Trần Hữu Thế có những đoạn sau đây: … Sự thay thế chức vụ viện trưởng của linh mục Cao Văn Luận đã gây xúc động lớn trong toàn thể sinh viên chúng tôi. Chúng tôi buộc phải tranh đấu để mong Chính phủ hiểu thấu nguyện vọng sâu thẳm của chúng tôi để linh mục Cao Văn Luận có thể phục hồi lại chức vụ viện trưởng. Đây là một cuộc tranh đấu chính đáng, đầy nghĩa khí mà một người trí thức như Giáo sư hẳn không bao giờ phủ nhận. Vậy để cuộc tranh đấu của chúng tôi khỏi gặp thêm trở ngại khó xử, chúng tôi tha thiết kính mong giáo sư từ chối chức vụ Viện trưởng của viện Đại học Huế. - Nhưng rồi ông Thế phải phá tan sự im lặng ấy chứ ? - Chớ còn ai làm việc ấy. Ông chỉ nói một câu: “Tôi xin nhận thư nầy và tôi sẽ chuyển lên cấp trên”. Rồi ngại sinh viên có thể xúc phạm đến người ông, ông định chuồn ngõ sau. Nhưng anh Hồ, tổng thư ký, cản không cho, khuyên ông nên đi ngõ trước để giữ thể diện viện trưởng. Ông đành phải làm theo, sinh viên bèn rẽ ra, để đường cho ông đi. Chừng ấy, họ mới vỗ tay. “Chúng tôi giải tán ra về, anh em sinh viên cũng thế. Chúng tôi về cùng một xe để bàn tiếp công việc phải làm. Ai cũng đồng ý mỗi ngày phải làm một cái gì mới để dồn chánh quyền vào cái thế bị động, luôn luôn phải đối phó không thì thua họ mất. Biểu tình là hành động cuối cùng và quyết liệt một mất một còn, phải để dành cho đúng lúc. Còn bây giờ thì quyết định một cuộc họp báo tại viện vào chiều thứ ba 20-8. Và mời ngay cha Luận về Huế để cha có thể tránh được những áp bức của chánh quyền. Nếu mời không được thì yêu cầu cha đừng kí vào cứ giấy tờ chi, vì e vô tình cha cản trở cuộc tranh đấu của chúng tôi khi bị áp lực của các “bề trên tôn giáo” chẳng hạn. Phải đẩy phong trào lan xuống giới giáo sư Trung học để khỏi bị cô lập hóa. Và vận động liền với hai trường Trung học Quốc học và Đồng Khánh, rồi đến các trường Trung học khác để sao mỗi ngày mỗi trường tung ra một bản tuyên ngôn. Chúng tôi phải phân công việc cho mỗi tiểu ban họp riêng, làm việc riêng, và đến 17 giờ chiều ấy cùng đến trường Y khoa để họp. - Các anh làm ráo riết thế chẳng lẽ ông Thế lại ngồi im đợi ? - Ông cũng làm phần ông chớ. Ông cho mời riêng chúng tôi và yêu cầu rút chử kí. Nhưng không một ai chịu cả. Đến 5 giờ chiều, chúng tôi được tin Sài Gòn có cuộc tuyệt thực vĩ đại ở chùa Xá Lợi, sinh viên và học sinh có tham dự đông đảo. Chùa lại có phát thanh những bài công kích ông bà Nhu. Chúng tôi định cử người vào Sài Gòn để bàn cách tranh đấu sao cho thống nhất giữa Sài Gòn và Huế. Vì thế nào, với cái đà nầy, tăng ni, sinh viên, học sinh, giáo sư cũng phải cùng xuống đường. Và chừng ấy, là một còn một mất. - Thái độ của người Mĩ ở Huế ra sao anh ? Anh đưa hai bàn tay ra nhưng chỉ nói: - Đương nhiên những người có trách nhiệm tại Huế tán thành và giúp đỡ để phổ biến mau chóng việc làm của chúng tôi. Nhưng trên cương vị chính trị và ngoại giao, họ vẫn chính thức thừa nhận Chánh phủ Ngô Đình Diệm là chánh phủ có thẩm quyền hiện hữu. - Còn Phật giáo ? - Phật giáo thì rất đỗi hoan nghinh. Chúng tôi tạo thêm cho họ yếu tố để đẩy mạnh cuộc tranh đấu bảo vệ Phật pháp. Chiều thứ hai 19, sau buổi họp chung tại Đại học Y khoa của Ủy ban liên lạc, chúng tôi ra một bản thông cáo tóm tắt những việc đã làm, và xác nhận chúng tôi không bao giờ rút lại chử kí. Bản thông cáo nầy, người trong nước không hay, nhưng tin lãnh sự Mĩ được biết. Sáng thứ ba, chúng tôi họp khoáng đại hội nghị tại viện, hay tin cha Luận đã trả lời một bức thư ông Thục. Ông đại diện Chánh phủ chụp lại phần “Tái bút” gởi qua viện. - Anh còn nhớ đoạn “Tái bút” ấy nói gì mà ông đại biểu Chánh phủ miền Trung lọi dụng nó … - Nguyên văn thì tôi không nhớ, nhưng đại ý cha Luận nói với ông Thục dầu Tổng thống có yêu cầu, cha vẫn không trở về làm viện trưởng lại. Chúng tôi lật ngược thế cờ. Vì nhận xét thấy cha Luận viết có mấy dòng mà sai chánh tả, sai văn phạm nhiều quá trái hẳn với mọi khi. Chúng tôi kết luận rằng cha viết thư nầy dưới một áp lực nào đó, khiến cha mất hẳn bình tĩnh. Vậy thì đoạn “Tái bút” nầy vô giá trị. - Còn anh em sinh viên ? - Hai anh chánh phó đoàn trưởng, Thơ và Giàu, luôn luôn liên lạc với chúng tôi. Anh em họp tại Morin, lập quĩ tranh đấu được vài ngàn. Rồi in truyền đơn, phát; viết biểu ngữ, căng; tối lại thì viết khẩu hiệu ở vách tường, công an đem vôi lại quét thì anh em lại viết. Phần chúng tôi trù liệu một cuộc họp báo nên đự định cho người vô Đà Nẵng mời cha Luận về - đi bằng xe lữa để ít ai để ý. Có người tin cho chúng tôi biết vài sinh viên bị bắt. Anh em sinh viên và chúng tôi quyết định nếu Chánh quyền khủng bố mạnh thì giáo sư và sinh viên phải biểu tình. Anh em sinh viên còn quyết liệt hơn: hễ một giáo sư ban nào bị bắt thì có ngay một sinh viên ban ấy tự thiêu để phản đối. Và đã có bẩy sinh viên ở bảy phân khoa tình nguyện hy sinh. - Thật là một tiết lộ bất ngờ ! Chúng tôi ở Sàigòn rất ít ai biết điều nầy. - Chúng tôi lại được biết trong khoảng từ 21 đến 23 Sàigòn sẽ có cuộc biểu tình lớn. Huế sẵn sàng ũng hộ. Chúng tôi còn nghe tin Chánh quyền dự định bắt anh Lê Khắc Quyến và tôi, vì họ cho rằng mất hai chúng tôi thì phong trào tranh đấu của giới giáo sư và sinh viên sẽ tan ngay. - Biết thế, các anh có định lánh mặt chăng ? - Việc bị bắt chúng tôi có nghĩ đến, còn việc lánh mặt thì không. Trốn tránh lẩn núp là cho việc làm của mình sai bậy; hơn thế nữa, đối với học trò và bạn bè của mình là một sự phản bội. Thấy tôi không hỏi gì thêm mà có chiều tư lự, anh ngước nhìn tôi bằng đôi mắt. - Anh làm tôi nhớ lại một bạn khác, bạn thân với Nhất Linh. Anh bạn nầy có nói với tôi nhân cùng bàn về cái chết của Nhất Linh: “Anh Nhất Linh quan niệm rằng người lãnh đạo có bổn phận đi trước quần chúng, và khi cần phải chết trước quần chúng chớ không phải quan niệm như Cọng sản. Người Cọng sản quan niệm rằng nếu cần thì hi sinh quần chúng để bảo vệ cấp lãnh đạo, và cấp lãnh đạo có bổn phận đi sau quần chúng, và có gì nguy thì lẩn tránh ngay để chờ cơ hội thuận tiện; quần chúng lúc nào cũng có sẵn có hao hụt cũng chẳng sao, còn một người lãnh đạo phải mất nhiều công phu và thời giờ để đào tạo, và lắm khi mất một người lãnh đạo là thiệt hại cho cả một phong trào … - Chúng tôi có thái độ như thế quyết không lẫn tránh, vì nghĩ đó là thái độ phải chăng của người trí thức. Và (anh mĩm cười) xin anh chớ xem chúng tôi là những “nhà cách mạng” hay những “lãnh tụ một phong trào quần chúng” mà phê phán. Mình đi xa câu chuyện rồi ! Chúng tôi họp đến một giờ mới chia tay. Qua một giờ rưỡi chúng tôi liên lạc được với nữ Trung học Đồng Khánh, được tin là đến 5 giờ Đồng Khánh sẽ có bản tuyên ngôn. Thế là ngày 20, chúng tôi có một cái gì “mới” rồi. Ngày 21 sẽ đến phiên nam Trung học Quốc học. Chúng tôi hăng hái hơn, chia nhau vận động các giáo sư các trường tư, các cựu sinh viên Đại học Sư phạm để họ hưởng ứng phong trào mà lần lượt tung ra những bản tuyên ngôn. Thắng lợi chót của chúng tôi về mặt nầy là lúc 14g.30, anh em giáo sư Cao đẳng Mĩ thuật đồng ý với chúng tôi về nguyên tắc tranh đấu, trong đó có anh giám đốc Mai La Phương. Chúng tôi sắp đặt chương trình hành động cho những ngày 21, 22 và 23. Hai giờ chiều, chúng tôi về nhà hàng Morin thì biết được ông Thế bắt đầu mở cuộc phản công. Ông vừa ra Thông cáo số 1 cho hay từ đây các giáo sư muốn họp phải có phép. Ba giờ, thông cáo ấy đến tay chúng tôi. Đại ý là các khoa trưởng và giáo sư hay tổng hội sinh viên muốn sử dụng các phòng họp và giảng đường phải xin phép trước tòa viện trưởng. Những cuộc họp báo hay thảo luận về tôn giáo, chính trị phải xin phép thêm ông thị trưởng thành phố Huế. Nhưng trong phạm vi viện Đại học, chúng tôi còn có quyền họp tại phòng giáo sư. Độ ba chục anh em chúng tôi đã họp tại đây và đối phó lại thông cáo số 1 của ông tân viện trưởng bằng Thông cáo 2, cho rằng ông nầy đã hành động trái với truyền thống Đại học, vốn tự trị, tự do. THÔNG CÁO SỐ 2 Các Khoa trưởng và Giám đốc ký tên sau đây cực lực phản đối việc ông Trần Hữu Thế vừa ra Thông cáo số 1 ngày 20 tháng 8 năm 1963 cho biết rằng: “Những cuộc hội họp trong các phân khoa Đại học phải được Tòa Viện trưởng cho phép” Điều khoản trên của thông cáo nầy không dựa trên một văn bản pháp lý nào và trái với tinh thần Tự do và Tự trị của các phân khoa Đại học từ trước đến nay. Huế, ngày 20 tháng 8 năm 1963 Các Khoa trưởng Đại học Y khoa, Luật khoa, Khoa học: Lê Khắc Quyến, Bùi Tường Huân, Tôn Thất Hanh. Các Giám đốc Học vụ Đại học Sư phạm: Nguyễn Văn Trường, Lê Tuyên - Và thông cáo 2 nầy, các anh cũng đưa cho tòa lãnh sự Mĩ như thông cáo 1 ? Anh gật đầu. - Chúng tôi định cho chụp hình lại để gởi các cơ quan ngoại quốc khác, và hủy bản chánh. Nhưng hiệu làm “photocopie” lại thối thác bảo để mai mới làm. - Các anh có ngờ rằng hiệu nầy đã được lịnh trên “dạy” làm thế chăng ?. Lúc đó thì không ngờ nhưng sau nầy, nhớ lại thì nghi có bàn tay chánh quyền trong đó. Bởi “ngày mai”, hôm sau, có nghĩa là chẳng bao giờ. Phần ông Thế, ông vội vã cho ra thông cáo số 2 để “trấn an” sinh viên và dư luận. Nội dung thông cáo số 2 cho hay “những chứng chỉ Đại học khóa hai sẽ tiếp tục thi và ngày tựu trường sẽ định sau khi thi xong. Đặc biệt là các thông cáo số và số 2 của ông viện trưởng Thế đều có sao gữi “Thiếu tướng Tư lệnh quân khu I” cả. - Anh em sinh viên hẵn ngày ấy cũng hoạt động mạnh để “trả lời” lại ông tân viện trưởng ? - Mạnh hơn bao giờ hết. Và cả hai phe ! - Hai phe ? - Có gì mà anh lấy làm lạ. Một phe chống áp bức, bạo tàn, thì viết lại thông cáo của chúng tôi đem đi dán khắp phố phường. Nhóm bị mua chuộc thì hoặc viết lên thông cáo kia hai chử “Đả đảo” to tướng, hoặc đi rãi truyền đơn chống lại thầy, chống lại bạn. - Những phần tử này chỉ chống lại các anh hay có còn làm gì khác ? - Làm gì thì chưa thấy nhưng nói thì rõ ràng lắm. Họ doạ … bằng chử rằng chúng tôi là bọn phản dân, phản nước, không sớm quay về với chánh nghĩa quốc gia thì họ sẽ đâm lủng ruốt, họ sẽ chặt đầu. Họ đã hăm dọa ngay trên đài phát thanh bằng cách chỉ tên những giáo sư đã hướng dẫn sinh viên biểu tình và cho là phản động. Không khí căng thẳng hơn lúc nào hết nên chúng tôi sắp đặt cho người vào Đà Nẵng mời cha Luận về Huế ngay. - Còn như trường hợp linh mục không thể về hay không muốn về ? - Thì cha ðùng kí vào bất cứ giấy tờ gì. - Bởi vì … - Bởi vì cha thì rất thực thà. Mà họ thì rất điêu ngoa. Nhưng rồi ba giờ đêm ấy chùa chiền bị tấn công. Nhà tôi ở trên đường đi đến chùa nên tôi nghe rõ cả tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cầu cứu. Đồng bào ở quanh chùa bèn đánh mõ đánh thùng thiếc để báo nguy. Đợt xung phong đầu, cảnh sát chiến đấu bị thanh niên sinh viên học sinh và các đạo hữu trong chùa dùng gậy, củi đẩy lui. Lúc ấy họ chưa được lịnh bắn. Nhưng rồi tiếng súng đầu tiên nổ. Em anh Trí đi xe vêlô lại báo tin nhà anh Trí đã bị bắt cóc, rồi hối hả đạp xe đến các nhà anh khác. - Anh có ý nghĩ thoát thân chăng ? - Ngay lúc đó thì có. Tôi nghĩ đén tòa Lãnh sự Mĩ, ở cách nhà tôi độ 200 thước. Nhưng rồi xét lại, tôi trốn không có lợi. Chỉ thoát được thân mình. Đã làm thì chịu trách nhiệm. Mười lăm phút sau khi em anh Trí báo tin, thì nhà tôi bị bao vây. Chúng kêu mở cửa. Lúc ấy là 4 giờ sáng. Tôi không cho mở, cố ý để họ mất thì giờ và buộc họ dùng bạo lực. Họ phá cửa trước không được họ phá cửa sau. Trong lúc đó tôi lo hủy gấp một số tài liệu bằng cách xé ra và nuốt vào bụng, và thu dấu một số tài liệu khác. Lúc họ vô nhà, tôi đứng ở trên lầu lắng tai nghe. Họ vào phòng mấy đứa con tôi và bật đèn hỏi tôi. E họ đánh đập chúng, tôi lên tiếng hỏi họ muốn gì. Tôi cười: - Thì họ muốn gì anh dư biết rồi kia mà … - Ấy đó, mà họ hỏi lại tôi” Đây có phải nhà ông Lê Trọng Vinh không ?” - Thế là họ lộn nhà. Nhưng tốp tìm anh họ lại đi đâu ? - Sau, hỏi ra, thì tốp đó về làng tìm tôi ở Kẻ Vạn. Họ tưởng tôi không dại gì ở ngay giữa Huế. - Rồi họ bỏ đi ? - Không. Họ đòi tôi đưa thẻ căn cước. Họ xuống lầu nói với xếp họ đây không phải nhà Lê Trọng Vinh mà là nhà Lê Tuyên. Người nầy “À” lên, “Lê Tuyên cũng có tên trong sổ !”. Ông ta mời tôi xuống. Tôi lúc đó mặc đồ bi da ma, xin trở lên lầu thay đồ thì ông ta lắc đầu, bảo cấp trên mời tôi đến hỏi chuyện riêng một chút rồi về. Họ đưa tôi đến nha cảnh sát. Tôi là người thứ sáu được Chánh quyền “mời đến hỏi chuyện riêng” - Anh có thể cho biết năm người đến trước ? - Ba bạn đồng nghiệp: Trí, Trường, Nam; một giáo sư trường Quốc học và ông hiệu trưởng trường tư thục Bồ Đề. - Chưa có anh Quyến ? - Mà đến 8 giờ, anh Quyến mới bị bắt. - Về vụ anh bác sĩ Quyến bị bắt, tôi có biết một anh bạn cũng bác sĩ rất khổ tâm về vụ này. Tiện đây, tôi xin kể lại cho anh nghe. Người bạn của tôi còn trẻ, ở ngoại quốc về không bao lâu. Anh được bổ làm giám đốc một bịnh viện nọ ở lục tỉnh. Khi hay tin người bạn đồng nghiệp ở Huế bị Chánh quyền bắt ngang rồi tống giam chẳng đưa ra tòa án xét xử, anh rất đỗi bất bình, và vì còn trẻ, vì về nước chẳng lâu, anh trông ngóng các bậc đàn anh, giám đốc các bệnh viện trong toàn quốc lên tiếng phản đối vụ bắt giam trái phép này để tỏ tình liên đới, và anh tưởng thế nào rồi các bậc ấy sẽ có đơn từ chức, thì hạng đàn em như anh sẽ sẵn sàng để trả chức. Nhưng uổng công anh ngóng trông và dò hỏi. “Sống chết mặc … mày !”. Anh không thể làm gì hơn là bực dọc với mình và khinh các “bậc đàn anh” ấy. Anh ấm ức nói với tôi sau đó một tháng: “Anh tưởng tượng nếu giám đốc tất cả bệnh viện trong nước đều từ chức một lượt để phản đối chuyện anh Quyến thì cuộc đời chắc chẳng êm rơ như thế nầy, và “họ” cũng bớt khinh bọn trí thức chuyên việc “cứu nhơn độ thế”. - Anh Quyến biết được việc nầy chắc anh được an ủi nhiều lắm. Chính tôi sau nầy rất buồn cho cái giới trí thức nước nhà, trong đó có mình ! Cọng sản họ khinh, họ Ngô xem rẻ, rồi đến lớp trẻ xem thường là đáng lắm. Không dám lãnh trách nhiệm, chẳng dám có sáng kiến, cứ đùn trách nhiệm cho cấp trên, cứ tưởng mình khôn ngoan thận trọng nhưng thật ra nhút nhát và hèn nhát hơn ai ! - Chắc ngoài anh em trong giáo giới, còn các tăng ni, sinh viên, học sinh ? - … và Hướng đạo nữa. Chiều, thêm một số ít đồng bào. - Số người bị bắt ngày 21 ấy chắc là đông lắm. - Tôi phỏng độ ngàn người. Họ nhốt vào hội trường của nha cảnh sát, vốn chứa ngày thường được ba trăm người là nhiều. - Nhốt chung như thế, các anh lúc ấy có hiểu lí do cuộc bắt bớ nầy chăng ? - Chưa một ai hiểu. Chỉ phỏng đoán có lẽ là một vụ Saint Barthélémy mới, mà nạn nhân không phải là người theo đạo Phản Thệ (Tin Lành) mà là Phật giáo đồ. Chúng tôi bàn với nhau: nhất định không rút đơn từ chức. Nhưng nếu Chánh phủ giải quyết trong vòng danh dự đôi bên, trưng dụng chúng tôi thì chúng tôi làm việc lại. - Các anh bắt đầu … bi quan chưa ? - Trái lại là khác. Trọn ngày 21, chúng tôi lạc quan, mà ai bị bắt cũng lạc quan như chúng tôi. Hẳn là Sàigòn đã xảy ra gì quyết liệt nên ở đây họ mới dùng biện pháp thất nhân tâm nầy. Mà nếu chưa có gì xảy ra hôm nay thì cũng có cái gì xảy ra ngày mai ngày mốt: phải bắn phá chùa chiền, bắt bớ sư vãi trí thức sinh viên như thế ni, là báo hiệu cơn giãy chết của chế độ. Riêng chúng tôi thì nghĩ: mình thất một trận đánh nhưng rồi mình thắng cả trận giặc. Trưa hôm sau - thứ năm 22-8 - người ta mời anh Quyến đi. Năm phút sau, đến phiên tôi. Tôi theo người dắt đi vô một hành lang tối om. Một người cảnh sát chiến đầu chờ sẵn, dí sung lục vao bụng tôi và bảo tôi cởi quần áo ra. Tôi bảo tôi không có mặc đồ lót. Anh ta cau mặt rồi giữ áo quần cùng gương trắng, anh ta ra lịnh vô một cái phòng. Tôi vừa để chân vào xà lim thì anh ta to tiếng chửi … - Anh ta chửi có chút gì … văn chương không ? - Văn chương thì không, mà tục tằn cũng không nốt. Chỉ có điều trắng trợn. - Vậy xin anh lập lại … Cũng là một tài liệu ! - “Tài liệu” nầy có hai đoạn. Đoạn đầu, thông thường; Đoạn sau, thật là bất ngờ. Bất ngờ đối với tôi. Tôi xin lập lại: “Đồ Việt gian, đồ phản động, đồ Cộng sản ! Tụi bây thắng thì tụi bây cắt cổ tụi tau, còn tụi tau thắng thì tụi tau cắt cổ tụi bây !” Rồi hắn đóng sầm cửa xà lim, khóa và niêm lại. Khoảng một giờ sau, họ mang cho tôi một cái thùng sắt Tây sét rỉ để tôi đi ngoài. - Anh bị nhốt xà lim mấy ngày ? - Năm tuần - Cơm nước ra sao, anh ? - Ngày hai dĩa cơm nửa chín nửa sống với một ít xì dầu. - Anh ăn được chớ ? - Lần đầu, tôi đành chịu. Nhưng rồi cố nhắm mắt. Còn nước thì họ cho mỗi ngày một chai, thứ chai xa xị đó, để dùng trọn ngày trong một lúc cho đủ mọi thứ, uống, rửa tay, rửa mặt, v.v… Xuít nữa tôi quên, họ có để cho tôi đôi dép Nhật để đi. Tôi không đi mà dùng chúng để gối đầu. Nền xi măng lâu đời bể vụn, nằm khó chịu vô cùng. Chẳng dám lăn vì lăn thì rách da. - Trong 5 tuần xà lim ấy, chắc anh không giữ một kỉ niệm nào êm ấm cả ? Mắt anh chớp chớp: - Có, anh à. Đời thỉnh thoảng cũng dành cho mình đôi cái bất ngờ sung sướng đến có lúc mình ngờ mắt ngờ tai. Đêm thứ ba, phiên gác vừa đổi, tôi nghe có tiếng gõ cửa. Tôi thức mà làm thinh. Có tiếng gọi khe khẽ: “Thầy ! Thầy …”, rồi một một miếng giấy khá lớn được chuồi vào dưới khe cửa. “Em là một Phật tử đây thầy; thầy lấy giấy nầy để lót lưng cho đỡ đau đỡ lạnh. Đến 5 giờ sáng đổi phiên gác, em gõ cửa, thầy chuồi miếng giấy ra cho em kẻo chúng nó bắt gặp thì chết thầy chết em”. Và, sau đó, hễ tới phiên gác của người lính Phật tử mà tôi không biết tên biết mặt là lưng tôi được “sướng” mấy giờ. Chúng tôi bị bắt sáng thứ tư 21-8, thì đến chủ nhật 25-4 họ tha gần hết, còn có 5 người trong ban chỉ đạo; các anh Trường, Hanh, Huân, Quyến và tôi, cùng với anh Võ Như Nguyện thuộc viện Hán học. Anh Nguyện lãnh đạo phong trào ở viện nầy. - Bốn anh kia cũng bị nhốt xà lim như anh ? - Chỉ có mình anh Quyến và tôi vì chỉ có hai xà lim. Ba anh kia được nằm ghế bố có mùng. - Còn các anh chỉ đạo anh chị em sinh viên ? - Ba anh Giàu, Thơ, Bính thì vẫn bị giam cạnh đấy. - Ngày đầu, đêm đầu nằm xà lim, chắc anh khổ sở lắm ? - Khổ sở và mất hết tinh thần. Vì hoàn cảnh thay đổi quá đột ngột và quá khác. Nhưng rồi cái gì cũng quen đi, và nói như ai đó, con người là con vật dễ thích nghi với hoàn cảnh nhất. Đến ngày thứ sáu thấy bớt khó chịu nhiều, qua ngày thứ bảy thì thấy như thường. Tôi nhìn anh chăm chú và hỏi: - Đố anh biết tại sao ngày thứ bảy anh chẳng thấy khó chịu ? Anh đẩy gọng kính, nhìn lại tôi. Tôi nói vì Đức Chúa Blời tạo ra cái thế giới nầy trong sáu ngày thôi. Qua ngày thứ bảy, Ngài bèn xoa tay mà đi nghỉ vậy ! Anh cười. Tôi hỏi: - Anh có tìm được cách gì để giết thì giờ không ? - Được hai cách. Một là gỡ những miếng xi măng vụn dính vào người, hai là hát nghêu ngao … - Mấy ngày sau họ mới thẩm vấn anh ? - Năm ngày sau. Buồn cười một nỗi là những kẻ thẩm vấn tội trạng lại là cán bộ Việt Minh cũ. Có gì lạ đâu anh. Sau khi phụng thờ một chế độ hết sức duy vật thì họ lại phụng sự một chính thể cực kỳ … duy linh ! Những cái cực đoan rồi sẽ đụng nhau ! Chắc họ hỏi anh về đêm ? - Đúng vậy. Từ 9 giờ tối đến 4 giờ sáng. Họ thường dựng đứng tôi trong khoảng ấy. Như tôi đã nói với anh, tôi không bị tra tấn, họ nói tôi rất ư lịch sự. - Và những khi đó, họ cho anh … - Phải, họ cho tôi mặc quần áo, đưa gương cho tôi mang đàng hoàng. Họ hỏi khéo léo lắm, định dồn chúng tôi phải nhận ba điều nầy: có liên lạc với Phật giáo; có liên lạc với tòa lãnh sự Mĩ; định từ chức trước lúc cha Luận bị cách chức. Mục đích của họ là cố gài tôi gián tiếp nhận để đưa tôi ra tòa án Quân sự. Nhưng tôi trước sau vẫn trả lời: Không. - Họ hỏi anh từ … - Từ 20-8 đến 20-10. À, có lúc họ hỏi tôi luôn ba đêm liền. mệt là mệt. Có khi họ cho nghỉ vài đêm rồi kêu hỏi lại. Sau, Sàigòn có gởi một phái đoàn ra hỏi nữa. - Như thế, những lúc quá mệt, anh có khi nào trả lời cho rồi để vế ngủ cho khỏe ! - Không khi nào. Vì mình biết họ cố ý hỏi mình trong lúc nửa tỉnh nửa mê, làm cho tinh thần mình căng thẳng tột độ để mình không làm chủ được mình nên tôi hết sức giử vững tinh thần. Không là không. - Thế thì kết quả … - Kết quả là họ đách cần mình khai ra sao. Họ tự tiện dựng đứng hồ sơ mình để đi đến kết luận: mình đã chống đối và khuynh đảo Chính phủ thì Tòa án Quân sự ! Và là Tòa án Quân sự Mặt trận nghĩa là không có quyền có luật sư, không có kháng cáo, bản án được thi hành ngay. - Mấy anh kia có ai cũng một cảnh đoạn trường như anh không ? - Có. Đó là Thượng tọa Thích Trí Thư, bác sĩ Lê Khắc Quyến, anh Võ Như Nguyện (ở viện Hán học) và hai anh sinh viên Võ Văn Thơ và Hoàng Văn Giàu. - Sao anh biết họ dựng đứng hồ sơ anh và các người anh vừa kể ? Vì các anh chưa bị tòa án Quân sự xử. - Tôi biết vì chính mắt tôi thấy những tài liệu buộc tội ấy. Họ có đốt đi nhưng còn sót. Tôi xin kể tiếp. Đến tuần thứ năm tôi bị ho ra máu, họ bèn đua tôi ra ở ngoài. Tôi xin đi bịnh viện họ không cho. Hai bác sĩ đến khám tôi đều yêu cầu ông giám đốc cho tôi đến bịnh viện để rọi kiếng. Ông giám đốc không cho là không cho. Ông ta yêu cầu cho tôi thuốc solucamphre mà không cho phép nói ra ngoài là tôi đau bịnh chi, chắc là sợ người ta bảo tôi vì bị giam mà ho ra máu. - Anh có làm bạn với con rệp con muổi nào trong thời ở xà lim không ? - … - Tôi có vài người bạn cũng bị nhốt xà lim như anh, cũng trong vụ chống chế độ cũ vừa qua. Các anh ấy bảo lần đầu trong đời phải chịu cảnh cô độc hoảng sợ vô cùng, Cho nên bất cứ có sự sống nào hiện diện là các anh bám ngay. Và chính do nhu cầu quá cần thiết này mà các anh làm chủ được phản ứng đập liền rệp, muổi hút máu mình. Các anh sung sướng để chúng tha hồ hút máu các anh. Nuôi chúng sống để thấy ngoài mình còn có một sinh vật đại diện cho sự sống trong cái cảnh địa ngục giữa trần gian ấy. Tôi lại đi xa đề mất ! À, anh vẫn bị nhốt ở nha Cảnh sát cho tới ngày đảo chánh thành công ? - Ngày phái đoàn Liên Hiệp Quốc ra Huế để điều tra - tức là ngày thứ tư 30 tháng 10 - họ đưa tôi đến Cơ quan đặc biệt Phản gián, chung quanh chôn mìn sẵn và bố trí như một pháo đài. Tới đây, tôi thấy hai anh Nguyện, anh Quyến, và bất ngờ hơn hết là sau hai năm mất tăm dạng, anh Dương Kỵ ngồi ung dung gọt cà rốt ! Họ dặn chúng tôi phải nói với phái đoàn Liên Hiệp Quốc là chúng tôi bị giam ở đây là vì có tội với Chánh phủ. Phái đoàn có hỏi tội gì thì trả lời không ðýợc biết. Ðiều quan trọng là nói không có kì thị tôn giáo ở nước Việt. Nhưng khi họ đưa anh Bính (còn là tổng thư kí đoàn sinh viên Phật tử) gặp phái đoàn thì anh Bính nói toạc ra tất cả sự thật. Vì thế họ miễn cho chúng tôi màn kịch ấy. Rồi 8 giờ rưỡi ngày 2 tháng 11, họ cho gọi anh Lê Mộng Đào, anh Võ Văn Thơ, chị Cẩm Hà (một nữ sinh) và tôi. Thiếu tá giám đốc nhân danh Hội đồng Quân nhân Cách mạng cám ơn chúng tôi đã tích cực tham gia vào việc lật đổ chế độ thối nát và bạo tàn của họ Ngô Đình, và xin trả lại tự do cho chúng tôi. Chúng tôi nghe vậy mà chẳng hiểu ất giáp gì. Tôi lững thững về Đại học Sư phạm, tức Morin cũ. - Sao anh không về nhà trước ? - Vì nhà tôi ở xa. Tới viện, thấy sinh viên đã tụ họp sẵn để đi rước chúng tôi. Chừng ấy tôi mới biết đầu đuôi tự sự. Được biết còn các anh Quyến, Nguyện, Giàu, Bính chưa được thả, anh chị em sinh viên bèn kéo đi đón. Anh thở dài như trút xong một gánh năng. - Thế là anh mất tự do tất cả là … - … 73 ngày. - Trong 73 ngày giam cầm ấy, có ngày nào anh cảm thấy xót xa nhất ? - Đó là ngày chủ nhật 25-8, ngày tôi được nghe một bạn đồng nghiệp từng sát cánh đấu tranh với mình nói qua đài phát thanh tố cáo mình là một tên lưu manh trí thức. Tôi cũng có biết vài bạn yếu bóng vía, có vài hành động phản bội, tôi chỉ buồn thôi chớ không có xót xa tận đáy lòng như khi nghe anh bạn kia buộc tội qua làn sóng điện. Nhất là họ mở ra-đô cho mình nghe từ 6 giờ sáng đến 10 giờ tối, mục đích để khủng bố tinh thần mình. - Ra rồi, anh có nghe gì về việc đưa anh ra toà án Quân sự ? - Có sắc lệnh kí từ lâu để mở những tòa án quân sự đặc biệt, nhưng chưa có vùng chiến thuật nào mở. Nếu không có cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm rồi thì tôi sẽ “được” tòa án Quân sự xử vào ngày 6 tháng 11. Mà như anh biết, bị đưa ra tòa nầy thì hoặc được tha bổng hoặc bị xử tử. Tội của tôi, thật ra, thì chỉ có một là không đưa kiểm duyệt ấn phẩm trước khi phổ biến, một tội về mặt hộ. Nhưng mà khi người ta không muốn mình sống thì không có tội gì cũng phải chết, huống chi là có một tội. Vụ đưa ra tòa án Quân sự ngày 6 là thời bình. Chớ vào đêm thứ sáu mùng 1, lúc 22 giờ - sau khi tiếng súng cách mạng nổ được 8 tiếng rưỡi đống hồ, thì tại dinh ông Cẩn, Hội đồng Quân sự đã họp và lên án xử tử anh Quyến, anh Nguyện, một số sinh viên (Giàu, Thơ, Bính) và tôi. Gặp thời “loạn”, người ta có thể hành quyết chúng tôi lúc nào cũng được. Nhưng một giờ sau, tướng Đỗ Cao Trí tuyên bố đứng bên phe cách mạng, ra lịnh ngưng thi hành tất cả mạnh lịnh của chánh phủ cũ … - Thế là mạng anh lớn lắm ! Anh cười nhẹ, cúi nhìn lòng bàn tay trái. - Được tự do, anh vui. Nhưng hẳn sau đó, anh cũng được nghe thấy vài điều buồn. Anh im lặng một đỗi. - Tôi xin kể vài trường hợp điển hình. Trước hết, về cá nhân. Chúng tôi có được tờ truyền đơn từ Genève gời về cho biết Chánh phủ Ngô Đình Diệm sẽ bị lật đổ và ông Bữu Hội sẽ đứng ra lập chánh phủ mới. Bữu Hội là dân Huế, lại là Phật tử, lại có truyền đơn kia nên khi ông ta về Huế trong hai ngày, anh Quyến đã gặp Bữu Hội để nói rõ sự thật về vụ đàn áp Phật giáo ở Huế cho ông ta biết, cùng những dự định của nhóm chúng tôi để mong ông giúp đở vế mặt tinh thần. Anh Quyến mời nhà bác học nầy về nhà đãi cơm và giãi bày tất cả những thống khổ của một nhóm người có học. Chẳng dè về Sàigòn, ông ta mách lại với ông Nhu tất cả ! - Có bằng chứng gì về sự phản bội lịch sử trí thức nầy không ? - Chính một nhân vật trong chính phủ cũ – xin anh miễn cho tôi việc nói tên vị nầy – đã nói lại với chúng tôi. Và đã thêm: “Bữu Hội nó bán đứng anh em lấy 80.000 đô-la qua Tây ăn hút, tưởng thế cũng quá lắm rồi. Nào ngờ nó còn mặt dạn mày dày đi New York nói láo nói khoét nữa. Tôi không ngờ nó lại hèn đến thế !” - Còn trường hợp cá nhân nào nữa không anh ? - Còn. An ninh quân đội có bắt được một số tài liệu của chúng tôi. Họ đem ra nghiên cứu. Một nhân viên reo lên: “Thằng cha Tuyên tới số rồi ! Phen nầy nó chạy đâu cho khỏi chết. Giọng của nó đây này. Tao còn lạ gì, tao học với nó mấy năm !” - Ai nói lại với anh ? - Em tôi. Nó làm chung một chỗ với người học trò cũ nọ. Tôi kể tiếp: Một sinh viên ở Ðại học Sý phạm dán truyền ðõn xin thả tôi, bị bắt bị tra ðiện. Nay chýa trở lại bình thường … - Anh cho biết đôi trường hợp tập thể. - Một phái đoàn của bộ Giáo dục và giáo sư Đại học Sàigòn ra Huế ngày 25-8-63 (ông Trình và ông Thới cầm đầu), lên án thái độ chúng tôi, bắt anh em làm kiến nghị dâng lên Tổng thống, gián tiếp buộc tội chúng tôi. - Tôi còn nhớ kiến nghị nầy, trong đó có đoạn bất hủ: “… nhớ ơn cao dày của Tổng thống” - Giáo sư Đại học Sàigòn làm chúng tôi thất vọng đến ê chề. Họ không có một phản ứng gì khi chúng tôi từ chức, khi chúng tôi bị bắt. Tuy vậy, chúng tôi còn hiểu họ. Chớ họ chẳng một lời gì tỏ tình thông cảm khi chúng tôi được tự do – sau khi chế độ họ Ngô bị lật đổ - thì quả là chúng tôi không hiểu họ nổi. Có khi chúng tôi nghỉ: “Nếu giáo sư Đại học Sàigòn mà lên tiếng ủng hộ lập trường của chúng tôi thì biết đâu…”. Thú thật với anh, lúc mới về tôi tính phớt qua …, nhưng càng lâu lại càng thấy khó chịu, nhưng mà muốn sống thì phải quên .. - Anh làm tôi nhớ lời một người bạn ở viễn phương: “Tôi có thể tha thứ nhưng tôi không thể quên”. Nhưng sau cơn “mưa gió” hẳn giờ anh có gì khác trước trong cuộc sống ? - Tôi trở nên dè dặt trong việc giao tế. và tôi hạn chế sự giao thiệp. Trước kia tôi cởi mở, giờ đây tôi giữ gìn. Đó là một kinh nghiệm, theo anh, hay hay dở ? Tôi không trả lời anh, nâng tách nước trà bây giờ nguội như nước lạnh: - Giờ, chúng ta có thể uống nước. 12 tháng chạp, Quí Mão 64 Nguiễn Ngu Í Ghi chú (1) Anh có chân trong Hội đồng Nhân sĩ (2) Rằm tháng 4 năm Quí Mão (nhằm ngày thứ tư, 8 tháng 5 năm 1963) (3) “Nghĩa địa đầy những kẻ cho mình không ai thay thế được” [Nguồn: From Vinh Long giauhoang chatutuonghcuop@......date: Oct 29, 2008 at 4:17 PM subject Re: Thầy HG nghỉ chơi với Võ văn Ái???? mailed-by gmail.com] |
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA - GIÁM MỤC NGUYỄN VĂN LONG -PHƯƠNG UYÊN
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Kích cỡ chữ:
“Sức hút” của Đức Dalai Lama tại Hoa Kỳ
- Sau chuyến viếng thăm và thuyết trình tại Âu châu, Đức Dalai Lama đã đến Hoa Kỳ. Trạm dừng chân đầu tiên tại Trường Đại học tiểu bang Maryland vào ngày 7-5 vừa qua đã thu hút sự chờ đón của hàng ngàn thính chúng.
Ngài thuyết trình đề tài Hoà bình - Từ bi - Tình bằng hữu (Peace - Compassion - Fellowship). Khoảng 30 ngàn người đã ghi danh tham dự buổi thuyết giảng, tuy nhiên hội trường chỉ có thể đủ chỗ cho 15 ngàn người khiến khá nhiều người tiếc nuối.
Đức Dalai Lama thuyết giảng tại Đại học Maryland
Theo nhật báo Baltimore, đây là lần đầu tiên trong lịch sử tại
tiểu bang Maryland, chương trình thuyết giảng do Hiệp hội ASLS tổ chức
có số lượng đông người tham dự như vậy. Những nhân vật hàng đầu thế giới
trước đây như cựu Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela, cựu Tổng thống Hoa
Kỳ Jimmy Carter, ngài Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan cũng chỉ
thu hút được 10 ngàn người.
Đến dự buổi thuyết giảng có ngài Thống đốc, các quan chức cao cấp bang Maryland cùng giới trí thức uyên thâm, sinh viên thuộc các trường đại học danh tiếng trong vùng.
Nhân cách giản dị, khiêm tốn, khuôn mặt luôn cười, đùa giỡn rất tự nhiên, những lời khai thị hóm hỉnh, sâu sắc đã khiến rất nhiều người hâm mộ, yêu mến ngài.
Đến dự buổi thuyết giảng có ngài Thống đốc, các quan chức cao cấp bang Maryland cùng giới trí thức uyên thâm, sinh viên thuộc các trường đại học danh tiếng trong vùng.
Nhân cách giản dị, khiêm tốn, khuôn mặt luôn cười, đùa giỡn rất tự nhiên, những lời khai thị hóm hỉnh, sâu sắc đã khiến rất nhiều người hâm mộ, yêu mến ngài.
Sự gần gũi của Đức Dalai Lama
Rất nhiều người mong muốn được tham dự những buổi nói chuyện của ngài
Rời Maryland, Đức Dalai Lama đến bang Oregon từ ngày 8 đến 11-5. Tại
đây ngài có 5 buổi thuyết giảng về đề tài môi trường tại 3 đại học lớn
trong vùng. Ban Tổ chức đã bán vé gây quỹ cho trường. Giá vé từ 20 USD
cho đến vé VIP bảo trợ 1.500 USD. Tất cả đã bán sạch nhiều tuần trước dù
mỗi nơi thuyết giảng có sức chứa từ 10 ngàn đến 15 ngàn người. Đây cũng
là kỷ lục chưa từng có tại Trung tâm Hội nghị - Thể thao Mathew Knight
Arena.
Sau chuyến viếng thăm bang Oregon, Đức Dalai Lama đến bang Wisconsin, Louisiana và Kentucky - thể theo lời mời từ các trường đại học để thuyết trình nhiều đề tài khác nhau.
Tại mỗi nơi, bên cạnh việc trao văn bằng tiến sĩ danh dự, ngài còn được tặng một chiếc nón có in phù hiệu trường như là một biểu tượng tình cảm gắn bó giữa các trường đại học và ngài. Nhân cách sống và trí tuệ siêu việt của Đức Dalai Lama đã tạo nên ảnh hưởng lớn lao đến tầng lớp trí thức Tây phương.
Sau chuyến viếng thăm bang Oregon, Đức Dalai Lama đến bang Wisconsin, Louisiana và Kentucky - thể theo lời mời từ các trường đại học để thuyết trình nhiều đề tài khác nhau.
Tại mỗi nơi, bên cạnh việc trao văn bằng tiến sĩ danh dự, ngài còn được tặng một chiếc nón có in phù hiệu trường như là một biểu tượng tình cảm gắn bó giữa các trường đại học và ngài. Nhân cách sống và trí tuệ siêu việt của Đức Dalai Lama đã tạo nên ảnh hưởng lớn lao đến tầng lớp trí thức Tây phương.
"Sức hút" từ Đức Dalai Lama
“Việc
thuyết giảng tại các đại học, viện hàn lâm danh tiếng sẽ nuôi dưỡng
Phật giáo phương Tây tốt tươi dựa trên trí tuệ và hành trì (pháp hành).
Phật giáo Tây phương hiện đang phát triển hết sức thuận lợi từ những
duyên lành này”, các nhà chuyên môn đánh giá như thế.
Những buổi thuyết giảng của Đức Dalai Lama CTV Giác Ngộ Online đã tham dự các buổi nói chuyện của ngài và lược ghi nội dung thuyết giảng của Đức Dalai Lama để độc giả biết được những vấn đề nóng bỏng thế giới quan tâm: Môi trường và Tâm linh (Spirituality and the Environment) - giảng sáng 9-5-2013 Những liên hệ giữa tâm linh và ý thức môi trường như thế nào? Niềm tin tôn giáo sẽ giải quyết những vấn nạn môi trường hiện nay ra sao? Đây là một buổi thuyết trình, thảo luận đầy xúc cảm giúp cộng đồng nhân loại trân trọng môi trường qua đức tin tôn giáo. Trách nhiệm chung và Môi trường nội tâm: Bản chất của tâm (Universal Responsibìty & Inner Environment: The Nature of the Mind) - giảng chiều 9-5-2013 Mối liên hệ giữa “môi trường nội tâm” của từng cá nhân tác động lên môi trường sống của toàn nhân loại. Đức Dalai Lama thuyết trình về bản chất của tâm theo giáo lý nhà Phật, qua đó tánh thiện và lòng từ của nhân loại nếu được nuôi dưỡng sẽ đem lại lợi lạc cho người và môi trường sống. Sau buổi thuyết trình là phần trả lời các câu hỏi do sinh viên và hội đồng giáo sư đệ trình. Con đường đẫn đến an lạc và hạnh phúc trong xã hội toàn cầu (The Path to Peace & Happiness in Global Society) – giảng chiều 10-5-2013 Ứng dụng giáo lý nhà Phật để khai mở lòng từ, nuôi dưỡng tâm từ, làm chủ được tâm để mang lại an lạc cho cuộc sống lành mạnh góp phần tạo nên thế giới hoà bình. Trách nhiệm chung và Môi trường sống toàn cầu (Universal Responsibility & Global Environment): giảng sáng 11-5-2013 Trước những thực tế vấn nạn môi trường và lòng khát khao muốn thay đổi, chúng ta phải làm gì để biến thành hành động cụ thể. Đạo đức, khoa học, ý thức sẽ được vận dụng ra sao để tạo ra những chính sách thiết thực bảo vệ môi trường mà mỗi người, mỗi cơ quan, mỗi quốc gia có trách nhiệm, bổn phận bảo vệ. Tạo nguồn cảm hứng cho môi trường toàn cầu (Inspiration for the Global Environment): giảng chiều 11-5-2013 Phải đối diện với những thách thức to lớn về vấn nạn môi trường toàn cầu, chúng ta lắm lúc bất lực và tuyệt vọng. Làm thế nào để chuyển đổi tuyệt vọng và bất lực trở thành niềm tin vững chắc: dẫu ta chỉ là một cá nhân nhưng có thể góp phần thay đổi môi trường. Đạo đức thế kỷ này được ứng dụng ra sao để cải thiện môi trường sống và chúng ta trở thành người công dân hành tinh xanh (the earth citizen). Một vài hình ảnh về ngài trong chuyến hoằng pháp ở Hoa Kỳ:
Rất đông thính chúng dõi theo ngài
Theo dõi thông qua màn hình từ xa
|
ĐỨC GIÁM MỤC NGUYỄN VĂN LONG KÊU GỌI
Đức Giám Mục Vincent Nguyễn Văn Long:
Hãy Liên kết phá tan xiềng xích bạo tàn
27/04/13 11:44 AM
Cả dân tộc ta đang đứng trước thảm họa bị chìm đắm và diệt vong. Con đường tiến lên cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa chính là con đường dẫn đến sự băng hoại và bế tắc toàn diện như đang diễn ra hiện nay. Đất nước chúng ta cần một con thuyền mới để ra khơi trong thiên niên kỷ mới. Con thuyền đó không được xây dựng bằng ý thức hệ ngoại lai mà được tác tạo bởi ý chí và nhiệt huyết của mọi người dân.
Kính thưa toàn thể quý vị cùng đồng bào thân yêu trong và ngoài nước,
Hôm nay, chúng tôi những người quan tâm đến vận mệnh quê hương và tiền đồ dân tộc, đến trước tòa nhà quốc hội Úc Đại Lợi, biểu tượng của tự do và dân chủ, để bày tỏ sự liên đới với đồng bào quốc nội trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Lời đầu tiên chúng tôi muốn được gởi đến đồng bào thân yêu và nhất là những nhà tranh đấu trong nước là qúy vị không cô đơn trước thế lực của bạo quyền cộng sản. Chúng tôi những người con dân nước Việt tha hương hậu thuẫn cho qúy vị. Những người yêu chuộng tự do dân chủ khắp nơi hậu thuẫn cho qúy vị và nhất là lịch sử đang xoay chuyển về đích hướng mà qúy vị đang hy sinh tranh đấu, noi gương tiền nhân anh dũng.
Qủa thế, chưa bao giờ làn sóng dân chủ lại dâng cao trên khắp quê hương đất nước như ngày hôm nay. Sau bao thập niên sống trong một ý thức hệ ngoại lai, vong bản và hoàn toàn băng hoại, người dân Việt Nam đang đứng lên truất phế cộng nô và phục hồi quyền làm chủ vận mệnh đất nước. Gần đây, nhiều tổ chức yêu nước và nhất là các tôn giáo cũng đã cùng mạnh dạn dấn thân, mở màn cho một thời kỳ khai phóng đầy hứa hẹn. Khởi đầu là Bản Góp Ý của 72 nhà trí thức yêu nước yêu cầu loại bỏ điều 4 Hiến Pháp; tiếp theo đó Hội Đồng Giám Mục đại diện cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo, Hội Thánh Cao Đài và rất nhiều tổ chức trong và ngòai nước đã cùng hòa nhịp với hơn 80 triệu trái tim Việt Nam cương quyết xóa bỏ độc tài đảng trị. Mọi người mang dòng máu Lạc Hồng, không phân biệt tôn giáo hay xu hướng chính trị đều quyết tâm xóa bỏ Điều 4 Hiến Pháp, tức là chấm dứt hoàn toàn vai trò độc quyền của Đảng Cộng Sản trong việc điều hành đất nước và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Qúy vị và đồng bào thân mến, gần 70 năm từ ngày bạo quyền cai trị miền bắc và gần 38 năm từ ngày họ áp đặt chế độ ngoại lai “Mác-Lê” trên khắp quê hương thân yêu, Cộng Sản đã gây ra bao nhiêu chết chóc, kinh hoàng, bao hận thù, chia rẽ, bao bất công, đau khổ, bao nhục nhằn cay đắng. Từ chính sách đấu tố “cải cách ruộng đất” của thập niên 50 tại miền Bắc, cho tới cuộc thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968; từ những cuộc vượt biển vô tiền khoáng hậu cho tới nỗi nhục quốc thể còn đang tiếp diễn như những người lao động hợp tác bị ngược đãi; những trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục; những người dân oan bị tư bản đỏ cướp đất; các công nhân bị bóc lột ở các hãng xưởng trong nước v.v..
Thật oái oăm và mâu thuẫn khi chế độ Cộng Sản hứa hẹn một thiên đàng cho giai cấp vô sản, nhưng trên thực tế họ lại bị sống trong một địa ngục đầy bất công và bị bóc lột bởi chính hệ thống tư bản đỏ. Nghiêm trọng hơn nữa đó là những đe dọa về chủ quyền của đất nước mà nhà cầm quyền Cộng Sản đã chứng tỏ sự nhu nhược, hèn nhát và phản bội của họ. Phải chăng chỉ vì muốn duy trì quyền lực và tư lợi, họ đã sẵn sàng tráo đổi quyền lợi của người dân và cơ đồ của tổ quốc? Phải chăng họ đang hiện nguyên hình là những người cộng nô, hèn với giặc ác với dân? Khi lãnh thổ và lãnh hải bị xâm lấn thì nhà cầm quyền Cộng Sản chỉ im lặng hay phản ứng chiếu lệ. Ngược lại, họ sẵn sàng huy động cả một hệ thống an ninh hùng hậu để triệt hạ những người yêu nước mà vũ khí tự vệ duy nhất là tinh thần ái quốc. Nhưng lịch sử luôn đứng về công lý và sự thật. Lịch sử cũng sẽ lên án những ai làm việc ô nhục phản quốc như những tên “cõng rắn cắn gà nhà” trong qúa khứ.Qúy vị và đồng bào thân mến,Việt Nam trước thế kỷ 21 có thể ví như con thuyền trước đại dương đầy sóng gío. Chúng ta không thể vượt đại dương trên một con thuyền cũ kỹ lỗi thời.
Chế độ Cộng Sản chính là con thuyền cũ kỹ lỗi thời đó. Cả dân tộc ta đang đứng trước thảm họa bị chìm đắm và diệt vong. Con đường tiến lên cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa chính là con đường dẫn đến sự băng hoại và bế tắc toàn diện như đang diễn ra hiện nay. Đất nước chúng ta cần một con thuyền mới để ra khơi trong thiên niên kỷ mới. Con thuyền đó không được xây dựng bằng ý thức hệ ngoại lai mà được tác tạo bởi ý chí và nhiệt huyết của mọi người dân.
Trong kiến nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các ngài đã mạnh dạn tuyên bố là phải phục hồi “quyền làm chủ của người dân”, là “lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng và điều hành xã hội”, là thực hiện một tiến trình dân chủ dẫn đến một “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Nói tóm lại, chỉ có con thuyền dân chủ mới đưa Việt Nam vào đại dương của thiên niên kỷ mới.Trong Kinh Thánh Kitô Giáo có câu “Người gieo trong đau thương sẽ gặt hái trong vui cười”. Chúng ta chỉ có một tương lai tươi sáng cho đất nước và cho dân tộc khi chúng ta dấn thân đi “gieo trong đau thương”.
Vì sự nghiệp của tiền nhân và vì tương lai của những thế hệ nối tiếp, chúng ta hãy vượt qua sự vô cảm và sự sợ hãi. Người Việt yêu nước khắp nơi, chúng ta hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ Cộng Sản.
Hãy “cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi” (lời bài hát của anh Việt Khang) kiến tạo một Việt Nam dân chủ, văn minh, nhân ái, thái hòa cho xứng với hy sinh của tiền nhân và niềm kiêu hãnh của thế hệ tương lai.
Hôm nay, chúng tôi những người quan tâm đến vận mệnh quê hương và tiền đồ dân tộc, đến trước tòa nhà quốc hội Úc Đại Lợi, biểu tượng của tự do và dân chủ, để bày tỏ sự liên đới với đồng bào quốc nội trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Lời đầu tiên chúng tôi muốn được gởi đến đồng bào thân yêu và nhất là những nhà tranh đấu trong nước là qúy vị không cô đơn trước thế lực của bạo quyền cộng sản. Chúng tôi những người con dân nước Việt tha hương hậu thuẫn cho qúy vị. Những người yêu chuộng tự do dân chủ khắp nơi hậu thuẫn cho qúy vị và nhất là lịch sử đang xoay chuyển về đích hướng mà qúy vị đang hy sinh tranh đấu, noi gương tiền nhân anh dũng.
Qủa thế, chưa bao giờ làn sóng dân chủ lại dâng cao trên khắp quê hương đất nước như ngày hôm nay. Sau bao thập niên sống trong một ý thức hệ ngoại lai, vong bản và hoàn toàn băng hoại, người dân Việt Nam đang đứng lên truất phế cộng nô và phục hồi quyền làm chủ vận mệnh đất nước. Gần đây, nhiều tổ chức yêu nước và nhất là các tôn giáo cũng đã cùng mạnh dạn dấn thân, mở màn cho một thời kỳ khai phóng đầy hứa hẹn. Khởi đầu là Bản Góp Ý của 72 nhà trí thức yêu nước yêu cầu loại bỏ điều 4 Hiến Pháp; tiếp theo đó Hội Đồng Giám Mục đại diện cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo, Hội Thánh Cao Đài và rất nhiều tổ chức trong và ngòai nước đã cùng hòa nhịp với hơn 80 triệu trái tim Việt Nam cương quyết xóa bỏ độc tài đảng trị. Mọi người mang dòng máu Lạc Hồng, không phân biệt tôn giáo hay xu hướng chính trị đều quyết tâm xóa bỏ Điều 4 Hiến Pháp, tức là chấm dứt hoàn toàn vai trò độc quyền của Đảng Cộng Sản trong việc điều hành đất nước và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Qúy vị và đồng bào thân mến, gần 70 năm từ ngày bạo quyền cai trị miền bắc và gần 38 năm từ ngày họ áp đặt chế độ ngoại lai “Mác-Lê” trên khắp quê hương thân yêu, Cộng Sản đã gây ra bao nhiêu chết chóc, kinh hoàng, bao hận thù, chia rẽ, bao bất công, đau khổ, bao nhục nhằn cay đắng. Từ chính sách đấu tố “cải cách ruộng đất” của thập niên 50 tại miền Bắc, cho tới cuộc thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968; từ những cuộc vượt biển vô tiền khoáng hậu cho tới nỗi nhục quốc thể còn đang tiếp diễn như những người lao động hợp tác bị ngược đãi; những trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục; những người dân oan bị tư bản đỏ cướp đất; các công nhân bị bóc lột ở các hãng xưởng trong nước v.v..
Thật oái oăm và mâu thuẫn khi chế độ Cộng Sản hứa hẹn một thiên đàng cho giai cấp vô sản, nhưng trên thực tế họ lại bị sống trong một địa ngục đầy bất công và bị bóc lột bởi chính hệ thống tư bản đỏ. Nghiêm trọng hơn nữa đó là những đe dọa về chủ quyền của đất nước mà nhà cầm quyền Cộng Sản đã chứng tỏ sự nhu nhược, hèn nhát và phản bội của họ. Phải chăng chỉ vì muốn duy trì quyền lực và tư lợi, họ đã sẵn sàng tráo đổi quyền lợi của người dân và cơ đồ của tổ quốc? Phải chăng họ đang hiện nguyên hình là những người cộng nô, hèn với giặc ác với dân? Khi lãnh thổ và lãnh hải bị xâm lấn thì nhà cầm quyền Cộng Sản chỉ im lặng hay phản ứng chiếu lệ. Ngược lại, họ sẵn sàng huy động cả một hệ thống an ninh hùng hậu để triệt hạ những người yêu nước mà vũ khí tự vệ duy nhất là tinh thần ái quốc. Nhưng lịch sử luôn đứng về công lý và sự thật. Lịch sử cũng sẽ lên án những ai làm việc ô nhục phản quốc như những tên “cõng rắn cắn gà nhà” trong qúa khứ.Qúy vị và đồng bào thân mến,Việt Nam trước thế kỷ 21 có thể ví như con thuyền trước đại dương đầy sóng gío. Chúng ta không thể vượt đại dương trên một con thuyền cũ kỹ lỗi thời.
Chế độ Cộng Sản chính là con thuyền cũ kỹ lỗi thời đó. Cả dân tộc ta đang đứng trước thảm họa bị chìm đắm và diệt vong. Con đường tiến lên cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa chính là con đường dẫn đến sự băng hoại và bế tắc toàn diện như đang diễn ra hiện nay. Đất nước chúng ta cần một con thuyền mới để ra khơi trong thiên niên kỷ mới. Con thuyền đó không được xây dựng bằng ý thức hệ ngoại lai mà được tác tạo bởi ý chí và nhiệt huyết của mọi người dân.
Trong kiến nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các ngài đã mạnh dạn tuyên bố là phải phục hồi “quyền làm chủ của người dân”, là “lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng và điều hành xã hội”, là thực hiện một tiến trình dân chủ dẫn đến một “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Nói tóm lại, chỉ có con thuyền dân chủ mới đưa Việt Nam vào đại dương của thiên niên kỷ mới.Trong Kinh Thánh Kitô Giáo có câu “Người gieo trong đau thương sẽ gặt hái trong vui cười”. Chúng ta chỉ có một tương lai tươi sáng cho đất nước và cho dân tộc khi chúng ta dấn thân đi “gieo trong đau thương”.
Vì sự nghiệp của tiền nhân và vì tương lai của những thế hệ nối tiếp, chúng ta hãy vượt qua sự vô cảm và sự sợ hãi. Người Việt yêu nước khắp nơi, chúng ta hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ Cộng Sản.
Hãy “cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi” (lời bài hát của anh Việt Khang) kiến tạo một Việt Nam dân chủ, văn minh, nhân ái, thái hòa cho xứng với hy sinh của tiền nhân và niềm kiêu hãnh của thế hệ tương lai.
24/4/2013 Giám Mục Vincent Nguyễn Văn
Long
TRẦN TRUNG ĐẠO * PHƯƠNG UYÊN
Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em
Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng bảng đen trong lớp học chứ không phải đứng trước tòa án Cộng Sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: “Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm”.
Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội”.
Hàng triệu người Việt Nam trong hai ngày qua sống trong tâm trạng vừa vừa phẫn nộ, vừa xót xa nhưng cũng vừa hãnh diện. Phẫn nộ khi đọc bản án của đảng CS dành cho hai em, xót xa khi nhìn vóc dáng mảnh mai, yếu đuối của Phương Uyên, nhưng hãnh diện đến rơi nước mắt vì những câu nói lịch sử của hai em.
Trước ngày ra tòa Cộng Sản, không ít người nghĩ rằng giới lãnh đạo CSVN
chắc cũng “giương cao đánh khẽ thôi” vì hai em còn trẻ, nhất là Nguyễn
Phương Uyên không những là một cô bé khi bị bắt mới 20 tuổi mà còn là
một cán bộ đoàn trường của đoàn Thanh Niên Cộng Sản Đại học Công nghiệp
Thực phẩm. Đất nước khó khăn, lòng người ly tán. Chưa bao giờ Việt Nam
đứng trước hàng trăm ngàn thử thách như ngày nay. Ngoài biển, như Việt
Khang thét lên trong dòng nhạc của em “Giặc Tàu ngang tàng trên quê
hương ta, Hoàng Trường Sa, đã bao người dân vô tội, chết ngậm ngùi vì
tay súng giặc Tàu” và bên trong là một căn nhà đang đổ nát, một quốc gia
bị phân liệt đến mức tận cùng, một nền kinh tế đang trên đà phá sản,
giới lãnh đạo đảng CS dù độc ác, bất nhân, ti tiện, ngu xuẩn bao nhiêu
cũng phải biết ngừng tay đao phủ để cứu vớt non sông và cứu vớt chính
bản thân đảng. Nhiều người nghĩ thế.
Trước ngày ra tòa Cộng Sản, không ít người có thể đã nghĩ hai em sẽ xin tha, sẽ tự thú, sẽ đầu hàng. Các em còn nhỏ và đời sống còn dài. Cuộc tranh đấu giữa các em và chế độ độc tài như trò chơi cút bắt. Bắt được xin tha, tha xong lại tranh đấu tiếp theo kiểu “vừa đánh vừa đàm” của người lớn. Nhiều anh chị của các em trước đây đã chơi trò chơi đó vì họ nghĩ muốn làm gì trước hết cũng cần phải sống, cần phải có mặt, cần phải có điều kiện để viết, để nói, và muốn thế hãy tạm thời thú nhận, có chết chóc ai đâu, chẳng người nào, cơ quan nào, tổ chức nào, dù quốc tế hay Việt Nam, tin một lời tự thú trong chế độ CS độc tài. Nhiều người nghĩ thế.
Cả hai nhóm người tiên đoán như trên đều lầm.
Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha không khuất phục. Chuyện “thú tội”, “xin khoan hồng” chỉ mới vài năm trước đây nhưng như đã thuộc vào quá khứ xa xôi, một thời kỳ còn chập chững đấu tranh, một phương pháp nay đã lỗi thời. Tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc là một tự nguyện phát xuất từ trái tim và lòng yêu nước. Không ai bắt các em phải làm những việc các em không chọn lựa. Nhịp đập chân thành của con tim và tiếng gọi thiêng liêng của lòng yêu nước không cho phép một người gập đầu “xin khoan hồng”, “thú tội” dù chỉ là một hình thức trá hàng. Bảo vệ tổ quốc là một niềm vui, niềm hãnh diện. Nếu đã chọn hy sinh phải hy sinh cho trọn vẹn với lý tưởng của đời mình.
Tình yêu nước trong lòng Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô cùng trong sáng. Không giống Nguyễn Thị Minh Khai trước giờ bị xử tử hô lớn “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!” để thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà ta đối với đảng, hay Lê Hồng Phong, trong lời trăn trối cuối cùng ngoài Côn Đảo chỉ nguyện trung thành với đảng, Phương Uyên và Nguyên Kha chỉ nghĩ đến những bà mẹ Việt Nam đang buôn tảo bán tần, nghĩ đến các em thơ đang lây lất trên đường phố, nghĩ đến máu các chú bác đã đổ xuống ở Hoàng Sa, nghĩ đến nắm xương của các chú bác đã thành cọc cắm lên hải đảo Trường Sa.
Ngày 16 tháng Năm 2013 là ngày lịch sử.
Như đã có một lần trong lịch sử, ngày 26 tháng Hai năm 1285, Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng hô lớn “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Chàng thanh niên Việt Nam Trần Bình Trọng chỉ mới 26 tuổi.
Như đã có một lần trong lịch sử, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bước lên máy chém, tuyệt nhiên không ai trong số họ kể cả Đảng trưởng Nguyễn Thái Học hô Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm. Đảng chính trị với họ chỉ là chiếc ghe để chèo dân tộc sang bến bờ độc lập chứ không phải mục tiêu, cứu cánh của cuộc đời họ hay của phe nhóm và tổ chức họ giống như đảng CSVN. Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học chỉ mới 29 tuổi.
Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau. Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.
Giới lãnh đạo Đảng cũng không “giơ cao đánh khẻ” như có người hy vọng nhưng bằng một bản án nặng nề, bẩn thỉu và hèn hạ nhất đối với hai em Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.
Mấy ngày nay trên nhiều diễn đàn khá đông người lại tiếp tục tranh cãi chuyện chủ nghĩa Cộng Sản còn sống hay đã chết. Thật ra, chủ nghĩa Cộng Sản sống hay chết tùy thuộc vào góc nhìn và cách phân tích bản chất của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản. Chủ nghĩa Cộng Sản, như một lý tưởng mà không ít người đeo đuổi trong thời trai trẻ, có thể đã chết tại Nga ngay sau khi Cách Mạng Tháng Mười bùng nổ 1917, đã chết tại Trung Quốc khi Mao Trạch Đông lên nắm chính quyền 1949, và chết tại Việt Nam khi Hồ Chí Minh cất tiếng trên quảng trường Ba Đình đầu tháng 9 năm 1945, nhưng từ đó đã bắt đầu một loại chế độ Cộng Sản thức tế với các đặc tính bất nhân, tàn bạo nhất trong các chế độc độc tài của lịch sử loài người. Chế độ đó vẫn còn tồn tại ở Việt Nam biểu hiện qua bản án khắc nghiệt dành cho Phương Uyên và Nguyên Kha.
Bộ máy chính trị toàn trị, kinh tế lạc hậu, xã hội sa đọa, đạo đức suy đồi, hiện tượng sùng bái cá nhân, thói quen suy tôn lãnh tụ, lừa dối nhân dân, bưng bít có chủ trương, đỗ thừa có hệ thống của ý thức hệ Cộng Sản vẫn còn nguyên tại Việt Nam như từ ngày mới nhập cảng từ Liên Xô, Trung Quốc.
Phương pháp đầu độc, tẩy não của đảng CSVN dành cho các em bé Việt Nam hoàn toàn giống phương pháp đầu độc thiếu nhi đang thực hiện tại Triều Tiên. Hình ảnh “Bác Kim” trong lòng thiếu nhi Triều Tiên như Bradley K. Martin mô tả trong tác phẩm “Dưới sự bảo bọc đầy tình thương của cha già dân tộc” (Under the Loving Care of the Fatherly Leader) không khác gì hình ảnh một “Bác Hồ” “tình thương bao la”, “cha già dân tộc”, “nhà thơ lỗi lạc”, “nhà quân sự thiên tài”, “nhà giáo dục vĩ đại” được Đảng nhồi nhét vào tâm hồn trong trắng của bao nhiêu thế hệ Việt Nam.
Những ai còn nghĩ đến “hòa giải hòa hợp” với CS, còn tin vào lòng dạ chí thành của Thứ trưởng Ngoại Giao CS Nguyễn Thanh Sơn khi thắp hương trước phần mộ của các chiến sĩ VNCH ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa hãy đọc lại bản án của đảng CS dành cho hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên một lần nữa và tự hỏi có một phương pháp, một con đường nào, một hy vọng nào để dân tộc Việt Nam có thể sống chung với đảng CSVN. Một người có nhận thức chính trị căn bản nào cũng biết là không.
Những ai còn hoài nghi vào sức mạnh dân tộc Việt Nam hãy đọc lại lời tuyên bố của hai em “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi.” Là một đoàn viên đoàn thanh niên Cộng Sản chắc chắn Phương Uyên đã được nhồi sọ rằng khi lớn lên phải biết trung thành với đảng, phải biết đi theo con đường đảng đã vạch ra. Tư tưởng Cộng Sản ngoại lai nô dịch dù độc hại bao nhiêu cũng không giết được hạt mầm dân tộc đang âm thầm lớn lên trong tâm hồn hai em, đã chiến đấu trong nhận thức của hai em, đã chiến thắng qua hành động của hai em và biểu hiện hùng hồn qua câu nói lịch sử của hai em. Đảng CS muốn Phương Uyên trở thành sâu bọ đo hai hàng chân trên cành cây mục nát của đảng nhưng em đã vươn lên thành cánh bướm vàng.
Trong nỗi đau khi nghe tin hai em bị kết án nặng nề đã dâng trong lòng hàng triệu người Việt Nam một niềm hãnh diện. Lòng yêu nước đã thắng. Chưa bao giờ ranh giới giữa yêu nước và bán nước rõ ràng hơn hôm nay. Cuộc chiến nào cũng khó khăn nhưng cuộc chiến tư tưởng bao giờ cũng khó khăn nhất. Những câu nói của hai em sẽ vang vọng trong dòng lịch sử ngàn đời không phai. Lịch sử dân tộc, qua bao thời đại, đã được giữ gìn bằng sức mạnh tuổi trẻ. Thời đại hôm nay là thời đại của Đổ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên, của hàng trăm thanh niên nam nữ đang ở trong tù CS, của hàng ngàn hàng triệu thanh niên Việt Nam đang sắp sửa tiếp nối hành trình. Lịch sử Việt Nam vừa đau thương nhưng vừa là một bản hùng ca viết bằng nước mắt và nụ cười của bao nhiêu thế hệ.
Ai dạy Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên để nói những câu hào hùng như thế. Không ai dạy. Như một lần tôi đã viết, tuổi trẻ Việt Nam không cần một ngọn hải đăng để rọi sáng đêm tối trời dân tộc nhưng ngay từ trong lòng họ đã bùng cháy lên ngọn đèn tự chủ được thắp sáng bằng tâm thức Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không cần chờ đợi một minh quân ra đời hay một lãnh tụ xuất hiện để dẫn dắt họ trên đường cứu nước bởi vì chính họ sẽ là những minh quân của thời đại và con đường dẫn đến điểm hẹn lịch sử được soi sáng bằng trí tuệ Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không cần vay mượn một chủ nghĩa, một ý thức hệ, một lý thuyết ngoại lai nào làm kim chỉ nam để giải phóng dân tộc bởi vì chính họ đã được trang bị bằng các đặc tính dân tộc, nhân bản và khai phóng kết tinh và kế thừa từ hơn bốn ngàn năm lịch sử. Các em cũng nhắc cho giới lãnh đạo Đảng biết rằng một ngàn năm sống trong bóng tối Bắc thuộc không làm dân tộc Việt Nam mù mắt thì ba mươi tám năm trong triết học Mác-Lê làm sao có thể thui chột đi tình yêu nước thiết tha trong lòng người dân và nhất là trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.
Ngoài bản chất tàn ác, bất nhân, ti tiện, còn lý do nào khác khiến Đảng đã ra tay nặng nề với hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên.
Còn một lý do nữa, bởi vì Đảng sợ.
Đúng như Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Human Rights Watch (HRW) phát biểu: “Đưa người dân ra tòa xử chỉ vì phát tán tờ rơi chỉ trích chính phủ là một việc làm lố bịch và biểu hiện sự bất an của chính quyền Việt Nam”.
Đảng cảm thấy “bất an” là phải. Trong suốt 38 năm cai trị đất nước bằng nhà tù sân bắn chưa bao giờ đảng CS bị cô lập trên thế giới và mất chỗ đứng hoàn toàn trong lòng dân tộc Việt Nam như ngày nay. Không giống như trong thời chiến núp bóng dưới chiêu bài “chống ngoại xâm” và lợi dụng lòng yêu nước của nhiều người Việt Nam, ngày nay, chung quanh đảng chỉ có kẻ thù. Những tâm thư, thỉnh nguyện, góp ý kiến về hiến pháp, đổi tên đảng, thay tên nước vừa qua cho thấy, nhiều thành phần, lực lượng trước đây là phên dậu của đảng, là hậu thuẫn của đảng đang quay sang chống đảng. Một người dù mê muội bao lâu cũng có một lần thức tỉnh. Một tiếng nói đúng gióng lên dù trễ còn hơn im lặng suốt đời.
Hành động điên cuồng vượt qua mọi thước đo đạo đức qua hai bản án dành cho hai em Nguyên Kha và Phương Uyên cho thấy không phải sức bén của con dao độc tài mà là hành động tuyệt vọng của đảng CSVN. Quyết định của Nicolae Ceausescu khi ra lệnh công an bắn vào cuộc biểu tình của nhân dân Rumania sáng ngày 17 tháng 12 năm 1989 chỉ để dẫn đến bản án tử hình dành cho vợ chồng ông ta một tuần sau đó. Thật vậy, lịch sử đã nhiều lần chứng minh, khi một chế độ chỉ còn trông cậy vào các phương tiện bạo lực trấn áp để tồn tại, chỉ còn biết sử dụng bộ máy công an kềm kẹp để duy trì quyền cai trị, ngày tàn của chế độ đó chỉ là vấn đề thời gian.
Những ai còn đang đứng bên lề cuộc tranh đấu vì chủ quyền đất nước, vi tự do dân chủ nhân bản hãy bước lên chuyến tàu lịch sử hôm nay để cùng với hai em đi về phía bình minh của dân tộc Việt Nam. Đời người rồi sẽ qua nhưng dân tộc Việt Nam phải còn và mãi mãi sẽ còn. Con tàu đi cứu nước còn nhiều toa rộng, đủ chỗ cho mọi người, mọi thành phần, mọi tôn giáo, mọi quá khứ. Hành động cứu nước cũng rất nhiều để chọn, không nhất thiết phải vào tù ra khám, không nhất thiết phải tìm cho ra được những cây búa lớn để đập vở bức tường chuyên chính, nhưng một bàn tay nhỏ, một bước chân xuống đường chống thực dân đỏ Trung Quốc, một thái độ không hợp tác với nhà cầm quyền CS, một lá thư thăm hỏi các em các cháu trong tù trong những ngày sinh nhật, lễ lớn, một tấm vé tham dự bữa cơm gây quỹ giúp các em đang bị tù hay đang bị khó khăn v.v… cũng mang đầy ý nghĩa.
Bức tường chuyên chính CSVN đã không sụp đổ vì những cơn bão thời đại Liên Xô, Đông Âu, Bắc Phi xa xôi nhưng chắc chắn sẽ sụp đổ vì những giọt nước kiên nhẫn Việt Nam đang nhỏ xuống từ tuổi trẻ Việt Nam, từ đồng bào Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Chúng ta có thể khác nhau ở điểm khởi hành nhưng có cùng một điểm hẹn tự do để đạt đến. Chúng ta có thể mang trên vai những hành lý khác nhau nhưng đều chất chứa bên trong một khát vọng dân chủ để theo đuổi. Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.
Trần Trung Đạo
Trước ngày ra tòa Cộng Sản, không ít người có thể đã nghĩ hai em sẽ xin tha, sẽ tự thú, sẽ đầu hàng. Các em còn nhỏ và đời sống còn dài. Cuộc tranh đấu giữa các em và chế độ độc tài như trò chơi cút bắt. Bắt được xin tha, tha xong lại tranh đấu tiếp theo kiểu “vừa đánh vừa đàm” của người lớn. Nhiều anh chị của các em trước đây đã chơi trò chơi đó vì họ nghĩ muốn làm gì trước hết cũng cần phải sống, cần phải có mặt, cần phải có điều kiện để viết, để nói, và muốn thế hãy tạm thời thú nhận, có chết chóc ai đâu, chẳng người nào, cơ quan nào, tổ chức nào, dù quốc tế hay Việt Nam, tin một lời tự thú trong chế độ CS độc tài. Nhiều người nghĩ thế.
Cả hai nhóm người tiên đoán như trên đều lầm.
Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha không khuất phục. Chuyện “thú tội”, “xin khoan hồng” chỉ mới vài năm trước đây nhưng như đã thuộc vào quá khứ xa xôi, một thời kỳ còn chập chững đấu tranh, một phương pháp nay đã lỗi thời. Tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc là một tự nguyện phát xuất từ trái tim và lòng yêu nước. Không ai bắt các em phải làm những việc các em không chọn lựa. Nhịp đập chân thành của con tim và tiếng gọi thiêng liêng của lòng yêu nước không cho phép một người gập đầu “xin khoan hồng”, “thú tội” dù chỉ là một hình thức trá hàng. Bảo vệ tổ quốc là một niềm vui, niềm hãnh diện. Nếu đã chọn hy sinh phải hy sinh cho trọn vẹn với lý tưởng của đời mình.
Tình yêu nước trong lòng Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô cùng trong sáng. Không giống Nguyễn Thị Minh Khai trước giờ bị xử tử hô lớn “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!” để thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà ta đối với đảng, hay Lê Hồng Phong, trong lời trăn trối cuối cùng ngoài Côn Đảo chỉ nguyện trung thành với đảng, Phương Uyên và Nguyên Kha chỉ nghĩ đến những bà mẹ Việt Nam đang buôn tảo bán tần, nghĩ đến các em thơ đang lây lất trên đường phố, nghĩ đến máu các chú bác đã đổ xuống ở Hoàng Sa, nghĩ đến nắm xương của các chú bác đã thành cọc cắm lên hải đảo Trường Sa.
Ngày 16 tháng Năm 2013 là ngày lịch sử.
Như đã có một lần trong lịch sử, ngày 26 tháng Hai năm 1285, Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng hô lớn “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Chàng thanh niên Việt Nam Trần Bình Trọng chỉ mới 26 tuổi.
Như đã có một lần trong lịch sử, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bước lên máy chém, tuyệt nhiên không ai trong số họ kể cả Đảng trưởng Nguyễn Thái Học hô Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm. Đảng chính trị với họ chỉ là chiếc ghe để chèo dân tộc sang bến bờ độc lập chứ không phải mục tiêu, cứu cánh của cuộc đời họ hay của phe nhóm và tổ chức họ giống như đảng CSVN. Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học chỉ mới 29 tuổi.
Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau. Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.
Giới lãnh đạo Đảng cũng không “giơ cao đánh khẻ” như có người hy vọng nhưng bằng một bản án nặng nề, bẩn thỉu và hèn hạ nhất đối với hai em Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.
Mấy ngày nay trên nhiều diễn đàn khá đông người lại tiếp tục tranh cãi chuyện chủ nghĩa Cộng Sản còn sống hay đã chết. Thật ra, chủ nghĩa Cộng Sản sống hay chết tùy thuộc vào góc nhìn và cách phân tích bản chất của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản. Chủ nghĩa Cộng Sản, như một lý tưởng mà không ít người đeo đuổi trong thời trai trẻ, có thể đã chết tại Nga ngay sau khi Cách Mạng Tháng Mười bùng nổ 1917, đã chết tại Trung Quốc khi Mao Trạch Đông lên nắm chính quyền 1949, và chết tại Việt Nam khi Hồ Chí Minh cất tiếng trên quảng trường Ba Đình đầu tháng 9 năm 1945, nhưng từ đó đã bắt đầu một loại chế độ Cộng Sản thức tế với các đặc tính bất nhân, tàn bạo nhất trong các chế độc độc tài của lịch sử loài người. Chế độ đó vẫn còn tồn tại ở Việt Nam biểu hiện qua bản án khắc nghiệt dành cho Phương Uyên và Nguyên Kha.
Bộ máy chính trị toàn trị, kinh tế lạc hậu, xã hội sa đọa, đạo đức suy đồi, hiện tượng sùng bái cá nhân, thói quen suy tôn lãnh tụ, lừa dối nhân dân, bưng bít có chủ trương, đỗ thừa có hệ thống của ý thức hệ Cộng Sản vẫn còn nguyên tại Việt Nam như từ ngày mới nhập cảng từ Liên Xô, Trung Quốc.
Phương pháp đầu độc, tẩy não của đảng CSVN dành cho các em bé Việt Nam hoàn toàn giống phương pháp đầu độc thiếu nhi đang thực hiện tại Triều Tiên. Hình ảnh “Bác Kim” trong lòng thiếu nhi Triều Tiên như Bradley K. Martin mô tả trong tác phẩm “Dưới sự bảo bọc đầy tình thương của cha già dân tộc” (Under the Loving Care of the Fatherly Leader) không khác gì hình ảnh một “Bác Hồ” “tình thương bao la”, “cha già dân tộc”, “nhà thơ lỗi lạc”, “nhà quân sự thiên tài”, “nhà giáo dục vĩ đại” được Đảng nhồi nhét vào tâm hồn trong trắng của bao nhiêu thế hệ Việt Nam.
Những ai còn nghĩ đến “hòa giải hòa hợp” với CS, còn tin vào lòng dạ chí thành của Thứ trưởng Ngoại Giao CS Nguyễn Thanh Sơn khi thắp hương trước phần mộ của các chiến sĩ VNCH ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa hãy đọc lại bản án của đảng CS dành cho hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên một lần nữa và tự hỏi có một phương pháp, một con đường nào, một hy vọng nào để dân tộc Việt Nam có thể sống chung với đảng CSVN. Một người có nhận thức chính trị căn bản nào cũng biết là không.
Những ai còn hoài nghi vào sức mạnh dân tộc Việt Nam hãy đọc lại lời tuyên bố của hai em “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi.” Là một đoàn viên đoàn thanh niên Cộng Sản chắc chắn Phương Uyên đã được nhồi sọ rằng khi lớn lên phải biết trung thành với đảng, phải biết đi theo con đường đảng đã vạch ra. Tư tưởng Cộng Sản ngoại lai nô dịch dù độc hại bao nhiêu cũng không giết được hạt mầm dân tộc đang âm thầm lớn lên trong tâm hồn hai em, đã chiến đấu trong nhận thức của hai em, đã chiến thắng qua hành động của hai em và biểu hiện hùng hồn qua câu nói lịch sử của hai em. Đảng CS muốn Phương Uyên trở thành sâu bọ đo hai hàng chân trên cành cây mục nát của đảng nhưng em đã vươn lên thành cánh bướm vàng.
Trong nỗi đau khi nghe tin hai em bị kết án nặng nề đã dâng trong lòng hàng triệu người Việt Nam một niềm hãnh diện. Lòng yêu nước đã thắng. Chưa bao giờ ranh giới giữa yêu nước và bán nước rõ ràng hơn hôm nay. Cuộc chiến nào cũng khó khăn nhưng cuộc chiến tư tưởng bao giờ cũng khó khăn nhất. Những câu nói của hai em sẽ vang vọng trong dòng lịch sử ngàn đời không phai. Lịch sử dân tộc, qua bao thời đại, đã được giữ gìn bằng sức mạnh tuổi trẻ. Thời đại hôm nay là thời đại của Đổ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên, của hàng trăm thanh niên nam nữ đang ở trong tù CS, của hàng ngàn hàng triệu thanh niên Việt Nam đang sắp sửa tiếp nối hành trình. Lịch sử Việt Nam vừa đau thương nhưng vừa là một bản hùng ca viết bằng nước mắt và nụ cười của bao nhiêu thế hệ.
Ai dạy Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên để nói những câu hào hùng như thế. Không ai dạy. Như một lần tôi đã viết, tuổi trẻ Việt Nam không cần một ngọn hải đăng để rọi sáng đêm tối trời dân tộc nhưng ngay từ trong lòng họ đã bùng cháy lên ngọn đèn tự chủ được thắp sáng bằng tâm thức Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không cần chờ đợi một minh quân ra đời hay một lãnh tụ xuất hiện để dẫn dắt họ trên đường cứu nước bởi vì chính họ sẽ là những minh quân của thời đại và con đường dẫn đến điểm hẹn lịch sử được soi sáng bằng trí tuệ Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không cần vay mượn một chủ nghĩa, một ý thức hệ, một lý thuyết ngoại lai nào làm kim chỉ nam để giải phóng dân tộc bởi vì chính họ đã được trang bị bằng các đặc tính dân tộc, nhân bản và khai phóng kết tinh và kế thừa từ hơn bốn ngàn năm lịch sử. Các em cũng nhắc cho giới lãnh đạo Đảng biết rằng một ngàn năm sống trong bóng tối Bắc thuộc không làm dân tộc Việt Nam mù mắt thì ba mươi tám năm trong triết học Mác-Lê làm sao có thể thui chột đi tình yêu nước thiết tha trong lòng người dân và nhất là trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.
Ngoài bản chất tàn ác, bất nhân, ti tiện, còn lý do nào khác khiến Đảng đã ra tay nặng nề với hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên.
Còn một lý do nữa, bởi vì Đảng sợ.
Đúng như Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Human Rights Watch (HRW) phát biểu: “Đưa người dân ra tòa xử chỉ vì phát tán tờ rơi chỉ trích chính phủ là một việc làm lố bịch và biểu hiện sự bất an của chính quyền Việt Nam”.
Đảng cảm thấy “bất an” là phải. Trong suốt 38 năm cai trị đất nước bằng nhà tù sân bắn chưa bao giờ đảng CS bị cô lập trên thế giới và mất chỗ đứng hoàn toàn trong lòng dân tộc Việt Nam như ngày nay. Không giống như trong thời chiến núp bóng dưới chiêu bài “chống ngoại xâm” và lợi dụng lòng yêu nước của nhiều người Việt Nam, ngày nay, chung quanh đảng chỉ có kẻ thù. Những tâm thư, thỉnh nguyện, góp ý kiến về hiến pháp, đổi tên đảng, thay tên nước vừa qua cho thấy, nhiều thành phần, lực lượng trước đây là phên dậu của đảng, là hậu thuẫn của đảng đang quay sang chống đảng. Một người dù mê muội bao lâu cũng có một lần thức tỉnh. Một tiếng nói đúng gióng lên dù trễ còn hơn im lặng suốt đời.
Hành động điên cuồng vượt qua mọi thước đo đạo đức qua hai bản án dành cho hai em Nguyên Kha và Phương Uyên cho thấy không phải sức bén của con dao độc tài mà là hành động tuyệt vọng của đảng CSVN. Quyết định của Nicolae Ceausescu khi ra lệnh công an bắn vào cuộc biểu tình của nhân dân Rumania sáng ngày 17 tháng 12 năm 1989 chỉ để dẫn đến bản án tử hình dành cho vợ chồng ông ta một tuần sau đó. Thật vậy, lịch sử đã nhiều lần chứng minh, khi một chế độ chỉ còn trông cậy vào các phương tiện bạo lực trấn áp để tồn tại, chỉ còn biết sử dụng bộ máy công an kềm kẹp để duy trì quyền cai trị, ngày tàn của chế độ đó chỉ là vấn đề thời gian.
Những ai còn đang đứng bên lề cuộc tranh đấu vì chủ quyền đất nước, vi tự do dân chủ nhân bản hãy bước lên chuyến tàu lịch sử hôm nay để cùng với hai em đi về phía bình minh của dân tộc Việt Nam. Đời người rồi sẽ qua nhưng dân tộc Việt Nam phải còn và mãi mãi sẽ còn. Con tàu đi cứu nước còn nhiều toa rộng, đủ chỗ cho mọi người, mọi thành phần, mọi tôn giáo, mọi quá khứ. Hành động cứu nước cũng rất nhiều để chọn, không nhất thiết phải vào tù ra khám, không nhất thiết phải tìm cho ra được những cây búa lớn để đập vở bức tường chuyên chính, nhưng một bàn tay nhỏ, một bước chân xuống đường chống thực dân đỏ Trung Quốc, một thái độ không hợp tác với nhà cầm quyền CS, một lá thư thăm hỏi các em các cháu trong tù trong những ngày sinh nhật, lễ lớn, một tấm vé tham dự bữa cơm gây quỹ giúp các em đang bị tù hay đang bị khó khăn v.v… cũng mang đầy ý nghĩa.
Bức tường chuyên chính CSVN đã không sụp đổ vì những cơn bão thời đại Liên Xô, Đông Âu, Bắc Phi xa xôi nhưng chắc chắn sẽ sụp đổ vì những giọt nước kiên nhẫn Việt Nam đang nhỏ xuống từ tuổi trẻ Việt Nam, từ đồng bào Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Chúng ta có thể khác nhau ở điểm khởi hành nhưng có cùng một điểm hẹn tự do để đạt đến. Chúng ta có thể mang trên vai những hành lý khác nhau nhưng đều chất chứa bên trong một khát vọng dân chủ để theo đuổi. Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.
Trần Trung Đạo
-------------------------------------------------------
Xin mời ghé qua: phonuipleiku.org
CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ " NỀN HÒA BÌNH DANG DỞ " 3
(Phunutoday)- Ngày 01/11/1963, tại miền Nam Việt Nam xảy ra một biến cố lịch sử khiến cả thế giới chú ý, đó là Ngô Đình Diệm - Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà – bị một nhóm tướng lĩnh thuộc quyền đảo chính bằng quân sự. Sau đó, ông ta cùng người em trai Ngô Đình Nhu bị sát hại bí ẩn.
Sau biến cố ấy, nhiều sử gia trong nước lẫn nước ngoài đã tốn rất nhiều công sức để đi tìm những bí mật ẩn đàng sau cái chết của anh em nhà Ngô Đình. Và người ta dần phát hiện ra rằng, Mỹ chính là đạo diễn của trò chơi. Tuy nhiên người ta vẫn thắc mắc vì sao Diệm phải chết?
Thân thế một diễn viên chính trị
Ngô Đình Diệm Cho đến tận bây giờ, khi chính quyền “gia đình trị” của Ngô Đình Diệm đã theo ông ta xuống huyệt mộ gần nửa thế kỷ, một số người vẫn còn tranh cãi về tiểu sử thật của ông ta. Có dư luận mơ hồ cho rằng, Diệm là kết quả của một cuộc tình vụn trộm ngoại hôn của cha ông với một người phụ nữ nào đó, vì vậy mới có chuyện lộn xộn ngày tháng năm sinh.
Ngoài cái tên Ngô Đình Diệm và tên thánh Jean Baptiste ra, ông ta còn có một cái tên bí mật nữa, đó là Nguyễn Bá Chinh. Theo tài liệu văn khố Pháp thì ông ta sinh ngày 27/07/1897 tại Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Nhưng sau khi mang chức Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại, ông ta công bố ngày sinh của mình là 03/01/1901, tại Phước Quả, Thừa Thiên.
Hoá ra năm 1917, khi làm việc tại Tân Thư Viện Huế và tập ấm chức Cửu Phẩm, ông mới… 16 tuổi (nếu căn cứ theo năm sinh 1901). Việc này, ông Ngô Đình Luyện – Em trai ông – kể với báo giới tại Paris ngày 02/11/1985 rằng, Diệm khai tăng 4 tuổi để có thể vào trường Hậu Bổ. Tuy nhiên, ngày và tháng sinh thật của ông, không nghe ai giải thích vì sao chênh lệch.
Lời xác nhận của ông Luyện có vẻ đúng, vì nếu ông Diệm sinh ngày 17/7/1897 thì Ngô Đình Thục, anh kế Ngô Đình Diệm (sinh ngày 06/10/1897) nhỏ hơn Diệm 3 tháng tuổi (?!) Tuy nhiên, chưa có lời giải thích nào về sự chênh lệch ngày, tháng sinh của Diệm. Diệm sinh này 03 tháng 01 hay ngày 27 tháng 07?
Ngô Đình Diệm có 6 anh em trai và 3 chị em gái. Thứ tự những anh chị em của Diệm từ trên xuống dưới:
- Anh cả là Ngô Đình Khôi, sinh 1885.
- Chị cả Ngô Đình Thị Giao, tục gọi là bà Thừa Tùng.
- Anh thứ là Ngô Đình Thục, sinh 1897.
- Ngô Đình Diệm, sinh năm 1901.
- Em gái Ngô Đình Thị Hiệp, tục gọi bà Cả Ấm là mẹ của Hồng y Nguyễn Văn Thuận (nguyên Bộ Trưởng Bộ Công lý và Hòa bình ở Vatican).
- Em gái Ngô Đình Thị Hoàng, tục gọi bà Cả Lễ.
- Em trai Ngô Đình Nhu, sinh năm 1910.
- Em trai Ngô Đình Cẩn sinh năm, 1912.
- Em út thực sự là Ngô Đình Luyện sinh năm 1914.
Ngô Đình Nhu Điều buồn cười nhất dưới “triều Ngô” là các quan chức thấy Ngô Đình Cẩn giữ nhà thờ, chăm sóc mẹ nên cứ xúm nhau gọi là “cậu Út Cẩn” mà quên bẵng người em út thật sự của anh em Ngô Đình chính là Ngô Đình Luyện. Sự nhầm lẫn theo thói quen xu nịnh này dẫn đến việc một số “sử gia hồi ký ba xu” cũng cứ gọi Ngô Đình Cẩn là “Út Cẩn”.
Trước khi nhắc đến “chí sỹ chống Pháp Ngô Đình Diệm” cũng cần nhắc đến tông tích phục vụ Pháp của Ngô Đình Khả, thân sinh ông Diệm.
Ông Ngô Đình Khả có tên thánh là Micae, sinh năm 1857, nguyên quán ở làng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Để thoát kiếp nghèo đói ở làng quê mộc mạc, ông Khả bị cha mẹ gởi thân xác cho giáo hội công giáo và trở thành chủng sinh tân tòng được đào tạo ở chủng viện Penang ở Malaixia từ năm 13 tuổi.
Sau 8 năm tu luyện không đạt kết quả, ông Khả hoàn tục để kết hôn với một bà tên Madelena Chĩu vào năm 1878. Bà này không có con và qua đời, ông dấn thêm bước nữa với bà Anna Phạm Thị Thân, quê ở Phú Cam, Hương Thủy. Chín anh chị em Diệm là con của bà này.Tuy không được làm cha cố, ông Ngô Đình Khả vẫn được giữ lại chủng viện Penang làm thông dịch viên và sau đó được đưa về quê hương cấy vào viện Cơ Mật triều đình Huế.Nhờ được đào tạo ở Penang, ông Khả được chính phủ thực dân Pháp xem là hạt giống cai trị ở xứ thuộc địa Đông Dương. Ông nhanh chóng được cất nhắc lên làm đề đốc kinh thành rồi lên đến chức thượng thư Bộ Công. Là một vị quan mang quốc tịch Vatican, ông đã chứng tỏ là một đại công thần của chính quyền Pháp qua việc đàn áp đẫm máu nghĩa quân Cần Vương của Phan Đình Phùng ở căn cứ Vụ Quang.Trong chiến dịch ấy, ông là phó tướng cho Nguyễn Thân. Theo nhiều nguồn sử, sau khi kết thúc chiến dịch đàn áp nghĩa quân Cần Vương, ông Khả đã lấy điểm với Pháp bằng cách ra lệnh cho binh sỹ đào mộ cụ Phan Đình Phùng, lấy hài cốt thiêu đốt rồi cho vào đại bác bắn vãi lên mặt sông Lam.
Cặp bài trùng của Ngô Đình Khả là Nguyễn Hữu Bài (Sinh năm 1863) - cha đỡ đầu của Ngô Đình Diệm. Ông Bài vốn là thuộc hạ của ông Khả, sau này ngồi thông gia với ông Khả qua 2 đứa con trưởng nữ Nguyễn Thị Giang và trưởng nam Ngô Đình Khôi.Ông Bài sinh tại Vĩnh Linh, Quảng Trị cũng là một quan thượng thư của triều đình Huế từ năm 1907 cho đến 1933. Mồ côi cha từ nhỏ, ông Bài cũng có con đường hoạn lộ công hầu giống như ông Khả: Được mẹ gởi vào chủng viện An Ninh rồi sau đó được sang chủng viện Penang để đổi đời. Khi thất bại đường tu, Bài được gởi về nước cấy vào bộ máy chính quyền phong kiến làm thông ngôn tại Nha Thương Bạc, dần dà được cất nhắc lên làm bố chánh tỉnh Thanh Hoá.Năm 1887, ông Bài cùng với ông Khả tích cực đàn áp phong trào Cần Vương nên được Pháp cất nhắc leo dần lên chức thượng tá Cơ mật, tham tri Bộ Hình rồi thượng thư Bộ Hình.Cặp bài trùng Khả, Bài được dân gian nhắc đến qua câu: “Đày vua có Khả, Đào mả có Bài” ám chỉ việc Ngô Đình Khả ký cho Pháp mang vua Thành Thái, vua Duy Tân đi đày và Nguyễn Hữu Bài hỗ trợ quân Pháp đào mồ cuốc mả vua Tự Đức. Một số người cho rằng, Khả - Bài đã phản đối Pháp thực thi hai chuyện đó mà quên rằng, sau sự việc đó, hai ông vẫn đường hoàng tại vị chức quan. Nếu hai ông thật sự cãi lệnh “mẹ Pháp” trong việc thất đức ấy thì tin chắc rằng, hai ông cùng con cái cũng được đi theo Thành Thái và Duy Tân lập nghiệp trên đảo Réunion. Cũng cần nhấn mạnh rằng, năm 1896 ông Ngô Đình Khả được phong phẩm hàm Thái Thường Tự khanh (chánh tam phẩm), chức Thương biện thuộc Viện Cơ mật. Thời đó, Viện Cơ mật của nhà Nguyễn đã bị các cơ quan tình báo Pháp khống chế.
Với sự nuôi dạy của 2 người cha cúc cung tận tuỵ với “mẹ Pháp” như thế, nếu nói Ngô Đình Diệm có truyền thống căm thù Pháp thì hơi lạ.
Nhờ có 2 người cha đại công thần với chính quyền Pháp, Ngô Đình Diệm được tập ấm, được vào học trường đạo Pellerin ở Huế, được tuyển thẳng khỏi thi vào trường Hậu Bổ. Sau đó được bổ nhiệm làm tri huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị vào năm 1922, tức 21 tuổi (theo giấy tờ văn thư). Mấy năm sau được thăng lên chức tuần vũ tỉnh Bình Thuận. Con đường hoạn lộ của Diệm vinh thăng nhanh đến chóng mặt. Con ông cháu cha có khác.
Thời gian đảm nhiệm chức tuần vũ Bình Thuận, với quyền lực trong tay, Diệm đã tỏ ra “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Ông ta đàn áp man rợ những nhà cách mạng kháng Pháp. Ông quan Diệm đã “sáng tạo” được nhiều ngón đòn tra khảo rất dã man, kinh dị dành cho những người yêu nước kháng Pháp. Ngón tra khảo ưa thích nhất của ông ta là lột trần truồng nạn nhân rồi cột ngồi trên cái ghế gỗ có khoét lỗ. Dưới lỗ là một ngọn đèn sáp cháy leo loét, hong ngay dưới hậu môn nạn nhân. Với cách tra khảo như thế, cho dù nạn nhân có nhận tội, khai báo thì lục phủ ngũ tạng cũng bị nướng chín, hoại tử dần và chết mòn.
Nhờ tàn ác với những chí sỹ kháng Pháp nên năm 1933, ông được cất nhắc lên chức Thượng thư Bộ lại. Khi đã lên chức thượng thư Bộ Lại, ông Diệm bị ảnh hưởng bởi sự tranh giành quyền lực trong Chính quyền Pháp dẫn đến lao đao, lận đận.
Thời đó, chính quyền Pháp lẫn Việt thuộc địa đều chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của công giáo La Mã. Hầu hết những vị quan lại của Việt Nam đều có tên thánh trước tên khai sinh như Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương (Đỗ Hữu Vị), Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Hữu Độ, Trần Lục, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Tường Tộ, Ngô Đình Khả, Lê Hoan, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn … Không thể biện minh khác được, chính sách nhân sự của chính quyền Pháp ở Đông Dương thời đó luôn chịu ảnh hưởng bởi 3 luồng thế lực chi phối: Thực dân, Công giáo và Tam Điểm (Free Mason).
Diệm được thời là nhờ giai đoạn chính quyền Pháp nghiên theo ảnh hưởng của Công giáo.
Đến năm 1933, phe Tam Điểm tại chính giới Pháp thắng thế, Diệm lại tranh chấp chức tổng lý đại thần với một thượng thư đồng triều là Phạm Quỳnh. Cái ô của Phạm Quỳnh là Toàn quyền Pasquier (phe Tam Điểm) và cái ô của Diệm là Khâm sứ Thibaudeau (phe Công giáo).
Thua đau cú tranh chấp và sợ bị Phạm Quỳnh trù dập, Diệm đành nộp đơn xin từ quan. Toàn quyền Pháp Pasquier không chấp đơn từ quan của Diệm mà bãi chức, tước phẩm hàm, trục xuất khỏi kinh thành Huế, buộc hồi hương về Quảng Bình cư trú.
Diệm trở thành vị quan yếm thế lũi thũi nơi quê nhà cho đến khi Pasquier chết trong một tai nạn máy bay ở Paris vào ngày 15/01/1934. Pasquier chết, Pháp đưa René Robin làm tân toàn quyền ở Việt Nam. Diệm được xoá án cấm túc và về Huế an phận với nghề dạy học ở trường Tư thục Providence của ông anh Ngô Đình Thục.
Rỏ ràng, Ngô Đình Diệm căm thù Pháp không vì yêu dân thương nước mà chỉ là tư thù cá nhân. Ông từ quan và bị cách chức chỉ vì tranh giành quyền lực, địa vị phục vụ cho mẫu quốc Pháp. Bị cách chức, Diệm trở thành kẻ thất chí.
Ngô Đình Diệm là người lãnh đạo xứng danh!
Long Điền.
1. Ngô Đình Diệm người lãnh đạo xứng danh
(Hội luận chính trị trên hệ thống Paltalk Diễn Đàn Người Dân Việt Nam với Hiện Tình Đất Nước vào ngày thứ sáu, 06.11.2009 với các diễn giả: G/S Chu Chỉ Nam, Nhà Văn Mặc Giao, Kỹ sư Đỗ Như Điện và Long Điền.)I- Dựa vào nhận định nào mà hai ông cố TT Ngô Đinh Diệm và Ngô Đình Nhu đưa ra đề nghị hiệp thương với CSBV.Muốn xét quan điểm của ông Ngô Đình Diệm đối với cuộc chiến Việt Nam thì chúng ta phải xét các lời phát biểu do chính ông và ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói gì về chiến trường Việt Nam 1954-1963:1- Trong thời gian 9 năm điều hành đất nước (1954-1963), Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ trương “Đả Thực, Bài Phong, Tiểu Trừ Cộng Phỉ “, tức là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi nước ta, bảo vệ Độc Lập nước nhà, bài trừ Phong Kiến triều Nguyễn, đem Tự Do Dân Chủ cho toàn dân, dẹp tan lũ giặc cướp Cộng Sản để mọi người no ấm, thương yêu lẫn nhau. Ông Ngô Đình Diệm luôn luôn giữ vững lập trường Quốc Gia chân chính: Bảo vệ chủ quyền, bảo vệ lãnh thổ, không chấp nhận sự can thiệp của ngoại bang vào VN dù CSVN lúc đó tìm mọi cách xâm nhập bộ đội chính quy từ Bắc vào Nam ngày càng nhiều hơn. Bởi vì ông hiểu rõ: chấp nhận sự có mặt của Hoa Kỳ vào Miền Nam sẽ làm mất đi chính nghĩa cuộc chiến đấu tự vệ chống CS xâm lược và tạo cớ cho CSBV chống Mỹ cứu nước.CS xâm lược và tạo cớ cho CSBV chống Mỹ cứu nước.2- Cuộc chiến Việt Nam 1954-1963 là Cuộc Chiến Tự Vệ vì hoàn toàn không có hành động quân sự nào của Miền Nam tấn công ra Bắc! Ngược lại, Miền Bắc đã vượt vĩ tuyến 17, xâm nhập và tấn công Miền Nam theo lệnh của Cộng Sản Quốc Tế. Dù vậy, với tấm lòng nhân ái, không muốn một cuộc chiến Huynh Đệ Tương Tàn, Ông Ngô Đình Diệm một mặt lo chống đỡ, đồng thời tiến hành những cuộc thương thảo với Miền Bắc để đi đến Hiệp Thương, tránh đổ máu giữa người Việt với nhau.Trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu có trích dẫn bức thư của ông Võ Như Nguyện. Cuối thư, có đoạn thuật lại lời ông Diệm tâm sự với ông Nguyện như sau:“… Vả tôi với chú Nhu có ý dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp nhưng đều là máu mủ, ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản. Rồi bên nào kéo dài, chung quy sẽ bị lệ thuộc vào một cường quốc và đất nước chia rẽ, vì các cường quốc có ý định chia rẽ cả….” Như vậy, người ta thấy ông Diệm muốn tránh đổ máu chừng nào tốt chừng đó và không muốn để các cường quốc đắc lợi trong cuộc tranh chấp nội bộ, một cuộc Nội Chiến tại Việt Nam do CS chủ xướng.3- Trong Nguyên Sa Hồi Ký (ấn hành năm 1998), giáo sư Trần Bích Lan, đã thuật lại chuyện ông và hai giáo sư Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Xuân Nghiên đã có dịp nghe Tổng Thống Diệm trả lời một trong ba câu hỏi của các ông. Câu hỏi là:Tại sao ta không dồn lực lượng đánh một vài trận lớn để giải quyết chiến tranh mau chóng mà cứ đánh cầm chừng nhì nhằng như thế này?Ông Diệm đã nói: “Bản chất cái chiến tranh này nó như thế. Mở rộng chỉ chết thêm lính và dân, mà cũng chẳng giải quyết được gì.” Ba mươi lăm năm sau, nhìn lại, nhà giáo và nhà thơ của chúng ta đã thấy câu trả lời của ông Diệm không phải ngụy biện như các ông nghĩ lúc trước, mà là những lời tiên đoán thời cuộc rất chính xác.4- Những gì ông Ngô Đình Nhu nói trong một Lễ Bế Mạc lớp học tập về Ấp Chiến Lược Khóa XII, ngày 22/6/1963… cũng tương tự như thế:“Chúng ta là một nước nhỏ bé đứng giữa hai khối. Nếu bên thế giới tự do tăng cường viện trợ cho ta thì thế giới cộng sản cũng sẽ tăng viện trợ cho phía họ. Hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng ngày càng lên cao. Và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?”5- Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩaDân Tộc vàchống Cộng kiên quyết, chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam nên lập trường của ông rất dứt khoát.Trong cuộc viếng thăm chính thức Việt Nam ngày 9 tháng 5 năm 1961, Phó Tổng Thống Mỹ Johnson đã đề nghị việc gửi Quân Đội Mỹ sang tham chiến tại Việt Nam. Tổng Thống Diệm đã bày tỏ quan điểm là chính phủ Việt Nam rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ. Nhưng, với việc gửi Quân Đội Mỹ đến Việt Nam, ông đã cương quyết từ chối và nói:"Nếu quý vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam."6- Sự vĩnh viễn ra đi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gây xúc động sâu xa và niềm thương cảm lớn lao nơi các lãnh tụ Á Châu thời đó. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc, Tưởng Giới Thạch, đã than thở: "Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp. Tôi khâm phục ông Diệm. Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất 100 năm nữa mới tìm được một nhà lãnh tụ cao qúy như vậy. "7- Hơn nữa, cái chết của Cố Tổng Thống Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á Châu, đồng minh của Mỹ phải giật mình và đặt vấn đề. Chính Tổng Thống Hồi Quốc, Ayub Khan, đã nói thẳng với Tổng Thống Nixon: "Cuộc thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Đồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hưu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa Kỳ "Lập trường của ông Ngô Đình Diệm rỏ ràng là vì Quốc Gia, Dân Tộc không muốn làm “tiền đồn” cho ai cả vì sẽ phải lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, và sẽ làm cớ cho Liên Xô và Trung Cộng nhảy vào xâu xé Việt Nam mà thôi.Trong quyển "Chính Đề Việt Nam", Ông Ngô Đình Nhu đã nhận định hiểm họa Trung Cộng là to tát và là một mối họa truyền kiếp cần phải đề phòng và muốn chống họa xâm lược đó chỉ có một chính thể tự do mới có đủ khả năng chống lại hoạ mất nước. (Tác giả mong sẽ có dịp bình luận toàn bộ quyển luận án chính trị nổi tiếng nầy vào dịp thuận tiện.)Trang Blog cua Long Điền trọn bộ "Chính Đề Việt Nam" của ông Ngô Đình Nhu 198 trang và"Chúng ta đã biết chính sách xâm lăng của Trung Hoa đối với Việt Nam là một chính sách liên tục và bất biến của tất cả các chế độ của Trung Hoa vì nó phát sinh từ một nhu cầu đất đai cần thiết cho sự phát triển của Trung Hoa. Mang phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, cũng như phương pháp độc tài nào khác để lãnh đạo quần chúng, thì theo một cơ thức mà chúng ta đã biết, quần chúng sẽ phản ứng bằng cách hướng về bất cứ cá nhân hay tập thể nào phất cờ giải phóng để che đậy thâm ý xâm lăng của mình. Trong điều kiện đó, các nhà lãnh đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam, sẽ đương nhiên tạo hoàn cảnh thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam lúc thời cơ đưa đến.Nói một cách khác, phương pháp lãnh đạo độc tài Đảng trị sẽ suy nhược hóa sức đề kháng của dân tộc đối với kẻ xâm lăng." (trang 142, ấn bản điện tử.)Nhận định của ông Ngô Đình Nhu về sự lệ thuộc của đảng CSVN với Nga và Tàu như sau:"Nhưng, họ chỉ có thể thoát ra ngoài vòng ảnh hưởng của hai khối để lãnh đạo công cuộc phát triển của dân tộc, như chúng ta nêu lên trong câu hỏi đầu mục này, nếu các điều kiện sau đây được họ nhận thức rõ rệt:1. Bản chất thực tế của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.2. Thâm ý chiến lược của Nga Sô3. Cuộc đồng minh với Nga Sô, đã hết hiệu lực đối với Nga Sô, khi mục đích phát triển của Nga Sô đã đạt.4. Lý thuyết Các-mác Lê-nin là một phương tiện tranh đấu và phát triển của Nga trước đây, cũng như là một phương tiện tranh đấu và phát triển của Trung Cộng ngày nay.5. Sự đồng minh với Cộng Sản phải được chấm dứt kịp thời khi nó không còn hiệu lực đối với dân tộc.6. Đối với dân tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp."(trang 109 ấn bản điện tử).Nhưng khốn nỗi phe CSVN thời đó không thể suy nghĩ ra vấn đề mà họ chỉ tuân hành các chỉ thị của Cộng Sản Quốc Tế mà thôi."Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thơ loại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt."Sự phân chia đất nước theo Hiệp định Genève 1954 là do các nhà lãnh đạo Miền Bắc chạy theo chủ nghĩa CS. Muốn chấm dứt chiến tranh thì giới lãnh đạo Miền Bắc phải độc lập, phải thấu đáo nguyện vọng của cộng đồng dân Việt và sau cùng là phải thấu đạt các ý đồ của các cường quốc tham chiến. (trang 109)"Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được.Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối."II. Dự án hiệp thương có phải là phản bội đồng minh (Mỹ)... hay đâm sau lưng chiến sĩ như lập luận của một số người có ác cảm với gia đình họ Ngô.Đây là một sự kiện lịch sử cần được xem xét cẩn thận, không nên vội lên gân và kết tội một cách vội vã là anh em ông Diệm muốn hiệp thương (thoả hiệp) với cộng sản hay là đâm sau lưng chiến sỹ. Bởi vì, xét cho cùng thì, năm 1972, tại sao Hoa Kỳ thương lượng với Trung Cộng thì được, còn hai miền của Việt Nam gánh chịu bao đau thương do chiến tranh thì không được thương lượng với nhau trong tình Dân Tộc? (Khác với tình thế hiện nay, 2009 CSVN quyết tâm cai trị dân VN bằng đường lối độc tài sắt máu, không chấp nhận đối thoại và đối lập thì lại có một số người định chạy theo đường lối "Hòa Hợp, Hòa Giải" bịp bợm của chúng!)Ông Minh Võ và nhà khảo cứu lịch sử đã viết về ông Ngô Đình Diệm như sau:“Dưới ánh sáng của những sự kiện lịch sử vừa nêu, nhìn lại dĩ vãng, chúng tôi thấy sách lược đấu tranh mà hai anh em ông Diệm toan tính áp dụng tại Việt Nam trước khi các ông bị giết rất có cơ sở, và đáng lý nó đã phải thành công. Và nếu nó thành công thì miền Nam Việt Nam với danh xưng Việt Nam Cộng Hòa sẽ tồn tại trong một thời gian khá lâu: hoặc có thể thống nhất một cách vinh quang như nước Đức. Bằng không thì tối thiểu cũng tồn tại trong phú cường giống như Nam Hàn hay Đài Loan.”“Còn thời 1962–1963 thanh thế của ông Diệm hơn hẳn ông Hồ. Nếu ông Diệm chịu liên hiệp là liên hiệp trong thế mạnh. Hãy tạm lấy một ví dụ đơn giản là hòa tan dung dịch có hai màu đối chọi; xanh đậm (Diệm) với hồng lạt (Hồ). Màu nào đậm hơn sẽ lấn át và thắng màu lợt. Dĩ nhiên thực tế chính trị phức tạp hơn, vì còn mưu sâu của con cáo nổi danh hơn người. Nhưng về điểm này ông Diệm đã có kinh nghiệm từ những bài học lịch sử nói trên với cộng sản. Hơn nữa ông Diệm không phải là một chính khách non nớt, không biết rõ đối phương như người ta tưởng.”“Vì những lý do trên, theo ý kiến chủ quan của tôi, nếu, vâng, nếu, một chữ nếu không có trong lịch sử! nếu anh em ông Diệm không bị chết, và việc hiêp thương giữa hai miền Nam Bắc được thể hiện vào thập niên 60 thế kỷ trước, thì chẳng những Hoa Kỳ đã không phải đổ 2 triệu quân vào Việt Nam khiến hơn 58 ngàn lính Mỹ chết mà Việt Nam cũng tránh được một cuộc chiến tương tàn làm trên 3 triệu tử vong.”Có nhiều ý kiến của người Việt Quốc Gia chưa đồng ý với nhận định của Minh Võ một cách hoàn toàn:a- Họ chưa đồng ý là khi đưa ra đề nghị “Hiệp Thương” chưa chắc là ông Diệm ở vào thế mạnh hơn so với CSBV vì CSQT thì yểm trợ cho miền Bắc hết mình, còn Hoa Kỳ vừa viện trợ, vừa o ép miền Nam đi theo ý họ, đề nghị Hiệp Thương đưa ra quá sớm, dể gây cú sốc cho đồng minh Hoa Kỳ vốn rất cứng ngắc , độc đoán không bao giờ nghe lời đề nghị của bất cứ ai mà họ chỉ làm theo quyền lợi Mỹ theo từng giai đoạn thời cuộc.b- Nên nhớ cuộc thương lượng về một giải pháp Hiệp Thương thời điểm đó chỉ mới bắt đầu, hiện không còn tài liệu nào được công bố nên chưa hiểu rõ nội dung, ý muốn của mỗi bên ra sao, nên cũng không thể nói “Mèo nào cắn mĩu nào” vì cả hai bên đều có kinh nghiệm già dặn không dễ gì ông Diệm chịu Hiệp Thương mà chịu phần thua thiệt đâu. Vã lại, thái độ cứng rắn, uy dũng của ông Diệm ngay cả khi bị CS bắt năm 1945, mà cũng không chịu khuất phục thì làm sao với thế ngang ngửa ông Diệm lại chịu thua thiệt. Không nên đem thành bại mà luận anh hùng!Dù sao thì sự can đảm của ông Diệm dám xem xét vấn đề Hiệp Thương dù không có sự đồng ý của Mỹ quả là một hành động đáng khâm phục hơn là chê trách. Vả lại, trong thời điểm 1972, khi Hoa Kỳ thương lượng với Trung Cộng để mưu tìm hòa bình cho cuộc chiến thì không thể nào nói TT Nixon là phản quốc (Hoa Kỳ)! Vậy tại sao ta lại vội vã lên án ông Ngô Đình Diệm có ý phản bội quốc gia?c- Có người cả nghi thì cho rằng Hồ là con cáo già trong khi hai bên thảo luận mà tung tin ra ngoài, lập mưu nầy để mượn tay Mỹ hãm hại ông Diệm. Vì vậy mà Mỹ bật đèn xanh cho các tướng lãnh giết ông Diệm vì không theo đúng đường lối của Mỹ. Xin thưa đó là lập luận của CS, muốn đánh bóng Hồ và hạ uy tín của ông Diệm mà thôi. Ông Diệm đã nhờ Trưởng Đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến là Mieczyslaw Maneli và còn có đại sứ Ý Giovanni d’Orlandi và đại diện của Vatican tại Việt Nam là Đức Cha Salvatore D’Asta cùng nhiều người khác nữa để làm trung gian thương lượng. Đồng thời, Ông Diệm, Ông Nhu cũng đã công bố một cách bán chính thức, bán công khai cuộc Hiệp Thương nầy thì rõ ràng hai ông đã lượng định kỹ càng và không quá ấu trĩ về chính trị như một số người lầm tưởng. Hoa Kỳ thì có nhiều kinh nghiệm trận địa chiến, nhưng với chiến tranh du kích thì họ hoàn toàn mới mẻ. Vì thế, thoạt đầu khi vào VN, các tướng lãnh HK nghĩ rằng có thể dễ dàng thắng cuộc chiến tại VN. Nhưng, sau đó, họ đã nghĩ khác khi đã tổn hao 58.000 binh sĩ thì họ mới đi tìm một giải pháp thương lượng. Còn ông Diệm và ông Nhu thì biết rất rõ thực chất cuộc chiến là Cộng Sản Bắc Việt chỉ là kẻ thừa hành cho Cộng Sản Quốc Tế cần phải lôi kéo họ về với Dân Tộc. Chỉ tiếc là đề nghị Hiệp Thương nầy có lẽ quá sớm vì sau đó năm 1968-1972 thì Hoa Kỳ mới cố công tìm kiếm sự thương lượng giữa HK và Trung Cộng để mưu tìm một giải pháp ổn định Đông Nam Á mà không tổn hao sinh mạng đôi bên.d- Ngày nay (2009), vị thế Quốc Cộng khác hẳn năm 1961: CSVN đang cầm quyền trên toàn cõi Việt Nam bằng biện pháp ngoan cố, vá víu Xã Hội Chủ Nghĩa thì dĩ nhiên áp dụng hòa hợp hòa giải với CSVN là đầu hàng, là trở cờ thì đáng bị lên án. Chừng nào CSVN chịu từ bỏ CNXH, bãi bỏ toàn bộ Hiến Pháp, chấp nhận “Trưng cầu Dân ý” một cách thành khẩn thì ngày đó mới hết đấu tranh đòi hỏi Dân Chủ cho VN.Với những ai vẫn còn quan niệm rằng thời thập kỷ 1960 ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu không nên thương lượng chấm dứt chiến tranh với Miền Bắc, xin trả lời các câu hỏi sau đây thì sẽ làm sáng tỏ vấn đề:1- Phía đồng minh Hoa Kỳ có viện trợ liên tục và vô thời hạn cho chính thể VNCH (Ngô Đình Diệm và sau ông Diệm) để chống CS Quốc Tế mãi mãi hay không? Hay Hoa Kỳ sẽ chấm dứt cuộc chiến khi họ đạt được ý định chiến lược là làm suy yếu tiềm lực CSQT (tức là gây chia rẽ khối CSQT gồm 2 cường quốc Liên Xô và Trung Cộng) không còn khả năng đe dọa Hoa Kỳ mà thôi.2- Nếu cả hai miền Nam, Bắc đều nhận được viện trợ dồi dào của cả hai khối siêu cường thì chiến tranh sẽ kéo dài đến đâu và kết quả dân tộc Việt Nam được gì, mất gì? (Xin hãy nhớ cuộc chiến lịch sử đẩm máu ở Triều Tiên, sau đó đất nước Triều Tiên ra sao?)3- Hoa Kỳ viện trợ cuộc chiến VN. Vậy chỉ có Hoa Kỳ và Nga Tàu có quyền chấm dứt cuộc chiến VN, còn Miền Bắc và Miền Nam hoàn toàn không có quyền bàn đến? (Đông Đức và Tây Đức đã liên lạc, thảo luận và thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình mà không cần quyết định nào của Mỹ và Liên Xô.)4- Hòa bình đạt được giữa thập niên 1960 và 1975 có gì khác nhau? Sau khi cuộc chiến chấm dứt, toàn dân VN được gì và mất mát những gì? (Nếu cuộc chiến chấm dứt trước thập niên 1960 thì không phải hy sinh 2 triệu binh sĩ và 3 triệu thường dân hai bên Nam, Bắc Việt Nam và 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ!)5- Nếu nói ý đồ của CSQT là phải thôn tính Miền Nam VN bằng mọi giá và Hồ cũng như đảng CSVN phải bắt buộc thi hành, vậy thương lượng với CSVN là vô ích. (Vậy giả dụ Hồ và đảng CSVN quyết tâm đình chỉ cuộc chiến vì hao tổn quá mức chịu đựng. Vậy chẳng lẽ Liên Xô và Trung Cộng sẽ tự đem quân qua Việt Nam để giải quyết chiến trường hay chăng? Hay một giả thuyết thứ hai là tiềm năng của Liên Xô và Trung Cộng là trường cữu và vô tận hay sao? Hay là một ngày nào đó sẽ kiệt quệ và không còn khả năng giúp CS Bắc Việt nữa?)Cho đến hiện thời, chưa có tài liệu nào cụ thể đưa ra về các điểm thảo luận và mục tiêu thảo luận giữa đôi bên. Có vài sử gia tên tuổi lập luận lên án cuộc thảo luận chấm dứt chiến tranh của cố tổng thống Ngô Đình Diệm là ve vản kẻ thù, là đâm sau lưng chiến sĩ. Nhưng bản thân họ thì vận động, chạy chọt để khỏi ra tác chiến và ngày nay cứ mãi cường điệu lên án những người có lòng nhân ái muốn chấm dứt cuộc chiến bĩ ổi nầy thì người ấy nói năng có hợp lý chăng? Theo tôi, kéo dài cuộc chiến chỉ có lợi cho các cường quốc ngoại nhân và một nhóm nhỏ chính trị hoạt đầu nội địa nhằm cũng cố địa vị và cắt xén viện trợ bỏ túi mà thôi. Tại sao cứ mãi tôn thờ quyết định của ngoại bang mà bỏ quên quyền quyết định của Dân Tộc Việt Nam? Theo họ thì Miền Nam Việt Nam phải mãi mãi là tiền đồn chống cộng. (Họ mau quên điều này: Một khi Mỹ đạt được ý đồ chiến lược thì Mỹ không cần tiền đồn và sẵn sàng bỏ rơi Đồng Minh.)Lối lập luận nô lệ ngoại bang, xem thường ý nguyện sống thanh bình của 86 triệu đồng bào Việt Nam ngày nay đã lỗi thời và không còn mua chuộc được ai nghe theo! Dù đứng bên nầy chiến tuyến, nhưng cách suy nghĩ của họ y hệt những cái đầu ở Bắc Bộ Phủ chỉ biết quỳ mọp trước Trung Cộng mà bỏ quên nguyện vọng Độc Lập Tự Chủ của toàn dân Việt.Suy tư trước vận mệnh đất nước lâm nguy qua kẻ thù truyền kiếp Bắc phương, tức giận trước cung cách hèn hạ của kẻ cầm quyền Hà Nội hiện nay, duyệt xét lại lịch sử cận đại, thấy rằng người lãnh đạo xứng danh Ngô Đình Diệm luôn lắng nghe nguyện vọng của toàn dân muốn no cơm ấm áo, muốn an bình tái thiết quê hương sau mấy chục năm khói lửa chiến tranh (1930-1954) ông Diệm độc lập với đồng minh, luôn tìm mọi cách chấm dứt chiến tranh dù trái với ý đồ của cường quốc, khác xa với Hồ Chí Minh là người luôn mang ý định chủ chiến, luôn cúc cung tuân thủ theo lệnh quan thầy Liên Xô và Tàu Cộng.Những nỗ lực mưu tìm một nền Hòa Bình cho Việt Nam vào giai đoạn 1960 tuy chưa thành công vì ông Diệm và ông Nhu đã hy sinh cho đại nghĩa quá sớm! Nếu vận nước không suy vi thì với khả năng lãnh đạo sáng suốt của ông, biết đâu Việt Nam sẽ được giải quyết như Đông và Tây Đức hiện thời.Đừng đem thành bại mà luận anh hùng. Tấm lòng nhân ái thương dân với những đức tính cần thiết của người lãnh đạo bao gồm: Nhân, Dũng, Lược, Trí sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ chủ quyền Quốc Gia Dân Tộc như ông Ngô Đình Diệm thì xét trong lịch sử Việt Nam thử hỏi có được mấy người!???Long Điền(Nhân kỷ niệm 46 năm ngày sụp đổ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa 1.11.2009-1.11.1963)Tài liệu tham khảo :http://nguoitinhuu.com/htvd/cottngodinhdiem.htmlCỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỚI NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ Linh Mục TRẦN QUÝ THIỆNii http://web.datviet.com/blogs/forums/ba-nh-lua-n-tin-ta-c/179903-vnch-nua-i-csvn.html Vu Ngu Chieu PHIẾN CỘNG” TRONG DINH GIA LONG.
TT Ngô Đình Diệm: Lịch sử sẽ trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho ngài
Tác giả: Quỳnh Thi
Kể từ sau Hiệp Định Genève 54 chia đôi đất nước giữa Pháp và chính quyền cộng sản Hà Nội. Cuộc chia đôi đất nước đẫm máu đầy bi thương của dân tộc! Miền Bắc thuộc quyền cai trị của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là thuộc về cộng sản . Còn miền Nam thuộc về Việt Nam Cộng Hòa (VNCH ), tức là thuộc về thế giới tự do.
Như mọi người đều biết, VNCH có nền Đệ I và Đệ II Cộng Hòa. Đệ I Cộng Hòa được thành lập vào ngày 07/07/ 1954 do Chí sĩ Ngô Đình Diệm bôn ba từ hải ngoại về nước sáng lập và lãnh đạo. Ông được dân chúng miền Nam từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu bầu lên, bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do đầu phiếu làm Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ I của nước Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lật đổ ngày 01-11-1963.Sau đó Đệ II Cộng Hòa được thành lập cho đến ngày miền Nam rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt.Đây là một bước ngoặt đánh dấu cho một nền dân chủ đầu tiên của dân tộc, chấm dứt chế độ độc tài phong kiến cai trị đất nước cả hàng nghìn năm của Hán Tộc và một trăm năm đô hộ của người Pháp.Sau khi hiệp định Genève 54 có hiệu lực. Một làn sóng người di cư tị nạn Cộng sản vĩ đại từ miền Bắc tràn qua sông Bến Hải xuống miền Nam Việt Nam. Đó là một cuộc di cư lánh nạn lớn nhất trong lịch sử, kể từ khi lập quốc. Hơn 1 triệu người từ bỏ tài sản nhà cửa ruộng vườn để đi vào Nam tìm tự do no ấm.Trước đó những người dân miền Bắc đã sống trong vùng Việt Minh kiểm soát. Họ đã hiểu thế nào là Cộng sản. Thế nào là độc tài sắt máu. Thế nào là sựlừa bịp mị dân. Họ đã từng chứng kiến những cuộc đấu tố dã man. Con tố cáo cha, vợ tố cáo chồng. Những cuộc ám sát thủ tiêu bí mật. Những vụ thanh trừng bắn giết để tiêu diệt các đảng phái yêu nước đối lập như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng… những người không chịu đứng chung trong hàng ngũ với Cộng sản. Tôn giáo được coi là mê tín dị đoan phải xóa bỏ. Chỉ có Bác và Đảng là trên hết.Cả một xã hội bị ly tán và phân hóa chia rẽ giầu nghèo, người ta gây căm thù giữa hàng ngũ địa chủ và nông dân khiến họ xâu xé, tố khổ lẫn nhau, kể từ khi chính quyền của cái gọi là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa được thành lập từ mùa Thu năm 45. Mà người Cộng sản thường gọi là Cách mạng tháng 8.Sau này khi đã lớn khôn, tôi được nghe mẹ kể lại những hệ lụy do cuộc Cách mạng tháng 8 mang lại những bi thương khổ ải cho cả đất nước và dân tộc. Đó cũng là sự nhức nhối ray rức, không chỉ riêng của người viết, mà là với mọi người Việt Nam yêu nước. Đó cũng là động cơ khiến người viết làm nên một bài thơ đã lâu. Nhân đây muốn xin được chia sẻ với bạn đọc. Bài thơ có tên là Một Chiều Thu Ấy như sau:Có một ngày đã xa còn đó
Quên làm sao vết sẹo nghìn đời
Thân ngã sấp cõng hồn tím lặng
Vách núi sầu lãng đãng trời mây
Giữa ngọ dìm ngày không níu được
Thuyền không neo Trời nước mênh mông
Cứ lênh đênh từ đó tang bồngMẹ đứng khóc một chiều Thu ấy
Chưa mừng vui đã vội hao gầy
Kể từ đó tương tàn cốt nhục
Bắc Nam Trung chìm ngập đạn bom
Biết hận thù khi nao xóa được
Chảy biển Đông ngập máu chia lìaNhư chim Yến mỗi ngày thổ máu
Dán đời mình vách đá điêu linh
Ôm trần gian trợn tròn hai mắt
Đá xám đen nghẹn uất chiêm baoMùa Thu vàng xác người ướp lá
Nuốt âm thầm lênh láng đau thương
Trách làm chi Trời chập âm dương
Trụ lại thành con người vật vã
Trên trần gian chắp cánh vô thườngNghe gió thổi rơi vào nghìn kiếp
Vàng rộm hong một chiếc lá bay
Xin ngàn sau thôi trở lại nơi này
Nhưng Trời hỡi ! Đất này tôi yêu quá.Từ khi hiệp định Genève được hai bên ký kết, khắp miền quê xa xôi hẻo lánh đến các thành phố lớn nhỏ, đồng bào xôn xao bàn tán về chuyện di cư vào Nam. Nhất là đồng bào theo đạo Công giáo. Người ta loan truyền có “tầu há mồm khổng lồ” của Mỹ tới các hải cảng để đón rước đồng bào. Thế là dân chúng lũ lượt về thu xếp gia đình, bồng bế nhau già trẻ lớn bé chạy trốn. Bất kể đe dọa, bắt bớ lẫn phủ dụ tuyên truyền. Cán bộ Việt Minh khuyên lơn đồng bào ở lại. Họ nói, “bây giờ đất nước đã được hòa bình độc lập rồi hãy ở lại làm ăn, đừng nghe theo đi làm tay sai cho địch” !Theo nguyên tắc trong văn bản hiệp ước qui định, người dân Việt Nam có quyền ai muốn sinh sống ở đâu, thì được tự do lựa chọn. Nghĩa là ai theo Bác và Đảng thì ở lại miền Bắc. Còn ai yêu quí tự do dân chủ thì đi vào miền Nam sinh sống. Nhưng đó chỉ là trên văn bản giấy tờ, còn trên thực tế thì chính quyền Bắc Việt ra sức ngăn cấm. Nên ở các vùng xa xôi hẻo lánh, ai muốn đi tìm tự do ở miền Nam thì phải lén lút lẩn trốn. Họ chỉ tiết lộ tin tức ra đi cho những người thân quen và bạn bè với nhau mà thôi. Ngoài ra tất cả phải giữ bí mật. Nếu không muốn bị ngăn cản hay bị bắt giữ.Cuộc di cư của hơn 1 triệu người miền Bắc lánh nạn Cộng sản vĩ đại nhất, từ trước đến nay ở Việt Nam như đã nói. Công lao lớn nhất phải được nhắc đến, là của anh em trong gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Suốt thời gian còn ở Hoa Kỳ chuẩn bị về nước chấp chánh lãnh đạo đất nước, Chí sĩ họ Ngô đã vận động trong khối Thế giới tự do, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn về tài chính, lương thực, thực phẩm các phương tiện vận chuyển của chính phủ Mỹ và giáo hội Công giáo Vatican đối với người tỵ nạn Cộng sản. Ân nhân của những người di cư tỵ nạn cụ thể nếu không được nói đến là một điều thiếu sót, là Đức Hồng y giáo chủ Spellman của Hoa Kỳ.Những người tỵ nạn sau khi được các phương tiện đưa tới Sài gòn. Họ được tập trung vào các trại tạm cư, được giúp đỡ phương tiện chuyên chở, tiền bạc, thực phẩm thuốc men một thời gian dài, rồi sau đó họ được đưa về các nơi ruộng đồng phì nhiêu để định cư, tạo dựng cuộc sống mới. Những địa danh sau này nổi tiếng như vùng Cái Sắn Rạch Giá, Hố Nai, Gia Kiệm, Phương Lâm, Blao Bảo Lộc… không một người miền Nam nào là không biết đến.Suốt 9 năm cầm quyền lãnh đạo miền Nam Việt Nam của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người dân có dịp sống trong thời gian đó và sống trong thời gian nhiễu nhương của các Tướng lãnh cầm quyền sau này. Khi chế độ Đệ I Cộng hòa bị lật đổ, người ta mới vô cùng tiếc nuối một vị lãnh đạo yêu nước,đức độ tài ba có một tinh thần độc lập quốc gia dân tộc, rất đáng kính trọng. (không như mấy tên báo nặc nô viết Láo về đời tư của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm)Ông đã bị một số Tướng lãnh thuộc hạ thân tín, cam tâm nhận tiền bạc, và bị mua chuộc của ngoại bang phản bội. Dưới chiêu bài, lật đổ Chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô, vào ngày 01-11-1963, cả hai anh em ông là Cố vấn Ngô Đình Nhu đều bị sát hại một cách thê thảm.
Sau hiệp định Genève 1954, khi ông Ngô Đình Diệm được Hoàng Đế Bảo Đại mời về làm Thủ tướng, công việc của ông lúc đầu thật là khó khăn đầy gian nan vất vả. Chính phủ của ông vừa được thành lập chân ướt chân ráo, ngoài việc tìm những nhân tài yêu nước, có tinh thần quốc gia dân chủ tham gia vào trong Nội các, Quân đội, chính phủ còn phải đối phó với những Đảng phái đội lốt tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Mỗi đảng phái chiếm cứ một vùng để kiểm soát sách nhiễu dân chúng.Những đảng cướp khác cũng nổi lên khắp nơi như hồi Thập Nhị Sứ Quân thời Đinh Bộ Lĩnh, chúnghà hiếp cướp bóc dân chúng, rất khó khăn cho việc ổn định an ninh trật tự. Đó là chưa kể đến sự phá hoại của phía Cộng sản Bắc Việt còn cài Quân đội và tình báo ở lại để đánh phá gây rối loạn cho miền Nam Việt Nam.Trong khi chính quyền còn phải lo xây dựng tổ chức một thể chế chính trị, như tổ chức Trưng cầu dân ý, Tổng tuyển cử bầu ra tổng thống, quốc hội Lập Hiến. Củng cố chính quyền và Quân đội được bàn giao từ phía chính quyền cũ do người Pháp thành lập theo hiệp định Genève qui định.Kể từ tháng 8 năm 1945 khi Việt Minh chiếm được chính quyền từ tay thực dân Pháp, cho đến ngày miền Nam bị mất về tay Cộng sản 30-04-1975. Dưới thời chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, đời sống dân chúng rất là sung túc và thịnh vượng. Trong những năm đó đất nước có thể nói được là thanh bình an vui, sau vài năm giặc giã loạn lạc cướp bóc được quét sạch do hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại.Chưa có thời gian nào kinh tế của đất nước lại được độc lập và ổn định như vậy. Người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tiếng là làm chơi ăn thật, vì đất đai ruộng đồng phì nhiêu bát ngát, thẳng cánh cò bay, nông dân canh tác không hết. Sông rạch thì tôm cá rất nhiều, bắt không xuể. Ở những miền quê khắp nơi đời sống thanh bình êm ả, nông dân ăn nhậu, đàn hát thâu đêm suốt sáng. Họ không phải lo toan đến cái ăn cái mặc. Cuộc sống tuy phải lam lũ với ruộng đồng, nhưng tinh thần thì rất là thoải mái, sự vô tư và tánh tình mộc mạc chất phát càng làm cho người nông dân Nam Bộ dễ gần, dễ mến hơn.
Ngày đó nền kinh tế của miền Nam rất là thịnh vượng. Đồng tiền Việt Nam rất là có giá trị. Người ta có thể xé đôi tờ bạc 1 đồng ra để mua bán, chi tiêu. Vì con cá, mớ rau được tính từ xu, từ cắc. Muốn rủ bạn đi ăn tô phở chỉ tốn có dăm sáu đồng bạc. Rồi cho đến những năm cuối thập niên 60, tình hình chiến sự ngày càng tồi tệ, do miền Bắc cho quân xâm nhập vào miền Nam, mỗi lúc mỗi gia tăng. Lúc đó chính phủ Mỹ nôn nóng muốn gửi quân sang can thiệp để giải quyết cuộc chiến cho mau lẹ. Biết được ý định đó của Mỹ, chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ chấp thuận cho cố vấn Mỹ ở miền Nam và phản đối việc Mỹ đem quân chính quy sang tham chiến trực tiếp ở miền Nam Việt Nam.Vào cuối những năm thập niên 60 người ta bàn tán, đồn đoán là ông Diệm đã bí mật cho người tiếp xúc với chính quyền Hà Nội để thương thuyết hòa giải giữa người Việt Nam với nhau. Sau này sự việc đổ bể không thành, khiến người Mỹ tức giận nên họ đã quyết định mượn tay các Tướng lãnh sát hại và lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 01-11-1963.Trong thời gian 9 năm cầm quyền của Chính phủ Ngô Đình Diệm, những đảng phái đối lập cho rằng, Chính phủ của Tổng thống họ Ngô là độc tài gia đình trị, kỳ thị tôn giáo. Vì trong chính phủ có ông Ngô Đình Nhu là Cố vấn Chính trị , bà Trần Lệ Xuân vợ của Cố vấn Ngô Đình Nhu là chủ tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới. Ông Ngô Đình Cẩn là bào đệ của Tổng thống được cử giữ chức Cố vấn đặc trách miền Trung Nam phần. Ông Ngô Đình Luyện là Đại sứ Việt Nam ở Anh quốc. Tổng Giám mục Ngô Đình Thục làm Tổng Giám mục Giáo phận Huế. Ông Trần Trung Dung cháu gọi Tổng thống Diệm là cậu được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng….Hồi đó phong trào chống đối mạnh nhất và dữ dội nhất phải kể, là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Rồi của Sinh viên Học sinh các trường Đại học Trung học do Cộng sản đứng sau lãnh đạo giật dây. Lực lượng Thanh Sinh Công do các Linh mục Cấp tiến dòng Chúa Cứu Thế lãnh đạo.Họ cho rằng Chính quyền Ngô Đình Diệm dành ưu đãi cho Giáo Hội Công giáo như giúp đỡ xây dựng nhiều nhà thờ, các cơ sở Tôn giáo, Trường học… Đề bạt người Công giáo vào các chức vụ then chốt, và kỳ thị các tôn giáo khác, nhất làPhật giáo. Nhưng vụ này về sau lịch sử đã nói rõ về sự ưu đãi mà Chính Quyền Ngô Đình Diệm đã dành cho Phật Giáo như thế nào rồi thì ai cũng biết về các tiểu sử của Chùa Xá Lợi và Chùa Vĩnh Nghiêm v.v..Có dư luận cho rằng những viên chức trong Chính phủ và Quân đội muốn được đề bạt từ cấp Tỉnh trưởng trở lên phải là người có đạo Công giáo. Nên hồi đó đa số Tướng Tá theo đạo Công giáo. Rồi sau ngày Đảo chính 01-11-63 khi Chế độ ông Diệm không còn, họ âm thầm bỏ đạo.Người ta còn nhớ hầu hết những Tướng Tá, viên chức Chính phủ khúm núm nịnh bợ gia đình họ Ngô một cách thái quá. Thường trong cách xưng hô mỗi ngày khi vào yết kiến hay tiếp xúc, họ gọi ông Ngô Đình Diệm bằng cụ và xưng con. Gọi Ngô Đình Cẩn bằng Cậu cũng xưng con, tuy có người bằng tuổi hay hơn cả tuổi ông Cẩn!Suy cho cùng Chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị sụp đổ và anh em ông bị giết thảm, ngoài bàn tay lông lá của ngoại bang ra, phần nào cũng là do những viên chức, tay chân trong Chính quyền bợ đỡ quá mức vì bị mua chuộc của Cộng sản Bắc Việt nên làm hại đất nước và gia đình ông.*Suốt một quãng thời gian khá dài, hơn 46 năm nhìn lại lịch sử cận đại Việt Nam. Trong hàng ngũ lãnh đạo. Người ta có thể bình tâm khách quan, phần nào đánh giá tư cách, công và tội của những vị đó. Sử sách đã nói rất nhiều thiết nghĩ không tiện viện dẫn ra đây.Riêng cá nhân của Tổng thống Ngô Đình Diệm, kể từ khi bị lật đổ và bị giết cho đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Tư cách và đạo đức của một nhà lãnh đạo, chúng ta chưa thấy ai vạch ra những vết nhơ bẩn thỉu vấy trên người ông. Ngay cả những thế lực căm thù chống đối ông và Chế độ. Thí dụ: như tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, tiền bạc gửi ở ngân hàng ngoại quốc, dinh thự chỗ nọ chỗ kia, vợ lớn vợ bé, làm tay sai cho ngoại bang phản bội lại quyền lợi của đất nước của dân tộc v.v…Tuyệt nhiên không có ai nói tới. Mà nhiều người giúp việc hay thân cận đã nói về đức độ, đời sống sinh hoạt thường ngày trong suốt cuộc đời gương mẫu của Ngài Tổng thống. (Chỉ có bọn báo nặc nô Vịt Cộng dựng chiện bịa đặt để cốt ý bôi lọ Ngài để lăng xê tên đồ tể Dâm Tặc Hồ trở thành duy nhất Tề Thiên Thánh Gióng)Hầu hết các Tướng lãnh tham gia vào việc hãm hại và lật đổ ông, sau này đã hối hận, có người đã cạo trọc đầu tu tập để sám hối .Ngô Đình Diệm xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến. Bản thân ông là một quan Thượng Thư Bộ Lại. Sau này được cử làm Thủ tướng Chính Phủ, nhưng ông đã có công xây dựng nền Đệ I Cộng Hòa đầu tiên cho Việt Nam tự do dân chủ. Chứ không thiết lập một nền quân chủ độc tài phong kiến để vinh thân phì gia, vinh hoa phú quí như những vua chúa trước đây. Thiết nghĩ đó đã là một nhân cách phi thường ít người nắm được quyền hành có được.Hiểu như thế chúng ta lớp hậu sinh sau này, có thể thông cảm cho hoàn cảnh một đất nước, một Chí sĩ chân ướt chân ráo, mới bước chân đưa đất nước vào học tập để xây dựng một nền dân chủ đầu tiên cho Việt Nam mà trước đó đất nước đã hình thành hàng ngàn năm vua quan phong kiến. Và mới vừa thoát ra khỏi ách nô lệ Pháp thuộc một trăm năm không khỏi có những khiếm khuyết hoặc sai lầm. Lại phải đối phó với những thế lực ngoại bang áp đặt những điều kiện có nguy hại đến chủ quyền và quyền lợi đất nước.Công và tội của Chính phủ Ngô Đình Diệm, chúng ta phải bình tĩnh chờ đợi lịch sử sau này phán xét.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 262
No comments:
Post a Comment