CA DAO MỚI
Chưa đi chưa biết Bến Tre,
Nếu đi sẽ thấy cá mè như nhau.
Toàn là mặt lợn, đầu trâu,
Cướp nhà, cướp đất, đè đầu dân oan.
Chưa đi chưa biết Bà Đen,
Nếu đi sẽ thấy chúng hèn, đáng khinh.
Tàu xâm lăng thì làm thinh,
Dân đen phản đối, tội hình phạt ngay.
Chưa đi chưa biết Bình Dương,
Nếu đi sẽ thấy đau thương vô cùng.
Thấy Tàu thì nó gập lưng,
Thấy dân thì nó lại hùng hổ lên.
Chưa đi chưa biết Cà Mau,
Nếu đi sẽ thấy một màu tang thương.
Cầm quyền là lũ bất lương,
Thụt két, tham nhũng, một phường lưu manh.
Chưa đi chưa biết Cần Thơ,
Nếu đi sẽ thấy xác xơ dân mình.
Người dân khổ cực mưu sinh,
Cầm quyền chiếm đất xây dinh, dựng nhà.
Chưa đi chưa biết Đồ Sơn,
Nếu đi sẽ thấy tệ hơn đồ tồi.
Trên cao một lũ ngu ngồi,
Để dân khốn khổ một đời lầm than.
Chưa đi chưa biết Huế thương,
Nếu đi sẽ thấy dân thường thở than.
Lưu manh, trộm cướp làm quan,
Cướp sông, cướp cạn, dân oan kêu trời.
Chưa đi chưa biết Hải Dương,
Nếu đi sẽ thấy chuyện thường xảy ra.
Có miếng đất tốt dựng nhà,
Lãnh đạo nhìn thấy, thế là mất toi.
Chưa đi chưa biết Hòn Chồng,
Nếu đi sẽ thấy dân không còn gì.
Trên cạn bị lãnh đạo đì,
Dưới biển Trung Cộng nó ghì mạnh hơn.
Chưa đi chưa biết Lâm Đồng,
Nếu đi sẽ thấy đau lòng tổ tiên.
Giang sơn một giải cao nguyên,
Để Tàu khai thác nát nghiền quê hương.
Chưa đi chưa biết Tây Ninh,
Nếu đi sẽ mới biết dân tình làng quê.
Ngày xưa ruộng luá ê hề,
Bây giờ xuất cảnh làm thuê cho Tàu.
Chưa đi chưa biết Quảng Ninh,
Nếu đi sẽ thấy hoảng kinh phận đời.
Kiện thưa khó hơn kiện trời,
Viết ra sự thật thì đời ra ma .
Chưa đi chưa biết Quy Nhơn,
Nếu đi sẽ thấy chẳng hơn nhà tù.
Dân đen cho đến thày tu,
Bất đồng ý kiến là tù mọt gông.
Chưa đi chưa biết Sài Gòn,
Nếu đi sẽ thấy chẳng còn thân quen.
Đường xá hỗn độn, thay tên,
Công an, cảnh sát tống tiền giữa trưa.
Chưa đi chưa biết Sông Hương,
Nếu đi sẽ thấy sông thường thở than.
Còn đâu đất Việt dân Nam,
Giang sơn gấm vóc nó mang dâng Tầu.
Chưa đi chưa biết Nha Trang,
Nếu đi sẽ thấy từng hàng lệ rơi.
Mỗi lần nhìn ra biển khơi,
Giang sơn sao lại để rơi sang Tàu.
Chưa đi chưa biết Vũng Tàu,
Nếu đi sẽ thấy giặc Tàu xâm lăng.
Lãnh đạo gục mặt lặng câm,
Biểu tình, phản đối, người dân đi tù!
Chưa đi chưa biết gần xa,
Nếu đi sẽ thấy toàn là lưu manh.
Từ trung ương đến thừa hành,
Thấy Tàu thì sợ, chỉ hành hạ dân
Chưa đi chưa biết Cali,
Nếu đi sẽ thấy những gì đúng, hay.
Cột đèn mà có chân tay,
Nó cũng vượt biển sang đây tức thì.
Thế mà cũng thấy lắm khi,
Bao người áo gấm bay về Việt Nam.
Hoặc là nghe lũ việt gian,
Đem tiền mà cúng nuôi đoàn lưu manh.
Nếu đi sẽ thấy cá mè như nhau.
Toàn là mặt lợn, đầu trâu,
Cướp nhà, cướp đất, đè đầu dân oan.
Chưa đi chưa biết Bà Đen,
Nếu đi sẽ thấy chúng hèn, đáng khinh.
Tàu xâm lăng thì làm thinh,
Dân đen phản đối, tội hình phạt ngay.
Chưa đi chưa biết Bình Dương,
Nếu đi sẽ thấy đau thương vô cùng.
Thấy Tàu thì nó gập lưng,
Thấy dân thì nó lại hùng hổ lên.
Chưa đi chưa biết Cà Mau,
Nếu đi sẽ thấy một màu tang thương.
Cầm quyền là lũ bất lương,
Thụt két, tham nhũng, một phường lưu manh.
Chưa đi chưa biết Cần Thơ,
Nếu đi sẽ thấy xác xơ dân mình.
Người dân khổ cực mưu sinh,
Cầm quyền chiếm đất xây dinh, dựng nhà.
Chưa đi chưa biết Đồ Sơn,
Nếu đi sẽ thấy tệ hơn đồ tồi.
Trên cao một lũ ngu ngồi,
Để dân khốn khổ một đời lầm than.
Chưa đi chưa biết Huế thương,
Nếu đi sẽ thấy dân thường thở than.
Lưu manh, trộm cướp làm quan,
Cướp sông, cướp cạn, dân oan kêu trời.
Chưa đi chưa biết Hải Dương,
Nếu đi sẽ thấy chuyện thường xảy ra.
Có miếng đất tốt dựng nhà,
Lãnh đạo nhìn thấy, thế là mất toi.
Chưa đi chưa biết Hòn Chồng,
Nếu đi sẽ thấy dân không còn gì.
Trên cạn bị lãnh đạo đì,
Dưới biển Trung Cộng nó ghì mạnh hơn.
Chưa đi chưa biết Lâm Đồng,
Nếu đi sẽ thấy đau lòng tổ tiên.
Giang sơn một giải cao nguyên,
Để Tàu khai thác nát nghiền quê hương.
Chưa đi chưa biết Tây Ninh,
Nếu đi sẽ mới biết dân tình làng quê.
Ngày xưa ruộng luá ê hề,
Bây giờ xuất cảnh làm thuê cho Tàu.
Chưa đi chưa biết Quảng Ninh,
Nếu đi sẽ thấy hoảng kinh phận đời.
Kiện thưa khó hơn kiện trời,
Viết ra sự thật thì đời ra ma .
Chưa đi chưa biết Quy Nhơn,
Nếu đi sẽ thấy chẳng hơn nhà tù.
Dân đen cho đến thày tu,
Bất đồng ý kiến là tù mọt gông.
Chưa đi chưa biết Sài Gòn,
Nếu đi sẽ thấy chẳng còn thân quen.
Đường xá hỗn độn, thay tên,
Công an, cảnh sát tống tiền giữa trưa.
Chưa đi chưa biết Sông Hương,
Nếu đi sẽ thấy sông thường thở than.
Còn đâu đất Việt dân Nam,
Giang sơn gấm vóc nó mang dâng Tầu.
Chưa đi chưa biết Nha Trang,
Nếu đi sẽ thấy từng hàng lệ rơi.
Mỗi lần nhìn ra biển khơi,
Giang sơn sao lại để rơi sang Tàu.
Chưa đi chưa biết Vũng Tàu,
Nếu đi sẽ thấy giặc Tàu xâm lăng.
Lãnh đạo gục mặt lặng câm,
Biểu tình, phản đối, người dân đi tù!
Chưa đi chưa biết gần xa,
Nếu đi sẽ thấy toàn là lưu manh.
Từ trung ương đến thừa hành,
Thấy Tàu thì sợ, chỉ hành hạ dân
Chưa đi chưa biết Cali,
Nếu đi sẽ thấy những gì đúng, hay.
Cột đèn mà có chân tay,
Nó cũng vượt biển sang đây tức thì.
Thế mà cũng thấy lắm khi,
Bao người áo gấm bay về Việt Nam.
Hoặc là nghe lũ việt gian,
Đem tiền mà cúng nuôi đoàn lưu manh.
Chúng nó đè cổ dân lành,
Đến cả những bậc tu hành chẳng tha.
Mất Hoàng Sa, mất Trường Sa,
Tây Nguyên Bauxite bán ra cho Tàu.
Đến cả những bậc tu hành chẳng tha.
Mất Hoàng Sa, mất Trường Sa,
Tây Nguyên Bauxite bán ra cho Tàu.
Trí thức
chống đối một câu,
Đánh đập, bắt bớ, nhốt sâu trong tù.
Quả là đám lãnh đạo ngu,
Đôi tai đã điếc, mắt mù đã lâu.
Đánh đập, bắt bớ, nhốt sâu trong tù.
Quả là đám lãnh đạo ngu,
Đôi tai đã điếc, mắt mù đã lâu.
VÀI TRUYỆN NGẮN CÓ Ý NGHĨA
1. Mỗi khi con vịt vẫy cánh bay, chúng sẽ
tạo ra một luồng gió quyện và tạo ra một hấp lực nâng con vịt bay
bên cạnh. Như vậy, khi chúng bay theo đội hình chữ V thì con nọ
nương vào hấp lực của con kia, chúng có thể bay nhẹ nhàng hơn và
tăng khả năng bay xa hơn gần gấp đôi.
Con người ta cũng vậy, nếu những người có cùng một chí hướng mà biết cách hợp quần thành những đoàn thể hay cộng đồng để nương tựa nhau thì dễ đạt được những mục đích cao cả hơn.
Con người ta cũng vậy, nếu những người có cùng một chí hướng mà biết cách hợp quần thành những đoàn thể hay cộng đồng để nương tựa nhau thì dễ đạt được những mục đích cao cả hơn.
2. Khi một con vịt bị xa rời khỏi đội hình thì nó sẽ cảm thấy bị đuối sức vì phải tự lực nên nó lại phải cố gắng bay vào trong đội hình để nương tựa vào hấp lực của những con vịt bay trước.Nếu chúng ta biết siết chặt hàng ngũ, không xa rời đoàn thể hay cộng đồng thì sẽ có lợi lớn.
3. Riêng con vịt bay đầu đàn là không được hưởng hấp lực của bạn đồng hành nên nó rất chóng mỏi mệt. Khi nó mệt thì nó sẽ bay xuống nương vào đội hình và sẽ có con vịt khoẻ mạnh khác bay vào vị trí dẫn đầu. Cứ như vậy, thay đổi trong suốt ngày bay.Trong cộng đồng con người cũng vậy, vai trò lãnh đạo luôn luôn đuợc thay đổi tùy theo tình thế, theo tinh thần dân chủ.
4. Trong khi bay, chúng thường lên tiếng kêu quác quác để thúc dục nhau bay theo kịp một tốc độ.Trong các đoàn thể, người ta phải biết nhắc nhở nhau để giữ vững tinh thần hay thắt chặt tình đồng đội. Trong quân ngũ, các quân nhân thường lên tiếng đếm hoặc hát để tất cả đoàn đi theo nhịp quân hành.
5. Khi một con vịt bị đau hay bị bắn trọng thương phải rời khỏi đội hình thì sẽ có hai con vịt đồng hành rời theo để nâng đỡ và bảo vệ. Hai con đó ở bên cạnh con vịt yếu kém cho đến khi tự bay đuợc hoăc bị rớt chết thì chúng mới bỏ bay theo đoàn vịt khác.Chúng ta hãy suy gẫm tới tình đồng loại và những quy luật của đàn vịt trời mà đối xử với nhau trong cùng một cộng đồng hay đoàn thể.
TIẾNG VANG
Hai cha con nọ đang đi men theo triền núi. Bỗng người con trai nhỏ trượt chân và ngã, em la lớn lên “Ối chao!”. Em lấy làm ngạc nhiên khi thấy ở miền núi xa có tiếng ai nhái lại “Ối chao!”.
Em tò mò la lên “Ngươi là ai?” thì em nhận lại tiếng nhái lại “Ngươi là ai?” Tức giận quá, em quát lên: “Quân đốn mạt!” thì em lại nghe tiếng nhái lại: “Quân đốn mạt!”.
Em nhìn người cha và hỏi “Thế là thế nào hở cha?”
Người cha mỉm cười và nói: “Này con hãy xem đây”.
Nói rồi, ông nói lớn lên: “Anh hay quá!” thì nghe tiếng trả lời “Anh hay quá!”. Rồi ông lại la lên: “Anh tuyệt vời quá!” thì cũng nghe tiếng trả lời “Anh tuyệt vời quá! ”
Người con ngạc nhiên nhưng cũng vẫn chưa hiểu. Người cha ôn tồn giảng : “Đó là tiếng vang con ạ! Khi có những khoảng trống rộng rãi như ta có trước mặt đây thì các tiếng động lớn hay tiếng nói lớn nó sẽ dội lại như vậy.
Con nói những lời tức giận thì nó sẽ dội lại những lời tức giận, cha nói những lời đẹp đẽ thì nó sẽ dội lại những lời đẹp đẽ!
Ở đời cũng vậy! đời là sự dội lại của các hành động của ta. Khi tâm ta có lòng từ bi thì chúng ta sẽ nhận lại sự yêu thương. Khi ta hành động những điều xấu thì nỗi bất hạnh sẽ lại xảy đến cho chúng ta.”
TUY XA MÀ GẦN
Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử
rằng:
“Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau ?”
Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời:
“Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự chủ!”
“Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau ?”
Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời:
“Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự chủ!”
Vị hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo:
“Nhưng tại sao phải hét lên trong khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ nghe ?”
Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời nhưng không có câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng.
Sau cùng ông bảo:
“Khi hai người đang giận nhau thì trái tim của họ đã không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm họ cảm thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy.”
Ngưng một chút, ngài lại hỏi:
“Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…”
Rồi ngài lại tiếp tục:
“Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì ..”
Ngài kết luân:“Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau… Nếu không thì có một ngày khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng xa thì các con sẽ không còn tìm ra được đường quay trở về !”
“Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…”
Rồi ngài lại tiếp tục:
“Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì ..”
Ngài kết luân:“Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau… Nếu không thì có một ngày khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng xa thì các con sẽ không còn tìm ra được đường quay trở về !”
TẠM THỜI
Một vị thầy tâm linh nổi tiếng đến trước cửa lâu đài của vị vua nọ. Vì Thầy nổi tiếng rồi nên các người lính canh không ai chặn ông lại khi ông đi vào và tiến thẳng đến trước mặt nhà vua đang ngồi trên ngai vàng.
- Ông muốn gì? - nhà vua hỏi.
- Tôi muốn có một chỗ để ngủ trong cái quán trọ này, ông ta đáp.
- Nhưng đây không phải là quán trọ, đây là tòa lâu đài của ta, Vua trả lời.
- Xin hỏi bệ hạ rằng ai là sở hữu tòa lâu đài này trước bệ hạ?
- Vua cha ta, Ngài đã chết rồi.
- Và ai là sở hữu trước cha của bệ hạ?
- Ông nội của ta, Ngài cũng đã chết.
- Và cái chỗ này, nơi mà người ta sống một thời gian ngắn rồi dọn đi. Như vậy thì nó không phải là một quán trọ mà bệ hạ đang ở đó hay sao?
° ° °
Sớm hay muộn gì tất cả chúng ta đều phải
dọn đi, kể cả đời này và nhiều đời sau nữa! Không có gì trong cuộc
đời này là thường hằng, mọi thứ trên đời này đều vô
thường.
AN HƯỞNG CUỘC ĐỜI
Ngày xưa, có vị Hoàng Đế nọ muốn ban trọng ân cho một người cận thần. Nhà vua phán: "Ngươi có công lao rất lớn với ta. Kể từ cổng thành trở đi, ngươi phóng ngựa đi tới nơi nào ngươi dừng lại thì khoảng đất đó ta sẽ ban cho ngươi". Viên cận thần nhảy lên ngựa phóng đi, ra sức phóng ngựa để có được càng nhiều đất càng tốt. Người đó đi suốt ngày đêm, khi mệt và đói cũng không dám ngừng nghỉ vì muốn có nhiều đất. Tới một ngày kia, sức khoẻ kiệt quệ vì đói và mệt, hắn lả đi gần chết ở trong rừng.
Hắn lẩm bẩm : "Tại sao ta tham lam quá độ
vậy, ta tận sức để có được nhiều đất đai. Bây giờ thì gần chết rồi ta chỉ mong có
được một thước đất để được chôn cất mà thôi!"
Hàng ngày, chúng ta
gắng sức làm việc để mong có tiền tài, danh vọng và quyền thế.
Chúng ta tận sức tới mức xao lãng sức khoẻ, đôi khi quên cả cuộc
sống với gia đình, quên cả những cảnh đẹp thiên nhiên. Hãy sống tỉnh thức,
an hưởng cái đẹp của thiên nhiên, tìm ra lẽ sống của cuộc
đời.
CON CHIM BỊ
MÙ?
Nơi khu vườn anh nhà văn nọ có một cây si rất rậm rạp, xanh lá quanh năm. Từ phòng viết của mình, qua một tấm cửa kính, anh có thể nhìn thấy cây si ấy. Thói quen của anh là thức sớm mỗi ngày để viết, và anh vô cùng ngạc nhiên khi ngày nào, cũng có một con chim tới đâm đầu vào cửa kính phòng anh. Nhiều ngày liên tục, liên tục, sáng nào cũng vậy, anh đã có ý nghĩ: Phải chăng con chim đó bị mù? Hay bị một chứng bệnh nào đó?
Sự lý giải không được thỏa mãn, lại nhiều ngày tiếp tục trôi qua. Cho tới một hôm, anh quyết định bước ra khỏi cửa phòng mình, đứng về phía con chim, đối diện với tấm kính để nhìn vào căn phòng. Anh không thể tin nổi vào mắt mình. Trước mắt anh là một cảnh tượng quá đẹp đẽ. Một cây si lung linh xanh thẫm in hình trên tấm kính, như thể ở một nơi nào đó thật xa, trong một không gian rộng hơn, sâu hơn. Và anh biết, con chim nhỏ bé kia đã "chán" cây si quen thuộc mỗi ngày của mình khi nó bất ngờ phát hiện ra một "cây si" khác. Nó đã đâm đầu vào đó để mong tìm tới một nơi đẹp đẽ hơn, lung linh hơn,...Đôi khi, chúng ta không biết những gì chúng ta đang có mới là điều quan trọng, là hạnh phúc thực sự của chúng ta, mà chúng ta cứ đeo đuổi những chuyện mãi đâu đâu.
|
--
http://www.chshoangdieudhauchau.com/ http://chshddhstchauau.blogspot.be/ Vui lòng
thông cảm nếu có sai sót lỗi trong đánh máy, và thông báo cho chúng tôi nếu
quí CHS không muốn nhận những thông tin này, thành thật cám ơn.
Những thông tin sưu tầm từ chúng tôi gửi chỉ mang tính tham
khảo NHÓM CHSHD DHST CHÂU ÂU
--- You received this message because you are subscribed to the Google Groups "trunghocvietnam" group. To post to this group, send email to trunghocvietnam@googlegroups.com.
TS. NGUYỄN BÁ TRINH * HỒI KÝ
GIÀNH LẠI NHÀ
(Trích hồi ký 1954 -1958)
Chủ nhật, ngày 20 tháng một năm 2013
Cải cách ruộng
đất ập đến, chúng nó chiếm hết nhà cửa rồi đuổi chị gái và bốn anh em trai
chúng tôi ra một cái chòi tranh dột nát. Không giường chiếu, không nồi niêu bát
đũa. Áo quần rách bươm, lạnh thấu xương, đêm thường không ngủ được, phải nhặt
lá và que khô nhóm lửa sưởi. Không còn gì để ăn, tôi và em Hinh phải đi ăn xin.
Hai anh tôi vào tận rừng nhặt hạt dẻ hoặc gánh củi bán.
Bố mẹ tôi có hai cái, một cái nhà lớn và một
cái nhà bếp rộng. Nhà nậy ba gian hai hồi, kiểu cổ, cột lim, các vì kèo đều
chạm trổ, lợp ngói nam. Nhà nậy vẫn nguyên. Nhà ngang chúng nó chia cho nông
dân Trọng. Trọng đã dỡ nhà đó mang về xóm dưới. Nền đất nhà ngang còn lại chúng
cho mẹ con mụ Rọoc dựng nhà.
Nhà nậy có hai hộ ở: Vợ chồng lão Tấn và vợ chồng Cháu Trường. Lão Tấn là bộ đội tập kết. Vợ lão Tấn là Diệp, con mệ Lộc làm nghề buôn thúng bán mẹt ở xóm trên. Cháu Trường con ông Cu Tùy. Bố ông Cu Tùy là con nuôi cố nội tôi. Vào thời cải cách ruộng đất họ đối xử không tốt với gia đình tôi. “Cuộc cách mạng long trời lở đất” làm đảo lộn mọi luân thường đạo lý.
Nhà nậy có hai hộ ở: Vợ chồng lão Tấn và vợ chồng Cháu Trường. Lão Tấn là bộ đội tập kết. Vợ lão Tấn là Diệp, con mệ Lộc làm nghề buôn thúng bán mẹt ở xóm trên. Cháu Trường con ông Cu Tùy. Bố ông Cu Tùy là con nuôi cố nội tôi. Vào thời cải cách ruộng đất họ đối xử không tốt với gia đình tôi. “Cuộc cách mạng long trời lở đất” làm đảo lộn mọi luân thường đạo lý.
Sau khi “sửa
sai” một thời gian, hai anh anh lớn của tôi đều ra Hà Nội học. Ở nhà, chỉ còn
tôi, mới 13 tuổi, em Hinh 8 tuổi và chị Cúc. Không còn ai làm chỗ dựa, mọi việc
lúc đó tôi tự quyết định tất cả. Chị Cúc lớn, nhưng con gái, với lại chị cũng
buồn vì phải xa con. Hồi đó đã vào thời kỳ sữa sai.
Không khí cải cách, nông dân vùng lên tan biến đâu mất, tất cả các gia đình có lương tri đều lên tiếng. Dư luận thương tiếc cụ Nghè (cha tôi) ngày một xôn xao trong thôn xóm. Trước những dư luận đó, tôi hỏi ý kiến của chị Cúc, thím Ấm và một vài nhà thân tín. Họ đều đồng ý với quyết định của tôi là giành lại nhà.
Không khí cải cách, nông dân vùng lên tan biến đâu mất, tất cả các gia đình có lương tri đều lên tiếng. Dư luận thương tiếc cụ Nghè (cha tôi) ngày một xôn xao trong thôn xóm. Trước những dư luận đó, tôi hỏi ý kiến của chị Cúc, thím Ấm và một vài nhà thân tín. Họ đều đồng ý với quyết định của tôi là giành lại nhà.
Tôi chuẩn bị một
cái dao bầu đã mài sáng loáng. Nhân hôm hai lão đàn ông đi vắng, tôi vác dao
xông sang, đi sau tôi là chị Cúc, ôm theo một đống áo quần, chăn chiếu. Vào
nhà, tôi đứng ngay ở gian giữa, cúi mặt vào trong, vái ba vái rồi quay mặt ra
cầm dao bầu dương cao, như sẵn sàng xông trận.
Chị Cúc để chiếc chiếu xuống nền nhà, ngay gian giữa rồi trãi ra. Chị quỳ xuống quay đầu vào phía trong nhà vái như tôi. Mặt tôi đỏ lừ, giá như lúc đó có kẻ nào ngăn cản, tôi sẵn sàng chém. Tôi cứ đứng như thế. Chị Cúc lần lượt mang các thứ từ bên nhà thím Ấm sang: nồi niêu, bát đũa....
Tối đó chị Cúc, tôi và em Hinh ở gian giữa. Hai gia đình chúng nó ở hai bên. Mấy hôm đầu chúng nó có vẻ khó chịu, nhưng sau đó xịu dần và đối xử bình thường với chị em tôi. Khoảng một tháng sau thì gia đình Tấn Diệp rút lui. Lúc rút nó lấy luôn cái rương, vốn là của nhà tôi từ trước. Tôi sơ ý không giử lại. Khi chị Cúc về, chị rầy tôi chuyện đó.
Chị Cúc để chiếc chiếu xuống nền nhà, ngay gian giữa rồi trãi ra. Chị quỳ xuống quay đầu vào phía trong nhà vái như tôi. Mặt tôi đỏ lừ, giá như lúc đó có kẻ nào ngăn cản, tôi sẵn sàng chém. Tôi cứ đứng như thế. Chị Cúc lần lượt mang các thứ từ bên nhà thím Ấm sang: nồi niêu, bát đũa....
Tối đó chị Cúc, tôi và em Hinh ở gian giữa. Hai gia đình chúng nó ở hai bên. Mấy hôm đầu chúng nó có vẻ khó chịu, nhưng sau đó xịu dần và đối xử bình thường với chị em tôi. Khoảng một tháng sau thì gia đình Tấn Diệp rút lui. Lúc rút nó lấy luôn cái rương, vốn là của nhà tôi từ trước. Tôi sơ ý không giử lại. Khi chị Cúc về, chị rầy tôi chuyện đó.
Sau khi gia
đình Tấn Diệp rút lui, gia đình Trường Diên cũng bắt đầu tính kế rút. Sau
khoảng hai ba tháng thì chúng rút hết. Chúng tôi giành lại hoàn toàn nhà nậy.
Sau khi lấy lại được nhà nậy rồi, tôi định đuổi mẹ con mụ Rooc.
Nhưng mẹ con mụ không còn nơi nào để ở. Cứ thế mụ lần lừa mãi. Hơn nữa, mụ có chút bà con, nên chúng tôi không nở mạnh tay. Sau khi giành lại được toàn bộ nhà, tôi và chị tôi quét dọn, thắp hương mời ông bà về.
Nhưng mẹ con mụ không còn nơi nào để ở. Cứ thế mụ lần lừa mãi. Hơn nữa, mụ có chút bà con, nên chúng tôi không nở mạnh tay. Sau khi giành lại được toàn bộ nhà, tôi và chị tôi quét dọn, thắp hương mời ông bà về.
Tôi giành lại
được nhà một thời gian thì chị tôi có về quê. Chồng chị ấy có nói là sao không
để họ trả, mà lại đi giành. Tôi cố lắm mới không trút cơn giận lên câu nói đó.
(Tếp theo: Giành lại ruộng)
Chủ nhật, ngày 13 tháng một năm 2013
BẢN KIỂM ĐIỂM HÀNG TUẦN (Trích hồi ký)
Trước năm
1990, vấn đề tư tưởng, lập trường giai cấp... được tôn lên ngang mây xanh. Đi
đâu cũng nghe nói đến mấy cái từ, mà mới nghe, tim cứ đập thình thịch: “Vừa
hồng vừa chuyên”, “Phấn đấu”, “Lập trường giai cấp”, “Làm chủ tập thể”... Để
làm được những điều đó, phải luôn luôn “phê và tự phê”. Dạo đó tôi đang công
tác ở viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp. Chiều thứ bảy hàng tuần, phòng phải
họp để kiểm điểm từng người một. Cả miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cơ quan nào cũng
phải làm thế. Nghe nói người đang công tác học hành ở nước ngoài cũng phải làm thế.
Bản tự kiểm
điểm cuối tuần phải chuẩn bị trước, với
mấy nội dung chính như sau:
-
Công tác chuyên môn
-
Tinh thần tập thể
-
Kết luận ưu, khuyết điểm,
xin hứa...
Đến buổi họp, cá nhân đọc
bản đó cho mọi người nghe, sau đó “tập thể” góp ý kiến. Thỉnh thoảng có ông bí
thư đảng ủy cơ quan đến ngồi nghe từ đầu chí cuối, xem thử đơn vị này kiểm điểm
có thành khẩn hay không. Sau đó bản kiểm điểm cá nhân và biên bản họp tập thể
phải nộp lên phòng tổ chức.
Viết bản kiểm điểm cuối tuần là một công việc khá khó
khăn. Viết thế nào để người ta khỏi phê bình là hời hợt, rồi suy diễn ra “lập
trường giai cấp.”, “thái độ phê tự phê kém”.... Nhưng nếu viết dài thì viết cái
gì. Công việc một tuần... làm được cái gì. Một gạch đầu dòng là hết. Cái khó
thứ hai là nêu khuyết điểm. Nêu cái gì bây giờ. Viết không có khuyết điểm ư,
không thành khẩn rồi, tự kiêu rồi, lại “tiểu tư sản rồi”. Cuối cùng tôi cũng
nghĩ ra khuyết điểm: Nào là ngủ dậy muộn, nào là ít tập thể dục... Qua các buổi
kiểm điểm, tôi lúc nào cũng bị tập thể phê bình là “quan điểm quần chúng còn
yếu”. Nguyên cớ là thế này. Hồi đó cán bộ trong cơ quan đa phần là ở trong khu
tập thể. Buổi tối mọi người thường sang chơi nhà nhau uống nước, hoặc tụm năm
tụm ba chơi tổ tôm. Trong khi đó tôi thường ở nhà đóng cửa đọc sách, không
“thăm hỏi” quần chúng. Thời đó, “Quan điểm quần chúng” và “lập trường giai cấp
”là những thứ vũ khí người ta hay dùng để quy tội, thậm chí còn để đẩy nhau vào
chỗ chết. Thằng nào không ưa, cứ tìm cách quy mấy tội đó là nó thua.
Thứ ba, ngày 08 tháng một năm 2013
ĐÀO HẦM CHÔNG (Hồi ký 1952)
Tôi có hai
người bạn cạnh nhà là Trâm và Biền. Trò chơi nào cũng có ba anh em chúng tôi. Kỷ
niệm đáng nhớ nhất là đào hầm chông. Thấy mấy chú du kích đào hầm chông bẩy
lính Pháp, chúng tôi rủ nhau đào một
cái. Vị trí đào là lối đi tắt từ nương thím Ấm qua sau nhà tôi, cạnh cây kéc.
Chúng tôi đào
ban đêm, sâu quá đầu. Sau khi dọn dẹp hết tất cả đất mới đào, một cái chông tre
nhọn được cắm xuống. Nắp hầm làm bằng tre đan, đủ giử một lới đất mỏng ở trên.
Sau khi đậy nắp, hầm được ngụy trang để địch không phát hiện ra. Cuối cùng là dùng
que tre chắn lối đi, không cho người qua, khi nào có giặc đi càn mới bỏ ra.
Chúng tôi đợi mãi, mấy tháng sau mới phát huy tác dụng. Nhưng kẻ trúng bẩy hầm
chông không phải là giặc Pháp mà là một con lợn to trên 50 kg. Đó là con lợn
của ông Hội Hoài ở làng Hòa Ninh. Ông Hội Hoài chuyên nghề mổ thịt lợn bán ở
chợ. Hôm đó có một con lợn của ông bị sổng ra. Từ nhà ông đến nhà tôi khoảng 2
cây số. Không hiểu sao, có rất nhiều hầm chông mà nó không sập, lại chọn hầm
chông ba anh em tôi. Chúng tôi chẳng dám bắt lợn lên, cứ để đấy, vì đoán thế
nào cũng có người đi tìm. Khoảng mấy tiếng sau người nhà ông Hội đến hỏi tìm
lợn. Chúng tôi chỉ cho họ. Họ mừng quá, bắt về.
Sau đó ba anh
em chúng tôi bàn lại. Lợn đã sụp xuống thì không may nữa đâu. Cả bọn quyết định
đào cái khác. Vị trí đào lần này là lối tắt từ vườn nhà tôi qua nương vườn nhà
Trâm. Lại chờ, chờ bao lâu tôi không nhớ nữa.
Một hôm có
kẻng báo động hai hôi ba dùi, tức là ca nô Pháp đi cả hai nhánh sông Gianh, cả
Rào Nậy và Rào Son. Các chú du kích biết chắc chuyến này chúng tạo gọng kìm bao
vây lực lượng bên ta. Ca nô đich chạy rất nhanh. Vừa mới hai hồi ba dùi, đã
nghe kẻng dục ba dùi một – tức là ca nô đã ghé bến, quân Pháp đã đổ bộ lên bờ.
Sau đó bắt đầu có tiếng súng đì đùng phia trên. Cánh địch đi phía Rào Nậy lên
tận Trung Thôn, đổ bộ càn xuống. Cánh phía Rào Son chạy lên phía rào Nan, đổ bộ
vào Thọ Linh rồi càn xuống.
Trước lúc địch
tới tôi thấy mấy chú du kích lố nhố, bàn bạc gì đó. Anh Cu Xờm, là một du kích
gan dạ, nhà ở đầu xóm, chôn một quả mìn ngay lối đi từ nhà anh qua nhà tôi. Tôi
và hai bạn Trâm, Biền nấp sau nhà, cố ý theo dõi. Khi lính Pháp đi qua tôi cố
nín thở, chờ mìn nổ. Nhưng không, mìn không nổ. Chúng tôi quay sang phía hầm
chông chúng tôi đào. Một tên lính Pháp đang đi đến gần. Ba đứa chúng tôi nắm
chặt tay nhau, nín thở theo dõi. Tên lính Pháp dướn người lên, định đi vội qua
lối đó. Bỗng dưng nó dừng lại, rồi quay ra đi phía khác. Chúng tôi thở phào một
cái rồi cùng thốt lên: Tiếc quá. Sau
trận càn, ba đứa kể chuyện với người
lớn. Người lớn bảo: Cũng may cho chúng mày, nếu lính Pháp sụp hầm chông chết
hoặc bị thương, chúng sẽ tàn sát hết cả xóm này. Cả ba đứa chúng tôi vừa tiếc,
vừa mừng.
Thứ năm, ngày 03 tháng một năm 2013
ĐỊNH (Trích hồi ký, 1964)
Vừa thi đại học xong, đang nghĩ hè thì chị Lan và anh Nguyên về
phép. Anh chị bảo tôi ra Hà Nội chơi chờ kết quả thi. Vài ngày sau thì chuẩn bị
đi. Một buổi chiều, chị Lan báo cho tôi sáng mai ra Hà Nội. Tối đó tôi đi lên
chợ Trường, muốn gặp Di chơi. Nhưng Di đã đi chơi với Cu Thương (Anh bạn Đinh
Sĩ Thương - đến bây giờ hơn 60 rồi, bạn bè vẫn gọi anh là Cu Thương). Tôi quay
trở về, đến quá cái miếu có tượng con hổ chầu trước cửa, thì nhìn thấy một bóng
người từ trong xóm đi ra. Trăng rất sáng, nên cách khoảng 100 mét là tôi nhận
ra Định ngay. Định là một cô gái xinh nhất nhì làng Hòa Ninh. Mấy lâu nay đi
học vẫn thấy nhau, thỉnh thoảng cũng chào hỏi nhau. Định có khuôn mặt trái
xoan, hơi nhọn cằm và hơi gầy, mới nhìn cứ tưởng là cô gái nơi thị thành. Một
cái răng khểnh, mỗi lần cười, hàm răng trắng và đôi mắt bồ câu dễ thương hòa
quyện nhau, một hình ảnh dễ thương khó quên.
Định mặc cái áo màu gạch nhạt, rất vừa. Hồi đó gọi là áo chiết
ly. Quần đen là thứ quần bất di bất dịch đối với phụ nữ hòi đó. Định cũng thế.
Đến gần, tôi lên tiếng trước chào Định, Định chào lại, tiếng Định nhỏ nhẹ. Sau
khi chào hỏi qua loa, tôi định bước đi thì Định nói: Này anh Trinh, nghe nói
ngày mai anh ra Hà Nội. Tôi ừ rôi nói chúc Định ở lại mạnh khỏe. Định cũng chúc
tôi. Tôi đang do dự chưa muốn đi ngay. Định hỏi, anh có đỗ đại học không. Tôi
nói chưa biết. Định lại nói, anh thành sinh viên, ở Hà Nội rồi quên hết quê
hương. Sau câu nói đó của Định tôi chưa muốn đi ngay. Thế là hai chúng tôi nói
rất nhiều chuyện. Từ chuyện học hành, chuyện bạn bè, thầy cô, rồi sang chuyện
làm đồng. Tôi thì lôi vài chuyện vui ra nói. Dân Hòa Ninh hay nói trạng (tiếu
lâm), tôi cũng lây ít nhiều. Đang mãi nói thì bỗng nhiên tôi thấy trên mái tóc
Định có mấy giọt sương long lanh. Biết là khuya rồi, tôi nói thôi nhé, hẹn sẽ
viết thư, rồi hai đứa chia tay.
Tôi ra Hà Nội một thời gian thì máy bay Mỹ ném bom sông Gianh.
Một thời gian sau, gặp anh Cầu chồng cô Hà (con ông Huyên bộ trưởng bộ Giáo
Dục) ở Thái Nguyên. Anh Cầu cho biết Định đi thanh niên xung phong, đã hy sinh.
Nghe tin, tôi lặng người đi, như có một luồng gió lạnh thỏi qua tim mình.
Thứ bảy, ngày 29 tháng mười hai năm 2012
GỬI CÁI NỒI (Trích hồi ký)
Dạo
đó chị Cúc anh Hữu tôi ở khu tập thể Văn phòng thủ tướng, tại số hai
Thụy Khuê. Anh chị tôi ở tầng một, ông Vũ Kỳ ở tầng hai. Mới ra Hà Nội
tôi ở với anh chị. Một hôm có bạn hẹn, đang định đi chơi Bờ Hồ,
nghe nói có triễn lãm hay lắm. Nhà đi vắng hết, chị giao chìa khóa cho
tôi. Vừa
khóa cửa chuẩn bị đi thì có một ông mang đến cái nồi nhôm, bảo rằng cho
tôi gửi
cái nồi. Ông ta để cái nồi ở cạnh cửa, rồi bỏ đi. Tôi
chưa thể đi chơi ngay vì còn đứng trông nồi
cho ông kia. Tôi ngồi đợi mãi, lỡ hẹn rồi, thôi đành vậy. Đến trưa vẫn
không thấy ông ấy đến lấy nồi. Vừa lúc đó chị Cúc về. Tôi bảo có một
người gửi cái nồi, em
ngồi trông hộ suốt buổi sáng, chưa thấy lại lấy. Chị Cúc bảo nồi nhà
mình đấy.
Tôi hỏi thế tại sao lại gửi. Chị giải thích, gửi tức là trả đấy. Người
ngoài
này họ nói thế. Ối trời ơi, thế mà làm tôi mất cả buổi ngồi trông. Tôi
cứ nghĩ gửi tức là của ông ấy, nhờ mình trông
hộ. Các cháu về tôi kể lại chuyện, chúng nó cười lăn ra. Một đứa bảo cậu là dân
nhà quê ra tỉnh mà.
BS LÊ VĂN LÂN*MỒ MẢ HIỆN ĐẠI TẠI HUẾ
Thành phố ma ở Huế
Tháng Ba 17, 2012 bởi nguyenchan
Đôi giòng: Bs Lê văn Lân là một tác giả quen thuộc với người đọc ở hải
ngoại. Những bài biên khảo của ông viết những chuyện gần với những sinh
hoạt dân gian.
THÀNH PHỐ MA Ở HUẾ
NƠI NGƯỜI CHẾT REO CƯỜI
LÊ VĂN LÂN
VÙNG ĐẤT TƯƠNG PHẢN THIÊN THU
Sau hơn 30 năm xa cách, tôi đã trở về đất Huế-một vùng đất tương phản
thiên thu:Huế, đất của những con người “tâm sự nhiều mà ít hé trên môi”
và “thường hay sầu giữa lúc thế gian vui” như thơ của Bích Lan! Và Huế
còn trứ danh ác liệt qua nhận xét đầy triết lý của Foulon, nơi mà “tang
tóc ngậm cười và niềm vui não nuột” (…le deuil sourit, la joie soupire)!
Ấy vậy mà trong chuyến về thăm lại Huế trong tháng ba vừa qua, vợ chồng
người em gái tôi lại rủ tôi viếng thăm một địa điểm với cái tên quái dị
là “Thành Phố Ma”!
Nơi đây là làng An Bằng cách cửa Thuận An khoảng bốn chục cây số. Theo
lời giới thiệu trịnh trọng của người em rể : Nơi đây linh hồn người chết
không ngậm cười nơi chín suối như người ta thường nói, mà phải bảo rằng
những hồn ma ở đây reo cười rạng rỡ Reo cười là đúng vì chốn này du
khách sẽ bị choáng ngộp vì những kiến trúc mộ phần, lăng tẩm muôn mầu
muôn vẻ tuơi vui…
Chùa ở An Bằng
Thế là chiếc xe bao thuê Daihatsu nhỏ nhắn bẩy chỗ ngồi, chúng tôi đi
thăm làng An Bằng với một niềm vui háo hức đầy tính chất nghịch lý này.
Dựa trên những dữ kiện lịch sử, địa lý, nhân văn viết về làng này trên
những báo chí địa phương, người em gái của tôi ngồi trên xe đã trò
chuyện dẫn dắt chúng tôi từ ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác: Nói là
làng, chứ An Bằng chỉ là một thôn nhỏ của những người chài lưới duyên
hải. Thôn An Bằng thuộc xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế,
nằm cách cửa biển Thuận An về phía nam khoảng 40 cây số.
Thôn An Bằng được mô tả cô lập như ốc đảo với biển cả và đầm phá bao quanh: biển ở phía đông, đầm phá Tam Giang vây khắp phía còn lại, nên thôn làng nối với đất liền chỉ bằng con đường nhỏ trên bộ chạy dài từ Thuận An chạy qua con đập đắp qua cửa Hòa duân. Địa thế của làng An Bằng khiến tôi nhớ đến bài thơ Quê hương của Tế Hanh:
Thôn An Bằng được mô tả cô lập như ốc đảo với biển cả và đầm phá bao quanh: biển ở phía đông, đầm phá Tam Giang vây khắp phía còn lại, nên thôn làng nối với đất liền chỉ bằng con đường nhỏ trên bộ chạy dài từ Thuận An chạy qua con đập đắp qua cửa Hòa duân. Địa thế của làng An Bằng khiến tôi nhớ đến bài thơ Quê hương của Tế Hanh:
Làng tôi ở, vốn làm nghề chài lưới,
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
. Dân trai tráng bơi thuyền đi dánh cá…
Nhà thờ Thánh Tâm ở An Bằng Theo tài liệu địa bạ của tỉnh Thừa Thiên dưới triều Nguyễn, diện tích thôn An Bằng có 1201 mẫu 1 sào toàn là cát trắng! Vì là sống trên vùng toàn là đất cát trắng, nên dân làng chỉ sống chủ yếu về chài lưới. “Trước đây chúng tôi cực lắm – một người dân An Bằng tiết lộ – Làm nghề cá khi gặp mặt trời yên bể lặng thì đủ ăn. Còn không thì ăn cháo xương rồng…” (phóng sự của Hồ Vĩnh: “Xa rồi Thành phố lăng”, Tuyển tập Nhớ Huế số 5, Nhà Xuất bản Trẻ).
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
. Dân trai tráng bơi thuyền đi dánh cá…
Nhà thờ Thánh Tâm ở An Bằng Theo tài liệu địa bạ của tỉnh Thừa Thiên dưới triều Nguyễn, diện tích thôn An Bằng có 1201 mẫu 1 sào toàn là cát trắng! Vì là sống trên vùng toàn là đất cát trắng, nên dân làng chỉ sống chủ yếu về chài lưới. “Trước đây chúng tôi cực lắm – một người dân An Bằng tiết lộ – Làm nghề cá khi gặp mặt trời yên bể lặng thì đủ ăn. Còn không thì ăn cháo xương rồng…” (phóng sự của Hồ Vĩnh: “Xa rồi Thành phố lăng”, Tuyển tập Nhớ Huế số 5, Nhà Xuất bản Trẻ).
Món xương rồng ăn đỡ dạ thì không sao, nhưng ăn nhiều thì mặt phù thũng. Cái cực khổ này còn bi đát hơn với sự kiện ” đến chất đốt sử dụng để nấu nướng và sưởi ấm mùa đông cũng chỉ là những nhánh thông èo uột khẳng khiu mà trẻ mót lượm trên vùng cát trắng miền trung, vốn khô cằn lũ lụt hằng năm” (theo tài liệu của Tổng đội Xây lấp Thanh niên Đà Nẵng – tháng 11 năm 2000). Nhưng rồi bắt đầu vào khoảng năm 1990, qua sự cởi mở của nhà nước, (PHẢI NÓI LÀ DO VƯỢT BIÊN CHỨ NÀO PHẢI DO MỞ CỬA?) thôn An Bằng nghèo khổ bỗng như nàng Lọ Lem trở thành công chúa . khi thăm thôn làng này với một tổng thể phong phú của những ngôi lăng mộ nguy nga cất bằng bê tông, nhà du lịch người Pháp tên André Crozeilles phải thốt lên kinh ngạc “Một vùng cát trắng mà trở thành một đô thị người chết!
”
*BÀN TAY TA LÀM NÊN TẤT CẢ
Do đâu mà làng An Bằng đã thay hồn đổi xác? Câu trả lời là Tiền viết
hoa! Vào giai đoạn sau 1975 trong đợt đánh tư sản, có tiền, có vàng là
một cái tội bị tù, bị đi vùng Kinh tế mới. Nhưng sau đó thì hoàn toàn
tương phản lại, nhất là giai đoạn mà nhà nước cởi trói đổi mới:
Tiền la Tiên, là Phật
Là sức bật của lò xo.
Là thước đo lòng người,
Là nụ cười của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của người già!
Là cái đà danh vọng,
Là cai lọng che thân,
Là cái cân công lý,
Tiền là hết ý!
Mà tiền đây không phải là đồng tiền Việt Nam có in hình Bác Hồ mà là
đồng US Dollars, một đồng ăn 14 ngàn 5 trăm đồng VN. Thậm chí, tiền vàng
mã bán ở Việt Nam cũng phải in thành giấy Năm trăm đô la Mỹ mà đốt thì
ông bà mới ngậm cười dưới suối vàng…
Theo ông Hồ Vĩnh, toàn xã Vinh An có 1.800 hộ dân, trong đó thôn An Bằng
có khoảng 800 hộ nhưng có đến 75% dân có người thân là Việt Kiều. Theo
Nhật báo Lao Động ngày 13 tháng 10 năm 2000, tuy con số hộ dân An Bằng
chỉ có khoảng 870 nhưng có đến hơn 1200 ngôi mộ, nhà thờ họ tộc, đình
làng mới xây hoặc xây đi xây lại ba bốn lần, chen lẫn trong các khu gia
cư. Theo tờ Thế giới mới 31 tháng 8 năm 2000, thì làng An Bằng có 43 tộc
họ “nghĩa là có 43 từ đường được con cháu đóng góp để xây sao cho kềnh
càng hoành tráng…
Thấy từ đường họ H. bên cạnh liên tục tái thiết ba đợt, mỗi đợi thêm
tốt đẹp, họ L. liền cho đập đi, xây lại từ đường của mình những bốn lần ,
mỗi lần cách nhau chỉ dăm tháng. Mà chi phí cho việc xây mới đâu ít ỏi
gì, mỗi lần cả trăm ngàn đô!” Do đó, ta phải kết luận rằng đồng đô la mỹ
quả là có sức bật kinh khủng của Tiên, của Phật vì riêng làng An Bằng
và các làng kế cận, đô la là lăng mộ của người già. Với quan niệm “sống
gửi thác về” và “sống nhờ mồ nhờ mả, chứ không nhờ cả bát ăn”, trong số
bao nhiêu lăng mộ xây cất ở làng An Bằng có rất nhiều ngôi sinh phần
tráng lệ phá đi xây lại nhiều lần mà con cháu ở hải ngoại muốn chí tình
ôm đô la về để đền đáp công ơn sinh thành của những bậc cha mẹ đang còn
sống mặc dù gia cảnh rất khiêm tốn, nếu không nói là cơ cực.
Trong bài Lễ hội cầu ngư ở Thuận An. (trong tập Hỏi đáp về Triều Nguyễn và Huế xưa – nhà Xuất bản Trẻ), ông Nguyễn Đắc Xuân không biết có bôi bác không đã ghi lại rằng: “Các nhà hoạt động xã hội từ thiện này thì không thể quên cách đây vài chục năm, vào những tháng mưa lạnh kéo dài, dân Thuận An không thể đi biển được , họ phải thường chống gậy lên Huế xin ăn” (trang 104). Bấy lâu nay, nhà nước Việt Nam cố tình không muốn nhắc tới sự kiện người dân vượt biển! Vì vượt biển là chống đối cách mạng, là “bỏ phiếu bằng chân” tìm tự do mới bỏ xứ ra đi! Vượt biển là cái tội mà công an nếu bắt được thì bỏ tù dù là trẻ con còn đang bú mẹ. Nhưng nay thì sức mạnh Tiên Phật của đô la làm người cộng sản phải gọi dân Việt kiều trở về là “núm ruột ngoài ngàn dặm” với bó đô la đem về giúp nước.
Cũng trong bài dẫn trên, ông N.Đ.Xuân viết: “Các cơ quan an ninh, sau
1975, đã từng nhức đầu vì Thuận An có tỷ lệ vượt biển cao nhất ở Việt
Nam. Có nhiều hộ có đến năm sáu người bỏ nước ra đi” (trang 104). Có
nguồn dư luận như ông Hồ Vĩnh trong bài “Xa rồi Thành phố lăng” nhắc ở
trên rằng dân Việt kiều An Bằng phung phí, “không biết tích cóp để giảm
bớt kinh phí trong việc “bê tông hóa” lăng mộ thì An Bằng sẽ có một
trường học khang trang nằm cạnh ngôi đình mới xây dựng, nhằm giữ lại nét
đẹp của truyền thống văn hóa”.( SAO KHÔNG TRÁCH BỌN CỘNG SẢN KHÔNG BỎ TIỀN XÂY TRƯỜNG, XÂY NHÀ THƯƠNG MÀ XÂY LĂNG CHỨA CÁI XÁC THÚI HỒ CHÍ MINH)
Ý kiến này rất xây dựng nhưng không phải dân Việt kiều An Bằng không nghĩ tới như trong bài “Một ngôi trường cho làng An Bằng” của Nguyễn Bá Trác trên báo Việt Mercury số 107 ngày 9 tháng 2, 2001 qua ý kiến của hai ông Văn Nhân Đạo và Lê Thanh Lâm gốc An Bằng trong chuyến về thăm Việt Nam đã tiếp xúc với Hội Khuyến khích và Hỗ trợ phát triển giáo dục Việt Nam để thăm dò dự án . Nhưng dự án của hai vị Việt kiều có tâm huyết có thực thi được hay không lại là một chuyện khác, tùy theo cái nhìn đa nghi Tào Tháo của chính quyền địa phương đối với cái nhiệt tâm của hai ông. Bộ muốn dùng đô la mà “diễn tiến hòa bình” sao đây!<
Ý kiến này rất xây dựng nhưng không phải dân Việt kiều An Bằng không nghĩ tới như trong bài “Một ngôi trường cho làng An Bằng” của Nguyễn Bá Trác trên báo Việt Mercury số 107 ngày 9 tháng 2, 2001 qua ý kiến của hai ông Văn Nhân Đạo và Lê Thanh Lâm gốc An Bằng trong chuyến về thăm Việt Nam đã tiếp xúc với Hội Khuyến khích và Hỗ trợ phát triển giáo dục Việt Nam để thăm dò dự án . Nhưng dự án của hai vị Việt kiều có tâm huyết có thực thi được hay không lại là một chuyện khác, tùy theo cái nhìn đa nghi Tào Tháo của chính quyền địa phương đối với cái nhiệt tâm của hai ông. Bộ muốn dùng đô la mà “diễn tiến hòa bình” sao đây!<
Vả lại, nói chí tình, lo việc công ích xây cầu, xây chợ, xây trường là
bổn phận của chính quyền phải lo cho dân kia mà! Sao lại trông nhờ vào
tiền mồ hôi nước mắt của dân Việt kiều làm việc lam lũ ở hải ngoại đem
về!
Còn về luận điệu trách cứ dân An Bằng nghèo khổ bỗng nẩy ý xây mộ kiểu
vương giả để báo hiếu cho cha mẹ tổ tiên là quá đáng?
Nếu vậy thì người ta nghĩ thế nào về chính quyền Huế vì ham kiếm chút ngoại tệ, đã tổ chức trò hề cho du khách ngoại quốc mặc áo hoàng đế, hoàng hậu ngồi trên ngai chụp ảnh ở nhà Hữu Vu sau điện Thái Hòa, hoặc dùng Ngự Thiện (ăn cơm vua) trong cung nội tôn nghiêm của Hoàng thành? Trên một khía cạnh nhìn, chuyện xây lăng mộ của người dân An Bằng và ở các làng ven biển Thuận An Huế là một dịp mà người dân giã, tuy là do động lực háo danh, đã vô tình phục chế lại những nét kiến trúc cổ truyền trong các kiểu lăng mộ vương giả gần như bị thất truyền từ hồi hết vua chúa năm 1945! Người cộng sản Việt Nam thường ca tụng cái lý tưởng: Bàn tay ta làm nên tất cả, Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm!
Nếu vậy thì người ta nghĩ thế nào về chính quyền Huế vì ham kiếm chút ngoại tệ, đã tổ chức trò hề cho du khách ngoại quốc mặc áo hoàng đế, hoàng hậu ngồi trên ngai chụp ảnh ở nhà Hữu Vu sau điện Thái Hòa, hoặc dùng Ngự Thiện (ăn cơm vua) trong cung nội tôn nghiêm của Hoàng thành? Trên một khía cạnh nhìn, chuyện xây lăng mộ của người dân An Bằng và ở các làng ven biển Thuận An Huế là một dịp mà người dân giã, tuy là do động lực háo danh, đã vô tình phục chế lại những nét kiến trúc cổ truyền trong các kiểu lăng mộ vương giả gần như bị thất truyền từ hồi hết vua chúa năm 1945! Người cộng sản Việt Nam thường ca tụng cái lý tưởng: Bàn tay ta làm nên tất cả, Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm!
Không biết ta có nên sửa lại là Đồng đô la làm nên tất cả, Với đô la,
dân giã cũng thành vua!
Trong chuyến xe từ Thuận An xuôi về nam dọc theo phá Tam giang cho đến
địa danh An Bằng. Có thể nói mọi chùa chiền, am miếu, đình làng nhà thờ
họ đều được xây cất trong vòng vài năm nay. Hồi xưa kia đây chỉ là những
thôn chài nghèo nhà tranh vách lá với vùng mộ địa cát trắng mênh mông.
Cây cối không đủ sức mọc vì nước ở đây vừa lợ lợ vừa lắm phèn. Ngày nay,
dài dài theo đường, tôi thấy phần nhiều nhà cửa bằng vật điệu nặng, lai
rai có nhà hai tầng, không to lớn gì nhưng khang trang tuy có đôi chút
“kiểu cọ”
. Không khí ở đây có nhiều nơi nặng mùi cá mắm. Điều làm tôi kinh ngạc
là những cổng tam quan to lớn, những trụ biểu khổng lồ có rồng quấn của
những nhà thờ họ. Tôi đã bị choáng ngợp trước một ngôi lăng có kiến trúc
đặc biệt nằm xoay ra mặt đường: Mặt tiền là lưỡng sư triều đỉnh (cặp sư
tử chầu đỉnh đốt trầm), kế đó là bốn cột trụ tam quan lớn chạy rồng ôm
không soát một vòng tay, trên đầu chóp trụ (chapiteau) là hai tầng lòng
đèn (lanterne) với góc mái cong vút với motif ngọn lá, bốn đỉnh trụ là
bốn con nghê (kỳ lân). Sau bốn trụ tam quan, là bi đình (nhà bia). Nhà
này nền dưới vuông vức có bốn cột nâng một cái mái tròn có hai tầng, ý
hẳn tượng trưng hình ảnh vuông tròn của vũ trụ.
Phần vuông dưới trang trí theo nét Trung Hoa có một bia đá bằng đá granito màu xám đội bởi con rùa vàng và diềm mái chạy hoa sen. Nhưng phần mái tròn ở bên trông có vẻ chịu ảnh hưởng đậm đà của mỹ thuật Ấn-độ hay Ba-tư, vòng cung của cửa vòm là một hình tròn bán nguyệt với hai đầu hơi cúp lại. Nóc vòm trông giống như cái lọng hay hình cái bảo bình chứa cốt Phật, nhưng cái lan can lại chạy hình hoa huệ của Tây phương thật khó phê phán. Kế đó là hai nhà thạch quách (sarcophage) còn gọi là tẩm, chứa hai cái áo quan bên trong theo kiểu song táng, trong quan ngoài quách kiểu như lăng vua Gia long theo ý niệm Càn khôn hiệp đức. Cuối cùng là một bức hậu bình phong đồ sộ tô điểm với hai hình cuốn thư. Trên bia granito, có khắc một bài thơ bằng chữ quốc ngữ thếp vàng nhũ như sau: Lăng mộ nguy nga Thành tâm sáng lập năm 2000 KHIÊM VĂN BIA BÁO SONG THÂN Ân cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như biển đại dương Thái bình. Cháu con cùng một nguồn sinh, Đời đời nối dõi chút tình báo ân Nhớ ơn tạo hóa xoay vần Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn Diện tiền núi Ngự Trường sơn Tam giang phẳng lặng châu thuyền vãng lai Mặn bồi một dải đất dài Thái bình lãnh hải an bài tôn lăng Mùa hè Ất sửu khởi công Khánh thành an vị đầu xuân Mậu dần Hai ngàn năm Mão cuối đông, Lòng thành con cháu vui mừng tạo bia Được nhờ phúc ấm xưa kia, Ngàn năm xây dựng lăng bia an lành. Đàn con cháu nội ngoại nam nữ từ hải ngoại.
Lời thơ lục bát nhiều câu gieo lạc vận, nhưng ý rất chân thành cảm động,
phản ảnh đúng thực tế trước mắt: Mặn bồi một dải đất dài, Thái bình
lãnh hải an bài tôn lăng. Nhưng câu Nhớ ơn tạo hóa xoay vần, Miếu lăng
xây dựng chia phần đáp ơn. Ngẫm nghĩ lại mà nghe sao mà đúng thế.
Nếu tạo hóa đất trời không xoay vần đổi ngược, dân chài nghèo khó ven
biển đâu có chuyện vượt biển, họ đâu có trôi dạt qua cái “xứ Hoa kỳ của
cơ hội” để con cái họ đâu có cơ duyên học hành thành kỹ sư, bác sĩ, và
cuối cùng họ đâu có đem đô la về xây lăng báo hiếu nhỉ!
*THỊ TRẤN CỦA QUÁ KHỨ LÀ ĐÂY!
Cuối cùng chúng tôi đã tới An Bằng một địa điểm nhỏ với quá nhiều tên: Thành phố Ma, Đô thị của Người chết, Thành phố Lăng và Thị trấn của Quá khứ. Theo như chúng tôi quan sát, nhà cửa trong vùng xây cất không bao nhiêu, có lẽ không có nhu cầu cho ít oi người ở lại, người cư trú cũng không muốn gánh thêm phiền hà, tốn kém lôi thôi.
Thành ra chữ Hiếu của người tha phương được tập trung vào việc xây cất lại mồ mả tổ tiên cho thật khang trang, càng khang trang, càng vinh dự. Nhưng cũng nhờ chữ Hiếu của khúc ruột ngàn dặm đã đem lại công ăn việc làm cho bao nhiêu người trong một thời gian dài. Nhờ đó mà đường sá từ Thuận An về lần hồi được chỉnh trang để chở vật liệu mọi thứ từ Huế về, kể cả cát vì ở Thuận An chỉ có cát tráng mịn chỉ đựng vào bình lư cắm nhang là tốt, còn xây cất thì dùng cát vét từ lòng sông Hương chở về. Nền đất ở ven biển là cát nên mọi xây cất phải dùng bê tông.
Người ta nói rằng mộ chôn đất cát thì thây người chạy mất, cải táng
không thấy xương. Thử nhìn vào báo cáo vật liệu đọc công khai ngày lễ
khánh thành ngôi đình làng An Bằng cũng đủ khiếp: 22 tấn xi măng, 14 tấn
sắt thép đủ loại…kim phí tổng cộng hơn 1,4 tỷ đồng bạc VN.
Nghề xây lăng mộ vương giả, cất đình cất chùa, xây từ đường hầu như
không còn phát đạt như cái hồi còn vua chúa trước 1945. Lớp nghệ nhân cũ
thợ ngõa, thợ nề, thợ mộc, thợ chạm theo đường hướng cổ truyền còn sót
hiện nay cơ hồi lác đác như lá mùa thu sau bao nhiêu chiến tranh.
Đi tìm lại những tay thợ lão làng – con cháu của lớp nghệ nhân thuộc Nê Ngõa Tượng Cụ của triều đình Huế xưa – còn biết cẩn sành, cẩn sứ chạy rồng chạy phượng trên máy hay trên trụ biểu để truyền nghề cho lớp trẻ cũng thiên nan vạn nan, dù rằng đất Huế vốn là đất đông Phật tử nên có thể còn nhu cầu xây cất lắm chùa, lắm chiền! Người em rể tôi vốn là giáo sư dạy Đại học Mỹ thuật Huế chỉ cho tôi thấy loại sứ đã dùng để cẩn tường. Dân An Bằng chắc phải mua loại sứ từ ngoài Bắc thuộc xã Bát Tràng gì đó, thứ đồng màu để làm vẩy rồng lông phượng cho thích hợp, công viêc tốn kén đã đành nhưng không phải chóng vánh dễ dàng…
Đi tìm lại những tay thợ lão làng – con cháu của lớp nghệ nhân thuộc Nê Ngõa Tượng Cụ của triều đình Huế xưa – còn biết cẩn sành, cẩn sứ chạy rồng chạy phượng trên máy hay trên trụ biểu để truyền nghề cho lớp trẻ cũng thiên nan vạn nan, dù rằng đất Huế vốn là đất đông Phật tử nên có thể còn nhu cầu xây cất lắm chùa, lắm chiền! Người em rể tôi vốn là giáo sư dạy Đại học Mỹ thuật Huế chỉ cho tôi thấy loại sứ đã dùng để cẩn tường. Dân An Bằng chắc phải mua loại sứ từ ngoài Bắc thuộc xã Bát Tràng gì đó, thứ đồng màu để làm vẩy rồng lông phượng cho thích hợp, công viêc tốn kén đã đành nhưng không phải chóng vánh dễ dàng…
[Theo giáo sư Phan Thuận An - chuyên viên Huế-học và nghiên cứu của
Trung Tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, từng qua Bắc kinh du khảo về di
tích kiến trúc cung đình Trung quốc, nói rằng: "Tôi không thấy bất cứ ở
đâu bên Trung quốc có nghệ thuật ghép sành sứ như của ta ở lăng Khải
Định" khi đáp cuộc phỏng vấn của Nguyễn Đắc Xuân trong cuốn Văn Hóa Cố
đô - trang 126 - Thuận Hóa Huế - 1997.]
Nhìn công trình xây lăng mộ ở vùng Thuận An và làng An Bằng, nếu không
nói quá đáng là một kỳ quan, thì người ta phải khen người dân ở đây đã
tự động xuất công, xuất của để phục chế lại nghệ thuật cổ truyền, trong
khi nhà nước Việt Nam đang vận động, năn nỉ cơ quan UNESCO tài trợ để
phục chế lại cung điện và lăng tẩm cho nhu cầu du lịch. Nghe nói tờ báo
“Tuổi Trẻ” có đề nghị biến thành phố An Bằng làm khu du lịch…
Nhưng chả bao lâu sau, báo chí khác trên đất Thần Kinh đã mạnh mẽ mắng
cái đám người muốn công khai hóa “công việc xấu xa” đó cho toàn thế giới
biết sau khi người du khách hỏi do tiền đâu mà xây dựng ra.
*AN BẰNG: NGỌN LỬA PHỤC CHẾ NGHỆ THUẬT BÙNG LÊN CHO LỊCH SỬ SANG TRANG.
Bước vào địa đầu của xã Vinh An, tầm mắt chúng tôi bỗng choáng ngợp như
đứng trước một đám nấm kiến trúc khổng lồ đủ mầu, đủ cỡ mọc lên lố nhố
trùng điệp sau trận mưa rào
.
Khác với cảnh dọc đường từ xã Thuận An, âm phần của người chết nơi đây không nằm riêng biệt trên những sườn đồi hay nương vườn xanh tốt mà là trải dài ra trên bình diện lẫn với gia cư dương cơ của người sống. Ở đây, du khách hoàn toàn không có cảm giác âm khí nặng nề, buồn hiu như cảnh nghĩa địa Tây Phương với cảnh ngút ngàn của rừng thánh giá trắng toát dưới rặng dương. Trái lại, người ta có một cảm giác vui thú bừng lên như đang nhìn ngắm một bức tranh Tết dân gian vẽ với những màu sắc đầy Việt nam tính: đỏ cánh sen, đỏ cam, vàng hòe, lục và tím.
Khác với cảnh dọc đường từ xã Thuận An, âm phần của người chết nơi đây không nằm riêng biệt trên những sườn đồi hay nương vườn xanh tốt mà là trải dài ra trên bình diện lẫn với gia cư dương cơ của người sống. Ở đây, du khách hoàn toàn không có cảm giác âm khí nặng nề, buồn hiu như cảnh nghĩa địa Tây Phương với cảnh ngút ngàn của rừng thánh giá trắng toát dưới rặng dương. Trái lại, người ta có một cảm giác vui thú bừng lên như đang nhìn ngắm một bức tranh Tết dân gian vẽ với những màu sắc đầy Việt nam tính: đỏ cánh sen, đỏ cam, vàng hòe, lục và tím.
Tác giả Pháp Jean Marquet thật lém lỉnh khi nhận định rằng đám táng Việt
Nam “có cái gì vui thú” (L’enterrement annamite a quelque chose
d’amusant!) như trong bài tập đọc Pháp văn Livre Unique của tôi hồi bé.
Cái vui thú cho một tâm lý Đông phương về quan niệm “sống gửi thác về”
mà dương gian là cõi tạm, âm thế mới thật là nơi vĩnh phúc ngàn thu
. Phóng mắt nhìn bao quát, dựa vào những biểu tượng trên những lăng mộ, tôi thấy nơi đây Phật Chúa nằm chung: mộ Phật tử hay dân lương thì trang hoàng với hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp hay ít ra với hình chữ Phúc; còn con chiên Thiên Chúa thì nằm yên nghỉ dưới bóng Thánh giá hay cổng chữ M của mẹ Maria. Vinh quang Chúa cả trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm! Thôn làng An Bằng (hay An Bình) quả đã mang cái tên theo định mệnh dành cho mối duyên tình thiện tâm cho con cái của Phật và Chúa nằm gần nhau.
. Phóng mắt nhìn bao quát, dựa vào những biểu tượng trên những lăng mộ, tôi thấy nơi đây Phật Chúa nằm chung: mộ Phật tử hay dân lương thì trang hoàng với hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp hay ít ra với hình chữ Phúc; còn con chiên Thiên Chúa thì nằm yên nghỉ dưới bóng Thánh giá hay cổng chữ M của mẹ Maria. Vinh quang Chúa cả trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm! Thôn làng An Bằng (hay An Bình) quả đã mang cái tên theo định mệnh dành cho mối duyên tình thiện tâm cho con cái của Phật và Chúa nằm gần nhau.
Đứng trước một rừng gồm hơn cả ngàn lăng mộ trước, với một tâm tình
khao khát muốn tìm hiểu, tôi bỗng ước ao có một kiến thức uyên thâm như
linh mục Léopold Cadière, nguyên là bỉnh bút cho Tập san Đô Thành Hiếu
Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế – viết tắt là BAVH) hồi đầu thế kỷ
20. Linh mục đã đặc biệt dựa vào sự khảo sát 317 ngôi mộ Việt Nam xây
trong vòng chu vi đất Huế từ bực vương giả cho đến người dân mà viết ra
bài Tombeaux annamites dans les environs de Hué (BAVH năm 1928).
Ngài đã phân loại những hình thể, kiểu thức của các loại mộ xây (nấm tròn, nấm vuông, nấm trứng ngỗng, nhà thạch quách hay tẩm v.v…); những bờ vây quanh gọi là uynh thành (enceinte) đủ cách tròn, thuẩn, vuông, chữ nhật…; những cổng vào có cột vuông, cột trôn ốc, cột hình giao long; những cổng tam quan vòm cong hay hay hai, ba tầng mái; những hình tay ngai mộ. Ngoài sự phân loại trên, cố Cadière còn mô tả những bức bình phong, những bái đình, những bàn long đình để tế mộ, những nhà bi đình, những miếu thổ thần bản địa v.v…
Ngài đã phân loại những hình thể, kiểu thức của các loại mộ xây (nấm tròn, nấm vuông, nấm trứng ngỗng, nhà thạch quách hay tẩm v.v…); những bờ vây quanh gọi là uynh thành (enceinte) đủ cách tròn, thuẩn, vuông, chữ nhật…; những cổng vào có cột vuông, cột trôn ốc, cột hình giao long; những cổng tam quan vòm cong hay hay hai, ba tầng mái; những hình tay ngai mộ. Ngoài sự phân loại trên, cố Cadière còn mô tả những bức bình phong, những bái đình, những bàn long đình để tế mộ, những nhà bi đình, những miếu thổ thần bản địa v.v…
Muốn thức những họa tiết trang hoàng hoa lá, bức cuốn thư hay tranh tứ
quí hoặc những kiểu sức trang trí biểu tượng cho tính ngưỡng Nho Phật
Lão trên các lăng mộ ở đây, tôi thấy cần phải tìm đọc lại cuốn L’Art de
l’Annam của H. Gourdon (Paris – 1934) hay L’Art Vietnamien của L.
Bezacier (Paris – 1954). Nhưng muốn chuyên biệt hiểu về cố đô thần kinh,
tôi phải dò lại từng chi tiết trong cuốn L’Art à Huế của linh mục
L.Cadière viết năm 1919 để thẩm định sát về nghĩa địa của làng An Bằng,
xã Vinh An.
Tôi nghĩ nơi đây cơ hồ là một cứ điểm cuối cùng ở Việt Nam đã tạo cơ
hội phục chế lại đa số những tàn tích nghệ thuật triều Nguyễn do những
tay thợ – hậu duệ còn sống sót của những nghệ nhân Nê Ngõa tượng cục
trong triều đình Huế ngày xưa.
Tôi bỗng dâng lên niềm cảm phục cho những tay thợ cuối mùa đã tạo dựng
nên Thị trấn Quá khứ An Bằng này qua bàn tay đa diện đa năng: xây nề
cũng họ, đúc chạm cũng họ, cẩn sành sứ cũng họ, và tô màu vẽ lá hoa cũng
họ.
Đúng như nhận xét của Dr. L. Gaide & H. Peyssonnaux trong bài khảo sát Tombeau de Kiên Thái Vương (BAVH 1925): Pour achever, nous dirons qu’en Annam, c’est le même ouvrierqui, tour à tour, se fait macon, sculpteur, mosaiste et peintre. Và tôi cũng muốn tạ ơn Trời! Nếu không có hiện tượng Nhờ ơn tạo hóa xoay vần , Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn của dân An Bằng rủng rỉnh đô la thì những người thợ trên đâu có dịp chót thi thố tài năng của họ trong cuối thế kỷ 20. Vì nhìn lại lịch sử nửa thế kỷ qua, tôi thấy đúng là Tạo hóa gây nên cuộc hí trường! Người Cộng sản V.N hồi nào đã chủ trương cực đoan đập phá mà họ gọi là “làm cách mạng”.
Đúng như nhận xét của Dr. L. Gaide & H. Peyssonnaux trong bài khảo sát Tombeau de Kiên Thái Vương (BAVH 1925): Pour achever, nous dirons qu’en Annam, c’est le même ouvrierqui, tour à tour, se fait macon, sculpteur, mosaiste et peintre. Và tôi cũng muốn tạ ơn Trời! Nếu không có hiện tượng Nhờ ơn tạo hóa xoay vần , Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn của dân An Bằng rủng rỉnh đô la thì những người thợ trên đâu có dịp chót thi thố tài năng của họ trong cuối thế kỷ 20. Vì nhìn lại lịch sử nửa thế kỷ qua, tôi thấy đúng là Tạo hóa gây nên cuộc hí trường! Người Cộng sản V.N hồi nào đã chủ trương cực đoan đập phá mà họ gọi là “làm cách mạng”.
Với chiến thuật tiêu thổ kháng chiến năm 1947 nên họ đã không ngần ngại
chất rơm thiêu rụi Điện Cần Chánh, Đại cung môn, Điện Khôn Thái, lầu
Kiến Trung. Người ta nói rằng quân Pháp lúc tái chiếm Huế mà đổ bộ trễ
hơn thì cửa Ngọ Môn và Điện Thái Hòa cũng bị tiêu hủy luôn. Viên tướng
Tư lệnh quân đội Đức lúc rút quân khỏi Paris đã không nở thiêu rụi thành
phố lịch sử này cơ mà!
Và ngay cả quân đội Pháp thực dân lúc hành quân ở vùng Huế ít ra có điểm này đáng khen là họ bắt gặp những món đồ xưa bị dân chúng “đổ bộ hôi của” cất dấu thì lính Pháp đem về Huế giao trả cho Ủy ban Chấp chánh lâm thời của Việt Nam thời ông Trần văn Lý. Đồ giao trả nhiều đến nỗi ông Trần văn Lý phải lập ra một cơ quan tiếp nhận và quản lý, giao cho cụ Võ văn Nhức, nguyên là Nhất đẳng Thị vệ là người tiếp nhận và kiểm kê. Người Cộng sản VN miệng thì nói Cách Mạng trước sau như một, nhưng hành động từ cực đoan này sang cực đoan kia. Họ đã chống Trời, chống tôn giáo tín ngưỡng, chống thờ cúng, chống vua chúa, chống phong kiến, chống tư sản…
Chống đủ thứ rồi lại sửa sai! Trong vòng thập niên qua, họ hô hào “cởi trói và đổi mới” nên dần dà họ cho phục chế trở lại như xưa. Nếu họ quả là thành thực “hồi tâm” thì tôi nghĩ là lịch sử dân tộc sắp sang trang. Mong vây thay! Chúng tôi không có thì giờ thăm tỉ mỉ toàn khắp ngôi làng. Và cũng không đủ kiến thức nhận định về khía cạnh nghệ thuật của những lăng mộ ở đây. Trong các lăng mộ ở đây, tôi đặc biệt chú ý một vài lăng mô khá tiêu biểu ở đầu làng mà chụp hình kỹ lưỡng. Một ngôi mộ theo Phật giáo xây năm 1999 với những hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp luân đúc trên cổng tam quan, cột chạy rồng cẩn sứ xanh với những họa tiết tứ quì: mai lan cúc trúc.
Muốn lên cổng tam quan này, du khách phải bước lên năm bậc cấp, hai bên
trang trí cặp kỳ lân, ở chính giữa là một đỉnh trầm màu vàng hoe lớn
cao nửa tầm người; đỉnh đứng trong một vòng cung chạy hình đúc mây khói.
Sau cổng tam quan, là bia hay bi đình có một tầng mái hình lục giác với
gốc cong lên, lợp ngói hoàng ly. Đặc biệt trên từng mái bi đình là một
cái tháp tròn có tượng Phật ngồi có hai tầng mái trông xa giống cái bảo
bình đựng cốt Phật, riềm mái chạy hoa sen. Trên chót đỉnh bi đình cũng
như trên chót bốn trụ cổng tam quan là hình năm quả bầu, tượng trưng cho
bầu Thái cực.
Sau bi đình là những ngôi tẩm chứa những thạch quách tô điểm với họa
tiết chữ Vạn và hoa sen.
Cuối lăng là một cổng sau với ba tầng mái với lưỡng long triều nguyệt.
Nhưng điều làm tôi chú ý nhất và cho là có ý nghĩa minh giải nhất là đôi
bằng chữ nho tô màu cánh sen trên hai cột cổng tam quan:
Tiền Tây Nam chiếu sa bồi Mỹ địa tân.
Hậu Đông Bắc tiếp thủy hải Giang sơn cựu
Mặt Tây Nam trước mộ chiếu hướng về vùng cát bồi có nước Mỹ mới.
Phía Đông Bắc sau lăng tiếp giáp biển sông là Quê cũ Việt nam.
Câu này tả vị trí của ngôi mộ nhưng đồng thời cũng gói ghém tâm tình của
những người con cháu lập mộ, tuy rằng trước mắt có một “quê Mỹ đẹp mới”
(Mỹ địa tân) nhưng vẫn không quên sau lưng tình nước non của quê Việt
cũ (giang sơn cựu). ,strong>Phải chăng là nhờ Tạo hóa xoay vần!
Nếu không thì người dân thôn chài nghèo khổ sao lại có hai quê hương
như vậy. Nhưng họ đã cư xử đầy nghĩa tình đôn hậu: có mới nhưng không
quên cũ, uống nước nhớ nguồn. Những lăng mộ mà họ bỏ tiền mồ hôi nước
mắt cho ông bà cha mẹ – không những là một hình thức để báo đền ân nghĩa
– mà còn là một cơ hội để họ thực thi lại cái đẹp khuôn sáo ước lệ cổ
kính của dân tộc mà bấy lâu bị cấm đoán hay mơ ước mà không thể thực
hiện được vì thiếu tài chánh. Những kiểu thức, họa tiết đầy ước lệ trên
những ngôi mộ trong mắt họ vẫn là những ký hiệu để người dân chất phác
tìm thấy sức mạnh truyền đạt những ước mơ, khát vọng về một niềm hạnh
phúc của người dân trong lòng một xã hội an lạc, đất nước thái bình, hơn
là tin theo những khẩu hiệu tuyên truyền của Nhà nước về một lý tưởng
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngôi lăng thứ hai tiêu biểu mà tôi chụp là của những người dân An Bằng
theo Thiên Chúa. Cổng tam quan của lăng theo những người thợ đang xây
nói kinh phí xây cũng khoảng 30 ngàn đô. Cổng này nhìn đại thể cũng
giống bên lương với cột chạy rồng với hai tầng mái lợp ngói lưu ly vàng.
Nếu con số 3 của cổng theo Phật giáo là Tam bảo: Phật Pháp – Tăng,
nhưng hiểu linh động với quan niệm Thiên Chúa giáo là Chúa Ba Ngôi.
Nhưng những điểm khác biệt mà tôi nhận xét trên cổng tam quan Thiên chúa giáo như sau: -trên cổng giữa hình vòng cung có chén Mình Thánh Chúa tỏa hào quang -những chót cột trụ hình nhọn hoắt theo kiểu Gothic vút lên cao -các họa tiết trên hai cột giữa hay các hộc vuông dưới diềm mái là hình thánh tâm, quả tim quấn vòng gai rướm máu và các hình ảnh trích từ Kinh thánh Tân ước hình Chúa giảng trên núi về tám mối phúc thật, hình Chúa trên biển hồ Ga-li-lê… -màu xanh của Đức mẹ Maria được dùng ưu thế để tô bốn cái cột tam quan hay tranh vẽ họa tiết. Sau cổng tam quan là những tẩm chứa quan tài của những người quá cố.
Cuối lăng là kiến trúc một bàn thờ với hình Thánh giá mầu xanh và hình
chim bồ câu Thánh linh màu trắng.
Trên đường xe trở về thành phố Huế, sau khi thăm lăng mộ vùng Thuận An
và làng An Bằng xã Vinh An, tuy rằng mệt nhoài nhưng riêng tôi cảm thấy
lời của người em rể là ý vị: Người chết ở đây đang reo cười dưới những
mộ phần.
LÊ VĂN LÂN
Khắp nghĩa địa An Bằng, những ngôi mộ đắt tiền của cán bộ cao cấp lại tiếp tục được xây lên.
LÊ VĂN LÂN
Rừng lăng mộ ở làng An Bằng.
Tuy là nghĩađịa nhưng không có cảm giác u ám, hiu hắt với mùi hương khói trên những ngôi lăng.
Một lăng mộ thuộc vào loại “đẳng cấp” tại đây phải hội đủ các yếu tố: Móng sâu và chắc, vật liệu xây dựng sang trọng - kiên cố, trang trí đầy đủ các con vật trong “tứ linh”(lân ly quy phượng), rồi những con rồng chầu trước bậc lên xuống, những ngôi tháp lục giác cao và điêu khắc chạm trổ công phu.
Anh Văn Công Tuấn, một người dân An Bằng đang tiến hành xây mộ cho cha mẹ mình kể: Ngôi lăng này anh xây đã 3 tháng nay nhưng cũng chỉ mới được một nửa công đoạn. Chi phí cho việc xây lăng khá đắt đỏ vì phải sử dụng vật liệu đắt tiền nên khi hoàn thành cũng phải hơn 800 triệu.
Một lăng mộ thuộc vào loại “đẳng cấp” tại đây phải hội đủ các yếu tố: Móng sâu và chắc, vật liệu xây dựng sang trọng - kiên cố, trang trí đầy đủ các con vật trong “tứ linh”(lân ly quy phượng), rồi những con rồng chầu trước bậc lên xuống, những ngôi tháp lục giác cao và điêu khắc chạm trổ công phu.
Anh Văn Công Tuấn, một người dân An Bằng đang tiến hành xây mộ cho cha mẹ mình kể: Ngôi lăng này anh xây đã 3 tháng nay nhưng cũng chỉ mới được một nửa công đoạn. Chi phí cho việc xây lăng khá đắt đỏ vì phải sử dụng vật liệu đắt tiền nên khi hoàn thành cũng phải hơn 800 triệu.
Những ngôi mộ tiền tỷ thì mức độ hoành tráng hơn, khuôn viên lớn hơn,
cao, to hơn. Đáng kểnhất là ngôi mộ dòng họ Lê V. đã khởi công xây dựng 2
năm nhưng vẫn chưa thể hoàn thành. Ông Lê Đoàn, người trực tiếp xây
lăng mộ này cho hay: Dự toán banđầu khoảng 1,3 tỷ nhưng với thời gian bị
chậm lại và giá cả như hiện nay thì chắc số tiền sẽ lớn hơn nhiều.
Những ngôi mộ như những ngôi lâu đài trên cát vẫn tiếp tục mọc lên. Sự xa hoa, lãng phí của người dân nơi đây chẳng dừng lại. Anh Lai, một cán bộ xã Vinh An nói rằng : Chẳng thể biết được ngôi mộ nào đắt tiền nhất đâu bởi kỷ lục về mức độ hoành tráng, xa hoa của các ngôi mộ sẽ bị phá vỡ trong thời gian ngắn sau khi những ngôi mộ khác lại được cất lên.
Một mùa xây lăng nữa lại đến, khắp nghĩa địa xa hoa bậc nhất Việt Nam lại 'rộn ràng' không khí xây dựng như những đại công trường.
Những ngôi mộ như những ngôi lâu đài trên cát vẫn tiếp tục mọc lên. Sự xa hoa, lãng phí của người dân nơi đây chẳng dừng lại. Anh Lai, một cán bộ xã Vinh An nói rằng : Chẳng thể biết được ngôi mộ nào đắt tiền nhất đâu bởi kỷ lục về mức độ hoành tráng, xa hoa của các ngôi mộ sẽ bị phá vỡ trong thời gian ngắn sau khi những ngôi mộ khác lại được cất lên.
Một mùa xây lăng nữa lại đến, khắp nghĩa địa xa hoa bậc nhất Việt Nam lại 'rộn ràng' không khí xây dựng như những đại công trường.
Trang trí những linh vật thiêng liêng trong các khu mộ.
Và một mùa xây lăng nữa lại đến, những ngôi lăng mộ không theo quy
hoạch nào lại tiếp tục mọc lên. Nhiều người dân lo sợ , đến một ngày
làng An Bằng chẳng còn đất cho con cháu sinh sôi nữa.
Ngôi mộ đồ sộ của dòng họ Lê đã xây dựng hơn 2 năm nhưng vẫn chưa thể
hoàn thành. Theo người chủ thầu xây mộ thì khi hoàn thành đây sẽ là ngôi
mộ "khủng" nhất về quy mô cũng như tiền bạc.
Khắp nghĩa địa An Bằng, những ngôi mộ đắt tiền của cán bộ cao cấp lại tiếp tục được xây lên.
Khu lăng mộ hoành tráng ở Huế đi ba ngày không hết và nếu không có người dẫn chắc chắn sẽ lạc đường.
Đi
qua làng An Bằng (xã Vinh An, Phú Vang, Huế) theo đường tỉnh lộ 49 xuôi
từ biển Thuận An về Phá Tam Giang, người ta dễ dàng bắt gặp những ngôi
mộ được xây vô cùng cầu kỳ và tốn kém.
Từ
đầu làng là những căn biệt thự đẹp đẽ nhưng bỏ hoang, rồi nở rộng ra
đến tận sát ven biển là hàng trăm những ngôi mộ lớn nhỏ được xây màu sắc
và bề thế. Các ngôi mộ được xây dựng theo nguyên mẫu của các lăng tẩm
Huế được thu nhỏ, mức độ tinh xảo không hề thua kém.
Đi vào khu lăng mộ được gọi là “Thành phố ma” này không hề khiến bạn có cảm giác âm khí hay hoảng sợ khi vào nghĩa trang mà thấy tò mò bởi những thành quách, phù điêu, tượng phật được chạm khắc tỉ mỉ cùng màu sắc bắt mắt, rồng phượng quấn quanh xà cột cùng đủ loài tứ linh canh giữ.
Mỗi lăng mộ được xây một kiểu với số tiền tỷ, có những ngôi mộ lên đến 10 tỷ đồng. Khu lăng mộ này được người ta kháo nhau là đi ba ngày không hết và không có người dẫn chắc chắn sẽ lạc đường trong mê cung.
__._,_.___
Your email settings: Individual Email|Traditional Change settings via the Web (Yahoo! ID required) Change settings via email: Switch delivery to Daily Digest | Switch to Fully Featured Visit Your Group | Yahoo! Groups Terms of Use | Unsubscribe
__,_._,___
No comments:
Post a Comment