Wednesday, July 13, 2016
NGUYỄN THIẾU NHẪN * TỰ THÚ
Tự Thú Của Một Người Tù “Cải Tạo”
Nguyễn Thiếu Nhẫn
1. Tự thú của một người tù “cải tạo”
Chiều 30 tháng 4 năm 1975, tôi và T. đứng trên lầu 9 cao ốc ở đường
Nguyễn Huệ nhìn xuống đường Tự Do. Bộ đội miền Bắc – những người vừa
chiến thắng trong cuộc nội chiến, ngoại khiển, đang diễn hành trên đường
phố Sàigòn với chiến xa bọc thép
của Liên Sô dẫn đầu. Những người lính miền Bắc ốm yếu, xanh xao, ngụy trang sơ sài cho có lệ. Bánh xích xe tăng Liên Sô và dép râu bộ đội miền Bắc đang cán và giẫm lên đường Tự Do.
của Liên Sô dẫn đầu. Những người lính miền Bắc ốm yếu, xanh xao, ngụy trang sơ sài cho có lệ. Bánh xích xe tăng Liên Sô và dép râu bộ đội miền Bắc đang cán và giẫm lên đường Tự Do.
Phía dãy nhà đối diện, dân chúng túa ra xem mỗi lúc một đông. Những
người Việt gốc Hoa cầm cờ Trung Cộng và cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
vẫy vẫy chào mừng đoàn quân chiến thắng.
Tôi bỗng ứa nước mắt!
T. cầm tay tôi, nói:
“Thôi mình đi xuống, anh.”
Tôi và T. đi xuống.
Tôi biết mình đang bước xuống tầng đầu địa ngục.
*
Tôi và T. trở về Vĩnh Long trên một chiếc xe cam-nhông trước kia dùng để
chở heo, vì mùi phân heo còn nồng nặc. Mụ chủ xe tham tiền đã rước
khách không còn có chỗ để ngồi. Ai cũng muốn trở về quê quán sau cuộc
binh đao để xem gia đình còn mất ra sao. Trước đó mấy ngày, tôi đã thờ ơ
nhìn những người tất tưởi, lũ lượt đi về phía bến Bạch Đằng. Sau này
tôi mới biết, ở đó, có một chuyến tàu cuối cùng đưa hàng ngàn người rời
khỏi Việt Nam, đó là chiếc tàu Trường Xuân do thuyền trưởng Phạm Ngọc
Lũy điều khiển.
Những ngày ở Vĩnh Long tôi như người bị ốm đứng. Buổi trưa, có tiếng lựu
đạn nổ ở Cầu Lầu: một nghĩa quân đã rút chốt lựu đạn tự sát. Buổi tối,
có tiếng những bước chân chạy đuổi sau nhà: “cách mạng” đang truy đuổi
bọn phản động.
Tin từ Khám Lớn: một Đại tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa tự sát vì bị bạc đãi.
Một tháng để tất cả các quân nhân, công chức “ngụy” trình diện học tập đã hết.
Tôi trở lên Sàigòn, về Biên Hòa để gặp lại ông nội tôi trước khi đi
trình diện học tập cải tạo 10 ngày theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản thành
phố Hồ Chí Minh là tên mới của Sàigòn.( Sàigòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên!)
Ông nội tôi đã nhìn tôi, rồi thở dài: “Vậy mà nội tưởng vợ chồng con đã
đi…” Đó là câu nói cuối cùng của ông nội tôi – người đàn ông vợ chết từ
năm 40 tuổi vẫn ở vậy nuôi con, nuôi cháu cho nên người.
*
Trại cải tạo đầu tiên trên đường bước xuống tầng đầu địa ngục là thành
Ông Năm ở Hốc Môn. Cùng với những người tù khác, tôi đã phải học những
bài học: “Đế quốc Mỹ, tên sen-đầm quốc tế – Ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ.” Và nhiều bài học khác mà tôi đã quên tên. Tôi đã cặm cụi chép vào quyển tập học trò những câu khẩu hiệu: “Sống, chiến đấu, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại – Học, học nữa, học mãi – Lao động là vinh quang…” Và còn nhiều câu khẩu hiệu mà tôi không còn nhớ, cũng như không dám nhớ!
Như đa số các tù binh, tôi thuộc loại “ngậm miệng qua sông.” Để chứng tỏ
mình đã có tiến bộ về mặt tư tưởng, vào những ngày 19 tháng 5, ngày 2
tháng 9, ngày Tết Âm lịch, tôi đã sáng tác thơ ca tụng “cách mạng” gửi
đăng “báo tường”.
Chính ở nơi đây, tôi đã cay đắng nghe viên thiếu úy bộ đội miền Bắc mà
các “cải tạo viên” thường gọi là “anh hai thơ” (vì lúc nào anh ta cũng
ngâm nga thơ của Tố Hữu), đọc cho nghe câu thơ mà anh ta bảo là của một
chị phụ nữ miền Nam.
Câu thơ như sau:
Câu thơ như sau:
“Có chồng bộ đội là tiên
Có chồng quân ngụy đảo điên cửa nhà!”
Cũng chính nơi đây, chúng tôi đã dở khóc, dở cười khi được các “đỉnh cao
trí tuệ” dạy dỗ. Chuyện mới nghe tưởng chừng như chuyện tiếu lâm mà lại
là sự thật, tôi xin được kể lại như sau:
Sau một thời gian học tập, chúng tôi được phát giấy để làm bản tự kiểm.
Thôi thì đủ thứ tội tình phải cố nhớ ra để mà “tự kiểm”: Trong thời gian
phục vụ trong hàng ngũ ngụy quân đã đốt bao nhiêu cái nhà? Đã hãm hiếp
bao nhiêu phụ nữ? Đã giết bao nhiêu “cách mạng”?
Viết xong phải thông qua tổ, đội rồi nộp lên Ban Chỉ huy trại.
Sau đó, tất cả các tù binh được lệnh xếp hàng ngồi dưới đất để nghe Ban
Chỉ huy trại gọi vào hạch sách về những điều mình đã tự khai.
Chỉ huy trại là một người miền Nam tập kết, cấp bậc Đại úy mà các tù
binh vẫn quen gọi là “ông Răng Vàng” vì nguyên hàm răng trên của ông là
“kim loại màu vàng” – nói theo cách nói của “cách mạng”.
Một tù binh khai: “Cấp bậc: Đại úy, chức vụ: Quyền Tiểu Đoàn Trưởng” bị “ông Răng Vàng” đập bàn, hét:
“Mẹ bố, quân ngụy các anh là láo lếu: ai chẳng biết các anh là Đại úy, là có quyền, còn bày đặt khoe khoang.”
Nói xong, ông ta lấy viết gạch bỏ chữ “Quyền” trước ba chữ “Tiểu Đoàn Trưởng”.
Một tù binh khác khai: “Cấp bậc: Đại úy. Binh chủng: Biệt Cách Nhảy Dù” bị “ông Răng Vàng” chỉnh:
“Mẹ bố, ngụy các anh là ưa khoe khoang: ai chẳng biết các anh “biết cách” nhảy dù.
Nói xong, “ông Răng Vàng” lấy viết sổ toẹt hai chữ “Biệt Cách”.
Một tù binh khác khai địa chỉ: “… đường Huỳnh Tịnh Của – Đa Kao”, đã phải dở khóc, dở cười khi bị một ông sĩ quan bộ đội người miền Trung “dạy dỗ” như sau:
“Ngụy các anh là ưa rắc rối: “Huỳnh Tịnh – Đa Kao” là người ta hiểu rồi.
Còn bày đặt là “Huỳnh Tịnh của Đa Kao” làm gì cho rắc rối.”
Nói xong, ông ta bèn gạch bỏ chữ “Của” một cách ngon ơ!
Cùng với những tù binh khác, sau đó chúng tôi được đưa đến Long Giao,
rồi về trại cải tạo Suối Máu ở Biên Hòa. Tôi vẫn tiếp tục “ngậm miệng
qua sông” và làm thơ ca tụng “cách mạng” vào những ngày lễ lạc của những
người thắng trận , với hy vọng là được “cách mạng” biết là mình đã “học
tập, lao động tốt và đã có tiến bộ về mặt tư tưởng!”
Năm 1977, cùng với những người tù khác, tôi đã lênh đênh trên tàu Sông Hương lưu đày ra miền Bắc.
Tầng địa ngục thứ tư mà tôi phải đi qua là trại Nghĩa Lộ nằm trong một
thung lũng là trại cải tạo đầu tiên tôi đặt bước chân lưu đày ra miền
Bắc. Đêm đầu tiên mặc bộ đồ tù màu xanh có sọc trắng, các tù nhân trông
giống như những đạo tì đi khiêng quan tài người chết.
Chính nơi đây, những người tù miền Nam mới thực sự biết đến cái đói. Mỗi
bữa ăn chỉ được một miếng bột mì đen khuấy chín để đặc lại với vài cọng
rau muống luộc chấm mắm tôm khuấy lỏng.
Mỗi ngày tù nhân phải leo lên núi chặt giang, đốn củi.
Ở đây, tôi cũng lại tiếp tục “ngậm miệng qua sông” để mà sống. Có ai đó
đã vô cùng có lý khi nói rằng: “Thà làm con chó sống hơn là làm con sư
tử chết!”
Cái đói là đòn cân não tàn phá nhân phẩm của những người tù. Người ta
giành nhau từng phần chia lớn, nhỏ. Tù nhân đã phải tìm bắt tất cả những
con vật động đậy có thể ăn được. Bỏ cấp bậc, lon lá xuống, mặc vào bộ
quần áo tù, rất dễ nhận ra nhân cách của mỗi người. Có những người để
lập công chuộc tội đã lén lút báo cáo người này có tư tưởng phản động,
kẻ kia có âm mưu chống đối.
Ở trại Nghĩa Lộ, người nằm cạnh tôi là anh Trương Văn Tuyên (hiện định
cư tại Canada), là người bị cấm thăm nuôi ở trại Suối Máu. Theo lời anh
ta thì anh ta tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh,cấp bậc Trung úy, cựu Quận
trưởng quận Hoài Nhơn, Bình Định.
Chuyện anh ta bị cấm thăm nuôi thì có nhiều chuyện lắm. Như chuyện anh
ta “khoe” là “có quen với cán bộ quản giáo, nhưng chỉ quen cái lưng vì
lúc đánh nhau anh ta đã rượt mấy ông bộ đội chạy có cờ.” Chuyện anh ta
kể với tôi nguyên nhân chính là do lần anh ta kể chuyện chính quyền Việt
Cộng gửi công hàm đòi chính phủ Thái Lan phải trao trả các phi cơ mà
các phi công của miền Nam lấy và bay qua Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã
gửi công hàm trả lời và trong công hàm chỉ vỏn vẹn có ba chữ viết tắt
“B.C.T.”. Anh ta đố mọi người có biết ba chữ viết tắt này nghĩa gì
không. Người thì cắt nghĩa ba chữ “B.C.T.” là “Bộ Chính Trị”, kẻ thì bảo
là “Ban Cải Tạo”. Cuối cùng, khi mọi người chịu thua, Tuyên cười khì
khì bảo ba chữ B.C.T. là viết tắt của ba chữ “Bú C. Trừ.” Sau đó, có
người đi báo cáo để lập công nên anh ta bị cấm thăm nuôi.
Ở đây, anh ta lại tiếp tục chống đối. Khi viên Trại phó tên Điền, cấp
bậc Đại úy ra lệnh tập họp các tù nhân ở hội trường và phổ biến quy định
các trại viên khi gặp các cán bộ phải nói: “Kính thưa Ngài Trại Trưởng, Kính thưa Ngài Trại phó, Kính thưa Ngài cán bộ quản giáo…” Khi trại phó Điền ra lệnh giải tán lớp học, gặp tôi trên đường về lán trại, Tuyên khoanh tay, cúi đầu, nói lớn:
“Kính thưa Ngài trại viên”
rồi cười lớn làm tôi hoảng quá.
Buổi chiều, nhân lúc rửa chén ở dưới suối, tôi có nói với anh ta không
nên chống đối ra mặt chỉ thiệt cho thân mình. Tôi nói xa, nói gần với
anh ta về chuyện Hàn Tín lòn trôn giữa chợ, về chuyện “mang thiên quá
hải”. Từ đó, anh ta thân với tôi hơn và anh ta thay đổi rõ rệt.
Trong thời gian này, trại phát động làm báo tường. Những trại viên có
bài vở đóng góp sẽ được nghỉ lao động một ngày. Mỗi ngày lên rừng chặt,
cột, vác về trại 15 cây giang rất là nặng nhọc đối với một người ốm yếu
như tôi; do đó, tôi đã làm bài thơ “Đại dương trong lòng con sóng nhỏ”
ca tụng công đức của ông Hồ Chí Minh để được nghỉ lao động một ngày
Bài thơ như sau:
“Con chưa khóc Bác một lần
Để nghe biển lớn vỗ nâng tâm hồn
Con chưa hát bản Kết Đoàn
Bác đưa tay bắt nhịp tràn yêu thương
Kiếp xưa đã lỡ cung đường
Nên con sóng nhỏ đau thương lạc loài
Trên cao Bác vẫn vẫy tay
Gọi con sóng nhỏ về đây nhập nguồn
Xa rồi thung lũng đau thương
Hạt mưa sa đã về nguồn yêu thương
Muôn vàn cảm tạ công ơn
Tấm lòng biển lớn bao dung ngất trời
(quên mất 2 câu)
Bác ơi! Ơn Bác tái sinh
Trên đường sống lại, trăm năm ghi lòng!”
Trương Văn Tuyên là người biết về âm nhạc, anh ta đã đem bài thơ phổ
nhạc và đem hát trong buổi lễ sinh nhật của ông Hồ Chí Minh.
Hôm sau, lúc xuống suối rửa chén, gặp đại úy Hồ Bác Ái là người làm việc
chung Phòng với tôi ở Bộ Tổng Tham Mưu, anh ta đã hỏi tôi một cách mỉa
mai:
“Ông anh đổi họ hồi nào vậy, ông anh?”
làm tôi ngượng chín người. Từ lúc đó, tôi cố ý tránh gặp mặt anh ta. Tôi
là người tham sống, sợ chết. Tôi là kẻ ngậm miệng qua sông. Tôi đã muối
mặt ca tụng Bác, Đảng với mục đích duy nhất là chứng tỏ mình đã có tiến
bộ về mặt tư tưởng để được Đảng và Nhà Nước khoan hồng, để được sớm
đoàn tụ với gia đình, theo như lời phủ dụ của các cán bộ quản giáo. Có
điều tôi đã không bước trên xác đồng đội mà đi, tôi chưa làm cái việc
đốn mạt là làm “ăng-ten” báo cáo người này, người nọ để lập công.
Cuối năm 1977, trong đêm, chúng tôi, những tù nhân thuộc các diện Chiến
Tranh Chính Trị, Cảnh Sát, Tình Báo tức các loại được Việt Cộng gọi là
ác ôn được chất lên những chiếc molotova có mui che bằng lá gồi chuyển
trại.
Tầng địa ngục thứ năm của chúng tôi là trại cải tạo Tân Lập ở Lào Kai. Ở
đây tôi ở đội 4 rồi sau đó được đưa qua đội 5 của phân trại K.4 phụ
trách việc làm gạch.
Mỗi ngày chỉ tiêu được giao cho 3 tù nhân là đạp nhuyển đất để làm thành một cối đất để đóng thành 200 viên gạch.
Cái đói ở đây thật khủng khiếp. Ăn ít như tôi mà đêm nào tôi cũng phải uống thêm nửa “gô” nước cho đầy bụng để cố dỗ giấc ngủ.
Mỗi ngày ra hiện trường lao động, tôi được hai anh em cùng cối đất giao
công tác là lén bứt rau tàu bay rửa sạch, bỏ vào ống vầu (một loại giống
như tre ở miền Nam), lén đặt vào đống lửa, sau đó lấy ra chia nhau ăn
cho đầy bụng để mà đạp đất giữa trời.
Dù đã được các cảnh vệ cảnh cáo là ăn rau tàu bay sẽ bị mất máu, các tù
nhân vẫn lén lút ăn rau tàu bay để có đủ sức mà hoàn tất chỉ tiêu, để
khỏi bị phê bình là chây lười lao động.
Ở đây có một số anh em tù ở trại K.1 chuyển vào. Có người đã dè bĩu
chuyện một ông Tướng, khi anh em chia thức ăn làm rớt một cọng rau muống
xuống đất, ông này đã nhặt lên, không cần phủi bụi, đưa vào miệng ăn.
Tôi thì tôi chỉ thấy chua xót.
Ở đây tới Tết, tôi có làm bài thơ để tặng T. Bài thơ có cái tựa dài thoòng như sau:
Thơ cổ đề tranh bốn mùa trong phòng người vợ cô đơn
Mai:
Gió đông nói với mai vàng
Xuân này thiếp đã vắng chàng ba xuân.
Lan:
Mùa hè hoa lựu đỏ cành
Như lan vương giả thiếp đành cô đơn.
Cúc:
Mây mùa thu biếc tủi hờn
Cúc hiu quạnh nở trong vườn nhà ai.
Trúc:
Mùa đông xám vẫn còn đây
Ngựa qua rừng trúc lưu đày mù sương.
Viên trung sĩ công an phụ trách đội nhà bếp là một tay sính thơ văn.
Không biết ai giới thiệu với anh ta là tôi biết làm thơ, anh ta cho gọi
tôi lên văn phòng, chỉ mấy bức tranh mai, lan, cúc trúc và ra lệnh cho
tôi làm mấy câu thơ và hứa sẽ “bồi dưỡng” cho tôi một ký mật. Đúng là
buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Tôi lại cố chứng tỏ mình đã được:
“Đảng cho sáng mắt, sáng lòng
Xin làm một giọt máu hồng về tim!”
bằng cách sửa bốn câu lục bát viết cho T. thành những vần thơ ca tụng công ơn trời biển của Bác, Đảng và nhân dân, như sau:
“Mai:
Mai vàng nở khắp muôn phương
Đảng đưa ta tới một vườn đầy Xuân
Lan:
Nhờ ơn Bác với nhân dân
Mùa Hè thơm nức hương lan đại đồng.
Cúc:
Mùa Thu cách mạng thành công
Cúc vàng khoe sắc, muôn lòng nở hoa.
Trúc:
Đông về, Bác bận đi xa
Trúc rừng Pắc Bó thiết tha ơn Người!”
Dù đã tìm mọi cách để chứng tỏ mình đã “sáng mắt, sáng lòng” tới như
vậy, nhưng lúc Trung Cộng và Việt Cộng đánh nhau, tôi cũng như những
người tù khác bị còng chung chiếc còng “made in Vietnam xã hội chủ
nghĩa” làm bằng kẽm gai, leo lên xe molotova của Liên Sô, giã từ Phố Lu:
“Đoạn đường ta đã kinh qua
Mùa Đông buốt giá thịt da ngỡ ngàng.”
về trại cải tạo Cây Dừa ở Hạ Hòa thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Hạ Hòa nổi tiếng với câu ca dao:
“Thương nhau cho thịt, cho xôi
Ghét nhau đem đến Mai Côi, Hạ Hòa.”
Ở đây, may mắn tôi được biên chế vào đội nhà bếp. Ngày ngày “đốt lửa lên
em” để nấu bo bo, bắp xay, sắn duôi, sắn khúc. Chứng bệnh hiểm ác: tràn
dịch màn tinh hoàn bắt đầu hành hạ tôi. Ngày nào, tôi cũng xách cái bìu
dái sưng đỏ lên phòng y tế xin thuốc, mà thuốc ở phòng y tế thì có gì
đâu ngoài thuốc xuyên tâm liên.
Tôi càng khủng hoảng hơn khi mượn quyển Tự Điển về y học của anh Lê Đình
Ái mà người nhà đã đem vào cho anh khi còn ở trại Suối Máu ở trong miền
Nam. Quyển sách ghi rõ về bịnh tình của tôi như sau: “Tràn dịch màn
tinh hoàn: do bị thương ở hòn tinh lúc nhỏ, bị phát ra khi cơ thể suy
nhược. Đông y không có cách chữa. Chỉ có thể chữa bằng cách giải phẩu.
Nếu để lâu sẽ tuyệt tự.” Cái kiểu này là “chết ngộ dồi!” Tôi mới
cưới vợ có sáu tháng, chưa có con cái là phải khăn gói gió đưa lên
đường… cải tạo. Bây giờ lại bị cái bệnh có nguy cơ tuyệt tự thì còn biết
nói thế nào.
Ở phân trại K.4 còn gọi là trại Cây Dừa có thằng tù hình sự tên Hùng-lợn
vì bị tội ăn cắp một con lợn mà bị tù đã 7 năm, từ trại tù thiếu nhi
đến trại tù người lớn, tối ngày vừa vác củi, gánh rau vừa ư ử ngâm nga
câu thơ của ông Thiếu tá công an Bùi Văn Chiếu. Sở dỉ tôi biết được tên
họ của ông giám thị trại giam này vì thấy có đóng dấu, ký tên trong
“Giấy Ra Trại” mà tôi được cấp vào tháng 4 năm 1980:
K 4 đó rộn ràng biết mấy…”
Một bữa, nó vừa đặt gánh rau muống xuống bếp trại, ngồi bệch xuống đất,
vê một “bi” thuốc lào vừa ư ử: “K.4 đó rộn ràng biết mấy…”. Tôi, lúc đó,
mặt mày đầy mồ hôi, mồ kê vì đang chụm lửa để nấu nước, bèn thêm vào:
“Chỉ thấy người vào, chẳng thấy người ra.”
Hùng-lợn trố mắt nhìn tôi:
“Ông anh này… kinh nhỉ! Chỉ thấy người vào chẳng thấy người ra!”
Thực tình lúc đó tôi chỉ muốn chết. Đêm mùa Đông bệnh nó lại hành hạ tôi
không sao ngủ được. Cả trại đặt cho tôi cái tên tục tĩu chịu không nỗi:
Thằng Dái Bò!
Lúc Trung Cộng đánh nhau với Việt Cộng, anh đội trưởng đội nhà bếp là
anh Trần Hòa Bình và các anh Lâm Đại Tòng (hiện định cư tại Canada), Đỗ
Tài (hiện định cư tại San Jose) là những người Việt gốc Hoa bị đưa ra
khỏi đội nhà bếp. Tôi được chỉ định làm đội trưởng đội nhà bếp.
Tháng 4 năm 1980, tôi có tên trong danh sách được xét tha theo diện
“quan tha, ma bắt.” Trong số 120 người tù được tha, tôi lại là người
mạnh khoẻ nhất, chỉ có kẹt một nỗi là cái bìu dái sưng đỏ, đau nhức chịu
không nỗi. Những người khác, kẻ thì bị bệnh teo cơ, kẻ thì bại xuội,
người thì bị ho lao, phải chống những cây gậy “tự biên, tự diễn” tức là
tự mình “sáng chế” ra mà lếch trở về với đời.
May mắn khi tôi trở về, T., vợ tôi, vẫn còn:
“Ngày anh xa vắng, em không trang điểm đợi chờ
Nửa đêm đốt ngọn đèn mờ
Khuê phòng thổn thức cô liêu…”
Chúng tôi lại cùng nhau nhắc chuyện ngày xưa:
“… Giữa Sàigòn bỗng tình cờ gặp em
Lầu cao mỉm nụ cười duyên
Nhìn lên anh bỗng nghe thèm yêu đương
Anh – đời dạn gió phong sương
Em – hoa khuê các dậy hương xuân thì…”
(trích trong “Tiếng hát từ hố thẳm nhân gian” thơ Nguyễn Thiếu Nhẫn)
để cùng ngâm lại những câu thơ cổ nói về hôn lễ của nhà thơ Viên Linh:
“Hôm nay ngày của hai người
Có khung cửa nhỏ khép đời chung quanh
Có ơn cha mẹ sinh thành
Có anh em đến chúc mình bền lâu
Tim hồng, ý biếc ơn nhau
Ngón tay ơn nhẫn, đêm thâu ơn đèn…”
Bệnh tôi được chữa khỏi nhờ người anh bà con bên vợ là bác sĩ Dương Minh
Trí, chủ nhiệm khoa Niệu của bệnh viện Bình Dân. Tôi có hai đứa con
trai. Khi vợ tôi mang thai đứa thứ hai thì tôi bị tiếp tục đi tù vì tội
“hoạt động tình báo kinh tế, móc ngoặc cán bộ, lũng đoạn tài sản xã hội
chủ nghĩa” chỉ vì tôi mua xà phòng bán đi, bán lại kiếm lời để nuôi sống
gia đình. Ở phòng hỏi cung, viên công an điều tra lật qua, lật lại tờ
khai lý lịch mà tôi đã nộp theo lệnh khi xin về địa phương cư trú, vỗ
bàn hét lớn:
“Mày là Đại úy Tổng Tham Mưu Trưởng?”
Tôi đã nhỏ nhẹ trả lời:
“Thưa tôi chỉ là đại úy làm ở Bộ Tổng Tham Mưu. Còn Tổng Tham Mưu Trưởng là đại tướng Cao Văn Viên.”
Viên công an hỏi cung đập bàn, đứng dậy và trong lúc bất ngờ nhất y tống
vào mặt tôi một cú đấm. Tôi đưa hai tay bị còng chùi máu ứa ra ở khoé
miệng. Viên công an gầm gừ:
“Tao không cần biết mày là cái gì. Tao sẽ đưa mày trở lại mấy cái chỗ mà mày đã cải tạo để cho mày biết thân.”
Viên công an đã không thực hiện được lời nói là đưa tôi trở lại sáu tầng
địa ngục mà tôi đã đi qua. Tôi được đưa tới hai tầng địa ngục khác còn
cay đắng hơn nhiều là trung tâm tạm giam huyện Long Hồ và sau đó là
trung tâm tạm giam tỉnh Cửu Long, tức Khám lớn của tỉnh Vĩnh Long ngày
trước.
Tôi lại phải đánh những sợi lát thành dây bính, nghe nói là để xuất khẩu
qua Liên Sô, vẹo cả hai ngón tay trỏ trong hai năm. Sau đó, được thả ra
vì “xét thấy là không cần thiết phải truy tố.”
Lúc tôi được ra tù, đứa con thứ hai đang bị sốt xuất huyết đang nằm ở
nhà thương. Rời nhà giam, tôi lại tới nhà thương để nuôi con.
Sau đó, tôi tìm mọi cách để ra đi, vì biết mình không thể nào sống cùng
những người cộng sản. Họ có chịu cho mình “hòa hợp, hòa giải” với họ
đâu. Trăm thứ tội tình cứ đổ trên đầu thằng “ngụy.”
May mắn mà tôi và đứa con trai 5 tuổi được tới đảo Bidong sau khi chiếc tàu vượt biển bị cướp hai lần.
Tháng 3 năm 1987, tôi và đứa con tới định cư ở Des Moines, thủ phủ của tiểu bang Iowa thuộc miền Trung Tây nước Mỹ.
Ở đảo tỵ nạn tôi bắt đầu viết quyển hồi ký “Những Trại Biến Hình” với những câu lục bát mở đầu như sau:
“Hốc Môn nhát cuốc bắt đầu
Long Giao đất đỏ lệ trào chứa chan
Đường về Suối Máu gian truân
Đường ra Nghĩa Lộ muôn phần đắng cay
Lạnh lùng sương trắng Lào Kai
Đường về Vĩnh Phú tương lai mịt mù
Ra tù rồi lại vào tù
Long Hồ, Khám Lớn mịt mờ tương lai.”
với ý định “tố cáo chế độ Hà Nội giết người chậm nhưng hữu hiệu.”
Phần đầu quyển hồi ký đã đăng tải trên tạp chí Sóng ở Canda và tuần báo Sáng ở Nam California.
Quyển hồi ký, sau đó, đã được đăng tải trên bán tuần báo Quê Hương ở San Jose với cái tựa “Hồi Ký Tù, Viết Ngoài Đời”.
Quyển hồi ký đã hoàn tất, nhưng tôi không có ý định xuất bản vì tôi nghĩ
rằng những người Mỹ có thẩm quyền đều biết những điều đó – nhưng những
đau thương đó không phải là của họ! Những người Việt tỵ nạn đi trước thì
đang lo gầy dựng lại tương lai ở xứ người.
Sau này, tôi có tìm đọc những quyển hồi ký về tù cải tạo thì thấy những
người này không viết về chính mình mà lại viết về những người khác mà
lại nghe qua những lời kể lại.
Anh em tù cải tạo qua Mỹ theo diện H.O. ngày một nhiều. Cảnh đời của mỗi
người còn bi đát hơn tôi nhiều. Thôi hãy để đau thương được lắng im!
Tôi viết “tự thú của một người tù cải tạo” chỉ có mục đích trình bày
những yếu đuối của bản thân trong thời gian cải tạo. Với tôi, sống bình
thường trong các trại cải tạo đã là … “anh hùng” lắm rồi! Phần khác,
cũng để trình bày vì sao đã không thể có sự hòa hợp hòa giải giữa những
người miền Nam bại trận và những người miền Bắc thắng trận; Bởi, những
người thắng trận có bao giờ chịu đưa bàn tay ra bắt với những người miền
Nam như những người anh em, đồng bào của họ. Lúc nào, đối với họ, những
người bại trận miền Nam cũng là những “thằng nguỵ”!
San Jose, cuối Đông 1992
NGUYỄN THIẾU NHẪN
(Nguồn: www.vantuyen.net)
NGUYỄN HÀ TỊNH * THẢM CẢNH VƯỢT BIÊN
Thảm Cảnh Vượt Biên Trên Biển Đông
Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính
những người trong cuộc, quý độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt
nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu
được,…tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của
người vượt biển.
Vụ Thứ Nhất : 87 người bị giết
Nhân Chứng : Bà Nguyễn Thị Thương, 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học
Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo Sư Đại Học Bách
Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo Sư Trần Quang Huy,
Phân Khoa Trưởng Văn Khoa Đại Học Sài Gòn, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em
trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà,
con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng
sống sót.
Ghe mang số SS0646 IA dài 13,5 m, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá
ngày 01/12/1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi
đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu
cướp Thái Lan cặp 2 bên hông thuyền tỵ nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng
và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27
người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.
80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật quý. Sau đó bọn cướp
buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả
hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tỵ nạn nghiêng chìm như một
trò chơi. Dân tỵ nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn
cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng,
trong khi 27 người tỵ nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống
biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.
Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27
người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo,
chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người
dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để
có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo Sư Trần Quang Huy. Còn lại 20
người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại
lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong
người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn
ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói
khát, kinh hoàng.
Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn
lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng
ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên
hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD
quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi
người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung
quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay
tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.
Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513
tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát
bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tỵ nạn Việt
Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tỵ nạn bơi ra mang theo
một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Uỷ Liên Hiệp
Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống
biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người
lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu
này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống
biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã
không hề báo tin vào đất liền.
Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng
tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ 5, một tàu Hải Quân Thái Lan đi
ngang qua đảo, nhóm người tỵ nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần
này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư
nhờ chuyển về cho Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông
SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan ra đón họ vào đất liền.
Không lâu sau đó Bà Nguyễn Thị Thương sinh thêm đứa con gái út trong
trại tỵ nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và
người em trai của Bà và một em gái của Ông Trần Quang Huy. Lúc bắt đầu
rời Việt Nam Bà Thương đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những
ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.
Bà Nguyễn Thị Thương kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói :
“Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển.
Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế
nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ
tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi”.
Vụ Thứ Hai : 70 thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn bị giết
Nhân Chứng : Ông Vũ Duy Thái 44 tuổi, đi cùng vợ là Bà Đinh Thị Bằng 40 tuổi cùng 4 con và 2 cháu. Hiện chỉ còn mình Ông sống sót.
Ghe VNKG 0980 dài 14 m, bề ngang 2 m 2 chở 120 người khởi hành từ Rạch
Giá ngày 29 tháng 12, 1979. Lúc 7 giờ sáng ngày 31/12/1979 gặp tàu hải
tặc Thái Lan. Tàu này sơn màu đỏ cam, mang số 128 ở đầu mũi, gồm 12 tên
cướp võ trang súng dài và dao, búa, rìu. Tàu của chúng phóng tới húc vào
làm nứt bể mũi ghe tỵ nạn. Bọn hải tặc nhảy qua và lập tức phá máy ghe
làm thủng thêm vết nứt, nước bắt đầu tràn vào. Bọn chúng lục soát chụp
giựt đồng hồ, nhẫn vàng … trong lúc nước nước tràn vào ghe của người tỵ
nạn càng nhiều hơn và bắt đầu bị chìm dần sau khoảng 1 tiếng đồng hồ.
Khi ghe chìm hẳn, đàn bà, trẻ con la khóc hoảng hốt níu kéo lẫn nhau.
Bọn cướp nhảy xuống biển và chỉ chọn lựa cứu các cô gái trẻ đẹp. Lúc đó
tàu của bọn hải tặc neo đậu cách đó 50 m. Bọn cưới đã lôi kéo về tàu
chúng 5 cô gái. Một số đàn ông và thiếu niên tỵ nạn biết bơi cũng lội về
phía tàu của chúng và bám leo lên. Nhiều người bị xô đẩy xuống, nhưng
vì chúng ít người nên cuối cùng còn 50 người sống sót leo lên được tàu
của chúng kể cả 5 cô gái được chúng cứu trước đó. Những người này đã
chứng kiến trước mắt 70 người còn lại bị chết chìm dần dần. Mọi người
nhìn thấy những bàn tay chới với ngoi lên khỏi mặt biển rồi mất hút.
Ông Vũ Duy Thái rời Việt Nam cùng vợ và 4 con, 2 cháu. Riêng Ông trong
lúc hỗn loạn đã bơi bám vào tàu hải tặc và níu được vợ và một đứa con.
Còn 3 đứa con khác và 2 cháu thì bị chết chìm. Tuy nhiên vợ và đứa con
còn lại của Ông đã bị uống nước quá nhiều, khi kéo lên được thì không
còn nhúc nhích. Ông hy vọng dùng phương pháp hô hấp nhân tạo sẽ cứu sống
được, nhưng bọn hải tặc đã quăng vợ và con Ông xuống biển trở lại cho
chết luôn.
Anh Phạm Việt Chiêu, 26 tuổi là tài công kể lại chính anh và một số đàn
ông khác còn khoẻ đã vớt được một số người chưa chắc đã chết hẳn mà có
thể chỉ mới bị ngất xỉu nhưng bọn hải tặc đã bắt bỏ họ xuống biển lại.
Sau đó tàu hải tặc trực chỉ đảo KO KRA và chúng giam giữ nạn nhân trên
đảo.
Ngày 01/01/1980, một chiếc tàu Hải quân Thái mang số 18 đến đảo vào ban
đêm có võ trang vũ khí. Mọi người mừng rỡ tưởng được cứu thoát. Nhưng
những người lính Hải quân chẳng chút Thương tâm đoái hoài đến dân Việt
Tỵ Nạn đang lâm cảnh khốn cùng, họ chỉ lo việc khám xét bằng cách bắt
tất cả mọi người lột bỏ quần áo trần truồng kể cả đàn bà con gái rồi bỏ
đi.
Ngày 02/01/1980 một tàu Hải quân Thái khác mang số 17 lại tới đảo. Lính
Thái lại ùa lên lục soát. Tất cả phụ nữ bị lột truồng không còn mảnh vải
che thân công khai trước đám đông để bọn lính này sờ nắn khám xét như
để tìm vũ khí kẻ nào có giấu diếm. Sau đó, chúng rút về tàu đậu gần bờ
biển và đến trưa ngày 04/01/1980 mới bỏ đi.
Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau
khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức 4 chiếc tàu hải tặc tràn người lên
đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân
VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bốc nữa. Chúng luân phiên nhau
hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày. Chúng chẳng cần tìm chỗ nào kín
đáo để làm hành động thú tính này. Năm em gái Việt Nam : KH 15 tuổi, BT
17 tuổi, AH 12 tuổi, NY 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập
thể ngay trước mắt mọi người.
Lẽ ra, thảm kịch còn kéo dài chưa biết đến ngày nào chấm dứt, nếu không
may mắn được vị cứu tinh là Ông SCHEITZER Cao Uỷ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc
xuất hiện kịp thời cứu giúp và kết thúc thảm ác trạng này. Ông đã đến
đảo KRA trên một chiếc tàu Cảnh Sát Thái Lan.
Vụ Thứ 3 : Hải tặc Thái bắt gái VN bán vô ổ điếm
Nhân Chứng : Nguyễn Thị Ánh Tuyết 17 tuổi đi cùng chị là Bà
Nguyễn Thị Năm bà này đã bị hải tặc giết trước đó và Công Huyền Tôn Nữ
Mỹ kiều 17 tuổi.
Ghe không số, dài 10 m, chở 78 người, khởi hành tại NhaTrang ngày
08/12/1979. Ra khơi được 3 ngày thì hết nhiên liệu và thực phẩm, thuyền
lênh đênh trên biển trong 10 ngày. Thời gian này có 12 trẻ em đã bị chết
vì đói khát. Thi thể các em phải bỏ xuống biển. Đến ngày 21/12/1979 gặp
2 tàu hải tặc Thái Lan. Bọn cướp buộc giây vào ghe VN với tàu của
chúng, dùng vũ khí ép buộc tất cả mọi người qua tàu chúng để lục soát.
Bà Nguyễn Thị Năm 33 tuổi đang mang thai 5 tháng, đi cùng chồng là Ông
Lê Văn Tư và 3 đứa con 9 tuổi, 5 tuổi và 3 tuổi. Cả 3 đứa trẻ này đã
chết trong thời gian 10 ngày ghe bị trôi lênh đênh trước đó. Bà Năm quá
đau khổ và mệt mỏi không còn đủ sức leo qua tàu hải tặc khi chúng ra
lịnh. Bọn cướp đã xốc nách Bà lên nhưng Bà vẫn nằm im, một tên cướp liền
dùng xẻng xúc cá đập túi bụi vào đầu Bà Năm. Bà đã bị nứt sọ chết ngay
tại chỗ và chúng xô xác Bà xuống biển.
Mọi người kinh hoảng vội leo sang tàu hải tặc để cho chúng có chỗ trống
lục soát, phá phách, xét quần áo, thân thể tìm đồ quý. Sau đó tất cả đàn
ông bị bắt nhốt vào hầm nước đá, đàn bà chúng cho ở trên sân tàu để sờ
mó nghịch ngợm. Rồi chúng lùa thuyền nhân tỵ nạn qua trở lại chiếc ghe
đã thủng nát. Khi đến ghe thì một người đàn ông đã chết vì đã bị giam
giữ trong hầm nước đá lạnh cóng. Chiếc ghe tỵ nạn lại tiếp tục thả trôi
lênh đênh trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của mọi người.
Ngày hôm sau, 2 chiếc tàu hải tặc khác lại đuổi theo, tới gần vùng đảo
KO KRA chúng lại lên ghe lục soát cướp bốc. Lần này 3 thiếu nữ xinh đẹp
nhất bị chúng bắt đem đi. Con thuyền tỵ nạn lại tiếp tục trôi trong tình
trạng vô cùng bi đát. Máy ghe bị hư hỏng, không thức ăn, nước uống và
ghe thì đã ngập nước vì lúc đó tất cả đàn ông đã quá đói khát không còn
đủ sức tát nước nữa. Không ai biết số phận 70 người còn lại trên chiếc
ghe khốn cùng đó, lúc này ra sao ?
Hai chiếc tàu hải tặc chia nhau 3 cô gái VN. Hai cô NT Ánh Tuyết và Mỹ
Kiều bị chiếc tàu của tên SAMSAC làm chủ bắt giữ. Còn chiết tàu kia bắt
Cô LAN 17 tuổi mang đi mất hút, cho tới bây giờ không còn nghe tin tức
gì về Cô ấy nữa. Hai cô ÁnhTuyết và Mỹ Kiều bị bọn SAMSAC mang vào đất
liền, nhốt trong một khách sạn tại Songkhla. Chúng tách rời 2 cô ở phòng
riêng khác nhau. Ánh Tuyết bị một tên, được nghe gọi là BÍT canh chừng.
Còn Mỹ Kiều thì ở chung phòng với tên SAMSAC.
Ánh Tuyết kể lại là Cô đã la hét kêu ầm lên khi tên BÍT định cưỡng hiếp
Cô, khiến mọi người ở các phòng chung quanh cùng khách sạn đa số là
người Tây Phương đổ xô tới xem và tên BÍT đã bỏ chạy. Riêng tên SAMSAC ở
phòng gần đó nghe tiếng ồn ào vội đem Mỹ Kiều đi giấu trong một khách
sạn khác ở tỉnh Haadyai cách Songkhla hơn 30 Km. Khi cảnh sát đến điều
tra, chính cô Ánh Tuyết đã dẫn Cảnh Sát đến bến tàu Songkhla, nơi có
chiếc tàu của bọn SAMSAC vẫn còn đậu đó và các thủ phạm hải tặc đã bị
bắt kể cả tên SAMSAC mà Cảnh sát đã tìm thấy hắn sau đó cùng với Cô Mỹ
Kiều tại khách sạn nói trên.
Tại Ty Cảnh Sát chúng đã khai là định bán 2 cô gái này cho một đường giây chuyên buôn gái cho các ổ điếm.
Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra một vài vụ điển hình thuyền nhân Việt Nam
bị thảm nạn hải tặc Thái Lan hành hạ, giết chóc xảy ra trong tháng
12/1979 tại đảo KO KRA. Tưởng cần nhắc lại rằng tệ nạn hoành hành của
hải tặc THÁI không phải vào thời gian này mới xuất hiện. Trong mấy năm
trước 1979 khi ở Việt Nam khởi sự có làn sóng Thuyền Nhân Vượt Biển Tìm
Tự Do thì người Việt Tỵ Nạn của chúng ta đã trở thành những con mồi ngon
cho bọn hải tặc Thái.
Báo chí trên thế giới cũng đã nhiều lần đề cập đến thảm kịch kinh hoàng
mà « Boat People » đã phải chịu khổ nạn. Tuy nhiên kể từ khi các ngư phủ
Thái nhận thấy việc cướp bóc Thuyền Nhân sẽ làm cho họ trở nên giàu có
mau chóng hơn là đánh cá thì số ngư dân Thái kiêm thêm nghề hải tặc đã
ngày trở nên đông đảo, đưa tới hậu quả là người VN đi tỵ nạn bằng đường
biển càng ngày càng bị rơi vào mạng lưới của bọn cướp biển dày đặc bủa
vây trong khắp vùng Vịnh Thái Lan.
Nguyễn Hà Tịnh
VanTuyenNet
2009/08/31
VanTuyenNet
2009/08/31
VIỆT NAM LẦM THAN
Vụ sai phạm ở toà nhà số 8B Lê Trực của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng
Phát triển Kinh Đô (Kinh Do TCI Group) đã khiến báo chí tốn rất nhiều
giấy mực. Với chiều cao 69m, vượt quá 16m (tương đương 5 tầng) so với
giấy phép xây dựng, toà nhà mang tên Discovery Complex II cao gần gấp
đôi lăng Hồ Chí Minh và sừng sững như một toà tháp canh khổng lồ nhòm
xuống khu trung tâm đầu não Ba Đình, có thể giám sát mọi động tĩnh xung
quanh khu vực đặc biệt nhạy cảm về an ninh chính trị này.
Mặc dù vụ việc bắt đầu được báo chí nêu lên 10 tháng trước, Bộ Xây dựng thì đã chính thức kiến nghị Thủ tướng xử lý nghiêm vụ việc được 9 tháng, và gần 8 tháng đã trôi qua kể từ thời điểm việc xử lý sai phạm bắt đầu diễn ra, nhưng toà tháp canh đó vẫn cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ chiều 30/6 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ lại một lần nữa phải lên tiếng: “Hà Nội có nghiêm túc ‘đập’ nhà 8B Lê Trực không, hay vẫn cứ để trơ trơ như thế?”
Không phải ngẫu nhiên mà chủ đầu tư dự án tại địa chỉ 8B Lê Trực lại dám ngang nhiên thách thức cả công chúng lẫn hệ thống công quyền như thế: Phó Thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải, người phê duyệt dự án trong vai trò Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế kiêm Trưởng ban Chỉ đạo Quy hoạch và đầu tư xây dựng vùng Thủ đô, nay đã trở thành Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Đây không phải là dự án duy nhất nhạy cảm về an ninh của Kinh Do TCI Group, mà tập đoàn đầy mờ ám này còn ít nhất 2 dự án đặc biệt nhạy cảm về an ninh khác trên địa bàn thủ đô.
Dự án thứ nhất là Capital Garden tại ngõ 102 Trường Chinh, bao gồm 2 tòa tháp với khu trung tâm thương mại là khối đế 2 tầng, khu căn hộ chung cư cao cấp từ tầng 3 đến tầng 25; diện tích lô đất của dự án là 5.065m2. Dự án thứ hai là Hoàng Quốc Việt Towers, gồm 2 tòa tháp, trong đó tòa tháp văn phòng cao 46 tầng và tòa tháp chung cư cao 50 tầng với 5 tầng hầm, 5 tầng trung tâm thương mại, 4 tầng cây xanh và tiện ích và 40 tầng căn hộ (theo giới thiệu trên trang web của Kinh Do TCI).
Dự án Hoàng Quốc Việt Towers nằm ở góc đường Hoàng Quốc Việt - Phạm Văn Đồng, tức chỉ cách trụ sở mới đồ sộ của Bộ Công an vài trăm mét.
Trong khi đó, dự án Capital Garden sắp sửa hoàn thành và vị trí của nó cũng chỉ cách khu vực Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân vài trăm mét theo đường chim bay.
Nguy hiểm hơn, dự án này lại do một nhà thầu Trung Quốc là Tập đoàn Xây dựng Quảng Châu (GMC) làm nhà thầu chính (đơn vị thi công là Cty CP Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình).
Với chiều cao hơn 115m (25 tầng), 2 toà tháp Capital Garden có chiều cao vượt trội so với các toà nhà khác trong khu vực và có thể giám sát được mọi động tĩnh bên trong Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân. Từ vị trí bao quát với khoảng cách gần như thế, đối phương có thể sử dụng kỹ thuật nghe lén bằng tia laser hoặc các kỹ thuật tinh vi khác để theo dõi các cuộc trao đổi, điện đàm diễn ra bên trong Bộ Tư lệnh PKKQ.
Khi chiến sự xẩy ra, Bộ Tư lệnh PKKQ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà đối phương muốn tiêu diệt, và thật nguy hiểm nếu họ kiểm soát được một toà cao ốc mà từ đó họ có thể hoặc là gây nhiễu hệ thống phòng thủ, thông tin liên lạc, hoặc thậm chí là sử dụng súng phóng tên lửa để tấn công.
Xem ra dự án Capital Garden tại 102 Trường Chinh lại là một chiến tích ngoạn mục khác của đội quân tình báo Hoa Nam ở Hà Nội.
* Ảnh trong bài: Lê Anh Hùng
* Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Mặc dù vụ việc bắt đầu được báo chí nêu lên 10 tháng trước, Bộ Xây dựng thì đã chính thức kiến nghị Thủ tướng xử lý nghiêm vụ việc được 9 tháng, và gần 8 tháng đã trôi qua kể từ thời điểm việc xử lý sai phạm bắt đầu diễn ra, nhưng toà tháp canh đó vẫn cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ chiều 30/6 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ lại một lần nữa phải lên tiếng: “Hà Nội có nghiêm túc ‘đập’ nhà 8B Lê Trực không, hay vẫn cứ để trơ trơ như thế?”
Không phải ngẫu nhiên mà chủ đầu tư dự án tại địa chỉ 8B Lê Trực lại dám ngang nhiên thách thức cả công chúng lẫn hệ thống công quyền như thế: Phó Thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải, người phê duyệt dự án trong vai trò Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế kiêm Trưởng ban Chỉ đạo Quy hoạch và đầu tư xây dựng vùng Thủ đô, nay đã trở thành Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Đây không phải là dự án duy nhất nhạy cảm về an ninh của Kinh Do TCI Group, mà tập đoàn đầy mờ ám này còn ít nhất 2 dự án đặc biệt nhạy cảm về an ninh khác trên địa bàn thủ đô.
Dự án thứ nhất là Capital Garden tại ngõ 102 Trường Chinh, bao gồm 2 tòa tháp với khu trung tâm thương mại là khối đế 2 tầng, khu căn hộ chung cư cao cấp từ tầng 3 đến tầng 25; diện tích lô đất của dự án là 5.065m2. Dự án thứ hai là Hoàng Quốc Việt Towers, gồm 2 tòa tháp, trong đó tòa tháp văn phòng cao 46 tầng và tòa tháp chung cư cao 50 tầng với 5 tầng hầm, 5 tầng trung tâm thương mại, 4 tầng cây xanh và tiện ích và 40 tầng căn hộ (theo giới thiệu trên trang web của Kinh Do TCI).
Dự án Hoàng Quốc Việt Towers nằm ở góc đường Hoàng Quốc Việt - Phạm Văn Đồng, tức chỉ cách trụ sở mới đồ sộ của Bộ Công an vài trăm mét.
Trong khi đó, dự án Capital Garden sắp sửa hoàn thành và vị trí của nó cũng chỉ cách khu vực Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân vài trăm mét theo đường chim bay.
Nguy hiểm hơn, dự án này lại do một nhà thầu Trung Quốc là Tập đoàn Xây dựng Quảng Châu (GMC) làm nhà thầu chính (đơn vị thi công là Cty CP Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình).
Với chiều cao hơn 115m (25 tầng), 2 toà tháp Capital Garden có chiều cao vượt trội so với các toà nhà khác trong khu vực và có thể giám sát được mọi động tĩnh bên trong Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân. Từ vị trí bao quát với khoảng cách gần như thế, đối phương có thể sử dụng kỹ thuật nghe lén bằng tia laser hoặc các kỹ thuật tinh vi khác để theo dõi các cuộc trao đổi, điện đàm diễn ra bên trong Bộ Tư lệnh PKKQ.
Khi chiến sự xẩy ra, Bộ Tư lệnh PKKQ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà đối phương muốn tiêu diệt, và thật nguy hiểm nếu họ kiểm soát được một toà cao ốc mà từ đó họ có thể hoặc là gây nhiễu hệ thống phòng thủ, thông tin liên lạc, hoặc thậm chí là sử dụng súng phóng tên lửa để tấn công.
Xem ra dự án Capital Garden tại 102 Trường Chinh lại là một chiến tích ngoạn mục khác của đội quân tình báo Hoa Nam ở Hà Nội.
* Ảnh trong bài: Lê Anh Hùng
* Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment